SlideShare a Scribd company logo
1 of 168
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Phạm Thị Xuân Lan
VĂN HÓA TÂM LINH
TRONG TRUYỆN NGẮN, TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
(1932 – 1945)
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Phạm Thị Xuân Lan
VĂN HÓA TÂM LINH
TRONG TRUYỆN NGẮN, TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
(1932 – 1945)
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ THU YẾN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài này, ngoài việc cố gắng của bản thân,
người viết đã nhận được rất nhiều sự động viên giúp đỡ từ thầy cô, bạn bè, cơ
quan công tác và các tổ chức ban ngành của trường ĐHSP TP. HCM.
Trước tiên người viết xin bày tỏ lòng biết ơn của mình với PGS. TS Lê
Thu Yến – Phó chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư Phạm Thành Phố
Hồ Chí Minh. PGS. TS Lê Thu Yến đã tận tình giúp đỡ người viết làm sáng tỏ
các vấn đề được triển khai trong đề tài suốt quá trình thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ văn,
phòng SĐH Trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho người viết hoàn thành luận văn này. Xin cảm ơn BGH Trường THPT
Nguyễn Văn Trỗi đã tạo điều kiện thuận về thời gian công tác để người viết
hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp và bạn bè đã giúp đỡ và động
viên người viết trong suốt quá trình làm luận văn.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2012
Người viết
MỤC LỤC
DẪN NHẬP ...............................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề......................................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu ...........................................................................................6
4. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................6
5. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................7
5.1. Phương pháp lịch sử......................................................................................8
5.2. Phương pháp hệ thống...................................................................................8
5.3. Phương pháp so sánh.....................................................................................8
5.4. Phương pháp phân tích tổng hợp...................................................................8
5.5. Phương pháp liên ngành................................................................................9
6. Đóng góp của luận văn ......................................................................................10
7. Bố cục của luận văn...........................................................................................10
NỘI DUNG ..............................................................................................................12
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG................................................................12
1.1. Văn hóa và văn hóa tâm linh ..........................................................................12
1.1.1. Văn hóa.....................................................................................................12
1.1.2. Tâm linh ...................................................................................................14
1.1.3. Văn hóa tâm linh ......................................................................................18
1.2. Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong văn hóa Việt Nam...........................20
1.2.1. Nền văn hóa gốc nông nghiệp trồng lúa nước.........................................21
1.2.2. Tư tưởng Nho- Phật- Đạo và các tôn giáo khác.......................................24
1.3. Truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1932-1945..............................25
1.3.1. Bối cảnh văn học 1932-1945....................................................................25
1.3.2. Thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết có yếu tố tâm linh trong văn học Việt
Nam 1932-1945..................................................................................................28
1.4. Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt
Nam1932-1945 ......................................................................................................30
1.4.1. Kế thừa yếu tố tâm linh trong văn học dân gian Việt Nam......................31
1.4.2. Kế thừa yếu tố tâm linh trong văn học trung đại Việt Nam.....................34
1.4.3. Tiếp biến yếu tố tâm linh trong văn học phương Tây..............................37
CHƯƠNG 2: NHỮNG BIỂU HIỆN VĂN HÓA TÂM LINH TRONG
TRUYỆN NGẮN, TIỂU THUYẾT VIỆT NAM 1932-1945................................40
2.1. Mộng...............................................................................................................40
2.2. Cầu cúng, khấn vái .........................................................................................48
2.2.1. Cầu đảo....................................................................................................48
2.2.2. Thờ cúng..................................................................................................55
2.2.3. Khấn vái, thề nguyền................................................................................60
2.2.4. Lập miếu (am, miễu) ................................................................................66
2.3. Điềm báo.........................................................................................................68
2.4. Phép thuật, bói toán ........................................................................................74
2.4.1. Phép thuật, bùa ngải, phù chú ..................................................................74
2.4.2. Bói toán, tướng thuật................................................................................79
2.5. Linh ứng..........................................................................................................82
2.5.1. Quả báo.....................................................................................................82
2.5.2. Ứng báo ....................................................................................................86
2.6. Hồn ma, hóa kiếp............................................................................................88
2.6.1. Hồn ma .....................................................................................................88
2.6.2. Hóa kiếp ...................................................................................................96
Chương 3: HIỆU QUẢ THẨM MĨ CỦA YẾU TỐ TÂM LINH TRONG
TRUYỆN NGẮN, TIỂU THUYẾT VIỆT NAM 1932-1945..............................103
3.1. Yếu tố tâm linh – phản ánh hiện thực...........................................................103
3.1.1. Hiện thực đời sống tâm linh...................................................................104
3.1.2. Hiện thực xã hội .....................................................................................108
3.2. Yếu tố tâm linh – Ý nghĩa nhân văn.............................................................111
3.2.1. Yếu tố tâm linh – Ý nghĩa giáo dục .......................................................111
3.2.2. Yếu tố tâm linh – Khát vọng hạnh phúc.................................................117
3.3. Yếu tố tâm linh – Giá trị nghệ thuật đặc sắc của truyện ngắn, tiểu thuyết Việt
Nam 1932-1945 ...................................................................................................124
3.3.1. Chi tiết, tình huống.................................................................................124
3.3.2. Hệ thống ngôn từ....................................................................................128
3.3.3. Hệ thống nhân vật...................................................................................131
3.3.4. Không gian thiêng ..................................................................................134
3.3.5. Thời gian thiêng .....................................................................................137
KẾT LUẬN............................................................................................................141
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................144
1
DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Văn học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong
tục… là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hoá. Nếu văn hoá thể
hiện quan niệm và cách ứng xử của con người trước thế giới, thì văn học là hoạt
động lưu giữ những thành quả đó một cách sinh động nhất. Văn hoá của một dân
tộc cũng như của toàn thể nhân loại từng trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn
lựa, đấu tranh và sáng tạo để hình thành những giá trị trong xã hội. Văn học vừa thể
hiện con đường tìm kiếm đó, vừa là nơi định hình những giá trị đã hình thành. Cũng
có thể nói văn học là văn hoá lên tiếng bằng ngôn từ nghệ thuật.
Văn học biểu hiện văn hoá, cho nên văn học là tấm gương của văn hoá. Trần
Ngọc Thêm đã nhận xét Tiếng Việt “phản ánh rõ hơn đâu hết linh hồn, tính cách
của con người Việt Nam và những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt Nam”
[92; tr 316]. Văn hoá tác động đến văn học không chỉ ở đề tài mà còn ở toàn bộ bầu
khí quyển tinh thần bao bọc hoạt động sáng tạo của nhà văn và hoạt động tiếp nhận
của bạn đọc. Bản thân nhà văn với thế giới nghệ thuật của mình là một sản phẩm
văn hoá. Người đọc, với chân trời chờ đợi hướng về tác phẩm, cũng được rèn luyện
về thị hiếu thẩm mỹ trong một môi trường văn hoá nhất định. Chính không gian văn
hoá này chi phối cách xử lý đề tài, thể hiện chủ đề, xây dựng nhân vật, sử dụng thủ
pháp nghệ thuật… trong quá trình sáng tác; đồng thời cũng chi phối cách phổ biến,
đánh giá, thưởng thức… trong quá trình tiếp nhận. Một nền văn hoá cởi mở, bao
dung mới tạo điều kiện thuận lợi cho văn học phát triển. Vì vậy, có thể nói văn học
là thước đo, là “nhiệt kế” vừa lượng định, vừa kiểm nghiệm chất lượng và trình độ
văn hoá của một xã hội trong một thời điểm lịch sử nhất định.
Trong tinh thần đó, nhiều nhà nghiên cứu đã căn cứ vào những dữ liệu văn học
để tìm hiểu bức tranh văn hoá của một thời đại. Nói cách khác, thực tiễn văn học có
thể cung cấp những cứ liệu đáng tin cậy cho khoa nghiên cứu văn hoá. Đối với mỗi
quốc gia, văn hóa là giá trị cao quí nhất. Bởi văn hóa (do gốc rễ lịch sử bền sâu bao
giờ cũng có tiềm lực trường tồn lớn hơn những thiết chế văn minh). Văn hóa với sự
2
tích lũy những hằng số lịch sử, mang hồn cốt của một dân tộc và có thể trụ vững
theo thời gian đồng thời định hướng sự phát triển của văn minh. Văn hoá chi phối
hoạt động và sự phát triển của văn học, thì ngược lại, văn học cũng tác động đến
văn hóa, hoặc trên toàn thể cấu trúc, hoặc thông qua những bộ phận hợp thành khác
của nó. Những nhà văn tiên phong của dân tộc bao giờ cũng là những nhà văn hoá
lớn. Giữa văn học và văn hoá có mối quan hệ hữu cơ mật thiết như vậy, nên việc
tìm hiểu văn học dưới góc nhìn văn hoá là một hướng đi cần thiết và có triển vọng.
Cùng với những cách tiếp cận văn học bằng xã hội học, mỹ học, thi pháp học…
cách tiếp cận văn học bằng văn hoá học giúp chúng ta lý giải trọn vẹn hơn tác phẩm
nghệ thuật với hệ thống mã văn hoá được bao hàm bên trong nó. Những yếu tố văn
hoá liên quan đến thiên nhiên, địa lý, lịch sử, phong tục, tập quán, ngôn ngữ… có
thể được vận dụng để cắt nghĩa những phương diện nội dung và hình thức của tác
phẩm. Nó cũng có thể góp phần lý giải tâm lý sáng tác, thị hiếu độc giả và con
đường phát triển nói chung của văn học.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1932-1945 mang những giá trị từ nguồn văn
hoá truyền thống âm thầm chảy trong mạch ngầm của nó và thấm vào thế giới hình
tượng và ngôn từ của tác phẩm đồng thời có những giá trị văn hoá mới hình thành
vào lúc đương thời không thôi cám dỗ, kêu gọi, thách thức. Trong văn học thời kì
này, qua tài năng nghệ thuật, sự phá cách, chất hiện đại trong phong cách sáng tác
cùng với vốn văn hóa truyền thống sâu rộng của mình, các tác giả đã cho chúng ta
hiểu được niềm tin thiêng liêng, tín ngưỡng truyền thống, phong tục tạp quán, nếp
cảm nếp nghĩ và những quan niệm thể hiện phương thức tư duy của nhân dân –
những điểm cốt lõi tạo nên giá trị văn hóa tinh thần đặc sắc của dân tộc: văn hóa
tâm linh.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1932-1945 một mặt kế thừa các giá trị văn hóa tinh
thần của văn học dân gian và văn học trung đại mặt khác đi sâu khám phá tâm hồn
phức tạp của con người trong thời đại mới. Sự phá cách, chất hiện đại trong phong
cách sáng tác của các nhà văn đã làm nên sự đa sắc cho giai đoạn văn học này.
Trong thời đại của chúng ta, vấn đề tâm linh con người được quan tâm chú ý nhiều
3
hơn bởi “tâm linh trong cuộc sống của con người thuộc về văn hóa, và phải được
đối xử một cách văn hóa” [33; tr 328]. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài: “Văn hóa tâm
linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam 1932-1945” như một hành trình tìm
hiểu truyền thống văn hóa Việt Nam trong dòng chảy của văn học dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề
Tâm linh là vấn đề phức tạp chưa được tìm hiểu thấu đáo. Đã có một thời
người ta đồng nhất tâm linh với mê tín dị đoan và ra sức bài trừ. Những năm gần
đây, trên tinh thần cởi mở để hòa nhập cùng thế giới, vấn đề tâm linh được đề cập
nhiều hơn. Người ta nói nhiều về tâm linh như thế giới tâm linh, đời sống tâm linh,
giải tỏa tâm linh, văn hóa tâm linh... Tâm linh đối với văn học đã có gắn kết nhau
như duyên nợ nên việc đi sâu khám phá tâm linh sẽ là hướng đi đúng quĩ đạo của
văn học, Huỳnh Như Phương cũng có ý cho rằng tìm hiểu tâm linh là hướng đi vào
thế giới nội tâm để khám phá chiều sâu tâm linh nhằm nhận diện hình ảnh con
người đích thực là ý hướng có triển vọng của nền văn học dân chủ. Con người với
đời sống tâm hồn vốn là một kho báu bí ẩn đối với nhà văn. Nói như nhà văn Mô-
ôm thì chính đời sống tâm linh đã làm cho bản chất của con người chứa đầy những
yếu tố bất ngờ, bí ẩn.
Văn học chính là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa tinh thần cho mọi thế hệ.
Từ văn học hiểu thêm về văn hóa, đứng ở góc độ văn hóa nhìn sang văn học, văn
hóa được nhận ra một cách tinh tế và văn học có nền tảng vững chắc như cội cây đã
được sâu rễ bền gốc.
Xung quanh đề tài luận văn về Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu
thuyết Việt Nam 1932-1945, trong phạm vi tư liệu sưu tầm được, chúng tôi điểm
qua một số công trình, bài báo khoa học có liên quan đến vấn đề này.
Về văn hóa tâm linh, trong nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa, các tác
giả đều có đề cập những vấn đề liên quan đến văn hóa tâm linh. Tuy nhiên sự đề cập
mới chỉ dừng lại ở việc nêu hiện tượng, nhìn nhận khái quát.
Công trình “Văn hóa tâm linh” (2002) của Nguyễn Đăng Duy giới thiệu
những vấn đề về văn hóa tâm linh người Việt ở miền Bắc trong các lĩnh vực: tín
4
ngưỡng, thần thánh, trời đất, thờ Mẫu, tang ma, thờ cúng tổ tiên, các tôn giáo Phật,
Đạo, Thiên chúa giáo. Tác giả nhìn khái quát về tâm linh trong mọi mặt đời sống.
Trong đó có khía cạnh tâm linh trong văn học nghệ thuật “tâm linh trong sáng tác
văn học nghệ thuật là những hình ảnh, biểu tượng thiêng liêng nào đó mà tác giả
thể hiện được ra trong tác phẩm, làm rung động những trái tim, ngấn lệ những tâm
hồn” [20; tr 38].
Công trình “Phân tâm học và văn hóa tâm linh” của S.Freud, C.Jung,
E.Fromm, R.Assagioli do Đỗ Lai Thúy biên soạn (2004). Công trình này đã đi sâu
vào tìm hiểu con người với ba kích thước cơ bản. Đó là con người với bản chất sinh
học, con người với bản chất xã hội và con người với bản chất tâm linh. Trong công
trình này, S.Freud và C.Jung đã phân tích tâm linh như một lĩnh vực của đời sống
tinh thần. Tâm linh không đồng nhất với tín ngưỡng và tôn giáo. Tâm linh không
nằm ngoài phạm vi nghiên cứu khoa học, mà còn là đối tượng của khoa học. Tâm
linh cùng với khoa học và tôn giáo sẽ đưa con người đến một sự phát triển hài hòa
tất cả các mặt sinh học - xã hội - tâm lí - tâm linh. S.Freud đã lí giải tâm linh con
người từ nguồn gốc của tục Tôtem và C.Jung lí giải về giấc mơ của con người.
Cùng với lí thuyết Phân tâm học và tôn giáo của E.Fromm, lí thuyết Phân tâm học
và Thiền, lí thuyết về sự phát triển của siêu cá nhân đã giúp cho chúng ta có cái
nhìn khoa học về các hiện tượng tâm linh.
Gần với công trình trên là chuyên luận “Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam
Bộ” (2004) của Nguyễn Hữu Hiếu bàn về văn hóa tâm linh của người Việt ở Nam
Bộ qua tín ngưỡng thờ Mẫu và các lễ hội cổ truyền từ sự ảnh hưởng của văn hóa
Chăm.
Với công trình nghiên cứu “Văn hóa tâm linh Thăng Long Hà Nội” của
Văn Quảng, chúng ta được hiểu thêm những biểu hiện phong phú, đa dạng về tâm
thức cũng như hoạt động thờ cúng cụ thể trong đời sống tinh thần, văn hóa tâm linh
của cư dân Thăng Long - Hà Nội. Qua đây, tác giả đã giới thiệu về những công
trình văn hóa vật chất đậm tính tâm linh: phủ, điện, đình, đền, chùa, miếu… cùng
5
với những tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ cúng các thần và những tín ngưỡng tâm linh nổi
bật nhất ở mảnh đất kinh kì ngàn năm văn hiến.
Bài viết “Tiếp cận vấn đề tâm linh” của Sơn Nam đã khẳng định tâm linh là
vấn đề “bản sắc văn hóa” [69; tr 282], tác giả đã đi tìm ranh giới giữa tâm linh với
tín ngưỡng và mê tín.
Bài viết “Tinh thần phân tích tâm linh một đặc trưng của chủ nghĩa hiện
thực” của PGS.TS. Phùng Quí Nhâm đã góp thêm một cách nhìn về tâm linh con
người. Ông xem phân tích tâm linh con người cũng là một trong những đặc trưng
quan trọng của chủ nghĩa hiện thực.
Trong bài viết “Văn hóa và thị trường” GS.TS. Nguyễn Văn Hạnh nhận
định rằng “Tâm linh có vị trí hiển nhiên và nổi bật trong đời sống tinh thần của con
người. Có thể coi con người là một sinh vật tâm linh” [33; tr 328].
Trong những công trình bàn về thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam
1932-1945 chúng tôi chú ý đến những công trình của Bùi Việt Thắng bởi trong
công trình nghiên cứu Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại,
ít nhất có ba lần Bùi Việt Thắng nhắc đến vấn đề “truyện ngắn được quan niệm là
một bộ phận của tiểu thuyết” [90; tr 36-71-132]
Bài viết “Tâm linh- bản thể con người” của Nguyễn Kiên trên Tạp chí Tia
sáng góp phần làm rõ cốt lõi của đời sống tâm linh ở trong bản thể của con người.
Luận văn thạc sĩ của Hoàng Thị Minh Phương về “Văn hóa tâm linh trong
văn xuôi trung đại” đã góp phần tìm hiểu những giá trị đặc sắc của các văn hóa tâm
linh trong văn xuôi trung đại.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thu Hiền đã tìm hiểu “Yếu tố tâm linh trong
truyện ngắn sau 1975”. Qua công trình này, chúng ta thấy rằng yếu tố tâm linh có
những giá trị như hằng số trong văn học nói riêng và trong đời sống văn hóa Việt
nói chung theo suốt chiều dài của lịch sử dân tộc.
Mặc dù vấn đề tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
chưa được quan tâm nhiều, nhưng cũng có một vài công trình nghiên cứu liên quan
đến tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945. Đó là luận văn
6
thạc sĩ của Trần Thanh Tùng nghiên cứu về Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn
Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Qua luận văn này, người viết đi vào tìm hiểu yếu tố
kỳ ảo như một thủ pháp nghệ thuật trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930-1945.
Như vậy, vấn đề tâm linh trong văn học đã được một số nhà nghiên cứu bàn
đến ở những phạm vi khác nhau. Nhìn chung các nhà nghiên cứu thừa nhận có một
thế giới tâm linh tồn tại trong đời sống con người Việt Nam từ xưa đến nay, đặc biệt
là trong văn học. Tuy nhiên, trong truyện ngắn, tiểu thuyết Viêt Nam 1932-1945
vẫn chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu và qui mô. Từ những ý kiến quí báu
của những người nghiên cứu đi trước, chúng tôi chọn vấn đề văn hóa tâm linh và đi
sâu vào đề tài “Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-
1945” yếu tố quan trọng làm nên giá trị của văn học giai đoạn này.
3. Mục đích nghiên cứu
Tác phẩm văn học tái hiện lại đời sống của con người. Văn học Việt Nam có nhiều
thay đổi và để lại dấu ấn đậm nét nhất ở giai đoạn 1932-1945. Đây là thời kì hoàn
thiện diện mạo hiện đại trên tất cả mọi phương diện của đời sống văn chương nghệ
thuật dân tộc.
Truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 không chỉ phản ánh hiện thực
phức tạp của đời sống mà còn đi sâu vào thế giới tâm linh của con người. Trong
cách cảm nhận thế giới của người Việt “thiên nhân tương cảm”, “địa linh sinh
nhân kiệt”, “vạn vật hữu linh” nên truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
cũng để lại dấu ấn tâm linh trong các tác phẩm... Chính vì thế, luận văn đi sâu tìm
hiểu văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 để cóp
nhặt những hiện tượng mang dấu ấn văn hóa tâm linh- một biểu hiện của truyền
thống văn hóa Việt trong sáng tác của các nhà văn hiện đại. Đồng thời cũng giúp ta
nhận thấy sức hấp dẫn của những truyện ngắn, tiểu thuyết mang yếu tâm linh. Đó
cũng là sự minh chứng cho một dòng văn học về tâm linh vẫn ngầm chảy trong lịch
sử văn học nước nhà.
4. Phạm vi nghiên cứu
7
Trong phạm vi đề tài và tư liệu, chúng tôi chỉ khảo sát những tác phẩm
truyện ngắn và tiểu thuyết có xuất hiện nhiều yếu tố tâm linh của các tác giả tiêu
biểu ở miền Bắc giai đoạn 1932-1945. Cụ thể gồm 16 tác giả và 75 tác phẩm
(truyện ngắn, tiểu thuyết) như sau:
1. Nam Cao - 2 truyện ngắn
2. Phạm Cao Củng - 1 truyện ngắn
3. Bùi Hiển - 2 truyện ngắn
4. Nguyên Hồng - 2 truyện ngắn; 1 tiểu thuyết
5. Lan Khai - 8 truyện ngắn; 1 tiểu thuyết
6. Cung Khanh - 6 truyện ngắn
7. Nhất Linh - 4 truyện ngắn;1 tiểu thuyết
8. Thế Lữ - 5 truyện ngắn; 2 tiểu thuyết
9. Hoàng Trọng Miên - 5 truyện ngắn
10. Đỗ Huy Nhiệm - 5 truyện ngắn
11. Vũ Trọng Phụng - 1 truyện ngắn; 2 tiểu thuyết
12. Trần Tiêu - 5 truyện ngắn; 2 tiểu thuyết
13. Thanh Tịnh - 4 truyện ngắn
14. Ngô Tất Tố - 1 tiểu thuyết
15. Nguyễn Tuân - 11 truyện ngắn; 1 tiểu thuyết
16. TCHYA- Đái Đức Tuấn - 1 truyện ngắn; 2 tiểu thuyết
Trên cơ sở thống kê, phân loại các hiện tượng tâm linh trong các tác phẩm
dựa trên hệ qui chiếu từ văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam (phong tục, tập
quán, tín ngưỡng, quan niệm, nếp cảm nếp nghĩ...), chúng tôi đã bước đầu giải thích
một cách có cơ sở một số hiện tượng tâm linh phổ biến trong đời sống tinh thần của
người dân Việt. Qua đó, chúng ta sẽ thấy được ý nghĩa của yếu tố tâm linh đối với
các truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945.
5. Phương pháp nghiên cứu
8
5.1. Phương pháp lịch sử
Tác phẩm văn học là sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử trong tiến trình
phát triển của lịch sử dân tộc. Vì vậy, hướng đến việc tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử xã
hội, môi trường văn hóa tư tưởng chung của thời đại trong mối tương tác của chúng
với tác giả sẽ giúp chúng tôi lí giải yếu tố văn hóa trong văn học một thời đại.
5.2. Phương pháp hệ thống
Chúng tôi coi truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932–1945 là một bộ phận,
một hệ thống. Trong đó những tác phẩm mang yếu tố tâm linh được đặt trong hệ
thống chung của truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam để khảo sát.
Căn cứ vào những số liệu có được từ thao tác thống kê, phân loại từ tần số
xuất hiện các hiện tượng tâm linh, chúng tôi sử dụng phương pháp tổng hợp nhằm
lý giải những yếu tố tâm linh trong từng tác phẩm thuộc phạm vi khảo sát. Từ đó có
cái nhìn toàn diện về văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam giai
đoạn 1932- 1945.
5.3. Phương pháp so sánh
Sử dụng phương pháp so sánh giúp chúng tôi thấy được điểm giống và khác
nhau giữa các yếu tố tâm linh trong từng tác phẩm của các tác giả khác nhau, cũng
như góp phần làm rõ sự giống và khác nhau của những yếu tố tâm linh trong truyện
ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 so với văn học trung đại Việt Nam và truyện
ngắn Việt Nam sau 1975.
5.4. Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp phân tích, tổng hợp cũng được chúng tôi sử dụng trong quá
trình tiếp nhận, nghiên cứu truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam có yếu tố tâm linh
giai đoạn 1932-1945. Phương pháp này giúp chúng tôi xem xét yếu tố tâm linh trên
những cơ sở nhất định đồng thời rút ra những nhận định xác thực về sự tồn tại của
tâm linh trong dòng chảy của văn học.
9
5.5. Phương pháp liên ngành
Phương pháp này cũng được sử dụng trong luận văn của chúng tôi để việc
nghiên cứu hướng đến mục đích giúp người đọc thấy rõ vấn đề tâm linh thuộc về
văn hóa. Hơn thế, văn hóa và văn học luôn có mối quan hệ mật thiết.
10
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn tập trung tìm hiểu những biểu hiện của văn hóa tâm linh trong
truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945. Từ đó góp phần lí giải cho một số
vấn đề tâm linh trong văn học thời kì này, đồng thời làm sáng tỏ giá trị của những
tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết có yếu tố tâm linh.
7. Bố cục của luận văn gồm: (142 trang)
Dẫn luận (10 trang)
Chương 1: Những vấn đề chung (29 trang)
Trong chương 1, chúng tôi giới thiệu khái quát bối cảnh văn hóa - văn học
Việt Nam giai đoạn 1932-1945. Trên nền một xã hội có những biến đổi về kinh tế,
chính trị, văn hóa... văn học cũng có sự vận động, phát triển theo xu hướng phù hợp
với thời đại mới. Đặc biệt là thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết đã có bước hiện đại
hóa đáng kể và có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà. Trong dòng chảy
chung của văn học, chúng tôi muốn tìm về cội nguồn của văn hóa tâm linh trong
văn học dân tộc. Những vấn đề trên sẽ được làm sáng tỏ qua các mục sau:
1.1.Văn hóa tâm linh
1.2. Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong văn hóa Việt Nam
1.3.Truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1932-1945
1.4.Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam
1932-1945
Chương 2: Những biểu hiện của văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu
thuyết Việt Nam 1932-1945 (53 trang)
Chúng tôi phân tích các biểu hiện văn hóa tâm linh của người Việt Nam qua các
truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1932-1945. Bước đầu tiếp cận, chúng
tôi cóp nhặt và phân biệt những biểu hiện văn hóa tâm linh qua những hình thức
biểu hiện cụ thể:
2.1. Mộng
2.2 .Cầu cúng, khấn vái
2.3. Điềm báo
11
2.4. Phép thuật, bói toán
2.5. Linh ứng
2.6. Hồn ma, hóa kiếp
Chương 3: Hiệu quả thẩm mĩ của yếu tố tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt
Nam 1932-1945 (39 trang)
Tâm linh là một vấn đề thuộc về văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Vì vậy, khai thác yếu tố tâm linh chính là cách thức để nhà văn đi sâu vào thế giới
tâm linh đầy bí ẩn của con người. Chính vì thế, yếu tố tâm linh đã góp phần tạo nên
những giá trị khó phủ nhận về mặt nội dung và nghệ thuật. Nó là phương thức thể
hiện quan niệm mới về thế giới, cuộc sống và là một thủ pháp để nhà văn đi sâu vào
khám phá nội tâm phức tạp của con người. Từ đó, chúng tôi tìm hiểu hiệu quả nghệ
thuật của yếu tố tâm linh qua các mục sau:
3.1. Yếu tố tâm linh – Phản ánh hiện thực
3.2. Yếu tố tâm linh – Ý nghĩa nhân văn
3.3. Yếu tố tâm linh – Đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam
1932-1945
Kết luận (3 trang)
Tài liệu tham khảo (8 trang)
12
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Văn hóa và văn hóa tâm linh
1.1.1. Văn hóa
Văn hóa (Culture) là một khái niệm rộng, khó có một định nghĩa nào bao
quát đầy đủ nội hàm của nó. Văn hóa bao gồm hết thảy những sinh hoạt của loài
người, từ sinh hoạt vật chất đến sinh hoạt tinh thần và sinh hoạt xã hội. Mọi hoạt
động của con người và kết quả của những hoạt động do con người tác động vào giới
tự nhiên và xã hội một cách có ý thức đều được gọi là văn hóa. Quá trình phát triển
của loài người gắn liền với các hoạt động cải biến hoàn cảnh tự nhiên và xã hội.
Con người sáng tạo ra văn hóa và văn hóa lại tái tạo bản thân con người.
Nhìn một cách khái quát “văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử” [76; tr 1360].
Hồ Chí Minh cũng xem văn hóa là sáng tạo của con người “vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hằng ngày về mặc ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa” [109; tr 21].
Văn học là một hình thái đặc biệt của văn hóa, thuộc về hệ ý thức, lĩnh vực
văn hóa tinh thần. Với đối tượng nghiên cứu là một phương diện của văn hóa tinh
thần - văn hóa tâm linh trong văn học, chúng tôi lưu ý đến một số định nghĩa sau:
“Văn hóa theo nghĩa rộng là tập tục, tín ngưỡng, ngôn ngữ, tư tưởng, thị hiếu thẩm
mĩ,... những hiểu biết kĩ thuật cũng như toàn bộ việc tổ chức môi trường của con
người, những công cụ, nhà ở,... và nói chung là toàn bộ công nghiệp có thể truyền
lại được, điều tiết những quan hệ và những ứng xử của một nhóm xã hội với môi
trường sinh thái của nó” [20; tr 24].
13
Cũng có thể hiểu“Văn hóa là một chỉnh thể phức hợp bao gồm tri thức, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập tục và bất kì năng lực thói quen nào
khác mà con người cần có với tư cách là một thành viên của xã hội” [110; tr13].
Nhân dịp phát động thập kỉ thế giới phát triển văn hóa (1977-1988), tổ chức
văn hóa thế giới UNESCO công bố định nghĩa mới về văn hóa: “Văn hóa hôm nay
có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm
quyết định tính cách của một xã hội hay củabao gồm các mặt tình cảm, tri thức, vật
chất, tinh thần của xã hội. Nó không thuần túy bó hẹp trong sáng tác nghệ thuật
một nhóm người trong người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn
chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các
giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng” [110; tr 23-24].
Từ các định nghĩa trên, có thể hiểu văn hóa theo hai nghĩa rộng - hẹp. Nghĩa
rộng, văn hóa bao gồm các giá trị vật chất (văn hóa vật chất) và các giá trị tinh thần
(văn hóa tinh thần) do con người sáng tạo và tích lũy qua hoạt đông thực tiễn trong
quá trình lịch sử. Nghĩa hẹp, văn hóa chỉ liên quan đến đời sống tinh thần của con
người, tức những giá trị tinh thần nhằm thỏa mãn đời sống tinh thần của con người.
Với đối tượng nghiên cứu của luận văn là văn hóa tâm linh, chúng tôi vận
dụng khái niệm văn hóa theo nghĩa hẹp là những giá trị văn hóa trong lĩnh vực tinh
thần- văn hóa tinh thần. Đó là “những di sản văn hóa đem lại nguồn cảm hứng
thẩm mĩ cho con người bằng những hoạt động của các loại hình nghệ thuật. Cụ thể
là văn, thơ, hát... nghề mĩ nghệ thủ công, trò chơi nghệ thuật... Cùng với các loại
hình trên là phong tục, tập quán, lễ nghi, tín ngưỡng, tết, luật tục và những hương
ước, định ước và những tri thức dân gian” [12; tr 19]. Ở đây, có thể coi những
thành tố phong tục tập quán, lễ nghi, tín ngưỡng đều thuộc về văn hóa tâm linh bởi
chúng đều gắn với yếu tố tâm linh - một thành tố quan trọng trong đời sống văn hóa
tinh thần dân tộc. Văn hóa tâm linh luôn tác động đến sự phát triển của văn hóa dân
tộc.
Văn hoá không phải là một sản phẩm tinh thần chết cứng; trái lại, nó cũng có
sự vận động do sự phát triển ngày càng phong phú của đời sống vật chất. Nếu coi
14
văn hoá là một cái gì đó bất biến, thì có nghĩa là chúng ta đang hủy hoại, phá bỏ văn
hoá, phá bỏ chính cuộc sống tinh thần của chúng ta. Bởi, văn hoá cũng cần phải
thích ứng với những thay đổi của điều kiện xã hội để tồn tại. Nếu không thích ứng
kịp với những biến chuyển của thời gian, thì đời sống tinh thần nói chung, văn hoá
nói riêng của con người sẽ khô cứng mà chết dần. Có thể nói, đó chính là sự thể
hiện quy luật đào thải của tự nhiên trong lĩnh vực văn hoá.
1.1.2. Tâm linh
Tâm linh hay văn hóa tâm linh là một phạm trù rất bao la, rộng lớn và đã chi
phối chúng ta từng phút giây trong đời sống của mỗi con người. Vậy tâm linh là gì?
Qua tìm hiểu một số tài liệu, chúng tôi thấy có khá nhiều cách hiểu khác nhau về
tâm linh, do vậy cũng có nhiều khái niệm tâm linh .
Hướng thứ nhất, tâm linh được hiểu là khía cạnh tâm hồn, tinh thần, tình cảm
của con người. Theo Từ điển Tiếng Việt 2000, tâm linh là “tâm hồn, tinh thần” [76;
tr 897]. Trong đó, tâm hồn là “ý nghĩ và tình cảm làm thành đời sống nội tâm, thế
giới bên trong của con người” [76; tr 896] và tinh thần là “tổng thể nói chung
những ý nghĩ tình cảm, những hoạt động thuộc về đời sống nội tâm của con người"
[76; tr 994]. Theo đó, thế giới tâm linh là thế giới tâm hồn, thế giới tinh thần. Nói
đến tâm linh là nói đến đời sống nội tâm của con người trong tương quan với đời
sống vật chất bên ngoài. Tâm linh còn là một phần của tâm lí. Vì tâm lí là “toàn bộ
nói chung sự phản ánh của hiện thực khách quan vào ý thức con người, bao gồm
nhận thức, tình cảm, ý chí... biểu hiện trong hoạt động cử chỉ của mỗi người” [76;
tr 897]. Vậy tâm linh theo đó là một biểu hiện của đời sống tâm lí con người ở khía
cạnh tình cảm.
Hướng thứ hai, tâm linh được hiểu như một khả năng phán đoán, biết trước
sự việc. Trong Pháp Việt từ điển của Lê Khả Kế, tâm linh là “linh tính”. Từ điển
Tiếng Việt (2008) của Hoàng Phê cũng có nét nghĩa tâm linh là “khả năng biết
trước một số biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với mình, theo quan niệm duy tâm”
[76;tr897].
15
Cả hai hướng hiểu trên điều có chung một ý niệm về tâm linh gắn với con
người, trong ý thức của con người. Tuy nhiên nếu hiểu tâm linh trong thực tế đời
sống tinh thần của con người. “Tâm’’ là lòng dạ con người. Còn “linh” nghĩa là linh
thiêng, thiêng liêng. Vậy ‘‘Tâm linh’’ theo nét nghĩa này là sự linh thiêng được con
người thường xuyên nghĩ tới, tự nhắc mình ghi nhớ làm theo, tin theo.
Tâm linh là một phần quan trọng trong đời sống bởi “trong đời sống con
người ngoài mặt hiện hữu còn có mặt tâm linh. Về mặt cá nhân đã như vậy, mà mặt
cộng đồng ( gia đình, làng xã, dân tộc) cũng vậy. Nếu mặt hiện hữu của đời sống
con người có thể nhận thức qua những tiêu chuẩn cụ thể, có thể cảm nhận bằng
những giác quan cụ thể thì về mặt tâm linh bao giờ cũng gắng với cái trừu tượng,
rất mông lung, nhưng lại không thể thiếu ở con người. Con người sở dĩ trở thành
con người, một phần căn bản là do nó có đời sống tâm linh. Nghĩa là tuân theo
những giá trị bắt nguồn từ cái thiêng liêng, cái bí ẩn, những giá trị tạo thành đời
sống tâm linh của nó” [68; tr 36].
Tâm linh là thế giới của cái thiêng liêng, cao cả mà con người luôn hướng tới
nên nó có giá trị cố kết cộng đồng, ràng buộc con người bên cạnh những mối quan
hệ hữu hình khác. Vì vậy tâm linh có mặt trong cả đời sống tinh thần, đời sống xã
hội và đời sống tôn giáo “Không chỉ có thượng đế, có Chúa, Trời, Thần, Phật mới
thiêng liêng mà cả Tổ quốc, lòng yêu thương con người, sự thật công lí cũng thiêng
liêng không kém” [20; tr 8]. Hiểu tâm linh một cách toàn diện khi ta xem xét khái
niệm tâm linh của Nguyễn Đăng Duy: “Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong
cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong tín ngưỡng tôn giáo. Cái thiêng
liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý
niệm” [20; tr 11]. Qua khái niệm, ta thấy có ba điểm cốt lõi :
Thứ nhất, Tâm linh là vấn đề thuộc ý thức, gắn liền với ý thức con người.
không có ý thức của con người thì không có tâm linh. Trong ý thức con người, tâm
linh là một dạng của ý thức – ý thức hướng về cái thiêng liêng. Ý thức tâm linh
thường được biểu hiện dưới dạng quan niệm và những hình ảnh, biểu tượng thiêng
liêng.
16
Thứ hai, hạt nhân cơ bản của tâm linh là niềm tin, không có niềm tin chắc
chắn không có tâm linh. Đó là niềm tin, sự ngưỡng vọng vào cái thiêng, gọi là niềm
tin tâm linh. Do vậy niềm tin tâm linh thuộc về bản chất của con người, nó là nhân
tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con người, cũng giống như đời sống vật
chất, đời sống xã hội, tinh thần, tư tưởng.
Thứ ba, Tâm linh tồn tại trong đời sống cá nhân, gia đình, cộng đồng làng xã,
Tổ Quốc, trong văn học nghệ thuật, trong tín ngưỡng tôn giáo.
Tâm linh và tín ngưỡng có mối quan hệ gì ? Tín ngưỡng (tin tưởng, ngưỡng
mộ) thường gắn liền với niềm tin tôn giáo. Tín ngưỡng cũng là nét văn hóa, một
lĩnh vực thuộc về niềm tin, một nếp nghĩ được kết tinh bởi ý thức của một cộng
đồng tạo thành một phong tục, tạp quán có ý nghĩa như một nét văn hóa của một
dân tộc, một quốc gia.
Tín ngưỡng không chỉ có trong niềm tin tôn giáo mà còn là niềm tin thuần
túy dân gian. Đó là niềm tin vào lực lượng siêu nhiên, thánh thần trong thế giới
quan của nhân dân. Những lực lượng có sức mạnh phi phàm chi phối cuộc sống con
người. Những lực lượng ấy có thể là nhiên thần, nhân thần đã gây họa hay tác phúc,
can thiệp vào các hoạt động sống của con người.
Tín ngưỡng được hình thành xuất phát từ thực tế cuộc sống, được cộng đồng
tin tưởng và làm theo như một tạp quán đậm dấu ấn của cư dân bản địa. Đó cũng là
một niềm tin thiêng liêng mang tính tâm linh.
Tâm linh và tôn giáo quan hệ như thế nào? Tôn giáo là một dạng đặc biệt của
văn hóa tinh thần, tôn giáo có vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống con người.
Theo cách hiểu phổ biến: tôn giáo là một dạng sinh hoạt tâm linh trong đó con
người tin vào sự hiện hữu của các thế lực siêu nhiên, siêu phàm có thể tác động đến
đời sống của con người khi còn sống cũng như khi đã chết. Niềm tin linh hồn của
người chết vẫn tồn tại trong thế giới khác. Từ đó con người tôn thờ các lực lượng
siêu nhiên, những linh hồn của người chết với hi vọng có cuộc sống bình an nơi trần
thế và hưởng phúc vĩnh hằng nơi thế giới khác sau khi chết.
17
Cơ sở của mọi tôn giáo là niềm tin của con người vào cái thiêng đối lập với
cái trần tục hiện hữu mà ta có thể cảm nhận trực tiếp bằng cách sờ mó, quan sát.
Tùy theo mỗi loại tôn giáo mà cái thiêng có thể biểu hiện thông qua hệ thống các
biểu tượng và các biểu tượng ấy chế định quy cách ứng xử của con người với tự
nhiên và con người với con người trong xã hội.
Tâm linh và tôn giáo có điểm tương đồng là niềm tin thiêng liêng. Tuy niềm
tin tôn giáo là biểu hiện của đời sống tâm linh nhưng nó không đồng nhất với tâm
linh. Trong niềm tin tôn giáo, ngoài phần tâm linh còn có phần mê tín dị đoan, thậm
chí có cả sự cuồng tín tôn giáo. Tâm linh là phần cơ bản nhất, là biểu hiện mặt tích
cực của tôn giáo, có giá trị nhất (mặt đạo đức và văn hóa, tính hướng thiện, tính
nhân văn). Mỗi tôn giáo đều hướng về những hình tượng thiêng liêng (Phật trong
Phật giáo, Chúa trong Gia tô giáo...) và đặt đức tin vào giáo lí, tín điều riêng. Các
tôn giáo có chung tâm linh hướng về thế giới khác. Ở đó linh hồn hạnh phúc trọn
