Hệ thống hóa và cụ thể hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về NNPTTHBV nói chung và ở tỉnh Cà Mau nói riêng. Từ đó, cho thấy vai trò hết sức to lớn và quan trọng của nông nghiệp trong việc góp phần phát triển kinh tế, ổn định xã hội, đảm bảo môi trường.
Phân tích quá trình nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững ở tỉnh Cà Mau từ năm 1997 đến 2015 để thấy rõ thực trạng, những thành tựu, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân; từ đó, đề xuất quan điểm, định hướng và những giải pháp nhằm đưa nông nghiệp tỉnh Cà Mau phát triển theo hướng bền vững.
Download: https://luanvans.com/tailieu/nong-nghiep-tinh-ca-mau-phat-trien-theo-huong-ben-vung/
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
LA07.057_Nông nghiệp tỉnh Cà Mau phát triển theo hướng bền vững
1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN MINH LUÂN
N¤NG NGHIÖP TØNH Cµ MAU PH¸T TRIÓN
THEO H¦íNG BÒN V÷NG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số: 62 31 01 02
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHẠM QUỐC TRUNG
HÀ NỘI - 2016
2. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án
Nguyễn Minh Luân
3. MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 4
1.1. Những công trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước liên quan đến
đề tài 4
1.2. Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu 16
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÔNG NGHIỆP
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 19
2.1. Một số vấn đề lý luận về phát triển bền vững và nông nghiệp phát
triển bền vững 19
2.2. Nội dung, tiêu chí và các nhân tố ảnh hưởng đến nông nghiệp phát
triển bền vững 33
2.3. Kinh nghiệm về nông nghiệp phát triển bền vững và bài học đối với
Cà Mau về nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững 43
Chương 3: THỰC TRẠNG NÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN THEO
HƯỚNG BỀN VỮNG Ở TỈNH CÀ MAU 61
3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến nông nghiệp phát
triển theo hướng bền vững ở tỉnh Cà Mau 61
3.2. Thực trạng nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững ở tỉnh Cà
Mau, giai đoạn 1997-2015 72
3.3. Đánh giá chung về nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững ở tỉnh
Cà Mau, giai đoạn 1997-2015 96
Chương 4: QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU XÂY DỰNG NỀN NÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN THEO
HƯỚNG BỀN VỮNG Ở TỈNH CÀ MAU, GIAI ĐOẠN
2016 - 2025 105
4.1. Dự báo những yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến nông nghiệp phát
triển theo hướng bền vững ở tỉnh Cà Mau, giai đoạn 2016 - 2025 105
4.2. Quan điểm xây dựng nền nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững
ở tỉnh Cà Mau 113
4.3. Phương hướng, mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp phát triển theo
hướng bền vững ở tỉnh Cà Mau, giai đoạn 2016 - 2025 114
4.4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nền nông nghiệp phát triển
theo hướng bền vững ở tỉnh Cà Mau, giai đoạn 2016 - 2025 121
KẾT LUẬN 151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 154
4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
CNH : Công nghiệp hóa
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
GD-ĐT : Giáo dục và Đào tạo
HDI : Chỉ số phát triển con người
HTX : Hợp tác xã
KT-XH : Kinh tế - xã hội
KT- XH- MT : Kinh tế - xã hội - môi trường
KH- CN : Khoa học - công nghệ
KH - KT : Khoa học - kỹ thuật
NNPTBV : Nông nghiệp phát triển bền vững
NNPTTHBV : Nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững
NTTS : Nuôi trồng thủy sản
ODA : Viện trợ phát triển chính thức
PTBV : Phát triển bền vững
TPP : Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
UBND : Ủy ban nhân dân
USD : Đô la Mỹ
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
5. DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: So sánh một số tiêu chí về biển của tỉnh Cà Mau 63
Bảng 3.2: Diện tích đất trồng lúa tỉnh Cà Mau qua các năm 2001 -
2006 - 2015 66
Bảng 3.3: Diện tích nuôi trồng thủy sản tỉnh Cà Mau qua các năm
2001, 2006, 20015 chia theo địa phương huyện, thành phố 67
Bảng 3.4: Dân số năm 2015 chia theo huyện, thành phố 68
Bảng 3.5: Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế 69
Bảng 3.6: Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản theo huyện, thành phố 75
Bảng 3.7: Sản lượng tôm nuôi trồng thủy sản phân theo huyện, thành phố 76
Bảng 3.8: Diện tích các loại cây trồng 77
Bảng 3.9: Biến động diện tích một số cây trồng chính (1997 - 2015) 79
Bảng 3.11: Hiện trạng rừng và trồng rừng giai đoạn 2011 - 2013 81
Bảng 3.12: Cơ cấu lao động qua đào tạo hàng năm 84
Bảng 3.13: Số lượng và cơ cấu lao động đang hoạt động kinh tế 85
Bảng 3.14: Lao động ngành ngư nông lâm nghiệp 85
Bảng 3.15: Tỷ lệ hộ có nguồn nước hợp vệ sinh 95
Bảng 4.1: Điểm mạnh, yếu, cơ hội và thách thức của Cà Mau 112
6. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1: Biểu đồ tăng, giảm (%) của sản lượng khai thác thủy sản biển 73
Biểu đồ 3.2: Sản lượng thủy sản phân theo ngành nuôi trồng của tỉnh Cà Mau 77
Biểu đồ 3.3: Số bác sĩ trên 10.000 dân năm 2013 88
Biểu đồ 3.4: Tỷ lệ học sinh các cấp so với cấp dưới 89
Biểu đồ 4.1: Tỷ trọng đóng góp của các cụm ngành trọng điểm vào GDP
của tỉnh 119
Biểu đồ 4.2: Cụm nuôi trồng và chế biến thủy sản 131
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1: Tương tác giữa ba hệ thống kinh tế - xã hội - môi trường và
phát triển bền vững 24
Hình 2.2: Mô hình trình tự đánh giá tiến độ về bền vững 26
Hình 2.3: Khung lý thuyết về nông nghiệp phát triển bền vững 34
Hình 3.1: Bản đồ địa lý hành chính tỉnh Cà Mau 62
Hình 3.2: Cơ cấu sử dụng đất năm 2015 của Cà Mau 62
Hình 3.3: Vòng xoáy đói nghèo 83
Hình 4.1: Mô hình liên kết hướng ly tâm và ly tâm tại Đông Nam Bộ và
Đồng bằng sông Cửu Long 109
Hình 4.2: Nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững 120
Hình 4.3: Bản đồ địa giới hành chính Đồng bằng sông Cửu Long 143
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là một quốc gia nông nghiệp - sau 30 năm đổi mới và phát triển, nông
nghiệp Việt Nam đang ngày càng khẳng định vị thế của mình với việc cung cấp sinh
kế cho 9,53 triệu hộ dân nông thôn và 68,2% dân số (60 triệu người), đóng góp
18%-22% GDP cho nền kinh tế và 23%-35% giá trị xuất khẩu [91]... Tuy nhiên,
trước bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước và
hội nhập sâu rộng, nền kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng đang đứng trước
không ít khó khăn, thách thức, như: áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt; tác động
ngày càng trực diện của diễn biến kinh tế khu vực, thế giới đến phát triển kinh tế nói
chung, phát triển nông nghiệp nói riêng; đồng thời, nông nghiệp lại là lĩnh vực đang
đối diện với những ảnh hưởng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi
trường...trong khi năng lực sản xuất và mức độ hội nhập của lĩnh vực nông nghiệp
còn yếu bởi thực tế sản xuất nông nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn phổ biến với quy
mô nhỏ lẻ; tình trạng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp còn mang tính tự phát, sản
xuất chủ yế`u theo tín hiệu thị trường ngắn hạn cộng thêm trình độ sản xuất công
nghiệp chế biến còn thấp so với các nước và nông nghiệp Việt Nam vẫn bị động
trước những tác động, ảnh hưởng từ các yếu tố khách quan như khí hậu, dịch
bệnh… Vì vậy, để nông nghiệp thực sự là một trụ cột quan trọng của nền kinh tế
trong tiến trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, thì nông nghiệp cần hướng tới sự
phát triển mang tính bền vững.
Là tỉnh thuộc trục tam giác kinh tế trọng điểm của khu vực Đồng bằng sông
Cửu Long (ĐBSCL), Cà Mau có điều kiện tự nhiên - xã hội thuận lợi và có tiềm
năng để phát triển kinh tế toàn diện, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp, ngoài cây lúa
với diện tích khoảng 130.000 ha, Cà Mau còn có khả năng phát triển một số loài cây
trồng khác phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu, môi trường và phát triển chăn nuôi gia
súc, gia cầm... tạo vùng nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến, lương thực,
thực phẩm, thì với chiều dài bờ biển 254 km, diện tích rừng của Cà Mau khoảng
110.000 ha, Cà Mau được xem là một trong những địa phương có tiềm năng phát
triển lâm nghiệp, thủy sản lớn so với những tỉnh khác của cả nước. Song cũng chính
những thuận lợi này lại đang đặt nông nghiệp Cà Mau trước những thách thức
không nhỏ đó là tình trạng phát triển nóng ở một số mô hình nông, lâm, thủy sản
8. 2
nên gây ra nhiều hệ lụy, như: bất ổn trong thực hiện quy hoạch phát triển và đầu tư,
dẫn đến nông nghiệp Cà Mau phải đối diện với tình trạng phát triển trong điều kiện
quy hoạch thiếu đồng bộ, kết cấu hạ tầng thiếu (đặc biệt là điện, mạng lưới kênh
dẫn và thoát nước) và các điều kiện về vốn, con giống, thức ăn, rất quan trọng chưa
được đảm bảo...
Từ những thực tế trên cho thấy việc nghiên cứu sinh chọn đề tài: "Nông nghiệp
tỉnh Cà Mau phát triển theo hướng bền vững " làm luận án tiến sĩ Kinh tế là có ý
nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc và phù hợp với chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa và cụ thể hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về NNPTTHBV nói
chung và ở tỉnh Cà Mau nói riêng. Từ đó, cho thấy vai trò hết sức to lớn và quan
trọng của nông nghiệp trong việc góp phần phát triển kinh tế, ổn định xã hội, đảm
bảo môi trường.
Phân tích quá trình NNPTTHBV ở tỉnh Cà Mau từ năm 1997 đến 2015 để
thấy rõ thực trạng, những thành tựu, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân; từ đó, đề
xuất quan điểm, định hướng và những giải pháp nhằm đưa nông nghiệp tỉnh Cà
Mau phát triển theo hướng bền vững.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tổng thể nền nông nghiệp của tỉnh Cà
Mau trên phương diện phát triển bền vững (PTBV). Đó là quá trình vận động, phát
triển nội tại của nền nông nghiệp hướng đến ba mục tiêu cơ bản: bền vững kinh tế,
bền vững xã hội, và bền vững môi trường. Luận án không nghiên cứu nền nông
nghiệp với các ngành đơn lẻ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi nội dung: Nông nghiệp tỉnh Cà Mau phát triển theo hướng bền
vững được nghiên cứu trong phạm vi luận án là nông nghiệp trên địa bàn tỉnh, trong
đó trọng tâm là ba lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp.
+ Phạm vi không gian: Không gian nông nghiệp tỉnh Cà Mau, bao gồm: các
huyện, thành phố và cả vùng biển khu vực Cà Mau.
