SlideShare a Scribd company logo
1 of 112
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM VĂN PHIẾM
TRANH TôNG TRONG XÐT Xö
THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
(TR£N C¥ Së Sè LIÖU THùC TIÔN §ÞA BµN TØNH §¾K N¤NG)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM VĂN PHIẾM
TRANH TôNG TRONG XÐT Xö
THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
(TR£N C¥ Së Sè LIÖU THùC TIÔN §ÞA BµN TØNH §¾K N¤NG)
Chuyên ngành: Luâ ̣t hình sựvà tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướ ng dẫn khoa ho ̣c: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong Luận văn chưa được công
bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong Luận văn đảm bảo tính chín xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị khoa luật xem xét để
cho tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Văn Phiếm
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH TỤNG
TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ .............................................. 8
1.1. KHÁI QUÁT VỀ MÔ HÌNH TỐ TỤNG TRANH TỤNG ................ 8
1.1.1. Sự ra đời của mô hình tố tụng tranh tụng............................................ 8
1.1.2. Khái niệm mô hình tố tụng tranh tụng .............................................. 10
1.1.3. Những ưu điểm và hạn chế của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng......... 11
1.2. VAI TRÒ CỦA TRANH TỤNG TRONG QUÁ TRÌNH XÉT
XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ...................................................................... 17
1.2.1. Xét xử là biểu hiện tập trung, tiêu biểu nhất quyết định hiệu quả
của tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án ................................ 18
1.2.2. Điều khiển tranh tụng tại phiên tòa giữa các bên thông qua vai
trò của Hội đồng xét xử..................................................................... 22
1.2.3. Ra các phán quyết về tội phạm và người phạm tội dựa trên kết
quả tranh tụng tại tòa......................................................................... 25
1.3. TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI ......................................................................................... 27
1.3.1. Tố tụng tranh tụng tại một số nước theo hệ thống Common law......... 27
1.3.2. Áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự - Điểm cơ bản
trong quá trình cải cách tư pháp của nhiều quốc gia trên thế giới.......... 32
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN
TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
ĐẮK NÔNG ..................................................................................... 38
2.1. QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRANH TỤNG TRONG
XÉT XỬ............................................................................................ 38
2.1.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về tranh tụng trong xét xử
trước 2003.......................................................................................... 38
2.1.2. Qui định của Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về tranh tụng
trong xét xử........................................................................................ 43
2.2. THỰC TIỄN TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ TẠI TỈNH
ĐẮK NÔNG...................................................................................... 50
2.2.1. Một số đặc điểm tình hình kinh tế - Xã hội và tổ chức bộ máy
của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông................................................. 50
2.2.2. Tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông ............................ 53
2.2.3. Những ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, xã hội, tổ chức ảnh
hưởng đến chất lượng tranh tụng trong xét xử.................................. 54
2.2.4. Tình hình xét xử từ năm 2010 – 2014 trên địa bàn Tỉnh Đắk Nông........ 56
2.2.5. Tình hình tham gia tranh tụng của luật sư tại phiên tòa ở Đắc Nông......... 60
2.2.6. Một số phiên toà điển hình của việc xét xử theo hướng tranh
tụng tại Đắk Nông ............................................................................. 62
2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ.................................. 66
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ
VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................................................ 70
3.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRANH TỤNG
TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ .............................................. 70
3.1.1. Bất cập qui định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử..................................... 70
3.1.2. Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự hiệu quả
chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của nguyên tắc bảo đảm
tranh tụng tại phiên tòa...................................................................... 78
3.1.3. Yêu cầu triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng về chiến
lược cải cách tư pháp và Hiến pháp 2013 ......................................... 82
3.2. HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2003 VỀ BẢO ĐẢM TRANH
TỤNG TRONG XÉT XỬ ................................................................. 83
3.2.1. “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử” phải được qui định là
nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự .............................................. 83
3.2.2. Bổ sung, hoàn thiện các qui định hỗ trợ cho việc “ bảo đảm
tranh tụng trong xét xử” .................................................................... 84
3.2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa................. 90
KẾT LUẬN.................................................................................................... 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 101
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự
CQTHTTHS: Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự
HĐXX: Hội đồng xét xử
HSPT: Hình sự phúc thẩm
HSST: Hình sự sơ thẩm
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân Tối cao
THTT: Tiến hành tố tụng
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Thống kê số liệu Cán bộ Công chức TAND tỉnh Đắk
Nông tính đến ngày 10/07/2014 54
Bảng 2.2: Số vụ án được xét xử 56
Bảng 2.3: Số bị cáo được xét xử 57
Bảng 2.4: Các đối tượng là người chưa thành niên và bị truy tố đến
khung hình phạt đến tử hình 60
Bảng 2.5: Số vụ, việc do cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu 61
Bảng 2.6: Số lượng tham gia của luật sư tại phiên tòa 61
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây tình hình vi phạm pháp luật ở nước ta nói
chung cũng như tình hình vi phạm ở trên địa bàn tỉnh Đắk Nông xảy ra ngày
càng nghiêm trọng, có chiều hướng gia tăng nhanh cụ thể trong 10 đại án mà
cả nước quan tâm trong thời gian qua thì tỉnh Đắk Nông có một vụ và đã đưa
ra xét xử từ ngày 18/3/2014 đến ngày 20/3/2014. Việc gia tăng tội phạm đã
làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình công nghiệp hóa; hiện đại hóa đất
nước. Các cơ quan Tư pháp như Công an, Viện kiểm sát, Tòa án đã nỗ lực
phấn đấu giải quyết tốt công việc của mình mà Đảng, Nhà nước và nhân dân
giao phó để góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh, chính trị, trật tự
an toàn xã hội. Tuy nhiên, trong thời gian qua vẫn còn những trường hợp làm
oan người vô tội, các cơ quan Tư pháp phải bồi thường và công khai xin lỗi.
Hậu quả để lại cho người bị oan rất nặng nề sau khi được minh oan họ đã
trắng tay, gia đình ly tán, người thân đầy mặc cảm với xã hội, con cái không
còn giám đến trường học vì bị bạn bè khinh rẻ, kinh tế của gia đình sụt giảm
nghiêm trọng có những trường hợp đã khánh kiệt về tài sản; hay họ từ những
người thành đạt và được trọng vọng trong xã hội nhưng sau thời gian bị tạm
giam và kết án oan thì bị người thân và xã hội xa lánh. Trong khi đó người
thực hiện hành vi tội phạm đích thực thì vẫn cứ nhởn nhơ ở ngoài xã hội và
chưa bị pháp luật trừng trị... Điều đó tạo dư luận không tốt trong xã hội khiến
nhân dân giảm lòng tin vào sự công bằng trong xã hội mà Đảng, Nhà nước và
toàn thể nhân dân ta đang hướng tới.
Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, việc xét xử và ra các
bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật có ý nghĩa quyết định và góp
phần phát huy được vai trò tích cực là một bộ phận cấu thành không thể thiếu
2
trong hệ thống các biện pháp tác động của Nhà nước và xã hội đến tội phạm.
Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển toàn diện của đất nước trên các mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và qua thực tiễn áp dụng, nhiều quy định về
tranh tụng trong xét xử theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam nói riêng của
BLTTHS năm 2003 vẫn còn một số bất cập và hạn chế như: chưa đưa ra định
nghĩa pháp lý của khái niệm tranh tụng tại phiên tòa, những quy định cụ thể
của tranh tụng tại phiên tòa... đồng thời cần bổ sung quy định của BLTTHS
sự với nội dung tăng cường việc tranh tụng tại phiên tòa v.v....
Một số tồn tại và hạn chế nêu trên đã gây ra những vướng mắc, lúng
túng và có không ít trường hợp áp dụng còn chưa thống nhất các quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự trong hoạt động xét xử của Tòa án các cấp nhất
là về tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự. Mặt khác, trong thực tiễn khi xét
xử các vụ án Hình sự do chưa đánh giá hết vai trò, chức năng, công dụng
của việc tranh tụng tại phiên tòa, nên các Tòa án; những người tham gia tố
tụng còn ít quan tâm.
Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp
theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-
NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020;
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra yêu cầu "Nâng cao chất lượng hoạt động
của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét
xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp" và Nghị quyết số
37/2012/HQ13 ngày 23/11/2012 của Quốc Hội cũng yêu cầu Tòa án nhân dân
tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa;
đảm bảo việc giải quyết, xét xử và ra bản án, quyết định đúng pháp luật.
3
Hiện nay, khoa học luật tố tụng hình sự trong và ngoài nước đã có
nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tranh tụng tại phiên tòa, nhưng chủ
yếu chỉ đề cập một cách tổng thể và có hệ thống những khía cạnh lý luận
chung nhất về tranh tụng mà chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu
có hệ thống, toàn diện và sâu sắc riêng về về tranh tụng tại trong xét xử dưới
góc độ lý luận cũng như thực tiễn áp dụng.
Trước yêu cầu của thực tế, đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng, lấy lại niềm
tin của người dân vào tòa án và nền công lý xã hội chủ nghĩa. Việc tiếp tục
nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
tranh tụng trong xét xử theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp
dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra những giải pháp hoàn thiện,
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa
lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho sự cần
thiết để chúng tôi lựa chọn đề tài "Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng
Hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông)"
làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu và sách chuyên khảo đề cập đến
vấn đề tranh tụng tại phiên tòa trong tố tụng Hình sự như:
Ở Việt Nam, khoa học luật tố tụng hình sự là một trong những ngành
khoa học pháp lý phát triển nhất so với các ngành khoa học pháp lý khác, do
đó, xét riêng về tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự, cho thấy có các công
trình nghiên cứu tiêu biểu như sau:
TSKH Lê Cảm và TS Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên "Cải cách tư
pháp ở Việt Nam trong gia đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền", Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà nội, 2004. Tống Anh Hào "Về tranh tụng tại phiên
tòa Hình sự" trong tạp chí Tòa án số 5/2003; Hồ Nguyễn Quân "Một số giải
4
pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa" trong tạp chí Tòa
án số 1/2014; PGS-TS Trần Văn Độ "Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa"
Trong tạp chí khoa học pháp lý số 4/2004; Hồ Nguyễn Quân "Một số giải
pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa Hình sự" trong Tạp chí
Tòa án số 01/2004. Nguyễn Thị Tuyết "Kiểm sát viên tham gia tranh tụng
tại phiên tòa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp" trong tạp chí Tòa án
số 04/2010; v.v...
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã
có một số công trình nghiên cứu cơ bản về các giải pháp nâng cao chất lượng
về tranh tụng tại phiên tòa hình sự còn đối với việc nghiên cứu một cách toàn
diện về tranh tụng trong xét xử theo luật Tố tụng Hình sự Việt Nam thì chưa
có công trình nào đề cập đến.