vẹn sau khi từ giã cõi đời ( niết bàn, thiên đàng,...). Bên cạnh mặt tích cực, có văn
hóa là hướng con người đến điều thiện, cái đẹp, cái cao cả... tôn giáo có thể bị lợi
dụng vì mục đích riêng của con người khiến nó có thể đi ngược lại cái tốt đẹp, trở
thành phản giá trị, phi văn hóa. Ở khía cạnh nảy có thể nói “Tôn giáo là thuốc phiện
của nhân dân” (K. Marx).
Tâm linh và mê tín dị đoan có giống nhau không ? Mê tín là tin một cách mê
muội bất cứ một điều gì, còn dị đoan là tin theo những việc kì dị, những việc không
thể có được.
Qua Tín ngưỡng Việt Nam của Toan Ánh, ta thấy người có óc mê tín thì bạ
đâu tin đó, tin cả điều hay cả điều dở, tin điều phải mà cũng tin điều trái, không suy
xét, còn người có óc dị đoan thì ưa tin những điều huyền hoặc, càng dị kì lại càng
tin.
Thực chất các tôn giáo, tín ngưỡng đều có tính chất mê tín nhưng đó là niềm
tin không mang tính dị đoan. Tuy nhiên mê tín và dị đoan thường đi liền mà con
người khó phân biệt rạch ròi do niềm tin vào những điều không thật vốn dễ đưa con
18
người vượt qua ranh giới của tâm linh. Niềm tin bị bóp méo, biến dạng dễ trở thành
mê tín dị đoan.
Niềm tin trong mê tín dị đoan dễ dẫn con người đến những hành vi sai lệch,
có hại cho cuộc sống, tạo kẽ hở cho những người cơ hội lợi dụng kiếm lợi bất chính,
thực hiện những việc làm “buôn thần bán thánh” làm mất đi nét đẹp văn hóa, ý
nghĩa thiêng liêng trong cuộc sống con người.
Tín ngưỡng và tôn giáo cũng phát tín hiệu về niềm tin thiêng liêng. Tuy
nhiên, tôn giáo gây dựng niềm tin cho con người dựa trên những triết thuyết, giáo lí,
kinh sách và hệ thống lễ nghi mang tính giáo hóa tín đồ ngoan đạo và luôn hướng
đến một đấng tối cao để cầu mong cho sự giải thoát, cầu mong cho cuộc sống sau
khi chết. Trong khi đó, tín ngưỡng lại là sự tự ý thức về lực lượng siêu nhiên với
niềm tin, sự ngưỡng mộ của cộng đồng với hình thức thông linh và thờ cúng mang
tính dân gian, theo quan niệm dân gian nhằm tỏ lòng biết ơn hoặc cầu mong những
điều tốt đẹp cho cuộc sống trần thế, đi tìm hạnh phúc cho con người ngay khi đang
sống: cầu quốc thái dân an, cầu sức khỏe, cầu làm ăn thịnh vượng, cầu con cái, cầu
duyên...
Từ sự phân biệt trên ta có thể thấy rằng: bên cạnh tôn giáo, tín ngưỡng có
một vị trí độc lập, là thành tố quan trọng của đời sống tâm linh. Đây là cơ sở để
phân biệt các hiện tượng tâm linh là tín ngưỡng tôn giáo (niềm tin của các tín đồ)
hay tín ngưỡng dân gian (niềm tin của các tầng lớp nhân dân).
1.1.3. Văn hóa tâm linh
Văn hóa tâm linh là thuật ngữ xuất hiện nhiều vào khoảng mười lăm năm gần
đây, nhất là sau khi một số nhà nhân học, tâm lí học, khoa học xã hội quốc tế thừa
nhận yếu tố tâm linh, một trong bốn thuộc tính của con người (con người xã hội,
con người sinh học, con người tâm lí, con người tâm linh).
Khi ghép “Tâm linh” vào “Văn hóa”, thì khái niệm “Văn hóa tâm linh” là
hình thái văn hóa của một tộc người gồm: tôn giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian
(folklore) và một phần của sáng tạo khoa học, nghệ thuật... Từ cách hiểu và giới hạn
khái niệm văn hóa và tâm linh, chúng tôi hiểu văn hóa tâm linh là những giá trị văn
19
hóa tinh thần thiêng liêng. Đó là “văn hóa biểu hiện những giá trị thiêng liêng trong
cuộc sống đời thường và biểu hiện niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng
tôn giáo” [20; tr.26].
Thuộc lĩnh vực văn hóa tinh thần, nhưng văn hóa tâm linh với những đặc thù
riêng không chỉ gồm những giá trị văn hóa vô hình (ý niệm, quan niệm, tập tục, nếp
cảm nếp nghĩ, nghi lễ...) mà cả những giá trị văn hóa hữu hình phát tín hiệu thiêng
liêng (đình, đền, miếu, mộ, chùa, nhà thờ, tượng, bàn thờ...).
Văn hóa tâm linh biểu hiện trong cả cuộc sống đời thường và trong tín
ngưỡng tôn giáo. Có thể thấy trong cuộc sống con người luôn tồn tại đời sống tâm
linh bên cạnh đời sống hiện thực thường ngày với những nhu cầu vật chất (ăn, mặc,
ở, đi lại, học hành, chăm sóc sức khỏe...). Đời sống tâm linh là một phần của đời
sống tinh thần. Ở đó có niềm tin vào “cái thiêng” khiến con người có được sự cân
bằng trong cuộc sống. Với những người không theo tôn giáo, đời sống tâm linh chỉ
xuất hiện khi “hoàn cảnh thiêng”, “không gian thiêng”, “thời gian thiêng”. Đó là
vào những hoàn cảnh con người phải cầu viện vào sự phù hộ của Thánh Thần, Trời,
Phật, Chúa... Đó là thời khắc thiêng liêng như ngày cúng giỗ (kị), đêm giao thừa,
ngày tết, ngày rằm, các lễ hội có phần lễ thiêng liêng... những lúc ấy con người giao
hòa với trời đất, thiên nhiên và những thế lực siêu hình (ông bà tổ tiên, Thánh Thần,
Trời, Phật, Chúa...). Sống trong bầu không khí thiêng liêng mang tính tâm linh ấy
con người thực sự được giải tỏa tâm linh. Họ cảm thấy tinh thần được thư giãn, tâm
hồn được tắm gội thanh lọc, họ cởi bỏ những phiền muộn, lo âu trong cuộc sống, họ
cầu mong hi vọng và hướng đến những điều tốt đẹp cho bản thân, gia đình và xã hội
ngay trong cuộc sống hiện tại. Sống đời sống tâm linh chính là cách để con người
đến gần hơn với thế giới tâm linh - thế giới của những biểu trưng về “đạo trời”, của
những lực lượng siêu nhiên huyền bí với quyền năng vô hạn chi phối cuộc sống trần
thế.
Trong luận văn của mình, chúng tôi bước đầu tìm hiểu văn hóa tâm linh trong
truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam trong một thời đại có sự tiếp thu văn học phương
Tây. Vì thế những biểu hiện của văn hóa tâm linh trong văn học giai đoạn này
20
không chỉ là những niềm tin thiêng liêng trong tín ngưỡng của người Việt mà đó
còn là những biểu hiện tâm linh (không phải là tín ngưỡng tôn giáo) của người dân
Việt. Người Việt Nam không kì thị tôn giáo bởi họ đến với tôn giáo bằng niềm tin
vào những điều thiêng liêng có thể giúp họ có một sự cân bằng tinh thần trong cuộc
sống.
Trong ý niệm của nhân dân ta từ xưa thế giới luôn có các lực lượng siêu
nhiên thống trị cuộc sống nhân gian, niềm tin đó tạo nên những hoạt động tương
ứng biểu hiện qua việc thờ cúng các nghi lễ, tập tục, kiêng kị... làm nên tín ngưỡng
dân gian. Tín ngưỡng dân gian người Việt rất đa dạng, bao gồm tín ngưỡng thờ thần
thánh, trời đất như Thành hoàng làng, thần hộ mệnh, thánh tổ nghề, thờ các vị phúc
thần, các anh hùng lịch sử văn hóa... đều là đối tượng để con người sùng kính,
ngưỡng mộ tôn vinh và noi gương; tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là việc hướng về cội
nguồn, biết ơn người đã khuất, tri ân công trạng của các bậc tiên hiền... Các tín
ngưỡng dân gian cùng với tâm linh của những người dân theo đạo Phật, Thiên chúa
giáo, Đạo Hồi, Cao Đài... song hành tồn tại trong đời sống nhân dân và trở thành
những sinh hoạt văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam.
Văn học chỉ là một biểu hiện của văn hóa, là một mảng màu của bức tranh
văn hóa thời đại nó ra đời. Vì vậy khi tìm hiểu văn hóa tâm linh trong truyện ngắn,
tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 chúng tôi thu hẹp bộ phận văn hóa này trong tín
ngưỡng dân gian và những biểu hiện tâm linh của người có đạo vì mục đích hướng
đến những điều thiện mĩ cho cuộc đời này qua những biểu hiện như: việc thờ cúng
trong các nghi lễ (lễ cầu đảo, cúng Thành hoàng, cúng tổ tiên...), một số tập tục
(kiêng, khấn nguyện, thề nguyền, cầu khẩn...). Bên cạnh đó là niềm tin thiêng liêng
đối với một số hiện tượng thiêng trong cuộc sống (giấc mộng, điềm báo, sự linh
ứng, niềm tin vào phép thuật tướng số bói toán, hồn ma, hóa kiếp...).
1.2. Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong văn hóa Việt Nam
Văn hóa tâm linh Việt Nam được hình thành từ tín ngưỡng bản địa và các tôn
giáo khác. Tín ngưỡng người Việt có nguồn gốc từ tín ngưỡng phồn thực, sùng bái
tự nhiên với tín ngưỡng đa thần đặc biệt thiên về âm tính (thờ Mẫu trong Tam, tứ
21
Phủ, hay thờ tứ Pháp: Mây, Mưa, Sấm, Chớp) đến thờ thực vật, động vật (Rồng
tiên, Cây lúa, Thần Lúa…) và thờ con người như Hồn, Vía, Tổ tiên, Tổ nghề, Thành
Hoàng làng, Vua tổ, Tứ bất tử (Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Liễu
Hạnh). Đồng thời, người dân Việt còn thờ Thần linh: như Thổ công, Thần tài, Thần
thánh, các anh hùng dân tộc. Trong quá trình tiếp xúc với các tôn giáo du nhập khác
như Phật, Thiên chúa, Hồi, Tin lành hay các tôn giáo mới được bản địa hóa như Cao
Đài, Hòa hảo… người Việt có những niềm tin tâm linh mới trên cơ sở dung hòa và
thiết thực. Sự tồn tại của niềm tin tâm linh trong 54 sắc tộc anh em khác nhau đã tạo
dựng nên một cộng đồng với văn hóa tâm linh đa dạng, phong phú. Tuy nhiên,
chúng tôi nhận thấy cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong văn hóa Việt Nam một
mặt do nền văn hóa gốc nông nghiệp và mặt khác là quá trình tiếp nhận tư tưởng
Nho – Phật – Đạo và các tôn giáo.
1.2.1. Nền văn hóa gốc nông nghiệp trồng lúa nước
- Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên:
Việt Nam là một đất nước có nền văn hóa gốc nông nghiệp trồng lúa nước.
Ngay từ buổi đầu con người đã phải lệ thuộc vào tự nhiên. Thiên nhiên bí ẩn mà con
người lại chưa đủ khả năng tìm hiểu. Vì thế hình thành tâm lí tôn sùng và thần
thánh hóa tự nhiên. Bằng trí tưởng tượng của mình họ cho rằng mỗi hiện tượng tự
nhiên đều có một vị thần chi phối và họ tôn sùng tất cả: trời, đất, nắng, mưa, sấm,
sét... Đó là cơ sở hình thành tín ngưỡng đa thần.
Trong tín ngưỡng đa thần của người Việt, trời đất không những là vị thần
quyết định đối với nghề nông mà còn là đấng tối cao linh thiêng định đoạt phúc họa,
vận số, may rủi cho con người. Vì thế tục tế lễ trời đất với ý nghĩa cầu khẩn, cảm tạ
đã trở nên phổ biến trong dân gian. Trong tâm thức dân gian trời là đấng tối cao ngự
trị khắp mọi nơi, thấu hiểu mọi tình cảnh của con người. Trong những lúc khó khăn
nhất, người ta nghĩ đến trời, khấn nguyện, van vái, thề nguyền... trước trời đất như
một lối ứng xử thường nhật của con người nhằm tạo dựng cuộc sống tốt đẹp cho
mỗi cá nhân.
22
Với khát vọng có cuộc sống bình yên, con người thời xưa luôn mong muốn
hòa hợp với tự nhiên nên họ tỏ lòng tôn kính, thành tâm trước vạn vật. Họ tin rằng
“vạn vật hữu linh”. Nhận thức ấy đã trở thành phổ biến trong thời đại mà năng lực
nhận thức thế giới của con người còn giới hạn. Đó là cội rễ của những hình thức thờ
cúng cây cối, các con vật linh, núi, sông, đất đá...
- Tín ngưỡng sùng bái con người
Người Việt xưa cho rằng con người gồm thể xác và linh hồn. Khi chết hồn lìa
khỏi xác và đi từ cõi dương gian đến cõi âm ty, cõi đó cũng được tưởng tượng như
ở cõi dương gian. Vì thế, thờ cúng người chết đã trở thành truyền thống của dân tộc
Việt. trong đó, thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng phổ biến, có vị trí quan trọng nhất
trong đời sống tinh thần của người dân. Đây là một tín ngưỡng bản địa, có truyền
thống liền mạch từ cảm thức thiêng liêng và tôn kính về duy trì nòi giống tổ tiên...
Thờ cúng tổ tiên của cả nước song hành và gắn bó với thờ cúng tổ tiên từng gia
đình, gia tộc.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là niềm tin rằng tổ tiên mình là thiêng liêng, dù
đã đi vào cõi vĩnh hằng vẫn có mối liên hệ huyền bí và mạnh mẽ với con cháu, phù
hộ và chỉ bảo họ tránh điều ác, giữ điều lành “người chết chỉ có thể yên ổn trong
phần mộ của mình hay trên bàn thờ nếu con cháu dâng cúng lễ vật theo nghi thức.
Ngược lại, người sống chỉ sung sướng khi được bao bọc bởi ảnh hưởng tốt lành của
người chết đang che chở họ một cách bí ẩn” [52; tr 66] Niềm tin về mối liên hệ
thiêng liêng giữa người sống và người chết, giữa hiện tại và quá khứ đã trở thành
triết lí sống của người Việt, thành đạo lí nền tảng của cuộc sống được thể hiện trong
ca dao, tục ngữ: chim có tổ người có tông, sông có cội nước có nguồn... Thể hiện
trong đời sống thường nhật là phong tục, tạp quán, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên “xét
cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất là thành kính, ấy cũng là một lòng bất vong bản;
cũng là một việc nghĩa vụ của người” [52; tr 67]
Trong gia đình, ngoài thờ tổ tiên, người Việt Nam còn có tục thờ Thổ Công,
một dạng của Mẹ Đất. Đây là vị thần trông coi gia cư, ngăn chặn tà thần, định đoạt
phúc họa cho một gia đình. Sống ở đâu thì có Thổ Công ở đó: đất có Thổ Công,
23
sông có Hà Bá. Thổ Công định đoạt phúc họa cho cả nhà nên rất quan trọng phải
được thờ cúng tôn kính.
Tín ngưỡng thờ thần của Việt Nam không chỉ đóng khung trong phạm vi gia
đình. Ngoài các vị thần tại gia, còn có các thần linh chung của thôn, xã, quan trọng
nhất là việc thờ thần Thành Hoàng - vị thần cai quản, che chở, định đoạt phúc họa
cho dân làng. Thành Hoàng có thể là những vị có tên tuổi, tước vị rõ ràng, những vị
có công lập ra làng xã, những anh hùng dân tộc liên quan đến làng được vua thừa
nhận, ban sắc phong thần. Ngoài ra, còn có những Thành Hoàng vốn là những kẻ có
“lí lịch” không hay ho gì như trẻ con, ăn mày, ăn trộm, người mù... Loại này bị gọi
là tà thần. Sở dĩ họ được thờ làm Thành Hoàng là những người này, theo niềm tin
của dân làng, chết vào giờ thiêng nên đã ra oai (gây dịch bệnh cho người, gia súc,
gây hỏa hoạn ...) khiến cho dân nể sợ.
Trong phạm vi dân tộc, người Việt Nam thờ vua tổ - vua Hùng. Mảnh đất
Phong Châu (Vĩnh Phú), nơi đóng đô của các vua Hùng khi xưa, trở thành đất tổ.
Ngày 10-3 là ngày giỗ Tổ. Bên cạnh đó, người Việt Nam còn có một tín ngưỡng đặc
biệt là tục thờ tứ bất tử (bốn người không chết): Tản Viên, Thánh Gióng, Chữ Đồng
Tử và Liễu Hạnh. Tất cả tạo nên một giá trị văn hóa tinh thần rất đẹp của dân tộc, là
tinh hoa chắt lọc qua suốt chiều dài lịch sử biểu tượng cho sức mạnh liên kết của
cộng đồng để làm ruộng và đánh giặc, cho khát vọng xây dựng một cuộc sống vật
chất phồn vinh và tinh thần hạnh phúc.
Đất nước, quê hương của người Việt là sản phẩm gắn bó máu thịt với con
người, được trao truyền từ đời này qua đời khác. Con người sống với đất nước của
mình bằng tất cả ý thức trách nhiệm và tình cảm, được vun đắp theo bề dày lịch sử,
tạo thành tâm thức cộng đồng, thành cái thiêng liêng chi phối cách sống của họ. Bắt
rễ từ ý thức trách nhiệm và tình cảm sâu nặng với mảnh đất và con người như vậy,
cái thiêng của người Việt không tồn tại trong lời cầu nguyện một hạnh phúc mơ hồ,
không tồn tại lơ lửng trong lời răn đe trừng phạt tội lỗi, không lưu truyền bằng ngôn
ngữ hóc hiểm của kinh thánh hay các khái niệm mù mờ của thần học. Nó tồn tại
trong đời sống thực tiễn cảm tính của con người và truyền tải từ thế hệ này sang thế
24
hệ khác bằng kinh nghiệm sống, bằng sự minh triết dân gian, bằng phong tục và lễ
nghi, bằng cung cách ứng xử của con người với thiên nhiên và giữa con người với
nhau.
Tìm hiểu văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-
1945, chúng tôi tập trung khai thác yếu tố tâm linh trong tín ngưỡng dân gian.
Những niềm tin tâm linh đã tồn tại qua bao biến thiên của lịch sử. Niềm tin ấy dẫu
có lúc bị cho là duy tâm thần bí, mê tín dị đoan nhưng nó đã nhất thành bất biến
trong tâm thức người Việt.
1.2.2. Tư tưởng Nho- Phật- Đạo và các tôn giáo khác
Với những đặc điểm riêng về địa lý, lịch sử, văn hoá, dân cư... Việt Nam là
một quốc gia có nhiều tôn giáo gắn với đời sống tâm linh của mình. Trên cơ sở tiếp
nhận tư tưởng Nho- Phật- Đạo và các tôn giáo theo tinh thần thiết thực, dung hòa,
tạo nên một bản sắc văn hóa riêng. Đạo Phật, Thiên chúa giáo, Tin lành, Cao Đài,
Hồi giáo, Phật giáo Hòa Hảo... đều được du nhập và tồn tại. Tuy nhiên dấu ấn của
tư tưởng Nho - Phật - Đạo còn ảnh hưởng lớn và ăn sâu trong tâm thức người Việt
không chỉ trong văn học mà còn trong triết lý sống. Đặt biệt chữ “Tâm” làm nội
dung cốt lõi của học thuyết Phật giáo có liên quan đến sự khai thác triệt để thế giới
tâm linh, sự huy động tối đa cái phần vô thức, tâm thức, tiềm thức, cảm thức con
người hơn là phần ý thức, tự thức, nhận thức. Vì thế đạo Phật có ảnh hưởng lớn và
để lại dấu ấn đậm nét trong đời sống tâm linh của người Việt Nam.
Khi người Việt du nhập thêm những tôn giáo bên ngoài như Phật giáo, Thiên
chúa giáo, Hồi giáo... cũng là quá trình sáng tạo thêm những tôn giáo mới phù hợp
với văn hóa của mình. Tuy nhiên tín ngưỡng dân gian luôn là cơ sở gốc của đời
sống tâm linh nên những hành vi cúng lễ của người dân Việt bao giờ cũng mang
tính thực dụng cao. Người ta cúng cho thần thánh con trâu, con lợn, con gà, vật
phẩm này nọ... có nghĩa mong muốn đấng siêu nhiên phải phù trợ cho cộng đồng
mùa màng bội thu, tài lộc may mắn... Chính vì thế, bản thân nhiều tôn giáo ngoại
nhập cũng dần dà được người Việt bản địa hóa với sự đan xen pha trộn đủ loại, đủ
màu sắc khác nhau, bất kể bản chất những tín ngưỡng tôn giáo có mâu thuẫn với
25
nhau như thế nào. Đó cũng là cơ sở quan trọng hình thành niềm tin tâm linh làm
phong phú cho bức tranh văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam
1932-1945.
1.3. Truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1932-1945
1.3.1. Bối cảnh văn học 1932-1945
Trong những năm đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến lớn.
Một hệ thống đô thị lớn xuất hiện ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Huế, Đà Nẵng,
Sài Gòn... dẫn đến sự hình thành tầng lớp thị dân, tư sản, tiểu tư sản, trí thức "Tây
học" và cả dân nghèo thành thị. Văn hoá phương Tây chi phối phức tạp đến đời
sống tinh thần dân chúng ở các thành phố. Người ta gọi đây là thời kì "mưa Âu gió
Mỹ", "cũ mới tranh nhau", "Á Âu xáo trộn"... Văn hóa phương Tây lan rộng trong
đời sống thị thành dẫn đến những chuyển biến sâu sắc trong tinh thần thời đại. Hơn
thế, cơn bão văn minh từ phương Tây thổi tới, ngỡ như chỉ tràn vào các đô thị lớn,
lại còn xâm nhập mảnh đất yên bình của làng quê, phá vỡ không gian cổ truyền của
làng, áp đặt sự hiện diện của nó lên một xứ sở đã bị đánh bại nhưng không chịu
khuất phục.
Viết văn làm báo trở thành nghề mưu sinh của các nhà văn. Có thể nói đây
là những gì rất mới đối với người cầm bút đương thời và góp phần làm nên diện
mạo riêng của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Đổi thay chữ viết là cuộc cách
mạng quan trọng về chất liệu văn học, tạo cơ sở cho quá trình hiện đại hóa văn học
Việt Nam theo những xu thế của nhân loại. Trong hoàn cảnh đất nước lầm than nô
lệ, ý thức tự chủ về văn học của dân tộc ta đã trỗi dậy mạnh mẽ. Bối cảnh văn học
Việt Nam 1932-1945 gắn liền với sự biến thiên đó của lịch sử nước nhà.
Trước hết, hoạt động giao lưu văn hoá phương Đông - phương Tây đã
tạo tiền đề cho sự xuất hiện văn học dịch thuật. Các dịch giả người Việt đã lần lượt
giới thiệu, biên khảo và dịch sách văn hoá, văn học Pháp và phương Tây sang chữ
quốc ngữ. Sách dịch được đăng tải trên Nam Phong tạp chí, Đông Dương tạp chí và
các ấn phẩm của nhà xuất bản "Âu Tây tư tưởng". Trên thực tế, dịch giả Phạm
Quỳnh đã lần lượt giới thiệu văn học và triết học Pháp qua một số tên tuổi nổi tiếng
26
như Corneille, Molière, Montesquieu, Rousseau, Voltaire, Baudelaire, Pierre Loti,
Anatole France, Courteline, Maupassant Auguste Comte, Bergson... Nguyễn Văn
Vĩnh đã dịch và đăng trên Đông Dương tạp chí những sáng tác ngụ ngôn của La
Fontaine, tiểu thuyết của Victor Hugo, A. Dumas và Balzac, kịch của Molière...
Văn học Pháp và tư tưởng của các nhà Khai Sáng đã đến với công chúng Việt Nam,
gợi ý và thúc đẩy quá trình đổi mới văn học, làm nảy sinh nhiều khuynh hướng văn
học mới.
Từ sau năm 1930, văn học đã vượt thoát khỏi cảm hứng phóng tác. Những
ảnh hưởng của văn học phương Tây, văn học Pháp đối với văn học Việt Nam đã đạt
đến độ "chín" nhất định, tạo điều kiện cho các nhà văn bước vào giai đoạn sáng tác