+ Phạm vi thời gian: Nghiên cứu của luận án được giới hạn trong phạm vi
thời gian từ năm 1997 đến 2015. Phạm vi thời gian này cho phép luận án đánh giá
9. 3
thực trạng nông nghiệp Cà Mau từ khi tái lập tỉnh 1997 đến 2015; xác định mục
tiêu, nhiệm vụ và giải pháp NNPTTHBV trong mối quan hệ kinh tế - xã hội (KT-
XH) của tỉnh đến năm 2025.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản và chính sách, pháp luật của Nhà
nước Việt Nam về phát triển kinh tế, PTBV nói chung, NNPTTHBV nói riêng; chủ
trương phát triển KT-XH, phát triển nông nghiệp của tỉnh Cà Mau; tiếp thu có chọn
lọc các kết quả nghiên cứu đã công bố về phát triển nông nghiệp, NNPTTHBV của
các nhà khoa học trong và ngoài nước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử Mác-Lênin để nghiên cứu, rút ra các kết luận. Ngoài ra, luận án còn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: thống kê, nghiên cứu thực tế, phân
tích đánh giá, tổng hợp, so sánh, tổng kết thực tiễn…nhằm rút ra những vấn đề
mang tính tổng kết, khái quát một giai đoạn phát triển nông nghiệp cả trên phương
diện lý luận, lẫn thực tiễn, để vận dụng đánh giá tổng thể thực trạng phát triển nông
nghiệp của tỉnh Cà Mau kể từ khi tái lập tỉnh đến 2015, trên cơ sở đó định hướng
xây dựng nông nghiệp tỉnh Cà Màu phát triển bền vững trong thời gian tới.
5. Đóng góp về khoa học của luận án
- Luận án góp phần làm rõ thêm khung lý thuyết về PTBV, nông nghiệp phát
triển bền vững (NNPTBV).
- Tìm hiểu kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới và một số địa phương
trong nước về NNPTBV, để rút ra bài học kinh nghiệm cho tỉnh Cà Mau.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng phát triển nông nghiệp ở tỉnh Cà Mau
giai đoạn 1997 - 2015.
- Đề xuất trên cơ sở căn cứ khoa học các quan điểm và giải pháp chủ yếu
nhằm thúc đẩy nông nghiệp ở tỉnh Cà Mau phát triển theo hướng bền vững trong
những năm tới.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
án được kết cấu làm 4 chương, 12 tiết.
10. 4
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC VÀ NGOÀI
NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Xây dựng nền NNPTBV luôn là đòi hỏi tất yếu đối với một nước như Việt
Nam vốn xuất phát từ nền nông nghiệp lạc hậu, manh mún, nhỏ lẻ. Nền NNPTBV
làm cho sự liên kết ngày càng bền chặt trong chuỗi giá trị toàn cầu. Ngày nay, tư
duy sản xuất nông nghiệp cũng đã có sự chuyển biến nhanh chóng, đi vào chiều sâu
và với quy mô ngày càng rộng lớn hơn. Những sản phẩm của nông nghiệp và kinh
tế nông thôn không những đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của đời sống xã hội, mà còn
tạo cơ sở cho các ngành kinh tế quốc dân khác phát triển. Do đó, đối với mọi quốc
gia đi lên từ nông nghiệp, việc đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp hiện đại là
nhiệm vụ mang tính chiến lược trong bối cảnh phát triển mới, nhằm khai thác hiệu
quả tiềm năng góp phần kiến tạo vị thế mới cho quốc gia trên trường quốc tế.
Ở Việt Nam, vấn đề NNPTBV tuy không còn mới, nhưng hiện vẫn nhận
được sự quan tâm đặc biệt của xã hội bởi để NNPTBV bản thân lĩnh vực này đang
hàm chứa những vấn đề nội tại cả thời điểm trước mắt lẫn lâu dài, chẳng hạn như
mâu thuẫn giữa gia tăng năng suất với đảm bảo chất lượng, tăng trưởng sản lượng
nhưng cần bảo vệ môi trường; hay muốn tăng trưởng sản xuất nhưng không tự chủ
trước những diễn biến khó lường của biến đổi khí hậu… Theo đó, ở "mảng" nghiên
cứu này cũng đã có không ít công trình được công bố và cũng là lĩnh vực nghiên
cứu được tiếp cận khá đa dạng. Trong số đó, những nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án có thể kể đến, bao gồm.
1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước liên quan
đến đề tài
1.1.1.1. Sách chuyên khảo và tham khảo
Trong những công trình nghiên cứu mà nghiên cứu sinh tham khảo có những
đặc điểm gần nhau, đó là những công trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam
liên quan đến những vấn đề về nông nghiệp của nước ta và những nghiên cứu liên
quan đến vấn đề nông nghiệp ở một số nước có nền nông nghiệp phát triển trong
khu vực và trên thế giới.
11. 5
- "Các giải pháp phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng
nông nghiệp sinh thái" của Phạm Văn Khôi [53] đã chỉ rõ, Hà Nội là vùng có nhiều
tiềm năng để phát triển thành phố sinh thái gắn liền với các hoạt động sản xuất
nông, lâm nghiệp như sự phát triển lâu đời của các làng hoa Ngọc Hà, cá cảnh Yên
Phụ, vùng hoa Nhật Tân và sự phát triển của các vùng hoa mới Vĩnh Tuy - Thanh
Trì, Tây Tựu huyện Từ Liêm, vùng lâm nghiệp sinh thái huyện Sóc Sơn và các hoạt
động canh ngư trên hệ thống đầm hồ có ở khắp mọi nơi trên địa bàn Thành phố.
Hiện nay, quá trình đô thị hoá và phát triển thành phố Hà Nội đang mở rộng.
Sự phát triển của Thành phố, một mặt đang tạo ra điều kiện và là cơ hội chuyển dịch
nhiều hoạt động kinh tế vươn ra phát triển mạnh ở ngoại thành như dịch vụ đời sống,
du lịch sinh thái, nghỉ ngơi, giải trí cuối ngày, cuối tuần. Mặt khác, sự phát triển của
công nghiệp và quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh chóng đã và đang làm cho môi
trường sinh thái ngày càng bị ô nhiễm. Hơn nữa, theo đà phát triển kinh tế, thu nhập và
đời sống của mọi tầng lớp nhân dân Thủ Đô sẽ ngày càng tăng, đòi hỏi chất lượng sống
cũng được nâng lên và đáp ứng kịp thời. Với vai trò là trung tâm chính trị, kinh tế và
văn hoá của cả nước, Hà Nội phải có sự phát triển tương xứng trên tất cả các mặt với
vị trí của Thủ Đô ngang tầm với các nưóc phát triển trong khu vực.
Trong bối cảnh trên, các hoạt động sản xuất nông nghiệp không những vẫn
tiếp tục duy trì mà cần được đầu tư phát triển theo những yêu cầu và nội dung mới.
Nó không chỉ dừng lại với tính chất của vành đai cung cấp lương thực, thực phẩm ở
trình độ thấp mà hướng tới những yêu cầu phát triển của vùng đô thị hiện đại - nông
nghiệp sinh thái. Để thực hiện phương hướng trên, vấn đề cấp thiết đặt ra cần phải
làm rõ là: nông nghiệp ngoại thành phát triển theo hướng nông nghiệp sinh thái là
gì? Căn cứ và các tiêu chí để phát triển nông nghiệp ngoại thành theo hướng nông
nghiệp sinh thái? Hà Nội có những tiền đề, tiềm năng và những khó khăn gì cho
việc phát triển nông nghiệp sinh thái? Làm thế nào để thúc đẩy phát triển nông
nghiệp ngoại thành theo hướng nông nghiệp sinh thái?. Đây là công trình được tác
giả Phạm Văn Khôi nghiên cứu nhiều năm, có nhiều nội dung tương đồng, rất bổ
ích cho nghiên cứu sinh trong quá trình hoàn thiện luận án của mình.
- "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn trong thời
kỳ mới" của Lê Quang Phi [69] đã nêu lên yêu cầu bức thiết, bước đi có ý nghĩa quyết
định trong thời kỳ mới là cần phải CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Bởi nông
12. 6
nghiệp, nông thôn là vấn đề rộng lớn và phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều
lĩnh vực khác nhau. Nội dung cuốn sách bước đầu tổng kết quá trình lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng, cung cấp thêm những tư liệu tham khảo về đổi mới đối với khu vực này.
- "Chính sách xuất khẩu nông sản Việt Nam lý luận và thực tiễn" của Trịnh
Thị Ái Hoa [43] đã đề cập đến những cơ sở lý luận của chính sách xuất khẩu nông
sản Việt Nam từ năm 1989 đến nay. Qua đó, tác giả đưa ra những quan điểm, giải
pháp, kiến nghị nhằm khắc phục những hạn chế trong chính sách xuất khẩu nông
sản hiện hành, trong đó có tính đến những cam kết gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) của nước ta.
Để thúc đẩy và tích cực tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới, cuốn sách đã đề cao vai trò của khu vực nông nghiệp, nông thôn, xem đây
là khu vực đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, chính sách đối
với khu vực này, trong đó có chính sách xuất khẩu nông sản, luôn được chính phủ
các nước, từ các nước đang phát triển, đến các nước phát triển quan tâm.
- "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam hôm nay và mai sau" của
Đặng Kim Sơn [78] đã chỉ rõ, trong lịch sử thế giới, quá trình công nghiệp hóa
(CNH) thường đi kèm với những xáo trộn to lớn về kinh tế - xã hội - môi trường
(KT-XH-MT) và nông nghiệp, nông thôn, nông dân thường là đối tượng chịu nhiều
hy sinh, thiệt thòi nhất. Muốn khắc phục tình trạng đó, Nhà nước và nhân dân phải
có những quyết sách đúng đắn, quyết tâm to lớn. Chính vì thế, tác giả và nhóm
nghiên cứu mong muốn mô tả những nét cơ bản về bức tranh hiện trạng nông
nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam, phân tích một cách khoa học, theo phương
pháp tiêu chuẩn, số liệu theo dõi hệ thống, nhất là về các lĩnh vực thể chế, xã hội,
môi trường nông thôn.
- "Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam" của Vũ Văn Nâm [63] đã đề
cập, ở Việt Nam vấn đề PTBV trong sản xuất nông nghiệp vẫn còn là một vấn đề
mới. Đặc biệt sau hơn hai mươi năm đổi mới đất nước, bên cạnh những thành tựu
mà chúng ta đạt được thì thực tiễn cũng đang đặt ra cho chúng ta rất nhiều thách
thức khi xây dựng nền nông nghiệp theo hướng bền vững. Nội dung cuốn sách được
kết cấu thành 3 chương. Chương 1: tác giả tập trung làm rõ các khái niệm về PTBV,
NNPTBV và tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế về phát triển nông nghiệp bền vững, đó
là những kinh nghiệm cho Việt Nam. Chương 2: tác giả tập trung nghiên cứu về
13. 7
thực trạng phát triển nông nghiệp ở nước ta theo hướng tiếp cận vị trí, đặc điểm,
những chuyển biến bao gồm cả thành công và hạn chế phát triển nền nông nghiệp
nước ta theo hướng bền vững. Chương 3: Đó là những phương hướng và giải pháp
để phát triển nông nghiệp theo xu hướng bền vững, trong đó đặc biệt chú trọng đến
bốn giải pháp theo tác giả đó là những giải pháp cơ bản nhất.