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng
định việc nghiên cứu đề tài "Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng
Hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông)" là
đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về
tranh tụng trong xét xử dưới khía cạnh lập pháp tố tụng hình sự và áp dụng
chúng trong thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện
các quy định về tranh tụng trong xét xử theo luật tố tụng hình sự Việt Nam,
cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc tranh tụng trong
xét xử theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam trong thực tiễn áp dụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Từ cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả trong và
5
ngoài nước về tranh tụng trong xét xử, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một
số vấn đề chung về tranh tụng trong xét xử theo Luật Tố tụng hình sự Việt
Nam như: Khái niệm tranh tụng, đặc điểm của mô hình tranh tụng; ưu điểm
và hạn chế của mô hình tranh tụng; Khái niệm tranh tụng trong xét xử vụ án
Hình sự, nội dung, đặc điểm của tranh tụng trong xét xử Hình sự.
- Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Luật Tố tụng hình sự
Việt Nam về tranh tụng trong xét xử ở Việt Nam từ sau Cách mạng tháng tám
năm 1945 cho đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu những quy định cụ thể về trang tụng trong xét xử của Bộ
luật Tố tụng hình sự hiện hành của Việt Nam, từ đó rút ra những tồn tại, hạn
chế của các quy định về tranh tụng trong xét xử trong luật Tố tụng Hình sự
Việt Nam cần khắc phục;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về tranh tụng
trong xét xử vụ án hình sự theo luật Tố tụng Hình sự Việt Nam trên địa bàn
tỉnh Đắk Nông, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh
việc áp dụng và những nguyên nhân của nó;
- Từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định
về Tranh tụng trong xét xử theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành và
nâng cao hiệu quả việc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự trong thực tiễn.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh tranh
tụng tại phiên tòa theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam, kết hợp với việc
nghiên cứu đánh giá tình hình tranh tụng tại phiên tòa trong thực tiễn xét xử
các vụ án Hình sự của các Tòa án nhân cấp huyện và Tòa án nhân dân cấp
tỉnh thuộc tỉnh Đắk Nông và những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả
tranh tụng tại phiên tòa Hình sự trong thực tiễn.
6
Luận văn cũng có tham khảo những bài học kinh nghiệm lập pháp một
số nước trong khi nghiên cứu tranh tụng trong xét xử.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn việc tranh tụng tại các
phiên tòa Hình sự trong 05 năm (2010-2014) thuộc Tòa án nhân dân hai cấp
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về vấn đề cải cách tư pháp.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh... để tổng hợp các tri thức khoa
học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ
một luận văn thạc sĩ luật học về tranh tụng trong xét xử, mà trong đó giải
quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới tranh
tụng trong xét xử theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ
bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về Tranh tụng
trong xét xử để xây dựng nên khái niệm tranh tụng, tranh tụng trong xét xử vụ
án Hình sự đảm bảo tính chính xác, khoa học, đồng thời chỉ ra các đặc điểm
cơ bản của tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự trong mối tương quan với
một số thủ tục khác;
- Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành
7
và phát triển của tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự trong pháp luật hình sự
Việt Nam từ năm 1945 đến nay;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh tình hình thực hiện việc
tranh tụng tại các phiên tòa hình sự của Tòa án các cấp thuộc tỉnh Đắk Nông;
những tồn tại, hạn chế của thực tiễn pháp luật và thực tiễn thực hiện việc tranh
tụng tại phiên tòa cũng như những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế đó;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất
các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng và nâng cao hiệu quả
của việc thực hiện tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan Viện kiểm
sát, Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn
cứ và đúng pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn tranh tụng trong xét xử.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả
tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH TỤNG
TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ MÔ HÌNH TỐ TỤNG TRANH TỤNG
1.1.1. Sự ra đời của mô hình tố tụng tranh tụng
Mô hình tố tụng hình sự của một Quốc gia được thể hiện trong Luật Tố
tụng hình sự của Quốc gia đó phản ánh cách thức giải quyết vụ án hình sự, từ
việc xác định, chứng minh tội phạm đến phán quyết về tội phạm và trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Mô hình tố tụng hình sự phụ thuộc vào
cơ sở kinh tế- chính trị- xã hội và nền pháp luật cũng như năng lực của các cơ
quan tiến hành tố tụng mỗi Quốc gia. Đối với những nước theo hệ thống pháp
luật Common Law thì việc tìm đến sự thật khách quan của vụ án được coi là
mục tiêu tối quan trọng và các Cơ quan tiến hành tố tụng có địa vị tích cực,
chủ động trong quá trình tìm kiếm sự thật đó. Tuy cũng hướng đến mục tiêu
tìm đến sự thật khách quan nhưng các nước theo dòng pháp luật Civil Law lại
đặc biệt coi trọng đến quyền con người và địa vị bình đẳng giữa các bên trong
quá trình tố tụng.
Khi nghiên cứu về luật so sánh cho mô hình tố tụng tranh tụng được
tìm thấy ở các nước thuộc hệ thống Common law, trong phần trình bày của
mình tại Nhà pháp luật Việt – Pháp, bà Elisabeth Pelsez cho rằng mô hình tố
tụng đầu tiên trong lịch sử phát triển của xã hội là tố tụng tranh tụng. Bà nhấn
mạnh rằng các nhà nghiên cứu lịch sử pháp luật đều nhận định tố tụng tranh
tụng đã được áp dụng tại Hy Lạp cổ đại và được đưa tới La Mã với tên gọi
“thủ tục hỏi đáp liên tục”. Anh quốc luôn được xem là quê hương của hệ
thống Common law cho nên khi nghiên cứu đến tố tụng tranh tụng người ta
không thể không xem xét pháp luật của Anh quốc. Phillip L. Reichel cho rằng
9
hệ thống tranh tụng thường được coi là cái thay thế cho sự trả thù cá nhân.
Quả thực, cho đến thế kỷ XIII ở Anh quốc những người bị xâm hại về tài sản,
về thân thể chưa nhận được sự bảo hộ của pháp luật, họ chưa nhận được sự
che chở của toà án và phải tự trả thù. Sau này để chấm dứt một nền công lý
thô bạo, giải quyết các mâu thuẫn theo con đường “nợ máu phải trả bằng
máu” thì vào khoảng năm 1252 đã xuất hiện một cái gọi là writ of trespass (tố
quyền về sự vi phạm) ở Anh quốc và cũng từ đó người buộc tội đã chuyển từ
cá nhân sang nhà nước và giữa họ xử sự với nhau theo kiểu tranh cãi và người
ta gọi quy trình xét xử đó là tranh tụng hay đối tụng [10, tr.3]. Theo PGS. TS
Phạm Hồng Hải thì lịch sử tố tụng hình sự trên thế giới đã từng chứng kiến
bốn loại hình tố tụng khác nhau. Ban đầu là tố tụng hình sự tố cáo ở nhà nước
nô lệ, sau đó được thay thế bằng kiểu tố tụng hình sự xét hỏi ở nhà nước
phong kiến. Vào thế kỷ 17,18 ở Châu Âu các nhà tư tưởng nổi tiếng đã tác
động rất lớn tới quá trình dân chủ hoá nền tư pháp nói chung và tố tụng hình
sự nói riêng, do đó kiểu tố tụng xét hỏi đã được chuyển sang kiểu tố tụng xét
hỏi- tranh tụng và cuối cùng là tố tụng hình sự tranh tụng. Cũng theo PGS.TS
Phạm Hồng Hải, mầm mống của tố tụng hình sự tranh tụng đã xuất hiện ở
một số quốc gia trong khoảng từ thế kỷ X đến XIII khi ở các nơi đó tồn tại
một phong tục gọi là “quyết đấu”. Đây là phong tục rất thịnh hành thời cổ xưa
khi người buộc tội và người bị buộc tội phải “thi đấu” với nhau (kể cả bằng sức
mạnh) và chân lý được coi là thuộc về người chiến thắng. Ý tưởng có thể coi là
“hoang dã” này đã ảnh hưởng tới cách thức tổ chức và thủ tục tố tụng hình sự
và mô hình tố tụng hình sự tranh tụng ngày càng được hoàn thiện [18]. Có thể
nói rằng, trong lịch sử phát triển tố tụng hình sự, ở hầu hết các nước đều bắt
đầu từ mô hình đối tụng. Trong hệ thống đối tụng thời sơ khai, xét xử hình sự
do nguyên đơn khởi xướng và thẩm phán không tự động điều tra hay xét xử
một vụ án nào vì tất cả các vụ kiện đều được coi là tranh chấp giữa những
10
người tranh tụng. Trong quá trình xét xử, cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ
ngang bằng nhau, hai bên tranh tụng trước toà và thẩm phán sẽ xem xét và
quyết định xem ai thắng kiện. Và dần dần khi xã hội phát triển đến một chừng
mực nào đó và nhà nước buộc phải phát huy vai trò của mình thì kể cả khi
không cần có sự khởi xướng của nguyên đơn, nhà nước vẫn có thể truy tố một
kẻ nào đó ra trước toà và giữa họ sẽ diễn ra một quá trình tranh luận để đi tìm
sự thật khách quan của vụ án, đó chính là hình ảnh của hệ tố tụng tranh tụng
ngày nay. Như vậy, để có được mô hình tố tụng hình sự tranh tụng như hiện
nay, lịch sử của tố tụng hình sự đã phải trải qua một thời gian khá dài với rất
nhiều thử thách, thăng trầm và người ta vẫn đang bàn luận về ưu, nhược điểm
của hệ tố tụng này nhưng đa số điều thừa nhận tính ưu việt của mô hình tố
tụng tranh tụng so với các mô hình tố tụng hình sự khác.
1.1.2. Khái niệm mô hình tố tụng tranh tụng
Trên thế giới, hiện đang tồn tại nhiều loại mô hình tố tụng khác nhau,
trong đó có hai mô hình tố tụng chính là: Mô hình tố tụng thẩm vấn (xét hỏi)
và mô hình tố tụng tranh tụng. Mô hình tố tụng hình sự là khái niệm khoa học
với những tiêu chí nhất định để xác định Luật tố tụng hình sự một quốc gia
thuộc mô hình tố tụng hình sự nào. Những tiêu chí đó bao gồm: Thứ nhất, về
mục tiêu và phương pháp tố tụng sử dụng trong quá trình giải quyết vụ án.
Các mô hình tố tụng đều có chung một mục đích là tìm ra sự thật khách quan
của vụ án. Tuy nhiên, mô hình tố tụng thẩm vấn chủ yếu áp dụng phương
pháp xét hỏi một chiều để tìm ra chân lý. Còn mô hình tố tụng tranh tụng lại
áp dụng phương pháp đối đáp hai chiều, một cách bình đẳng để tìm ra bên có
lý hơn; Thứ hai, về vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tố tụng.
