SlideShare a Scribd company logo
1 of 223
Download to read offline
BOÄ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM THAØNH PHOÁ HOÀ CHÍ MINH
TRAÀN VIEÁT THIEÄN
SÖÏ TÖÔNG TAÙC THEÅ LOAÏI
TRONG VAÊN XUOÂI VIEÄT NAM
TÖØ 1986 ÑEÁN NAY
Chuyeân ngaønh: VAÊN HOÏC VIEÄT NAM
Maõ soá: 62 22 34 01
LUAÄN AÙN TIEÁN SÓ NGÖÕ VAÊN
Ngöôøi höôùng daãn khoa hoïc:
PGS.TS. NGUYEÃN THAØNH THI
PGS.TS. TRAÀN HÖÕU TAÙ
Thaønh phoá Hoà Chí Minh - Naêm 2012
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công
trình nào khác.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 07 tháng 12 năm 2011
Trần Viết Thiện
ii
MỤC LỤC
1. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI............................................................................ 1
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ................................................................ 2
3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ.......................................................................................................... 3
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................................................12
5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN...............................................................................14
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN........................................................................................15
NỘI DUNG.........................................................................................................................16
CHƯƠNG 1. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG VĂN HỌC VÀ SỰ TƯƠNG TÁC
THỂ LOẠI TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY – NHÌN TỪ TIỂU
THUYẾT ............................................................................................................................16
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI
TRONG VĂN HỌC ............................................................................................................16
1.1.1. SỰ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI BẮT NGUỒN TỪ CHÍNH ĐẶC
TRƯNG CỦA THỂ LOẠI VĂN HỌC................................................................16
1.1.2. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG "THỜI CỦA TIỂU THUYẾT"........19
1.1.3. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG VĂN HỌC LÀ HIỆN TƯỢNG
HẾT SỨC ĐA DẠNG, ĐA CHIỀU ....................................................................23
1.2. SỰ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN
NAY - NHÌN TỪ TIỂU THUYẾT......................................................................................26
1.2.1. SỰ TRỞ LẠI CỦA CÁC THỂ KÍ TRONG TIỂU THUYẾT...................26
1.2.2. SỰ "TIẾP SỨC" CỦA LOẠI HÌNH KỊCH TRONG TIỂU THUYẾT.....43
1.2.3. TRUYỆN NGẮN TRONG TIỂU THUYẾT.............................................54
1.2.4. HUYỀN THOẠI TRONG TIỂU THUYẾT..............................................63
CHƯƠNG 2. SỰ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM TỪ
1986 ĐẾN NAY - NHÌN TỪ TRUYỆN NGẮN................................................................72
2.1. DÒNG TRỮ TÌNH TRONG TRUYỆN NGẮN ..........................................................72
2.2. HUYỀN THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN ..............................................................87
2.3. TIỂU THUYẾT TRONG TRUYỆN NGẮN..............................................................116
iii
CHƯƠNG 3. NHỮNG TÍN HIỆU MỚI CỦA VĂN XUÔI VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN
NAY - NHÌN TỪ SỰ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI............................................................136
3.1. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI VÀ SỰ VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN MẠNH MẼ CỦA
THỂ LOẠI.........................................................................................................................136
3.1.1. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI VÀ SỰ VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN CỦA
TIỂU THUYẾT..................................................................................................137
3.1.2. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI VÀ SỰ VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN CỦA
TRUYỆN NGẮN...............................................................................................141
3.2. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI VÀ SỰ MỞ RỘNG TRƯỜNG PHẢN ÁNH VỀ HIỆN
THỰC VÀ CON NGƯỜI..................................................................................................147
3.2.1. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI VÀ SỰ MỞ RỘNG TRƯỜNG PHẢN ÁNH
VỀ HIỆN THỰC................................................................................................149
3.2.2. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI VÀ SỰ MỞ RỘNG TRƯỜNG PHẢN ÁNH
VỀ CON NGƯỜI...............................................................................................153
3.3. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI VÀ SỰ ĐỔI MỚI MẠNH MẼ CÁC PHƯƠNG DIỆN
THI PHÁP THỂ LOẠI......................................................................................................167
3.3.1. PHƯƠNG THỨC TRẦN THUẬT..........................................................167
3.3.2. NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU...................................................................176
KẾT LUẬN.......................................................................................................................189
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN.................................195
ĐẾN LUẬN ÁN................................................................................................................195
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................196
1
MỞ ĐẦU
1. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
Thể loại và sự vận động của thể loại là một phương diện hết sức quan trọng
trong việc nghiên cứu văn học hiện đại. M. Bakhtin đặc biệt đề cao việc nghiên cứu
sự vận động thể loại trong những thời đại tiểu thuyết tham gia "chính sự", tiểu
thuyết trở thành một thể loại chủ đạo. Trong những thời đại ấy, thể loại là “nhân vật
chính” của tiến trình văn học còn “trào lưu, trường phái chỉ là nhân vật hạng nhì,
hạng ba” [27]. Ở những thời đại như thế, cuộc đấu tranh giữa các trào lưu, trường
phái văn học trở thành "một hiện tượng ở ngoài rìa và nhỏ nhặt về lịch sử"; đằng
sau đó, có một cuộc đấu tranh sâu sắc hơn và mang tính lịch sử hơn: đó là cuộc đấu
tranh giữa các thể loại, "sự biến thái và phát triển của cái nòng cốt thể loại văn
học" [27, tr25].
Đời sống thực tiễn của văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay có những trăn trở
đổi mới và ý thức “tự vượt mình” mạnh mẽ về mặt thể loại. Văn xuôi lên ngôi, tiểu
thuyết trở thành thể loại thống ngự. Sự có mặt của tiểu thuyết với tư cách là cột
xương sống - một loại hình “công nghiệp nặng”, đã thực sự là chất xúc tác, quyết
định căn cốt diện mạo của một nền văn học hiện đại. Nhưng quan trọng hơn, sự hiện
diện của tiểu thuyết đã tạo nên quan hệ tương tác sâu sắc giữa các thể loại, làm cho
“tất cả các thể loại bắt đầu âm vang một cách khác”. Một hệ quả đáng quý mà nhà
nghiên cứu Trần Đình Sử đã phát hiện ra là: “Nghệ sĩ lớn thường tiếp thu các truyền
thống thể loại khác nhau, tạo ra các hình thức thể loại mới” [209]. Sự biến đổi đó
làm cho: “Về mặt lí thuyết, cho tới hôm nay, giới nghiên cứu văn học và ngay cả
nhà văn cũng không còn thỏa mãn với những công cụ đã có “tính cổ điển” (Nguyễn
Hòa). Sự bứt phá của những tài năng tạo nên “tính không nhất quán” của thể loại.
Nhiều tác phẩm văn xuôi đã “bung ra” khỏi những khuôn khổ thể loại chật hẹp để
đem đến hiệu quả phản ánh mới cho văn học. Thể loại và sự vận động biến đổi đầy
sáng tạo của nó chính là "nguồn cơn" chủ yếu tạo nên những tín hiệu mới của văn
xuôi giai đoạn này. Do vậy, tác giả luận án rất đồng tình với mệnh đề của Vũ Tuấn
Anh: một phương diện quan trọng - nếu không muốn nói là quan trọng hơn cả - để
2
nhận thức một giai đoạn văn học là khảo sát những biến đổi trên mặt bằng thể loại
cũng như những biến thái tinh vi bên trong đời sống của mỗi thể loại. Nói cách
khác, chân dung của một thời đại văn học được soi chiếu khá rõ qua tấm gương thể
loại.
Nghiên cứu văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay từ góc nhìn tương tác thể
loại vì thế là một đề tài còn mới mẻ và rất có ý nghĩa. Chọn đề tài này, tác giả luận
án mong muốn đi sâu nghiên cứu vấn đề một cách hệ thống với cấu trúc lập luận
theo hướng quy nạp để: từ sự biểu hiện sinh động của tương tác thể loại trong các
thể loại văn xuôi chủ đạo; đi đến những vấn đề có tính "nhận thức luận" về những
tín hiệu mới của văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay. Với cách đặt vấn đề như vậy,
hi vọng luận án có thể góp thêm một góc nhìn mới về văn xuôi giai đoạn này.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phương diện tương tác thể loại trong cấu
trúc chỉnh thể các thể loại văn xuôi Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay. Khái niệm
văn xuôi ở đây được hiểu là văn xuôi nghệ thuật.
Các thể loại văn xuôi của một giai đoạn văn học đổi mới là rất phong phú.
Tương tác thể loại, nếu hiểu theo nghĩa chặt chẽ của từ này phải là sự tác động qua
lại lẫn nhau của ít nhất hai thể loại, như vậy, nghiên cứu tương tác thể loại trong văn
xuôi thì phải nghiên cứu tất cả các thể loại văn xuôi với tất cả các mối quan hệ
tương tác của nó. Thế nhưng, đây là giai đoạn văn học mà tiểu thuyết và truyện
ngắn là hai thể loại chủ đạo đồng thời cũng là hai thể loại thể hiện tập trung các
quan hệ tương tác của cả giai đoạn văn học nên luận án chọn hai thể loại trên làm
đối tượng trung tâm. Đặt vấn đề nghiên cứu theo cấu trúc quy nạp, luận án xem xét
sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay từ góc độ của hai thể
loại chủ đạo này: Chương 1, nhìn từ tiểu thuyết; chương 2: nhìn từ truyện ngắn.
Nghiên cứu tương tác thể loại là nghiên cứu văn học trong sự vận động, biến
đổi. Nghiên cứu tương tác thể loại vì vậy còn là nghiên cứu văn học trong các mối
quan hệ nhân quả với các bộ phận, các thời kì, các giai đoạn liên quan tới nó. Do
3
đó, đối tượng nghiên cứu của luận án còn có sự mở rộng đến vấn đề thể loại và sự
vận động của thể loại nói chung.
Về phạm vi nghiên cứu: Khoảng thời gian "từ 1986 đến nay" chỉ có ý nghĩa
tướng đối. Nghiên cứu tương tác thể loại là nghiên cứu văn học trong thế động,
trong tính mở; do vậy mốc 1986 không thể được hiểu một cách máy móc, cơ học
rằng: chỉ những tác phẩm ra đời từ năm 1986 mới thuộc phạm vi của đề tài này.
Ngược lại, có những mầm mống, thậm chí, có cả những nỗ lực đổi mới từ rất sớm
so với mốc thời gian Đại hội VI; luận án rất trân trọng và đề cao vai trò của những
hiện tượng văn học này. Giai đoạn văn học từ 1986 đến nay vẫn đang sinh thành,
tiếp diễn; những vấn đề thời sự văn học vẫn đang đồng hành cùng quá trình nghiên
cứu của luận án. Do vậy, cần có một giới hạn về mặt thời gian cho từ "đến nay",
"đến nay" được tính đến năm 2007, khi tác giả đề tài bắt đầu luận án.
Nói về thể loại văn xuôi đã rất phong phú, đa dạng; nói về tác giả, tác phẩm
lại càng phong phú, đa dạng hơn. Luận án không quả quyết đã bao quát hết toàn bộ
văn xuôi giai đoạn này mà chỉ nghiên cứu những tác giả, tác phẩm tiêu biểu có sự
thể hiện dấu ấn tương tác thể loại.
3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Tương tác thể loại là vấn đề khá mới mẻ, tương tác thể loại trong văn xuôi
Việt Nam đương đại lại càng mới mẻ hơn. Do vậy, về lịch sử vấn đề, luận án không
có được sự dày dặn, phong phú với nhiều công trình, nhiều bài viết như một số đề
tài khác. Tuy không phải đã thành đường mòn nhưng cũng không phải chưa có ai
từng đi trên con đường này. Sự sinh động, giàu ý nghĩa của phương diện tương tác
thể loại nói chung; tương tác thể loại trong văn học Việt Nam hiện đại nói riêng đã
thực sự có sức thu hút đối với một số nhà nghiên cứu. Cũng có những trường hợp,
tuy không sử dụng cụm từ tương tác thể loại nhưng do sự biểu hiện tiềm tàng của
tương tác thể loại trong đời sống văn học nên đây đó, trong khi nghiên cứu về
khuynh hướng, trào lưu; hay khi tổng kết về phong cách, thành tựu, các nhà nghiên
cứu một cách ngẫu nhiên cũng đã từng đề cập đến vấn đề này.
4
Chúng tôi chia lịch sử nghiên cứu vấn đề thành hai cấp độ: các công trình,
bài viết về sự vận động thể loại nói chung và các công trình, bài viết về sự vận động
thể loại trong văn học hiện đại Việt Nam.
3.1. CÁC CÔNG TRÌNH, BÀI VIẾT VỀ SỰ VẬN ĐỘNG THỂ LOẠI
NÓI CHUNG
Nghiên cứu tương tác thể loại trong văn học hiện đại không thể không nhắc
đến các chuyên luận của M. Bakhtin: Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Những vấn
đề thi pháp Đoxtoiepxki. Đặc biệt, ngay từ năm 1941, trong bài viết "Tiểu thuyết
như một thể loại văn học" (In trong chuyên luận Lí luận và thi pháp tiểu
thuyết), tuy không dùng đến khái niệm tương tác thể loại nhưng M. Bakhtin đã đưa
ra những luận điểm quan trọng nhất về một "cuộc đấu tranh sâu sắc hơn và mang
tính lịch sử hơn giữa các thể loại, sự biến thái và phát triển cái nòng cốt thể loại
của văn học" [27]. Ông đề cao vai trò của tiểu thuyết trong việc tác động, khuấy đảo
tạo nên những quan hệ không hài hoà giữa các thể loại: lấn át thể loại này, thu hút
thể loại kia vào trong cấu trúc của mình, biện giải lại và sắp xếp lại trọng tâm cho
chúng. Tiểu thuyết xúc tác làm đổi mới tất cả các thể loại khác. Do vậy, vào những
thời đại tiểu thuyết thống ngự, tiểu thuyết về nhiều phương diện, đã và đang báo
trước sự phát triển tương lai của toàn bộ văn học. Trong công trình này, M.Bakhtin
cũng nêu quan điểm về tính uyển chuyển, linh hoạt, tính vượt rào và tính không quy
phạm của thể loại này.
Nghiên cứu tương tác thể loại, trước hết phải định danh được về mặt khái
niệm. Trong công trình Lí luận văn học (Phương Lựu chủ biên, Nhà xuất bản Giáo
Dục, Hà Nội, 1997), chương "Thể loại của tác phẩm văn học" do Trần Đình Sử
phụ trách đã cho chúng ta những tiền đề lí luận cần thiết để nhận thức về khái niệm
tương tác thể loại. Trần Đình Sử đề cập đến khái niệm thể loại cũng như sự phân
loại văn học và phân chia thể loại tác phẩm. Ông cũng đề cập đến "đặc trưng kép"
của thể loại văn học: thể loại vừa có các yếu tố ổn định, truyền thống; lại vừa có các
yếu tố vận động, đổi mới do sự phát triển văn học và tài năng sáng tạo của nhà văn.
Từ đặc trưng ấy, ngay trong việc nghiên cứu thể loại, Trần Đình Sử đã đề xuất
những điều kiện cần và đủ của nhà nghiên cứu: muốn nhận thức đặc điểm của một
5
thể loại có giá trị, người ta vừa phải có tri thức về các quy luật lặp lại của các thể
loại, lại vừa phải biết nhận ra tính độc đáo trong sự vận dụng sáng tạo thể loại của
tác giả. Đây là những tiền đề lí luận quan trọng cho việc triển khai vấn đề. Muốn
nhận thức về sự tương tác thể loại thì trước hết cần nắm được đặc trưng của từng
thể, cũng như từng loại; phải nhận chân cho được cái nòng cốt bất biến của mỗi
loại/thể. Cuốn Logic học về các thể loại văn học của Kate Hamburger [95] cung
cấp cho đề tài nhiều tiền đề về logic thể loại. Xuất phát từ các cơ sở ngôn ngữ học,
bà đưa ra những đặc trưng của các thể loại mô phỏng như sử thi, kịch; các đặc trưng
của thể loại trữ tình,… Nhưng quan trọng hơn, bà đã dành hẳn một chương để nói
về các thể loại đặc biệt hay còn gọi là hỗn hợp như: ballade, truyện kể ở ngôi thứ
nhất, tiểu thuyết thư tín, tiểu thuyết – hồi kí,… Những thể loại hỗn hợp đó tiềm tàng
trong văn xuôi Việt Nam từ sau đổi mới. Do vậy, chuyên luận trên đã gợi mở cho
tác giả luận án nhiều hướng nhìn thú vị. Năm bài giảng về thể loại của Hoàng
Ngọc Hiến một lần nữa cho ta những đặc trưng của năm thể loại quan trọng trong
văn học hiện đại, đặc biệt là tiểu thuyết. Có ý nghĩa hơn, đó là bài viết: "Đặc điểm
của truyện ngắn hiện đại". Trong những đặc điểm của truyện ngắn hiện đại có đến
hai đặc điểm thể hiện sự thậm nhập của các thể loại vào truyện ngắn: truyện ngắn
hiện đại gần với thơ và truyện ngắn hiện đại gần với kịch.
Luôn luôn tồn tại bên cạnh tiểu thuyết và rất khó khu biệt rạch ròi về ranh
giới thể loại với tiểu thuyết, đó chính là truyện ngắn. Với quan niệm tương tác thể
loại nằm trong chính đặc trưng của loại thể, công trình Truyện ngắn – lí luận tác
gia và tác phẩm của Lê Huy Bắc trong khi đề cập đến "Truyện ngắn như một thể
loại" đã lưu tâm đến những tác phẩm có sự giao thoa của hai thể loại nói trên. Bài
viết cũng đề cập đến sự ảnh hưởng qua lại giữa truyện ngắn và thơ, sự gần nhau
giữa truyện ngắn và kịch...
Nếu các công trình trên quan tâm đến thể loại và sự tác động qua lại của một
số thể loại văn học thì chuyên khảo Thi pháp của huyền thoại (NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội) chỉ đề cập đến diễn trình của một thể loại duy nhất: đó là các sáng
tác huyền thoại. Trong chuyên khảo này, nhà huyền thoại học nổi tiếng thế giới E.
6
M. Meletinsky đã xem xét các sáng tác huyền thoại một cách hệ thống: bắt đầu từ
những hình thức cổ xưa nhất cho đến những biểu hiện của chủ nghĩa huyền thoại
trong văn học thế kỉ XX. Ông đặc biệt dành sự lưu tâm đến tầm ảnh hưởng, tác
động của huyền thoại đối với xã hội hiện đại nói chung, văn học nghệ thuật nói
riêng: "Huyền thoại là thế giới, là mảnh đất mà trên đó chỉ có các tác phẩm nghệ
thuật là có thể thăng hoa và phát triển" [215]. E. M. Meletinsky cho thấy tính quanh
co, dích dắc của những mối quan hệ thể loại ngoài hệ thống. Theo đó, huyền thoại
trong văn học thế giới diễn ra hai quá trình: quá trình "giải huyền thoại hóa" và quá
trình "tái huyền thoại hóa". Đặc biệt, xu hướng "tái huyền thoại hóa" diễn ra vừa
mạnh mẽ vừa sâu rộng trong văn học thế giới thế kỉ XX là những tiền đề cần thiết
để xem xét vấn đề mang tính quy luật chung của huyền thoại trong văn xuôi đương
đại Việt Nam. Cũng đề cập đến phương diện này, bài viết "Phương thức huyền
thoại trong sáng tác văn học" của Phùng Văn Tửu (in trong tập Những huyền
thoại của Roland Barthes - NXB Tri thức, 2008) từ việc xem huyền thoại là những
biểu tượng đa nghĩa cần phải giải mã, đã đi sâu đề cập đến huyền thoại như một
phương thức nghệ thuật đang có xu hướng trở thành một trong những kĩ thuật sáng
tác của tiểu thuyết hiện đại. Sự tác động của huyền thoại đến văn xuôi Việt Nam sau
1986 vì vậy cũng được tác giả lưu tâm ghi nhận.
3.2. CÁC CÔNG TRÌNH, BÀI VIẾT VỀ SỰ VẬN ĐỘNG THỂ LOẠI
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Nghiên cứu văn học hiện đại Việt Nam từ phương diện tương tác thể loại là
một hướng nghiên cứu mới, được một số công trình gần đây quan tâm. Đề tài cấp
bộ: Sự tương tác của các thể loại trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến
1945 do TS. Tôn Thất Dụng chủ nhiệm đề tài là công trình đầu tiên đặt vấn đề nhìn
diện mạo và đặc điểm văn học một giai đoạn từ hướng tương tác thể loại. Qua bức
tranh sinh động của đời sống tương tác thể loại được chứng minh bằng nhiều cứ liệu
tác giả, tác phẩm; các tác giả đề tài giúp chúng ta có cái nhìn khái quát và sâu sắc
hơn về văn học đầu thế kỉ. Đây là cơ sở để chúng ta có cái nhìn so sánh nhằm nhận
diện văn xuôi giai đoạn từ 1986 đến nay một cách khoa học và thuyết phục hơn.
7
Cùng với đề tài của Tôn Thất Dụng, qua bài viết "Sự tương tác giữa các thể loại
văn học và thể thơ văn xuôi trong thơ mới 1932 - 1945", Nguyễn Phong Nam đã
đi sâu xem xét tương tác thể loại trong một phong trào thơ có nhiều thành tựu. Ở
đây, ông đã tập trung phân tích về sự tác động của các thể loại đối với việc hình
thành những thể thơ rất đa dạng và đầy sáng tạo trong Thơ mới 1932 - 1945. Bên
cạnh công trình nghiên cứu tương tác thể loại của Tôn Thất Dụng, tác giả luận án
rất quan tâm đến công trình gần đây của Nguyễn Thành Thi, tập tiểu luận - phê
bình: Văn học, thế giới mở. Ngay nhan đề của tập tiểu luận - phê bình cùng với
quan điểm được thể hiện nhất quán trong công trình này: văn học, thế giới mở đã
gợi mở cho luận án một số tiền đề rất quan trọng. Nguyễn Thành Thi dành hẳn một
phần với dung lượng hơn một trăm trang sách để tập trung nhìn văn học dưới góc
độ tương tác: "Một góc nhìn văn học quốc ngữ Việt Nam: vận động và tương
tác". Trong phần này, có bài viết bàn về một mối quan hệ tương tác cụ thể: "Mấy
ghi nhận về tương tác tiểu thuyết - truyện ngắn và sự biến đổi nòng cốt của hai thể
loại này", có bài viết đề cập đến kết quả tương tác thể loại trong một số tác phẩm cụ
thể: Xu hướng tổng hợp thể loại trong "Ngày xưa của Nguyễn Nhược Pháp", "Về
tính "phức thể" loại hình và sự hiện diện của "kí" trong văn thơ Hồ Chí Minh",…
Đặc biệt, nếu đề tài cấp bộ của Tôn Thất Dụng hướng đến đối tượng là văn học Việt
Nam từ đầu thế kỉ XX - 1945 thì ở phần này, Nguyễn Thành Thi vẽ: "Lược đồ"
văn học quốc ngữ Việt Nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác thể loại.
Ở đây, Nguyễn Thành Thi là người đầu tiên mạnh dạn định nghĩa cũng như phân
loại hiện tượng tương tác thể loại trong suốt một thế kỉ văn học hiện đại Việt Nam.
Trần Ngọc Dung góp thêm một tiếng nói về thể loại qua bài viết: “Đời sống thể loại
văn học sau 1975". Ở đây, Trần Ngọc Dung chủ yếu đi sâu vào cấu trúc tác phẩm để
thấy được những biến đổi về mặt thể loại của văn học sau 1975 so với văn học 1945
- 1975. Trong những biến đổi đó, tuy không dùng đến khái niệm này, nhưng ông hết
sức lưu tâm đến một số hiện tượng văn học kết tinh thành tựu của tương tác thể loại.
Tương tác truyện ngắn - tiểu thuyết: "Không chỉ tiểu thuyết mà truyện vừa và truyện
ngắn cũng có những biến đổi sâu sắc về mặt thể loại. Do ảnh hưởng của tư duy tiểu
8
thuyết nên các truyện này có sức chứa lớn hơn kích thước vốn có của chúng" [61,
tr.95]. Tương tác tiểu thuyết - kí, phóng sự: "Các tiểu thuyết của Nguyễn Mạnh
Tuấn như Đứng trước biển, Cù lao tràm đều có dấu vết của kí và phóng sự trong
đó". Trong tương quan so sánh, ông cũng nhận thấy hiện tượng tương tác thể loại
trong văn xuôi 1945 - 1975: "có một đặc điểm nổi bật là trong văn xuôi 1945 -
1975, truyện và kí thâm nhập, ảnh hưởng nhau đậm nét, tạo thành mô hình truyện
kí và truyện người thật việc thật" [61, tr.97].
Bên cạnh các cuốn sách quy tụ, tập hợp nhiều ý kiến là các luận án đi sâu
nghiên cứu về văn xuôi giai đoạn này. Luận án của Nguyễn Thị Bình quan tâm đến
Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 - Khảo sát trên nét
lớn, trong đó có một nét lớn rất quan trọng, đó là đổi mới về phương diện thể loại.
Luận án Những đặc điểm của văn xuôi Việt Nam cuối những năm 80 đầu
những năm 90 của Hoàng Thị Hồng Hà lại đề cập đến những đặc điểm của văn
xuôi, trong đó có: một quan niệm mới về con người, những đổi mới về ngôn ngữ và
giọng điệu. Tác giả cũng cho ta một cái nhìn sinh động về diện mạo văn xuôi trong
những năm có nhiều đột phá của văn học dân tộc. Luận án của Trần Thị Mai Nhân
quan tâm đến: Những đổi mới trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000. Trong
công trình này, tác giả luận án cũng dành dung lượng khá lớn cho vấn đề đổi mới tư
duy thể loại. Tuy không trực tiếp nói đến góc nhìn tương tác thể loại, nhưng sự đi
sâu phân tích cấu trúc nội dung và hình thức tiểu thuyết giai đoạn này đã cho chúng
ta những thông tin ý nghĩa để đối sánh giữa các hướng tiếp cận vấn đề.
Dưới góc độ văn học sử còn có nhiều bài viết, trực tiếp hoặc gián tiếp quan
tâm đến vấn đề này. Từ những tiền đề lí luận của M. Bakhtin, Vũ Tuấn Anh lại đi
vào "Đời sống thể loại trong quá trình văn học đương đại". Bài viết cung cấp
một cái nhìn khái quát về đời sống thể loại trong văn học sau 1975; đặc biệt, Vũ
Tuấn Anh luôn lưu tâm đến phương diện tương tác thể loại. Ông đặc biệt đề cao góc
nhìn thể loại: theo ông, mỗi giai đoạn văn học là một chỉnh thể thẩm mĩ thống nhất,
trong đó có sự liên kết và tác động lẫn nhau giữa các thể loại. Do vậy mà, cấu trúc
thể loại của giai đoạn văn học luôn có những nét khác biệt so với giai đoan trước và
9
sau nó. Do vậy, Vũ Tuấn Anh đi đến một mệnh đề: một phương diện quan trọng -
nếu không muốn nói là quan trọng hơn cả - để nhận thức một giai đoạn văn học là
khảo sát những biến đổi trên mặt bằng thể loại cũng như những biến thái tinh vi bên
trong đời sống của mỗi thể loại. Quan điểm của Vũ Tuấn Anh góp phần tạo nên cấu
trúc quy nạp của luận án. Bùi Việt Thắng có nhiều bài viết về truyện ngắn hiện đại.
Ông phụ trách phần truyện ngắn trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỉ XX. Ở đó,
bên cạnh việc trình bày về diễn trình của truyện ngắn Việt Nam thế kỉ XX, tác giả
có chú ý đến mối giao duyên thể loại. Đó là sự giao duyên giữa tự sự và trữ tình để
tạo nên dòng truyện ngắn trữ tình những thập niên đầu thế kỉ, đó còn là sự hội ngộ
của truyện và kí để tạo ra thể loại truyện – kí trong văn học 45-75. Trong nhận định
chung về truyện ngắn 1975 – 2000, Bùi Việt Thắng ghi nhận rằng: “đã có những
tìm tòi nghệ thuật làm cho thể loại “nhỏ” có sức chứa, hay nói cách khác là có khả
năng khái quát hóa nghệ thuật đời sống theo chiều sâu”. Đặc biệt, tác giả bước đầu
đã nhìn thấy những tín hiệu ấy kết tinh trong phong cách một số cây bút văn xuôi,
đặc biệt là Nguyễn Minh Châu, Bảo Ninh, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp,…
Trong bài viết: "Một số vấn đề thi pháp truyện ngắn Việt Nam hiện đại", ông lưu ý:
"Một mặt các nhà nghiên cứu chú ý đến tính chất gần gũi giữa tiểu thuyết và truyện
ngắn, mặt khác đã cố gắng chỉ ra đặc thù của mỗi thể loại trên từng vấn đề tiếp cận".