- "Nông nghiệp Việt Nam sau khi gia nhập WTO thời cơ và thách thức" của
Nguyễn Vĩnh Thanh, Lê Sỹ Thọ [90] đã chỉ rõ việc tham gia WTO Việt Nam có
nhiều cơ hội để xây dựng và phát triển đất nước. Vào WTO nước ta phải tuân thủ
các quy tắc thống nhất về hệ thống chính sách thương mại, về môi trường thể chế
pháp lý, nhưng nền kinh tế nói chung, nền sản xuất nông nghiệp nói riêng thêm điều
kiện tiếp cận thị trường hàng hóa để phát triển một cách bình đẳng của một nước
thành viên. Tuy nhiên, nỗi lo lớn nhất của nền kinh tế vẫn là vấn đề nông nghiệp,
nông thôn, nông dân. Bởi, nước ta đi lên từ nông nghiệp, trình độ phát triển còn
thấp, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, hàng hóa cạnh tranh khốc liệt, khả năng liên kết hạn
chế…đó là những rào cản không nhỏ mà các tác giả cảnh báo trước.
- "Phát triển bền vững các trang trại ở vùng cây ăn quả Bắc Giang" của
Phạm Văn Khôi [54] đã nêu rõ kinh tế trang trại là một trong các hình thức tổ chức
sản xuất tiên tiến trong nông nghiệp. Ở Việt Nam kinh tế trang trại đã được thừa
nhận và tạo những điều kiện thuận lợi để phát triển trong những năm đổi mới. Vì
vậy, kinh tế trang trại đã có bước phát triển nhất định, đã góp phần quan trọng vào
việc khai thác các tiềm năng, lợi thế của nông nghiệp, nông thôn có hiệu quả, là
hình mẫu tổ chức sản xuất cho các hộ nông dân trong vùng. Bắc Giang là tỉnh có
nhiều tiềm năng phát triển kinh tế trang trại, nhất là các trang trại trồng cây ăn quả.
Các cấp, các ngành trong tỉnh đã có nhiều quan tâm đến sự phát triển của kinh tế
trang trại. Vì vậy, kinh tế trang trại đã phát triển khá mạnh, tạo nên bước chuyển
trong sản xuất nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá… trong những năm đổi mới.
Trên thực tế, sự phát triển của trang trại ở Bắc Giang nói chung, các trang
trại ở vùng cây ăn quả, nhất là các trang trại chuyên canh vải thiều đã và đang bộc
lộ nhiều vấn đề ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả, đặc biệt là đã xuất hiện các
nguy cơ đe doạ sự tồn tại của các trang trại… cần phải giải quyết. Nhận thức được
vấn đề trên, tỉnh đã đưa ra nhiều biện pháp tháo gỡ và đã góp phần giải quyết những
vấn đề của thực tiễn. Tuy nhiên, các giải pháp chú trọng nhiều đến kỹ thuật, những
14. 8
vấn đề của tổ chức quản lý chưa được giải quyết một cách đồng bộ và triệt để. Xuất
phát từ vai trò của nông nghiệp, nông thôn và sự phát triển của nông nghiệp nói
chung, kinh tế trang trại nói riêng; xuất phát từ thực trạng của những vấn đề đã được
tác giả Phạm Văn Khôi nghiên cứu, cho thấy có sự liên quan đến đề tài nghiên cứu
sinh đang thực hiện, từ đây sẽ mở ra một cách nhìn đối với địa phương Cà Mau bổ
ích trong hoàn thiện đề tài.
- "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới
giai đoạn 2011-2020" của Nguyễn Thị Tố Quyên [75] đã được tập thể tác giả trình
bày trong bốn nội dung. Một là, tác giả tiếp cận các lý thuyết, mô hình thực tiễn và
kinh nghiệm phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân trên thế giới. Hai là, nêu
lên thực trạng một số điểm trọng tâm, nổi bật về nông nghiệp, nông thôn, nông dân
từ năm 2000 đến nay. Ba là, những cơ hội, thách thức mới đặt ra cho nông nghiệp,
nông thôn, nông dân trong mô hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011-2020. Bốn
là, một số đề xuất về chính sách nông nghiệp hiện nay. Theo nhóm tác giả, nông
nghiệp, nông thôn, nông dân là vấn đề khá rộng và còn nhiều nội dung cần được
tiếp tục nghiên cứu, trao đổi trong thời gian tới.
- "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vấn đề và giải
pháp" của Lê Quang Lý [58] đã tập trung vào mấy vấn đề như sau: Thứ nhất, cách
thức tiếp cận mới về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn từ thực tiễn sinh động của
nền nông nghiệp nước nhà. Thứ hai, các vấn đề đặt ra đối với chính sách nông
nghiệp, cơ cấu công - nông nghiệp trong nền kinh tế. Thứ ba, đánh giá những mặt
được, chưa được của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong thời gian qua và
kiến giải những vấn đề cần thay đổi. Thứ tư, nhận thức mới về sở hữu ruộng đất, về
quan hệ sản xuất do CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đưa đến.
- "Xây dựng nông thôn mới những vấn đề lý luận và thực tiễn" của Vũ Văn
Phúc [72] bao gồm các bài viết của các nhà khoa học, lãnh đạo các cơ quan trung
ương, các địa phương, các ngành, các cấp về xây dựng NTM, với những nội dung
chính như sau: Những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế về xây dựng
NTM; thực tiễn xây dựng NTM ở Việt Nam.
- "Gỡ khó cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn" của Báo Nhân dân [1] đã
tập hợp các tác phẩm báo chí chọn lọc hưởng ứng cuộc thi viết về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn đăng trên Báo Nhân dân năm 2011-2012. Cuốn sách giới thiệu
15. 9
38 tác phẩm báo chí đề cập đến nhiều lĩnh vực của nông nghiệp, nông dân, nông
thôn đang được xã hội quan tâm, như: bàn về mô hình sản xuất nông nghiệp phù
hợp với cơ chế thị trường; phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, tín dụng trong nông
nghiệp; xây dựng NTM; phát triển nghề cá gắn với bảo vệ chủ quyền biển đảo; cơ
chế, chính sách cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn;…từ đó, các bài
viết tổng kết, phân tích, đề xuất những giải pháp giúp Nhà nước ta tháo gỡ vướng
mắc trong lĩnh vực này, góp phần thiết thực vào phát triển nông nghiệp và nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho người dân ở nông thôn.
- "Đảng với vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn 1930-1975" của Vũ
Quang Hiển [42] đã góp phần tái tạo bức tranh KT-XH Việt Nam giai đoạn 1930-
1975, trong đó đặc biệt đi sâu phân tích chủ trương, chính sách của Đảng đối với
nông dân, nông nghiệp, nông thôn; từ đó, rút ra một số nhận xét và những bài học
kinh nghiệm trong việc tiếp tục phát huy vị trí, vai trò, sức mạnh của giai cấp nông
dân, địa bàn nông thôn và ngành kinh tế nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
- "Chính sách của Nhà nước đối với tiêu thụ nông sản trong quá trình thực
hiện cam kết với WTO" của Vũ Văn Hùng [47] đã tập trung ba vấn đề lớn: Chính
sách tiêu thụ nông sản trong quá trình thực hiện cam kết WTO - cơ sở lý luận và
kinh nghiệm quốc tế; thực trạng chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá
trình thực hiện cam kết với WTO; quan điểm và giải pháp cơ bản hoàn thiện chính
sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá trình thực hiện cam kết WTO.
- "Hợp tác phát triển nông nghiệp ở châu Phi đặc điểm và xu hướng" của
Trần Thị Lan Hương [49] đã tập trung phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp ở
châu Phi những năm gần đây, những kết quả hợp tác nông nghiệp ban đầu ở châu Phi
với thế giới bên ngoài và những cơ hội hợp tác nông nghiệp ở châu Phi trong hai thập
niên đầu thế kỷ 21. Những phát hiện nghiên cứu này là rất quan trọng để Việt Nam tìm
hướng hợp tác lâu dài, hiệu quả trong lĩnh vực nông nghiệp với châu Phi.
- "Một số vấn đề cơ bản về con đường phát triển hiện đại của nông nghiệp
và nông thôn Nhật Bản" của Dương Minh Tuấn [93] đã chỉ rõ, trên thế giới, trong
quá trình CNH, HĐH không nước nào có thể xem nhẹ sự phát triển nông nghiệp,
nông thôn. Sự phát triển nông nghiệp, nông thôn Nhật Bản trong quá trình phát
triển, hiện đại hóa nền kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh mới hiện nay được xem là
một nội dung khá hấp dẫn thu hút các nhà nghiên cứu nước ngoài cũng như chính
16. 10
các học giả Nhật Bản. Cuốn sách là công trình nghiên cứu có đóng góp quan trọng
về giá trị nghiên cứu nông nghiệp, nông thôn Nhật Bản, trong bối cảnh ở Việt Nam
đây vẫn còn là mảng nghiên cứu chưa được tập trung thích đáng, vẫn còn ít công
trình chuyên sâu về vấn đề này. Đặc biệt, nghiên cứu kinh nghiệm của Nhật Bản để
rút ra các bài học tham khảo cho Việt Nam trong quá trình CNH và phát triển kinh
tế trong bối cảnh mới hiện nay. Cuốn sách gồm có 3 chương, chương I, tác giả trình
bày tổng quan về sự phát triển nông nghiệp, nông thôn Nhật Bản, nhằm nâng lên
những đặt trưng chủ yếu, có tính đặc thù cũng như vai trò của nông nghiệp đối với
quá trình CNH, HĐH của Nhật Bản. Chương II, trình bày các giải pháp chủ yếu đối
với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn Nhật Bản, đặc biệt là các giải pháp về đất
đai, về sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, về tổ chức quản lý nông nghiệp,
hợp tác quốc tế và bảo hộ nông nghiệp của Nhật Bản. Chương III, làm rõ những
thành tựu và những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn Nhật
Bản cũng như mô hình và những kinh nghiệm phát triển nông nghiệp, nông thôn
Nhật Bản đối với Việt Nam trong quá trình CNH hiện nay.
- "Nông nghiệp Hàn Quốc trên con đường phát triển" của Trần Quang Minh
[61] đã nêu rõ, Hàn Quốc đã trải qua hơn nửa thế kỷ thực hiện CNH, HĐH đất
nước. Trong quá trình này, không chỉ các ngành công nghiệp của Hàn Quốc đạt
được những thành tựu phát triển hết sức mạnh mẽ làm nên cái tên gọi "kỳ tích sông
Hàn", mà ngành nông nghiệp của Hàn Quốc cũng từng bước đi lên hiện đại, bộ mặt
nông thôn ngày càng được đổi mới. Những kinh nghiệm của Hàn Quốc trong việc
giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn trong quá trình CNH, HĐH chắc chắn là
những tham khảo rất có giá trị đối với Việt Nam. Cuốn sách tập trung phân tích một
cách toàn diện tiến trình phát triển nông nghiệp của Hàn Quốc từ truyền thống đến
hiện đại; các chính sách và giải pháp giải quyết những vấn đề đặt ra trên con đường
phát triển hiện đại của nông nghiệp và nông thôn Hàn Quốc và đề xuất một số gợi ý
chính sách cho sự phát triển nông nghiệp Việt Nam trên cơ sở những kinh nghiệm
của Hàn Quốc. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và đánh giá những kinh nghiệm của
Hàn Quốc về phát triển nông nghiệp và nông thôn là hết sức cần thiết cả về lý luận
và thực tiễn đối với Việt Nam.