Đối với mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, địa vị của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo hoàn toàn bình đẳng đối với bên buộc tội. Còn ở mô hình tố tụng
thẩm vấn, các cơ quan tiến hành tố tụng giữ vị trí chủ động, tích cực, quyết
11
định trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; Thứ ba, về vấn đề chứng cứ và
chứng minh tội phạm: Trong khi mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn quy định
chỉ có Cơ quan tiến hành tố tụng mới có quyền thu thập chứng cứ và lập hồ sơ
vụ án thì ở mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, bên gỡ tội cũng có quyền thu
thập chứng cứ và lập một hồ sơ hình sự riêng của mình. Tại phiên tòa, Luật sư
trong mô hình tố tụng tranh tụng có quyền bình đẳng với bên Công tố, được
triệu tập nhân chứng, đối đáp, xét hỏi những người có liên quan. Điều này
không có ở mô hình tố tụng thẩm vấn.
Trên cơ sở các tiêu chí này, mô hình tố tụng tranh tụng có những đặc
điểm sau: a.Trong tố tụng tranh tụng quá trình giải quyết vụ án hình sự được
coi là quá trình giải quyết tranh chấp; b. Hình thành các bên (bên buộc tội,
bên gỡ tội) bình đẳng trong việc thu thập chứng cứ, chứng minh trong quá
trình giải quyết vụ án, có quyền nghĩa vụ tố tụng ngang nhau; c. Các chức
năng cơ bản của TTHS được phân định rõ ràng tương ứng với các chủ thể
buộc tội, chủ thể gỡ tội và chủ thể xét xử; d. Không mong đợi sự hợp tác của
bị can, bị cáo trong quá trình chứng minh, họ được quyền giữ im lặng; e. Tố
tụng tranh tụng mang tính chất công khai và mở ra cơ hội cho các bên buộc
tội và bên gỡ tội.
Từ những đặc điểm nêu trên có thể đưa ra khái niệm về mô hình tố tụng
tranh tụng như sau: Tố tụng tranh tụng là mô hình tố tụng hình sự mà ở đó
xuất hiện bên buộc tội và bên gỡ tội có địa vị pháp lý ngang bằng nhau trong
quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án và toà án sẽ ra phán quyết
dựa trên kết quả tranh tụng giữa các bên tại phiên toà.
1.1.3. Những ưu điểm và hạn chế của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng
1.1.3.1. Ưu điểm
Ưu điểm của mô hình tố tụng tranh tụng thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Mô hình tố tụng tranh tụng có một quy trình tố tụng công bằng, nhất
12
là trong giai đoạn xét xử với vai trò bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào
chữa. Cả hai chủ thể này đều có quyền và nghĩa vụ như nhau trong suốt quá
trình tố tụng. Ở giai đoạn tiền xét xử, họ có quyền như nhau trong việc điều
tra, thu thập chứng cứ. Ở giai đoạn xét xử, chứng cứ của họ đều được đưa ra
để thẩm tra trước Tòa. Từ góc độ tố tụng, họ đều có quyền tác động như nhau
tới phiên xét xử, có quyền lựa chọn nhân chứng để thẩm tra... Tố tụng tranh
tụng được biết đến khi tính ưu việt của nó là không chỉ đề cao quyền con
người mà còn phát huy tối đa tinh thần dân chủ. Tại các nước theo hệ tranh
tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng không bao giờ đứng trên và có ưu thế trội
hơn bên gỡ tội mà giữa họ có một vị thế ngang bằng nhau, nhà nước và công
dân đều có quyền và nghĩa vụ bình đẳng. Mô hình tố tụng tranh tụng đề cao
dân chủ, công dân mà cụ thể là bị cáo cũng có quyền điều tra, thu thập chứng
cứ để gỡ tội cho mình giống như là hoạt động của một công tố viên thu thập
chứng cứ để buộc tội họ. Tại phiên toà xét xử, công tố viên và luật sư bào
chữa tranh cãi với nhau một cách dân chủ cả về nội dung và hình thức. Đây
chính là ưu điểm nổi bật của hệ tranh tụng so với hệ thẩm vấn – nơi mà phiên
toà thường diễn ra một chiều theo hướng dành toàn bộ ưu thế cho viện công
tố khi kết tội bị cáo.
Với đặc điểm là toà án chỉ đóng vai trò trung gian như một trọng tài,
thẩm phán ở các nước theo hệ tranh tụng không được tiếp cận với hồ sơ vụ
án và không tham gia thẩm vấn. Do các bên được tự do trong việc thu thập
và xuất trình chứng cứ, tự do trong việc thẩm vấn và tranh tụng tại phiên toà
nên tố tụng tranh tụng đảm bảo được tính vô tư khách quan khi đưa ra phán
quyết [39, tr.26]. Người ta cũng cho rằng phán quyết mà các vị thẩm phán
của mô hình tố tụng tranh tụng đưa ra là một phán quyết rất công bằng. Xin
nói cho rõ thêm đây được xem là phán quyết công bằng nhưng không hẳn là
phán quyết đem lại công lý, bởi công bằng không có nghĩa là công lý. Công
13
bằng là ở chỗ phán quyết của toà án dựa trên kết quả cuộc tranh luận giữa bên
buộc tội và bên gỡ tội – mà cả hai bên này đều được pháp luật trao cho những
cơ hội ngang nhau để bảo vệ luận điểm, lý lẽ của mình nên một phán quyết có
lợi hơn cho bên giành chiến thắng chính là một phần thưởng xứng đáng giành
cho người nỗ lực, tích cực, chủ động và tài giỏi hơn.
Sự công bằng còn đem lại những tác động tích cực tới chất lượng của
quá trình giải quyết vụ án. Do Luật sư có thể tham gia đầy đủ vào quá trình tố
tụng nên Tòa án có thêm được một nguồn thông tin để khám phá sự thật khách
quan của vụ án. Thay vì chỉ xem xét các chứng cứ có trong hồ sơ hình sự của
bên buộc tội (đối với mô hình tố tụng thẩm vấn) thì Tòa án trong mô hình tố
tụng tranh tụng được tiếp cận cả chứng cứ phong phú của cả bên buộc tội và
bên gỡ tội. Sự va đập của hai luồng chứng cứ này có thể tìm ra sự thật khách
quan một cách chính xác hơn, chất lượng tố tụng vì thế cũng nâng cao hơn.
- Tôn trọng và bảo đảm quyền con người hơn trong quá trình tố tụng so
với các mô hình tố tụng hình sự khác
Tố tụng hình sự là hoạt động khá nhạy cảm và cũng rất dễ động chạm
đến quyền con người, nhưng đã từ rất lâu nay, trong lịch sử phát triển cuả
mình, tố tụng tranh tụng chưa bao giờ bị coi là xem nhẹ quyền con người. Với
nguyên tắc suy đoán vô tội “thà bỏ sót còn hơn bắt nhầm” các cơ quan tiến
hành tố tụng luôn đặt quyền hiến định, quyền con người lên trên hết. Đơn cử
như ở Anh khi muốn hỏi cung bị can thì sự có mặt của luật sư được coi là bắt
buộc và ở tất cả các nước theo hệ tranh tụng, khi một nghi phạm bị bắt giữ,
anh ta sẽ nhận được thông báo về quyền và nghĩa vụ của mình và rằng anh ta
có quyền im lặng bất hợp tác với cảnh sát và có quyền đòi hỏi sự có mặt của
luật sư. Hoặc tại Mỹ, luật TTHS qui định, sau khi tiến hành bắt một ai đó,
cảnh sát phải lập chứng cứ hay có một tuyên bố có tính chất thề thốt. Bị can
nhất thiết phải được thông báo chính xác về các trách nhiệm và tất cả các
14
quyền hiến định, cũng như các bảo đảm, trong đó quan trọng nhất là một số
quyền mà quyết định Miranda của toà án Warren đã tuyên năm 1966. ở một
vài tiểu bang của Mỹ còn đòi hỏi phải thông báo cho bị can về các quyền
được ghi trong đạo luật về nhân quyền như: quyền được xét xử nhanh chóng
và quyền được đối chất với người làm chứng chống lại bị can [10, tr.5-6]. Tại
phiên toà, bị cáo có quyền tự bào chữa cho mình hoặc thông qua luật sư bào
chữa để thực hiện việc tranh cãi với công tố viên và không ai bị coi là có tội
khi chưa có một phán quyết của toà án.
Với sự công bằng của quy trình tố tụng, mô hình tố tụng tranh tụng thể
hiện ở mức độ cao hơn sự tôn trọng các quyền con người, quyền cơ bản của
công dân. Vai trò của Luật sư giúp giảm đi sự lạm quyền của các cơ quan tiến
hành tố tụng. Điều này hết sức quan trọng bởi vì quá trình tố tụng hình sự là
một quá trình hết sức nhạy cảm mà ở đó quyền cơ bản của công dân rất dễ bị
vi phạm. Cũng chính vì vậy, các học giả có nhận định chung là trong mô hình
tố tụng tranh tụng, quyền được suy đoán vụ tội của người dân được tôn trọng
hơn so với mụ hình tố tụng hình sự khác.
- Mô hình tố tụng tranh tụng hạn chế tối đa việc làm oan người vô tội
Xuất phát từ tính chất dân chủ, khách quan, công bằng mô hình tố tụng
tranh tụng luôn mở ra cơ hội cho các bên và kết quả tranh tụng tại toà án là
căn cứ để tòa án ra phán quyết nên nó hạn chế đến mức tối đa các trường hợp
kết án oan người không phạm tội. Hệ quả này bắt nguồn từ việc tố tụng tranh
tụng đề cao quyền tự bào chữa của bị can, bị cáo và không có sự phân biệt đối
xử giữa công tố viên và luật sư. Mặt khác, giai đoạn điều tra chỉ thực sự bắt
đầu khi phiên toà tuyên bố khai mạc nên các bên còn rất nhiều cơ hội để bảo
vệ quan điểm của mình đặc biệt là cơ hội sẽ rất rộng mở đối với bên bị buộc
tội. Hồ sơ của cơ quan điều tra, bản luận tội của viện công tố chỉ được xem là
một trong những bằng chứng sẽ được kiểm định tại phiên toà. Nếu bản luận
15
tội tại tòa, viện công tố không cứng cỏi, lời lẽ không thuyết phục, bằng chứng
không phù hợp với thực tế hay họ làm việc kém nỗ lực, tích cực hơn luật sư
bào chữa của bị cáo thì cáo trạng của họ rất dễ bị đổ. Không giống như cáo
trạng của viện công tố ở các nước theo mô hình tố tụng thẩm vấn, cáo trạng
của viện công tố ở các nước theo mô hình tranh tụng rất dễ phạm phải sai lầm
do mục đích mà họ đặt ra là phải tìm mọi chứng cứ buộc tội một bị cáo trước
toà nên không tránh khỏi có một cái nhìn thiếu thiện chí đối với bị cáo. Chính
vì lẽ đó mà luật sư bào chữa phải tìm đủ mọi chứng cứ để minh oan cho thân
chủ của mình và chắc chắn là trong trường hợp này các luật sư sẽ hạn chế đến
mức tối đa các trường hợp làm oan người vô tội.