Từ việc xác định những đặc điểm nòng cốt của mỗi thể loại, ông đề cập đến những
kiểu dạng truyện ngắn "không thuần nhất": truyện ngắn liên hoàn, truyện ngắn kì
ảo, truyện ngắn tâm tình, truyện ngắn rất ngắn,…
Nguyên Ngọc có cái nhìn tập trung hơn, điểm đúng trọng tâm của vấn đề
tương tác thể loại hơn qua bài viết có nhan đề: "Văn xuôi hiện nay - logic quanh
co của các thể loại, những vấn đề đang đặt ra và triển vọng". Đây là bài viết hết
sức gần gũi, giúp người viết mạnh dạn khẳng định về sự tương tác nhiều chiều của
văn xuôi giai đoạn này với những tố chất mới nhưng xuất phát từ trong thực tiễn, từ
logic của đời sống thể loại văn học. Ngoài ra, dấu hiệu của tương tác thể loại trong
văn xuôi giai đoạn này còn được khẳng định rải rác trong nhiều bài viết như: "Ý
thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975" của Nguyễn Bích Thu, quan
10
niệm về thể tài truyện ngắn giàu chất thơ, giàu tính kịch qua bài viết "Quan niệm
về thể tài truyện ngắn trong văn học Việt Nam sau 1975" của Phùng Ngọc
Kiếm, "Về một hướng thử nghiệm của tiểu thuyết Việt Nam từ cuối thập kỉ 80
đến nay" của Nguyễn Thị Bình.
Một số nhà nghiên cứu đi sâu vào các quan hệ tương tác cụ thể. "Báo chí và
cuộc hành trình đổi mới văn học" của Trần Thị Trâm khẳng định vai trò của
phóng sự như một cú hích đối với công cuộc đổi mới văn học. Nguyên Ngọc cũng
khẳng định lực đẩy mạnh mẽ đó nhưng có tính quá trình hơn trong bài: "Văn xuôi
hiện nay - logic quanh co của các thể loại, những vấn đề đang đặt ra và triển
vọng". Phan Trọng Thưởng qua công trình Những vấn đề lí luận và lịch sử kịch
nửa sau thế kỉ XX lại cho ta một chiều tương tác từ kịch. Có thể nói, cùng với
phóng sự là kịch, chỉ có phóng sự đi bên kịch tạo nên bước đột phá của văn xuôi
giai đoạn này.
Cuốn Văn học Việt Nam 1975-1985, tác phẩm và dư luận tập hợp những ý
kiến khác nhau, những cách nhìn khác nhau của các nhà nghiên cứu về văn học 10
năm sau chiến tranh nói chung và văn xuôi nói riêng. Trong đó, các nhà biên soạn
dành nhiều trang cho những tác phẩm văn xuôi xuất sắc: Gặp gỡ cuối năm, Thời
gian của người – Nguyễn Khải, Cù lao tràm, Đứng trước biển – Nguyễn Mạnh
Tuấn, Mưa mùa hạ – Ma Văn Kháng; Bến quê, Người đàn bà trên chuyến tàu
tốc hành – Nguyễn Minh Châu. Đặc biệt là bài "Phác họa diện mạo chung của
quá trình văn học 1975-1985". Qua công trình mang tính hợp tuyển này, chúng ta
nhận được nhiều sự phân tích sâu sắc về những đổi mới trong thi pháp thể loại cũng
như quan niệm nghệ thuật về con người, đặc điểm tư duy nghệ thuật của thời đại.
Theo dòng văn học của Bích Thu lại tập trung nói về những dấu hiệu đổi mới của
văn xuôi sau 1975 qua hệ thống môtip, chủ đề. Trong bài "Những thành tựu của
truyện ngắn sau 1975", tác giả nhận định: “truyện ngắn đã bộc lộ tư duy nghệ
thuật tổng hợp, vận động và phát triển phù hợp với bản chất của văn học dân tộc”.
Bích Thu cũng nói đến “áp lực tiểu thuyết”, đi sâu đề cập đến đổi mới kết cấu,
ngôn ngữ, giọng điệu, quan niệm về con người cá nhân,... Cuốn Văn học Việt Nam
11
sau 1975- những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy do Nguyễn Văn Long chủ biên
dành cả một phần lớn cho văn xuôi sau 1975, trong đó có nhiều bài viết đề cập đến
tiểu thuyết, truyện ngắn trong mối quan hệ với một số thể loại gần gũi. Một số bài
viết khác dành sự quan tâm đến những phương diện đổi mới trong tác phẩm Nguyễn
Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Khắc Trường.
Một số công trình đi sâu vào từng tác giả, tác phẩm cụ thể. Qua những
chuyên luận cụ thể đó, chúng ta có được góc nhìn hệ thống hơn, toàn diện hơn về
từng cây bút văn xuôi. Vả lại, đây đó, trong việc khắc hoạ thế giới nghệ thuật của
từng tác giả, các nhà nghiên cứu đã bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến vấn đề thể loại
và hiệu ứng của tương tác thể loại. Gần đây, Nhà xuất bản Giáo Dục lần lượt cho ra
đời bộ sách về các tác giả lớn của văn học Việt Nam. Trong đó có các công trình:
Nguyễn Minh Châu - tác giả và tác phẩm, và Nguyễn Khải - Tác giả và tác
phẩm. Hai công trình đã dựng lên chân dung cũng như phong cách mỗi nhà văn
bằng việc tập hợp những bài viết hết sức có uy tín của nhiều nhà nghiên cứu. Các
tác giả cho ta nhìn được tính quá trình trong sự nghiệp riêng của từng nhà văn. Từ
đó, thấy được những bứt phá đi lên trong giai đoạn đổi mới. Cuốn Nguyễn Minh
Châu – tài năng và sáng tạo nghệ thuật cũng tuyển chọn nhiều bài viết về những
nỗ lực cách tân “dũng cảm rất điềm đạm” và những “cảm nhận từ thế giới nghệ
thuật đặc sắc của Nguyễn Minh Châu”. Thế giới nghệ thuật Tạ Duy Anh cũng được
nhiều người quan tâm nghiên cứu: Nguyễn Thị Hồng Giang với công trình "Tạ
Duy Anh và việc làm mới tiểu thuyết", Vũ Lê Lan Hương "Thế giới nhân vật
trong sáng tác Tạ Duy Anh", Võ Thị Thanh Hà "Quan niệm về con người trong
tiểu thuyết Tạ Duy Anh",… Nhiều tác giả, tác phẩm văn xuôi giai đoạn này dành
được sự quan tâm không chỉ của giới nghiên cứu mà của rộng rãi công chúng: Bảo
Ninh, Hoà Vang, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Huy Thiệp,…
Nguyễn Huy Thiệp thực sự gây “bão tố” trong dư luận. Trong tạp chí, trên Internet
và xôn xao giữa đời sống, đâu đâu người ta cũng bàn về hiện tượng Nguyễn Huy
Thiệp. Những bài viết có trọng lượng được tập hợp trong hai cuốn Đi tìm Nguyễn
Huy Thiệp và Nguyễn Huy Thiệp, tác phẩm và dư luận. Hai tuyển tập thực sự
12
thể hiện tính dân chủ trong phê bình. Nhờ đó, đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta
bắt gặp nhiều góc nhìn, hướng nhìn; nhiều khi đồng điệu nhưng đôi khi “lệch pha”,
ngược chiều. Điều gặp nhau là đều thừa nhận tính đa dạng, tính “hai lần lạ” trong
sáng tác Nguyễn Huy Thiệp. Qua từng nét vẽ, qua từng tác phẩm ta thấy được bức
tranh rậm rạp của những yếu tố thể loại đan xen trong tác phẩm cây bút này. Một số
bài viết đề cập đến các phương diện tương tác phong phú trong sáng tác của cây bút
này: "Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp như hình mẫu các truyền
thuyết văn học", "Thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp của T.N. Philimonova", "Tư
duy tiểu thuyết và folklore hiện đại" của Hoàng Ngọc Hiến, "Lời thoại trong truyện
ngắn Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp" của Nguyễn Thị Hương,…
Một cái nhìn sâu hơn, bài bản hơn, tập trung hơn được thể hiện trong hai
chuyên luận: Phong cách văn xuôi Nguyễn Khải của Tuyết Nga và Phong cách
nghệ thuật Nguyễn Minh Châu của Tôn Phương Lan. Hai chuyên luận đi sâu
khảo sát về những phương diện để lại dấu ấn đặc sắc trong phong cách của hai cây
bút văn xuôi có những bứt phá mạnh mẽ về thể loại này. Tiềm tàng trong những dấu
hiệu đó là biểu hiện đa dạng, phong phú của hiện tượng tương tác thể loại.
Ngoài ra còn nhiều bài viết khác liên quan đến đề tài trên các trang mạng,
trên các tạp chí chuyên ngành, trong các luận văn, luận án,… Các công trình trên là
những tiền đề quan trọng cho việc đi sâu triển khai đề tài. Mỗi người một nét vẻ
riêng, nhưng tất cả còn rất tản mác, thiếu tính hệ thống. Văn xuôi Việt Nam từ 1986
đến nay vẫn đang tiếp diễn. Dưới góc độ tương tác thể loại thì đây là mảnh đất mới
mẻ nhưng sẽ là miền đất hứa. Còn nhiều khoảng trống cần khám phá, còn nhiều câu
hỏi cần tìm lời giải đáp. Thực sự cần một đề tài đặt vấn đề nghiên cứu một cách hệ
thống về văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay dưới góc nhìn tương tác thể loại.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu thể loại và tương tác thể loại trong một giai đoạn văn học, đề tài
trước hết ứng dụng các phương pháp đặc thù: phương pháp loại hình, phương pháp
cấu trúc - hệ thống. Hai phương pháp nghiên cứu cơ bản này gắn bó chặt chẽ với
nhau, tương hỗ cho nhau. Phương pháp loại hình được sử dụng trong việc xác định
13
các quan hệ cộng đồng giá trị. Từ đó, luận án sử dụng phương pháp loại hình với cả
hai chức năng chủ yếu của phương pháp này: vừa nhằm phân loại các loại/thể làm
cơ sở cho việc nhận thức sự tương tác thể loại vừa nhằm chứng minh cho sự sinh
thành của những tiểu loại, những biến thể mới với những tín hiệu thẩm mĩ mới.
Theo đó, phương pháp loại hình được sử dụng nhằm xác định các yếu tố thuộc về
nòng cốt bất biến của các loại/thể. Từ cái bất biến để đi đến cái khả biến, từ một tiêu
thể để xem xét các biến thể phong phú trong diễn trình tương tác thể loại của văn
học giai đoạn này. Bên cạnh đó, nghiên cứu tương tác thể loại là nghiên cứu văn
học trong thế động, trong sự tác động qua lại lẫn nhau; do vậy, phương pháp loại
hình không thể tách rời phương pháp cấu trúc hệ thống. Trong mục giới thuyết về
khái niệm tương tác thể loại, chúng tôi có trình bày một số vấn đề có tính chất
phương pháp luận của phương pháp này làm cơ sở cho việc ứng dụng nhất quán
trong luận án: quan niệm về hệ thống trong hệ thống, quan niệm về hệ thống mở,
quan niệm về một hoặc một vài yếu tố hạt nhân của hệ thống, quan niệm về tính
biến đổi của hệ thống. Với những nền tảng đó, phương pháp cấu trúc - hệ thống là
cơ sở quan trọng của luận án trong việc nhận thức các kiểu, các chiều, các cấp độ
tương tác thể loại. Phương pháp cấu trúc - hệ thống cũng được sử dụng trong suốt
luận án nhằm nhận thức về cấu trúc thể loại của một giai đoạn cũng như cấu trúc
của từng thể loại văn học. Từ cấu trúc - hệ thống của văn xuôi, luận án đi đến khái
quát về cấu trúc - hệ thống những tín hiệu mới của văn xuôi.
Để làm rõ vấn đề, tăng tính thuyết phục của các luận điểm quan trọng trong
luận án, chúng tôi kết hợp hai phương pháp trên với phương pháp so sánh - đối
chiếu. Phương pháp so sánh - đối chiếu chủ yếu được sử dụng ở các phương diện:
so sánh đồng đại và so sánh lịch đại.
Luận án cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu lí thuyết nhằm tiếp cận, tìm
hiểu, thu thập và xử lí thông tin. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết do vậy được sử
dụng kết hợp với thao tác xử lí tài liệu như thống kê, phân loại, hệ thống hoá,…
14
Bên cạnh đó, luận án sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu đặc
thù như: phương pháp thi pháp học, phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp,…
5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
- Đề tài đề xuất một góc nhìn mới trong nghiên cứu văn học, góc nhìn tương
tác thể loại. Quan trọng hơn, với cấu trúc luận án theo hướng quy nạp để từ việc
khảo sát những biểu hiện cụ thể của tương tác thể loại trong tác phẩm đi đến những
tín hiệu thẩm mĩ mới như những hiệu ứng trực tiếp từ sự tương tác thể loại; bên
cạnh việc đề xuất góc nhìn, luận án đã thực hiện một quy trình tiếp cận vấn đề
tương tác thể loại vừa cụ thể vừa khoa học. Quy trình tiếp cận đó không chỉ mở
đường cho việc ứng dụng góc nhìn tương tác thể loại để nghiên cứu văn học một
thời kì, một giai đoạn mà còn gợi mở hướng nghiên cứu đối với từng tác giả, tác
phẩm cụ thể. Từ đóng góp chung đó, luận án có những đóng góp cụ thể sau:
- Qua chương 1 và chương 2, luận án đi sâu nhìn tương tác thể loại từ hai thể
loại chủ đạo: chương 1, nhìn từ tiểu thuyết; chương 2, nhìn từ truyện ngắn. Đây là
hai thể loại kết tinh thành tựu của văn xuôi giai đoạn này. Do vậy, từ góc nhìn của
hai thể loại này, luận án đã khái quát được bức tranh tương tác thể loại với những
chiều, những kiểu, những cấp độ tương tác vừa phong phú vừa độc đáo. Với việc
chú trọng nghiên cứu từ cấu trúc chỉnh thể đời sống thể loại, bên cạnh những luận
điểm khái quát; luận án đã đi sâu phân tích sự kết tinh những tố chất thể loại khác
nhau trong từng tác giả, tác phẩm như những minh chứng thuyết phục và khoa học
nhất về kết quả của những quan hệ tương tác thể loại.
- Với việc xem xét văn xuôi từ chính những vận động, biến đổi trong cấu trúc
thể loại, luận án đi đến những khái quát quan trọng về những tín hiệu mới của văn
xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay. Giới nghiên cứu đã có những công trình khái quát
về văn xuôi giai đoạn này nhưng hoàn toàn chưa có công trình nào nhìn một cách hệ
thống từ góc nhìn tương tác thể loại. Bằng lối đi riêng đó, luận án đã tìm ra những
tín hiệu mới của văn xuôi từ chính bản thể thể loại văn học.
15
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần Mở đầu (15 trang) trình bày những vấn đề chung có tính trường
quy: Lí do chọn đề tài, Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, Lịch sử vấn đề, Phương
pháp nghiên cứu, Đóng góp mới của luận án; phần Kết luận (6 trang); Tài liệu
tham khảo; phần Nội dung chính của luận án gồm 173 trang được cấu trúc thành
03 chương với tên gọi cụ thể như sau:
Chương 1. Tương tác thể loại trong văn học và sự tương tác thể loại
trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay - nhìn từ tiểu thuyết (56 trang)
Chương 2. Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến
nay - nhìn từ truyện ngắn (64 trang)
Chương 3. Những tín hiệu mới của văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay -
nhìn từ sự tương tác thể loại (53 trang)
16
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG VĂN HỌC VÀ SỰ TƯƠNG TÁC
THỂ LOẠI TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY – NHÌN TỪ
TIỂU THUYẾT
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TƯƠNG TÁC THỂ
LOẠI TRONG VĂN HỌC
Dưới góc độ triết học, có thể nói: vận động là xu thế tuyệt đối, đứng yên chỉ
là trạng thái tương đối, tạm thời. Tương tác và tương tác thể loại trong văn học cũng
tất yếu như sự vận động của cuộc sống. Những năm gần đây, người ta bàn nhiều
đến khái niệm tương tác, lĩnh vực nào chúng ta cũng bắt gặp khái niệm tương tác:
truyền hình tương tác, âm nhạc tương tác, nghệ thuật tương tác, dạy học tương
tác,… Tương tác thể loại trong văn học vừa mang đặc điểm chung vừa có những
đặc thù riêng.
1.1.1. SỰ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI BẮT NGUỒN TỪ CHÍNH ĐẶC
TRƯNG CỦA THỂ LOẠI VĂN HỌC
Tương tác thể loại trong văn học không phải là vấn đề quá mới mẻ mà nó bắt
nguồn từ chính đặc trưng cơ bản nhất của thể loại văn học.
1.1.1.1. Thể loại văn học được hiểu là một hiện tượng loại hình của sáng tác
và giao tiếp văn học, hình thành trên cơ sở sự lặp lại có quy luật của các yếu tố tác
phẩm. Trần Đình Sử (Giáo trình Lí luận văn học, Phương Lựu (chủ biên), Nhà xuất
bản Giáo Dục, Hà Nội, 1997): "Thể loại thể hiện một giới hạn tiếp xúc với đời sống,
một cách tiếp cận, một góc nhìn, một trường quan sát, một quan niệm đời sống,
đồng thời cũng là một nguyên tắc xây dựng thế giới nghệ thuật" [220]. Nhiều nhà
nghiên cứu cũng thống nhất về khái niệm thể loại như một hình thức chỉnh thể có
tính quy luật của loại hình. Nhưng bên cạnh đó, người ta cũng thừa nhận rằng: “Bản
chất của sáng tạo nghệ thuật là tính độc đáo không lặp lại. Sự vận động cuộc sống
cũng luôn luôn sản sinh và làm biến động các giới hạn phản ánh, đổi mới các kênh
17
giao tiếp và làm cho chúng tác động vào nhau, đan bện vào nhau trong các tác
phẩm nghệ thuật độc đáo” [220]. Do vậy mà, muốn nhận thức đặc điểm của một
thể loại có giá trị, người ta vừa phải có tri thức về các quy luật lặp lại của các thể
loại, lại vừa phải biết nhận ra tính độc đáo trong sự vận dụng sáng tạo thể loại của
tác giả. Có thể nói, thể loại vừa có các yếu tố ổn định, truyền thống; lại vừa có các
yếu tố vận động, đổi mới do sự phát triển văn học và tài năng sáng tạo của nhà văn.
Tính hai mặt của một vấn đề nằm sâu trong bản chất thể loại chính là xuất phát
điểm của vấn đề tương tác.
Sự phân loại văn học là bước đầu tiên để nhận thức các quy luật thể loại. Các
nhà lý luận văn học bậc thầy từ Aristoteles cho đến Boileau đều xuất phát từ ba
phương thức phản ánh hiện thực mà phân chia toàn bộ tác phẩm văn học thành 3
loại: tự sự, trữ tình, kịch. Trong quá trình phát triển của đời sống văn học nói chung
và đời sống cụ thể của văn học Việt Nam nói riêng đã sản sinh ra các “thể”, các
“tiểu loại” phong phú mà những cách phân loại trước đó tỏ ra bất cập, thiếu khả
năng bao quát. Trong giáo trình Lí luận văn học [220], Trần Đình Sử đã khắc phục
những nhược điểm trên bằng cách chia một cách quy ước thành 5 loại. Ngoài 3 loại
theo cách “chia ba”, bổ sung vào 2 loại mới là: kí và văn chính luận. Đó là nấc
thang đầu tiên để tiến đến việc phân chia thể hoặc thể loại tác phẩm. Các nhà nghiên
cứu thống nhất chia loại ra các “thể” và xem “thể” như là một tiểu loại. Yếu tố ổn
định, truyền thống cho ta những tiêu chí để phân biệt cái cốt lõi bất biến của từng
loại thể: tác phẩm trữ tình khác tác phẩm tự sự, tiểu thuyết khác truyện ngắn,... Đó
là cơ sở đầu tiên của vấn đề tương tác.
Nhưng điều chúng ta lưu tâm hơn là “các yếu tố đổi mới do sự phát triển văn
học và tài năng sáng tạo của nhà văn”. Trần Đình Sử khẳng định sự phân chia thể
loại rõ ràng là “vấn đề có tính thứ hai”, “vấn đề có tính thứ nhất” vẫn là hình thức
tồn tại phong phú và độc đáo của chỉnh thể tác phẩm: “Nghệ sĩ lớn thường tiếp thu
các truyền thống thể loại khác nhau, tạo ra các hình thức thể loại mới”. Nguyễn
Thành Thi nói đến cái “nhìn sang”, sự hút hương nhụy một cách đầy khôn ngoan
trong tính chất của tương tác thể loại:
18
Thực tế đời sống văn học cho thấy mỗi một "nòng cốt" thể loại tồn tại như
những mô chuẩn nghệ thuật ít nhiều mang tính quy ước, chỉ có ý nghĩa tương đối,
và luôn có khả năng biến đổi. Vì vậy, nhà văn khi sáng tác một thể loại nào đó, một
mặt luôn tôn trọng, tuân thủ những mô chuẩn nghệ thuật quy ước, mặt khác – ít
hoặc nhiều – luôn có nhu cầu thoát bỏ khỏi những mô chuẩn quy ước ấy, bằng cách
“nhìn sang” những thể loại xung quanh, rút tỉa lấy tinh hoa của chúng, tổng hợp
kinh nghiệm của hai hay nhiều thể loại, tạo ra những tác phẩm “lệch chuẩn” [357,
tr12].
Mỗi nền văn học, qua những thời đại khác nhau hình thành hệ thống thể loại
khác nhau và hệ thống đó cũng biến đổi. Vì thế, nhiều nhà lí luận văn học đề xuất:
nghiên cứu thể loại phải chú ý đến tính lịch sử, tính thời đại, tính dân tộc và tính
biến đổi của nó. Thể loại vừa là “cái trí nhớ siêu cá nhân của nhân loại” nhưng
đồng thời lại luôn được tái sinh, đổi mới trong từng giai đoạn phát triển văn học,
trong từng thể loại, trong từng tác phẩm cụ thể, cá biệt. Tên gọi thể loại về nguyên
tắc chỉ có một nhưng đời sống thể loại thì phong phú, sinh động vô cùng. “Mỗi giai
đoạn, mỗi thời kì văn học là một chỉnh thể thẩm mĩ thống nhất trong đó có sự liên
kết và tác động lẫn nhau giữa các thể loại” [220]. Đặc điểm văn hóa – xã hội, thị
hiếu thẩm mĩ, trình độ nhận thức của mỗi thời đại thay đổi sẽ làm thay đổi hệ thống
thể loại và hệ quả là, thay đổi quan hệ tương tác giữa các thể loại trong chỉnh thể ấy.
Trên cơ sở tiếp cận vấn đề thể loại như trên, để thống nhất trong cách dùng
thuật ngữ, tiến tên việc gọi tên chính xác và logic các hiện tượng/kiểu/loại/cấp độ
tương tác, chúng tôi nêu lên ở đây một số giới thuyết cụ thể. Luận án chọn cách
phân chia thể loại thành hai cấp độ. Trên bình diện phương thức phản ánh, luận án
sử dụng khái niệm loại/loại hình. Trên bình diện hình thái tác phẩm, luận án sử
dụng khái niệm thể loại/thể; trong đó, khái niệm "thể loại" được dùng phổ biến
trong nhiều trường hợp, khái niệm "thể" được dùng trong những trường hợp đề cập
đến những tiểu loại cụ thể của văn xuôi Việt Nam giai đoạn này.
1.1.1.2. Từ đặc trưng cơ bản là sự vận động, tính biến đổi của thể loại, chúng
ta sẽ thấy: tương tác thể loại là vấn đề nằm sâu trong logic của thể loại. Điều này đã
19
được Kate Hamburger đề cập rất thuyết phục trong chuyên luận Logic học về các
thể loại văn học [95]. Đành rằng, mỗi thể loại có những logic riêng: “Sử thi như
một truyện kể bằng độc thoại tường thuật về một cốt truyện, nguyên tắc trữ tình như
là sự trình bày một trạng thái bằng độc thoại, và kịch như là sự trình bày một cốt
truyện bằng đối thoại" (J Petersen),... nhưng nhiều khi chúng lại thâm nhập lẫn
nhau, tác động vào nhau. Ví như sự can thiệp của cái tôi ở ngôi thứ nhất vào tiểu
thuyết trần thuật ở ngôi thứ ba là “một nụ cười mỉm hài hước, như một trò chơi”.
Sự tương tác thể loại nhiều khi sáng tạo nên những thể loại mới cho đời sống văn
học. Ballade ở phương Tây là một thể loại được tạo ra do sự thâm nhập lẫn nhau
giữa yếu tố trữ tình và yếu tố hư cấu. Goethes đánh giá rất cao thể loại ballade này:
“Tập hợp lại trong bài thơ nhỏ nhất ba hình thức tự nhiên đích thực của văn học:
sử thi, nghệ thuật trữ tình, kịch” [95, tr.412]. Kate Hamburger cho rằng, việc phân
biệt ranh giới giữa các thể loại là nhằm nhận thức về các thể loại quá độ. Thế
nhưng, ranh giới ấy là hết sức mềm dẻo và tương đối. Bởi, bà nhấn mạnh rằng:
“Việc vạch ra các ranh giới lí luận chặt chẽ cũng sẽ không thích hợp như việc đưa
ra các đánh giá khinh suất trong khi nói về các hình thức không thuần túy” [95,
tr.417]. Từ quan niệm như vậy, các nhà nghiên cứu nói đến ballade là kẻ tiếm vị về
cấu trúc trong không gian trữ tình. Bên cạnh đó, các ông cũng nhận thức giá trị của
các truyện kể ở ngôi thứ nhất như một kẻ tiếm vị cấu trúc trong không gian hư cấu.
Người ta không thể từ chối với truyện kể ở ngôi thứ nhất các đặc tính văn học tự sự
cũng như văn học trữ tình.
1.1.2. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG "THỜI CỦA TIỂU
THUYẾT"
Tương tác thể loại xuất phát từ chính đặc trưng của thể loại nhưng mỗi thời
đại, mỗi thời kì, mỗi giai đoạn, thậm chí mỗi chặng đường văn học, sự tương tác thể
loại diễn ra với những hình thức, những đặc điểm - tính chất, những kiểu dạng
riêng,… Do vậy mà vai trò cũng như ý nghĩa của sự tương tác cũng được thể hiện
khác nhau. Trong văn học dân gian và cả văn học trung đại, chúng ta nhìn thấy tính
tạp chủng, dấu ấn của “hợp chủng quốc thể loại” trong tác phẩm như hệ quả của
20
“tính nguyên hợp”, “tính bất phân” của văn học. Trong tiến trình hiện đại hóa văn
học dân tộc cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, có một giai đoạn quá độ để những thể
loại ngoài rìa được chuyển vào vị trí trung tâm và những thể loại trung tâm trở
thành thứ yếu, nhiều tác phẩm có sự “giao thoa thể loại”; tiểu thuyết viết bằng thơ,
văn xuôi viết bằng văn biền ngẫu,… là những kiểu tương tác trong những giai đoạn
văn học cần có bước chuyển để trưởng thành, hoàn thiện thể loại. Sự “hội ngộ” giữa
phóng sự - tiểu thuyết và tiểu thuyết - phóng sự, sự kết hợp giữa trữ tình và tự sự để
tạo nên dòng truyện ngắn trữ tình, sự “xâm lăng của thơ vào văn xuôi” những năm
30 của thế kỉ trước... lại là những biểu hiện khác của tương tác thể loại. Văn xuôi
Việt Nam từ sau đổi mới tiến thêm một bước nữa trong tính biến đổi đầy sáng tạo
ấy.
Do vậy, nghiên cứu sự tương tác thể loại trong văn xuôi, không thể không
lưu tâm đến quan điểm của M. Bakhtin. Ông quan tâm đến quan hệ hài hoà giữa các
thể loại trong những thời kì tiểu thuyết tồn tại ngoài thềm của cái gọi là "đại văn
học"; nhưng ông quan tâm hơn đến "cuộc đấu tranh sâu sắc hơn và mang tính lịch
sử hơn giữa các thể loại, sự biến thái và phát triển cái nòng cốt thể loại của văn học"
khi tiểu thuyết trở thành thể loại trung tâm của đời sống văn học.
M. Bakhtin đặc biệt đề cao vai trò của tiểu thuyết trong đời sống văn học
hiện đại. Nếu thể loại là nhân vật chính của tiến trình văn học thì tiểu thuyết, thêm
một lần nữa, lại là nhân vật chính của cấu trúc thể loại văn học hiện đại: tiểu thuyết
là “nhân vật chính trong tấn kịch phát triển văn học thời đại mới”. Ông cho rằng,
cuộc sống lịch sử của các thể loại khác mà chúng ta đang chứng kiến là cuộc sống
của các thể loại đã hoàn bị, với nòng cốt đã đông cứng lại và đã ít uyển chuyển.
“Nghiên cứu các thể loại khác tựa hồ như những tử ngữ; nghiên cứu tiểu thuyết
giống như nghiên cứu những sinh ngữ, mà lại sinh ngữ trẻ” [27, tr.22].
Trong những thời đại tiểu thuyết tồn tại một cách không chính thức, tất cả
các thể loại văn học, ở mức độ nhất định đều bổ sung hài hòa cho nhau, và hệ thống
thể loại hiện ra như một chỉnh thể hữu cơ có trật tự. Những thể loại đó có thể giới
hạn nhau và bổ sung cho nhau mà vẫn giữ nguyên bản chất loại hình của mình. Đời
21
sống thể loại đến đây cơ bản là phẳng lặng và “yên ổn”. Nhưng khi tiểu thuyết xuất
hiện và trở thành một thể loại chủ đạo thì “hầu hết các thể loại đều ít nhiều bị “tiểu
thuyết hóa”: kịch nói bị tiểu thuyết hóa, trường ca bị tiểu thuyết hóa, thậm chí cả
thơ trữ tình” [27, tr.25]. “Trước sự có mặt của tiểu thuyết như một thể loại thống
soái, ngôn ngữ ước lệ của các thể loại bị quy phạm hóa nghiêm ngặt bắt đầu vang
âm một cách mới”. Điều quan trọng được M. Bakhtin khẳng định là: tiểu thuyết hóa
văn học tuyệt đối không có nghĩa là áp đặt cho các thể loại khác những quy phạm
thể loại xa lạ với bản chất của chúng. Bởi vì, về bản chất, tiểu thuyết là một thể loại
không quy phạm. Nó là hiện thân của tính uyển chuyển, linh hoạt bậc nhất. Đó là
thể loại mãi mãi tìm tòi, mãi mãi tự khảo sát bản thân mình và xét lại tất cả những
dạng thức đã định hình của mình. Do đó tiểu thuyết hóa các thể loại khác chính là:
“giải phóng chúng khỏi tất cả những gì là ước lệ, khô cứng, khiên cưỡng và thiếu
sức sống đang kìm hãm sự phát triển của bản thân chúng”. Tiểu thuyết là một thể
loại luôn luôn biến đổi. Mà, cũng theo M. Bakhtin: chỉ kẻ biến đổi mới hiểu được
sự biến đổi: “chỉ có tiểu thuyết do thế giới mới ấy sản sinh ra và đồng chất với thế
giới ấy về mọi mặt”. Vì vậy, khi trở thành thể loại thống ngự, nó xúc tác làm đổi
mới tất cả các thể loại khác, làm chúng lây nhiễm tính biến đổi và tính không hoàn
thành của tiểu thuyết. Sự tiểu thuyết hóa các thể loại làm cho các thể loại tự do hơn,
mềm mại hơn. Ngôn ngữ của các thể loại ấy được đối thoại hóa, giễu nhại hóa nhờ
tiếp xúc với các “vỉa tiểu thuyết”. Tiểu thuyết cũng đưa vào các thể loại tính vấn
đề, tính “dở dang” đặc thù về hàm nghĩa và sự tiếp xúc sống động với thì hiện tại