- "Quá trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn ở Trung Quốc 1978-2008"
của Nguyễn Xuân Cường [22] đã nêu rõ, Trung Quốc là nước nông nghiệp lớn với
17. 11
dân số đông nhất thế giới. Hơn nửa thế kỷ qua, nhất là từ khi tiến hành cải cách mở
cửa năm 1978 đến nay, Trung Quốc đã giành được những thành tựu to lớn và toàn
diện, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Những kinh nghiệm của Trung
Quốc trong quá tŕnh cải cách nông nghiệp, nông thôn; phát triển hài hòa giữa nông
thôn và thành thị; phát triển cân bằng giữa công nghiệp và nông nghiệp; xây dựng
NTM xă hội chủ nghĩa…là những kinh nghiệm hữu ích cho Việt Nam.
- Ngoài ra còn có thể kể đến: "Hàn Quốc đất nước con người" của Trung tâm
Dịch vụ Thông tin hải ngoại Hàn Quốc [92]; "Kinh tế Thái Lan một số chính sách
công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu trong ba thập niên cuối thế kỷ XX" của
Trương Duy Hòa [44]; "Kinh tế thế giới năm 2020: Xu hướng và thách thức" của Tạ
Kim Ngọc [66];"Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, kinh nghiệm Việt Nam,
kinh nghiệm Trung Quốc" của Trần Hữu Phú [71].
Tổng quan các công trình nghiên cứu kể trên tập trung đi sâu các đặc trưng
chủ yếu từ điều kiện đất đai, công nghệ, sản phẩm, giá trị và thu nhập trên lĩnh vực
nông nghiệp của các nước. Từng giai đoạn phát triển, các tác giả đã làm rõ ý nghĩa, tầm
quan trọng và mức độ đóng góp của nền nông nghiệp đối với tăng trưởng kinh tế và sự
phát triển của mỗi nước. Đặc biệt là đối với Châu Phi như một sự điển hình về duy trì
sự sống, đảm bảo an ninh lương thực và ổn định xã hội. Bên cạnh những mặt tích cực
và những lợi thế, các nghiên cứu cũng chỉ ra nhiều vấn đề nan giải trong phát triển
nông nghiệp của mỗi quốc gia mà cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết. Từ đó, các tác
giả đã đưa ra những kiến nghị giải pháp khác nhau nhằm hướng tới tổ chức, quản lý
hiệu quả nền nông nghiệp quốc gia, những kiến nghị, giải pháp này cũng là những bài
học quý giá cho những quốc gia nông nghiệp như Việt Nam.
1.1.1.2. Một số luận án tiến sĩ
- "Nghiên cứu mô hình sản xuất nông nghiệp bền vững trong vùng dự án
ngọt hóa Gò Công" của Nguyễn Văn Khang [50] đã lý giải được những mô hình sản
xuất bền vững ở khu vực ngọt hóa Gò Công tỉnh Tiền Giang, từ đó giúp cho nông
dân lựa chọn được những mô hình có thể áp dụng trong quá trình sản xuất có thể
mang lại hiệu quả, ít tác động đến môi trường sinh thái; đánh giá được những thay
đổi trong sản xuất và đời sống của người dân trước và sau ngọt hóa; định hướng
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo những mục tiêu khác nhau. Những công
trình này có thể áp dụng được những địa phương khác có điều kiện về địa lý, sản
xuất tương tự trong khu vực.
18. 12
- "Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất nông nghiệp tại
Yên Bái, giai đoạn 2012-2020" của Bùi Nữ Hoàng Oanh [68] đã đi sâu phân tích cơ
sở lý luận và thực tiễn về đất nông nghiệp; đề cập hiệu quả kinh tế trong sử dụng
đất, phân tích xu hướng suy giảm đất nông nghiệp và những tác động làm suy thoái
đất trong quá trình sản xuất. Luận án đã nêu lên một số giải pháp mang tính khả thi
nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất nông nghiệp tại tỉnh, như: nêu lên
giải pháp về quy hoạch sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật (KH-KT),
liên kết vùng sản xuất, các điều kiện đảm bảo cho các giải pháp thực hiện được và
trách nhiệm các cấp, các ngành để đảm bảo tính khả thi của luận án.
- "Thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp hiện nay ở tỉnh Vĩnh Phúc" của
Bùi Minh Hồng [45] đã phân tích, làm rõ được thị trường quyền sử dụng đất nông
nghiệp, xem đó là thứ hàng hóa đặc biệt, đó là tài sản, là nguồn lực quý giá của mỗi
quốc. Luận án đã tập trung, đi sâu phân tích thực trạng thị trường quyền sử dụng đất
nông nghiệp hiện nay ở tỉnh Vĩnh Phúc, chỉ ra những mặt tích cực, những hạn chế,
cũng như những yếu kém của thị trường này. Từ đó, tác giả đề xuất những phương
hướng, giải pháp, tạo môi trường thông thoáng cho thị trường quyền sử dụng đất
nông nghiệp phát triển linh hoạt nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực đất đai phục
vụ tốt cho CNH, HĐH.
- "Phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam" của Nguyễn Hữu Sở [79] đã xoay
quanh vấn đề phát triển kinh tế bền vững, luận án đã nhấn mạnh đến khả năng phát
triển liên tục, lâu dài, không gây ra những hậu quả tai hại khó khôi phục ở những lĩnh
vực khác, nhất là thiên nhiên và xã hội. Phát triển kinh tế mà hủy hoại đến môi trường
là phát triển không bền vững. Phát triển mà chỉ dựa vào lượng tài nguyên sẵn có là phát
triển không thể lâu dài được. Tác giả cũng nêu lên quan điểm cho rằng, phát triển kinh
tế mà để phụ thuộc quá nhiều vào ngoại lực (FDI) cũng là khó bền vững, vì nguồn ấy
có nhiều rủi ro, không chắc chắn. Hai thành tố nòng cốt của phát triển là văn hóa và xã
hội. Để chuyển hóa khái niệm phát triển kinh tế bền vững từ cấp độ lý thuyết áp dụng
vào thực tiễn, khái niệm cần được làm sáng tỏ sau đó áp dụng trực tiếp đối với các lĩnh
vực khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
1.1.1.3. Những công trình nghiên cứu công bố trên các tạp chí, hội thảo
Những năm gần đây, nhất là từ sau Hội nghị lần thứ bảy, Khóa X khi Nghị
quyết của BCH TW Đảng về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn được ban
19. 13
hành và đi vào thực hiện, theo đó đã có ngày càng nhiều các công trình nghiên cứu
nhận được sự quan tâm xã hội, các nhà nghiên cứu, dưới đây xin nêu một số công
trình liên quan như:
- "Quyết định số 153/2004/TTg ban hành văn bản Định hướng Chiến lược phát
triển bền vững ở Việt Nam (gọi tắt là Chương trình Nghị sự 21)" của Thủ tướng Chính
phủ [86]. Theo đó, phát triển bền vững là xu thế chung mà toàn nhân loại đang nỗ lực
thực hiện. Đó cũng là mục tiêu chiến lược quan trọng mà Đảng, Chính phủ và nhân dân
Việt Nam quyết tâm biến thành hành động, ở hiện tại và tương lai.
- "Nông dân và nông nghiệp Việt Nam nhìn từ sản xuất thị trường" của Võ
Tòng Xuân [110] đã cho rằng, hạn chế lớn nhất của nông nghiệp hiện nay là sản
xuất một cách rất tự phát, muốn trồng giống gì thì trồng, muốn sử dụng kỹ thuật thế
nào là tùy ý. Người dân trồng lúa nhưng không biết ai sẽ mua, doanh nghiệp chỉ biết
thương lái, đối tác, bỏ mặc người dân. Đến khi thu hoạch, tiêu thụ người dân cũng
không thể quyết định được giá cả, luôn thua lỗ, thiệt thòi. Tác giả đề xuất hướng ra
là cần sớm xây dựng mô hình Công ty cổ phần nông nghiệp; mạnh dạn chuyển
hướng phát huy tiềm năng tự nhiên và người lao động; Nhà nước cần linh hoạt
trong điều chuyển cơ chế, chính sách cho phù hợp với thị trường.
- "Tái cơ cấu ngành nông nghiệp nước ta hiện nay" của Vương Đình Huệ
[42] đã chỉ rõ, trước bối cảnh phát triển kinh tế luôn biến động, có nhiều cơ hội,
thách thức đan xen cả trong nước và hội nhập quốc tế, bài viết đề xuất một số nội
dung và giải pháp cần thiết, cấp bách, góp phần nghiên cứu tiếp tục đổi mới căn bản
và đồng bộ về chiến lược, thể chế và tổ chức trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp,
nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 26-NQ/TW khóa X của Ban Chấp
hành Trung ương và Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp đã được phê duyệt.
- "Con đường bền vững nhất cho nông nghiệp" của Nguyễn Quốc Vọng
[108] đã nêu rõ, một nền nông nghiệp chất lượng cao là con đường bền vững nhất
để nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam đứng vững và phát triển trong kỷ
nguyên hội nhập. Tác giả cung cấp 5 "luật chơi" của thị trường nông sản thế giới, từ
đó chỉ ra những hạn chế, yếu kém của nông nghiệp Việt Nam và nghiên cứu giải
pháp từ Australia để chúng ta có thêm cách nhìn về nền nông nghiệp nước nhà.
- "Phát triển nông nghiệp bền vững - Lý luận và thực tiễn" của Vũ Trọng
Bình [3] đã tập trung giới thiệu khái niệm NNPTBV, các tiếp cận chiến lược trong
20. 14
NNPTBV, trình bày tóm tắt một số chiến lược phát triển nông nghiệp bền vững của
một số quốc gia cũng như thực tiễn PTBV ở Việt Nam. Có nhiều cách tiếp cận cho
PTBV, tuy nhiên, tất cả để làm thế nào cho người sản xuất thay đổi hành vi của họ
dựa trên các nguyên tắc sản xuất bền vững. Cách tiếp cận của tác giả cho thấy, nước
ta đang rất tích cực phát triển nền nông nghiệp bền vững. Nhiều chính sách được
Chính phủ ban hành. Tuy nhiên, cho thấy giữa hiện thực và chính sách còn khoảng
cách xa. Chúng ta đang thiếu chuỗi giá trị dựa trên quản trị sản xuất bền vững, thiếu
cơ chế chính sách để nông dân thực hành bền vững. Khi mà thực hành sản xuất
không bền vững vẫn còn có lợi ích lớn hơn, thậm chí lớn hơn nhiều so với thực
hành sản xuất bền vững, thì việc phát triển nông nghiệp bền vững vẫn còn khó khăn.
- "Quyết định 899/QĐ-TTg về tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao
giá trị gia tăng và phát triển bền vững" của Thủ tướng Chính phủ [87] đây là đề án
tái cơ cấu nông nghiệp là một hợp phần của tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc
dân, phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển KT-XH của cả nước, gắn với
phát triển KT-XH và bảo vệ môi trường cho trước mắt và lâu dài.
- "Nông nghiệp Việt Nam hướng đến phát triển bền vững" của Đỗ Kim
Chung, Kim Thị Dung [8] đã cho rằng, trong thời gian qua, ngành nông nghiệp đạt
được tốc độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch theo hướng
phù hợp hơn với nhu cầu thị trường, giá cả, kim ngạch xuất khẩu đều tăng trưởng ở
mức hợp lý. Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn chưa thực sự phát triển bền vững; khả
năng cạnh tranh của một số sản phẩm nông sản chưa cao, thị trường tiêu thụ thiếu
ổn định, chưa hình thành có hiệu quả chuỗi giá trị nông sản, thu nhập của cơ dân
nông thôn thấp. Hướng đến sự PTBV, cần có giải pháp phát triển nông nghiệp nước
ta một cách đúng hướng và đồng bộ, đây là câu hỏi lớn đặt ra cho các nhà nghiên
cứu lý luận, hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn.