Nói như vậy không có nghĩa là ở mô hình tố tụng tranh tụng không có
các vụ án oan mà chỉ ít xảy ra hơn do phiên tòa diễn ra dân chủ, khách quan,
nếu có oan uổng thì hầu hết đều là do những sai lầm không thể cứu vãn hoặc
do bị cáo không có tiền để thuê luật sư giỏi. Ở một số nước như Anh, Mỹ...
các luật sư thường rất có trách nhiệm với công việc của mình, có những vụ án
kéo dài hàng chục năm trời mới được minh oan; tuy thời gian có trôi qua
nhưng các luật sư vẫn quyết tâm làm rõ chân tướng của sự việc, để mặc dù
không thể cứu vãn được phán quyết của một phiên toà thì cũng có thể trả lại
sự trong sạch cho thân chủ và khiến cho các cơ quan tư pháp phải nghiêm
khắc nhìn nhận lại những sai lầm của mình trong quá khứ.
1.1.3.1. Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm thì mô hình tố tụng tranh tụng có những hạn
chế sau:
- Dễ bỏ lọt tội phạm
Như trên đã trình bày, một trong những ưu điểm của mô hình tố tụng
tranh tụng là hạn chế đến mức tối đa việc kết án oan người vô tội nhưng mặt
trái của ưu điểm này lại là một nhược điểm rất lớn của nó là việc dễ bỏ lọt tội
16
phạm. Cáo trạng do viện công tố thiết lập để truy tố một kẻ nào đó không bao
giờ được bảo vệ một cách dễ dàng tại mỗi phiên toà cho nên nếu như cáo
trạng đó truy tố kẻ phạm tội là chính xác thì cũng có nhiều khi các cơ quan tư
pháp phải bó tay nhìn kẻ phạm tội nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.
- Mô hình tố tụng tốn kém
Người ta thường nói “một nền tư pháp mạnh là một nền tư pháp tốn
kém”, với đòi hỏi nội tại của mô hình tố tụng tranh tụng nó tốn kém không chỉ
về sức lực, tiền bạc mà còn cả về thời gian. Do khi mở phiên tòa mới bắt đầu
là giai đoạn điều tra nên kể từ khi phiên toà khai mạc cho đến khi kết thúc,
các bên đều sẽ phải bỏ ra không ít thời gian và công sức để tham dự phiên tòa.
Sự tốn kém về thời gian sẽ kéo theo rất nhiều sự tốn kém khác của các bên
trong tiến trình xét xử vụ án. Hệ tố tụng tranh tụng không chỉ rút của ngân
sách nhà nước một khoản chi phí không nhỏ mà còn là một hệ tố tụng –
không phải là chỗ dựa cho người nghèo. Bởi ở hệ tố tụng này, mỗi một vụ án
hình sự hầu như đều có luật sư tham gia và chi phí thuê luật sư ở các nước
này rất đắt đỏ vì thế sẽ là một bất lợi rất lớn cho người nghèo không có tiền
thuê luật sư giỏi.
- Vai trò của thẩm phán và hội thẩm ít được phát huy
Do người có nhiệm vụ xét xử tham gia một cách thụ động vào phiên tòa
và lại là người không chuyên nghiệp, không có kiến thức pháp luật (Bồi thẩm
đoàn) nên vô hình chung gây ra phản tác dụng đối với chính những ưu điểm
của mô hình tố tụng này. Công tố viên và Luật sư là người chi phối hoàn toàn
quá trình tố tụng tranh tụng. Thực tế là họ không có nghĩa vụ tìm ra sự thật
khách quan mà chủ yếu thực hiện chức năng, trách nhiệm tố tụng của mình.
Trách nhiệm của bên công tố là buộc tội, còn trách nhiệm của bên bào chữa là
gỡ tội. Cả hai bên sẽ chỉ dùng những chứng cứ có lợi cho việc thực hiện chức
năng tố tụng của mình mà thôi, và điều này làm cho chứng cứ hay quan điểm
17
riêng của một bên khi đưa ra tại phiên tòa không bao giờ phản ánh hoàn toàn
sự thật khách quan của vụ án.
Trong khi đó, Bồi thẩm đoàn là những người dân, ít hiểu biết về pháp
luật, nhưng họ lại có quyền phán quyết về sự thật khách quan của vụ án mà
chỉ thông qua việc nghe bên buộc tội và bên bào chữa xét hỏi nhân chứng và
tranh luận theo mục đích của mình. Lẽ đương nhiên, Bồi thẩm đoàn sẽ
nghiêng về bên có lý, thuyết phục hơn chứ không hẳn là bên tìm ra sự thật
khách quan. Điều này hết sức rủi ro cho mục đích tìm sự thật khách quan của
mô hình tố tụng tranh tụng. Bởi vì Luật sư hay Công tố viên có thể dễ dàng
thông đồng với nhân chứng hay thậm chí là cả giám định viên để làm sai lệch
sự thật theo cách có lợi cho mình và bẻ cong chân lý. Thực tiễn xét xử ở cả
Anh và Mỹ đó ghi nhận những trường hợp như vậy.
- Mô hình tố tụng tranh tụng chưa quan tâm đúng mức đến lợi ích công
Việc quá đề cao các lợi ích các nhân làm cho mô hình tố tụng tranh tụng
không phản ánh hết được tầm quan trọng của việc bảo vệ lợi ích công cộng
trong các vụ án hình sự. Chính điều này dẫn đến thực tiễn giải quyết vụ án hình
sự ở một số nước áp dụng mô hình tố tụng tranh tụng đó có thời kỳ báo động
về tình trạng lạm dụng thái quá việc áp dụng hình thức mặc cả nhận tội.
Thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra ít được pháp luật quy định, thời
hạn không được xác định, không có các thiết chế giám sát tuân thủ pháp luật
từ Viện kiểm sát/ Viện công tố..., do vậy, cũng tiềm ẩn những khả năng vi
phạm quyền con người của bị can từ phía cảnh sát.
1.2. VAI TRÒ CỦA TRANH TỤNG TRONG QUÁ TRÌNH XÉT XỬ
VỤ ÁN HÌNH SỰ
Giải quyết vụ án công khai, dân chủ, không để lọt tội phạm, không làm
oan người vô tội, đảm bảo công lý, công bằng là trách nhiệm không chỉ thuộc
về các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mà còn là quyền của
18
người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác, đồng thời cũng là đòi
hỏi của xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình TTHS giải quyết vụ án thì tòa án
chiếm vị trí trung tâm. Sự ra đời của tòa án gắn liền với hoạt động xét xử và
xét xử trở thành đặc điểm quan trọng nhất khi nói đến tòa án. Ngay từ khi nhà
nước xuất hiện đã có xét xử và có tòa án. Theo GS.TS Nguyễn Đăng Dung thì
Tư pháp tức là pháp đình, là tòa án, là y theo pháp luật mà xét định các việc
trong phạm vi pháp luật do vậy, “hệ thống cơ quan tư pháp có chức năng xét
xử các hành vi vi phạm các qui định của pháp luật nhà nước” [11, tr.23].
Trong lĩnh vực hình sự, quá trình tố tụng được phân chia ra nhiều giai đoạn:
Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án và tham gia vào quá trình tố
tụng đó có nhiều chủ thể, nhưng tập trung và điển hình nhất là ở giai đoạn xét
xử. Vì vậy, xét xử có vai trò quan trọng đối với tranh tụng. Vai trò đó thể hiện
trên các khía cạnh sau:
1.2.1. Xét xử là biểu hiện tập trung, tiêu biểu nhất quyết định hiệu
quả của tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án
Về bản chất, quá trình tranh tụng chính là quá trình xác định sự thật
khách quan về vụ án. Nó cũng là phương tiện để đạt được mục đích và nhiệm
vụ đặt ra của tố tụng hình sự là nhằm giải quyết vụ án hình sự khách quan,
toàn diện, nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật. Tranh tụng còn là hình
thức tố tụng bảo đảm cho các chủ thể (các bên và Toà án) có thể thực hiện có
hiệu quả chức năng của mình trong tố tụng hình sự, đặc biệt là ở giai đoạn xét
xử vụ án. Không những tranh tụng thể hiện bản chất dân chủ và nhân đạo của
tố tụng hình sự mà còn là cơ sở để xác định địa vị tố tụng, vị trí, vai trò và
chức năng của các chủ thể tiến hành tố tụng cũng như các chủ thể tham gia tố
tụng. Vì thế, tranh tụng không chỉ là phương pháp nhằm thực hiện mục đích
xác định sự thật khách quan trong vụ án hình sự mà không còn là một nguyên
tắc của tố tụng hình sự. Việc khẳng định tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản
19
của TTHS có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ các quyền con người trong lĩnh
vực tố tụng hình sự. Chính vì vậy, nguyên tắc tranh tụng đã được thừa nhận
trên phạm vi toàn cầu và được quy định trong pháp luật của hầu hết các quốc
gia. Tại Điều 10 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc
ngày 10.12.1948 ghi nhận: "Mọi người đều có quyền hoàn toàn ngang nhau
được phát biểu bình đẳng và công khai trước một Toà án độc lập và không
thiên vị, nơi quyết định các quyền và nghĩa vụ của mình hoặc về việc buộc tội
mình có cơ sở trước Toà".
Tuy nhiên, những mức độ khác nhau, nguyên tắc tranh tụng cũng đòi
hỏi phải được thể hiện trong suốt quá trình giải quyết vụ án dưới hình thức
tranh luận, phản bác công khai các quan điểm giữa các bên về vụ án.
Nguyên tắc này cũng đòi hỏi sự phân định rõ ràng ba chức năng: Buộc tội,
bào chữa và tài phán thuộc các bên tương ứng – Bên buộc tội, bên bào chữa
và Toà án. Nội dung của nguyên tắc tranh tụng hình sự không chỉ được ghi
nhận ở một điều luật cụ thể mà nó được thể hiện và cụ thể hoá trong nhiều
quy phạm pháp luật tố tụng hình sự có liên quan, liên hệ và thống nhất với
nhau để tạo thành một chế định pháp lý hoàn chỉnh xuyên suốt toàn bộ quá
trình giải quyết vụ án hình sự.