chưa hoàn tất và đang chuyển biến của nó.
Có thể thấy, trong quan điểm tương tác của M. Bakhtin, tiểu thuyết như một
yếu tố siêu thể loại thâm nhập và làm biến đổi các thể loại khác. Đây là chiều thứ
nhất của sự tương tác. Ở chiều này, vai trò của tiểu thuyết như một chất xúc tác làm
cho các thể loại khác “bung ra”, “thăng hoa lên” trong nỗ lực sáng tạo không ngừng
của văn học.
Thế nhưng trong cách lập luận của M. Bakhtin ta còn thấy quan niệm tương
tác giữa tiểu thuyết và các thể loại khác được hiểu theo đúng nghĩa là sự tác động
22
qua lại lẫn nhau. Tiểu thuyết vừa “lấn át các thể loại khác” nhưng đồng thời “vừa
thu hút các thể loại kia vào trong cấu trúc của mình, biện giải lại và sắp xếp lại
trọng tâm của chúng”. Bản thân tiểu thuyết là một hệ thống mở và là một thể loại
uyển chuyển hàng đầu. Nói như M. Bakhtin: về bản chất, tiểu thuyết là một thể loại
không quy phạm. Như vậy, về mặt lí thuyết, tiểu thuyết có thể thu nhận, dung nạp
một cách rộng rãi bất cứ thể loại nào: truyện ngắn, thơ, kịch, ngụ ngôn, thần thoại,
truyện truyền kì, thư từ, nhật kí…; tiểu thuyết cũng có thể "phá rào, bước qua mọi
ranh giới đặc trưng của văn học - nghệ thuật" để cũng thu nhận vào nó cả: các
phương pháp hùng biện tư pháp, bản khảo luận triết học, bản thuyết giáo đạo đức,
lịch sử phật giáo, kinh sách thiên chúa,… Từ lí thuyết thể loại dễ dẫn đến một cách
hiểu đơn giản hoá rằng: sự thâm nhập của các thể loại vào tiểu thuyết là vấn đề tất
yếu, đương nhiên; không cần phải nghiên cứu. Thực chất, từ quan điểm của lí thuyết
hệ thống: "Hệ thống là phức hợp của những yếu tố mang ý nghĩa nội dung có liên
quan với nhau và trên cơ sở đó, thường nổi lên một hay nhiều yếu tố làm hạt nhân",
chúng ta có thể thấy mỗi thời đại, mỗi giai đoạn có những "mẫu số chung" khác
nhau. Có thể nói đến mẫu số chung của giai đoạn văn học từ 1986 đến nay là: lấy
hiện thực đời thường, con người thế sự đời tư làm tâm điểm,… Vậy thì tiểu thuyết
đủ "khôn ngoan" và sự "mềm dẻo, uyển chuyển" để biết lựa chọn và thu nhận
những yếu tố nào, tố chất thể loại nào vào trong cấu trúc của mình. Nghiên cứu
tương tác thể loại trong tiểu thuyết chính là nghiên cứu sự lựa chọn thông minh
cũng như nghĩa lí của sự lựa chọn đó. Từ quan điểm nghiên cứu trên, chúng ta có
thể trả lời các câu hỏi: vì sao thời trung đại thịnh hành tiểu thuyết chương hồi, tiểu
thuyết lịch sử?, vì sao tiểu thuyết 1945 - 1975 đậm chất sử thi?, vì sao tiểu thuyết
thời hậu chiến, đặc biệt sau 1986 đậm chất thế sự, đời tư - cũng có nghĩa là đậm
chất tiểu thuyết.
Như vậy, tuy không đề cập đến khái niệm tương tác (interaction) nhưng từ
những quan điểm của M. Bakhtin khi nói về "tiểu thuyết như một thể loại văn học",
chúng tôi cụ thể hóa thêm một bước nữa về sự tương tác thể loại trong văn xuôi
Việt Nam từ 1986 đến nay: sự tương tác thể loại khi tiểu thuyết được dịch chuyển
23
vào vị trí trung tâm. Sự trưởng thành của tiểu thuyết cũng chính là sự trưởng thành
của thể loại văn học, là dấu hiệu quan trọng hàng đầu về tính hiện đại của một nền
văn học. Ở đây, chúng ta có thể khẳng định một điều: tương tác thể loại là một hiện
tượng không mới, có thể coi nó là một trong những thuộc tính của thể loại văn học;
thế nhưng, tương tác thể loại thực sự trở thành một vấn đề nghiên cứu giàu ý nghĩa
khi có sự xuất hiện của tiểu thuyết và khi tiểu thuyết trở thành thể loại trung tâm của
đời sống văn học.
1.1.3. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG VĂN HỌC LÀ HIỆN
TƯỢNG HẾT SỨC ĐA DẠNG, ĐA CHIỀU
Như vừa đề cập ở trên, bản chất đồng thời cũng là phẩm chất của văn học là
sáng tạo, luôn luôn sáng tạo. Tương tác thể loại là sự thể hiện tập trung những nỗ
lực sáng tạo và đổi mới của văn học. Tương tác thể loại xuất phát từ chính đặc trưng
cố hữu nhất của thể loại nhưng diễn trình của nó thì phong phú, sinh động vô cùng.
Khi có sự tham gia "chính trường" của loại hình "công nghiệp nặng" - tiểu thuyết -
sự tương tác thể loại sẽ trở thành một hiện tượng hết sức đa dạng, đa chiều. Cách
nhìn, cách quan niệm về sự tương tác thể loại do vậy cũng phong phú và sinh động
không kém.
Lí thuyết hệ thống là nền tảng quan trọng giúp chúng tôi nhìn nhận sự tương
tác thể loại đa dạng, đa chiều trong văn xuôi Việt Nam sau 1986 một cách khoa học,
toàn diện và hiệu quả. Một điều thú vị là ngay trong khái niệm hệ thống đã bao hàm
sự tương tác: “Hệ thống là một tổng thể, duy trì sự tồn tại bằng sự tương tác giữa
các tổ phần tạo nên nó” (L.v. Bertalanfy). L.v. Bertalanfy cũng nói rằng: “Hệ thống
– khái niệm trung tâm biểu thị một tập hợp các phần tử trong sự tương tác qua lại
thể hiện tính chỉnh thể và tính chung của mình. Phần tử – đơn vị không thể chia nhỏ
được nữa trong một phương thức phân chia đã cho, và nằm trong thành phần của
hệ thống, việc có những mối liện hệ giữa các phần tử sẽ dẫn đến sự xuất hiện trong
hệ thống chỉnh thể những tính chất mới mà không có trong phần tử ở trạng thái
riêng biệt” [186].
24
Nghiên cứu tương tác thể loại trong văn học không thể không đặt trong cái
nhìn hệ thống. Chúng tôi quan tâm đến quan điểm: Hệ thống luôn chứa đựng nhiều
tiểu hệ thống đa dạng khác nhau, tác động qua lại chặt chẽ với nhau; đồng thời cũng
đặc biệt quan tâm đến quan điểm về hệ thống mở. Lí thuyết hệ thống khẳng định: hệ
thống không đóng kín mà là hệ thống mở, luôn luôn có quá trình trao đổi chất với
các hệ thống gần gũi với nó. Quan điểm về hệ thống mở cho chúng ta cái nhìn động
hơn, sâu hơn và cũng có phần rộng hơn về sự tương tác thể loại – đặc biệt là sự
tương tác thể loại trong văn xuôi sau 1986. Từ quan điểm về hệ thống mở, chúng ta
không chỉ nhìn thấy sự tương tác diễn ra trên chiều đồng đại – khép kín trong phạm
vi mỗi giai đoạn, mỗi thời kì văn học; mà còn nhìn sự tương tác diễn ra trên chiều
lịch đại với những dích dắc, quanh co, với những vòng xoáy trôn ốc… phức tạp;
nhưng bằng cách nhìn ấy, chúng ta khám phá ra nhiều điều thú vị.
Trên cơ sở lí thuyết hệ thống, chúng tôi cho rằng: tương tác thể loại là sự
thâm nhập, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai hay nhiều thể loại của một hoặc
nhiều hệ thống thể loại khác nhau nhằm tạo nên sự vận động, đổi mới cấu trúc thể
loại văn học. Với cách đề xuất khái niệm trên, tương tác thể loại trong văn học cần
được hiểu một cách mềm dẻo, linh hoạt. Ở nét nghĩa khái quát chung, tương tác thể
loại là sự tác động qua lại lẫn nhau nhưng với đặc trưng riêng của văn học, sự tương
tác ở đây còn bao hàm cả sự thâm nhập, thẩm thấu từ một hệ thống thể loại này đến
hệ thống thể loại khác. Đó là trường hợp của sự tương tác ngoài hệ thống. Văn học
trung đại là một hệ thống, văn học hiện đại là một hệ thống và văn học dân gian,
văn học nước ngoài cũng là những hệ thống văn học. Văn xuôi sau 1986 không chỉ
có sự tương tác giữa các thể loại trong cùng hệ thống mà còn có chiều sâu của sự
tương tác ngoài hệ thống. Sự tương tác trong văn xuôi sau 1986 không chỉ diễn ra
giữa các thể loại trong đời sống thể loại văn học đương đại mà còn có mối liên hệ
với các thể loại trong hệ thống văn học dân gian, văn học trung đại; còn có sự mở
rộng tiếp nhận các yếu tố thể loại văn học nước ngoài, thậm chí có mối tương tác
với các hệ thống vốn rất ít đặc trưng văn học khác. Quan điểm hệ thống mở cũng
góp phần giải thích xu hướng “liên văn bản” trong một số tác phẩm. Chúng ta
25
thường bắt gặp mô hình các truyện cổ tích, huyền thoại, các truyện truyền kì, truyện
lịch sử,... trong tác phẩm văn xuôi đương đại. Cũng thấy những siêu mẫu với khả
năng sinh sôi, biểu tượng tới mức có thể đọc chúng như những tín hiệu, từ đó giải ra
nhiều mã, nhiều tầng khác nhau trong những sáng tác này. Những tác giả lớn của
thế kỉ XX đều dường như quay trở về với huyền thoại ở điểm này. Tác phẩm của
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Võ Thị Hảo, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh,
Hoà Vang, Nguyễn Xuân Khánh,… đều có những siêu mẫu như thế. Bên cạnh
huyền thoại là nguồn mạch trữ tình. Đó chính là chiều tương tác từ “trầm tích” văn
hóa dân tộc trong văn xuôi hiện đại.
Với quan niệm tương tác thể loại theo nghĩa rộng như trên, chúng ta sẽ thấy
tương tác thể loại là hiện tượng văn học vừa phong phú vừa sinh động. Chúng tôi
đồng tình với cách phân chia kiểu loại, phân chia cấp độ tương tác thể loại của
Nguyễn Thành Thi. Theo đó, sự tương tác thể loại thể hiện trên nhiều cấp độ: tương
tác giữa loại với loại, tương tác giữa thể với loại, tương tác giữa thể với thể, tương
tác giữa yếu tố với yếu tố. Ngoài ra, cần bổ sung thêm các cấp độ tương tác: yếu tố -
loại, yếu tố - thể,… Cũng có thể nhìn tương tác thể loại trong diễn trình hình thành
và phát triển của thể loại. Ở góc nhìn này, Nguyễn Thành Thi đề cập đến ba hình
thức chính của sự tương tác: 1) hình thức “tổng hợp” thể loại (thể loại hòa nhập làm
một hoặc song song tồn tại); 2) hình thức “đổi ngôi” – “tiếp sức” giữa các thể loại;
3) hình thức loại bỏ, thay thế thể loại… Hình thức thứ nhất – rất phổ biến – mang
tính đồng đại; hình thức thứ hai – với một lộ trình ít nhiều quanh co, ít phổ biến hơn
– mang tính lịch đại. Hình thức thứ ba thường diễn ra vào những thời điểm bước
ngoặt mang tính cách mạng, thay đổi phạm trù văn học của sự vận động thể loại.
Văn xuôi Việt Nam hiện đại, đặc biệt là văn xuôi sau 1986 với tính mở, tính động;
với sự năng động của thể loại đã thể hiện đầy đủ các cấp độ, các hình thức, các kiểu
tương tác nói trên.
Từ những luận điểm trên đây, chúng tôi cho rằng: tương tác thể loại là một
khái niệm rộng bởi nó phát xuất từ thuộc tính, từ bản chất của thể loại văn học.
Tương tác thể loại trở nên đa dạng, nhiều chiều trong cấu trúc thể loại văn học hiện
26
đại, một chỉnh thể mà ở đó tiểu thuyết tham dự như một nhân vật chính của tấn kịch
phát triển văn học. Khi tiểu thuyết ở vị trí thống ngự, nó tương tác, khuấy đảo làm
giãn nở, mở rộng khung thể loại của các hệ thống thể loại khác; đồng thời nó cũng
mềm dẻo, uyển chuyển và khôn ngoan để tự làm mới bản thân mình. Một cấu trúc
thể loại mang tính động như thế sẽ mang đến những đổi mới quan trọng trong tiến
trình vận động của thể loại nói riêng, đổi mới văn học nói chung. Cuộc đấu tranh
âm thầm, lặng lẽ nhưng "sâu sắc hơn và mang tính lịch sử hơn" [28] trong logic cấu
trúc thể loại văn học hiện đại do vậy sẽ là đối tượng nghiên cứu thực sự mới mẻ, là
góc nhìn mở ra những khai phá quan trọng cho văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt
là văn xuôi Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay. Với cách quan niệm như trên,
tương tác thể loại là sự vận động của thể loại nhưng tương tác thể loại không đồng
nhất với khái niệm vận động thể loại. Tương tác thể loại trở thành một phương thức
rất quan trọng trong sự vận động thể loại văn học hiện đại.
Cách đặt vấn đề và những nền tảng lí luận trên đây sẽ là cơ sở chung để
chúng tôi đi vào xem xét sự tương tác thể loại nhìn từ tiểu thuyết (chương 1) và
nhìn từ truyện ngắn (chương 2).
1.2. SỰ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM TỪ
1986 ĐẾN NAY - NHÌN TỪ TIỂU THUYẾT
1.2.1. SỰ TRỞ LẠI CỦA CÁC THỂ KÍ TRONG TIỂU THUYẾT
Các thể kí (từ đây gọi tắt là kí) một lần nữa trở lại trong tiểu thuyết. Nói sự
trở lại của kí bởi đây không phải là lần đầu tiên giữa kí và tiểu thuyết có mối quan
hệ tương tác. Mối "duyên kì ngộ" giữa kí và tiểu thuyết đã thực sự tạo nên nhiều
điều thú vị trong lịch sử tương tác giữa hai loại/thể này. Từ hướng nhìn lịch đại,
nhiều nhà nghiên cứu nói đến sự đứt gãy và tiếp nối trong quá trình tương tác giữa
kí và tiểu thuyết. Trong văn học đầu thế kỉ XX, sự tương tác giữa kí, đặc biệt là
phóng sự với tiểu thuyết là một hiện tượng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Đến văn học 1945 - 1975, với xu hướng "sử thi hoá", mối duyên tình tiểu thuyết -
phóng sự vì thế cũng không còn; thay vào chỗ của phóng sự là yếu tố kí sự, bút kí,
là chất sử thi,... Đến văn học sau 1986, thật thú vị khi chúng ta chứng kiến sự hội
27
ngộ giữa kí và tiểu thuyết như là sự tiếp nối của một quá trình đứt gãy, gián đoạn.
Điều đáng nói là, trong cả hai thời điểm, lúc nào kí cũng đi đầu; kí mở đường và
"tiếp sức" đầy hiệu quả cho tiểu thuyết.
1.2.1.1. Phóng sự trong tiểu thuyết
Nói đến sự trở lại của kí chủ yếu là nói đến sự trở lại của phóng sự. Nhìn lại
quá trình tương tác thể loại trong văn học đầu thế kỉ, chúng ta dễ dàng thống nhất về
vai trò mở đường của kí. Như một quy luật của sự vận động thể loại, trong những
giai đoạn với nhiều sự kiện, biến cố; kí luôn là thể loại "xông xáo" đi đầu. Nguyễn
Thành Thi nhìn thấy vai trò ấy của kí: "Thực ra, tiểu thuyết dù có thành tựu đột xuất
ngay từ đầu, vẫn không phải là thể loại tiên phong. Vị trí tiên phong ấy dành cho
thể kí" [357]. Ông đã chứng minh một cách thuyết phục về sự khởi đầu này: "Bất
chấp sự phát triển ngập ngừng của các thể tiểu thuyết, truyện ngắn, kí phát triển
rầm rộ ngay trong những năm đầu văn học quốc ngữ sơ khai. Hàng trăm tác phẩm
du kí đăng trên Gia Định báo (miền Nam) và Nam Phong tạp chí (miền Bắc)". Có
thể nói đến các tác phẩm của Trương Minh Kí, Đông Hồ, Mai Khuê, Thượng
Chi,… Đến những năm 30, xuất hiện hàng loạt những nhà văn viết phóng sự tiêu
biểu như: Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng, Phi Vân, Trọng Lang,
Hoàng Đạo,… Khi đã phát triển và định hình về mặt thể loại, phóng sự với những
tính năng thể loại đặc thù của mình đã "tiếp sức", thúc đẩy sự phát triển của tiểu
thuyết. Trong công trình "Sự tương tác giữa các thể loại trong văn học Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến 1945", Tôn Thất Dụng đã đề cập đến mối quan hệ này: "Thể
loại phóng sự đã thúc đẩy cho thể loại tiểu thuyết phát triển nhanh bằng cách cung
cấp cho những nhà viết tiểu thuyết cách nhìn mới gắn với thực tiễn cuộc sống, và
sau đó tiểu thuyết thâm nhập vào phóng sự làm cho nó gắn bó với đời sống văn học
hơn" [65]. Như vậy, bên cạnh sự tương tác giữa chất trữ tình và truyện ngắn để hình
thành nên dòng truyện ngắn trữ tình với những tên tuổi tiêu biểu như Thạch Lam,
Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh,…; chúng ta còn thấy một chiều tương tác khác - chiều
tương tác giữa phóng sự và tiểu thuyết. Sự thâm nhập của phóng sự vào tiểu thuyết
đã tạo nên những tiểu thuyết phóng sự nổi tiếng. Tên tuổi của Vũ Trọng Phụng chủ
28
yếu gắn với các tiểu thuyết phóng sự như: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê. Nhiều người
xếp ông lên hàng "chiếu nhất" là bởi sự kết hợp giữa một "ông vua phóng sự" và
một "tiểu thuyết gia trác tuyệt" trong cây bút tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng.
Văn học 1945 - 1975 với xu hướng lãng mạn cách mạng đã tạo nên một mối
quan hệ tương tác hoàn toàn khác. Vẫn là sự tác động, thâm nhập giữa thể tiểu
thuyết và loại kí nhưng việc chú trọng ghi chép sự kiện nhằm biểu dương "người tốt
việc tốt" đã đưa tiểu thuyết "ngả sang" [357] với bút kí, kí sự. Phóng sự, bên cạnh
đó là bi kịch, hoàn toàn bị "xóa sổ" [357], không còn sự hiện diện trong bức tranh
thể loại văn xuôi 1945 - 1975. Có thể coi đó là giai đoạn đứt gãy bởi sự tác động có
tính chất quyết định của các yếu tố ngoài văn học. Do vậy mà, như một duyên nợ,
phóng sự trở lại một cách đầy huy hoàng trong văn học sau 1986. Cuộc sống bề bộn
thời hậu chiến có lẽ là mảnh đất màu mỡ ươm mầm cho phóng sự. Một lần nữa
phóng sự giữ vai trò của một thể loại tiên phong. Trong "logic quanh co của tương
tác thể loại", Nguyên Ngọc khẳng định: phóng sự và kịch đi đầu. Mở đầu cho mùa
bội thu của văn xuôi là sự gặt hái thành công của một thể loại thuộc loại hình kí: đó
là phóng sự văn học. Đúng là phóng sự văn học (từ đây gọi tắt là phóng sự) luôn là
cánh chim báo bão trong những giai đoạn văn học mới. Hàng loạt phóng sự ra đời
và gây được tiếng vang lớn: Lời khai của bị can, Người biết làm giàu (Trần Huy
Quang), Cái đêm hôm ấy đêm gì (Phùng Gia Lộc), Người đàn bà quỳ (Trần
Khắc), Người lang thang không cô đơn (Minh Chuyên), Câu chuyện về một
vùng văn hóa (Võ Văn Trực), Đêm trắng (Hoàng Hữu Các), Câu chuyện về một
ông vua lốp (Nhật Linh),… Cho đến nay, chúng ta vẫn thấy sức tác động mạnh mẽ
của phóng sự "Cái đêm hôm ấy đêm gì" - Phùng Gia Lộc, thiên phóng sự cho thấy
sự trưởng thành của thể loại này ngay từ những năm đầu của công cuộc đổi mới văn
học.
Tiếp liền sau phóng sự không phải là truyện ngắn mà là một thời kì sôi nổi
của tiểu thuyết. Tiểu thuyết bùng phát, thăng hoa; tiểu thuyết lên ngôi trước truyện
ngắn. Đến lúc này, tiểu thuyết mới thể hiện vai trò "cột xương sống" của đời sống
văn học. Sau sự mở đầu của phóng sự là sự xuất hiện của hàng loạt những tiểu
29
thuyết gia lực lưỡng: Chu Lai viết đến 11 tiểu thuyết (tính đến năm 2004) , Lê Lựu
viết 7 tiểu thuyết, Ma Văn Kháng được gọi là “nhà tiểu thuyết lực lưỡng” với 8
cuốn tiểu thuyết, trong đó có những cái tên hết sức quen thuộc: Mùa lá rụng trong
vườn, Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ,… Bên cạnh đó là
những tiểu thuyết tạo “mắt bão”: Đất trắng – Nguyễn Trọng Oánh, Nỗi buồn
chiến tranh – Bảo Ninh, Ăn mày dĩ vãng - Chu Lai, Cù lao tràm – Nguyễn Mạnh
Tuấn, Sóng lừng – Triệu Xuân, Những mảnh đời đen trắng – Nguyễn Quang
Lập,...
Trong tính chất tiên phong của mình, phóng sự thể hiện vai trò kép: phóng sự
vừa là thể loại mở đường, thể loại "tiếp sức" đồng thời phóng sự cũng thâm nhập
vào tiểu thuyết, tạo nên một tố chất mới trong tiểu thuyết đương đại. Trần Thị Trâm
trong bài viết Báo chí và cuộc hành trình văn học đã khẳng định về vai trò thứ
nhất của phóng sự: "Có thể nói báo chí là nguồn động lực quan trọng, là cú hích
cho công cuộc đổi mới văn học" [214]. Với logic quanh co nằm sâu trong tương tác
thể loại, Nguyên Ngọc nói đến vai trò của phóng sự trong việc: thực sự đem đến cái
nhìn ấm nóng cho nhà văn trước thực tại. Chính phóng sự, như duyên nợ, một lần
nữa đã tạo điều kiện cho các nhà văn xuôi dò tìm ra, trui rèn nên ngôn ngữ nghệ
thuật mới của mình. Phóng sự đã thức tỉnh một cách nhìn mạnh dạn và thẳng thắn,
một thái độ dấn thân, nhập cuộc; phóng sự đã cung cấp những mảng tư liệu, chất
liệu sống cho tiểu thuyết.
Tiểu thuyết và phóng sự văn học thường có duyên với nhau là điều dễ hiểu
bởi những quan hệ gần gũi từ bên trong bản chất thể loại. Nôen Duytore cho rằng:
phóng sự văn học là thể loại trung gian giữa tiểu thuyết và phóng sự báo chí. Cùng
với hiện thực bề bộn, phức tạp, đa chiều của cuộc sống sau chiến tranh là tính chất
mở, tính chất tự do gần như vô tận của tiểu thuyết, đã làm cho phóng sự vốn đã phát
triển đến độ chín trước đó, thâm nhập mạnh mẽ vào trong cấu trúc của tiểu thuyết.
Quan điểm nhìn thẳng, nói thật của Đại hội VI có tính chất mở đường, chất phóng
sự trong tiểu thuyết mới chính là biểu hiện sinh động cho bước cách tân về cách
nhìn của văn học trước cuộc sống mới. Dễ dàng nhận thấy những tiểu thuyết vừa kể
30
ở trên hầu hết là những tiểu thuyết phóng sự. Sự tương tác giữa phóng sự và tiểu
thuyết Việt Nam trong chặng đường đầu của giai đoạn này là hình mẫu của kiểu
tương tác tổng hợp thể loại: phóng sự và tiểu thuyết hoà quyện một cách rất khó
phân tách trong cấu trúc tác phẩm. Ở đây cũng cần nói thêm rằng, hiện tượng này
xảy ra phổ biến hơn trong những năm đầu, khi tiểu thuyết vừa mới khởi động. Sau
đó, khi tính chất giao thời lắng xuống, quá trình tương tác tiếp diễn theo hình thức
"đổi ngôi": chất phóng sự ngày càng nhạt dần nhường chỗ cho những yếu tố thể loại
khác trong đặc tính mềm dẻo, rộng mở bất tận của tiểu thuyết.
Đọc những tiểu thuyết trong chặng đường đầu chúng ta dễ dàng nhận thấy sự
ngồn ngộn của bao vấn đề bỏng rát, bức bách của cuộc sống. Xét trong mối quan hệ
giữa văn học và hiện thực, độc giả sẽ thấy văn học gần với cuộc sống hơn, khoảng
cách giữa văn học và cuộc sống thực tại được rút ngắn hơn bao giờ hết; tốc độ, thời
gian để những vấn đề hiện thực tươi rói, nóng bỏng đi vào văn học cũng nhanh
chóng hơn.
Quả thực như vậy, chất phóng sự trong tiểu thuyết trước hết thể hiện ở sự đối
thoại một cách trực diện trước cuộc sống hiện tại, ở tính thời sự ấm nóng, ở tính
phản biện gay gắt của văn học với cuộc sống. Nhiều nhà tiểu thuyết chọn cho tác
phẩm của mình bức tranh hiện thực đương thời với góc nhìn hiện tại.
Cái tôi sắc bén và tinh nhạy trước những mảng hiện thực cuộc sống đương
thời bộc lộ rất rõ qua nhiều tác phẩm. Nguyễn Khải vốn có sở trường ở khía cạnh
này, nay được dịp khơi sâu thêm. Sau Nguyễn Khải, chất thời sự cuộc sống ngày
càng đậm đặc trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình
Phương, Nguyễn Việt Hà, Hoàng Minh Tường, Nguyễn Khắc Trường, Ma Văn
Kháng, Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Mai Ngữ, Đoàn Lê, Lại Văn
Long,… Chất phóng sự nằm ngay trong mảnh đất sở trường của Nguyễn Khải -
"Cái hôm nay": "Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang, bề bộn, bóng tối
và ánh sáng, màu đỏ với màu đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ, mới
thật là một mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai phá" [178]. Với mảnh
đất sở trường ấy, Nguyễn Khải dùng mũi nhọn tiểu thuyết để nhập cuộc, tham dự
31
vào nhiều chủ đề vốn hết sức "nhạy cảm", hóc búa, gai góc của cuộc sống bấy giờ.
Đó là chủ đề tôn giáo trong các tiểu thuyết: Thời gian của người, Điều tra về một
cái chết. Đó còn là sự va chạm giữa tư tưởng cũ và tư tưởng mới - một vấn đề hết
sức phức tạp trong giai đoạn giao thời những năm hậu chiến: Gặp gỡ cuối năm,
Một cõi nhân gian bé tí… Đọc tiểu thuyết Nguyễn Khải, có khi ta bắt gặp mô hình
một phóng sự điều tra, đúng như nhan đề của cuốn tiểu thuyết - Điều tra về một cái
chết; ở nhiều tiểu thuyết khác, ta bắt gặp những mô hình phóng sự chiến tranh:
Vòng sóng đến vô cùng, Thời gian của người, Một cõi nhân gian bé tí; phóng sự
xã hội: Gặp gỡ cuối năm, Điều tra về một cái chết, Vòng sóng đến vô cùng,
Thượng đế thì cười,…
Cũng như trong truyện ngắn, cái tôi chủ quan với chất giọng triết lí, tranh
biện của tác giả không hề có ý định giấu giếm sau bức màn hư cấu của tiểu thuyết,
ngược lại công khai xuất hiện, "xuất hiện lồ lộ" trong tác phẩm. Trong tiểu thuyết
Nguyễn Khải, cái tôi tác giả trực tiếp triết lí, công khai tranh luận, trực diện bộc lộ
chính kiến, quan điểm của mình trước những vấn đề gai góc, nóng bỏng của thời
cuộc. Trong Thời gian của người, tác giả không trần thuật ở ngôi thứ ba mà xuất
hiện trong tác phẩm bằng nhân vật xưng "tôi". Cái tôi ấy “làm nhiệm vụ hỏi, nghe,
ghi, khi cần thì giải thích, đôi khi cũng cao đàm khoát luận nhưng lại tự giễu mình
ngay sau đó. Giọng kể của nhà văn dễ dàng, thông thoáng như đối mặt mà trò
chuyện” [233]. Thời gian của người là câu chuyện của bốn người bạn, họ gặp nhau
để cùng nhìn lại một quãng đời của mình. Chừng ấy con người nhưng với tầm hiểu
biết sâu, rộng, cặn kẽ về nhiều vấn đề, tác giả đã dẫn ta tản mạn vào những lĩnh vực
khác nhau: khi thì thần học, khi thì về những con người anh dũng của dân tộc; khi
lại làm một phóng sự điều tra, theo chân anh tình báo tầm cỡ len lỏi vào những mưu
đồ tối mật của các vị có máu mặt trong chế độ Mỹ -Thiệu. Có điều, đôi khi ta cứ
ngỡ ngòi bút ấy quá lan man, sa đà nhưng thật thú vị khi cuối cùng tất cả châu tuần
vào một âm hưởng chủ đạo: sự khẳng định quá khứ, qua đó cũng chính là khẳng
định ngày hôm nay.
32
Phóng sự cũng phản ánh những bức chân dung đẹp của cuộc sống, cũng nêu
gương "người tốt việc tốt" nhưng là thể loại thấm đẫm chất hiện thực nên mũi nhọn
của phóng sự là đi vào những điểm nóng để phát hiện, để phê phán, để rung hồi
chuông cảnh tỉnh. Bước vào thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết Tạ Duy Anh là bước
vào một thế giới với bao tăm tối, ngột ngạt, bao góc khuất cần phải được soi sáng.
Có thể thấy, màu đen là phông nền, là gam màu chủ đạo trong tiểu thuyết của nhà
văn "luôn làm bạn đọc giật mình và suy ngẫm bởi những vấn đề gai góc của xã hội
hiện đại này" [301]. Trả lời phỏng vấn báo chí, Tạ Duy Anh trực tiếp phát ngôn về
luận điểm này: "Tôi là người thích đi mấp mé bên bờ vực của cái ác và cái thiện với
hi vọng có thể soi rọi vào nó ở những phần khuất lấp ít người chạm tới" (Thiên
thần sám hối - phần dư luận) [6, tr159]. Ngay nhan đề những cuốn tiểu thuyết của
ông đã bao hàm xu hướng phản biện gay gắt trước những vấn nạn, những câu hỏi
bức bối của cuộc sống hôm nay: Lão Khổ, Thiên thần sám hối, Giã biệt bóng tối,
Đi tìm nhân vật, Sinh ra để chết…
Lão Khổ hướng đến mổ xẻ một vết thương vẫn không thôi nhức nhối: vấn
đề cải cách ruộng đất và những mối thâm thù truyền kiếp như một thứ tội tổ tông
vẫn dai dẳng làm lao đao bao thế hệ. Đi tìm nhân vật được viết dưới hình thức một
cuộc truy tìm thủ phạm về vụ giết chết thằng bé đánh giày của nhân vật "tôi". Dưới
hình thức ấy, nhân vật "tôi" - có thể trùng khít hoặc không hoàn toàn trùng khít với
tác giả - đã nhập cuộc, lên đường truy tìm cái ác, truy tìm thủ phạm giết người.
Bằng lối kể tuyến tính trong hành trình nhập cuộc của nhân vật tôi, câu chuyện
được làm dày thêm mãi bởi bao bức tranh khác nhau của cuộc sống. Theo chân tác
giả, người đọc được "lùng sục" vào thế giới của bóng đêm với bao cửa hiệu trá hình,
quán bar, vũ trường, khách sạn,… Những cái tên cửa hiệu ta vẫn bắt gặp nhan nhản
ngoài đường phố được đưa vào tiểu thuyết vô tình hay hữu ý gợi ta nhớ đến thiên
tiểu thuyết phóng sự Số đỏ của Vũ Trọng Phụng: người đọc được lang thang từ cửa
hiệu "Hơn cả sự gợi cảm", "Bướm xanh" đến quán bar "Cảm giác thiên đường",
khách sạn "Cổng vòm"; từ những khu ổ chuột nhầy nhụa, rách nát đến những quán
nước không tên, từ thế giới của bóng đêm đến cuộc sống nhếch nhác của những con
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện

More Related Content

What's hot

Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.comNghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX nataliej4
 

What's hot (20)

Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đQuan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
 
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAYLuận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAYLuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
 
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đLuận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
 
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đThế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
 
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hửLuận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
 
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
 
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần DầnLuận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần
 
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.comNghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết hồ anh tháitruonghocso.com
 
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOTCảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
 
Luận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đ
Luận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đLuận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đ
Luận văn: Đặc điểm nghệ thuật truyện của Kawabata Yasunari, 9đ
 
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOTLuận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
 
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
Đề tài: Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
 
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOTLuận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
 
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt namLuận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
 
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
 
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế HươngLuận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
 
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAYLuận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
 

Similar to Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện

Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...Man_Ebook
 
Tailieu.vncty.com the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
Tailieu.vncty.com   the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975Tailieu.vncty.com   the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
Tailieu.vncty.com the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975Trần Đức Anh
 
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...Thế Giới Tinh Hoa
 
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docxChuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docxhiutrn809713
 
ĐỀ TÀI : TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI NHÌN TỪ ĐẶC TRƢNG PHẢN ÁNH NGHỆ...
ĐỀ TÀI : TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI NHÌN TỪ ĐẶC TRƢNG PHẢN ÁNH NGHỆ...ĐỀ TÀI : TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI NHÌN TỪ ĐẶC TRƢNG PHẢN ÁNH NGHỆ...
ĐỀ TÀI : TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI NHÌN TỪ ĐẶC TRƢNG PHẢN ÁNH NGHỆ...Luận Văn 1800
 
Tiểu thuyết Việt Nam thời kì Đổi mới đặc trưng phản ánh nghệ thuật - Gửi miễn...
Tiểu thuyết Việt Nam thời kì Đổi mới đặc trưng phản ánh nghệ thuật - Gửi miễn...Tiểu thuyết Việt Nam thời kì Đổi mới đặc trưng phản ánh nghệ thuật - Gửi miễn...
Tiểu thuyết Việt Nam thời kì Đổi mới đặc trưng phản ánh nghệ thuật - Gửi miễn...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...NuioKila
 
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...nataliej4
 

Similar to Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện (20)

Luận án: Nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010, HAY
Luận án: Nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010, HAYLuận án: Nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010, HAY
Luận án: Nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010, HAY
 
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAYLuận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và InrasaraLuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
 
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAYLuận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
 
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bảnLuận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản
 
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh TháiĐặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
 
Luận văn: Quyền sống của con người trong truyện kiều của nguyễn du
Luận văn: Quyền sống của con người trong truyện kiều của nguyễn duLuận văn: Quyền sống của con người trong truyện kiều của nguyễn du
Luận văn: Quyền sống của con người trong truyện kiều của nguyễn du
 
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết sương mù tháng giêng của uông triều (2017...
 