thật sự ở các thể loại. Những mầm mống về một nền văn học hiện đại có điều kiện
đâm chồi nảy lộc. Trước hết, chuyển động hiện đại hoá văn học bắt đầu từ văn xuôi.
Tác phẩm đầu tiên phải kể đến là truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng
Quản đến Hồ Biểu Chánh là tiểu thuyết gia Nam bộ với biệt tài phóng tác. Đặc biệt,
năm 1925, Hoàng Ngọc Phách sáng tác tiểu thuyết Tố Tâm có những nét mới của
tiểu thuyết lãng mạn Pháp với sự manh nha của quan niệm yêu đương tự do của
nam nữ thanh niên. Tuy nhiên văn xuôi Việt Nam thật sự phát triển mạnh mẽ cả hai
xu hướng lãng mạn và hiện thực phê phán từ sau năm 1930 với những tên tuổi Nhất
Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam trong nhóm Tự Lực văn đoàn, Nguyễn
Tuân với Vang bóng một thời, Vũ Trọng Phụng với Số đỏ, Ngô Tất Tố với Tắt đèn,
Lều chõng, Nam Cao với Chí Phèo, Đời thừa....
Từ những năm 1920, sau chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực
dân Pháp, xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, văn hóa
xã hội. Giao lưu văn hóa không còn bó hẹp sau lũy tre làng như trong xã hội nông
nghiệp truyền thống xưa mà đã mở rộng hòa nhập với cả khu vực. Cơ chế kinh tế
thị trường đã bắt đầu tác động đến hoạt động báo chí và văn học nghệ thuật. Một
lớp độc giả mới xuất hiện có trình độ văn hóa và nhu cầu thẩm mỹ cao hơn, đòi hỏi
văn học nghệ thuật phải làm một cuộc canh tân triệt để hầu bắt kịp trào lưu tiến bộ
của thế giới. Chữ quốc ngữ thay thế chữ Hán, chữ Nôm và được các sĩ phu yêu
27
nước vận động thành một trào lưu rộng rãi cũng là một nhân tố quan trọng thúc đẩy
tiến trình hiện đại hóa văn học. Giai đoạn này yêu cầu đổi mới nền văn học nước
nhà để bắt kịp các nước trên thế giới đã trở thành một vấn đề vô cùng cấp thiết.
Trên hành trình tìm kiếm đổi mới đó, theo Nguyễn Huệ Chi thì Tự Lực Văn Đàn là
một tổ chức hàn lâm văn học sang trọng, phát ngôn cho mọi chuẩn mực giá trị của
văn học được công chúng xa gần thừa nhận, đã ra đời với tôn chỉ với mục đích đem
phương pháp Thái Tây áp dụng vào văn chương An Nam. Để xây dựng một nền văn
chương tiếng Việt hướng về đại chúng, Tự Lực Văn Đàn đã quy tụ được rộng rãi
tinh hoa văn nghệ trong cả nước và có ảnh hưởng sâu rộng đến tầng lớp thanh niên
trí thức thời bấy giờ.
Có thể thấy ảnh hưởng của trào lưu văn học phương Tây đã đi vào tâm hồn
của nhân dân Việt Nam nhất là trí thức, học giả, tác giả cùng thời từ Nam chí Bắc.
Tuy nhiên từ truyện ngắn đầu tiên viết theo kĩ thuật phương Tây: Truyện thầy
Lazaro Phiền (1887), Nguyễn Trọng Quản đã nói mục đích sáng tác của mình là
làm cho dân tộc các xứ biết rằng người An Nam sánh trí sánh tài thì cũng chẳng
thua ai. Phạm Quỳnh (1917) chủ trương đọc sách Tây là để thâu thái lấy tư tưởng,
lấy tinh thần văn hóa Âu Tây để bồi bổ cho nền quốc văn còn khiếm khuyết. Khái
Hưng (1934) thì tha thiết: “Tôi vẫn mong mỏi sẽ có nhà văn dung hợp được văn
Thái Tây với văn Á Đông, để gây một lối văn viết theo óc khoa học mà vẫn giữ được
thi vị của văn Tàu” [5; tr 416].
Xu hướng tiếp nhận văn học phương Tây của văn học Việt Nam là
không cắt đứt quá khứ mà chỉ tiếp nhận để bồi bổ thêm, làm giàu đẹp thêm cho bản
sắc vốn có của dân tộc. Văn xuôi 1932-1945 đổi mới rõ rệt theo khuynh hướng hiện
đại hóa. Phá bỏ hệ thống ước lệ của văn học cổ điển. Khuynh hướng hiện đại hóa
đã chi phối việc chọn lựa đề tài, chủ đề, việc xây dựng hình tượng, cốt truyện, thi
pháp, việc sử dụng các hình thức tu từ, mỹ từ và ngôn ngữ văn học nói chung. Văn
học được lái dần đúng hướng trên tinh thần dân tộc, khoa học, đại chúng... Truyện
ngắn và tiểu thuyết được nâng lên địa vị quan trọng nhất trong đời sống văn học và
thật sự phát triển mạnh làm thay đổi diện mạo văn học.
28
1.3.2. Thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết có yếu tố tâm linh trong văn học
Việt Nam 1932-1945
Sự xuất hiện các thể loại văn xuôi những năm 30 đầu thế kỷ XX như một sự
bù lấp vào khoảng trống trong bức tranh toàn cảnh của văn học Việt Nam. Đó là
những sản phẩm nghệ thuật phong phú, đa dạng đan xen nhiều khuynh hướng thẩm
mĩ khác nhau từ kiểu dạng, đề tài đến kết cấu. Xét trên góc độ loại hình, đây là
những tác phẩm tự sự được chia thành nhiều kiểu loại. Đặc biệt truyện ngắn, truyện
dài (tiểu thuyết) là thể loại đã thành hình có nhiều cách tân đáng chú ý nhất.
Truyện ngắn có yếu tố tâm linh là những truyện chứa nhiều chất huyền bí,
kì dị kiểu truyền kì của phương Đông xen lẫn những yếu tố kinh dị của phương Tây
như truyện Người lạ, Ma thuồng luồng, Đôi vịt con, Người hoá hổ (Lan Khai), Một
truyện ghê gớm,Tiếng hú ban đêm (Thế Lữ), Đỉnh non Tản (Nguyễn Tuân), Người
con gái của thần rắn (Cung Khanh). Truyện truyền kì, kinh dị có sự tiếp biến từ văn
học dân gian và văn học trung đại Việt Nam mang đậm dấu ấn của văn học Trung
Quốc và văn học phương Tây. Kiểu truyện đường rừng đặc sắc với những truyện
ngắn mang nhiều yếu tố tâm linh của những cây bút như Thế Lữ, Lan Khai, Tchya
Đái Đức Tuấn... Đó là sự kế thừa thành tựu từ những cây bút mở đường nền văn
học quốc ngữ trên mảnh đất Nam kì như Biến Ngũ Nhy, Phú Đức, Lê Hoằng Mưu,
Sơn Vương... Điều có thể thấy rõ rằng các tác phẩm có yếu tố tâm linh giai đoạn
này không vay mượn nguyên mẫu rập khuôn và ngẫu nhiên mà có quá trình bắt
nguồn từ ý thức chủ động học tập tư tưởng văn học Âu Tây để làm giàu văn học dân
tộc của cả một thời đại. Chất duy lý khoa học phương Tây được quyện lẫn với tính
chất huyền bí ma quái của Bồ Tùng Linh và cái kì ảo hoang đường của truyện
truyền kì dân gian Việt Nam làm thành các tác phẩm văn học có yếu tố tâm linh
trong truyện ngắn Việt Nam.
Tiểu thuyết có sự cách tân đổi mới, phá bỏ tính chất qui phạm của tiểu thuyết
trung đại tiếp thu những yếu tố mới của tiểu thuyết phương Tây. Đáng chú ý là
những tiểu thuyết mang yếu tố tâm linh đã thể hiện sự phức tạp trong tâm hồn con
người. Những băn khoăn về đời sống hữu hạn vô thường vốn đã sinh ra từ nguồn
29
cội xa xưa của tư tưởng phương Đông. Ở đây, những vấn đề về nhân sinh, sự xa lạ
với nhân gian, cảm thức về hiện sinh hữu hạn của con người, sự phi lý và bất khả tri
trong đời sống được tập trung thể hiện trong tiểu thuyết như một tất yếu trong văn
học của một giai đoạn đầy biến động nửa đầu thế kỷ XX.
Yếu tố tâm linh được nhà văn sử dụng ở đây như một phương tiện hướng tới
những chân lý nghệ thuật nhằm giúp người nghệ sĩ phản ánh cái hiện thực vô hình
của cuộc sống tự nhiên, đồng thời qua đó để thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ của người
thưởng thức. Bên cạnh truyện ngắn ta còn thấy xuất hiện một số tiểu thuyết như:
Vàng và máu, Tiếng hú hồn của mụ ké (Thế Lữ), Thần Hổ, Ai hát giữa rừng khuya
(Đái Đức Tuấn)… và đến Đoạn tuyệt (1934), Lạnh lùng (1936), Đôi bạn (1937),
Bướm trắng (1939)... Nhất Linh đã thực sự hiện đại hoá tiểu thuyết của chính mình
và của văn đoàn. Bướm trắng của Nhất Linh là tiểu thuyết hiện đại, là thành tựu mới
trong sự nghiệp văn chương của nhà văn. Tiểu thuyết đi sâu vào “thế giới bên
trong” con người vô cùng biến động, cái ý thức và cái tiềm thức, cái vô lý và cái
phi lý, giấc mơ, mê sảng, linh cảm... Tất cả được Nhất Linh miêu tả, phân tích một
cách tinh vi. Nếu như trước đó với Tố Tâm, Hoàng Ngọc Phách đã miêu tả nhân vật
có chiều sâu song mới chỉ dừng lại ở “tâm lý trên mặt phẳng” thì ở Bướm trắng của
Nhất Linh là hành trình bên trong đầy bí ẩn của con người. Tiểu thuyết giai đoạn
1932-1945 đã hướng tới những nhân vật của đời sống thường ngày. Nhà văn không
nhìn nhân vật với thái độ chiêm ngưỡng, sùng mộ hoặc khinh khi, xa lạ mà miêu tả
nhân vật như tự nó vốn thế, vừa khách quan vừa thân mật, gần gũi. Nhân vật trong
tiểu thuyết Tự lực văn đoàn có độ nhoè giữa nhân vật phản diện- chính diện, tốt-
xấu, thiện- ác. Nhà văn có ý thức đi sâu vào phân tích tâm lý và thế giới bên trong
của nhân vật. Các tiểu thuyết gia văn đoàn tự lực đã thành công trong nghệ thuật
khám phá những cung bậc khác nhau của con người cá nhân, với kiểu nhân vật tự
thức tỉnh. Nhưng do áp lực luận đề, nhân vật của tiểu thuyết lãng mạn chưa được cá
thể hoá một cách sinh động và đầy đặn như nhân vật của nhà tiểu thuyết hiện thực:
Tám Bính (Bỉ vỏ – Nguyên Hồng), Xuân tóc đỏ (Số đỏ – Vũ Trọng Phụng), Thứ
(Sống mòn – Nam Cao).
30
Cũng giống như những truyện ngắn có yếu tố tâm linh, các tiểu thuyết này
cũng mang yếu tố tâm linh đưa người đọc lạc vào thế giới thẳm sâu của tâm hồn con
người đồng thời các tác giả khai thác những sinh hoạt tín ngưỡng, những phong tục
tập quán, những nghi lễ... của con người trong đời sống thường nhật. Song tất cả
những yếu tố đó không ngoài mục đích tạo ra những thành phẩm nghệ thuật mới lạ
nhằm phản ánh trí tưởng tượng phong phú của nhà văn. Các câu chuyện ở đây có
kết cấu theo nhiều mô thức về tình yêu, vận mệnh, hiện thực, phi hiện thực, ảo
hoá… đã tạo được sự khác biệt so với các truyện cổ dân gian và những tác phẩm
văn xuôi trung đại. Tiểu thuyết hiện đại có một nội dung dân tộc và liên tục gắn liền
với truyền thống: tính lý tưởng, giáo dục quần chúng khi xã hội đã đô thị hóa, hiện
đại hóa.
1.4. Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết
Việt Nam1932-1945
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật, nhân loại cũng cần
đến một hình thái nhận thức thẩm mĩ, một loại hình văn học nghệ thuật giàu trí
tưởng tượng để truy tìm thế giới bí ẩn bên trong tâm hồn con người. Bởi lẽ, con
người khi sống trong một xã hội mà nhịp độ căng thẳng và sự xô bồ của nó có thể
làm “tha hoá” và xơ cứng tâm hồn. Trong xã hội mà thân phận con người như con
ong cái kiến và những tai vạ có cớ hoặc vô cớ sẵn sàng giáng xuống cho con người
bất cứ lúc nào, con người cũng khó phân biệt thiện – ác; tốt – xấu. Từ đó, các nhà
văn đã sử dụng yếu tố tâm linh trong sáng tác của mình để tạo ra thế giới ma quái
hư ảo không hoàn toàn nhằm mục đích cuối cùng là hiệu ứng hoang mang trước sự
rạn nứt của hiện thực mà chủ yếu là “phương tiện để chuyển tải tư tưởng, bài học
nhân sinh, đạo lí của cuộc đời” [5; tr 415].
Yếu tố tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 có chân
đế từ văn hóa dân tộc. Nó góp phần khẳng định có một dòng văn học về tâm linh
vẫn ngầm chảy trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc. Tâm linh trong truyện ngắn,
tiểu thuyết 1932-1945 có sự kế thừa yếu tố tâm linh trong văn học dân gian và văn
học trung đại Việt Nam.
31
1.4.1. Kế thừa yếu tố tâm linh trong văn học dân gian Việt Nam
Văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành từ lâu đời, trải qua các thời kì
phát triển, nền văn hóa ấy vẫn tồn tại và được thể hiện trong hầu hết các sáng tác từ
xưa đến nay. Truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 vừa ảnh hưởng sâu sắc
yếu tố tâm linh trong văn hóa Việt Nam, vừa kế thừa nó trong văn học dân gian và
văn học trung đại.
Kế thừa yếu tố tâm linh từ văn học dân gian, truyện ngắn, tiểu thuyết Việt
Nam 1932-1945 mang dấu ấn của thể loại tự sự dân gian: các truyện thần thoại,
truyện cổ tích, truyền thuyết dân gian, truyện ngụ ngôn... Đó là những câu chuyện
mang nhiều yếu tố hoang đường, hư hư thực thực khiến cho con người cảm thấy
phân vân giữa cái thực và cái ảo, về những lẽ huyền nhiệm trong vũ trụ và trong thế
giới tâm linh của mỗi người.
Trước hết, truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 mang dấu ấn của
thần thoại. Các nhà văn đã thể hiện một sự tưởng tượng phong phú bắt nguồn từ thế
giới quan cổ xưa của con người về thế giới. Đó là những truyện kể liên quan đến sự
tích các vị thần sáng tạo ra thế giới tự nhiên và văn hóa, phản ánh nhận thức, cách
hình dung của người thời cổ về nguồn gốc của thế giới và đời sống con người.
Những tác phẩm lấy chất liệu từ thần thoại được xây dựng bằng những hình ảnh, chi
tiết không có thực mà chỉ là hư ảo do con người tưởng ra dựa trên quan niệm về sự
tiến hóa loài người mà sau này chỉ có các nhà khoa học mới giải thích được. Đó là
những quan niệm theo lối thần thánh hóa các lực lượng tự nhiên, xem nguồn gốc
của vũ trụ do một vị thần tối cao sáng tạo nên. Qua đó thể hiện ý thức muốn tìm hiểu
vũ trụ, lý giải vũ trụ và chinh phục thế giới tự nhiên của con người. Luôn tiếp xúc với thiên
nhiên kỳ vĩ, bí ẩn, con người đã hình dung, lý giải thiên nhiên bằng trí tưởng tượng của
mình, tạo ra cho các hiện tượng xung quanh mình những hình ảnh sáng tạo, những câu
chuyện phong phú, hình dung ra các vị thần lớn lao, những lực lượng siêu nhiên, hữu linh.
Cụ thể trong truyện ngắn giai đoạn 1932-1945 có Mặt Trời, Trên Bồng Lai, Đi tiêu
dao, Người con gái thần Rắn, Hoàng Kim Ốc của Cung Khanh; Con bò dưới Thủy
Tề, Gò Thần của Lan Khai; Thần Hổ của Tchya – Đái Đức Tuấn; Trên đỉnh non
32
Tản của Nguyễn Tuân. Các yếu tố tâm linh xuất hiện trong truyện ngắn, tiểu thyết
1932-1945 như là sự quay về với tâm thức cộng đồng bởi thần thoại “là phương tiện
nhận thức quan trọng của người nguyên thuỷ, cũng là một trong những nguồn hình thành
những giá trị tinh thần truyền thống đầu tiên của dân tộc” [22; tr.1646-1648].
Mang đậm dấu ấn văn học dân gian, truyện ngắn, tiểu thuyết giai đoạn 1932-
1945 thể hiện những rõ nét những yếu tố tâm linh từ truyện cổ tích. Đó là sự xuất
hiện của các lực lượng thần kì, nhân vật có phép thuật có thể tế độ cho con người
trong các tác phẩm Cây Đa ba chạc của Đỗ Huy Nhiệm; Con Thuồng Luồng nhà họ
Ma của Lan Khai; Bóng người trong sương mù của Nhất Linh; Đàn bồ câu trắng
của Hoàng Trọng Miên; Ngủ với ma của Đỗ Huy Nhiệm. Bên cạnh đó còn có sự
tương thông với thế giới khác (cõi âm, cõi Trời, cõi mộng...) tạo nên những cuộc
gặp gỡ chỉ có trong mơ. Ở đó, người cõi dương gặp gỡ và bày tỏ tâm tư với người
cõi âm qua những giấc mộng như Tâm sự của nước độc (Trích Chùa Đàn), Loạn âm
của Nguyễn Tuân; Câu chuyện mơ trong giấc mộng của Nhất Linh; Chiều sương,
Một trận bão cuối năm của Bùi Hiển. Bên cạnh đó còn có những câu chuyện thể
hiện sự liên hệ với đời sống hiện thực, bày tỏ niềm tin của con người vào sự công
bằng của “luật đời” theo quan niệm dân gian “ở hiền gặp lành”, “ác báo ác giả”,
“gieo gió gặt bão” như Oan nghiệt của Tchya Đái Đức Tuấn; Khoa thi cuối cùng,
Xác ngọc lam của Nguyễn Tuân; Ông Rắn của Đỗ Huy Nhiệm, Thần Hổ của Tchya
Đái Đức Tuấn, Gò Thần của Lan Khai... Sự linh ứng và phép biến hóa kì lạ cũng tạo
một ấn tượng về niềm tin tâm linh trong các truyện ngắn, tiểu thuyết giai đoạn này
qua các tác phẩm Đôi vịt con, Ma Thuồng Luồng, Gò Thần, Người hóa hổ, Người
lạ, Khảm khắc của Lan Khai; Trại Bồ Tùng Linh của Thế Lữ.
Dấu vết của truyền thuyết vẫn còn lưu giữ trong những tác phẩm ngày nay.
Đó là những truyện góp phần giải thích nguồn gốc các vị thần được nhân dân lập
miếu, am thờ phụng. Tuy nhiên, họ không phải là là những nhân vật có lai lịch thần
bí, không phải là những anh hùng có công với nước với dân. Họ chỉ là những người
dân lao động bình thường như ông già mù kéo xe tay đói khổ, khi chết được dân
làng thờ phụng như Thành hoàng làng trong Am culy xe của Thanh Tịnh; Con Trâu
33
của Trần Tiêu; Một truyện ghê gớm của Thế Lữ; Trăng xanh huyền hoặc của Hoàng
Trọng Miên... Một số tác phẩm giải thích một địa danh gắn với niềm tin tâm linh
của con người như Con bò dưới Thủy Tề, Gò thần của Lan Khai; Trên đỉnh non Tản
của Nguyễn Tuân; Vàng và máu của Thế Lữ...
Dấu ấn của yếu tố tâm linh trong văn học dân gian còn được thể hiện ở đề tài,
cốt truyện thậm chí cả tâm hồn tư tưởng chung của truyện ngắn, tiểu thuyết Việt
Nam 1932-1945. Đó là đề tài về hiện tượng thần báo mộng, trừng phạt Con bò dưới
Thủy Tề, Ông rắn, Trên đỉnh non Tản... đề tài về những người nghèo khổ, hiền lành
được phù trợ trong truyện Con Thuồng Luồng nhà họ Ma của Lan Khai, Xác ngọc
lam, Rượu bệnh của Nguyễn Tuân; những người phụ nữ khao khát hạnh phúc lứa
đôi cũng được bù đắp xứng đáng trong Trại Bồ Tùng Linh của Thế Lữ; Thần Hổ của
Tchya Đái Đức Tuấn; Rừng khuya của Lan Khai... Ngoài ra, còn có những tác phẩm
ca ngợi tình cảm thủy chung, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người trong
hành trình đến với cái đẹp, cái thiện như Tình trong câu hát, Ngậm ngải tìm trầm
(Thanh Tịnh), Bóng người trong sương mù (Nhất Linh), Tâm sự của nước độc, Đới
Roi, Xác ngọc lam (Nguyễn Tuân). Đồng thời có một số tác phẩm là lời cảnh báo,
phê phán những hành vi và cách ứng xử của con người đối với thiên nhiên, con
người với nhau trong xã hội và với chính bản thân mình: Hai lần chết (Thế Lữ); Ai
phải (Trần Tiêu), Tết trên Mường, Cây đa ba chạc (Đỗ Huy Nhiệm), Đôi vịt con
(Lan Khai); Con bò dưới Thủy Tề (Lan Khai)...
Kho tàng truyện dân gian với nhiều yếu tố tâm linh giai được khai thác và sử
dụng một cách sáng tạo trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này rộng.
Dấu ấn của văn học dân gian trong truyện ngắn, tiểu thuyết 1932-1945 là bằng
chứng xác thực khẳng định ảnh hưởng mạnh mẽ của nó đối với văn học Việt Nam.
Đi tìm yếu tố tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 qua ảnh
hưởng của văn học dân gian là góp phần khẳng định giá trị của một nét văn hóa cổ
truyền rất độc đáo đã được bảo tồn trong kho tàng văn học dân tộc.
34
1.4.2. Kế thừa yếu tố tâm linh trong văn học trung đại Việt Nam
Văn hóa trung đại là văn hóa của quan niệm Thiên, Địa, Nhân hợp nhất
thành một thể. Nhìn chung thế giới quan thời trung đại của người dân Việt là niềm
tin vào thần linh, tin vào một lực lượng siêu nhiên có khả năng chi phối cuộc sống
con người, đó là một nét văn hóa truyền thống vốn ẩn tàng trí tuệ theo lối hướng nội
- một phương thức tư duy đặc thù. Con người thời trung đại có thế giới quan gắn
với tín ngưỡng về một lực lượng siêu nhiên. Niềm tin tâm linh ấy là bến đỗ của tâm
hồn. Tín ngưỡng chi phối cách hành xử của con người. Đối với chân lý của vũ trụ,
họ hết sức tin phục và tôn trọng, lấy đó làm nguyên tắt hướng dẫn cho mọi hành
động của mình. Vì vậy trong hoàn cảnh nào, vào bất kỳ lúc nào họ cũng trước sau
bảo trì niềm tin kiên định.
Văn học là sản phẩm của lịch sử, tự nó là tấm gương phản chiếu hiện thực
cuộc sống. Văn học mỗi thời đại đều chịu sự chi phối mạnh mẽ của đời sống xã hội.
Vì thế, yếu tố tâm linh trong đời sống con người thời trung đại cũng được thể hiện
qua từng trang văn như một sự thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan của tác giả.
Thông qua các tác phẩm của mình, các nhà văn đã cho chúng ta biết về đời sống
tinh thần, nếp cảm nếp nghĩ của con người thời đại ấy.
Văn học trung đại hình thành và phát triển trong một thời đại lịch sử
đặc thù. Con người dường như tự giam chặt mình trong những khuôn khổ cứng
nhắc của gia đình và làng mạc, của những qui định lễ giáo. Sự sợ hãi muôn thuở của
một kiếp người bấp bênh, một cuộc sống chật hẹp đưa con người hướng đến đấng
siêu nhiên, khẳng định tất cả là ý muốn của trời. Khổng Tử nói: “Duy thiên địa vạn
vật chi mẫu, duy nhân vi vạn vật chi linh” (“Chỉ có Trời Đất là mẹ của vạn vật, chỉ
có con người là anh linh của vạn vật”), cho rằng Trời là nguồn gốc chi phối mọi
nguyên tắc đạo đức. Bởi vậy người xưa kính trọng Trời và tin vào Thần, “Xem Đạo
của Trời để hiểu được Đạo làm người”. Trời là đấng tối cao của tất cả, con người
cần thành kính, khiêm tốn trong tâm, bởi Trời có mặt khắp mọi nơi chứng kiến mọi
hành vi của con người. Mặc dù theo các nhà Nho đương thời, những vấn đề thuộc
về tâm linh bị xem là dị đoan nhưng yếu tố tâm linh vẫn luôn tồn tại. Chính yếu tố
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam

More Related Content

What's hot

Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...nataliej4
 
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...nataliej4
 
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868 VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868 nataliej4
 
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424nataliej4
 

What's hot (20)

Luận văn: Linh thần trong truyền thuyết Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Linh thần trong truyền thuyết Việt Nam, HAY, 9đLuận văn: Linh thần trong truyền thuyết Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Linh thần trong truyền thuyết Việt Nam, HAY, 9đ
 
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
Luận án: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI, HAY - Gửi miễ...
 
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận án: Đặc điểm của loại truyện thơ Nôm tự thuật, HAY - Gửi miễn phí qua za...
 
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXILuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ nữ Việt Nam đầu thế kỉ XXI
 
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAYLuận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
 
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
 
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hửLuận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
 
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOTCảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
 
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoáLuận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
 
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
 
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đLuận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
 
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868 VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
VĂN HỌC NHẬT BẢN TỪ KHỞI THỦY ĐẾN 1868
 
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đLuận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
 
Luận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đ
Luận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đLuận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đ
Luận văn: Quá trình tiếp nhận tác phẩm của Tô Hoài, 9đ
 
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAYLuận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
 
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOTLuận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
Luận văn: Diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nữ đương đại, HOT
 
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAYLuận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
 
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAYLuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
 

Similar to Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam

Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
 Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945anh hieu
 
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...KhoTi1
 
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn KhuyếnKhóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn KhuyếnDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Similar to Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam (20)

Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
 Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945
 
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAYLuận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
 
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đThế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
 
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
 
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi phápLuận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
 
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAYLuận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
 
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
 
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn KhuyếnKhóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
 
Th s33.005 bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ân
Th s33.005 bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ânTh s33.005 bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ân
Th s33.005 bản sắc dân tộc trong văn xuôi triều ân
 
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAYLuận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và InrasaraLuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
 
Luận án: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, HAY
Luận án: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, HAYLuận án: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, HAY
Luận án: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, HAY
 
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành lý luận văn học, HAY, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đLuận văn: Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
 
Đề tài: Giáo dục thẩm mỹ qua tranh dân gian tại Bảo tàng, HAY, 9đ
Đề tài: Giáo dục thẩm mỹ qua tranh dân gian tại Bảo tàng, HAY, 9đĐề tài: Giáo dục thẩm mỹ qua tranh dân gian tại Bảo tàng, HAY, 9đ
Đề tài: Giáo dục thẩm mỹ qua tranh dân gian tại Bảo tàng, HAY, 9đ
 
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đLuận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
 
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAYLuận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
 
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
 
Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)
Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)
Yếu tố văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Việt Nam (1986 - 2000)
 
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạnLuận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
Luận án: Nghệ thuật tượng trưng trong sáng tác của trường thơ loạn
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (19)