Một số bài báo nêu trên tập trung nghiên cứu, phân tích những vấn đề mang
tính lý luận về NNPTBV hoặc những vấn đề có liên quan khác đến nông nghiệp,
đến PTBV và NNPTBV ở nước ta trong những năm gần đây. Trên cơ sở chỉ ra
những thành tựu và hạn chế, yếu kém, các tác giả đã đề xuất định hướng, giải pháp
cho NNPTBV. Tuy nhiên, các công trình đăng tải trên các tạp chí khoa học, số bài
liên quan trực tiếp đến NNPTBV tuy nhiều, nhưng các bài viết ít đi sâu phân tích
các yếu tố đảm bảo cho nền NNPTBV trong xu thế mới dưới góc nhìn kinh tế chính
trị học, cho nên, đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu.
21. 15
1.1.2. Những công trình nghiên cứu ngoài nước có liên quan đến đề tài
luận án
Cũng như ở Việt Nam, nhiều nước trên thế giới đi lên từ nông nghiệp, hoặc
nông nghiệp có vị trí đặc biệt đối với sự phát triển một quốc gia nào đó, vì thế trong
các nghiên cứu nước ngoài cũng có không ít công trình nghiên cứu liên quan đến đề
tài luận án và các nghiên cứu này sẽ là những tài liệu bổ ích cho nghiên cứu của
luận án và gợi mở những bài học kinh nghiệm quý giá đối với Việt Nam. Một số
nghiên cứu điển hình ở mảng nghiên cứu này có thể kể đến như:
- "Tăng cường nông nghiệp cho phát triển" của Ngân hàng thế giới [65] đã
nêu bật nông nghiệp là công cụ phát triển sống còn để đạt mục tiêu phát triển thiên
niên kỷ. Báo cáo dài hơn 500 trang, nội dung đề cập đến 3 vấn đề chính, đó là:
Nông nghiệp có thể làm gì để góp phần vào phát triển; công cụ hữu hiệu trong việc
sử dụng nông nghiệp vì sự phát triển là gì?; làm thế nào để thực hiện tốt nhất các
chương trình nghị sự nông nghiệp vì sự phát triển. Báo cáo này hướng dẫn cho các
Chính phủ và cộng đồng quốc tế khi thiết kế và thực thi các chương trình nông
nghiệp cho phát triển, mà những chương trình này có thể đổi đời cho hàng triệu
người đói nghèo, cơ cực ở nông thôn.
- Nghiên cứu của Quỹ Quốc tế về phát triển nông nghiệp (IFAD): Có nhiều
tác giả tập trung nghiên cứu về vai trò và ảnh hưởng từ phía chính phủ và các chính
sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp [64]. Điển hình là nghiên cứu của Tiến sỹ
Gertrud Schieder, Trường Đại học Hohen - Đức, nghiên cứu về tín dụng cho người
nghèo sống ở nông thôn đất nước Cameroon đã luận giải sự tồn tại tất yếu, khách
quan của 2 bộ phận: tín dụng chính thức và tín dụng phi chính thức. Theo tác giả,
thì nhất thiết Chính phủ cần phải cung ứng tín dụng để đảm bảo an toàn lương thực
cho người nghèo ở nông thôn.
- "Nền kinh tế xanh lam" của Gunter Pauli [41] đã hàm chứa tầm nhìn khác
thường về những gì chúng ta có thể làm được trong bối cảnh một nền kinh tế bền
vững. Từ kết quả hấp dẫn của nỗ lực khai thác tiềm năng đạt tới sự bền vững trong
khắp các hệ sinh thái của tự nhiên, đó cũng là thách thức lớn nhất của thế giới. Tuy
tác giả giới thiệu về mô hình kinh doanh hướng đến sự bền vững, nhưng đây là một
nghiên cứu rất có ý nghĩa về kinh tế dưới góc nhìn kinh tế chính trị học.
22. 16
1.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC
NGHIÊN CỨU
1.2.1. Đánh giá chung các kết quả nghiên cứu đã công bố
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về NNPTBV đều
có cách tiếp cận và giải quyết vấn đề dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể nêu lên
mấy vấn đề cơ bản sau:
- Các nghiên cứu đã làm rõ các khái niệm, đặc điểm, vai trò và tính tất yếu
của PTBV, NNPTBV trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Dù là quốc gia phát triển
hay đang phát triển thì việc đầu tư cho nông nghiệp luôn có tầm quan trọng đặc biệt
trong nền kinh tế của mỗi nước.
- Các nghiên cứu đã làm sáng tỏ, phản ánh được nhiều mặt về bức tranh nông
nghiệp trước yêu cầu PTBV ở một số nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc
và một số quốc gia khác ở châu Phi, châu Âu… đó là những kinh nghiệm quý cho
Việt Nam xây dựng và phát triển nền NNPTTHBV.
- Từ những nghiên cứu ở phương diện lý luận và thực tiễn các nghiên cứu đã
có những kiến nghị, đề xuất phương hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp
trong một thời điểm nhất định, nhất là trong hội nhập càng phải đề cao, xem trọng
các yếu tố PTBV.
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu nêu trên, có thể rút ra một số kết luận sau:
Một là, các công trình nghiên cứu trong nước về nông nghiệp, phát triển bền
vững nông nghiệp là một phần quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam
hiện nay. Quá trình ấy, được nghiên cứu trên nhiều mặt, có mối quan hệ bền chặt
giữa KT-XH-MT; giữa việc xây dựng một nước Việt Nam phát triển, giàu mạnh,
chủ động hội nhập quốc tế. Những vấn đề các tác giả nghiên cứu, trong đó đáng chú
ý là đã đưa ra nhiều cách gỡ khó cho nông nghiệp, xác định phát triển nông nghiệp
với mô hình tăng trưởng bền vững là sự lựa chọn đúng đắn cho tái cơ cấu lại nông
nghiệp, thực hiện CNH, HĐH đất nước, đưa nông nghiệp nước nhà hội nhập sâu
WTO. Nhận thức được điều đó, việc nghiên cứu, thực hiện đề tài nông nghiệp ở
tỉnh Cà Mau phát triển theo hướng bền vững là việc cụ thể hóa trong thực tiễn ở một
địa phương, là một đòi hỏi bức xúc trước mắt, vừa có ý nghĩa lâu dài, góp phần phát
triển KT-XH của tỉnh, rất cần có một đề tài nghiên cứu nghiêm túc về vấn đề này.
23. 17
Hai là, trong các nghiên cứu quốc tế có liên quan đến đề tài cho thấy, trên
thế giới, trong lịch sử phát triển của các quốc gia, hầu hết các quốc gia đều không
xem nhẹ việc đầu tư, phát triển nông nghiệp. Từ các nước sản xuất nông nghiệp đầy
khó khăn như Châu phi, đến những nước có sự đầu tư mạnh vào nông nghiệp như
Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Ixrael…chỉ trong một thời gian nhất định đã làm
các nước này có sự thay đổi lớn lao, PTBV, quá trình đó có sự đóng góp hết sức
quan trọng của nông nghiệp. Chính vì vậy, đề tài nông nghiệp, nông dân, nông thôn
không chỉ nhận được sự quan tâm sâu sắc của các nhà nghiên cứu trong nước mà
còn là đề tài luôn có sức hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu ngoài nước, kết quả
nghiên cứu của các tác giả nước ngoài là những kinh nghiệm, bài học tham khảo
quý đối với Việt Nam nói riêng, các nền kinh tế nông nghiệp nói chung cả trên
phương diện thành công và thất bại mà một số quốc gia nào đó đã trải qua.
1.2.2. Những khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu
Như trình bày ở trên, các nghiên cứu đã công bố được đề cập là khá phong
phú, đa dạng về các khía cạnh phát triển của nông nghiệp, NNPTBV. Tuy nhiên,
trong quá trình tham khảo để viết luận án này, nghiên cứu sinh nhận thấy hầu hết
các tư liệu tham khảo chủ yếu nghiên cứu nông nghiệp ở tầm lý luận chung, những
vấn đề mang tính nguyên lý ở cấp độ quốc gia, châu lục. Một số công trình khác thì tập
trung nghiên cứu một hoặc một số vấn đề cụ thể của nông nghiệp trong nước. Ngay cả
ba luận án tham khảo cũng chỉ đi sâu nghiên cứu mô hình sản xuất ở vùng ngọt hóa,
vấn đề nâng cao hiệu quả kinh tế trong sử dụng đất, thị trường quyền sử dụng đất nông
nghiệp. Với đề tài luận án của nghiên cứu sinh, những công trình trên rất có ý nghĩa ở
chỗ, nó giúp cho nghiên cứu sinh tiếp cận thuận lợi hơn để giải quyết các vấn đề có
liên quan đến nông nghiệp ở Cà Mau phát triển theo hướng bền vững.
Trên cơ sở việc hệ thống hóa lý thuyết NNPTTHBV đến cụ thể hóa lý thuyết
này vào điều kiện cụ thể của tỉnh Cà Mau, luận án cần trả lời những câu hỏi lớn và
then chốt về nông nghiệp phát triển sao cho hiệu quả, bền vững và khả thi. Luận án
không chỉ gắn kết nông nghiệp với các mục tiêu xây dựng, phát triển KT-XH của
tỉnh trong tương lai, mà còn đưa ra định hướng giúp cho nông nghiệp của tỉnh tăng
trưởng ổn định, theo hướng bền vững, nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế cạnh tranh,
cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, phát triển nông nghiệp đồng bộ, thúc đẩy liên kết
vùng và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Với tinh thần như vậy, luận án tập trung
24. 18
làm rõ mức độ tác động đến NNPTTHBV của tỉnh trong thời gian qua, cả ưu điểm
và hạn chế yếu kém trên ba phương diện: thực trạng của nền NNPTTHBV về KT-
XH-MT. Từ đó đưa ra những dự báo đối với NNPTTHBV ở tỉnh Cà Mau đến năm
2025 trên cơ sở những quan điểm, phương hướng, mục tiêu và một số giải pháp cụ
thể nhằm hướng đến một nền NNPTTHBV ở một tỉnh có lợi thế và tiềm năng dồi
dào cả ngư, nông, lâm nghiệp; có cả hệ sinh thái mặn và ngọt; có cả rừng và biển;
có cả nuôi trồng, đánh bắt và chế biến…với những đóng góp của luận án, cho chúng
ta thấy được bức tranh toàn cảnh về nông nghiệp của tỉnh Cà Mau một vùng đất
giàu tiềm năng phát triển này.
Cà Mau là một tỉnh cực Nam Tổ quốc, tuy có nguồn tài nguyên, thiên nhiên
khá phong phú, dồi dào, nhưng ngành nông nghiệp của tỉnh hiện tại vẫn còn chậm
phát triển, có nhiều yếu tố thiếu ổn định, chưa bền vững, thì việc nghiên cứu thúc
đẩy nền nông nghiệp của tỉnh phát triển theo hướng bền vững là rất cần thiết. Vì
vậy, lựa chọn nghiên cứu của Nghiên cứu sinh mong đóng góp một phần nhỏ bé vào
nỗ lực phát triển KT-XH của địa phương trên cơ sở khai thác tiềm năng, thế mạnh
về nông nghiệp của tỉnh.