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt NamLuận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
 
Tailieu.vncty.com the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
Tailieu.vncty.com   the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975Tailieu.vncty.com   the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
Tailieu.vncty.com the loai-tuy_but_trong_van_hoc_viet_nam_tu_1930_den_1975
 
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...
Lược đồ văn học quốc ngữ việt nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác t...
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXILuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
 
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂMLuận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
Luận văn: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học, 9 ĐIỂM
 
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docxChuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
Chuyên đề VĂN HỌC HIỆN THỰC 30-45.docx
 
ĐỀ TÀI : TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI NHÌN TỪ ĐẶC TRƢNG PHẢN ÁNH NGHỆ...
ĐỀ TÀI : TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI NHÌN TỪ ĐẶC TRƢNG PHẢN ÁNH NGHỆ...ĐỀ TÀI : TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI NHÌN TỪ ĐẶC TRƢNG PHẢN ÁNH NGHỆ...
ĐỀ TÀI : TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI NHÌN TỪ ĐẶC TRƢNG PHẢN ÁNH NGHỆ...
 
Tiểu thuyết Việt Nam thời kì Đổi mới đặc trưng phản ánh nghệ thuật - Gửi miễn...
Tiểu thuyết Việt Nam thời kì Đổi mới đặc trưng phản ánh nghệ thuật - Gửi miễn...Tiểu thuyết Việt Nam thời kì Đổi mới đặc trưng phản ánh nghệ thuật - Gửi miễn...
Tiểu thuyết Việt Nam thời kì Đổi mới đặc trưng phản ánh nghệ thuật - Gửi miễn...
 
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
 
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
 
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạnLuận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
 
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOTLuận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
 

More from Man_Ebook

BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdf
BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdfBÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdf
BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdfMan_Ebook
 
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.doc
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.docTL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.doc
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.docMan_Ebook
 
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdf
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdfGiáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdf
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdf
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdfGiáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdf
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdf
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdfGiáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdf
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdf
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdfGiáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdf
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình lập trình web - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình web  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình lập trình web  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình web - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình lập trình .Net - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình .Net  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình lập trình .Net  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình .Net - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình lập trình song song - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình song song  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình lập trình song song  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình song song - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình lập trình hướng đối tượng.pdf
Giáo trình lập trình hướng đối tượng.pdfGiáo trình lập trình hướng đối tượng.pdf
Giáo trình lập trình hướng đối tượng.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình lập trình hướng đối tượng Java.pdf
Giáo trình lập trình hướng đối tượng Java.pdfGiáo trình lập trình hướng đối tượng Java.pdf
Giáo trình lập trình hướng đối tượng Java.pdfMan_Ebook
 
Giáo trình kỹ thuật phản ứng - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình kỹ thuật phản ứng  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình kỹ thuật phản ứng  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình kỹ thuật phản ứng - Trường ĐH Cần Thơ.pdfMan_Ebook
 

More from Man_Ebook (20)

BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdf
BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdfBÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdf
BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdf
 
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.doc
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.docTL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.doc
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.doc
 
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdf
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdfGiáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdf
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdf
 
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdf
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdfGiáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdf
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdf
 
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdf
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdfGiáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdf
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdf
 
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdf
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdfGiáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdf
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdf
 
Giáo trình lập trình web - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình web  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình lập trình web  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình web - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình lập trình .Net - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình .Net  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình lập trình .Net  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình .Net - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình lập trình song song - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình song song  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình lập trình song song  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình song song - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình lập trình hướng đối tượng.pdf
Giáo trình lập trình hướng đối tượng.pdfGiáo trình lập trình hướng đối tượng.pdf
Giáo trình lập trình hướng đối tượng.pdf
 
Giáo trình lập trình hướng đối tượng Java.pdf
Giáo trình lập trình hướng đối tượng Java.pdfGiáo trình lập trình hướng đối tượng Java.pdf
Giáo trình lập trình hướng đối tượng Java.pdf
 
Giáo trình kỹ thuật phản ứng - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình kỹ thuật phản ứng  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình kỹ thuật phản ứng  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình kỹ thuật phản ứng - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 

Recently uploaded

SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào môBryan Williams
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11zedgaming208
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx22146042
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )lamdapoet123
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdfdong92356
 

Recently uploaded (20)

SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
 

Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện

  • 1. BOÄ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM THAØNH PHOÁ HOÀ CHÍ MINH TRAÀN VIEÁT THIEÄN SÖÏ TÖÔNG TAÙC THEÅ LOAÏI TRONG VAÊN XUOÂI VIEÄT NAM TÖØ 1986 ÑEÁN NAY Chuyeân ngaønh: VAÊN HOÏC VIEÄT NAM Maõ soá: 62 22 34 01 LUAÄN AÙN TIEÁN SÓ NGÖÕ VAÊN Ngöôøi höôùng daãn khoa hoïc: PGS.TS. NGUYEÃN THAØNH THI PGS.TS. TRAÀN HÖÕU TAÙ Thaønh phoá Hoà Chí Minh - Naêm 2012
  • 2. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác. TP. Hồ Chí Minh, ngày 07 tháng 12 năm 2011 Trần Viết Thiện
  • 3. ii MỤC LỤC 1. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI............................................................................ 1 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ................................................................ 2 3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ.......................................................................................................... 3 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................................................12 5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN...............................................................................14 6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN........................................................................................15 NỘI DUNG.........................................................................................................................16 CHƯƠNG 1. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG VĂN HỌC VÀ SỰ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY – NHÌN TỪ TIỂU THUYẾT ............................................................................................................................16 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG VĂN HỌC ............................................................................................................16 1.1.1. SỰ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI BẮT NGUỒN TỪ CHÍNH ĐẶC TRƯNG CỦA THỂ LOẠI VĂN HỌC................................................................16 1.1.2. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG "THỜI CỦA TIỂU THUYẾT"........19 1.1.3. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG VĂN HỌC LÀ HIỆN TƯỢNG HẾT SỨC ĐA DẠNG, ĐA CHIỀU ....................................................................23 1.2. SỰ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY - NHÌN TỪ TIỂU THUYẾT......................................................................................26 1.2.1. SỰ TRỞ LẠI CỦA CÁC THỂ KÍ TRONG TIỂU THUYẾT...................26 1.2.2. SỰ "TIẾP SỨC" CỦA LOẠI HÌNH KỊCH TRONG TIỂU THUYẾT.....43 1.2.3. TRUYỆN NGẮN TRONG TIỂU THUYẾT.............................................54 1.2.4. HUYỀN THOẠI TRONG TIỂU THUYẾT..............................................63 CHƯƠNG 2. SỰ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY - NHÌN TỪ TRUYỆN NGẮN................................................................72 2.1. DÒNG TRỮ TÌNH TRONG TRUYỆN NGẮN ..........................................................72 2.2. HUYỀN THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN ..............................................................87 2.3. TIỂU THUYẾT TRONG TRUYỆN NGẮN..............................................................116
  • 4. iii CHƯƠNG 3. NHỮNG TÍN HIỆU MỚI CỦA VĂN XUÔI VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY - NHÌN TỪ SỰ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI............................................................136 3.1. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI VÀ SỰ VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN MẠNH MẼ CỦA THỂ LOẠI.........................................................................................................................136 3.1.1. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI VÀ SỰ VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN CỦA TIỂU THUYẾT..................................................................................................137 3.1.2. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI VÀ SỰ VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN CỦA TRUYỆN NGẮN...............................................................................................141 3.2. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI VÀ SỰ MỞ RỘNG TRƯỜNG PHẢN ÁNH VỀ HIỆN THỰC VÀ CON NGƯỜI..................................................................................................147 3.2.1. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI VÀ SỰ MỞ RỘNG TRƯỜNG PHẢN ÁNH VỀ HIỆN THỰC................................................................................................149 3.2.2. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI VÀ SỰ MỞ RỘNG TRƯỜNG PHẢN ÁNH VỀ CON NGƯỜI...............................................................................................153 3.3. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI VÀ SỰ ĐỔI MỚI MẠNH MẼ CÁC PHƯƠNG DIỆN THI PHÁP THỂ LOẠI......................................................................................................167 3.3.1. PHƯƠNG THỨC TRẦN THUẬT..........................................................167 3.3.2. NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU...................................................................176 KẾT LUẬN.......................................................................................................................189 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN.................................195 ĐẾN LUẬN ÁN................................................................................................................195 TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................196
  • 5. 1 MỞ ĐẦU 1. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI Thể loại và sự vận động của thể loại là một phương diện hết sức quan trọng trong việc nghiên cứu văn học hiện đại. M. Bakhtin đặc biệt đề cao việc nghiên cứu sự vận động thể loại trong những thời đại tiểu thuyết tham gia "chính sự", tiểu thuyết trở thành một thể loại chủ đạo. Trong những thời đại ấy, thể loại là “nhân vật chính” của tiến trình văn học còn “trào lưu, trường phái chỉ là nhân vật hạng nhì, hạng ba” [27]. Ở những thời đại như thế, cuộc đấu tranh giữa các trào lưu, trường phái văn học trở thành "một hiện tượng ở ngoài rìa và nhỏ nhặt về lịch sử"; đằng sau đó, có một cuộc đấu tranh sâu sắc hơn và mang tính lịch sử hơn: đó là cuộc đấu tranh giữa các thể loại, "sự biến thái và phát triển của cái nòng cốt thể loại văn học" [27, tr25]. Đời sống thực tiễn của văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay có những trăn trở đổi mới và ý thức “tự vượt mình” mạnh mẽ về mặt thể loại. Văn xuôi lên ngôi, tiểu thuyết trở thành thể loại thống ngự. Sự có mặt của tiểu thuyết với tư cách là cột xương sống - một loại hình “công nghiệp nặng”, đã thực sự là chất xúc tác, quyết định căn cốt diện mạo của một nền văn học hiện đại. Nhưng quan trọng hơn, sự hiện diện của tiểu thuyết đã tạo nên quan hệ tương tác sâu sắc giữa các thể loại, làm cho “tất cả các thể loại bắt đầu âm vang một cách khác”. Một hệ quả đáng quý mà nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã phát hiện ra là: “Nghệ sĩ lớn thường tiếp thu các truyền thống thể loại khác nhau, tạo ra các hình thức thể loại mới” [209]. Sự biến đổi đó làm cho: “Về mặt lí thuyết, cho tới hôm nay, giới nghiên cứu văn học và ngay cả nhà văn cũng không còn thỏa mãn với những công cụ đã có “tính cổ điển” (Nguyễn Hòa). Sự bứt phá của những tài năng tạo nên “tính không nhất quán” của thể loại. Nhiều tác phẩm văn xuôi đã “bung ra” khỏi những khuôn khổ thể loại chật hẹp để đem đến hiệu quả phản ánh mới cho văn học. Thể loại và sự vận động biến đổi đầy sáng tạo của nó chính là "nguồn cơn" chủ yếu tạo nên những tín hiệu mới của văn xuôi giai đoạn này. Do vậy, tác giả luận án rất đồng tình với mệnh đề của Vũ Tuấn Anh: một phương diện quan trọng - nếu không muốn nói là quan trọng hơn cả - để
  • 6. 2 nhận thức một giai đoạn văn học là khảo sát những biến đổi trên mặt bằng thể loại cũng như những biến thái tinh vi bên trong đời sống của mỗi thể loại. Nói cách khác, chân dung của một thời đại văn học được soi chiếu khá rõ qua tấm gương thể loại. Nghiên cứu văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay từ góc nhìn tương tác thể loại vì thế là một đề tài còn mới mẻ và rất có ý nghĩa. Chọn đề tài này, tác giả luận án mong muốn đi sâu nghiên cứu vấn đề một cách hệ thống với cấu trúc lập luận theo hướng quy nạp để: từ sự biểu hiện sinh động của tương tác thể loại trong các thể loại văn xuôi chủ đạo; đi đến những vấn đề có tính "nhận thức luận" về những tín hiệu mới của văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay. Với cách đặt vấn đề như vậy, hi vọng luận án có thể góp thêm một góc nhìn mới về văn xuôi giai đoạn này. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phương diện tương tác thể loại trong cấu trúc chỉnh thể các thể loại văn xuôi Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay. Khái niệm văn xuôi ở đây được hiểu là văn xuôi nghệ thuật. Các thể loại văn xuôi của một giai đoạn văn học đổi mới là rất phong phú. Tương tác thể loại, nếu hiểu theo nghĩa chặt chẽ của từ này phải là sự tác động qua lại lẫn nhau của ít nhất hai thể loại, như vậy, nghiên cứu tương tác thể loại trong văn xuôi thì phải nghiên cứu tất cả các thể loại văn xuôi với tất cả các mối quan hệ tương tác của nó. Thế nhưng, đây là giai đoạn văn học mà tiểu thuyết và truyện ngắn là hai thể loại chủ đạo đồng thời cũng là hai thể loại thể hiện tập trung các quan hệ tương tác của cả giai đoạn văn học nên luận án chọn hai thể loại trên làm đối tượng trung tâm. Đặt vấn đề nghiên cứu theo cấu trúc quy nạp, luận án xem xét sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay từ góc độ của hai thể loại chủ đạo này: Chương 1, nhìn từ tiểu thuyết; chương 2: nhìn từ truyện ngắn. Nghiên cứu tương tác thể loại là nghiên cứu văn học trong sự vận động, biến đổi. Nghiên cứu tương tác thể loại vì vậy còn là nghiên cứu văn học trong các mối quan hệ nhân quả với các bộ phận, các thời kì, các giai đoạn liên quan tới nó. Do
  • 7. 3 đó, đối tượng nghiên cứu của luận án còn có sự mở rộng đến vấn đề thể loại và sự vận động của thể loại nói chung. Về phạm vi nghiên cứu: Khoảng thời gian "từ 1986 đến nay" chỉ có ý nghĩa tướng đối. Nghiên cứu tương tác thể loại là nghiên cứu văn học trong thế động, trong tính mở; do vậy mốc 1986 không thể được hiểu một cách máy móc, cơ học rằng: chỉ những tác phẩm ra đời từ năm 1986 mới thuộc phạm vi của đề tài này. Ngược lại, có những mầm mống, thậm chí, có cả những nỗ lực đổi mới từ rất sớm so với mốc thời gian Đại hội VI; luận án rất trân trọng và đề cao vai trò của những hiện tượng văn học này. Giai đoạn văn học từ 1986 đến nay vẫn đang sinh thành, tiếp diễn; những vấn đề thời sự văn học vẫn đang đồng hành cùng quá trình nghiên cứu của luận án. Do vậy, cần có một giới hạn về mặt thời gian cho từ "đến nay", "đến nay" được tính đến năm 2007, khi tác giả đề tài bắt đầu luận án. Nói về thể loại văn xuôi đã rất phong phú, đa dạng; nói về tác giả, tác phẩm lại càng phong phú, đa dạng hơn. Luận án không quả quyết đã bao quát hết toàn bộ văn xuôi giai đoạn này mà chỉ nghiên cứu những tác giả, tác phẩm tiêu biểu có sự thể hiện dấu ấn tương tác thể loại. 3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Tương tác thể loại là vấn đề khá mới mẻ, tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam đương đại lại càng mới mẻ hơn. Do vậy, về lịch sử vấn đề, luận án không có được sự dày dặn, phong phú với nhiều công trình, nhiều bài viết như một số đề tài khác. Tuy không phải đã thành đường mòn nhưng cũng không phải chưa có ai từng đi trên con đường này. Sự sinh động, giàu ý nghĩa của phương diện tương tác thể loại nói chung; tương tác thể loại trong văn học Việt Nam hiện đại nói riêng đã thực sự có sức thu hút đối với một số nhà nghiên cứu. Cũng có những trường hợp, tuy không sử dụng cụm từ tương tác thể loại nhưng do sự biểu hiện tiềm tàng của tương tác thể loại trong đời sống văn học nên đây đó, trong khi nghiên cứu về khuynh hướng, trào lưu; hay khi tổng kết về phong cách, thành tựu, các nhà nghiên cứu một cách ngẫu nhiên cũng đã từng đề cập đến vấn đề này.
  • 8. 4 Chúng tôi chia lịch sử nghiên cứu vấn đề thành hai cấp độ: các công trình, bài viết về sự vận động thể loại nói chung và các công trình, bài viết về sự vận động thể loại trong văn học hiện đại Việt Nam. 3.1. CÁC CÔNG TRÌNH, BÀI VIẾT VỀ SỰ VẬN ĐỘNG THỂ LOẠI NÓI CHUNG Nghiên cứu tương tác thể loại trong văn học hiện đại không thể không nhắc đến các chuyên luận của M. Bakhtin: Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Những vấn đề thi pháp Đoxtoiepxki. Đặc biệt, ngay từ năm 1941, trong bài viết "Tiểu thuyết như một thể loại văn học" (In trong chuyên luận Lí luận và thi pháp tiểu thuyết), tuy không dùng đến khái niệm tương tác thể loại nhưng M. Bakhtin đã đưa ra những luận điểm quan trọng nhất về một "cuộc đấu tranh sâu sắc hơn và mang tính lịch sử hơn giữa các thể loại, sự biến thái và phát triển cái nòng cốt thể loại của văn học" [27]. Ông đề cao vai trò của tiểu thuyết trong việc tác động, khuấy đảo tạo nên những quan hệ không hài hoà giữa các thể loại: lấn át thể loại này, thu hút thể loại kia vào trong cấu trúc của mình, biện giải lại và sắp xếp lại trọng tâm cho chúng. Tiểu thuyết xúc tác làm đổi mới tất cả các thể loại khác. Do vậy, vào những thời đại tiểu thuyết thống ngự, tiểu thuyết về nhiều phương diện, đã và đang báo trước sự phát triển tương lai của toàn bộ văn học. Trong công trình này, M.Bakhtin cũng nêu quan điểm về tính uyển chuyển, linh hoạt, tính vượt rào và tính không quy phạm của thể loại này. Nghiên cứu tương tác thể loại, trước hết phải định danh được về mặt khái niệm. Trong công trình Lí luận văn học (Phương Lựu chủ biên, Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội, 1997), chương "Thể loại của tác phẩm văn học" do Trần Đình Sử phụ trách đã cho chúng ta những tiền đề lí luận cần thiết để nhận thức về khái niệm tương tác thể loại. Trần Đình Sử đề cập đến khái niệm thể loại cũng như sự phân loại văn học và phân chia thể loại tác phẩm. Ông cũng đề cập đến "đặc trưng kép" của thể loại văn học: thể loại vừa có các yếu tố ổn định, truyền thống; lại vừa có các yếu tố vận động, đổi mới do sự phát triển văn học và tài năng sáng tạo của nhà văn. Từ đặc trưng ấy, ngay trong việc nghiên cứu thể loại, Trần Đình Sử đã đề xuất những điều kiện cần và đủ của nhà nghiên cứu: muốn nhận thức đặc điểm của một
  • 9. 5 thể loại có giá trị, người ta vừa phải có tri thức về các quy luật lặp lại của các thể loại, lại vừa phải biết nhận ra tính độc đáo trong sự vận dụng sáng tạo thể loại của tác giả. Đây là những tiền đề lí luận quan trọng cho việc triển khai vấn đề. Muốn nhận thức về sự tương tác thể loại thì trước hết cần nắm được đặc trưng của từng thể, cũng như từng loại; phải nhận chân cho được cái nòng cốt bất biến của mỗi loại/thể. Cuốn Logic học về các thể loại văn học của Kate Hamburger [95] cung cấp cho đề tài nhiều tiền đề về logic thể loại. Xuất phát từ các cơ sở ngôn ngữ học, bà đưa ra những đặc trưng của các thể loại mô phỏng như sử thi, kịch; các đặc trưng của thể loại trữ tình,… Nhưng quan trọng hơn, bà đã dành hẳn một chương để nói về các thể loại đặc biệt hay còn gọi là hỗn hợp như: ballade, truyện kể ở ngôi thứ nhất, tiểu thuyết thư tín, tiểu thuyết – hồi kí,… Những thể loại hỗn hợp đó tiềm tàng trong văn xuôi Việt Nam từ sau đổi mới. Do vậy, chuyên luận trên đã gợi mở cho tác giả luận án nhiều hướng nhìn thú vị. Năm bài giảng về thể loại của Hoàng Ngọc Hiến một lần nữa cho ta những đặc trưng của năm thể loại quan trọng trong văn học hiện đại, đặc biệt là tiểu thuyết. Có ý nghĩa hơn, đó là bài viết: "Đặc điểm của truyện ngắn hiện đại". Trong những đặc điểm của truyện ngắn hiện đại có đến hai đặc điểm thể hiện sự thậm nhập của các thể loại vào truyện ngắn: truyện ngắn hiện đại gần với thơ và truyện ngắn hiện đại gần với kịch. Luôn luôn tồn tại bên cạnh tiểu thuyết và rất khó khu biệt rạch ròi về ranh giới thể loại với tiểu thuyết, đó chính là truyện ngắn. Với quan niệm tương tác thể loại nằm trong chính đặc trưng của loại thể, công trình Truyện ngắn – lí luận tác gia và tác phẩm của Lê Huy Bắc trong khi đề cập đến "Truyện ngắn như một thể loại" đã lưu tâm đến những tác phẩm có sự giao thoa của hai thể loại nói trên. Bài viết cũng đề cập đến sự ảnh hưởng qua lại giữa truyện ngắn và thơ, sự gần nhau giữa truyện ngắn và kịch... Nếu các công trình trên quan tâm đến thể loại và sự tác động qua lại của một số thể loại văn học thì chuyên khảo Thi pháp của huyền thoại (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội) chỉ đề cập đến diễn trình của một thể loại duy nhất: đó là các sáng tác huyền thoại. Trong chuyên khảo này, nhà huyền thoại học nổi tiếng thế giới E.
  • 10. 6 M. Meletinsky đã xem xét các sáng tác huyền thoại một cách hệ thống: bắt đầu từ những hình thức cổ xưa nhất cho đến những biểu hiện của chủ nghĩa huyền thoại trong văn học thế kỉ XX. Ông đặc biệt dành sự lưu tâm đến tầm ảnh hưởng, tác động của huyền thoại đối với xã hội hiện đại nói chung, văn học nghệ thuật nói riêng: "Huyền thoại là thế giới, là mảnh đất mà trên đó chỉ có các tác phẩm nghệ thuật là có thể thăng hoa và phát triển" [215]. E. M. Meletinsky cho thấy tính quanh co, dích dắc của những mối quan hệ thể loại ngoài hệ thống. Theo đó, huyền thoại trong văn học thế giới diễn ra hai quá trình: quá trình "giải huyền thoại hóa" và quá trình "tái huyền thoại hóa". Đặc biệt, xu hướng "tái huyền thoại hóa" diễn ra vừa mạnh mẽ vừa sâu rộng trong văn học thế giới thế kỉ XX là những tiền đề cần thiết để xem xét vấn đề mang tính quy luật chung của huyền thoại trong văn xuôi đương đại Việt Nam. Cũng đề cập đến phương diện này, bài viết "Phương thức huyền thoại trong sáng tác văn học" của Phùng Văn Tửu (in trong tập Những huyền thoại của Roland Barthes - NXB Tri thức, 2008) từ việc xem huyền thoại là những biểu tượng đa nghĩa cần phải giải mã, đã đi sâu đề cập đến huyền thoại như một phương thức nghệ thuật đang có xu hướng trở thành một trong những kĩ thuật sáng tác của tiểu thuyết hiện đại. Sự tác động của huyền thoại đến văn xuôi Việt Nam sau 1986 vì vậy cũng được tác giả lưu tâm ghi nhận. 3.2. CÁC CÔNG TRÌNH, BÀI VIẾT VỀ SỰ VẬN ĐỘNG THỂ LOẠI TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI Nghiên cứu văn học hiện đại Việt Nam từ phương diện tương tác thể loại là một hướng nghiên cứu mới, được một số công trình gần đây quan tâm. Đề tài cấp bộ: Sự tương tác của các thể loại trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945 do TS. Tôn Thất Dụng chủ nhiệm đề tài là công trình đầu tiên đặt vấn đề nhìn diện mạo và đặc điểm văn học một giai đoạn từ hướng tương tác thể loại. Qua bức tranh sinh động của đời sống tương tác thể loại được chứng minh bằng nhiều cứ liệu tác giả, tác phẩm; các tác giả đề tài giúp chúng ta có cái nhìn khái quát và sâu sắc hơn về văn học đầu thế kỉ. Đây là cơ sở để chúng ta có cái nhìn so sánh nhằm nhận diện văn xuôi giai đoạn từ 1986 đến nay một cách khoa học và thuyết phục hơn.
  • 11. 7 Cùng với đề tài của Tôn Thất Dụng, qua bài viết "Sự tương tác giữa các thể loại văn học và thể thơ văn xuôi trong thơ mới 1932 - 1945", Nguyễn Phong Nam đã đi sâu xem xét tương tác thể loại trong một phong trào thơ có nhiều thành tựu. Ở đây, ông đã tập trung phân tích về sự tác động của các thể loại đối với việc hình thành những thể thơ rất đa dạng và đầy sáng tạo trong Thơ mới 1932 - 1945. Bên cạnh công trình nghiên cứu tương tác thể loại của Tôn Thất Dụng, tác giả luận án rất quan tâm đến công trình gần đây của Nguyễn Thành Thi, tập tiểu luận - phê bình: Văn học, thế giới mở. Ngay nhan đề của tập tiểu luận - phê bình cùng với quan điểm được thể hiện nhất quán trong công trình này: văn học, thế giới mở đã gợi mở cho luận án một số tiền đề rất quan trọng. Nguyễn Thành Thi dành hẳn một phần với dung lượng hơn một trăm trang sách để tập trung nhìn văn học dưới góc độ tương tác: "Một góc nhìn văn học quốc ngữ Việt Nam: vận động và tương tác". Trong phần này, có bài viết bàn về một mối quan hệ tương tác cụ thể: "Mấy ghi nhận về tương tác tiểu thuyết - truyện ngắn và sự biến đổi nòng cốt của hai thể loại này", có bài viết đề cập đến kết quả tương tác thể loại trong một số tác phẩm cụ thể: Xu hướng tổng hợp thể loại trong "Ngày xưa của Nguyễn Nhược Pháp", "Về tính "phức thể" loại hình và sự hiện diện của "kí" trong văn thơ Hồ Chí Minh",… Đặc biệt, nếu đề tài cấp bộ của Tôn Thất Dụng hướng đến đối tượng là văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX - 1945 thì ở phần này, Nguyễn Thành Thi vẽ: "Lược đồ" văn học quốc ngữ Việt Nam nhìn từ quá trình hình thành và tương tác thể loại. Ở đây, Nguyễn Thành Thi là người đầu tiên mạnh dạn định nghĩa cũng như phân loại hiện tượng tương tác thể loại trong suốt một thế kỉ văn học hiện đại Việt Nam. Trần Ngọc Dung góp thêm một tiếng nói về thể loại qua bài viết: “Đời sống thể loại văn học sau 1975". Ở đây, Trần Ngọc Dung chủ yếu đi sâu vào cấu trúc tác phẩm để thấy được những biến đổi về mặt thể loại của văn học sau 1975 so với văn học 1945 - 1975. Trong những biến đổi đó, tuy không dùng đến khái niệm này, nhưng ông hết sức lưu tâm đến một số hiện tượng văn học kết tinh thành tựu của tương tác thể loại. Tương tác truyện ngắn - tiểu thuyết: "Không chỉ tiểu thuyết mà truyện vừa và truyện ngắn cũng có những biến đổi sâu sắc về mặt thể loại. Do ảnh hưởng của tư duy tiểu
  • 12. 8 thuyết nên các truyện này có sức chứa lớn hơn kích thước vốn có của chúng" [61, tr.95]. Tương tác tiểu thuyết - kí, phóng sự: "Các tiểu thuyết của Nguyễn Mạnh Tuấn như Đứng trước biển, Cù lao tràm đều có dấu vết của kí và phóng sự trong đó". Trong tương quan so sánh, ông cũng nhận thấy hiện tượng tương tác thể loại trong văn xuôi 1945 - 1975: "có một đặc điểm nổi bật là trong văn xuôi 1945 - 1975, truyện và kí thâm nhập, ảnh hưởng nhau đậm nét, tạo thành mô hình truyện kí và truyện người thật việc thật" [61, tr.97]. Bên cạnh các cuốn sách quy tụ, tập hợp nhiều ý kiến là các luận án đi sâu nghiên cứu về văn xuôi giai đoạn này. Luận án của Nguyễn Thị Bình quan tâm đến Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 - Khảo sát trên nét lớn, trong đó có một nét lớn rất quan trọng, đó là đổi mới về phương diện thể loại. Luận án Những đặc điểm của văn xuôi Việt Nam cuối những năm 80 đầu những năm 90 của Hoàng Thị Hồng Hà lại đề cập đến những đặc điểm của văn xuôi, trong đó có: một quan niệm mới về con người, những đổi mới về ngôn ngữ và giọng điệu. Tác giả cũng cho ta một cái nhìn sinh động về diện mạo văn xuôi trong những năm có nhiều đột phá của văn học dân tộc. Luận án của Trần Thị Mai Nhân quan tâm đến: Những đổi mới trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000. Trong công trình này, tác giả luận án cũng dành dung lượng khá lớn cho vấn đề đổi mới tư duy thể loại. Tuy không trực tiếp nói đến góc nhìn tương tác thể loại, nhưng sự đi sâu phân tích cấu trúc nội dung và hình thức tiểu thuyết giai đoạn này đã cho chúng ta những thông tin ý nghĩa để đối sánh giữa các hướng tiếp cận vấn đề. Dưới góc độ văn học sử còn có nhiều bài viết, trực tiếp hoặc gián tiếp quan tâm đến vấn đề này. Từ những tiền đề lí luận của M. Bakhtin, Vũ Tuấn Anh lại đi vào "Đời sống thể loại trong quá trình văn học đương đại". Bài viết cung cấp một cái nhìn khái quát về đời sống thể loại trong văn học sau 1975; đặc biệt, Vũ Tuấn Anh luôn lưu tâm đến phương diện tương tác thể loại. Ông đặc biệt đề cao góc nhìn thể loại: theo ông, mỗi giai đoạn văn học là một chỉnh thể thẩm mĩ thống nhất, trong đó có sự liên kết và tác động lẫn nhau giữa các thể loại. Do vậy mà, cấu trúc thể loại của giai đoạn văn học luôn có những nét khác biệt so với giai đoan trước và
  • 13. 9 sau nó. Do vậy, Vũ Tuấn Anh đi đến một mệnh đề: một phương diện quan trọng - nếu không muốn nói là quan trọng hơn cả - để nhận thức một giai đoạn văn học là khảo sát những biến đổi trên mặt bằng thể loại cũng như những biến thái tinh vi bên trong đời sống của mỗi thể loại. Quan điểm của Vũ Tuấn Anh góp phần tạo nên cấu trúc quy nạp của luận án. Bùi Việt Thắng có nhiều bài viết về truyện ngắn hiện đại. Ông phụ trách phần truyện ngắn trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỉ XX. Ở đó, bên cạnh việc trình bày về diễn trình của truyện ngắn Việt Nam thế kỉ XX, tác giả có chú ý đến mối giao duyên thể loại. Đó là sự giao duyên giữa tự sự và trữ tình để tạo nên dòng truyện ngắn trữ tình những thập niên đầu thế kỉ, đó còn là sự hội ngộ của truyện và kí để tạo ra thể loại truyện – kí trong văn học 45-75. Trong nhận định chung về truyện ngắn 1975 – 2000, Bùi Việt Thắng ghi nhận rằng: “đã có những tìm tòi nghệ thuật làm cho thể loại “nhỏ” có sức chứa, hay nói cách khác là có khả năng khái quát hóa nghệ thuật đời sống theo chiều sâu”. Đặc biệt, tác giả bước đầu đã nhìn thấy những tín hiệu ấy kết tinh trong phong cách một số cây bút văn xuôi, đặc biệt là Nguyễn Minh Châu, Bảo Ninh, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp,… Trong bài viết: "Một số vấn đề thi pháp truyện ngắn Việt Nam hiện đại", ông lưu ý: "Một mặt các nhà nghiên cứu chú ý đến tính chất gần gũi giữa tiểu thuyết và truyện ngắn, mặt khác đã cố gắng chỉ ra đặc thù của mỗi thể loại trên từng vấn đề tiếp cận". Từ việc xác định những đặc điểm nòng cốt của mỗi thể loại, ông đề cập đến những kiểu dạng truyện ngắn "không thuần nhất": truyện ngắn liên hoàn, truyện ngắn kì ảo, truyện ngắn tâm tình, truyện ngắn rất ngắn,… Nguyên Ngọc có cái nhìn tập trung hơn, điểm đúng trọng tâm của vấn đề tương tác thể loại hơn qua bài viết có nhan đề: "Văn xuôi hiện nay - logic quanh co của các thể loại, những vấn đề đang đặt ra và triển vọng". Đây là bài viết hết sức gần gũi, giúp người viết mạnh dạn khẳng định về sự tương tác nhiều chiều của văn xuôi giai đoạn này với những tố chất mới nhưng xuất phát từ trong thực tiễn, từ logic của đời sống thể loại văn học. Ngoài ra, dấu hiệu của tương tác thể loại trong văn xuôi giai đoạn này còn được khẳng định rải rác trong nhiều bài viết như: "Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975" của Nguyễn Bích Thu, quan