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH  Phạm Thị Xuân Lan VĂN HÓA TÂM LINH TRONG TRUYỆN NGẮN, TIỂU THUYẾT VIỆT NAM (1932 – 1945) LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
  • 2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH  Phạm Thị Xuân Lan VĂN HÓA TÂM LINH TRONG TRUYỆN NGẮN, TIỂU THUYẾT VIỆT NAM (1932 – 1945) Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ THU YẾN Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
  • 3. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện đề tài này, ngoài việc cố gắng của bản thân, người viết đã nhận được rất nhiều sự động viên giúp đỡ từ thầy cô, bạn bè, cơ quan công tác và các tổ chức ban ngành của trường ĐHSP TP. HCM. Trước tiên người viết xin bày tỏ lòng biết ơn của mình với PGS. TS Lê Thu Yến – Phó chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh. PGS. TS Lê Thu Yến đã tận tình giúp đỡ người viết làm sáng tỏ các vấn đề được triển khai trong đề tài suốt quá trình thực hiện luận văn. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, phòng SĐH Trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người viết hoàn thành luận văn này. Xin cảm ơn BGH Trường THPT Nguyễn Văn Trỗi đã tạo điều kiện thuận về thời gian công tác để người viết hoàn thành luận văn. Xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp và bạn bè đã giúp đỡ và động viên người viết trong suốt quá trình làm luận văn. TP. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2012 Người viết
  • 4. MỤC LỤC DẪN NHẬP ...............................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề......................................................................................................3 3. Mục đích nghiên cứu ...........................................................................................6 4. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................6 5. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................7 5.1. Phương pháp lịch sử......................................................................................8 5.2. Phương pháp hệ thống...................................................................................8 5.3. Phương pháp so sánh.....................................................................................8 5.4. Phương pháp phân tích tổng hợp...................................................................8 5.5. Phương pháp liên ngành................................................................................9 6. Đóng góp của luận văn ......................................................................................10 7. Bố cục của luận văn...........................................................................................10 NỘI DUNG ..............................................................................................................12 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG................................................................12 1.1. Văn hóa và văn hóa tâm linh ..........................................................................12 1.1.1. Văn hóa.....................................................................................................12 1.1.2. Tâm linh ...................................................................................................14 1.1.3. Văn hóa tâm linh ......................................................................................18 1.2. Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong văn hóa Việt Nam...........................20 1.2.1. Nền văn hóa gốc nông nghiệp trồng lúa nước.........................................21 1.2.2. Tư tưởng Nho- Phật- Đạo và các tôn giáo khác.......................................24 1.3. Truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1932-1945..............................25 1.3.1. Bối cảnh văn học 1932-1945....................................................................25 1.3.2. Thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết có yếu tố tâm linh trong văn học Việt Nam 1932-1945..................................................................................................28
  • 5. 1.4. Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam1932-1945 ......................................................................................................30 1.4.1. Kế thừa yếu tố tâm linh trong văn học dân gian Việt Nam......................31 1.4.2. Kế thừa yếu tố tâm linh trong văn học trung đại Việt Nam.....................34 1.4.3. Tiếp biến yếu tố tâm linh trong văn học phương Tây..............................37 CHƯƠNG 2: NHỮNG BIỂU HIỆN VĂN HÓA TÂM LINH TRONG TRUYỆN NGẮN, TIỂU THUYẾT VIỆT NAM 1932-1945................................40 2.1. Mộng...............................................................................................................40 2.2. Cầu cúng, khấn vái .........................................................................................48 2.2.1. Cầu đảo....................................................................................................48 2.2.2. Thờ cúng..................................................................................................55 2.2.3. Khấn vái, thề nguyền................................................................................60 2.2.4. Lập miếu (am, miễu) ................................................................................66 2.3. Điềm báo.........................................................................................................68 2.4. Phép thuật, bói toán ........................................................................................74 2.4.1. Phép thuật, bùa ngải, phù chú ..................................................................74 2.4.2. Bói toán, tướng thuật................................................................................79 2.5. Linh ứng..........................................................................................................82 2.5.1. Quả báo.....................................................................................................82 2.5.2. Ứng báo ....................................................................................................86 2.6. Hồn ma, hóa kiếp............................................................................................88 2.6.1. Hồn ma .....................................................................................................88 2.6.2. Hóa kiếp ...................................................................................................96 Chương 3: HIỆU QUẢ THẨM MĨ CỦA YẾU TỐ TÂM LINH TRONG TRUYỆN NGẮN, TIỂU THUYẾT VIỆT NAM 1932-1945..............................103 3.1. Yếu tố tâm linh – phản ánh hiện thực...........................................................103 3.1.1. Hiện thực đời sống tâm linh...................................................................104 3.1.2. Hiện thực xã hội .....................................................................................108 3.2. Yếu tố tâm linh – Ý nghĩa nhân văn.............................................................111
  • 6. 3.2.1. Yếu tố tâm linh – Ý nghĩa giáo dục .......................................................111 3.2.2. Yếu tố tâm linh – Khát vọng hạnh phúc.................................................117 3.3. Yếu tố tâm linh – Giá trị nghệ thuật đặc sắc của truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 ...................................................................................................124 3.3.1. Chi tiết, tình huống.................................................................................124 3.3.2. Hệ thống ngôn từ....................................................................................128 3.3.3. Hệ thống nhân vật...................................................................................131 3.3.4. Không gian thiêng ..................................................................................134 3.3.5. Thời gian thiêng .....................................................................................137 KẾT LUẬN............................................................................................................141 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................144
  • 7. 1 DẪN NHẬP 1. Lí do chọn đề tài Văn học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong tục… là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hoá. Nếu văn hoá thể hiện quan niệm và cách ứng xử của con người trước thế giới, thì văn học là hoạt động lưu giữ những thành quả đó một cách sinh động nhất. Văn hoá của một dân tộc cũng như của toàn thể nhân loại từng trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn lựa, đấu tranh và sáng tạo để hình thành những giá trị trong xã hội. Văn học vừa thể hiện con đường tìm kiếm đó, vừa là nơi định hình những giá trị đã hình thành. Cũng có thể nói văn học là văn hoá lên tiếng bằng ngôn từ nghệ thuật. Văn học biểu hiện văn hoá, cho nên văn học là tấm gương của văn hoá. Trần Ngọc Thêm đã nhận xét Tiếng Việt “phản ánh rõ hơn đâu hết linh hồn, tính cách của con người Việt Nam và những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt Nam” [92; tr 316]. Văn hoá tác động đến văn học không chỉ ở đề tài mà còn ở toàn bộ bầu khí quyển tinh thần bao bọc hoạt động sáng tạo của nhà văn và hoạt động tiếp nhận của bạn đọc. Bản thân nhà văn với thế giới nghệ thuật của mình là một sản phẩm văn hoá. Người đọc, với chân trời chờ đợi hướng về tác phẩm, cũng được rèn luyện về thị hiếu thẩm mỹ trong một môi trường văn hoá nhất định. Chính không gian văn hoá này chi phối cách xử lý đề tài, thể hiện chủ đề, xây dựng nhân vật, sử dụng thủ pháp nghệ thuật… trong quá trình sáng tác; đồng thời cũng chi phối cách phổ biến, đánh giá, thưởng thức… trong quá trình tiếp nhận. Một nền văn hoá cởi mở, bao dung mới tạo điều kiện thuận lợi cho văn học phát triển. Vì vậy, có thể nói văn học là thước đo, là “nhiệt kế” vừa lượng định, vừa kiểm nghiệm chất lượng và trình độ văn hoá của một xã hội trong một thời điểm lịch sử nhất định. Trong tinh thần đó, nhiều nhà nghiên cứu đã căn cứ vào những dữ liệu văn học để tìm hiểu bức tranh văn hoá của một thời đại. Nói cách khác, thực tiễn văn học có thể cung cấp những cứ liệu đáng tin cậy cho khoa nghiên cứu văn hoá. Đối với mỗi quốc gia, văn hóa là giá trị cao quí nhất. Bởi văn hóa (do gốc rễ lịch sử bền sâu bao giờ cũng có tiềm lực trường tồn lớn hơn những thiết chế văn minh). Văn hóa với sự
  • 8. 2 tích lũy những hằng số lịch sử, mang hồn cốt của một dân tộc và có thể trụ vững theo thời gian đồng thời định hướng sự phát triển của văn minh. Văn hoá chi phối hoạt động và sự phát triển của văn học, thì ngược lại, văn học cũng tác động đến văn hóa, hoặc trên toàn thể cấu trúc, hoặc thông qua những bộ phận hợp thành khác của nó. Những nhà văn tiên phong của dân tộc bao giờ cũng là những nhà văn hoá lớn. Giữa văn học và văn hoá có mối quan hệ hữu cơ mật thiết như vậy, nên việc tìm hiểu văn học dưới góc nhìn văn hoá là một hướng đi cần thiết và có triển vọng. Cùng với những cách tiếp cận văn học bằng xã hội học, mỹ học, thi pháp học… cách tiếp cận văn học bằng văn hoá học giúp chúng ta lý giải trọn vẹn hơn tác phẩm nghệ thuật với hệ thống mã văn hoá được bao hàm bên trong nó. Những yếu tố văn hoá liên quan đến thiên nhiên, địa lý, lịch sử, phong tục, tập quán, ngôn ngữ… có thể được vận dụng để cắt nghĩa những phương diện nội dung và hình thức của tác phẩm. Nó cũng có thể góp phần lý giải tâm lý sáng tác, thị hiếu độc giả và con đường phát triển nói chung của văn học. Văn học Việt Nam giai đoạn 1932-1945 mang những giá trị từ nguồn văn hoá truyền thống âm thầm chảy trong mạch ngầm của nó và thấm vào thế giới hình tượng và ngôn từ của tác phẩm đồng thời có những giá trị văn hoá mới hình thành vào lúc đương thời không thôi cám dỗ, kêu gọi, thách thức. Trong văn học thời kì này, qua tài năng nghệ thuật, sự phá cách, chất hiện đại trong phong cách sáng tác cùng với vốn văn hóa truyền thống sâu rộng của mình, các tác giả đã cho chúng ta hiểu được niềm tin thiêng liêng, tín ngưỡng truyền thống, phong tục tạp quán, nếp cảm nếp nghĩ và những quan niệm thể hiện phương thức tư duy của nhân dân – những điểm cốt lõi tạo nên giá trị văn hóa tinh thần đặc sắc của dân tộc: văn hóa tâm linh. Văn học Việt Nam giai đoạn 1932-1945 một mặt kế thừa các giá trị văn hóa tinh thần của văn học dân gian và văn học trung đại mặt khác đi sâu khám phá tâm hồn phức tạp của con người trong thời đại mới. Sự phá cách, chất hiện đại trong phong cách sáng tác của các nhà văn đã làm nên sự đa sắc cho giai đoạn văn học này. Trong thời đại của chúng ta, vấn đề tâm linh con người được quan tâm chú ý nhiều
  • 9. 3 hơn bởi “tâm linh trong cuộc sống của con người thuộc về văn hóa, và phải được đối xử một cách văn hóa” [33; tr 328]. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài: “Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam 1932-1945” như một hành trình tìm hiểu truyền thống văn hóa Việt Nam trong dòng chảy của văn học dân tộc. 2. Lịch sử vấn đề Tâm linh là vấn đề phức tạp chưa được tìm hiểu thấu đáo. Đã có một thời người ta đồng nhất tâm linh với mê tín dị đoan và ra sức bài trừ. Những năm gần đây, trên tinh thần cởi mở để hòa nhập cùng thế giới, vấn đề tâm linh được đề cập nhiều hơn. Người ta nói nhiều về tâm linh như thế giới tâm linh, đời sống tâm linh, giải tỏa tâm linh, văn hóa tâm linh... Tâm linh đối với văn học đã có gắn kết nhau như duyên nợ nên việc đi sâu khám phá tâm linh sẽ là hướng đi đúng quĩ đạo của văn học, Huỳnh Như Phương cũng có ý cho rằng tìm hiểu tâm linh là hướng đi vào thế giới nội tâm để khám phá chiều sâu tâm linh nhằm nhận diện hình ảnh con người đích thực là ý hướng có triển vọng của nền văn học dân chủ. Con người với đời sống tâm hồn vốn là một kho báu bí ẩn đối với nhà văn. Nói như nhà văn Mô- ôm thì chính đời sống tâm linh đã làm cho bản chất của con người chứa đầy những yếu tố bất ngờ, bí ẩn. Văn học chính là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa tinh thần cho mọi thế hệ. Từ văn học hiểu thêm về văn hóa, đứng ở góc độ văn hóa nhìn sang văn học, văn hóa được nhận ra một cách tinh tế và văn học có nền tảng vững chắc như cội cây đã được sâu rễ bền gốc. Xung quanh đề tài luận văn về Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945, trong phạm vi tư liệu sưu tầm được, chúng tôi điểm qua một số công trình, bài báo khoa học có liên quan đến vấn đề này. Về văn hóa tâm linh, trong nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa, các tác giả đều có đề cập những vấn đề liên quan đến văn hóa tâm linh. Tuy nhiên sự đề cập mới chỉ dừng lại ở việc nêu hiện tượng, nhìn nhận khái quát. Công trình “Văn hóa tâm linh” (2002) của Nguyễn Đăng Duy giới thiệu những vấn đề về văn hóa tâm linh người Việt ở miền Bắc trong các lĩnh vực: tín
  • 10. 4 ngưỡng, thần thánh, trời đất, thờ Mẫu, tang ma, thờ cúng tổ tiên, các tôn giáo Phật, Đạo, Thiên chúa giáo. Tác giả nhìn khái quát về tâm linh trong mọi mặt đời sống. Trong đó có khía cạnh tâm linh trong văn học nghệ thuật “tâm linh trong sáng tác văn học nghệ thuật là những hình ảnh, biểu tượng thiêng liêng nào đó mà tác giả thể hiện được ra trong tác phẩm, làm rung động những trái tim, ngấn lệ những tâm hồn” [20; tr 38]. Công trình “Phân tâm học và văn hóa tâm linh” của S.Freud, C.Jung, E.Fromm, R.Assagioli do Đỗ Lai Thúy biên soạn (2004). Công trình này đã đi sâu vào tìm hiểu con người với ba kích thước cơ bản. Đó là con người với bản chất sinh học, con người với bản chất xã hội và con người với bản chất tâm linh. Trong công trình này, S.Freud và C.Jung đã phân tích tâm linh như một lĩnh vực của đời sống tinh thần. Tâm linh không đồng nhất với tín ngưỡng và tôn giáo. Tâm linh không nằm ngoài phạm vi nghiên cứu khoa học, mà còn là đối tượng của khoa học. Tâm linh cùng với khoa học và tôn giáo sẽ đưa con người đến một sự phát triển hài hòa tất cả các mặt sinh học - xã hội - tâm lí - tâm linh. S.Freud đã lí giải tâm linh con người từ nguồn gốc của tục Tôtem và C.Jung lí giải về giấc mơ của con người. Cùng với lí thuyết Phân tâm học và tôn giáo của E.Fromm, lí thuyết Phân tâm học và Thiền, lí thuyết về sự phát triển của siêu cá nhân đã giúp cho chúng ta có cái nhìn khoa học về các hiện tượng tâm linh. Gần với công trình trên là chuyên luận “Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam Bộ” (2004) của Nguyễn Hữu Hiếu bàn về văn hóa tâm linh của người Việt ở Nam Bộ qua tín ngưỡng thờ Mẫu và các lễ hội cổ truyền từ sự ảnh hưởng của văn hóa Chăm. Với công trình nghiên cứu “Văn hóa tâm linh Thăng Long Hà Nội” của Văn Quảng, chúng ta được hiểu thêm những biểu hiện phong phú, đa dạng về tâm thức cũng như hoạt động thờ cúng cụ thể trong đời sống tinh thần, văn hóa tâm linh của cư dân Thăng Long - Hà Nội. Qua đây, tác giả đã giới thiệu về những công trình văn hóa vật chất đậm tính tâm linh: phủ, điện, đình, đền, chùa, miếu… cùng
  • 11. 5 với những tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ cúng các thần và những tín ngưỡng tâm linh nổi bật nhất ở mảnh đất kinh kì ngàn năm văn hiến. Bài viết “Tiếp cận vấn đề tâm linh” của Sơn Nam đã khẳng định tâm linh là vấn đề “bản sắc văn hóa” [69; tr 282], tác giả đã đi tìm ranh giới giữa tâm linh với tín ngưỡng và mê tín. Bài viết “Tinh thần phân tích tâm linh một đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực” của PGS.TS. Phùng Quí Nhâm đã góp thêm một cách nhìn về tâm linh con người. Ông xem phân tích tâm linh con người cũng là một trong những đặc trưng quan trọng của chủ nghĩa hiện thực. Trong bài viết “Văn hóa và thị trường” GS.TS. Nguyễn Văn Hạnh nhận định rằng “Tâm linh có vị trí hiển nhiên và nổi bật trong đời sống tinh thần của con người. Có thể coi con người là một sinh vật tâm linh” [33; tr 328]. Trong những công trình bàn về thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 chúng tôi chú ý đến những công trình của Bùi Việt Thắng bởi trong công trình nghiên cứu Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, ít nhất có ba lần Bùi Việt Thắng nhắc đến vấn đề “truyện ngắn được quan niệm là một bộ phận của tiểu thuyết” [90; tr 36-71-132] Bài viết “Tâm linh- bản thể con người” của Nguyễn Kiên trên Tạp chí Tia sáng góp phần làm rõ cốt lõi của đời sống tâm linh ở trong bản thể của con người. Luận văn thạc sĩ của Hoàng Thị Minh Phương về “Văn hóa tâm linh trong văn xuôi trung đại” đã góp phần tìm hiểu những giá trị đặc sắc của các văn hóa tâm linh trong văn xuôi trung đại. Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thu Hiền đã tìm hiểu “Yếu tố tâm linh trong truyện ngắn sau 1975”. Qua công trình này, chúng ta thấy rằng yếu tố tâm linh có những giá trị như hằng số trong văn học nói riêng và trong đời sống văn hóa Việt nói chung theo suốt chiều dài của lịch sử dân tộc. Mặc dù vấn đề tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 chưa được quan tâm nhiều, nhưng cũng có một vài công trình nghiên cứu liên quan đến tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945. Đó là luận văn
  • 12. 6 thạc sĩ của Trần Thanh Tùng nghiên cứu về Yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Qua luận văn này, người viết đi vào tìm hiểu yếu tố kỳ ảo như một thủ pháp nghệ thuật trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930-1945. Như vậy, vấn đề tâm linh trong văn học đã được một số nhà nghiên cứu bàn đến ở những phạm vi khác nhau. Nhìn chung các nhà nghiên cứu thừa nhận có một thế giới tâm linh tồn tại trong đời sống con người Việt Nam từ xưa đến nay, đặc biệt là trong văn học. Tuy nhiên, trong truyện ngắn, tiểu thuyết Viêt Nam 1932-1945 vẫn chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu và qui mô. Từ những ý kiến quí báu của những người nghiên cứu đi trước, chúng tôi chọn vấn đề văn hóa tâm linh và đi sâu vào đề tài “Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932- 1945” yếu tố quan trọng làm nên giá trị của văn học giai đoạn này. 3. Mục đích nghiên cứu Tác phẩm văn học tái hiện lại đời sống của con người. Văn học Việt Nam có nhiều thay đổi và để lại dấu ấn đậm nét nhất ở giai đoạn 1932-1945. Đây là thời kì hoàn thiện diện mạo hiện đại trên tất cả mọi phương diện của đời sống văn chương nghệ thuật dân tộc. Truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 không chỉ phản ánh hiện thực phức tạp của đời sống mà còn đi sâu vào thế giới tâm linh của con người. Trong cách cảm nhận thế giới của người Việt “thiên nhân tương cảm”, “địa linh sinh nhân kiệt”, “vạn vật hữu linh” nên truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 cũng để lại dấu ấn tâm linh trong các tác phẩm... Chính vì thế, luận văn đi sâu tìm hiểu văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 để cóp nhặt những hiện tượng mang dấu ấn văn hóa tâm linh- một biểu hiện của truyền thống văn hóa Việt trong sáng tác của các nhà văn hiện đại. Đồng thời cũng giúp ta nhận thấy sức hấp dẫn của những truyện ngắn, tiểu thuyết mang yếu tâm linh. Đó cũng là sự minh chứng cho một dòng văn học về tâm linh vẫn ngầm chảy trong lịch sử văn học nước nhà. 4. Phạm vi nghiên cứu
  • 13. 7 Trong phạm vi đề tài và tư liệu, chúng tôi chỉ khảo sát những tác phẩm truyện ngắn và tiểu thuyết có xuất hiện nhiều yếu tố tâm linh của các tác giả tiêu biểu ở miền Bắc giai đoạn 1932-1945. Cụ thể gồm 16 tác giả và 75 tác phẩm (truyện ngắn, tiểu thuyết) như sau: 1. Nam Cao - 2 truyện ngắn 2. Phạm Cao Củng - 1 truyện ngắn 3. Bùi Hiển - 2 truyện ngắn 4. Nguyên Hồng - 2 truyện ngắn; 1 tiểu thuyết 5. Lan Khai - 8 truyện ngắn; 1 tiểu thuyết 6. Cung Khanh - 6 truyện ngắn 7. Nhất Linh - 4 truyện ngắn;1 tiểu thuyết 8. Thế Lữ - 5 truyện ngắn; 2 tiểu thuyết 9. Hoàng Trọng Miên - 5 truyện ngắn 10. Đỗ Huy Nhiệm - 5 truyện ngắn 11. Vũ Trọng Phụng - 1 truyện ngắn; 2 tiểu thuyết 12. Trần Tiêu - 5 truyện ngắn; 2 tiểu thuyết 13. Thanh Tịnh - 4 truyện ngắn 14. Ngô Tất Tố - 1 tiểu thuyết 15. Nguyễn Tuân - 11 truyện ngắn; 1 tiểu thuyết 16. TCHYA- Đái Đức Tuấn - 1 truyện ngắn; 2 tiểu thuyết Trên cơ sở thống kê, phân loại các hiện tượng tâm linh trong các tác phẩm dựa trên hệ qui chiếu từ văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam (phong tục, tập quán, tín ngưỡng, quan niệm, nếp cảm nếp nghĩ...), chúng tôi đã bước đầu giải thích một cách có cơ sở một số hiện tượng tâm linh phổ biến trong đời sống tinh thần của người dân Việt. Qua đó, chúng ta sẽ thấy được ý nghĩa của yếu tố tâm linh đối với các truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945. 5. Phương pháp nghiên cứu
  • 14. 8 5.1. Phương pháp lịch sử Tác phẩm văn học là sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Vì vậy, hướng đến việc tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử xã hội, môi trường văn hóa tư tưởng chung của thời đại trong mối tương tác của chúng với tác giả sẽ giúp chúng tôi lí giải yếu tố văn hóa trong văn học một thời đại. 5.2. Phương pháp hệ thống Chúng tôi coi truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932–1945 là một bộ phận, một hệ thống. Trong đó những tác phẩm mang yếu tố tâm linh được đặt trong hệ thống chung của truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam để khảo sát. Căn cứ vào những số liệu có được từ thao tác thống kê, phân loại từ tần số xuất hiện các hiện tượng tâm linh, chúng tôi sử dụng phương pháp tổng hợp nhằm lý giải những yếu tố tâm linh trong từng tác phẩm thuộc phạm vi khảo sát. Từ đó có cái nhìn toàn diện về văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1932- 1945. 5.3. Phương pháp so sánh Sử dụng phương pháp so sánh giúp chúng tôi thấy được điểm giống và khác nhau giữa các yếu tố tâm linh trong từng tác phẩm của các tác giả khác nhau, cũng như góp phần làm rõ sự giống và khác nhau của những yếu tố tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 so với văn học trung đại Việt Nam và truyện ngắn Việt Nam sau 1975. 5.4. Phương pháp phân tích tổng hợp Phương pháp phân tích, tổng hợp cũng được chúng tôi sử dụng trong quá trình tiếp nhận, nghiên cứu truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam có yếu tố tâm linh giai đoạn 1932-1945. Phương pháp này giúp chúng tôi xem xét yếu tố tâm linh trên những cơ sở nhất định đồng thời rút ra những nhận định xác thực về sự tồn tại của tâm linh trong dòng chảy của văn học.
  • 15. 9 5.5. Phương pháp liên ngành Phương pháp này cũng được sử dụng trong luận văn của chúng tôi để việc nghiên cứu hướng đến mục đích giúp người đọc thấy rõ vấn đề tâm linh thuộc về văn hóa. Hơn thế, văn hóa và văn học luôn có mối quan hệ mật thiết.
  • 16. 10 6. Đóng góp của luận văn Luận văn tập trung tìm hiểu những biểu hiện của văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945. Từ đó góp phần lí giải cho một số vấn đề tâm linh trong văn học thời kì này, đồng thời làm sáng tỏ giá trị của những tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết có yếu tố tâm linh. 7. Bố cục của luận văn gồm: (142 trang) Dẫn luận (10 trang) Chương 1: Những vấn đề chung (29 trang) Trong chương 1, chúng tôi giới thiệu khái quát bối cảnh văn hóa - văn học Việt Nam giai đoạn 1932-1945. Trên nền một xã hội có những biến đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa... văn học cũng có sự vận động, phát triển theo xu hướng phù hợp với thời đại mới. Đặc biệt là thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết đã có bước hiện đại hóa đáng kể và có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà. Trong dòng chảy chung của văn học, chúng tôi muốn tìm về cội nguồn của văn hóa tâm linh trong văn học dân tộc. Những vấn đề trên sẽ được làm sáng tỏ qua các mục sau: 1.1.Văn hóa tâm linh 1.2. Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong văn hóa Việt Nam 1.3.Truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1932-1945 1.4.Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 Chương 2: Những biểu hiện của văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 (53 trang) Chúng tôi phân tích các biểu hiện văn hóa tâm linh của người Việt Nam qua các truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1932-1945. Bước đầu tiếp cận, chúng tôi cóp nhặt và phân biệt những biểu hiện văn hóa tâm linh qua những hình thức biểu hiện cụ thể: 2.1. Mộng 2.2 .Cầu cúng, khấn vái 2.3. Điềm báo