Mô hình tố tụng tranh tụng trong giải quyết vụ án hình sự là một loại
hình tố tụng hình sự mà ở đó khi kiện tụng các bên phải đưa ra chứng cứ, lý lẽ
và được tranh cãi với nhau về những chứng cứ, lý lẽ đó trước Toà án với vai
trò là trọng tài phân xử. Hay nói một cách khác tố tụng tranh tụng trong giải
quyết vụ án hình sự là loại hình tố tụng hình sự mà ở đó bên buộc tội và bên
gỡ tội có địa vị tố tụng ngang bằng nhau, tham gia vào quá trình xác định sự
thật khách quan của vụ án và Toà án sẽ ra phán quyết dựa trên kết quả tranh
tụng giữa các bên tại phiên toà.
Tại giai đoạn điều tra, đã có một số yếu tố của tranh tụng cùng với sự
20
xuất hiện của bên buộc tội và bên bào chữa, tuy nhiên những đặc điểm của
tranh tụng chỉ có đủ khi xuất hiện chức năng tài phán của người trọng tài.
Như vậy đặc điểm, tính chất của tranh tụng chỉ có được trong giai đoạn xét
xử. Về hình thức, tranh tụng tại phiên toà là hình thức tiến hành các hoạt động
tố tụng theo quy định của pháp luật của bên buộc tội và bên bào chữa trước
toà án. Về nội dung tranh tụng là quá trình chứng minh hoặc phủ nhận tính
hợp pháp của nội dung quyết định buộc tội. Tất cả mọi hoạt động của các chủ
thể ở phiên toà đều tập trung kiểm tra tính xác thực và hợp pháp của từng nội
dung trong cáo trạng truy tố. Trong tố tụng hình sự giai đoạn xét xử được coi
là giai đoạn trung tâm, và trong các cấp xét xử thì cấp sơ thẩm lại có vai trò
quan trọng nhất bởi vì toàn bộ vụ án và mọi vấn đề liên quan đến vụ án được
xem xét và quyết định tại giai đoạn này. Xét xử vụ án hình sự là một giai
đoạn của quá trình tố tụng hình sự, trong đó, Toà án có thẩm quyền phán
quyết có hay không có tội phạm xảy ra, một người có phải là người phạm tội
hay không, nếu có tội sẽ áp dụng loại, mức hình phạt nào.
Tại các phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có sự tham gia đầy đủ
nhất của tất cả các chủ thể của hai bên (buộc tội, bào chữa) và các chủ thể
khác tham gia vào quá trình tố tụng. Như vậy, chỉ có tại phiên toà các chức
năng tố tụng cơ bản: Buộc tội, gỡ tội, tài phán được phân định rõ ràng giữa
bên buộc tội, bên bào chữa, Toà án và cũng chỉ tại phiên toà xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự vai trò của bên buộc tội, bên bào chữa được xác định là các bên
có quyền bình đẳng với nhau trong việc sử dụng các phương tiện mà pháp
luật cho phép để thực hiện chức năng tranh tụng.
Vì phiên toà thường ghi âm, ghi hình, nên trong hệ tranh tụng, với mục
đích xem xét lại việc tuân thủ các quy tắc tố tụng, các thẩm phán phúc thẩm
sẽ xem lại (nghe lại) toàn bộ diễn biến phiên toà và có thể huỷ án nếu có sự vi
phạm tố tụng. Trong trường hợp có kháng cáo, kháng nghị với lý do không
21
phải từ thủ tục tố tụng, thì chủ thể kháng cáo, kháng nghị có trách nhiệm chỉ
ra rằng trong phiên toà xét xử sơ thẩm có sự sai lầm trong việc thực thi công
lý hoặc chứng minh được rằng chứng cứ được đưa ra xem xét tại phiên toà sơ
thẩm không có quan hệ hợp lý với phán quyết của bồi thẩm đoàn. Quan điểm
là căn cứ cho kháng cáo, kháng nghị thường do một bên đưa ra với yêu cầu
được toà án xem xét lại. đó là những đề nghị lên quan đến chức năng tài phán
của toà án chứ không phải là quan điểm đưa ra để tranh luận với bên có lập
trường tương phản. Ngay khi phiên toà phúc thẩm có được thiết lập thì nội
dung của phiên toà cũng chỉ xoay quanh những vấn đề bị kháng cáo, kháng
nghị và chủ yếu do các chủ thể kháng cáo, kháng nghị trình bày với toà.
Trong phiên toà chỉ có sự có mặt của chủ thể có kháng cáo, kháng nghị và có
thể có một số chủ thể khác có liên quan (nhưng không bị bắt buộc). Như vậy
trong phiên toà phúc thẩm, sự tranh luận (nếu có) chỉ tồn tại một cách phiến
diện, được xác định ở một góc độ hoặc một khía cạnh nào đó chứ không phải
toàn bộ vụ án hình sự và tính tranh tụng không được thể hiện với đầy đủ
những đặc điểm của nó.
Mặc dù, như đã nêu ở trên nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc tổ chức
của tố tụng hình sự giữ vai trò định hướng cho hoạt động và các hành vi tố
tụng của các chủ thể nhằm thực hiện chức năng của mình trong quá trình
tranh tụng để giải quyết vụ án hình sự, nhưng rõ ràng nguyên tắc tranh tụng
được thể hiện một cách đầy đủ và tập trung rõ nét nhất ở giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự. Nó xác định rõ vai trò và vị trí đặc biệt của Toà án trong
tố tụng hình sự nói chung và trong tranh tụng nói riêng. Toà án phải tạo mọi
điều kiện mà pháp luật cho phép để các bên có thể phát huy hết tính chủ động
và tích cực khi tham gia giải quyết vụ án hình sự. Là chủ thể chính trong việc
đưa ra phán quyết cuối cùng dựa trên các chứng cứ của các chủ thể khác xuất
trình tại phiên toà, Toà án phải tham gia ở một mức độ cần thiết vào quá trình
22
tranh tụng để làm rõ các chứng cứ và tình tiết về vụ án. Tuy nhiên, Toà án
không được để chủ thể nào bị động khi khi tham gia tranh tụng bằng cách làm
thay chức năng của họ và ngược lại không được để quá trình tranh tụng diễn
biến theo ý chí chủ quan của bất kỳ chủ thể nào tham gia phiên toà.
Tất cả những phân tích trên đây cho thấy: chỉ có ở giai đoạn xét xử,
nguyên tắc tranh tụng mới được thể hiện một cách đầy đủ và toàn diện nhất.
1.2.2. Điều khiển tranh tụng tại phiên tòa giữa các bên thông qua
vai trò của Hội đồng xét xử
Về bản chất, tranh tụng trong tố tụng hình sự là một quá trình cọ sát các
quan điểm lập luận về vụ án giữa các chủ thể của bên buộc tội và bên bào
chữa tham gia vào quá trình tố tụng hình sự nhằm xác định sự thật khách quan
của vụ án. Tranh tụng chỉ được coi là bắt đầu khi có sự xuất hiện chức năng
buộc tội và tương ứng với nó là chức năng gỡ tội. Bên buộc tội gồm: công tố
viên, người bị hại, nguyên đơn dân sự và những người đại diện, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Bên bào chữa gồm: người bị buộc tội,
người bào chữa, bị đơn dân sự và người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của những người này. Trong suốt quá trình tranh tụng, bên
buộc tội và bên bào chữa liên tục trao đổi với nhau những lập luận, chứng cứ,
lý lẽ để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Tố tụng tranh tụng dành một vị trí
đặc biệt cho lợi ích các bên. Lợi ích của xã hội được đặt xuống hàng thứ yếu.
Có thể coi tố tụng tranh tụng là một dạng tố tụng đặc biệt diễn ra tại toà án để
xử lý các tranh chấp giữa ít nhất hai bên. Tranh chấp do các bên “kiểm soát”,
nghĩa là các bên xác định tranh chấp, xác định các vấn đề phải được quyết
định và mỗi bên đều có cơ hội trình bày phần tranh luận của mình tại toà. Như
vậy, tố tụng tranh tụng thực sự mở ra cơ hội cho các bên, bên buộc tội và bên
bào chữa có một vị thế ngang nhau trong việc tìm hiểu sự thật khách quan của
vụ án và bảo vệ luận điểm của mình trước Toà án. Sự ngang bằng này được
23
thể hiện ở địa vị là các bên trong tố tụng và có những phương tiện mà pháp
luật dành cho họ trong việc thực hiện quyền của mình. Bên buộc tội, bên bào
chữa đều có quyền điều tra, thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng để bảo vệ
cho lý lẽ của mình và cũng là để phản bác lại luận điểm của phía bên kia. Toà
án chỉ ra phán quyết theo những chứng cứ và lý lẽ được coi là hợp pháp và
bác bỏ những chứng cứ chưa đúng luật và bất hợp lý.
Với mục đích của mô hình tố tụng tranh tụng là hạn chế đến mức thấp
nhất sự can thiệp của những người có quyền quyết định vụ án để đảm bảo cho
các thủ tục tố tụng được tiến hành một cách công bằng theo cách các bên
tranh chấp có quyền trình bày về vụ án mà không bị sự lấn át của bên kia nên
trong tố tụng tranh tụng không có ai chiếm vai trò tuyệt đối về quyền lực, mà
có sự chia sẻ quyền lực giữa công tố viên - đại diện cho bên buộc tội, luật sư -
đại diện cho bên bào chữa, Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà và bồi thẩm đoàn.
Viện công tố ở các nước theo hệ tranh tụng sẽ làm nhiệm vụ truy tố kẻ
bị tình nghi là phạm tội ra trước Toà. Người giữ quyền công tố - đại diện cho
cơ quan này trước Toà án được gọi là công tố viên hay là luật sư buộc tội. Vai
trò của công tố viên trong một phiên toà hình sự là lựa chọn và trình bày tất cả
những chứng cứ mà Nhà nước sẽ lấy làm căn cứ buộc tội. Công việc buộc tội
không chỉ đơn giản là đưa bản cáo trạng ra trước Toà mà còn phải dùng nhân
chứng, vật chứng và lý lẽ của mình để đấu trí với luật sư bào chữa nhằm mục
đích bảo vệ cáo trạng của mình tại phiên toà. Trách nhiệm của bên buộc tội là
sự chứng minh sự đúng đắn và hợp pháp của nội dung truy tố bằng cách đưa
ra các chứng cứ, căn cứ pháp lý và các lập luận để bảo vệ quan điểm của mình
về sự buộc tội đối với bị cáo và bác bỏ các chứng cứ, căn cứ và lập luận của
bị cáo và người bào chữa. Trước khi phiên toà diễn ra, công tố viên có quyền
điều tra thu thập chứng cứ và tại phiên toà với tư cách là đại diện cho cơ quan
công quyền họ sẽ tranh cãi với luật sư của bên bị buộc tội để cùng đi đến sự
thật của vụ án.