25. 19
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ NÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ NÔNG
NGHIỆP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
2.1.1. Khái quát chung về phát triển bền vững
2.1.1.1. Khái niệm về phát triển bền vững
Ngày nay, trên bình diện toàn thế giới hay tại mỗi khu vực và ở mỗi quốc gia
xuất hiện biết bao vấn đề bức xúc mang tính phổ biến. Kinh tế càng tăng trưởng thì
tình trạng khan hiếm các loại nguyên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn tài
nguyên không tái tạo được ngày càng tăng thêm, môi trường thiên nhiên càng bị
hủy hoại, cân bằng sinh thái bị phá vỡ, dẫn tới "sự trả thù" của thiên nhiên gây ra
những thiên tai vô cùng thảm khốc. Đó là sự tăng trưởng kinh tế không cùng nhịp
với tiến bộ và phát triển xã hội, đôi khi ngược chiều với phát triển xã hội. Cụ thể là,
có tăng trưởng kinh tế nhưng không có tiến bộ và công bằng xã hội; tăng trưởng
kinh tế theo hướng CNH, đô thị hóa, dẫn tới làm méo mó nông thôn; tăng trưởng
kinh tế nhưng thu nhập của người lao động không tăng; tăng trưởng kinh tế nhưng
văn hóa, đạo đức bị suy đồi; tăng trưởng kinh tế lại làm dãn cách hơn sự phân hóa
giàu nghèo trong xã hội, dẫn tới sự bất ổn trong xã hội và điều này đã trở thành một
trong những vấn đề nóng bỏng ở nhiều quốc gia. Vậy nên, quá trình phát triển có sự
điều tiết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm bình ổn xã hội và bảo vệ môi
trường đang trở thành yêu cầu bức thiết đối với toàn thế giới. Theo đó, chiến lược
PTBV ra đời và trở thành chiến lược phát triển toàn cầu những năm cuối của thế kỷ
20 và đang tiếp tục là chiến lược phát triển toàn cầu trong thế kỷ 21.
Mặc dù chiến lược phát triển toàn cầu xuất hiện từ những năm cuối của thế
kỷ 20, song thuật ngữ "phát triển bền vững" là một khái niệm dần được hình thành
từ thực tiễn đời sống xã hội và có tính tất yếu. Tư duy về PTBV manh nha trong cả
quá trình sản xuất xã hội và bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm quan trọng của bảo vệ
môi trường và tiếp đó là nhận ra sự cần thiết phải giải quyết những bất ổn trong xã
hội. Chính vì thế, năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển của
Liên hợp quốc được tổ chức ở Ri-ô đơ Gia-nê-rô đề ra Chương trình nghị sự toàn
cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, PTBV được xác định là: Một sự phát triển thỏa mãn
26. 20
những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả năng đáp ứng những
nhu cầu của thế hệ tương lai. Theo đó, ba trụ cột PTBV được xác định là: Thứ nhất,
bền vững về mặt kinh tế, hay phát triển kinh tế bền vững là phát triển nhanh và an
toàn, chất lượng; Thứ hai, bền vững về mặt xã hội là công bằng xã hội và phát triển
con người, chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu chí cao nhất về phát triển xã
hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình độ dân trí, giáo dục, sức khỏe,
tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh; Thứ ba, bền vững về sinh thái môi
trường là khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và
cải thiện chất lượng môi trường sống.
Cho tới nay, quan niệm về PTBV trên bình diện quốc tế có được sự thống
nhất chung và mục tiêu để thực hiện PTBV trở thành mục tiêu thiên niên kỷ.
Ở Việt Nam, chủ đề PTBV cũng đã được chú ý nhiều trong giới nghiên cứu
cũng như những nhà hoạch định đường lối, chính sách. Quan niệm về PTBV thường
được tiếp cận theo hai khía cạnh: Một là, PTBV là phát triển trong mối quan hệ duy
trì những giá trị môi trường sống, coi giá trị môi trường sinh thái là một trong
những yếu tố cấu thành những giá trị cao nhất cần đạt tới của sự phát triển. Hai là,
PTBV là sự phát triển dài hạn, cho hôm nay và cho mai sau; phát triển hôm nay
không làm ảnh hưởng tới mai sau.
Trong mục 4, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường, PTBV được định nghĩa: "Phát
triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm
tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp
chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi
trường" [74]. Đây là định nghĩa có tính tổng quát, nêu bật những yêu cầu và mục
tiêu trọng yếu nhất của PTBV, phù hợp với điều kiện và tình hình ở Việt Nam.
Từ nội hàm khái niệm PTBV, rõ ràng là, để đạt được mục tiêu PTBV cần
giải quyết hàng loạt các vấn đề thuộc ba lĩnh vực là KT-XH-MT.
Thứ nhất, bền vững kinh tế. Mỗi nền kinh tế được coi là bền vững cần đạt
được những yêu cầu sau:
- Có tăng trưởng GDP và GDP/người đạt mức cao. Nước phát triển có thu
nhập cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo, có thu nhập thấp càng
phải tăng trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay cần
tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể xem có biểu hiện PTBV về
kinh tế.
27. 21
- Trường hợp có tăng trưởng GDP cao nhưng mức GDP/người thấp thì vẫn
coi là chưa đạt yêu cầu PTBV.
- Cơ cấu GDP cũng là vấn đề cần xem xét. Chỉ khi tỷ trọng công nghiệp và dịch
vụ trong GDP cao hơn nông nghiệp thì tăng trưởng mới có thể đạt được bền vững.
- Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, không chấp nhận
tăng trưởng bằng mọi giá.
Thứ hai, bền vững về xã hội. Tính bền vững về phát triển xã hội ở mỗi quốc
gia được đánh giá bằng các tiêu chí, như HDI, hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ tiêu
về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa. Ngoài ra, bền vững về xã hội
là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hòa; có sự bình đẳng giữa các giai tầng trong xã
hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu nghèo không cao quá và có xu hướng
gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng miền không lớn.
Thứ ba, bền vững về môi trường. Quá trình CNH, HĐH, phát triển nông
nghiệp, du lịch; quá trình đô thị hóa, xây dựng NTM,... đều tác động đến môi
trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, điều kiện tự nhiên. Bền vững về
môi trường là khi sử dụng các yếu tố tự nhiên đó, chất lượng môi trường sống của
con người phải được bảo đảm. Đó là bảo đảm sự trong sạch về không khí, nước,
đất, không gian địa lý, cảnh quan. Chất lượng của các yếu tố trên luôn cần được coi
trọng và thường xuyên được đánh giá kiểm định theo những tiêu chuẩn quốc gia
hoặc quốc tế.
2.1.1.2. Sự hình thành lý thuyết về phát triển bền vững
Cuộc cách mạng công nghiệp vào đầu thế kỷ XVIII, đặc biệt là cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ từ giữa thế kỷ XX cho đến nay, vấn đề phát triển có một
nội dung thuần túy kinh tế. Cùng với sự phát triển của xã hội, các nhu cầu về vật chất
ngày càng tăng, con người đã tìm nhiều biện pháp thúc đẩy sản xuất, các chính sách KT-
XH, mở mang quốc gia đã có sự quan tâm đặc biệt đến các vấn đề về đầu tư, sản xuất,
tăng trưởng kinh tế đã trở thành mục tiêu trung tâm, ưu tiên hàng đầu trong chiến lược
phát triển của các quốc gia trên thế giới. Lúc bấy giờ phát triển kinh tế (développement
économique) đồng nghĩa với tăng trưởng kinh tế (croissance économique), không có sự
phân biệt, cân nhắc hoặc so sánh giữa phẩm và lượng trong công cuộc mở mang quốc
gia. Riêng đối với các nước chậm tiến có nền kinh tế lạc hậu thì được xem như chỉ có
nhu cầu gia tăng sản xuất, xúc tiến các chương trình nhằm các mục tiêu vừa kể. Kinh tế
28. 22
thế giới lúc bấy giờ tiến lên trong khuôn khổ các chính sách và kế hoạch dựa trên lý luận
kinh tế máy móc, một chiều, hẹp hòi và phiến diện.
Cùng với sự phát triển kinh tế nhanh chóng thì môi trường thiên nhiên cũng
đang bị tàn phá nghiêm trọng. Trước nguy cơ, hiểm họa nguồn tài nguyên thiên
nhiên bị khai thác cạn kiệt, tiêu dùng hoang phí, chất thải bừa bãi, tất cả để đuổi
theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế, thì môi trường tự nhiên đã bị xâm hại, tổn thương
nghiêm trọng. Một khuynh hướng cực đoan chủ trương giảm đến mức tối đa sự tác
động của con người lên tự nhiên đã xuất hiện. Ý tưởng này cho rằng, để bảo vệ môi
trường bằng cách con người không tác động vào tự nhiên. Đây là một ý tưởng hoàn
toàn ảo tưởng, bởi con người không thể chấp nhận một hệ số phát triển bằng không.
Đây là một phản ứng tiêu cực, một sự lựa chọn bế tắc của cuộc sống chính sự tác
động của con người vào thiên nhiên mang lại.
Một khuynh hướng khác cũng hết sức sai lầm, cho rằng cần tăng trưởng kinh
tế trước rồi mới quan tâm bảo vệ môi trường. Nói theo y học, có nghĩa là "bệnh rồi
mới chữa" chứ không phải "phòng bệnh hơn chữa bệnh". Ngược dòng thời gian, có
thể thấy các nhà kinh tế học như Malthus, D.Ricardo đều có chung quan điểm với
các nhà bảo vệ môi trường đầu tiên ở châu Âu, châu Mỹ và tất cả họ đều có chung
quan điểm là cần tiết kiệm tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên. Song không ít quốc
gia, đặc biệt là ở các nước chậm phát triển và đang phát triển, mục tiêu tăng trưởng
kinh tế vẫn chiếm vị trí ưu tiên hơn so với mục tiêu bảo vệ môi trường và sử dụng
hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên. Bởi tại các quốc gia này giải quyết việc làm,
giảm nghèo đói, cải thiện đời sống người dân, xây dựng tiềm lực kinh tế cho đất
nước vẫn là việc làm chính đáng và cấp thiết.
Vào đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, trước việc sử dụng quá mức tài nguyên
thiên nhiên phục vụ cho CNH của nhiều nước trên thế giới đã hình thành nhiều
trường phái nghiên cứu về sự PTBV. Thực tế đó đã tạo ra sự lo ngại về triển vọng
phát triển của con người ở hiện tại và tương lai, đã làm cho nhận thức về tự nhiên,
mối quan hệ giữa tự nhiên với xã hội và con người có những thay đổi. Trong công
trình nghiên cứu của mình, GS. TS Holger Rogall lấy trường phái định hướng kinh
tế làm trọng tâm. Trong khi đó, trường phái Tân cổ điển coi kinh tế môi trường là
một phần của khoa học bền vững. Còn Câu lạc bộ La Mã (Club de Rome) đã đề cao
quan điểm "Giới hạn của tăng trưởng" đề nghị một hướng đi mới cho sự phát triển
và có những nhận thức chính đáng, những nhận định xác thực về tổ chức kinh tế,
29. 23
đời sống xã hội nên đã có những ảnh hưởng nhất định trong việc cảnh tỉnh thế giới
về những vấn đề liên quan tới môi trường - môi sinh. Câu lạc bộ La Mã đề nghị
chính sách "không tăng trưởng" (croissance zéro) với lý do tăng trưởng kinh tế
nghịch với bảo vệ môi trường - môi sinh. Khi Maurice Strong tổ chức hội thảo với
chủ đề "Phát triển và môi trường" thì những vấn đề về PTBV bắt đầu thu hút được
sự quan tâm của nhiều học giả trên thế giới.