  • 14. 10 niệm về thể tài truyện ngắn giàu chất thơ, giàu tính kịch qua bài viết "Quan niệm về thể tài truyện ngắn trong văn học Việt Nam sau 1975" của Phùng Ngọc Kiếm, "Về một hướng thử nghiệm của tiểu thuyết Việt Nam từ cuối thập kỉ 80 đến nay" của Nguyễn Thị Bình. Một số nhà nghiên cứu đi sâu vào các quan hệ tương tác cụ thể. "Báo chí và cuộc hành trình đổi mới văn học" của Trần Thị Trâm khẳng định vai trò của phóng sự như một cú hích đối với công cuộc đổi mới văn học. Nguyên Ngọc cũng khẳng định lực đẩy mạnh mẽ đó nhưng có tính quá trình hơn trong bài: "Văn xuôi hiện nay - logic quanh co của các thể loại, những vấn đề đang đặt ra và triển vọng". Phan Trọng Thưởng qua công trình Những vấn đề lí luận và lịch sử kịch nửa sau thế kỉ XX lại cho ta một chiều tương tác từ kịch. Có thể nói, cùng với phóng sự là kịch, chỉ có phóng sự đi bên kịch tạo nên bước đột phá của văn xuôi giai đoạn này. Cuốn Văn học Việt Nam 1975-1985, tác phẩm và dư luận tập hợp những ý kiến khác nhau, những cách nhìn khác nhau của các nhà nghiên cứu về văn học 10 năm sau chiến tranh nói chung và văn xuôi nói riêng. Trong đó, các nhà biên soạn dành nhiều trang cho những tác phẩm văn xuôi xuất sắc: Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người – Nguyễn Khải, Cù lao tràm, Đứng trước biển – Nguyễn Mạnh Tuấn, Mưa mùa hạ – Ma Văn Kháng; Bến quê, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành – Nguyễn Minh Châu. Đặc biệt là bài "Phác họa diện mạo chung của quá trình văn học 1975-1985". Qua công trình mang tính hợp tuyển này, chúng ta nhận được nhiều sự phân tích sâu sắc về những đổi mới trong thi pháp thể loại cũng như quan niệm nghệ thuật về con người, đặc điểm tư duy nghệ thuật của thời đại. Theo dòng văn học của Bích Thu lại tập trung nói về những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi sau 1975 qua hệ thống môtip, chủ đề. Trong bài "Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975", tác giả nhận định: “truyện ngắn đã bộc lộ tư duy nghệ thuật tổng hợp, vận động và phát triển phù hợp với bản chất của văn học dân tộc”. Bích Thu cũng nói đến “áp lực tiểu thuyết”, đi sâu đề cập đến đổi mới kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu, quan niệm về con người cá nhân,... Cuốn Văn học Việt Nam
  • 15. 11 sau 1975- những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy do Nguyễn Văn Long chủ biên dành cả một phần lớn cho văn xuôi sau 1975, trong đó có nhiều bài viết đề cập đến tiểu thuyết, truyện ngắn trong mối quan hệ với một số thể loại gần gũi. Một số bài viết khác dành sự quan tâm đến những phương diện đổi mới trong tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Khắc Trường. Một số công trình đi sâu vào từng tác giả, tác phẩm cụ thể. Qua những chuyên luận cụ thể đó, chúng ta có được góc nhìn hệ thống hơn, toàn diện hơn về từng cây bút văn xuôi. Vả lại, đây đó, trong việc khắc hoạ thế giới nghệ thuật của từng tác giả, các nhà nghiên cứu đã bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến vấn đề thể loại và hiệu ứng của tương tác thể loại. Gần đây, Nhà xuất bản Giáo Dục lần lượt cho ra đời bộ sách về các tác giả lớn của văn học Việt Nam. Trong đó có các công trình: Nguyễn Minh Châu - tác giả và tác phẩm, và Nguyễn Khải - Tác giả và tác phẩm. Hai công trình đã dựng lên chân dung cũng như phong cách mỗi nhà văn bằng việc tập hợp những bài viết hết sức có uy tín của nhiều nhà nghiên cứu. Các tác giả cho ta nhìn được tính quá trình trong sự nghiệp riêng của từng nhà văn. Từ đó, thấy được những bứt phá đi lên trong giai đoạn đổi mới. Cuốn Nguyễn Minh Châu – tài năng và sáng tạo nghệ thuật cũng tuyển chọn nhiều bài viết về những nỗ lực cách tân “dũng cảm rất điềm đạm” và những “cảm nhận từ thế giới nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Minh Châu”. Thế giới nghệ thuật Tạ Duy Anh cũng được nhiều người quan tâm nghiên cứu: Nguyễn Thị Hồng Giang với công trình "Tạ Duy Anh và việc làm mới tiểu thuyết", Vũ Lê Lan Hương "Thế giới nhân vật trong sáng tác Tạ Duy Anh", Võ Thị Thanh Hà "Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh",… Nhiều tác giả, tác phẩm văn xuôi giai đoạn này dành được sự quan tâm không chỉ của giới nghiên cứu mà của rộng rãi công chúng: Bảo Ninh, Hoà Vang, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Huy Thiệp,… Nguyễn Huy Thiệp thực sự gây “bão tố” trong dư luận. Trong tạp chí, trên Internet và xôn xao giữa đời sống, đâu đâu người ta cũng bàn về hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp. Những bài viết có trọng lượng được tập hợp trong hai cuốn Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Huy Thiệp, tác phẩm và dư luận. Hai tuyển tập thực sự
  • 16. 12 thể hiện tính dân chủ trong phê bình. Nhờ đó, đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta bắt gặp nhiều góc nhìn, hướng nhìn; nhiều khi đồng điệu nhưng đôi khi “lệch pha”, ngược chiều. Điều gặp nhau là đều thừa nhận tính đa dạng, tính “hai lần lạ” trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp. Qua từng nét vẽ, qua từng tác phẩm ta thấy được bức tranh rậm rạp của những yếu tố thể loại đan xen trong tác phẩm cây bút này. Một số bài viết đề cập đến các phương diện tương tác phong phú trong sáng tác của cây bút này: "Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp như hình mẫu các truyền thuyết văn học", "Thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp của T.N. Philimonova", "Tư duy tiểu thuyết và folklore hiện đại" của Hoàng Ngọc Hiến, "Lời thoại trong truyện ngắn Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp" của Nguyễn Thị Hương,… Một cái nhìn sâu hơn, bài bản hơn, tập trung hơn được thể hiện trong hai chuyên luận: Phong cách văn xuôi Nguyễn Khải của Tuyết Nga và Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu của Tôn Phương Lan. Hai chuyên luận đi sâu khảo sát về những phương diện để lại dấu ấn đặc sắc trong phong cách của hai cây bút văn xuôi có những bứt phá mạnh mẽ về thể loại này. Tiềm tàng trong những dấu hiệu đó là biểu hiện đa dạng, phong phú của hiện tượng tương tác thể loại. Ngoài ra còn nhiều bài viết khác liên quan đến đề tài trên các trang mạng, trên các tạp chí chuyên ngành, trong các luận văn, luận án,… Các công trình trên là những tiền đề quan trọng cho việc đi sâu triển khai đề tài. Mỗi người một nét vẻ riêng, nhưng tất cả còn rất tản mác, thiếu tính hệ thống. Văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay vẫn đang tiếp diễn. Dưới góc độ tương tác thể loại thì đây là mảnh đất mới mẻ nhưng sẽ là miền đất hứa. Còn nhiều khoảng trống cần khám phá, còn nhiều câu hỏi cần tìm lời giải đáp. Thực sự cần một đề tài đặt vấn đề nghiên cứu một cách hệ thống về văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay dưới góc nhìn tương tác thể loại. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu thể loại và tương tác thể loại trong một giai đoạn văn học, đề tài trước hết ứng dụng các phương pháp đặc thù: phương pháp loại hình, phương pháp cấu trúc - hệ thống. Hai phương pháp nghiên cứu cơ bản này gắn bó chặt chẽ với nhau, tương hỗ cho nhau. Phương pháp loại hình được sử dụng trong việc xác định
  • 17. 13 các quan hệ cộng đồng giá trị. Từ đó, luận án sử dụng phương pháp loại hình với cả hai chức năng chủ yếu của phương pháp này: vừa nhằm phân loại các loại/thể làm cơ sở cho việc nhận thức sự tương tác thể loại vừa nhằm chứng minh cho sự sinh thành của những tiểu loại, những biến thể mới với những tín hiệu thẩm mĩ mới. Theo đó, phương pháp loại hình được sử dụng nhằm xác định các yếu tố thuộc về nòng cốt bất biến của các loại/thể. Từ cái bất biến để đi đến cái khả biến, từ một tiêu thể để xem xét các biến thể phong phú trong diễn trình tương tác thể loại của văn học giai đoạn này. Bên cạnh đó, nghiên cứu tương tác thể loại là nghiên cứu văn học trong thế động, trong sự tác động qua lại lẫn nhau; do vậy, phương pháp loại hình không thể tách rời phương pháp cấu trúc hệ thống. Trong mục giới thuyết về khái niệm tương tác thể loại, chúng tôi có trình bày một số vấn đề có tính chất phương pháp luận của phương pháp này làm cơ sở cho việc ứng dụng nhất quán trong luận án: quan niệm về hệ thống trong hệ thống, quan niệm về hệ thống mở, quan niệm về một hoặc một vài yếu tố hạt nhân của hệ thống, quan niệm về tính biến đổi của hệ thống. Với những nền tảng đó, phương pháp cấu trúc - hệ thống là cơ sở quan trọng của luận án trong việc nhận thức các kiểu, các chiều, các cấp độ tương tác thể loại. Phương pháp cấu trúc - hệ thống cũng được sử dụng trong suốt luận án nhằm nhận thức về cấu trúc thể loại của một giai đoạn cũng như cấu trúc của từng thể loại văn học. Từ cấu trúc - hệ thống của văn xuôi, luận án đi đến khái quát về cấu trúc - hệ thống những tín hiệu mới của văn xuôi. Để làm rõ vấn đề, tăng tính thuyết phục của các luận điểm quan trọng trong luận án, chúng tôi kết hợp hai phương pháp trên với phương pháp so sánh - đối chiếu. Phương pháp so sánh - đối chiếu chủ yếu được sử dụng ở các phương diện: so sánh đồng đại và so sánh lịch đại. Luận án cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu lí thuyết nhằm tiếp cận, tìm hiểu, thu thập và xử lí thông tin. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết do vậy được sử dụng kết hợp với thao tác xử lí tài liệu như thống kê, phân loại, hệ thống hoá,…
  • 18. 14 Bên cạnh đó, luận án sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu đặc thù như: phương pháp thi pháp học, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,… 5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN - Đề tài đề xuất một góc nhìn mới trong nghiên cứu văn học, góc nhìn tương tác thể loại. Quan trọng hơn, với cấu trúc luận án theo hướng quy nạp để từ việc khảo sát những biểu hiện cụ thể của tương tác thể loại trong tác phẩm đi đến những tín hiệu thẩm mĩ mới như những hiệu ứng trực tiếp từ sự tương tác thể loại; bên cạnh việc đề xuất góc nhìn, luận án đã thực hiện một quy trình tiếp cận vấn đề tương tác thể loại vừa cụ thể vừa khoa học. Quy trình tiếp cận đó không chỉ mở đường cho việc ứng dụng góc nhìn tương tác thể loại để nghiên cứu văn học một thời kì, một giai đoạn mà còn gợi mở hướng nghiên cứu đối với từng tác giả, tác phẩm cụ thể. Từ đóng góp chung đó, luận án có những đóng góp cụ thể sau: - Qua chương 1 và chương 2, luận án đi sâu nhìn tương tác thể loại từ hai thể loại chủ đạo: chương 1, nhìn từ tiểu thuyết; chương 2, nhìn từ truyện ngắn. Đây là hai thể loại kết tinh thành tựu của văn xuôi giai đoạn này. Do vậy, từ góc nhìn của hai thể loại này, luận án đã khái quát được bức tranh tương tác thể loại với những chiều, những kiểu, những cấp độ tương tác vừa phong phú vừa độc đáo. Với việc chú trọng nghiên cứu từ cấu trúc chỉnh thể đời sống thể loại, bên cạnh những luận điểm khái quát; luận án đã đi sâu phân tích sự kết tinh những tố chất thể loại khác nhau trong từng tác giả, tác phẩm như những minh chứng thuyết phục và khoa học nhất về kết quả của những quan hệ tương tác thể loại. - Với việc xem xét văn xuôi từ chính những vận động, biến đổi trong cấu trúc thể loại, luận án đi đến những khái quát quan trọng về những tín hiệu mới của văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay. Giới nghiên cứu đã có những công trình khái quát về văn xuôi giai đoạn này nhưng hoàn toàn chưa có công trình nào nhìn một cách hệ thống từ góc nhìn tương tác thể loại. Bằng lối đi riêng đó, luận án đã tìm ra những tín hiệu mới của văn xuôi từ chính bản thể thể loại văn học.
  • 19. 15 6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN Ngoài phần Mở đầu (15 trang) trình bày những vấn đề chung có tính trường quy: Lí do chọn đề tài, Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, Lịch sử vấn đề, Phương pháp nghiên cứu, Đóng góp mới của luận án; phần Kết luận (6 trang); Tài liệu tham khảo; phần Nội dung chính của luận án gồm 173 trang được cấu trúc thành 03 chương với tên gọi cụ thể như sau: Chương 1. Tương tác thể loại trong văn học và sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay - nhìn từ tiểu thuyết (56 trang) Chương 2. Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay - nhìn từ truyện ngắn (64 trang) Chương 3. Những tín hiệu mới của văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay - nhìn từ sự tương tác thể loại (53 trang)
  • 20. 16 NỘI DUNG CHƯƠNG 1 TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG VĂN HỌC VÀ SỰ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY – NHÌN TỪ TIỂU THUYẾT 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG VĂN HỌC Dưới góc độ triết học, có thể nói: vận động là xu thế tuyệt đối, đứng yên chỉ là trạng thái tương đối, tạm thời. Tương tác và tương tác thể loại trong văn học cũng tất yếu như sự vận động của cuộc sống. Những năm gần đây, người ta bàn nhiều đến khái niệm tương tác, lĩnh vực nào chúng ta cũng bắt gặp khái niệm tương tác: truyền hình tương tác, âm nhạc tương tác, nghệ thuật tương tác, dạy học tương tác,… Tương tác thể loại trong văn học vừa mang đặc điểm chung vừa có những đặc thù riêng. 1.1.1. SỰ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI BẮT NGUỒN TỪ CHÍNH ĐẶC TRƯNG CỦA THỂ LOẠI VĂN HỌC Tương tác thể loại trong văn học không phải là vấn đề quá mới mẻ mà nó bắt nguồn từ chính đặc trưng cơ bản nhất của thể loại văn học. 1.1.1.1. Thể loại văn học được hiểu là một hiện tượng loại hình của sáng tác và giao tiếp văn học, hình thành trên cơ sở sự lặp lại có quy luật của các yếu tố tác phẩm. Trần Đình Sử (Giáo trình Lí luận văn học, Phương Lựu (chủ biên), Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội, 1997): "Thể loại thể hiện một giới hạn tiếp xúc với đời sống, một cách tiếp cận, một góc nhìn, một trường quan sát, một quan niệm đời sống, đồng thời cũng là một nguyên tắc xây dựng thế giới nghệ thuật" [220]. Nhiều nhà nghiên cứu cũng thống nhất về khái niệm thể loại như một hình thức chỉnh thể có tính quy luật của loại hình. Nhưng bên cạnh đó, người ta cũng thừa nhận rằng: “Bản chất của sáng tạo nghệ thuật là tính độc đáo không lặp lại. Sự vận động cuộc sống cũng luôn luôn sản sinh và làm biến động các giới hạn phản ánh, đổi mới các kênh
  • 21. 17 giao tiếp và làm cho chúng tác động vào nhau, đan bện vào nhau trong các tác phẩm nghệ thuật độc đáo” [220]. Do vậy mà, muốn nhận thức đặc điểm của một thể loại có giá trị, người ta vừa phải có tri thức về các quy luật lặp lại của các thể loại, lại vừa phải biết nhận ra tính độc đáo trong sự vận dụng sáng tạo thể loại của tác giả. Có thể nói, thể loại vừa có các yếu tố ổn định, truyền thống; lại vừa có các yếu tố vận động, đổi mới do sự phát triển văn học và tài năng sáng tạo của nhà văn. Tính hai mặt của một vấn đề nằm sâu trong bản chất thể loại chính là xuất phát điểm của vấn đề tương tác. Sự phân loại văn học là bước đầu tiên để nhận thức các quy luật thể loại. Các nhà lý luận văn học bậc thầy từ Aristoteles cho đến Boileau đều xuất phát từ ba phương thức phản ánh hiện thực mà phân chia toàn bộ tác phẩm văn học thành 3 loại: tự sự, trữ tình, kịch. Trong quá trình phát triển của đời sống văn học nói chung và đời sống cụ thể của văn học Việt Nam nói riêng đã sản sinh ra các “thể”, các “tiểu loại” phong phú mà những cách phân loại trước đó tỏ ra bất cập, thiếu khả năng bao quát. Trong giáo trình Lí luận văn học [220], Trần Đình Sử đã khắc phục những nhược điểm trên bằng cách chia một cách quy ước thành 5 loại. Ngoài 3 loại theo cách “chia ba”, bổ sung vào 2 loại mới là: kí và văn chính luận. Đó là nấc thang đầu tiên để tiến đến việc phân chia thể hoặc thể loại tác phẩm. Các nhà nghiên cứu thống nhất chia loại ra các “thể” và xem “thể” như là một tiểu loại. Yếu tố ổn định, truyền thống cho ta những tiêu chí để phân biệt cái cốt lõi bất biến của từng loại thể: tác phẩm trữ tình khác tác phẩm tự sự, tiểu thuyết khác truyện ngắn,... Đó là cơ sở đầu tiên của vấn đề tương tác. Nhưng điều chúng ta lưu tâm hơn là “các yếu tố đổi mới do sự phát triển văn học và tài năng sáng tạo của nhà văn”. Trần Đình Sử khẳng định sự phân chia thể loại rõ ràng là “vấn đề có tính thứ hai”, “vấn đề có tính thứ nhất” vẫn là hình thức tồn tại phong phú và độc đáo của chỉnh thể tác phẩm: “Nghệ sĩ lớn thường tiếp thu các truyền thống thể loại khác nhau, tạo ra các hình thức thể loại mới”. Nguyễn Thành Thi nói đến cái “nhìn sang”, sự hút hương nhụy một cách đầy khôn ngoan trong tính chất của tương tác thể loại:
  • 22. 18 Thực tế đời sống văn học cho thấy mỗi một "nòng cốt" thể loại tồn tại như những mô chuẩn nghệ thuật ít nhiều mang tính quy ước, chỉ có ý nghĩa tương đối, và luôn có khả năng biến đổi. Vì vậy, nhà văn khi sáng tác một thể loại nào đó, một mặt luôn tôn trọng, tuân thủ những mô chuẩn nghệ thuật quy ước, mặt khác – ít hoặc nhiều – luôn có nhu cầu thoát bỏ khỏi những mô chuẩn quy ước ấy, bằng cách “nhìn sang” những thể loại xung quanh, rút tỉa lấy tinh hoa của chúng, tổng hợp kinh nghiệm của hai hay nhiều thể loại, tạo ra những tác phẩm “lệch chuẩn” [357, tr12]. Mỗi nền văn học, qua những thời đại khác nhau hình thành hệ thống thể loại khác nhau và hệ thống đó cũng biến đổi. Vì thế, nhiều nhà lí luận văn học đề xuất: nghiên cứu thể loại phải chú ý đến tính lịch sử, tính thời đại, tính dân tộc và tính biến đổi của nó. Thể loại vừa là “cái trí nhớ siêu cá nhân của nhân loại” nhưng đồng thời lại luôn được tái sinh, đổi mới trong từng giai đoạn phát triển văn học, trong từng thể loại, trong từng tác phẩm cụ thể, cá biệt. Tên gọi thể loại về nguyên tắc chỉ có một nhưng đời sống thể loại thì phong phú, sinh động vô cùng. “Mỗi giai đoạn, mỗi thời kì văn học là một chỉnh thể thẩm mĩ thống nhất trong đó có sự liên kết và tác động lẫn nhau giữa các thể loại” [220]. Đặc điểm văn hóa – xã hội, thị hiếu thẩm mĩ, trình độ nhận thức của mỗi thời đại thay đổi sẽ làm thay đổi hệ thống thể loại và hệ quả là, thay đổi quan hệ tương tác giữa các thể loại trong chỉnh thể ấy. Trên cơ sở tiếp cận vấn đề thể loại như trên, để thống nhất trong cách dùng thuật ngữ, tiến tên việc gọi tên chính xác và logic các hiện tượng/kiểu/loại/cấp độ tương tác, chúng tôi nêu lên ở đây một số giới thuyết cụ thể. Luận án chọn cách phân chia thể loại thành hai cấp độ. Trên bình diện phương thức phản ánh, luận án sử dụng khái niệm loại/loại hình. Trên bình diện hình thái tác phẩm, luận án sử dụng khái niệm thể loại/thể; trong đó, khái niệm "thể loại" được dùng phổ biến trong nhiều trường hợp, khái niệm "thể" được dùng trong những trường hợp đề cập đến những tiểu loại cụ thể của văn xuôi Việt Nam giai đoạn này. 1.1.1.2. Từ đặc trưng cơ bản là sự vận động, tính biến đổi của thể loại, chúng ta sẽ thấy: tương tác thể loại là vấn đề nằm sâu trong logic của thể loại. Điều này đã
  • 23. 19 được Kate Hamburger đề cập rất thuyết phục trong chuyên luận Logic học về các thể loại văn học [95]. Đành rằng, mỗi thể loại có những logic riêng: “Sử thi như một truyện kể bằng độc thoại tường thuật về một cốt truyện, nguyên tắc trữ tình như là sự trình bày một trạng thái bằng độc thoại, và kịch như là sự trình bày một cốt truyện bằng đối thoại" (J Petersen),... nhưng nhiều khi chúng lại thâm nhập lẫn nhau, tác động vào nhau. Ví như sự can thiệp của cái tôi ở ngôi thứ nhất vào tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ ba là “một nụ cười mỉm hài hước, như một trò chơi”. Sự tương tác thể loại nhiều khi sáng tạo nên những thể loại mới cho đời sống văn học. Ballade ở phương Tây là một thể loại được tạo ra do sự thâm nhập lẫn nhau giữa yếu tố trữ tình và yếu tố hư cấu. Goethes đánh giá rất cao thể loại ballade này: “Tập hợp lại trong bài thơ nhỏ nhất ba hình thức tự nhiên đích thực của văn học: sử thi, nghệ thuật trữ tình, kịch” [95, tr.412]. Kate Hamburger cho rằng, việc phân biệt ranh giới giữa các thể loại là nhằm nhận thức về các thể loại quá độ. Thế nhưng, ranh giới ấy là hết sức mềm dẻo và tương đối. Bởi, bà nhấn mạnh rằng: “Việc vạch ra các ranh giới lí luận chặt chẽ cũng sẽ không thích hợp như việc đưa ra các đánh giá khinh suất trong khi nói về các hình thức không thuần túy” [95, tr.417]. Từ quan niệm như vậy, các nhà nghiên cứu nói đến ballade là kẻ tiếm vị về cấu trúc trong không gian trữ tình. Bên cạnh đó, các ông cũng nhận thức giá trị của các truyện kể ở ngôi thứ nhất như một kẻ tiếm vị cấu trúc trong không gian hư cấu. Người ta không thể từ chối với truyện kể ở ngôi thứ nhất các đặc tính văn học tự sự cũng như văn học trữ tình. 1.1.2. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG "THỜI CỦA TIỂU THUYẾT" Tương tác thể loại xuất phát từ chính đặc trưng của thể loại nhưng mỗi thời đại, mỗi thời kì, mỗi giai đoạn, thậm chí mỗi chặng đường văn học, sự tương tác thể loại diễn ra với những hình thức, những đặc điểm - tính chất, những kiểu dạng riêng,… Do vậy mà vai trò cũng như ý nghĩa của sự tương tác cũng được thể hiện khác nhau. Trong văn học dân gian và cả văn học trung đại, chúng ta nhìn thấy tính tạp chủng, dấu ấn của “hợp chủng quốc thể loại” trong tác phẩm như hệ quả của
  • 24. 20 “tính nguyên hợp”, “tính bất phân” của văn học. Trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, có một giai đoạn quá độ để những thể loại ngoài rìa được chuyển vào vị trí trung tâm và những thể loại trung tâm trở thành thứ yếu, nhiều tác phẩm có sự “giao thoa thể loại”; tiểu thuyết viết bằng thơ, văn xuôi viết bằng văn biền ngẫu,… là những kiểu tương tác trong những giai đoạn văn học cần có bước chuyển để trưởng thành, hoàn thiện thể loại. Sự “hội ngộ” giữa phóng sự - tiểu thuyết và tiểu thuyết - phóng sự, sự kết hợp giữa trữ tình và tự sự để tạo nên dòng truyện ngắn trữ tình, sự “xâm lăng của thơ vào văn xuôi” những năm 30 của thế kỉ trước... lại là những biểu hiện khác của tương tác thể loại. Văn xuôi Việt Nam từ sau đổi mới tiến thêm một bước nữa trong tính biến đổi đầy sáng tạo ấy. Do vậy, nghiên cứu sự tương tác thể loại trong văn xuôi, không thể không lưu tâm đến quan điểm của M. Bakhtin. Ông quan tâm đến quan hệ hài hoà giữa các thể loại trong những thời kì tiểu thuyết tồn tại ngoài thềm của cái gọi là "đại văn học"; nhưng ông quan tâm hơn đến "cuộc đấu tranh sâu sắc hơn và mang tính lịch sử hơn giữa các thể loại, sự biến thái và phát triển cái nòng cốt thể loại của văn học" khi tiểu thuyết trở thành thể loại trung tâm của đời sống văn học. M. Bakhtin đặc biệt đề cao vai trò của tiểu thuyết trong đời sống văn học hiện đại. Nếu thể loại là nhân vật chính của tiến trình văn học thì tiểu thuyết, thêm một lần nữa, lại là nhân vật chính của cấu trúc thể loại văn học hiện đại: tiểu thuyết là “nhân vật chính trong tấn kịch phát triển văn học thời đại mới”. Ông cho rằng, cuộc sống lịch sử của các thể loại khác mà chúng ta đang chứng kiến là cuộc sống của các thể loại đã hoàn bị, với nòng cốt đã đông cứng lại và đã ít uyển chuyển. “Nghiên cứu các thể loại khác tựa hồ như những tử ngữ; nghiên cứu tiểu thuyết giống như nghiên cứu những sinh ngữ, mà lại sinh ngữ trẻ” [27, tr.22]. Trong những thời đại tiểu thuyết tồn tại một cách không chính thức, tất cả các thể loại văn học, ở mức độ nhất định đều bổ sung hài hòa cho nhau, và hệ thống thể loại hiện ra như một chỉnh thể hữu cơ có trật tự. Những thể loại đó có thể giới hạn nhau và bổ sung cho nhau mà vẫn giữ nguyên bản chất loại hình của mình. Đời
  • 25. 21 sống thể loại đến đây cơ bản là phẳng lặng và “yên ổn”. Nhưng khi tiểu thuyết xuất hiện và trở thành một thể loại chủ đạo thì “hầu hết các thể loại đều ít nhiều bị “tiểu thuyết hóa”: kịch nói bị tiểu thuyết hóa, trường ca bị tiểu thuyết hóa, thậm chí cả thơ trữ tình” [27, tr.25]. “Trước sự có mặt của tiểu thuyết như một thể loại thống soái, ngôn ngữ ước lệ của các thể loại bị quy phạm hóa nghiêm ngặt bắt đầu vang âm một cách mới”. Điều quan trọng được M. Bakhtin khẳng định là: tiểu thuyết hóa văn học tuyệt đối không có nghĩa là áp đặt cho các thể loại khác những quy phạm thể loại xa lạ với bản chất của chúng. Bởi vì, về bản chất, tiểu thuyết là một thể loại không quy phạm. Nó là hiện thân của tính uyển chuyển, linh hoạt bậc nhất. Đó là thể loại mãi mãi tìm tòi, mãi mãi tự khảo sát bản thân mình và xét lại tất cả những dạng thức đã định hình của mình. Do đó tiểu thuyết hóa các thể loại khác chính là: “giải phóng chúng khỏi tất cả những gì là ước lệ, khô cứng, khiên cưỡng và thiếu sức sống đang kìm hãm sự phát triển của bản thân chúng”. Tiểu thuyết là một thể loại luôn luôn biến đổi. Mà, cũng theo M. Bakhtin: chỉ kẻ biến đổi mới hiểu được sự biến đổi: “chỉ có tiểu thuyết do thế giới mới ấy sản sinh ra và đồng chất với thế giới ấy về mọi mặt”. Vì vậy, khi trở thành thể loại thống ngự, nó xúc tác làm đổi mới tất cả các thể loại khác, làm chúng lây nhiễm tính biến đổi và tính không hoàn thành của tiểu thuyết. Sự tiểu thuyết hóa các thể loại làm cho các thể loại tự do hơn, mềm mại hơn. Ngôn ngữ của các thể loại ấy được đối thoại hóa, giễu nhại hóa nhờ tiếp xúc với các “vỉa tiểu thuyết”. Tiểu thuyết cũng đưa vào các thể loại tính vấn đề, tính “dở dang” đặc thù về hàm nghĩa và sự tiếp xúc sống động với thì hiện tại chưa hoàn tất và đang chuyển biến của nó. Có thể thấy, trong quan điểm tương tác của M. Bakhtin, tiểu thuyết như một yếu tố siêu thể loại thâm nhập và làm biến đổi các thể loại khác. Đây là chiều thứ nhất của sự tương tác. Ở chiều này, vai trò của tiểu thuyết như một chất xúc tác làm cho các thể loại khác “bung ra”, “thăng hoa lên” trong nỗ lực sáng tạo không ngừng của văn học. Thế nhưng trong cách lập luận của M. Bakhtin ta còn thấy quan niệm tương tác giữa tiểu thuyết và các thể loại khác được hiểu theo đúng nghĩa là sự tác động