24
Bào chữa là toàn bộ các hành vi, hoạt động tố tụng của người bị tình
nghi; bị can; bị cáo; người bào chữa; đại diện hợp pháp của người bị tình
nghi, bị can, bị cáo là vị thành niên nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp
cho người bị tình nghi, gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị
buộc tội. Luật sư bào chữa là một chức danh dùng để chỉ người sẽ thay mặt và
là người đại diện cho bên bị buộc tội trong việc phủ nhận những lý lẽ của
công tố viên nhằm mục đích buộc tội bị cáo. Vai trò của Luật sư bào chữa là
hành động không sợ hãi trong việc bào chữa cho khách hàng. Mặc dù Luật sư
có nghĩa vụ với Toà án nhưng nghĩa vụ chính của họ là đối với khách hàng.
Luật sư của các bị cáo theo hệ tranh tụng thường có tư duy pháp lý cao và rất
mẫn cán với công việc. Pháp luật của các nước này dành cho luật sư bào chữa
một vị thế và những quyền năng không hề thua kém các công tố viên. Một
công tố viên có quyền gì thì tương ứng một luật sư bào chữa sẽ cũng có
những quyền như thế. Họ cũng điều tra, cũng thu thập chứng cứ, cũng được
phép trình bày lý lẽ của mình trước Toà án để bác bỏ sự buộc tội, chứng minh
sự vô tội hoặc giảm nhẹ tội cho bị cáo và được phép tranh luận dân chủ với
công tố viên.
Từ những phân tích trên cho thấy, Thẩm phán, Hội đồng xét xử có vai
trò điều tiết, duy trì cuộc tranh cãi không biết mệt mỏi giữa công tố viên – luật
sư buộc tội và luật sư bào chữa và chỉ thực sự chấm dứt khi một trong hai bên
hoặc cả hai bên không đưa ra được một nhân chứng, vật chứng nào để chứng
minh cho luận điểm của mình hoặc bằng chứng mà một bên đưa ra đã là quá
đủ để buộc tội hay gỡ tội cho bị cáo.Trong phiên toà, Toà án giữ vai trò
"trọng tài" là người "cầm trịch" giữa hai bên. Trước khi phiên toà bắt đầu
Thẩm phán và các bồi thẩm không hề có một tài liệu, hồ sơ trong tay vì vậy
họ không biết gì về vụ án ngoài cái tên gọi của nó. Thẩm phán có nhiệm vụ
duy trì trật tự phiên toà và giám sát quá trình tranh tụng giữa hai bên, còn vai
25
trò của bồi thẩm đoàn tại phiên toà giống như "những khán giả" và chỉ có một
nhiệm vụ duy nhất là quan sát quá trình tranh cãi gay gắt giữa bên buộc tội và
bên bị buộc tội cho đến khi vào phòng nghị án để quyết định vấn đề bị cáo có
tội hay không có tội. Mặc dù, pháp luật của các nước đều quy định cho Toà án
có quyền thẩm vấn các nhân chứng, bị cáo nhưng trên thực tế hầu như chẳng
bao giờ Thẩm phán hoặc các bồi thẩm sử dụng quyền này. Với vai trò là
người trọng tài "cầm cân công lý" làm nhiệm vụ phân xử giữa bên buộc tội và
bên bào chữa, để có quyết định đúng đắn và khách quan về vụ án, Toà án
không được phép định kiến đối với bất cứ bên nào và cũng không thể bị ràng
buộc bởi bất cứ một yêu cầu, đề nghị hoặc ý kiến của bất kỳ ai.
1.2.3. Ra các phán quyết về tội phạm và người phạm tội dựa trên
kết quả tranh tụng tại tòa
Với đặc điểm là toà án chỉ đóng vai trò trung gian như một trọng tài,
thẩm phán ở các nước theo hệ tranh tụng không được tiếp cận với hồ sơ vụ
án và không tham gia thẩm vấn. Do các bên được tự do trong việc thu thập
và xuất trình chứng cứ, tự do trong việc thẩm vấn và tranh tụng tại phiên toà
nên tố tụng tranh tụng đảm bảo được tính vô tư khách quan khi đưa ra phán
quyết [38, tr.26]. Người ta cũng cho rằng phán quyết mà các vị thẩm phán
của hệ tranh tụng đưa ra là một phán quyết rất công bằng. Công bằng là ở chỗ
phán quyết của toà án dựa trên kết quả cuộc tranh luận giữa bên buộc tội và
bên gỡ tội – mà cả hai bên này đều được pháp luật trao cho những cơ hội
ngang nhau để bảo vệ luận điểm, lý lẽ của mình nên một phán quyết có lợi
hơn cho bên giành chiến thắng chính là một phần thưởng xứng đáng giành
cho người nỗ lực, tích cực, chủ động và tài giỏi hơn.
Xuất phát từ một hệ tố tụng dân chủ, khách quan, công bằng, một hệ tố
tụng luôn mở ra cơ hội cho các bên, một hệ tố tụng mà phán quyết dựa vào
kết quả tranh tụng tại toà án nên tố tụng tranh tụng có thể hạn chế đến mức tối
26
đa các trường hợp kết án oan người không phạm tội. Hệ quả này bắt nguồn từ
việc tố tụng tranh tụng rất đề cao quyền tự bào chữa của bị can, bị cáo và
không có sự phân biệt đối xử giữa công tố viên và luật sư. Mặt khác, giai
đoạn điều tra chỉ thực sự bắt đầu khi một phiên toà tuyên bố khai mạc nên các
bên còn rất nhiều cơ hội để bảo vệ quan điểm của mình đặc biệt là cơ hội sẽ
rất rộng mở đối với bên bị buộc tội. Hồ sơ của cơ quan điều tra, bản luận tội
của viện công tố chỉ được xem là một trong những bằng chứng sẽ được kiểm
định tại phiên toà. Nếu bản luận tội tại viện công tố không cứng cỏi, lời lẽ
không thuyết phục, bằng chứng không phù hợp với thực tế hay họ làm việc
kém nỗ lực, tích cực hơn luật sư bào chữa của bị cáo thì cáo trạng của họ rất
dễ bị đổ. Không giống như cáo trạng của viện công tố ở các nước theo hệ
thẩm vấn, cáo trạng của viện công tố ở các nước theo hệ tranh tụng rất dễ
phạm phải sai lầm do mục đích mà họ đặt ra là phải tìm mọi chứng cứ buộc
tội một bị cáo trước toà nên không tránh khỏi có một cái nhìn thiếu thiện chí
đối với bị cáo. Chính vì lẽ đó mà luật sư bào chữa phải tìm đủ mọi chứng cứ
để minh oan cho thân chủ của mình và chắc chắn là trong trường hợp này các
luật sư sẽ hạn chế đến mức tối đa các trường hợp làm oan người vô tội.
Bồi thẩm đoàn thường được nói tới như là một tổ chức được trao nghĩa
vụ hiến định là quyết định các tình tiết sự thực vụ án. Bồi thẩm đoàn là một
cơ quan rất đặc trưng tại các nước theo hệ tranh tụng, đây là một cơ quan
được tuyển lựa thông qua con đường bầu cử. Bồi thẩm đoàn thường gồm từ 9
đến 12 thành viên và họ sẽ làm việc trong một khoảng thời gian nhất định. Tại
Vương Quốc Anh, bồi thẩm chỉ làm việc theo lời mời của Toà án cho từng vụ
việc với cơ chế kiêm nhiệm, khi tham gia xét xử, bồi thẩm đoàn bỏ phiếu để
quyết định bị cáo có tội hay không có tội, trong trường hợp bị cáo tự thú tội,
việc xét xử không cần có bồi thẩm tham gia.
Để ra được một kết luận chính xác Bồi thẩm đoàn phải chú ý lắng nghe
27
phần tranh luận giữa các bên tại Toà án và đặt ra các câu hỏi để xác định xem
một người nào đó có phạm tội hay không. Nếu bồi thẩm đoàn phán quyết một
kẻ nào đó là không có tội thì phiên toà xét xử sẽ chấm dứt và bị cáo sẽ được
phóng thích ngay, ngược lại nếu đó là phán quyết bị cáo có tội thì giai đoạn
kết án sẽ được bắt đầu [41, tr.43]. Quan điểm nhìn nhận bồi thẩm đoàn không
chỉ là những người cần phải thụ động và trung lập mà còn là một cơ chế quan
trọng để hạn chế sự chuyên chế của Chính phủ cũng như của các "quan toà".
Quy định quyền được xét xử trước bồi thẩm đoàn như một hạn chế đối với
mọi can thiệp từ chính quyền.
1.3. TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI
1.3.1. Tố tụng tranh tụng tại một số nước theo hệ thống Common law
1.3.1.1. Vương quốc Anh
Cũng giống như tất cả các nước theo hệ tố tụng tranh tụng khác, phiên
tòa ở Anh quốc cũng có sự tham gia của công tố viên, bồi thẩm đoàn, thẩm
phán chủ toạ và luật sư bào chữa. Toà hoàng gia của Anh có thẩm phán và 12
bồi thẩm, ở các toà khác bồi thẩm được bầu theo đơn vị bầu cử, số lượng bồi
thẩm căn cứ vào sự trưng cầu ý kiến nơi bầu họ. Ở Anh, bồi thẩm đoàn chỉ có
quyền khẳng định là bị cáo có tội hay không có tội, trong trường hợp bị cáo tự
thú tội thì phiên toà xét xử sẽ không cần có sự tham gia của bồi thẩm đoàn.
Mỗi phòng xét xử ở Anh có một camera quay trực tiếp và khi xét xử, công tố
viên không được đề nghị mức án, khác với ở Mỹ, công tố viên ở Anh chỉ trình
bày lại các nội dung tình tiết của vụ án cho toà nghe. Cơ quan công tố ở Anh
không phải là cơ quan độc lập như ở một số quốc gia vì họ có thể hôm nay
làm công tố, hôm sau làm bào chữa viên.
Các luật sư ở Anh tự tổ chức lại thành công ty, thuê thư ký làm việc. Ở
tổ chức này có hai loại luật sư, một loại cứ chuẩn bị hồ sơ bào chữa (luật sư
28
bào chữa), một loại cứ chuẩn bị báo cáo trước toà (luật sư công tố). Nước Anh
chỉ có khoảng 20 công tố Nhà nước tham gia giải quyết những vụ án nghiêm
trọng, còn lại công tố hoạt động có tính chất tư nhân[41, tr.107].
1.3.1.2. Hoa Kỳ
Hoa Kỳ tuy là một quốc gia có lịch sử không lâu đời lại là lại là thuộc
địa trước đây của người Anh điêng nhưng hiện nay xét trên bất cứ phương
diện nào Hoa Kỳ cũng không hề thua kém các nước Châu Âu lục địa. Nền tư
pháp của Hoa Kỳ là một ví dụ điển hình, tuy tố tụng tranh tụng có khởi nguồn
từ nước Anh nhưng lại được tiếp thu và phát huy một cách rực rỡ tại Hoa Kỳ
và có thể nói rằng Hoa Kỳ có một hệ tố tụng hình sự rất điển hình và tiến bộ.