  • 17. 11 2.4. Phép thuật, bói toán 2.5. Linh ứng 2.6. Hồn ma, hóa kiếp Chương 3: Hiệu quả thẩm mĩ của yếu tố tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 (39 trang) Tâm linh là một vấn đề thuộc về văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, khai thác yếu tố tâm linh chính là cách thức để nhà văn đi sâu vào thế giới tâm linh đầy bí ẩn của con người. Chính vì thế, yếu tố tâm linh đã góp phần tạo nên những giá trị khó phủ nhận về mặt nội dung và nghệ thuật. Nó là phương thức thể hiện quan niệm mới về thế giới, cuộc sống và là một thủ pháp để nhà văn đi sâu vào khám phá nội tâm phức tạp của con người. Từ đó, chúng tôi tìm hiểu hiệu quả nghệ thuật của yếu tố tâm linh qua các mục sau: 3.1. Yếu tố tâm linh – Phản ánh hiện thực 3.2. Yếu tố tâm linh – Ý nghĩa nhân văn 3.3. Yếu tố tâm linh – Đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 Kết luận (3 trang) Tài liệu tham khảo (8 trang)
  • 18. 12 NỘI DUNG Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Văn hóa và văn hóa tâm linh 1.1.1. Văn hóa Văn hóa (Culture) là một khái niệm rộng, khó có một định nghĩa nào bao quát đầy đủ nội hàm của nó. Văn hóa bao gồm hết thảy những sinh hoạt của loài người, từ sinh hoạt vật chất đến sinh hoạt tinh thần và sinh hoạt xã hội. Mọi hoạt động của con người và kết quả của những hoạt động do con người tác động vào giới tự nhiên và xã hội một cách có ý thức đều được gọi là văn hóa. Quá trình phát triển của loài người gắn liền với các hoạt động cải biến hoàn cảnh tự nhiên và xã hội. Con người sáng tạo ra văn hóa và văn hóa lại tái tạo bản thân con người. Nhìn một cách khái quát “văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử” [76; tr 1360]. Hồ Chí Minh cũng xem văn hóa là sáng tạo của con người “vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [109; tr 21]. Văn học là một hình thái đặc biệt của văn hóa, thuộc về hệ ý thức, lĩnh vực văn hóa tinh thần. Với đối tượng nghiên cứu là một phương diện của văn hóa tinh thần - văn hóa tâm linh trong văn học, chúng tôi lưu ý đến một số định nghĩa sau: “Văn hóa theo nghĩa rộng là tập tục, tín ngưỡng, ngôn ngữ, tư tưởng, thị hiếu thẩm mĩ,... những hiểu biết kĩ thuật cũng như toàn bộ việc tổ chức môi trường của con người, những công cụ, nhà ở,... và nói chung là toàn bộ công nghiệp có thể truyền lại được, điều tiết những quan hệ và những ứng xử của một nhóm xã hội với môi trường sinh thái của nó” [20; tr 24].
  • 19. 13 Cũng có thể hiểu“Văn hóa là một chỉnh thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập tục và bất kì năng lực thói quen nào khác mà con người cần có với tư cách là một thành viên của xã hội” [110; tr13]. Nhân dịp phát động thập kỉ thế giới phát triển văn hóa (1977-1988), tổ chức văn hóa thế giới UNESCO công bố định nghĩa mới về văn hóa: “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay củabao gồm các mặt tình cảm, tri thức, vật chất, tinh thần của xã hội. Nó không thuần túy bó hẹp trong sáng tác nghệ thuật một nhóm người trong người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng” [110; tr 23-24]. Từ các định nghĩa trên, có thể hiểu văn hóa theo hai nghĩa rộng - hẹp. Nghĩa rộng, văn hóa bao gồm các giá trị vật chất (văn hóa vật chất) và các giá trị tinh thần (văn hóa tinh thần) do con người sáng tạo và tích lũy qua hoạt đông thực tiễn trong quá trình lịch sử. Nghĩa hẹp, văn hóa chỉ liên quan đến đời sống tinh thần của con người, tức những giá trị tinh thần nhằm thỏa mãn đời sống tinh thần của con người. Với đối tượng nghiên cứu của luận văn là văn hóa tâm linh, chúng tôi vận dụng khái niệm văn hóa theo nghĩa hẹp là những giá trị văn hóa trong lĩnh vực tinh thần- văn hóa tinh thần. Đó là “những di sản văn hóa đem lại nguồn cảm hứng thẩm mĩ cho con người bằng những hoạt động của các loại hình nghệ thuật. Cụ thể là văn, thơ, hát... nghề mĩ nghệ thủ công, trò chơi nghệ thuật... Cùng với các loại hình trên là phong tục, tập quán, lễ nghi, tín ngưỡng, tết, luật tục và những hương ước, định ước và những tri thức dân gian” [12; tr 19]. Ở đây, có thể coi những thành tố phong tục tập quán, lễ nghi, tín ngưỡng đều thuộc về văn hóa tâm linh bởi chúng đều gắn với yếu tố tâm linh - một thành tố quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần dân tộc. Văn hóa tâm linh luôn tác động đến sự phát triển của văn hóa dân tộc. Văn hoá không phải là một sản phẩm tinh thần chết cứng; trái lại, nó cũng có sự vận động do sự phát triển ngày càng phong phú của đời sống vật chất. Nếu coi
  • 20. 14 văn hoá là một cái gì đó bất biến, thì có nghĩa là chúng ta đang hủy hoại, phá bỏ văn hoá, phá bỏ chính cuộc sống tinh thần của chúng ta. Bởi, văn hoá cũng cần phải thích ứng với những thay đổi của điều kiện xã hội để tồn tại. Nếu không thích ứng kịp với những biến chuyển của thời gian, thì đời sống tinh thần nói chung, văn hoá nói riêng của con người sẽ khô cứng mà chết dần. Có thể nói, đó chính là sự thể hiện quy luật đào thải của tự nhiên trong lĩnh vực văn hoá. 1.1.2. Tâm linh Tâm linh hay văn hóa tâm linh là một phạm trù rất bao la, rộng lớn và đã chi phối chúng ta từng phút giây trong đời sống của mỗi con người. Vậy tâm linh là gì? Qua tìm hiểu một số tài liệu, chúng tôi thấy có khá nhiều cách hiểu khác nhau về tâm linh, do vậy cũng có nhiều khái niệm tâm linh . Hướng thứ nhất, tâm linh được hiểu là khía cạnh tâm hồn, tinh thần, tình cảm của con người. Theo Từ điển Tiếng Việt 2000, tâm linh là “tâm hồn, tinh thần” [76; tr 897]. Trong đó, tâm hồn là “ý nghĩ và tình cảm làm thành đời sống nội tâm, thế giới bên trong của con người” [76; tr 896] và tinh thần là “tổng thể nói chung những ý nghĩ tình cảm, những hoạt động thuộc về đời sống nội tâm của con người" [76; tr 994]. Theo đó, thế giới tâm linh là thế giới tâm hồn, thế giới tinh thần. Nói đến tâm linh là nói đến đời sống nội tâm của con người trong tương quan với đời sống vật chất bên ngoài. Tâm linh còn là một phần của tâm lí. Vì tâm lí là “toàn bộ nói chung sự phản ánh của hiện thực khách quan vào ý thức con người, bao gồm nhận thức, tình cảm, ý chí... biểu hiện trong hoạt động cử chỉ của mỗi người” [76; tr 897]. Vậy tâm linh theo đó là một biểu hiện của đời sống tâm lí con người ở khía cạnh tình cảm. Hướng thứ hai, tâm linh được hiểu như một khả năng phán đoán, biết trước sự việc. Trong Pháp Việt từ điển của Lê Khả Kế, tâm linh là “linh tính”. Từ điển Tiếng Việt (2008) của Hoàng Phê cũng có nét nghĩa tâm linh là “khả năng biết trước một số biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với mình, theo quan niệm duy tâm” [76;tr897].
  • 21. 15 Cả hai hướng hiểu trên điều có chung một ý niệm về tâm linh gắn với con người, trong ý thức của con người. Tuy nhiên nếu hiểu tâm linh trong thực tế đời sống tinh thần của con người. “Tâm’’ là lòng dạ con người. Còn “linh” nghĩa là linh thiêng, thiêng liêng. Vậy ‘‘Tâm linh’’ theo nét nghĩa này là sự linh thiêng được con người thường xuyên nghĩ tới, tự nhắc mình ghi nhớ làm theo, tin theo. Tâm linh là một phần quan trọng trong đời sống bởi “trong đời sống con người ngoài mặt hiện hữu còn có mặt tâm linh. Về mặt cá nhân đã như vậy, mà mặt cộng đồng ( gia đình, làng xã, dân tộc) cũng vậy. Nếu mặt hiện hữu của đời sống con người có thể nhận thức qua những tiêu chuẩn cụ thể, có thể cảm nhận bằng những giác quan cụ thể thì về mặt tâm linh bao giờ cũng gắng với cái trừu tượng, rất mông lung, nhưng lại không thể thiếu ở con người. Con người sở dĩ trở thành con người, một phần căn bản là do nó có đời sống tâm linh. Nghĩa là tuân theo những giá trị bắt nguồn từ cái thiêng liêng, cái bí ẩn, những giá trị tạo thành đời sống tâm linh của nó” [68; tr 36]. Tâm linh là thế giới của cái thiêng liêng, cao cả mà con người luôn hướng tới nên nó có giá trị cố kết cộng đồng, ràng buộc con người bên cạnh những mối quan hệ hữu hình khác. Vì vậy tâm linh có mặt trong cả đời sống tinh thần, đời sống xã hội và đời sống tôn giáo “Không chỉ có thượng đế, có Chúa, Trời, Thần, Phật mới thiêng liêng mà cả Tổ quốc, lòng yêu thương con người, sự thật công lí cũng thiêng liêng không kém” [20; tr 8]. Hiểu tâm linh một cách toàn diện khi ta xem xét khái niệm tâm linh của Nguyễn Đăng Duy: “Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong tín ngưỡng tôn giáo. Cái thiêng liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý niệm” [20; tr 11]. Qua khái niệm, ta thấy có ba điểm cốt lõi : Thứ nhất, Tâm linh là vấn đề thuộc ý thức, gắn liền với ý thức con người. không có ý thức của con người thì không có tâm linh. Trong ý thức con người, tâm linh là một dạng của ý thức – ý thức hướng về cái thiêng liêng. Ý thức tâm linh thường được biểu hiện dưới dạng quan niệm và những hình ảnh, biểu tượng thiêng liêng.
  • 22. 16 Thứ hai, hạt nhân cơ bản của tâm linh là niềm tin, không có niềm tin chắc chắn không có tâm linh. Đó là niềm tin, sự ngưỡng vọng vào cái thiêng, gọi là niềm tin tâm linh. Do vậy niềm tin tâm linh thuộc về bản chất của con người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con người, cũng giống như đời sống vật chất, đời sống xã hội, tinh thần, tư tưởng. Thứ ba, Tâm linh tồn tại trong đời sống cá nhân, gia đình, cộng đồng làng xã, Tổ Quốc, trong văn học nghệ thuật, trong tín ngưỡng tôn giáo. Tâm linh và tín ngưỡng có mối quan hệ gì ? Tín ngưỡng (tin tưởng, ngưỡng mộ) thường gắn liền với niềm tin tôn giáo. Tín ngưỡng cũng là nét văn hóa, một lĩnh vực thuộc về niềm tin, một nếp nghĩ được kết tinh bởi ý thức của một cộng đồng tạo thành một phong tục, tạp quán có ý nghĩa như một nét văn hóa của một dân tộc, một quốc gia. Tín ngưỡng không chỉ có trong niềm tin tôn giáo mà còn là niềm tin thuần túy dân gian. Đó là niềm tin vào lực lượng siêu nhiên, thánh thần trong thế giới quan của nhân dân. Những lực lượng có sức mạnh phi phàm chi phối cuộc sống con người. Những lực lượng ấy có thể là nhiên thần, nhân thần đã gây họa hay tác phúc, can thiệp vào các hoạt động sống của con người. Tín ngưỡng được hình thành xuất phát từ thực tế cuộc sống, được cộng đồng tin tưởng và làm theo như một tạp quán đậm dấu ấn của cư dân bản địa. Đó cũng là một niềm tin thiêng liêng mang tính tâm linh. Tâm linh và tôn giáo quan hệ như thế nào? Tôn giáo là một dạng đặc biệt của văn hóa tinh thần, tôn giáo có vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống con người. Theo cách hiểu phổ biến: tôn giáo là một dạng sinh hoạt tâm linh trong đó con người tin vào sự hiện hữu của các thế lực siêu nhiên, siêu phàm có thể tác động đến đời sống của con người khi còn sống cũng như khi đã chết. Niềm tin linh hồn của người chết vẫn tồn tại trong thế giới khác. Từ đó con người tôn thờ các lực lượng siêu nhiên, những linh hồn của người chết với hi vọng có cuộc sống bình an nơi trần thế và hưởng phúc vĩnh hằng nơi thế giới khác sau khi chết.
  • 23. 17 Cơ sở của mọi tôn giáo là niềm tin của con người vào cái thiêng đối lập với cái trần tục hiện hữu mà ta có thể cảm nhận trực tiếp bằng cách sờ mó, quan sát. Tùy theo mỗi loại tôn giáo mà cái thiêng có thể biểu hiện thông qua hệ thống các biểu tượng và các biểu tượng ấy chế định quy cách ứng xử của con người với tự nhiên và con người với con người trong xã hội. Tâm linh và tôn giáo có điểm tương đồng là niềm tin thiêng liêng. Tuy niềm tin tôn giáo là biểu hiện của đời sống tâm linh nhưng nó không đồng nhất với tâm linh. Trong niềm tin tôn giáo, ngoài phần tâm linh còn có phần mê tín dị đoan, thậm chí có cả sự cuồng tín tôn giáo. Tâm linh là phần cơ bản nhất, là biểu hiện mặt tích cực của tôn giáo, có giá trị nhất (mặt đạo đức và văn hóa, tính hướng thiện, tính nhân văn). Mỗi tôn giáo đều hướng về những hình tượng thiêng liêng (Phật trong Phật giáo, Chúa trong Gia tô giáo...) và đặt đức tin vào giáo lí, tín điều riêng. Các tôn giáo có chung tâm linh hướng về thế giới khác. Ở đó linh hồn hạnh phúc trọn vẹn sau khi từ giã cõi đời ( niết bàn, thiên đàng,...). Bên cạnh mặt tích cực, có văn hóa là hướng con người đến điều thiện, cái đẹp, cái cao cả... tôn giáo có thể bị lợi dụng vì mục đích riêng của con người khiến nó có thể đi ngược lại cái tốt đẹp, trở thành phản giá trị, phi văn hóa. Ở khía cạnh nảy có thể nói “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” (K. Marx). Tâm linh và mê tín dị đoan có giống nhau không ? Mê tín là tin một cách mê muội bất cứ một điều gì, còn dị đoan là tin theo những việc kì dị, những việc không thể có được. Qua Tín ngưỡng Việt Nam của Toan Ánh, ta thấy người có óc mê tín thì bạ đâu tin đó, tin cả điều hay cả điều dở, tin điều phải mà cũng tin điều trái, không suy xét, còn người có óc dị đoan thì ưa tin những điều huyền hoặc, càng dị kì lại càng tin. Thực chất các tôn giáo, tín ngưỡng đều có tính chất mê tín nhưng đó là niềm tin không mang tính dị đoan. Tuy nhiên mê tín và dị đoan thường đi liền mà con người khó phân biệt rạch ròi do niềm tin vào những điều không thật vốn dễ đưa con
  • 24. 18 người vượt qua ranh giới của tâm linh. Niềm tin bị bóp méo, biến dạng dễ trở thành mê tín dị đoan. Niềm tin trong mê tín dị đoan dễ dẫn con người đến những hành vi sai lệch, có hại cho cuộc sống, tạo kẽ hở cho những người cơ hội lợi dụng kiếm lợi bất chính, thực hiện những việc làm “buôn thần bán thánh” làm mất đi nét đẹp văn hóa, ý nghĩa thiêng liêng trong cuộc sống con người. Tín ngưỡng và tôn giáo cũng phát tín hiệu về niềm tin thiêng liêng. Tuy nhiên, tôn giáo gây dựng niềm tin cho con người dựa trên những triết thuyết, giáo lí, kinh sách và hệ thống lễ nghi mang tính giáo hóa tín đồ ngoan đạo và luôn hướng đến một đấng tối cao để cầu mong cho sự giải thoát, cầu mong cho cuộc sống sau khi chết. Trong khi đó, tín ngưỡng lại là sự tự ý thức về lực lượng siêu nhiên với niềm tin, sự ngưỡng mộ của cộng đồng với hình thức thông linh và thờ cúng mang tính dân gian, theo quan niệm dân gian nhằm tỏ lòng biết ơn hoặc cầu mong những điều tốt đẹp cho cuộc sống trần thế, đi tìm hạnh phúc cho con người ngay khi đang sống: cầu quốc thái dân an, cầu sức khỏe, cầu làm ăn thịnh vượng, cầu con cái, cầu duyên... Từ sự phân biệt trên ta có thể thấy rằng: bên cạnh tôn giáo, tín ngưỡng có một vị trí độc lập, là thành tố quan trọng của đời sống tâm linh. Đây là cơ sở để phân biệt các hiện tượng tâm linh là tín ngưỡng tôn giáo (niềm tin của các tín đồ) hay tín ngưỡng dân gian (niềm tin của các tầng lớp nhân dân). 1.1.3. Văn hóa tâm linh Văn hóa tâm linh là thuật ngữ xuất hiện nhiều vào khoảng mười lăm năm gần đây, nhất là sau khi một số nhà nhân học, tâm lí học, khoa học xã hội quốc tế thừa nhận yếu tố tâm linh, một trong bốn thuộc tính của con người (con người xã hội, con người sinh học, con người tâm lí, con người tâm linh). Khi ghép “Tâm linh” vào “Văn hóa”, thì khái niệm “Văn hóa tâm linh” là hình thái văn hóa của một tộc người gồm: tôn giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian (folklore) và một phần của sáng tạo khoa học, nghệ thuật... Từ cách hiểu và giới hạn khái niệm văn hóa và tâm linh, chúng tôi hiểu văn hóa tâm linh là những giá trị văn
  • 25. 19 hóa tinh thần thiêng liêng. Đó là “văn hóa biểu hiện những giá trị thiêng liêng trong cuộc sống đời thường và biểu hiện niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo” [20; tr.26]. Thuộc lĩnh vực văn hóa tinh thần, nhưng văn hóa tâm linh với những đặc thù riêng không chỉ gồm những giá trị văn hóa vô hình (ý niệm, quan niệm, tập tục, nếp cảm nếp nghĩ, nghi lễ...) mà cả những giá trị văn hóa hữu hình phát tín hiệu thiêng liêng (đình, đền, miếu, mộ, chùa, nhà thờ, tượng, bàn thờ...). Văn hóa tâm linh biểu hiện trong cả cuộc sống đời thường và trong tín ngưỡng tôn giáo. Có thể thấy trong cuộc sống con người luôn tồn tại đời sống tâm linh bên cạnh đời sống hiện thực thường ngày với những nhu cầu vật chất (ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chăm sóc sức khỏe...). Đời sống tâm linh là một phần của đời sống tinh thần. Ở đó có niềm tin vào “cái thiêng” khiến con người có được sự cân bằng trong cuộc sống. Với những người không theo tôn giáo, đời sống tâm linh chỉ xuất hiện khi “hoàn cảnh thiêng”, “không gian thiêng”, “thời gian thiêng”. Đó là vào những hoàn cảnh con người phải cầu viện vào sự phù hộ của Thánh Thần, Trời, Phật, Chúa... Đó là thời khắc thiêng liêng như ngày cúng giỗ (kị), đêm giao thừa, ngày tết, ngày rằm, các lễ hội có phần lễ thiêng liêng... những lúc ấy con người giao hòa với trời đất, thiên nhiên và những thế lực siêu hình (ông bà tổ tiên, Thánh Thần, Trời, Phật, Chúa...). Sống trong bầu không khí thiêng liêng mang tính tâm linh ấy con người thực sự được giải tỏa tâm linh. Họ cảm thấy tinh thần được thư giãn, tâm hồn được tắm gội thanh lọc, họ cởi bỏ những phiền muộn, lo âu trong cuộc sống, họ cầu mong hi vọng và hướng đến những điều tốt đẹp cho bản thân, gia đình và xã hội ngay trong cuộc sống hiện tại. Sống đời sống tâm linh chính là cách để con người đến gần hơn với thế giới tâm linh - thế giới của những biểu trưng về “đạo trời”, của những lực lượng siêu nhiên huyền bí với quyền năng vô hạn chi phối cuộc sống trần thế. Trong luận văn của mình, chúng tôi bước đầu tìm hiểu văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam trong một thời đại có sự tiếp thu văn học phương Tây. Vì thế những biểu hiện của văn hóa tâm linh trong văn học giai đoạn này
  • 26. 20 không chỉ là những niềm tin thiêng liêng trong tín ngưỡng của người Việt mà đó còn là những biểu hiện tâm linh (không phải là tín ngưỡng tôn giáo) của người dân Việt. Người Việt Nam không kì thị tôn giáo bởi họ đến với tôn giáo bằng niềm tin vào những điều thiêng liêng có thể giúp họ có một sự cân bằng tinh thần trong cuộc sống. Trong ý niệm của nhân dân ta từ xưa thế giới luôn có các lực lượng siêu nhiên thống trị cuộc sống nhân gian, niềm tin đó tạo nên những hoạt động tương ứng biểu hiện qua việc thờ cúng các nghi lễ, tập tục, kiêng kị... làm nên tín ngưỡng dân gian. Tín ngưỡng dân gian người Việt rất đa dạng, bao gồm tín ngưỡng thờ thần thánh, trời đất như Thành hoàng làng, thần hộ mệnh, thánh tổ nghề, thờ các vị phúc thần, các anh hùng lịch sử văn hóa... đều là đối tượng để con người sùng kính, ngưỡng mộ tôn vinh và noi gương; tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là việc hướng về cội nguồn, biết ơn người đã khuất, tri ân công trạng của các bậc tiên hiền... Các tín ngưỡng dân gian cùng với tâm linh của những người dân theo đạo Phật, Thiên chúa giáo, Đạo Hồi, Cao Đài... song hành tồn tại trong đời sống nhân dân và trở thành những sinh hoạt văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Văn học chỉ là một biểu hiện của văn hóa, là một mảng màu của bức tranh văn hóa thời đại nó ra đời. Vì vậy khi tìm hiểu văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 chúng tôi thu hẹp bộ phận văn hóa này trong tín ngưỡng dân gian và những biểu hiện tâm linh của người có đạo vì mục đích hướng đến những điều thiện mĩ cho cuộc đời này qua những biểu hiện như: việc thờ cúng trong các nghi lễ (lễ cầu đảo, cúng Thành hoàng, cúng tổ tiên...), một số tập tục (kiêng, khấn nguyện, thề nguyền, cầu khẩn...). Bên cạnh đó là niềm tin thiêng liêng đối với một số hiện tượng thiêng trong cuộc sống (giấc mộng, điềm báo, sự linh ứng, niềm tin vào phép thuật tướng số bói toán, hồn ma, hóa kiếp...). 1.2. Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong văn hóa Việt Nam Văn hóa tâm linh Việt Nam được hình thành từ tín ngưỡng bản địa và các tôn giáo khác. Tín ngưỡng người Việt có nguồn gốc từ tín ngưỡng phồn thực, sùng bái tự nhiên với tín ngưỡng đa thần đặc biệt thiên về âm tính (thờ Mẫu trong Tam, tứ
  • 27. 21 Phủ, hay thờ tứ Pháp: Mây, Mưa, Sấm, Chớp) đến thờ thực vật, động vật (Rồng tiên, Cây lúa, Thần Lúa…) và thờ con người như Hồn, Vía, Tổ tiên, Tổ nghề, Thành Hoàng làng, Vua tổ, Tứ bất tử (Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh). Đồng thời, người dân Việt còn thờ Thần linh: như Thổ công, Thần tài, Thần thánh, các anh hùng dân tộc. Trong quá trình tiếp xúc với các tôn giáo du nhập khác như Phật, Thiên chúa, Hồi, Tin lành hay các tôn giáo mới được bản địa hóa như Cao Đài, Hòa hảo… người Việt có những niềm tin tâm linh mới trên cơ sở dung hòa và thiết thực. Sự tồn tại của niềm tin tâm linh trong 54 sắc tộc anh em khác nhau đã tạo dựng nên một cộng đồng với văn hóa tâm linh đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong văn hóa Việt Nam một mặt do nền văn hóa gốc nông nghiệp và mặt khác là quá trình tiếp nhận tư tưởng Nho – Phật – Đạo và các tôn giáo. 1.2.1. Nền văn hóa gốc nông nghiệp trồng lúa nước - Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên: Việt Nam là một đất nước có nền văn hóa gốc nông nghiệp trồng lúa nước. Ngay từ buổi đầu con người đã phải lệ thuộc vào tự nhiên. Thiên nhiên bí ẩn mà con người lại chưa đủ khả năng tìm hiểu. Vì thế hình thành tâm lí tôn sùng và thần thánh hóa tự nhiên. Bằng trí tưởng tượng của mình họ cho rằng mỗi hiện tượng tự nhiên đều có một vị thần chi phối và họ tôn sùng tất cả: trời, đất, nắng, mưa, sấm, sét... Đó là cơ sở hình thành tín ngưỡng đa thần. Trong tín ngưỡng đa thần của người Việt, trời đất không những là vị thần quyết định đối với nghề nông mà còn là đấng tối cao linh thiêng định đoạt phúc họa, vận số, may rủi cho con người. Vì thế tục tế lễ trời đất với ý nghĩa cầu khẩn, cảm tạ đã trở nên phổ biến trong dân gian. Trong tâm thức dân gian trời là đấng tối cao ngự trị khắp mọi nơi, thấu hiểu mọi tình cảnh của con người. Trong những lúc khó khăn nhất, người ta nghĩ đến trời, khấn nguyện, van vái, thề nguyền... trước trời đất như một lối ứng xử thường nhật của con người nhằm tạo dựng cuộc sống tốt đẹp cho mỗi cá nhân.
  • 28. 22 Với khát vọng có cuộc sống bình yên, con người thời xưa luôn mong muốn hòa hợp với tự nhiên nên họ tỏ lòng tôn kính, thành tâm trước vạn vật. Họ tin rằng “vạn vật hữu linh”. Nhận thức ấy đã trở thành phổ biến trong thời đại mà năng lực nhận thức thế giới của con người còn giới hạn. Đó là cội rễ của những hình thức thờ cúng cây cối, các con vật linh, núi, sông, đất đá... - Tín ngưỡng sùng bái con người Người Việt xưa cho rằng con người gồm thể xác và linh hồn. Khi chết hồn lìa khỏi xác và đi từ cõi dương gian đến cõi âm ty, cõi đó cũng được tưởng tượng như ở cõi dương gian. Vì thế, thờ cúng người chết đã trở thành truyền thống của dân tộc Việt. trong đó, thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng phổ biến, có vị trí quan trọng nhất trong đời sống tinh thần của người dân. Đây là một tín ngưỡng bản địa, có truyền thống liền mạch từ cảm thức thiêng liêng và tôn kính về duy trì nòi giống tổ tiên... Thờ cúng tổ tiên của cả nước song hành và gắn bó với thờ cúng tổ tiên từng gia đình, gia tộc. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là niềm tin rằng tổ tiên mình là thiêng liêng, dù đã đi vào cõi vĩnh hằng vẫn có mối liên hệ huyền bí và mạnh mẽ với con cháu, phù hộ và chỉ bảo họ tránh điều ác, giữ điều lành “người chết chỉ có thể yên ổn trong phần mộ của mình hay trên bàn thờ nếu con cháu dâng cúng lễ vật theo nghi thức. Ngược lại, người sống chỉ sung sướng khi được bao bọc bởi ảnh hưởng tốt lành của người chết đang che chở họ một cách bí ẩn” [52; tr 66] Niềm tin về mối liên hệ thiêng liêng giữa người sống và người chết, giữa hiện tại và quá khứ đã trở thành triết lí sống của người Việt, thành đạo lí nền tảng của cuộc sống được thể hiện trong ca dao, tục ngữ: chim có tổ người có tông, sông có cội nước có nguồn... Thể hiện trong đời sống thường nhật là phong tục, tạp quán, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên “xét cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất là thành kính, ấy cũng là một lòng bất vong bản; cũng là một việc nghĩa vụ của người” [52; tr 67] Trong gia đình, ngoài thờ tổ tiên, người Việt Nam còn có tục thờ Thổ Công, một dạng của Mẹ Đất. Đây là vị thần trông coi gia cư, ngăn chặn tà thần, định đoạt phúc họa cho một gia đình. Sống ở đâu thì có Thổ Công ở đó: đất có Thổ Công,