  • 26. 22 qua lại lẫn nhau. Tiểu thuyết vừa “lấn át các thể loại khác” nhưng đồng thời “vừa thu hút các thể loại kia vào trong cấu trúc của mình, biện giải lại và sắp xếp lại trọng tâm của chúng”. Bản thân tiểu thuyết là một hệ thống mở và là một thể loại uyển chuyển hàng đầu. Nói như M. Bakhtin: về bản chất, tiểu thuyết là một thể loại không quy phạm. Như vậy, về mặt lí thuyết, tiểu thuyết có thể thu nhận, dung nạp một cách rộng rãi bất cứ thể loại nào: truyện ngắn, thơ, kịch, ngụ ngôn, thần thoại, truyện truyền kì, thư từ, nhật kí…; tiểu thuyết cũng có thể "phá rào, bước qua mọi ranh giới đặc trưng của văn học - nghệ thuật" để cũng thu nhận vào nó cả: các phương pháp hùng biện tư pháp, bản khảo luận triết học, bản thuyết giáo đạo đức, lịch sử phật giáo, kinh sách thiên chúa,… Từ lí thuyết thể loại dễ dẫn đến một cách hiểu đơn giản hoá rằng: sự thâm nhập của các thể loại vào tiểu thuyết là vấn đề tất yếu, đương nhiên; không cần phải nghiên cứu. Thực chất, từ quan điểm của lí thuyết hệ thống: "Hệ thống là phức hợp của những yếu tố mang ý nghĩa nội dung có liên quan với nhau và trên cơ sở đó, thường nổi lên một hay nhiều yếu tố làm hạt nhân", chúng ta có thể thấy mỗi thời đại, mỗi giai đoạn có những "mẫu số chung" khác nhau. Có thể nói đến mẫu số chung của giai đoạn văn học từ 1986 đến nay là: lấy hiện thực đời thường, con người thế sự đời tư làm tâm điểm,… Vậy thì tiểu thuyết đủ "khôn ngoan" và sự "mềm dẻo, uyển chuyển" để biết lựa chọn và thu nhận những yếu tố nào, tố chất thể loại nào vào trong cấu trúc của mình. Nghiên cứu tương tác thể loại trong tiểu thuyết chính là nghiên cứu sự lựa chọn thông minh cũng như nghĩa lí của sự lựa chọn đó. Từ quan điểm nghiên cứu trên, chúng ta có thể trả lời các câu hỏi: vì sao thời trung đại thịnh hành tiểu thuyết chương hồi, tiểu thuyết lịch sử?, vì sao tiểu thuyết 1945 - 1975 đậm chất sử thi?, vì sao tiểu thuyết thời hậu chiến, đặc biệt sau 1986 đậm chất thế sự, đời tư - cũng có nghĩa là đậm chất tiểu thuyết. Như vậy, tuy không đề cập đến khái niệm tương tác (interaction) nhưng từ những quan điểm của M. Bakhtin khi nói về "tiểu thuyết như một thể loại văn học", chúng tôi cụ thể hóa thêm một bước nữa về sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay: sự tương tác thể loại khi tiểu thuyết được dịch chuyển
  • 27. 23 vào vị trí trung tâm. Sự trưởng thành của tiểu thuyết cũng chính là sự trưởng thành của thể loại văn học, là dấu hiệu quan trọng hàng đầu về tính hiện đại của một nền văn học. Ở đây, chúng ta có thể khẳng định một điều: tương tác thể loại là một hiện tượng không mới, có thể coi nó là một trong những thuộc tính của thể loại văn học; thế nhưng, tương tác thể loại thực sự trở thành một vấn đề nghiên cứu giàu ý nghĩa khi có sự xuất hiện của tiểu thuyết và khi tiểu thuyết trở thành thể loại trung tâm của đời sống văn học. 1.1.3. TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG VĂN HỌC LÀ HIỆN TƯỢNG HẾT SỨC ĐA DẠNG, ĐA CHIỀU Như vừa đề cập ở trên, bản chất đồng thời cũng là phẩm chất của văn học là sáng tạo, luôn luôn sáng tạo. Tương tác thể loại là sự thể hiện tập trung những nỗ lực sáng tạo và đổi mới của văn học. Tương tác thể loại xuất phát từ chính đặc trưng cố hữu nhất của thể loại nhưng diễn trình của nó thì phong phú, sinh động vô cùng. Khi có sự tham gia "chính trường" của loại hình "công nghiệp nặng" - tiểu thuyết - sự tương tác thể loại sẽ trở thành một hiện tượng hết sức đa dạng, đa chiều. Cách nhìn, cách quan niệm về sự tương tác thể loại do vậy cũng phong phú và sinh động không kém. Lí thuyết hệ thống là nền tảng quan trọng giúp chúng tôi nhìn nhận sự tương tác thể loại đa dạng, đa chiều trong văn xuôi Việt Nam sau 1986 một cách khoa học, toàn diện và hiệu quả. Một điều thú vị là ngay trong khái niệm hệ thống đã bao hàm sự tương tác: “Hệ thống là một tổng thể, duy trì sự tồn tại bằng sự tương tác giữa các tổ phần tạo nên nó” (L.v. Bertalanfy). L.v. Bertalanfy cũng nói rằng: “Hệ thống – khái niệm trung tâm biểu thị một tập hợp các phần tử trong sự tương tác qua lại thể hiện tính chỉnh thể và tính chung của mình. Phần tử – đơn vị không thể chia nhỏ được nữa trong một phương thức phân chia đã cho, và nằm trong thành phần của hệ thống, việc có những mối liện hệ giữa các phần tử sẽ dẫn đến sự xuất hiện trong hệ thống chỉnh thể những tính chất mới mà không có trong phần tử ở trạng thái riêng biệt” [186].
  • 28. 24 Nghiên cứu tương tác thể loại trong văn học không thể không đặt trong cái nhìn hệ thống. Chúng tôi quan tâm đến quan điểm: Hệ thống luôn chứa đựng nhiều tiểu hệ thống đa dạng khác nhau, tác động qua lại chặt chẽ với nhau; đồng thời cũng đặc biệt quan tâm đến quan điểm về hệ thống mở. Lí thuyết hệ thống khẳng định: hệ thống không đóng kín mà là hệ thống mở, luôn luôn có quá trình trao đổi chất với các hệ thống gần gũi với nó. Quan điểm về hệ thống mở cho chúng ta cái nhìn động hơn, sâu hơn và cũng có phần rộng hơn về sự tương tác thể loại – đặc biệt là sự tương tác thể loại trong văn xuôi sau 1986. Từ quan điểm về hệ thống mở, chúng ta không chỉ nhìn thấy sự tương tác diễn ra trên chiều đồng đại – khép kín trong phạm vi mỗi giai đoạn, mỗi thời kì văn học; mà còn nhìn sự tương tác diễn ra trên chiều lịch đại với những dích dắc, quanh co, với những vòng xoáy trôn ốc… phức tạp; nhưng bằng cách nhìn ấy, chúng ta khám phá ra nhiều điều thú vị. Trên cơ sở lí thuyết hệ thống, chúng tôi cho rằng: tương tác thể loại là sự thâm nhập, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai hay nhiều thể loại của một hoặc nhiều hệ thống thể loại khác nhau nhằm tạo nên sự vận động, đổi mới cấu trúc thể loại văn học. Với cách đề xuất khái niệm trên, tương tác thể loại trong văn học cần được hiểu một cách mềm dẻo, linh hoạt. Ở nét nghĩa khái quát chung, tương tác thể loại là sự tác động qua lại lẫn nhau nhưng với đặc trưng riêng của văn học, sự tương tác ở đây còn bao hàm cả sự thâm nhập, thẩm thấu từ một hệ thống thể loại này đến hệ thống thể loại khác. Đó là trường hợp của sự tương tác ngoài hệ thống. Văn học trung đại là một hệ thống, văn học hiện đại là một hệ thống và văn học dân gian, văn học nước ngoài cũng là những hệ thống văn học. Văn xuôi sau 1986 không chỉ có sự tương tác giữa các thể loại trong cùng hệ thống mà còn có chiều sâu của sự tương tác ngoài hệ thống. Sự tương tác trong văn xuôi sau 1986 không chỉ diễn ra giữa các thể loại trong đời sống thể loại văn học đương đại mà còn có mối liên hệ với các thể loại trong hệ thống văn học dân gian, văn học trung đại; còn có sự mở rộng tiếp nhận các yếu tố thể loại văn học nước ngoài, thậm chí có mối tương tác với các hệ thống vốn rất ít đặc trưng văn học khác. Quan điểm hệ thống mở cũng góp phần giải thích xu hướng “liên văn bản” trong một số tác phẩm. Chúng ta
  • 29. 25 thường bắt gặp mô hình các truyện cổ tích, huyền thoại, các truyện truyền kì, truyện lịch sử,... trong tác phẩm văn xuôi đương đại. Cũng thấy những siêu mẫu với khả năng sinh sôi, biểu tượng tới mức có thể đọc chúng như những tín hiệu, từ đó giải ra nhiều mã, nhiều tầng khác nhau trong những sáng tác này. Những tác giả lớn của thế kỉ XX đều dường như quay trở về với huyền thoại ở điểm này. Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Võ Thị Hảo, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Hoà Vang, Nguyễn Xuân Khánh,… đều có những siêu mẫu như thế. Bên cạnh huyền thoại là nguồn mạch trữ tình. Đó chính là chiều tương tác từ “trầm tích” văn hóa dân tộc trong văn xuôi hiện đại. Với quan niệm tương tác thể loại theo nghĩa rộng như trên, chúng ta sẽ thấy tương tác thể loại là hiện tượng văn học vừa phong phú vừa sinh động. Chúng tôi đồng tình với cách phân chia kiểu loại, phân chia cấp độ tương tác thể loại của Nguyễn Thành Thi. Theo đó, sự tương tác thể loại thể hiện trên nhiều cấp độ: tương tác giữa loại với loại, tương tác giữa thể với loại, tương tác giữa thể với thể, tương tác giữa yếu tố với yếu tố. Ngoài ra, cần bổ sung thêm các cấp độ tương tác: yếu tố - loại, yếu tố - thể,… Cũng có thể nhìn tương tác thể loại trong diễn trình hình thành và phát triển của thể loại. Ở góc nhìn này, Nguyễn Thành Thi đề cập đến ba hình thức chính của sự tương tác: 1) hình thức “tổng hợp” thể loại (thể loại hòa nhập làm một hoặc song song tồn tại); 2) hình thức “đổi ngôi” – “tiếp sức” giữa các thể loại; 3) hình thức loại bỏ, thay thế thể loại… Hình thức thứ nhất – rất phổ biến – mang tính đồng đại; hình thức thứ hai – với một lộ trình ít nhiều quanh co, ít phổ biến hơn – mang tính lịch đại. Hình thức thứ ba thường diễn ra vào những thời điểm bước ngoặt mang tính cách mạng, thay đổi phạm trù văn học của sự vận động thể loại. Văn xuôi Việt Nam hiện đại, đặc biệt là văn xuôi sau 1986 với tính mở, tính động; với sự năng động của thể loại đã thể hiện đầy đủ các cấp độ, các hình thức, các kiểu tương tác nói trên. Từ những luận điểm trên đây, chúng tôi cho rằng: tương tác thể loại là một khái niệm rộng bởi nó phát xuất từ thuộc tính, từ bản chất của thể loại văn học. Tương tác thể loại trở nên đa dạng, nhiều chiều trong cấu trúc thể loại văn học hiện
  • 30. 26 đại, một chỉnh thể mà ở đó tiểu thuyết tham dự như một nhân vật chính của tấn kịch phát triển văn học. Khi tiểu thuyết ở vị trí thống ngự, nó tương tác, khuấy đảo làm giãn nở, mở rộng khung thể loại của các hệ thống thể loại khác; đồng thời nó cũng mềm dẻo, uyển chuyển và khôn ngoan để tự làm mới bản thân mình. Một cấu trúc thể loại mang tính động như thế sẽ mang đến những đổi mới quan trọng trong tiến trình vận động của thể loại nói riêng, đổi mới văn học nói chung. Cuộc đấu tranh âm thầm, lặng lẽ nhưng "sâu sắc hơn và mang tính lịch sử hơn" [28] trong logic cấu trúc thể loại văn học hiện đại do vậy sẽ là đối tượng nghiên cứu thực sự mới mẻ, là góc nhìn mở ra những khai phá quan trọng cho văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là văn xuôi Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay. Với cách quan niệm như trên, tương tác thể loại là sự vận động của thể loại nhưng tương tác thể loại không đồng nhất với khái niệm vận động thể loại. Tương tác thể loại trở thành một phương thức rất quan trọng trong sự vận động thể loại văn học hiện đại. Cách đặt vấn đề và những nền tảng lí luận trên đây sẽ là cơ sở chung để chúng tôi đi vào xem xét sự tương tác thể loại nhìn từ tiểu thuyết (chương 1) và nhìn từ truyện ngắn (chương 2). 1.2. SỰ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY - NHÌN TỪ TIỂU THUYẾT 1.2.1. SỰ TRỞ LẠI CỦA CÁC THỂ KÍ TRONG TIỂU THUYẾT Các thể kí (từ đây gọi tắt là kí) một lần nữa trở lại trong tiểu thuyết. Nói sự trở lại của kí bởi đây không phải là lần đầu tiên giữa kí và tiểu thuyết có mối quan hệ tương tác. Mối "duyên kì ngộ" giữa kí và tiểu thuyết đã thực sự tạo nên nhiều điều thú vị trong lịch sử tương tác giữa hai loại/thể này. Từ hướng nhìn lịch đại, nhiều nhà nghiên cứu nói đến sự đứt gãy và tiếp nối trong quá trình tương tác giữa kí và tiểu thuyết. Trong văn học đầu thế kỉ XX, sự tương tác giữa kí, đặc biệt là phóng sự với tiểu thuyết là một hiện tượng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Đến văn học 1945 - 1975, với xu hướng "sử thi hoá", mối duyên tình tiểu thuyết - phóng sự vì thế cũng không còn; thay vào chỗ của phóng sự là yếu tố kí sự, bút kí, là chất sử thi,... Đến văn học sau 1986, thật thú vị khi chúng ta chứng kiến sự hội
  • 31. 27 ngộ giữa kí và tiểu thuyết như là sự tiếp nối của một quá trình đứt gãy, gián đoạn. Điều đáng nói là, trong cả hai thời điểm, lúc nào kí cũng đi đầu; kí mở đường và "tiếp sức" đầy hiệu quả cho tiểu thuyết. 1.2.1.1. Phóng sự trong tiểu thuyết Nói đến sự trở lại của kí chủ yếu là nói đến sự trở lại của phóng sự. Nhìn lại quá trình tương tác thể loại trong văn học đầu thế kỉ, chúng ta dễ dàng thống nhất về vai trò mở đường của kí. Như một quy luật của sự vận động thể loại, trong những giai đoạn với nhiều sự kiện, biến cố; kí luôn là thể loại "xông xáo" đi đầu. Nguyễn Thành Thi nhìn thấy vai trò ấy của kí: "Thực ra, tiểu thuyết dù có thành tựu đột xuất ngay từ đầu, vẫn không phải là thể loại tiên phong. Vị trí tiên phong ấy dành cho thể kí" [357]. Ông đã chứng minh một cách thuyết phục về sự khởi đầu này: "Bất chấp sự phát triển ngập ngừng của các thể tiểu thuyết, truyện ngắn, kí phát triển rầm rộ ngay trong những năm đầu văn học quốc ngữ sơ khai. Hàng trăm tác phẩm du kí đăng trên Gia Định báo (miền Nam) và Nam Phong tạp chí (miền Bắc)". Có thể nói đến các tác phẩm của Trương Minh Kí, Đông Hồ, Mai Khuê, Thượng Chi,… Đến những năm 30, xuất hiện hàng loạt những nhà văn viết phóng sự tiêu biểu như: Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng, Phi Vân, Trọng Lang, Hoàng Đạo,… Khi đã phát triển và định hình về mặt thể loại, phóng sự với những tính năng thể loại đặc thù của mình đã "tiếp sức", thúc đẩy sự phát triển của tiểu thuyết. Trong công trình "Sự tương tác giữa các thể loại trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945", Tôn Thất Dụng đã đề cập đến mối quan hệ này: "Thể loại phóng sự đã thúc đẩy cho thể loại tiểu thuyết phát triển nhanh bằng cách cung cấp cho những nhà viết tiểu thuyết cách nhìn mới gắn với thực tiễn cuộc sống, và sau đó tiểu thuyết thâm nhập vào phóng sự làm cho nó gắn bó với đời sống văn học hơn" [65]. Như vậy, bên cạnh sự tương tác giữa chất trữ tình và truyện ngắn để hình thành nên dòng truyện ngắn trữ tình với những tên tuổi tiêu biểu như Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh,…; chúng ta còn thấy một chiều tương tác khác - chiều tương tác giữa phóng sự và tiểu thuyết. Sự thâm nhập của phóng sự vào tiểu thuyết đã tạo nên những tiểu thuyết phóng sự nổi tiếng. Tên tuổi của Vũ Trọng Phụng chủ
  • 32. 28 yếu gắn với các tiểu thuyết phóng sự như: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê. Nhiều người xếp ông lên hàng "chiếu nhất" là bởi sự kết hợp giữa một "ông vua phóng sự" và một "tiểu thuyết gia trác tuyệt" trong cây bút tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng. Văn học 1945 - 1975 với xu hướng lãng mạn cách mạng đã tạo nên một mối quan hệ tương tác hoàn toàn khác. Vẫn là sự tác động, thâm nhập giữa thể tiểu thuyết và loại kí nhưng việc chú trọng ghi chép sự kiện nhằm biểu dương "người tốt việc tốt" đã đưa tiểu thuyết "ngả sang" [357] với bút kí, kí sự. Phóng sự, bên cạnh đó là bi kịch, hoàn toàn bị "xóa sổ" [357], không còn sự hiện diện trong bức tranh thể loại văn xuôi 1945 - 1975. Có thể coi đó là giai đoạn đứt gãy bởi sự tác động có tính chất quyết định của các yếu tố ngoài văn học. Do vậy mà, như một duyên nợ, phóng sự trở lại một cách đầy huy hoàng trong văn học sau 1986. Cuộc sống bề bộn thời hậu chiến có lẽ là mảnh đất màu mỡ ươm mầm cho phóng sự. Một lần nữa phóng sự giữ vai trò của một thể loại tiên phong. Trong "logic quanh co của tương tác thể loại", Nguyên Ngọc khẳng định: phóng sự và kịch đi đầu. Mở đầu cho mùa bội thu của văn xuôi là sự gặt hái thành công của một thể loại thuộc loại hình kí: đó là phóng sự văn học. Đúng là phóng sự văn học (từ đây gọi tắt là phóng sự) luôn là cánh chim báo bão trong những giai đoạn văn học mới. Hàng loạt phóng sự ra đời và gây được tiếng vang lớn: Lời khai của bị can, Người biết làm giàu (Trần Huy Quang), Cái đêm hôm ấy đêm gì (Phùng Gia Lộc), Người đàn bà quỳ (Trần Khắc), Người lang thang không cô đơn (Minh Chuyên), Câu chuyện về một vùng văn hóa (Võ Văn Trực), Đêm trắng (Hoàng Hữu Các), Câu chuyện về một ông vua lốp (Nhật Linh),… Cho đến nay, chúng ta vẫn thấy sức tác động mạnh mẽ của phóng sự "Cái đêm hôm ấy đêm gì" - Phùng Gia Lộc, thiên phóng sự cho thấy sự trưởng thành của thể loại này ngay từ những năm đầu của công cuộc đổi mới văn học. Tiếp liền sau phóng sự không phải là truyện ngắn mà là một thời kì sôi nổi của tiểu thuyết. Tiểu thuyết bùng phát, thăng hoa; tiểu thuyết lên ngôi trước truyện ngắn. Đến lúc này, tiểu thuyết mới thể hiện vai trò "cột xương sống" của đời sống văn học. Sau sự mở đầu của phóng sự là sự xuất hiện của hàng loạt những tiểu
  • 33. 29 thuyết gia lực lưỡng: Chu Lai viết đến 11 tiểu thuyết (tính đến năm 2004) , Lê Lựu viết 7 tiểu thuyết, Ma Văn Kháng được gọi là “nhà tiểu thuyết lực lưỡng” với 8 cuốn tiểu thuyết, trong đó có những cái tên hết sức quen thuộc: Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ,… Bên cạnh đó là những tiểu thuyết tạo “mắt bão”: Đất trắng – Nguyễn Trọng Oánh, Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh, Ăn mày dĩ vãng - Chu Lai, Cù lao tràm – Nguyễn Mạnh Tuấn, Sóng lừng – Triệu Xuân, Những mảnh đời đen trắng – Nguyễn Quang Lập,... Trong tính chất tiên phong của mình, phóng sự thể hiện vai trò kép: phóng sự vừa là thể loại mở đường, thể loại "tiếp sức" đồng thời phóng sự cũng thâm nhập vào tiểu thuyết, tạo nên một tố chất mới trong tiểu thuyết đương đại. Trần Thị Trâm trong bài viết Báo chí và cuộc hành trình văn học đã khẳng định về vai trò thứ nhất của phóng sự: "Có thể nói báo chí là nguồn động lực quan trọng, là cú hích cho công cuộc đổi mới văn học" [214]. Với logic quanh co nằm sâu trong tương tác thể loại, Nguyên Ngọc nói đến vai trò của phóng sự trong việc: thực sự đem đến cái nhìn ấm nóng cho nhà văn trước thực tại. Chính phóng sự, như duyên nợ, một lần nữa đã tạo điều kiện cho các nhà văn xuôi dò tìm ra, trui rèn nên ngôn ngữ nghệ thuật mới của mình. Phóng sự đã thức tỉnh một cách nhìn mạnh dạn và thẳng thắn, một thái độ dấn thân, nhập cuộc; phóng sự đã cung cấp những mảng tư liệu, chất liệu sống cho tiểu thuyết. Tiểu thuyết và phóng sự văn học thường có duyên với nhau là điều dễ hiểu bởi những quan hệ gần gũi từ bên trong bản chất thể loại. Nôen Duytore cho rằng: phóng sự văn học là thể loại trung gian giữa tiểu thuyết và phóng sự báo chí. Cùng với hiện thực bề bộn, phức tạp, đa chiều của cuộc sống sau chiến tranh là tính chất mở, tính chất tự do gần như vô tận của tiểu thuyết, đã làm cho phóng sự vốn đã phát triển đến độ chín trước đó, thâm nhập mạnh mẽ vào trong cấu trúc của tiểu thuyết. Quan điểm nhìn thẳng, nói thật của Đại hội VI có tính chất mở đường, chất phóng sự trong tiểu thuyết mới chính là biểu hiện sinh động cho bước cách tân về cách nhìn của văn học trước cuộc sống mới. Dễ dàng nhận thấy những tiểu thuyết vừa kể
  • 34. 30 ở trên hầu hết là những tiểu thuyết phóng sự. Sự tương tác giữa phóng sự và tiểu thuyết Việt Nam trong chặng đường đầu của giai đoạn này là hình mẫu của kiểu tương tác tổng hợp thể loại: phóng sự và tiểu thuyết hoà quyện một cách rất khó phân tách trong cấu trúc tác phẩm. Ở đây cũng cần nói thêm rằng, hiện tượng này xảy ra phổ biến hơn trong những năm đầu, khi tiểu thuyết vừa mới khởi động. Sau đó, khi tính chất giao thời lắng xuống, quá trình tương tác tiếp diễn theo hình thức "đổi ngôi": chất phóng sự ngày càng nhạt dần nhường chỗ cho những yếu tố thể loại khác trong đặc tính mềm dẻo, rộng mở bất tận của tiểu thuyết. Đọc những tiểu thuyết trong chặng đường đầu chúng ta dễ dàng nhận thấy sự ngồn ngộn của bao vấn đề bỏng rát, bức bách của cuộc sống. Xét trong mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, độc giả sẽ thấy văn học gần với cuộc sống hơn, khoảng cách giữa văn học và cuộc sống thực tại được rút ngắn hơn bao giờ hết; tốc độ, thời gian để những vấn đề hiện thực tươi rói, nóng bỏng đi vào văn học cũng nhanh chóng hơn. Quả thực như vậy, chất phóng sự trong tiểu thuyết trước hết thể hiện ở sự đối thoại một cách trực diện trước cuộc sống hiện tại, ở tính thời sự ấm nóng, ở tính phản biện gay gắt của văn học với cuộc sống. Nhiều nhà tiểu thuyết chọn cho tác phẩm của mình bức tranh hiện thực đương thời với góc nhìn hiện tại. Cái tôi sắc bén và tinh nhạy trước những mảng hiện thực cuộc sống đương thời bộc lộ rất rõ qua nhiều tác phẩm. Nguyễn Khải vốn có sở trường ở khía cạnh này, nay được dịp khơi sâu thêm. Sau Nguyễn Khải, chất thời sự cuộc sống ngày càng đậm đặc trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Hoàng Minh Tường, Nguyễn Khắc Trường, Ma Văn Kháng, Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Mai Ngữ, Đoàn Lê, Lại Văn Long,… Chất phóng sự nằm ngay trong mảnh đất sở trường của Nguyễn Khải - "Cái hôm nay": "Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang, bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ với màu đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ, mới thật là một mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai phá" [178]. Với mảnh đất sở trường ấy, Nguyễn Khải dùng mũi nhọn tiểu thuyết để nhập cuộc, tham dự
  • 35. 31 vào nhiều chủ đề vốn hết sức "nhạy cảm", hóc búa, gai góc của cuộc sống bấy giờ. Đó là chủ đề tôn giáo trong các tiểu thuyết: Thời gian của người, Điều tra về một cái chết. Đó còn là sự va chạm giữa tư tưởng cũ và tư tưởng mới - một vấn đề hết sức phức tạp trong giai đoạn giao thời những năm hậu chiến: Gặp gỡ cuối năm, Một cõi nhân gian bé tí… Đọc tiểu thuyết Nguyễn Khải, có khi ta bắt gặp mô hình một phóng sự điều tra, đúng như nhan đề của cuốn tiểu thuyết - Điều tra về một cái chết; ở nhiều tiểu thuyết khác, ta bắt gặp những mô hình phóng sự chiến tranh: Vòng sóng đến vô cùng, Thời gian của người, Một cõi nhân gian bé tí; phóng sự xã hội: Gặp gỡ cuối năm, Điều tra về một cái chết, Vòng sóng đến vô cùng, Thượng đế thì cười,… Cũng như trong truyện ngắn, cái tôi chủ quan với chất giọng triết lí, tranh biện của tác giả không hề có ý định giấu giếm sau bức màn hư cấu của tiểu thuyết, ngược lại công khai xuất hiện, "xuất hiện lồ lộ" trong tác phẩm. Trong tiểu thuyết Nguyễn Khải, cái tôi tác giả trực tiếp triết lí, công khai tranh luận, trực diện bộc lộ chính kiến, quan điểm của mình trước những vấn đề gai góc, nóng bỏng của thời cuộc. Trong Thời gian của người, tác giả không trần thuật ở ngôi thứ ba mà xuất hiện trong tác phẩm bằng nhân vật xưng "tôi". Cái tôi ấy “làm nhiệm vụ hỏi, nghe, ghi, khi cần thì giải thích, đôi khi cũng cao đàm khoát luận nhưng lại tự giễu mình ngay sau đó. Giọng kể của nhà văn dễ dàng, thông thoáng như đối mặt mà trò chuyện” [233]. Thời gian của người là câu chuyện của bốn người bạn, họ gặp nhau để cùng nhìn lại một quãng đời của mình. Chừng ấy con người nhưng với tầm hiểu biết sâu, rộng, cặn kẽ về nhiều vấn đề, tác giả đã dẫn ta tản mạn vào những lĩnh vực khác nhau: khi thì thần học, khi thì về những con người anh dũng của dân tộc; khi lại làm một phóng sự điều tra, theo chân anh tình báo tầm cỡ len lỏi vào những mưu đồ tối mật của các vị có máu mặt trong chế độ Mỹ -Thiệu. Có điều, đôi khi ta cứ ngỡ ngòi bút ấy quá lan man, sa đà nhưng thật thú vị khi cuối cùng tất cả châu tuần vào một âm hưởng chủ đạo: sự khẳng định quá khứ, qua đó cũng chính là khẳng định ngày hôm nay.
  • 36. 32 Phóng sự cũng phản ánh những bức chân dung đẹp của cuộc sống, cũng nêu gương "người tốt việc tốt" nhưng là thể loại thấm đẫm chất hiện thực nên mũi nhọn của phóng sự là đi vào những điểm nóng để phát hiện, để phê phán, để rung hồi chuông cảnh tỉnh. Bước vào thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết Tạ Duy Anh là bước vào một thế giới với bao tăm tối, ngột ngạt, bao góc khuất cần phải được soi sáng. Có thể thấy, màu đen là phông nền, là gam màu chủ đạo trong tiểu thuyết của nhà văn "luôn làm bạn đọc giật mình và suy ngẫm bởi những vấn đề gai góc của xã hội hiện đại này" [301]. Trả lời phỏng vấn báo chí, Tạ Duy Anh trực tiếp phát ngôn về luận điểm này: "Tôi là người thích đi mấp mé bên bờ vực của cái ác và cái thiện với hi vọng có thể soi rọi vào nó ở những phần khuất lấp ít người chạm tới" (Thiên thần sám hối - phần dư luận) [6, tr159]. Ngay nhan đề những cuốn tiểu thuyết của ông đã bao hàm xu hướng phản biện gay gắt trước những vấn nạn, những câu hỏi bức bối của cuộc sống hôm nay: Lão Khổ, Thiên thần sám hối, Giã biệt bóng tối, Đi tìm nhân vật, Sinh ra để chết… Lão Khổ hướng đến mổ xẻ một vết thương vẫn không thôi nhức nhối: vấn đề cải cách ruộng đất và những mối thâm thù truyền kiếp như một thứ tội tổ tông vẫn dai dẳng làm lao đao bao thế hệ. Đi tìm nhân vật được viết dưới hình thức một cuộc truy tìm thủ phạm về vụ giết chết thằng bé đánh giày của nhân vật "tôi". Dưới hình thức ấy, nhân vật "tôi" - có thể trùng khít hoặc không hoàn toàn trùng khít với tác giả - đã nhập cuộc, lên đường truy tìm cái ác, truy tìm thủ phạm giết người. Bằng lối kể tuyến tính trong hành trình nhập cuộc của nhân vật tôi, câu chuyện được làm dày thêm mãi bởi bao bức tranh khác nhau của cuộc sống. Theo chân tác giả, người đọc được "lùng sục" vào thế giới của bóng đêm với bao cửa hiệu trá hình, quán bar, vũ trường, khách sạn,… Những cái tên cửa hiệu ta vẫn bắt gặp nhan nhản ngoài đường phố được đưa vào tiểu thuyết vô tình hay hữu ý gợi ta nhớ đến thiên tiểu thuyết phóng sự Số đỏ của Vũ Trọng Phụng: người đọc được lang thang từ cửa hiệu "Hơn cả sự gợi cảm", "Bướm xanh" đến quán bar "Cảm giác thiên đường", khách sạn "Cổng vòm"; từ những khu ổ chuột nhầy nhụa, rách nát đến những quán nước không tên, từ thế giới của bóng đêm đến cuộc sống nhếch nhác của những con