Tháng 6 năm 1972, tuyên bố Stockholm về "Môi trường con người" nêu rõ: Bảo
vệ và cải thiện môi trường là vấn đề lớn có ảnh hưởng tới phúc lợi của mọi dân tộc và
phát triển kinh tế trên toàn thế giới. Đó là khao khát khẩn cấp của các dân tộc trên thế
giới và nhiệm vụ của mọi chính phủ. Điều đó đã cho thấy thiên nhiên không phải là
nguồn của cải vô tận, sẵn có và phục vụ con người vô điều kiện. Con người đã nhận ra
rằng, tự nhiên là thể thống nhất, nhưng nó có giới hạn và sức chịu đựng nhất định trước
con người chứ không phải là vô hạn. Cho nên, bên cạnh việc khai thác tự nhiên phục vụ
cho lợi ích con người thì con người phải biết bảo vệ và cải thiện để nâng cao chất lượng
do tự nhiên ban tặng, nghĩa là phải biết "chung sống hài hòa" với tự nhiên.
Mỗi giai đoạn lịch sử, tư tưởng về phát PTBV ngày càng định hình rõ nét
hơn và thuật ngữ ‘Phát triển bền vững" lần đầu tiên được sử dụng trong ấn phẩm
"Chiến lược bảo tồn thế giới" do Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên và Tài nguyên thiên
nhiên thế giới phát hành. Chiến lược này cho rằng, muốn phát triển bền vững cần
tính đến những yếu tố KT - XH - MT.
Chiến lược "phát triển tôn trọng môi sinh" bị các nước đã phát triển và giàu
có chống đối mạnh mẽ, bởi vậy cuối cùng hội nghị chỉ thảo luận vấn đề ô nhiễm và
kết thúc với sự tán đồng quan điểm rằng có mối liên hệ và ảnh hưởng tương hỗ giữa
nếp sống của loài người với môi trường-môi sinh, giữa phát triển KT-XH với bảo
tồn tài nguyên và ổn định thiên nhiên. Ngoài ra, các nước cũng thỏa thuận và cam
kết hành động để bảo vệ môi trường - môi sinh và thành lập những cơ quan quốc tế
và quốc gia có nhiệm vụ bảo vệ môi trường - môi sinh. Mặc dù đề nghị "phát triển
tôn trọng môi sinh" không được chấp thuận, nhưng nó đã đánh dấu một bước tiến
quan trọng hướng tới sự khai sinh khái niệm "phát triển bền vững".
Vào đầu những năm 1980, Liên hiệp Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên là tổ chức
đã đề khởi khái niệm PTBV. Năm 1981, Robert Riddell đã mô tả PTBV gồm ba yếu
tố cơ bản là: bình đẳng kinh tế, hài hòa xã hội, môi trường cân bằng. Đến năm 1987,
khái niệm PTBV do Ủy ban Thế giới về Môi trường và Phát triển đưa ra đã nhận
30. 24
được sự đồng thuận cao từ nhiều quốc gia, các tổ chức môi trường và các nhà khoa
học trên thế giới. Năm 1992 tại Rio de Janeiro, Hội nghị Thượng đỉnh về Trái đất đã
chính thức hóa sự đồng lòng thỏa thuận của các nước hội viên Liên Hiệp Quốc về
một chương trình nghị sự PTBV gọi là Agenda 21. Mười năm sau, vào năm 2002,
Liên Hiệp Quốc đã tổ chức một hội nghị khác tại Johannesburg với tên gọi là "Hội
nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững". Hội nghị Johannesburg đã xác
định phải xúc tiến và thực hiện Agenda 21 và đã đề ra các mục tiêu cho thiên niên
kỷ 21. Theo đó, Hội nghị nhấn mạnh đến việc thiết lập cam kết giữa các chính phủ
trên toàn thế giới, nhằm thực hiện kế hoạch Johannesburg.
Trên đây là những tư tưởng tiên phong quan trọng về PTBV, ngoài ra còn có thể
kể đến các tư tưởng khác ở những mức độ khác nhau hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp cũng
có những luận bàn xoay quanh chủ đề phát triển bền vững, chẳng hạn như: Kinh tế sinh
thái, Kinh tế môi trường thế hệ mới, Sinh thái học công nghiệp…là những phương án đối
sánh, cung cấp những đóng góp quan trọng cho khoa học PTBV.
2.1.1.3. Một số mô hình về phát triển bền vững
Theo Jacobs và Sadler (1990) PTBV là kết quả dung hòa và thỏa hiệp của ba
hệ thống chủ yếu của thế giới, đó là hệ thống tự nhiên (bao gồm: các hệ sinh thái tự
nhiên và tài nguyên thiên nhiên, các thành phần môi trường của trái đất); hệ thống
kinh tế (bao gồm: sản xuất và phân phối sản phẩm) và hệ thống xã hội (bao gồm:
quan hệ con ngýời trong xã hội).
Hình 2.1: Tương tác giữa ba hệ thống kinh tế - xã hội - môi trường
và phát triển bền vững
Nguồn: [60].
Hệ
xã hội
Hệ kinh tế
Hệ
môi trường
Hệ PTBV
31. 25
Theo Hội nghị về Môi trường Phát triển Liên hiệp quốc (UNCED) về mô
hình PTBV (1992) nhấn mạnh các mục tiêu kinh tế (bao gồm: nâng cao thu nhập
của người dân, phát triển các ngành kinh tế và GDP, GNP); mục tiêu xã hội (bao
gồm: thỏa mãn các nhu cầu của con người); mục tiêu môi trường (bao gồm: giữ lâu
dài cân bằng của môi trường sinh thái nuôi dưỡng sự sống) thay cho các hệ KT-XH-
MT. Mô hình này không thể hiện rõ sự tương tác, phụ thuộc và tính liên kết của các
mục tiêu PTBV.
Ủy ban Môi trường và Phát triển thế giới (WCED) (1993) đã mở rộng các
lĩnh vực về PTBV bao gồm các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, hành chính, công
nghệ, sản xuất và quốc tế. Thực chất mô hình này xem xét PTBV của một quốc gia,
trước hết phải đảm bảo sự phát triển hài hòa của các yếu tố trên, sau đó phải được
xem xét trong sự PTBV của thế giới và do vậy, chịu sự tác động bởi các yếu tố
mang tính quốc tế.
Mohan Munasinghe (1993) đưa ra mô hình PTBV còn được gọi là mô hình
ba cực. Một là, cực kinh tế, thể hiện khả năng phát triển kinh tế của một quốc gia
dựa trên các yếu tố nguồn nhân lực, vật lực và tài lực. Hội đủ ba yếu tố này và kết
hợp một cách hiệu quả là vấn đề rất khó khăn, cần phải đảm bảo tăng trưởng kinh tế
hiệu quả và ổn định. Hai là, cực xã hội, thể hiện sự phát triển kinh tế phải gắn liền
với sự phát triển xã hội, bảo đảm nâng cao chất lượng cuộc sống cho tất cả người
dân. Ba là, cực môi trường, yêu cầu quá trình phát triển của loài người phải coi
trọng và bảo vệ có hiệu quả môi trường chung của thế giới.
Prsscott Allen (1995) với mô hình "quả trứng" nhấn mạnh đến tính bền vững
của xã hội. Mô hình này mô tả rằng hệ con người nằm trong hệ sinh thái giống như
lòng đỏ quả trứng nằm bên trong lòng trắng của một quả trứng. Quả trứng tốt khi
lòng đỏ và lòng trắng đều tốt cũng như một xã hội bền vững khi cả hai hệ con người
và hệ sinh thái được cải thiện và đảm bảo. Đều đó có nghĩa là hệ con người và hệ
sinh thái đều quan trọng như nhau trong điều kiện PTBV.
Hodge (1993,1995) đề xuất mô hình "Trình tự đánh giá tiến bộ về bền vững".
Mô hình này xây dựng dựa trên quá trình trả lời 4 câu hỏi thể hiện mối quan hệ giữa
điều kiện sinh thái với điều kiện con người, đó là: điều kiện hệ sinh thái hiện tại như
thế nào, đã có những thay đổi gì và nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi đó; điều kiện
con người hiện tại như thế nào, đã có những thay đổi gì và nguyên nhân dẫn đến sự
32. 26
thay đổi đó; có thể đưa ra những kết luận gì về hiện trạng và những tiến bộ; (d) cần
phải làm gì để đạt được những mục tiêu đặt ra?.
Hình 2.2: Mô hình trình tự đánh giá tiến độ về bền vững
Nguồn: [60].
Ở Việt Nam, từ năm 2004 đã xây dựng được chương trình PTBV (mang tên
AGENDA - 21). Mục tiêu tổng quát PTBV của Việt Nam là: Đạt được sự đầy đủ về
vật chất, sự giàu có về văn hóa và tinh thần, sự bình đẳng của các công dân và sự
đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết
hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội
và bảo vệ môi trường. Mục tiêu tổng quát cho thấy, PTBV ở nước ta là vấn đề cốt
lõi, trung tâm của sự kết hợp một cách hài hòa cả ba mặt tăng trưởng kinh tế, công
bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Theo đó, mục đích cuối cùng của PTBV là chất
lượng cuộc sống người dân được cải thiện ngày càng tốt hơn.
Như vậy, trong tiến trình phát triển, PTBV đã được tiếp cận với đa dạng các
mô thức khác nhau. Song, vấn đề cốt lõi của hầu hết các mô thức PTBV đã được đề
cập là sự kết hợp hài hòa của ba nhân tố chính: KT-XH-MT [57].
2.1.2. Khái niệm, đặc điểm nông nghiệp phát triển bền vững
2.1.2.1. Khái niệm nông nghiệp phát triển bền vững
Nông nghiệp xuất hiện từ rất sớm trong đời sống xã hội loài người. Trong
suốt một thời gian dài lịch sử nhân loại, ở phương Đông cũng như phương Tây,
nông nghiệp là một ngành cực kỳ quan trọng, không một ngành nào có thể sánh
được. Ngày nay, nông nghiệp không còn có được vị trí như trước nữa và cũng là
ngành có trình độ phát triển thấp kém hơn so với một số ngành khác trong nền kinh
tế. Song với mọi quốc gia ở mọi trình độ phát triển, nông nghiệp và các sản phẩm
Điều kiện hệ
sinh thái
Điều
kiện
con
người
Tổng hợp
Chiến lượcTương lai
33. 27
của nó luôn đóng một vai trò quan trọng - là yếu tố đầu tiên, có tính chất quyết định
sự tồn tại, phát triển của con người và phát triển KT-XH của mỗi quốc gia. Thực
tiễn lịch sử phát triển của các quốc gia trên thế giới cũng đã chứng thực rằng chỉ có
thể phát triển kinh tế một cách nhanh chóng, chừng nào quốc gia đó đã có an ninh
lương thực. Nếu không đảm bảo an ninh lương thực thì khó có sự ổn định chính trị
và thiếu sự đảm bảo cơ sở pháp lý, kinh tế cho sự phát triển, từ đó sẽ làm cho các
nhà kinh doanh không yên tâm bỏ vốn vào đầu tư dài hạn. Vì vậy, phát triển nền
nông nghiệp trong hiện tại vẫn là đòi hỏi thiết yếu của hầu hết các quốc gia trên thế
giới. Tuy nhiên, do những yêu cầu ngày càng gay gắt trong việc bảo vệ môi trường
đất, nguồn tài nguyên nước và điều kiện để canh tác trong sản xuất nông nghiệp nên
ngày nay nông nghiệp cần phải phát triển theo hướng bền vững.
Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20, những vấn đề đặt ra chủ yếu của
sản xuất nông nghiệp là: bảo vệ môi trường đất, nguồn tài nguyên nước và điều kiện
để canh tác bền vững. Mục đích của NNPTBV là kiến tạo một hệ thống bền vững về
sinh thái, có tiềm lực về kinh tế, có khả năng thoả mãn những nhu cầu của con
người mà không huỷ diệt đất đai, không làm ô nhiễm môi trường.
Do tầm quan trọng của nông nghiệp trong phát triển của mỗi quốc gia, nên phát
triển nông nghiệp nói chung, NNPTBV nói riêng luôn nhận được sự quan tâm sâu rộng
của cộng đồng xã hội. Mặc dù vậy, do phương diện tiếp cận khác nhau, điều kiện thực
tiễn khác nhau mà hiện vẫn chưa có sự đồng thuận cao về khái niệm NNPTBV.
Chẳng hạn, TAC/CGIARC (Ban cố vấn kỹ thuật thuộc nhóm chuyên gia
quốc tế về nghiên cứu nông nghiệp của Liên hiệp quốc) đã định nghĩa NNPTBV
như sau: NNPTBV phải bao hàm sự quản lý thành công tài nguyên thiên nhiên
nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người đồng thời cải tiến chất lượng môi trường và
gìn giữ được tài nguyên thiên nhiên. Hay theo quan niệm của FAO (1992),
NNPTBV là quá trình quản lý và duy trì sự thay đổi về tổ chức, kỹ thuật và thể chế
cho nông nghiệp phát triển nhằm đảm bảo thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của
con người về nông phẩm và dịch vụ vừa đáp ứng nhu cầu của mai sau.
Theo tổ chức về môi trường sinh thái thế giới (WOED) cũng đã định nghĩa
NNPTBV như sau: NNPTBV là nền nông nghiệp thỏa mãn được các nhu cầu của
thế hệ hiện nay mà không làm giảm khả năng ấy đối với các thế hệ mai sau.
34. 28
Trong mười năm trở lại đây, Việt Nam cũng đã có nhiều tác giả có công trình
nghiên cứu về NNPTBV. Trong số các công trình đã được công bố có thể kể đến
nghiên cứu của tác giả Đỗ Kim Chung và cộng sự (2009). Theo nhóm tác giả này:
NNPTBV là quá trình đảm bảo hài hòa ba nhóm mục tiêu kinh tế, xã hội và môi
trường, thỏa mãn nhu cầu về nông nghiệp hiện tại mà không tổn hại đến khả năng đáp
ứng nhu cầu của tương lai. Hoặc nghiên cứu của tác giả Phạm Doãn (2005), tác giả này
cho rằng NNPTBV là quá trình đa chiều, bao gồm: (i) tính bền vững của chuỗi lương
thực (từ người sản xuất đến tiêu thụ, liên quan trực tiếp đến cung cấp đầu vào, chế biến
và thị trường); (ii) tính bền vững trong sử dụng tài nguyên đất và nước về không gian và
thời gian; (iii) khả năng tương tác thương mại trong tiến trình phát triển nông nghiệp và
nông thôn để đảm bảo cuộc sống đủ, an ninh lương thực trong vùng và giữa các vùng.
Trên bình diện vĩ mô, Quyết định số 153/QĐ-TTg ngày 17-8-2014 của Thủ
tướng Chính phủ ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam -
Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam. Trong 8 nội dung của chương trình này, có
nội dung thứ 4 đề cập đến vấn đề NNPTBV ở Việt Nam.
Từ những quan niệm nêu trên cho thấy nhiều điểm phù hợp với thực tiễn
Việt Nam, có thể hiểu: NNPTBV là quá trình sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên
nhiên, phải bảo đảm được mục đích là kiến tạo một hệ thống bền vững KT-XH-MT,
nhằm thỏa mãn nhu cầu về phát triển nông nghiệp hiện tại mà không tổn hại đến khả
năng đáp ứng nhu cầu của phát triển trong tương lai và được xã hội chấp nhận. Bền
vững về kinh tế, là sản xuất nông nghiệp hướng đến chuỗi giá trị, hiệu quả đạt cao, làm
ra nhiều sản phẩm có chất lượng, không những đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, thức ăn
chăn nuôi, dự trữ lương thực mà còn xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Bền vững về xã
hội, là một nền nông nghiệp PTBV phải đảm bảo cho người nông dân có đầy đủ công
ăn việc làm, có thu nhập ổn định, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng
lên. Bền vững về môi trường, là mọi hoạt động sản xuất nông nghiệp không hủy hoại
nguồn tài nguyên thiên nhiên và không gây ô nhiễm môi trường.
Đối với từng địa phương, tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và
đặc thù của lĩnh vực nông nghiệp để hướng đến nền NNPTBV trên cơ sở phát huy
hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của địa phương, vừa tuân thủ các yêu cầu ở từng mức
độ khác nhau của nền nông nghiệp xanh, nông nghiệp sạch, thân thiện với môi
trường sinh thái.
35. 29
2.1.2.2. Đặc điểm nông nghiệp phát triển bền vững
Hoạt động sản xuất nông nghiệp là những tác động của con người lên các đối
tượng thiên nhiên (cây trồng, đất đai...) để tạo ra các sản phẩm (nông sản) nhằm thỏa
mãn các nhu cầu của mình. Những tác động đó của con người nếu như phù hợp với các
quy luật khách quan của thiên nhiên sẽ thúc đẩy sự phát triển của thiên nhiên và tạo ra
nhiều sản phẩm có ích cho con người. Ngược lại, nếu những tác động trong nông
nghiệp cũng như các tác động khác của con người trong các hoạt động sản xuất và đời
sống không phù hợp với các quy luật khách quan của tự nhiên thì thường gây ra những
hậu quả rất nghiêm trọng. Trong những trường hợp này, không những cố gắng của con
người không mang lại kết quả gì, mà nhiều khi còn gây ra những tác động nguy hiểm
đối với sức khỏe, nền an ninh và môi trường sống của con người. Và như thế, con
người và môi trường sinh thái rơi vào tình trạng không an toàn. Cho nên, phải tiến hành
sản xuất nông nghiệp bền vững, nếu không muốn hứng chịu những phản ứng của thiên
nhiên. Những phản ứng này có khi rất lớn và rất nguy hiểm. Trong thực tế cuộc sống
những phản ứng của thiên nhiên được thể hiện ở các loại thiên tai như lụt lũ, hạn hán,
sâu bệnh phát sinh thành dịch, ô nhiễm môi trường sống, môi trường sinh thái
v.v...Cũng từ đó cuộc sống và các hoạt động sản xuất, đời sống, KT-XH của con người
rơi vào tình trạng gặp nhiều biến động, thiếu bền vững.
Vì vậy, sản xuất nông nghiệp bền vững không những hướng tới việc tạo ra các
sản phẩm lành, sạch không gây ra những ảnh hưởng có hại cho sức khỏe người tiêu
dùng, mà cần đảm bảo không ngừng tăng năng suất cây trồng, tăng năng suất đất
đai, năng suất lao động và góp phần vào quá trình PTBV của thiên nhiên và xã hội.
Do đó, NNPTBV thể hiện qua mấy đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, NNPTBV phải đảm bảo nhịp độ tăng trưởng kinh tế ổn định, hiệu
quả, nâng cao chất lượng cuộc sống của khu vực nông nghiệp, nông thôn
Không chỉ riêng trong ngành nông nghiệp, bất cứ ngành nào trong nền kinh tế
quốc dân mục tiêu tăng trưởng cũng luôn đặt ở vị trí trung tâm và phải có sự quan
tâm đặc biệt. Đối với ngành nông nghiệp, đảm bảo sự tăng trưởng ổn định có ý
nghĩa hết sức quan trọng, bởi nông nghiệp là ngành cung cấp toàn bộ lương thực,
thực phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của con người. Hoạt động tiêu
dùng hàng ngày diễn ra liên tục với quy mô dân số ngày càng tăng đòi hỏi quá trình sản
xuất cũng phải có nhịp độ tăng tương ứng. Trước bối cảnh tình hình thế giới có nhiều
36. 30
bất ổn, thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu gây hậu quả khó lường càng đặt ra cho
ngành nông nghiệp nhiều áp lực trong quá trình phát triển. Nếu như ngành nông nghiệp
không tăng trưởng hoặc tăng trưởng chậm hơn so với nhu cầu của con người thì sẽ dẫn
đến sự thiếu hụt lương thực, thực phẩm, sẽ đẩy toàn xã hội đến sự bất ổn.
Nhìn lại nền nông nghiệp truyền thống, cho thấy tốc độ tăng trưởng rất thấp,
thậm chí còn làm cho toàn bộ nền kinh tế rơi vào trì trệ, khủng hoảng. Cho nên, việc
đổi mới toàn bộ nền NNPTBV thì mục tiêu tăng trưởng kinh tế là một đặc điểm rất
cơ bản và quan trọng.
Tuy nhiên, không phải tăng trưởng bằng mọi giá nếu như chúng ta phải trả giá
quá đắt. Nói cách khác, tăng trưởng đó phải trên cơ sở hiệu quả, tăng trưởng chỉ thực
sự có ý nghĩa khi đảm bảo PTBV. Hiệu quả của nền NNPTBV thể hiện trên nhiều khía
cạnh khác nhau, nhưng tập trung nhất ở việc các sản phẩm nông nghiệp làm ra sử dụng
ít nhất các yếu tố đầu vào bao gồm cả các nguồn lực con người, kinh tế và tự nhiên. Có
nghĩa là tăng trưởng nông nghiệp là tăng trưởng theo chiều rộng và chiều sâu.
Đặc điểm sản xuất nông nghiệp là phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên,
như thời tiết, khí hậu, đất đai, thổ nhưỡng…Cho nên, sản xuất nông nghiệp thường
rơi vào bấp bênh, thiếu ổn định. Đối với nền nông nghiệp truyền thống, sản xuất
dựa vào kinh nghiệm, kỹ thuật lạc hậu, năng suất thấp, giá trị nông sản không cao.
Ngược lại, đặc điểm của nền nông nghiệp hiện đại, yếu tố ổn định, tăng trưởng, bền
vững luôn được đề cao, xem trọng. Thực ra, NNPTBV đã bao hàm tăng trưởng,
điều đó rất có ý nghĩa đối với phát triển KT-XH và nâng cao chất lượng cuộc sống
của khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Thứ hai, NNPTBV góp phần giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội trong
nông nghiệp, nông thôn
Thực tế cho thấy, hiện nay tình trạng đói nghèo, lạc hậu, thất nghiệp, phân hóa
giàu nghèo…tồn tại chủ yếu ở nông thôn và chiếm phần lớn tỷ lệ đói nghèo là
những người tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp và sinh sống ở nông
thôn. Đặc biệt với một nền nông nghiệp truyền thống lạc hậu rất khó để giải quyết
được vấn đề đói nghèo, đây là cái vòng lẩn quẩn của đói nghèo - lạc hậu - tàn phá
môi trường sống. Hiện thực này yêu cầu với một nền NNPTBV cần đảm bảo: tăng
trưởng, ổn định, hiệu quả. Đây sẽ là cơ sở giải quyết vấn đề đói nghèo, lạc hậu, thất
nghiệp, bất bình đẳng trong nông nghiệp, nông thôn. Bởi lẽ, suy đến cùng, khi