  • 29. 23 sông có Hà Bá. Thổ Công định đoạt phúc họa cho cả nhà nên rất quan trọng phải được thờ cúng tôn kính. Tín ngưỡng thờ thần của Việt Nam không chỉ đóng khung trong phạm vi gia đình. Ngoài các vị thần tại gia, còn có các thần linh chung của thôn, xã, quan trọng nhất là việc thờ thần Thành Hoàng - vị thần cai quản, che chở, định đoạt phúc họa cho dân làng. Thành Hoàng có thể là những vị có tên tuổi, tước vị rõ ràng, những vị có công lập ra làng xã, những anh hùng dân tộc liên quan đến làng được vua thừa nhận, ban sắc phong thần. Ngoài ra, còn có những Thành Hoàng vốn là những kẻ có “lí lịch” không hay ho gì như trẻ con, ăn mày, ăn trộm, người mù... Loại này bị gọi là tà thần. Sở dĩ họ được thờ làm Thành Hoàng là những người này, theo niềm tin của dân làng, chết vào giờ thiêng nên đã ra oai (gây dịch bệnh cho người, gia súc, gây hỏa hoạn ...) khiến cho dân nể sợ. Trong phạm vi dân tộc, người Việt Nam thờ vua tổ - vua Hùng. Mảnh đất Phong Châu (Vĩnh Phú), nơi đóng đô của các vua Hùng khi xưa, trở thành đất tổ. Ngày 10-3 là ngày giỗ Tổ. Bên cạnh đó, người Việt Nam còn có một tín ngưỡng đặc biệt là tục thờ tứ bất tử (bốn người không chết): Tản Viên, Thánh Gióng, Chữ Đồng Tử và Liễu Hạnh. Tất cả tạo nên một giá trị văn hóa tinh thần rất đẹp của dân tộc, là tinh hoa chắt lọc qua suốt chiều dài lịch sử biểu tượng cho sức mạnh liên kết của cộng đồng để làm ruộng và đánh giặc, cho khát vọng xây dựng một cuộc sống vật chất phồn vinh và tinh thần hạnh phúc. Đất nước, quê hương của người Việt là sản phẩm gắn bó máu thịt với con người, được trao truyền từ đời này qua đời khác. Con người sống với đất nước của mình bằng tất cả ý thức trách nhiệm và tình cảm, được vun đắp theo bề dày lịch sử, tạo thành tâm thức cộng đồng, thành cái thiêng liêng chi phối cách sống của họ. Bắt rễ từ ý thức trách nhiệm và tình cảm sâu nặng với mảnh đất và con người như vậy, cái thiêng của người Việt không tồn tại trong lời cầu nguyện một hạnh phúc mơ hồ, không tồn tại lơ lửng trong lời răn đe trừng phạt tội lỗi, không lưu truyền bằng ngôn ngữ hóc hiểm của kinh thánh hay các khái niệm mù mờ của thần học. Nó tồn tại trong đời sống thực tiễn cảm tính của con người và truyền tải từ thế hệ này sang thế
  • 30. 24 hệ khác bằng kinh nghiệm sống, bằng sự minh triết dân gian, bằng phong tục và lễ nghi, bằng cung cách ứng xử của con người với thiên nhiên và giữa con người với nhau. Tìm hiểu văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932- 1945, chúng tôi tập trung khai thác yếu tố tâm linh trong tín ngưỡng dân gian. Những niềm tin tâm linh đã tồn tại qua bao biến thiên của lịch sử. Niềm tin ấy dẫu có lúc bị cho là duy tâm thần bí, mê tín dị đoan nhưng nó đã nhất thành bất biến trong tâm thức người Việt. 1.2.2. Tư tưởng Nho- Phật- Đạo và các tôn giáo khác Với những đặc điểm riêng về địa lý, lịch sử, văn hoá, dân cư... Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo gắn với đời sống tâm linh của mình. Trên cơ sở tiếp nhận tư tưởng Nho- Phật- Đạo và các tôn giáo theo tinh thần thiết thực, dung hòa, tạo nên một bản sắc văn hóa riêng. Đạo Phật, Thiên chúa giáo, Tin lành, Cao Đài, Hồi giáo, Phật giáo Hòa Hảo... đều được du nhập và tồn tại. Tuy nhiên dấu ấn của tư tưởng Nho - Phật - Đạo còn ảnh hưởng lớn và ăn sâu trong tâm thức người Việt không chỉ trong văn học mà còn trong triết lý sống. Đặt biệt chữ “Tâm” làm nội dung cốt lõi của học thuyết Phật giáo có liên quan đến sự khai thác triệt để thế giới tâm linh, sự huy động tối đa cái phần vô thức, tâm thức, tiềm thức, cảm thức con người hơn là phần ý thức, tự thức, nhận thức. Vì thế đạo Phật có ảnh hưởng lớn và để lại dấu ấn đậm nét trong đời sống tâm linh của người Việt Nam. Khi người Việt du nhập thêm những tôn giáo bên ngoài như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo... cũng là quá trình sáng tạo thêm những tôn giáo mới phù hợp với văn hóa của mình. Tuy nhiên tín ngưỡng dân gian luôn là cơ sở gốc của đời sống tâm linh nên những hành vi cúng lễ của người dân Việt bao giờ cũng mang tính thực dụng cao. Người ta cúng cho thần thánh con trâu, con lợn, con gà, vật phẩm này nọ... có nghĩa mong muốn đấng siêu nhiên phải phù trợ cho cộng đồng mùa màng bội thu, tài lộc may mắn... Chính vì thế, bản thân nhiều tôn giáo ngoại nhập cũng dần dà được người Việt bản địa hóa với sự đan xen pha trộn đủ loại, đủ màu sắc khác nhau, bất kể bản chất những tín ngưỡng tôn giáo có mâu thuẫn với
  • 31. 25 nhau như thế nào. Đó cũng là cơ sở quan trọng hình thành niềm tin tâm linh làm phong phú cho bức tranh văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945. 1.3. Truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1932-1945 1.3.1. Bối cảnh văn học 1932-1945 Trong những năm đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến lớn. Một hệ thống đô thị lớn xuất hiện ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn... dẫn đến sự hình thành tầng lớp thị dân, tư sản, tiểu tư sản, trí thức "Tây học" và cả dân nghèo thành thị. Văn hoá phương Tây chi phối phức tạp đến đời sống tinh thần dân chúng ở các thành phố. Người ta gọi đây là thời kì "mưa Âu gió Mỹ", "cũ mới tranh nhau", "Á Âu xáo trộn"... Văn hóa phương Tây lan rộng trong đời sống thị thành dẫn đến những chuyển biến sâu sắc trong tinh thần thời đại. Hơn thế, cơn bão văn minh từ phương Tây thổi tới, ngỡ như chỉ tràn vào các đô thị lớn, lại còn xâm nhập mảnh đất yên bình của làng quê, phá vỡ không gian cổ truyền của làng, áp đặt sự hiện diện của nó lên một xứ sở đã bị đánh bại nhưng không chịu khuất phục. Viết văn làm báo trở thành nghề mưu sinh của các nhà văn. Có thể nói đây là những gì rất mới đối với người cầm bút đương thời và góp phần làm nên diện mạo riêng của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Đổi thay chữ viết là cuộc cách mạng quan trọng về chất liệu văn học, tạo cơ sở cho quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam theo những xu thế của nhân loại. Trong hoàn cảnh đất nước lầm than nô lệ, ý thức tự chủ về văn học của dân tộc ta đã trỗi dậy mạnh mẽ. Bối cảnh văn học Việt Nam 1932-1945 gắn liền với sự biến thiên đó của lịch sử nước nhà. Trước hết, hoạt động giao lưu văn hoá phương Đông - phương Tây đã tạo tiền đề cho sự xuất hiện văn học dịch thuật. Các dịch giả người Việt đã lần lượt giới thiệu, biên khảo và dịch sách văn hoá, văn học Pháp và phương Tây sang chữ quốc ngữ. Sách dịch được đăng tải trên Nam Phong tạp chí, Đông Dương tạp chí và các ấn phẩm của nhà xuất bản "Âu Tây tư tưởng". Trên thực tế, dịch giả Phạm Quỳnh đã lần lượt giới thiệu văn học và triết học Pháp qua một số tên tuổi nổi tiếng
  • 32. 26 như Corneille, Molière, Montesquieu, Rousseau, Voltaire, Baudelaire, Pierre Loti, Anatole France, Courteline, Maupassant Auguste Comte, Bergson... Nguyễn Văn Vĩnh đã dịch và đăng trên Đông Dương tạp chí những sáng tác ngụ ngôn của La Fontaine, tiểu thuyết của Victor Hugo, A. Dumas và Balzac, kịch của Molière... Văn học Pháp và tư tưởng của các nhà Khai Sáng đã đến với công chúng Việt Nam, gợi ý và thúc đẩy quá trình đổi mới văn học, làm nảy sinh nhiều khuynh hướng văn học mới. Từ sau năm 1930, văn học đã vượt thoát khỏi cảm hứng phóng tác. Những ảnh hưởng của văn học phương Tây, văn học Pháp đối với văn học Việt Nam đã đạt đến độ "chín" nhất định, tạo điều kiện cho các nhà văn bước vào giai đoạn sáng tác thật sự ở các thể loại. Những mầm mống về một nền văn học hiện đại có điều kiện đâm chồi nảy lộc. Trước hết, chuyển động hiện đại hoá văn học bắt đầu từ văn xuôi. Tác phẩm đầu tiên phải kể đến là truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản đến Hồ Biểu Chánh là tiểu thuyết gia Nam bộ với biệt tài phóng tác. Đặc biệt, năm 1925, Hoàng Ngọc Phách sáng tác tiểu thuyết Tố Tâm có những nét mới của tiểu thuyết lãng mạn Pháp với sự manh nha của quan niệm yêu đương tự do của nam nữ thanh niên. Tuy nhiên văn xuôi Việt Nam thật sự phát triển mạnh mẽ cả hai xu hướng lãng mạn và hiện thực phê phán từ sau năm 1930 với những tên tuổi Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam trong nhóm Tự Lực văn đoàn, Nguyễn Tuân với Vang bóng một thời, Vũ Trọng Phụng với Số đỏ, Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Lều chõng, Nam Cao với Chí Phèo, Đời thừa.... Từ những năm 1920, sau chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Giao lưu văn hóa không còn bó hẹp sau lũy tre làng như trong xã hội nông nghiệp truyền thống xưa mà đã mở rộng hòa nhập với cả khu vực. Cơ chế kinh tế thị trường đã bắt đầu tác động đến hoạt động báo chí và văn học nghệ thuật. Một lớp độc giả mới xuất hiện có trình độ văn hóa và nhu cầu thẩm mỹ cao hơn, đòi hỏi văn học nghệ thuật phải làm một cuộc canh tân triệt để hầu bắt kịp trào lưu tiến bộ của thế giới. Chữ quốc ngữ thay thế chữ Hán, chữ Nôm và được các sĩ phu yêu
  • 33. 27 nước vận động thành một trào lưu rộng rãi cũng là một nhân tố quan trọng thúc đẩy tiến trình hiện đại hóa văn học. Giai đoạn này yêu cầu đổi mới nền văn học nước nhà để bắt kịp các nước trên thế giới đã trở thành một vấn đề vô cùng cấp thiết. Trên hành trình tìm kiếm đổi mới đó, theo Nguyễn Huệ Chi thì Tự Lực Văn Đàn là một tổ chức hàn lâm văn học sang trọng, phát ngôn cho mọi chuẩn mực giá trị của văn học được công chúng xa gần thừa nhận, đã ra đời với tôn chỉ với mục đích đem phương pháp Thái Tây áp dụng vào văn chương An Nam. Để xây dựng một nền văn chương tiếng Việt hướng về đại chúng, Tự Lực Văn Đàn đã quy tụ được rộng rãi tinh hoa văn nghệ trong cả nước và có ảnh hưởng sâu rộng đến tầng lớp thanh niên trí thức thời bấy giờ. Có thể thấy ảnh hưởng của trào lưu văn học phương Tây đã đi vào tâm hồn của nhân dân Việt Nam nhất là trí thức, học giả, tác giả cùng thời từ Nam chí Bắc. Tuy nhiên từ truyện ngắn đầu tiên viết theo kĩ thuật phương Tây: Truyện thầy Lazaro Phiền (1887), Nguyễn Trọng Quản đã nói mục đích sáng tác của mình là làm cho dân tộc các xứ biết rằng người An Nam sánh trí sánh tài thì cũng chẳng thua ai. Phạm Quỳnh (1917) chủ trương đọc sách Tây là để thâu thái lấy tư tưởng, lấy tinh thần văn hóa Âu Tây để bồi bổ cho nền quốc văn còn khiếm khuyết. Khái Hưng (1934) thì tha thiết: “Tôi vẫn mong mỏi sẽ có nhà văn dung hợp được văn Thái Tây với văn Á Đông, để gây một lối văn viết theo óc khoa học mà vẫn giữ được thi vị của văn Tàu” [5; tr 416]. Xu hướng tiếp nhận văn học phương Tây của văn học Việt Nam là không cắt đứt quá khứ mà chỉ tiếp nhận để bồi bổ thêm, làm giàu đẹp thêm cho bản sắc vốn có của dân tộc. Văn xuôi 1932-1945 đổi mới rõ rệt theo khuynh hướng hiện đại hóa. Phá bỏ hệ thống ước lệ của văn học cổ điển. Khuynh hướng hiện đại hóa đã chi phối việc chọn lựa đề tài, chủ đề, việc xây dựng hình tượng, cốt truyện, thi pháp, việc sử dụng các hình thức tu từ, mỹ từ và ngôn ngữ văn học nói chung. Văn học được lái dần đúng hướng trên tinh thần dân tộc, khoa học, đại chúng... Truyện ngắn và tiểu thuyết được nâng lên địa vị quan trọng nhất trong đời sống văn học và thật sự phát triển mạnh làm thay đổi diện mạo văn học.
  • 34. 28 1.3.2. Thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết có yếu tố tâm linh trong văn học Việt Nam 1932-1945 Sự xuất hiện các thể loại văn xuôi những năm 30 đầu thế kỷ XX như một sự bù lấp vào khoảng trống trong bức tranh toàn cảnh của văn học Việt Nam. Đó là những sản phẩm nghệ thuật phong phú, đa dạng đan xen nhiều khuynh hướng thẩm mĩ khác nhau từ kiểu dạng, đề tài đến kết cấu. Xét trên góc độ loại hình, đây là những tác phẩm tự sự được chia thành nhiều kiểu loại. Đặc biệt truyện ngắn, truyện dài (tiểu thuyết) là thể loại đã thành hình có nhiều cách tân đáng chú ý nhất. Truyện ngắn có yếu tố tâm linh là những truyện chứa nhiều chất huyền bí, kì dị kiểu truyền kì của phương Đông xen lẫn những yếu tố kinh dị của phương Tây như truyện Người lạ, Ma thuồng luồng, Đôi vịt con, Người hoá hổ (Lan Khai), Một truyện ghê gớm,Tiếng hú ban đêm (Thế Lữ), Đỉnh non Tản (Nguyễn Tuân), Người con gái của thần rắn (Cung Khanh). Truyện truyền kì, kinh dị có sự tiếp biến từ văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam mang đậm dấu ấn của văn học Trung Quốc và văn học phương Tây. Kiểu truyện đường rừng đặc sắc với những truyện ngắn mang nhiều yếu tố tâm linh của những cây bút như Thế Lữ, Lan Khai, Tchya Đái Đức Tuấn... Đó là sự kế thừa thành tựu từ những cây bút mở đường nền văn học quốc ngữ trên mảnh đất Nam kì như Biến Ngũ Nhy, Phú Đức, Lê Hoằng Mưu, Sơn Vương... Điều có thể thấy rõ rằng các tác phẩm có yếu tố tâm linh giai đoạn này không vay mượn nguyên mẫu rập khuôn và ngẫu nhiên mà có quá trình bắt nguồn từ ý thức chủ động học tập tư tưởng văn học Âu Tây để làm giàu văn học dân tộc của cả một thời đại. Chất duy lý khoa học phương Tây được quyện lẫn với tính chất huyền bí ma quái của Bồ Tùng Linh và cái kì ảo hoang đường của truyện truyền kì dân gian Việt Nam làm thành các tác phẩm văn học có yếu tố tâm linh trong truyện ngắn Việt Nam. Tiểu thuyết có sự cách tân đổi mới, phá bỏ tính chất qui phạm của tiểu thuyết trung đại tiếp thu những yếu tố mới của tiểu thuyết phương Tây. Đáng chú ý là những tiểu thuyết mang yếu tố tâm linh đã thể hiện sự phức tạp trong tâm hồn con người. Những băn khoăn về đời sống hữu hạn vô thường vốn đã sinh ra từ nguồn
  • 35. 29 cội xa xưa của tư tưởng phương Đông. Ở đây, những vấn đề về nhân sinh, sự xa lạ với nhân gian, cảm thức về hiện sinh hữu hạn của con người, sự phi lý và bất khả tri trong đời sống được tập trung thể hiện trong tiểu thuyết như một tất yếu trong văn học của một giai đoạn đầy biến động nửa đầu thế kỷ XX. Yếu tố tâm linh được nhà văn sử dụng ở đây như một phương tiện hướng tới những chân lý nghệ thuật nhằm giúp người nghệ sĩ phản ánh cái hiện thực vô hình của cuộc sống tự nhiên, đồng thời qua đó để thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ của người thưởng thức. Bên cạnh truyện ngắn ta còn thấy xuất hiện một số tiểu thuyết như: Vàng và máu, Tiếng hú hồn của mụ ké (Thế Lữ), Thần Hổ, Ai hát giữa rừng khuya (Đái Đức Tuấn)… và đến Đoạn tuyệt (1934), Lạnh lùng (1936), Đôi bạn (1937), Bướm trắng (1939)... Nhất Linh đã thực sự hiện đại hoá tiểu thuyết của chính mình và của văn đoàn. Bướm trắng của Nhất Linh là tiểu thuyết hiện đại, là thành tựu mới trong sự nghiệp văn chương của nhà văn. Tiểu thuyết đi sâu vào “thế giới bên trong” con người vô cùng biến động, cái ý thức và cái tiềm thức, cái vô lý và cái phi lý, giấc mơ, mê sảng, linh cảm... Tất cả được Nhất Linh miêu tả, phân tích một cách tinh vi. Nếu như trước đó với Tố Tâm, Hoàng Ngọc Phách đã miêu tả nhân vật có chiều sâu song mới chỉ dừng lại ở “tâm lý trên mặt phẳng” thì ở Bướm trắng của Nhất Linh là hành trình bên trong đầy bí ẩn của con người. Tiểu thuyết giai đoạn 1932-1945 đã hướng tới những nhân vật của đời sống thường ngày. Nhà văn không nhìn nhân vật với thái độ chiêm ngưỡng, sùng mộ hoặc khinh khi, xa lạ mà miêu tả nhân vật như tự nó vốn thế, vừa khách quan vừa thân mật, gần gũi. Nhân vật trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn có độ nhoè giữa nhân vật phản diện- chính diện, tốt- xấu, thiện- ác. Nhà văn có ý thức đi sâu vào phân tích tâm lý và thế giới bên trong của nhân vật. Các tiểu thuyết gia văn đoàn tự lực đã thành công trong nghệ thuật khám phá những cung bậc khác nhau của con người cá nhân, với kiểu nhân vật tự thức tỉnh. Nhưng do áp lực luận đề, nhân vật của tiểu thuyết lãng mạn chưa được cá thể hoá một cách sinh động và đầy đặn như nhân vật của nhà tiểu thuyết hiện thực: Tám Bính (Bỉ vỏ – Nguyên Hồng), Xuân tóc đỏ (Số đỏ – Vũ Trọng Phụng), Thứ (Sống mòn – Nam Cao).
  • 36. 30 Cũng giống như những truyện ngắn có yếu tố tâm linh, các tiểu thuyết này cũng mang yếu tố tâm linh đưa người đọc lạc vào thế giới thẳm sâu của tâm hồn con người đồng thời các tác giả khai thác những sinh hoạt tín ngưỡng, những phong tục tập quán, những nghi lễ... của con người trong đời sống thường nhật. Song tất cả những yếu tố đó không ngoài mục đích tạo ra những thành phẩm nghệ thuật mới lạ nhằm phản ánh trí tưởng tượng phong phú của nhà văn. Các câu chuyện ở đây có kết cấu theo nhiều mô thức về tình yêu, vận mệnh, hiện thực, phi hiện thực, ảo hoá… đã tạo được sự khác biệt so với các truyện cổ dân gian và những tác phẩm văn xuôi trung đại. Tiểu thuyết hiện đại có một nội dung dân tộc và liên tục gắn liền với truyền thống: tính lý tưởng, giáo dục quần chúng khi xã hội đã đô thị hóa, hiện đại hóa. 1.4. Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam1932-1945 Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật, nhân loại cũng cần đến một hình thái nhận thức thẩm mĩ, một loại hình văn học nghệ thuật giàu trí tưởng tượng để truy tìm thế giới bí ẩn bên trong tâm hồn con người. Bởi lẽ, con người khi sống trong một xã hội mà nhịp độ căng thẳng và sự xô bồ của nó có thể làm “tha hoá” và xơ cứng tâm hồn. Trong xã hội mà thân phận con người như con ong cái kiến và những tai vạ có cớ hoặc vô cớ sẵn sàng giáng xuống cho con người bất cứ lúc nào, con người cũng khó phân biệt thiện – ác; tốt – xấu. Từ đó, các nhà văn đã sử dụng yếu tố tâm linh trong sáng tác của mình để tạo ra thế giới ma quái hư ảo không hoàn toàn nhằm mục đích cuối cùng là hiệu ứng hoang mang trước sự rạn nứt của hiện thực mà chủ yếu là “phương tiện để chuyển tải tư tưởng, bài học nhân sinh, đạo lí của cuộc đời” [5; tr 415]. Yếu tố tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 có chân đế từ văn hóa dân tộc. Nó góp phần khẳng định có một dòng văn học về tâm linh vẫn ngầm chảy trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc. Tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết 1932-1945 có sự kế thừa yếu tố tâm linh trong văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam.
  • 37. 31 1.4.1. Kế thừa yếu tố tâm linh trong văn học dân gian Việt Nam Văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành từ lâu đời, trải qua các thời kì phát triển, nền văn hóa ấy vẫn tồn tại và được thể hiện trong hầu hết các sáng tác từ xưa đến nay. Truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 vừa ảnh hưởng sâu sắc yếu tố tâm linh trong văn hóa Việt Nam, vừa kế thừa nó trong văn học dân gian và văn học trung đại. Kế thừa yếu tố tâm linh từ văn học dân gian, truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 mang dấu ấn của thể loại tự sự dân gian: các truyện thần thoại, truyện cổ tích, truyền thuyết dân gian, truyện ngụ ngôn... Đó là những câu chuyện mang nhiều yếu tố hoang đường, hư hư thực thực khiến cho con người cảm thấy phân vân giữa cái thực và cái ảo, về những lẽ huyền nhiệm trong vũ trụ và trong thế giới tâm linh của mỗi người. Trước hết, truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 mang dấu ấn của thần thoại. Các nhà văn đã thể hiện một sự tưởng tượng phong phú bắt nguồn từ thế giới quan cổ xưa của con người về thế giới. Đó là những truyện kể liên quan đến sự tích các vị thần sáng tạo ra thế giới tự nhiên và văn hóa, phản ánh nhận thức, cách hình dung của người thời cổ về nguồn gốc của thế giới và đời sống con người. Những tác phẩm lấy chất liệu từ thần thoại được xây dựng bằng những hình ảnh, chi tiết không có thực mà chỉ là hư ảo do con người tưởng ra dựa trên quan niệm về sự tiến hóa loài người mà sau này chỉ có các nhà khoa học mới giải thích được. Đó là những quan niệm theo lối thần thánh hóa các lực lượng tự nhiên, xem nguồn gốc của vũ trụ do một vị thần tối cao sáng tạo nên. Qua đó thể hiện ý thức muốn tìm hiểu vũ trụ, lý giải vũ trụ và chinh phục thế giới tự nhiên của con người. Luôn tiếp xúc với thiên nhiên kỳ vĩ, bí ẩn, con người đã hình dung, lý giải thiên nhiên bằng trí tưởng tượng của mình, tạo ra cho các hiện tượng xung quanh mình những hình ảnh sáng tạo, những câu chuyện phong phú, hình dung ra các vị thần lớn lao, những lực lượng siêu nhiên, hữu linh. Cụ thể trong truyện ngắn giai đoạn 1932-1945 có Mặt Trời, Trên Bồng Lai, Đi tiêu dao, Người con gái thần Rắn, Hoàng Kim Ốc của Cung Khanh; Con bò dưới Thủy Tề, Gò Thần của Lan Khai; Thần Hổ của Tchya – Đái Đức Tuấn; Trên đỉnh non
  • 38. 32 Tản của Nguyễn Tuân. Các yếu tố tâm linh xuất hiện trong truyện ngắn, tiểu thyết 1932-1945 như là sự quay về với tâm thức cộng đồng bởi thần thoại “là phương tiện nhận thức quan trọng của người nguyên thuỷ, cũng là một trong những nguồn hình thành những giá trị tinh thần truyền thống đầu tiên của dân tộc” [22; tr.1646-1648]. Mang đậm dấu ấn văn học dân gian, truyện ngắn, tiểu thuyết giai đoạn 1932- 1945 thể hiện những rõ nét những yếu tố tâm linh từ truyện cổ tích. Đó là sự xuất hiện của các lực lượng thần kì, nhân vật có phép thuật có thể tế độ cho con người trong các tác phẩm Cây Đa ba chạc của Đỗ Huy Nhiệm; Con Thuồng Luồng nhà họ Ma của Lan Khai; Bóng người trong sương mù của Nhất Linh; Đàn bồ câu trắng của Hoàng Trọng Miên; Ngủ với ma của Đỗ Huy Nhiệm. Bên cạnh đó còn có sự tương thông với thế giới khác (cõi âm, cõi Trời, cõi mộng...) tạo nên những cuộc gặp gỡ chỉ có trong mơ. Ở đó, người cõi dương gặp gỡ và bày tỏ tâm tư với người cõi âm qua những giấc mộng như Tâm sự của nước độc (Trích Chùa Đàn), Loạn âm của Nguyễn Tuân; Câu chuyện mơ trong giấc mộng của Nhất Linh; Chiều sương, Một trận bão cuối năm của Bùi Hiển. Bên cạnh đó còn có những câu chuyện thể hiện sự liên hệ với đời sống hiện thực, bày tỏ niềm tin của con người vào sự công bằng của “luật đời” theo quan niệm dân gian “ở hiền gặp lành”, “ác báo ác giả”, “gieo gió gặt bão” như Oan nghiệt của Tchya Đái Đức Tuấn; Khoa thi cuối cùng, Xác ngọc lam của Nguyễn Tuân; Ông Rắn của Đỗ Huy Nhiệm, Thần Hổ của Tchya Đái Đức Tuấn, Gò Thần của Lan Khai... Sự linh ứng và phép biến hóa kì lạ cũng tạo một ấn tượng về niềm tin tâm linh trong các truyện ngắn, tiểu thuyết giai đoạn này qua các tác phẩm Đôi vịt con, Ma Thuồng Luồng, Gò Thần, Người hóa hổ, Người lạ, Khảm khắc của Lan Khai; Trại Bồ Tùng Linh của Thế Lữ. Dấu vết của truyền thuyết vẫn còn lưu giữ trong những tác phẩm ngày nay. Đó là những truyện góp phần giải thích nguồn gốc các vị thần được nhân dân lập miếu, am thờ phụng. Tuy nhiên, họ không phải là là những nhân vật có lai lịch thần bí, không phải là những anh hùng có công với nước với dân. Họ chỉ là những người dân lao động bình thường như ông già mù kéo xe tay đói khổ, khi chết được dân làng thờ phụng như Thành hoàng làng trong Am culy xe của Thanh Tịnh; Con Trâu
  • 39. 33 của Trần Tiêu; Một truyện ghê gớm của Thế Lữ; Trăng xanh huyền hoặc của Hoàng Trọng Miên... Một số tác phẩm giải thích một địa danh gắn với niềm tin tâm linh của con người như Con bò dưới Thủy Tề, Gò thần của Lan Khai; Trên đỉnh non Tản của Nguyễn Tuân; Vàng và máu của Thế Lữ... Dấu ấn của yếu tố tâm linh trong văn học dân gian còn được thể hiện ở đề tài, cốt truyện thậm chí cả tâm hồn tư tưởng chung của truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945. Đó là đề tài về hiện tượng thần báo mộng, trừng phạt Con bò dưới Thủy Tề, Ông rắn, Trên đỉnh non Tản... đề tài về những người nghèo khổ, hiền lành được phù trợ trong truyện Con Thuồng Luồng nhà họ Ma của Lan Khai, Xác ngọc lam, Rượu bệnh của Nguyễn Tuân; những người phụ nữ khao khát hạnh phúc lứa đôi cũng được bù đắp xứng đáng trong Trại Bồ Tùng Linh của Thế Lữ; Thần Hổ của Tchya Đái Đức Tuấn; Rừng khuya của Lan Khai... Ngoài ra, còn có những tác phẩm ca ngợi tình cảm thủy chung, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người trong hành trình đến với cái đẹp, cái thiện như Tình trong câu hát, Ngậm ngải tìm trầm (Thanh Tịnh), Bóng người trong sương mù (Nhất Linh), Tâm sự của nước độc, Đới Roi, Xác ngọc lam (Nguyễn Tuân). Đồng thời có một số tác phẩm là lời cảnh báo, phê phán những hành vi và cách ứng xử của con người đối với thiên nhiên, con người với nhau trong xã hội và với chính bản thân mình: Hai lần chết (Thế Lữ); Ai phải (Trần Tiêu), Tết trên Mường, Cây đa ba chạc (Đỗ Huy Nhiệm), Đôi vịt con (Lan Khai); Con bò dưới Thủy Tề (Lan Khai)... Kho tàng truyện dân gian với nhiều yếu tố tâm linh giai được khai thác và sử dụng một cách sáng tạo trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này rộng. Dấu ấn của văn học dân gian trong truyện ngắn, tiểu thuyết 1932-1945 là bằng chứng xác thực khẳng định ảnh hưởng mạnh mẽ của nó đối với văn học Việt Nam. Đi tìm yếu tố tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam 1932-1945 qua ảnh hưởng của văn học dân gian là góp phần khẳng định giá trị của một nét văn hóa cổ truyền rất độc đáo đã được bảo tồn trong kho tàng văn học dân tộc.
  • 40. 34 1.4.2. Kế thừa yếu tố tâm linh trong văn học trung đại Việt Nam Văn hóa trung đại là văn hóa của quan niệm Thiên, Địa, Nhân hợp nhất thành một thể. Nhìn chung thế giới quan thời trung đại của người dân Việt là niềm tin vào thần linh, tin vào một lực lượng siêu nhiên có khả năng chi phối cuộc sống con người, đó là một nét văn hóa truyền thống vốn ẩn tàng trí tuệ theo lối hướng nội - một phương thức tư duy đặc thù. Con người thời trung đại có thế giới quan gắn với tín ngưỡng về một lực lượng siêu nhiên. Niềm tin tâm linh ấy là bến đỗ của tâm hồn. Tín ngưỡng chi phối cách hành xử của con người. Đối với chân lý của vũ trụ, họ hết sức tin phục và tôn trọng, lấy đó làm nguyên tắt hướng dẫn cho mọi hành động của mình. Vì vậy trong hoàn cảnh nào, vào bất kỳ lúc nào họ cũng trước sau bảo trì niềm tin kiên định. Văn học là sản phẩm của lịch sử, tự nó là tấm gương phản chiếu hiện thực cuộc sống. Văn học mỗi thời đại đều chịu sự chi phối mạnh mẽ của đời sống xã hội. Vì thế, yếu tố tâm linh trong đời sống con người thời trung đại cũng được thể hiện qua từng trang văn như một sự thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan của tác giả. Thông qua các tác phẩm của mình, các nhà văn đã cho chúng ta biết về đời sống tinh thần, nếp cảm nếp nghĩ của con người thời đại ấy. Văn học trung đại hình thành và phát triển trong một thời đại lịch sử đặc thù. Con người dường như tự giam chặt mình trong những khuôn khổ cứng nhắc của gia đình và làng mạc, của những qui định lễ giáo. Sự sợ hãi muôn thuở của một kiếp người bấp bênh, một cuộc sống chật hẹp đưa con người hướng đến đấng siêu nhiên, khẳng định tất cả là ý muốn của trời. Khổng Tử nói: “Duy thiên địa vạn vật chi mẫu, duy nhân vi vạn vật chi linh” (“Chỉ có Trời Đất là mẹ của vạn vật, chỉ có con người là anh linh của vạn vật”), cho rằng Trời là nguồn gốc chi phối mọi nguyên tắc đạo đức. Bởi vậy người xưa kính trọng Trời và tin vào Thần, “Xem Đạo của Trời để hiểu được Đạo làm người”. Trời là đấng tối cao của tất cả, con người cần thành kính, khiêm tốn trong tâm, bởi Trời có mặt khắp mọi nơi chứng kiến mọi hành vi của con người. Mặc dù theo các nhà Nho đương thời, những vấn đề thuộc về tâm linh bị xem là dị đoan nhưng yếu tố tâm linh vẫn luôn tồn tại. Chính yếu tố