Ở Hoa Kỳ có hai dạng bắt giữ người là bắt giữ có lệnh và bắt giữ không có
lệnh, khi bị bắt giữ, bị can nhất định phải được thông báo về các quyền hiến
định một cách chính xác, trong đó bị can nhất định phải được thông báo trước
khi thẩm vấn rằng bị can có quyền giữ im lặng, rằng bất kỳ những gì bị can nói
có thể được sử dụng để chống lại bị can tại toà án, rằng bị can có quyền đòi hỏi
sự có mặt của luật sư và rằng nếu bị can không có khả năng thuê luật sư, thì
một luật sư có thể được chỉ định giúp bị can trước khi thẩm vấn [10, tr. 5]. Như
vậy, tại Hoa Kỳ luật sư có quyền tham gia vụ án kể từ khi một nghi phạm bị
bắt giữ và thực hiện nhiều công việc trong khuôn khổ pháp luật để gỡ tội cho
thân chủ của mình. Theo luật tố tụng hình sự liên bang Mỹ, luật sư bào chữa
có quyền tiến hành các công việc điều tra như có quyền thẩm vấn nhân chứng
hoặc cá nhân có biết một vài thông tin liên quan đến vụ án, điều tra tại hiện
trường vụ án và xem xét bất cứ chứng cứ phạm tội nào. Luật sư có quyền tiếp
cận với một số chứng cứ buộc tội của bên công tố để tìm hiểu rõ hơn về vụ án
và tìm các chứng cứ khác bác lại những chứng cứ này, tức là theo đó bên
công tố phải cho luật sư biết những thứ bên công tố dự định dùng làm chứng
cứ tại toà, những thứ được thu giữ từ bị can và chính vì lẽ đó mà mặc dù bị
29
tạm giam nhưng bị can vẫn biết tường tận về diễn biến của vụ án thông qua
thư từ hay các cuộc ghé thăm của luật sư.
Công tố viên và luật sư bào chữa có quyền điều tra, thu thập chứng cứ
để bảo vệ luận điểm của mình trong một phiên toà mang tính tranh tụng rất
cao. Phiên toà hình sự sẽ được bắt đầu với phần công tố viên đọc bản cáo
trạng, kể đến công tố viên sẽ đưa ra chứng cứ và nhân chứng để làm rõ việc
kết tội của mình. Luật sư bào chữa có quyền chất vấn những nhân chứng do
phía công tố đưa ra và quan toà có quyền bác bỏ những chứng cứ này nếu tin
rằng chứng cứ không chứng minh được bị cáo phạm tội. Sau đó, luật sư bào
chữa trình bày những chứng cứ và nhân chứng nhằm gỡ tội cho thân chủ của
mình và bên công tố cũng có thể chất vấn những nhân chứng này và đưa ra
chứng cứ hoặc lý lẽ để bác bỏ chứng cứ của luật sư bào chữa. Bị cáo có quyền
đối chất với điều tra viên, nguyên cáo có quyền yêu cầu một số nhân chứng
nào đó tham dự phiên toà và đối chất với họ [20]. Thủ tục “hỏi - đáp” hết sức
được tôn trọng. Trong khi thực hiện công việc tranh tụng, thẩm phán đóng vai
trò trung gian với công việc đầu tiên là theo dõi phiên toà, sau đó là xem xét
các kiến nghị của công tố viên và luật sư liên quan đến các dạng chứng cứ và
các câu hỏi được đặt ra cho nhân chứng. Trong một vài tiểu bang, thẩm phán
được phép đặt những câu hỏi quan trọng về nhân chứng và cũng được phép
bình luận với bồi thẩm đoàn về chứng cứ nhưng ở Hoa Kỳ thường thì quyền
năng này của thẩm phán rất hạn chế [10, tr.6]. Thẩm phán phải duy trì trật tự
giữa những người dự khán và hai bên nguyên - bị trong quá trình xét xử, phần
tranh tụng kết thúc bằng lời phát biểu cuối cùng của cả hai bên kết tội và bào
chữa. Sau khi việc tranh luận tại toà kết thúc, bồi thẩm đoàn sẽ nhóm họp và
quyết định xem bị cáo có tội hay không có tội. Nếu bị cáo bị tuyên là có tội
thì giai đoạn kết án sẽ được bắt đầu và trong giai đoạn này, quan toà phải
chuẩn bị một án văn trong đó nêu rõ hành vi phạm tội của bị cáo cùng với các
30
nhân chứng, chứng cứ chứng minh cho hành vi phạm tội này. Thẩm phán chủ
toạ phiên toà là người quyết định hình phạt đối với bị cáo và cách thức thi
hành hình phạt đó.
Có thể xem xét tiến trình xét xử một vụ án hình sự thông qua sơ đồ
sau đây:
1.3.1.3. Oxtraylia
Cũng giống như Hoa Kỳ, hệ tố tụng hình sự của Oxtraylia cũng là hệ tố
tụng tranh tụng nên theo luật pháp của nước này, luật sư bào chữa được tiến
hành công việc của một điều tra viên trước khi phiên toà xét xử diễn ra nhằm
chuẩn bị cho phần biện hộ của mình. Luật đòi hỏi bên công tố phải cung cấp
cho bị can một số tài liệu liên quan đến vụ án. Tại phiên toà, vai trò của công
tố viên rất quan trọng, việc có bảo vệ được cáo trạng hay không phụ thuộc rất
nhiều vào năng lực của công tố viên, nếu công tố viên không bảo vệ được lời
buộc tội của mình thì cáo trạng rất dễ bị đổ. Công tố viên sẽ phối hợp cùng
điều tra viên để thu thập chứng cứ, hoàn thiện hồ sơ vụ án và tại phiên toà
Bị can
bị bắt giữ
Bào chữa
của luật
sư biện
hộ
Phát biểu
kết thúc
Bồi thẩm
đoàn tuyên
đọc bản luận
tội
Chuẩn bị
cho phần
biện hộ
Kiến nghị
phản đối
những chứng
cứ sai
Phiên toà
sơ khởi
Đưa ra
chứng cứ
Luận tội
của công
tố viên
Phát biểu
mở đầu
Xét
xử
Quan toà
hướng dẫn cho
bồi thẩm đoàn
Phần tranh
luận của bồi
thẩm đoàn
Phán
quyết
31
nghĩa vụ chứng minh bị cáo có phạm tội hay không thuộc về công tố viên. Để
bảo vệ được bản luận tội một kẻ bị tình nghi ra trước toà là một việc rất khó
khăn nên dù đã làm việc cật lực hết sức thì các công tố viên cũng chỉ bảo vệ
được khoảng 50% cáo trạng đã truy tố. Ở Oxtraylia, công tố viên sẽ phải đối
đầu với một nhân vật có một vị thế rất cao trong xã hội và có một trình độ
pháp lý cũng rất đáng nể, đó là các vị luật sư. Trong tố tụng hình sự, luật sư
được quyền tham gia ngay từ khi khởi tố vụ án, được quyền tìm hiểu vụ án
như một điều tra viên và thay mặt bị cáo để thực hiện quyền phản bác tại
phiên toà. Công tố viên có trách nhiệm phải thông báo tất cả các chứng cứ, tài
liệu đã thu thập được cho luật sư để họ thực hiện việc bào chữa, ngược lại luật
sư có quyền giữ bí mật tài liệu chứng cứ mà họ có được để thực hiện việc
phản bác cáo trạng. Tại phiên toà, luật sư thay mặt cho bị cáo thực hiện việc
tranh luận với công tố viên và các nhân chứng về từng chứng cứ được nêu ra.
Phần lớn các vụ xét xử ở Oxtraylia đều có luật sư tham gia, nếu bị cáo là
người nghèo không có tiền thuê luật sư thì một luật sư công sẽ được nhà nước
chỉ định để bào chữa cho họ [41, tr.113-114]. Phiên toà xét xử tại Oxtraylia
cũng giống như tại các nước theo hệ tranh tụng khác, phiên toà sẽ được bắt
đầu bằng việc đọc bản luận tội của cơ quan công tố, sau đó một công tố viên
sẽ trình bày những chứng cứ chứng minh cho bản luận tội của mình. Luật sư
bào chữa sẽ dùng lý lẽ để phản bác lại những chứng cứ đó và đưa ra bằng
chứng gỡ tội cho thân chủ mình. Cứ như vậy, công tố viên và luật sư bào chữa
sẽ tranh luận với nhau theo một dòng đều chảy, Thẩm phán và bồi thẩm đoàn
sẽ ngồi nghe phần tranh luận giữa các bên và đưa ra phán quyết xem bị cáo có
phạm tội hay không, nếu có thì thẩm phán sẽ quyết định bị cáo phạm tội gì và
tuyên mức hình phạt.
Nói tóm lại, hầu hết các nước theo hệ thống Common law đều tổ chức
hoạt động tố tụng hình sự của mình theo nguyên tắc tranh tụng. Các nước
32
thuộc hệ pháp luật Common law đều tự hào rằng hệ tố tụng của họ rất dân chủ
và tiến bộ, trội hơn hẳn so với hệ tố tụng thẩm vấn nhưng xét cho đến cùng thì
mỗi hệ tố tụng đều có ưu- nhược điểm riêng mà các nước nên tiếp nhận
những hạt nhân hợp lý của chúng để xây dựng cho mình một hệ tố tụng tiến
bộ và hoàn chỉnh, gọn nhẹ và vì con người.
1.3.2. Áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự - Điểm
cơ bản trong quá trình cải cách tư pháp của nhiều quốc gia trên thế giới
Tố tụng thẩm vấn là một hệ tố tụng truyền thống của các nước theo
Civil law. Nhưng thời gian dần trôi đã chứng minh rằng trong một thế giới đề
cao quyền con người thì kiểu loại tố tụng này dường như không còn phù hợp
nữa. Trong quá trình thực hiện công cuộc cải cách tư pháp, nhiều quốc gia
trên thế giới đã tìm thấy ở hệ tố tụng tranh tụng rất nhiều điểm hợp lý để thay
thế cho những nhược điểm cố hữu của hệ tố tụng thẩm vấn. Tuy không sao
chép y nguyên hệ tranh tụng vào trong hoạt động tố tụng hình sự của nước
mình nhưng tiếp thu những hạt nhân hợp lý của nguyên tắc tranh tụng đã làm
cho hoạt động tố tụng hình sự ở các nước này đổi mới khởi sắc hơn.
1.3.2.1. Cộng hoà Pháp
Trong nghiên cứu của luật so sánh, Pháp được xếp vào các nước theo
truyền thống pháp luật Châu Âu lục địa. Trước đây, cũng như nhiều quốc gia
khác, tố tụng hình sự ở Pháp được bắt đầu từ mô hình đối tụng. Nhưng khi xã
hội phát triển đến một giai đoạn nhất định thì nhà nước ngày càng giữ một vai
trò quan trọng trong phòng chống tội phạm, chính vì lẽ đó mô hình thẩm tra
đã thay thế mô hình đối tụng ở hầu hết các nước Châu Âu lục địa. Pháp bắt
đầu sử dụng mô hình thẩm tra từ thế kỷ XIII vì sự cần thiết phải giải quyết
các vụ án nghiêm trọng của đất nước. Trong thời kỳ này, thẩm phán thường
dùng hình thức tra tấn để lấy cung của bị cáo vì thế cho nên nó được coi là
kém tiến bộ hơn so với mô hình đối tụng. Nhưng trong quá trình thực hiện tố
33
tụng thẩm vấn, Pháp cũng đã nhận thấy các yếu điểm của hệ tố tụng này khi
chú trọng đến quyền con người và nguyên tắc suy đoán vô tội. Chính vì lẽ đó
vào năm 2000, Pháp đã phải đưa một số nội dung của tố tụng tranh tụng vào
hệ thống pháp luật nước mình.
Hiện nay, tại Pháp mọi vụ án hình sự đều phải có luật sư. Khi cảnh sát
bắt giữ một người bị nghi là phạm tội thì luật sư của anh ta sẽ ngay lập tức
được mời đến, nếu không một luật sư chỉ định cũng sẽ được mời để giúp đỡ
cho anh ta, khi lấy lời khai của bị can mà không có mặt của luật sư thì biên
bản lấy lời khai không có giá trị. Ở Pháp, luật sư được quyền xem hồ sơ, gặp
gỡ, trao đổi với thân chủ và tuy không có quyền tự mình tiến hành điều tra
nhưng luật sư có quyền yêu cầu dự thẩm giám định, tái giám định, mời nhân
chứng... Ở Pháp, cơ quan làm nhiệm vụ truy tố một bị cáo ra trước toà là Viện
công tố. Trong phiên toà, công tố viên sẽ tranh luận với luật sư bào chữa để
tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Khi tranh luận, luật sư có quyền đi lại,
đứng lên ngồi xuống theo thói quen của từng vị và mang bảng, biển để minh
hoạ. Thời gian biện hộ của luật sư là không hạn chế, tuy nhiên thường không
dài tránh “ru ngủ” bồi thẩm đoàn. Tại phiên toà, luật sư và công tố viên phải
mặc áo thụng trong khi bị cáo vẫn mặc thường phục bởi trước khi một phán
quyết được đưa ra, họ vẫn chưa bị coi là có tội. Luật sư tại Pháp tham gia vụ
án mà không cần phải có giấy giới thiệu và họ cũng không thể “chạy án” bởi
quyền lực được san sẻ cho nhiều người mà không chỉ tập trung vào thẩm phán
và đối với bản thân thẩm phán cũng không thể gây áp lực lên bồi thẩm đoàn.
Mỗi vụ án tại Pháp, bồi thẩm đoàn thường gồm 9 hoặc 12 người. Các thành
viên của bồi thẩm đoàn không hề được xem xét hồ sơ từ trước mà chỉ ngồi
nghe tranh tụng tại toà, sau đó vào phòng nghị án và biểu quyết. Hồ sơ vụ án
cũng không được đem vào phòng nghị án. Do vậy, hội đồng xét xử đóng vai
trò trọng tài là chính. Trong khi xét xử, bồi thẩm viên được quyền hỏi bị cáo,
34
nhân chứng... nhưng không được đưa ra quan điểm chủ quan, phát biểu kết tội
bị cáo, nguyên tắc suy đoán vô tội luôn luôn được đề cao [30]. Không cần
phải nhắc lại chúng ta cũng có thể hình dung ra rằng một phiên toà tại Pháp sẽ
là cuộc tranh tụng gay gắt giữa luật sư và công tố viên nên như ông luật sư
Jacques Bourdals – chủ tịch hiệp hội hợp tác pháp luật Việt – Pháp đã nói
“Bản án hoàn toàn dựa vào kết quả tranh tụng tại toà”. Đây là một kết luận mà
nếu Pháp còn sử dụng mô hình thẩm tra thì sẽ không thể nào có được.
1.3.2.2. Nhật Bản
Nhật Bản là một quốc gia ở Đông Á với truyền thống thuộc hệ thống
pháp luật Civil law nhưng hiện nay trong nền tư pháp Nhật Bản đã thấy xuất
hiện rất nhiều những hoạt động đặc trưng của hệ tố tụng tranh tụng.
Ở Nhật Bản, công tố viên được trao cho rất nhiều quyền hành, tất cả các
vụ án do cảnh sát hoặc các cơ quan khác điều tra đều được chuyển cho viện
công tố. Ngoài ra, công tố viên còn có thẩm quyền điều tra với bất cứ tội phạm
nào, công tố viên là người duy nhất có quyền quyết định truy tố hay không truy
tố. Tại Nhật Bản, công tố viên không bao giờ truy tố một cách không căn cứ,
chỉ trong trường hợp thấy có khả năng rất cao là có thể luận tội được tại phiên
xử thì công tố viên mới truy tố bị can. Vì vậy tỉ lệ phán quyết vô tội tại Nhật
Bản rất thấp và tỉ lệ phán quyết là có tội rất cao, vượt trên 99%.
Ở giai đoạn trước khi xét xử, công tố viên chỉ gửi cáo trạng đến toà án
mà không cần gửi hồ sơ nhưng khi bắt đầu vào phiên toà thì công tố viên phải
chuyển hồ sơ cho thẩm phán - chủ toạ phiên toà
Theo điều 289 BLTTHS Nhật Bản thì trong trường hợp bị cáo bị truy tố
về tội có hình phạt chung thân, tử hình, tù có thời hạn từ 3 năm trở lên đều phải
có luật sư bào chữa hoặc sẽ được chỉ định một luật sư bào chữa tại phiên toà.
Tố tụng Nhật Bản tại phiên toà được tiến hành theo nguyên tắc tranh
tụng nên luật sư có quyền độc lập trong việc thu thập chứng cứ, được nghiên
35
cứu hồ sơ của công tố viên để chuẩn bị cho việc bào chữa. Quyền của luật sư
và công tố viên là ngang nhau, bình đẳng trong việc thu thập và trình bày
chứng cứ tại phiên toà. Điều 299 BLTTHS quy định “khi có yêu cầu thẩm vấn
người làm chứng, công tố viên hoặc luật sư bào chữa của bị cáo phải cho người
phản bác của mình có cơ hội trước để họ biết tên, địa chỉ người làm chứng, các
tài liệu và chứng cứ sẽ được đưa ra trình bày”. Như vậy, theo luật tố tụng hình
sự của Nhật Bản, luật sư có quyền thu thập chứng cứ và xem hồ sơ của công tố
viên, công tố viên có quyền thu thập chứng cứ và xem hồ sơ của luật sư. Nếu
luật sư bào chữa trình Toà những chứng cứ mà công tố viên chưa biết thì công
tố viên có thể bác bỏ với lý do không biết chứng cứ này. Đây là điểm khác biệt
giữa tố tụng hình sự của Nhật Bản và các nước Common law là luật sư được
phép giữ bí mật các chứng cứ mà mình thu thập được.
Vì theo mô hình đối tụng nên phiên toà tại Nhật Bản cũng diễn ra
theo chu trình: Công tố viên công bố bản cáo trạng, trình bày và đề xuất
chứng cứ, kết luận tội lỗi của bị can, tranh luận với luật sư, đề xuất mức
hình phạt... [41, tr.34, 36, 46].
1.3.2.3. Trung Quốc
Cũng giống như Việt Nam, Trung Quốc theo mô hình Xã hội chủ nghĩa
nên đã từ lâu nay hoạt động tố tụng hình sự của Trung Quốc đều được tổ chức
theo kiểu tố tụng thẩm vấn nhưng với một đất nước rộng lớn và nhiều tiềm
năng như Trung Quốc thì trong quá trình hội nhập kiểu tố tụng này ngày càng
bộc lộ nhiều thiếu sót vì lẽ đó, Trung Quốc đã quyết định thực hiện công cuộc
cải tổ nền tư pháp của mình.
Uỷ ban pháp luật của Trung Quốc đã triệu tập các chuyên gia thống
nhất cần sửa đổi bộ luật tố tụng hình sự trước, bộ luật hình sự sau. Kết quả là
ngày 23 tháng 3 năm 1996, Quốc hội thông qua bộ luật tố tụng hình sự sửa
đổi, có hiệu lực từ 1/7/1997. Bộ luật này có những nội dung sửa đổi lớn sau.
36
- Nếu toà án không tuyên là có tội thì không được bắt giữ bất kỳ người nào
- Bỏ điều kiện miễn tố
- Luật sư được tham gia tố tụng từ khi một người bị tình nghi phạm tội
bị bắt giữ. Luật sư được đến viện kiểm sát để đọc hồ sơ vụ án. Trước khi mở
phiên toà, luật sư được tự mình thu thập chứng cứ, luật sư được quyền bình
đẳng với kiểm sát viên tranh luận tại phiên toà.
- Mở rộng quyền hạn của bị cáo, người bị hại. Luật 1979, người bị hại
không được bảo vệ quyền lợi trước toà, luật 1997 cho phép tự bảo vệ. Người
bị hại có quyền khởi tố trước toà án trong trường hợp phát hiện có người
phạm tội mà viện kiểm sát không khởi tố
- Cải cách công tác điều tra tại toà án, áp dụng thủ tục tranh tụng tại toà
án, học tập pháp luật tố tụng của Anh, Mỹ.
Khi hoàn thành cáo trạng, viện kiểm sát chuyển giao toàn bộ hồ sơ
chứng cứ cho toà án, luật cũ quy định việc đưa chứng cứ ra toà thuộc nhiệm
vụ của toà án. Sau khi nhận được hồ sơ của viện kiểm sát chuyển sang thì toà
án mở phiên toà xét xử. Tại phiên toà, viện kiểm sát đọc cáo trạng rồi tiến
hành tranh tụng với luật sư, bị cáo. Thẩm phán nghe các bên tranh luận rồi
quyết định. Như vậy, cả viện kiểm sát và luật sư đều đưa chứng cứ ra toà để
tranh luận còn phán quyết sẽ thuộc thẩm quyền của toà án [41, tr.23-24].
Trong những năm vừa qua khi áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự mới, nền
tư pháp của Trung Quốc đã thu được nhiều kết quả đáng kể như số người bị
tuyên là vô tội đã tăng lên, số lượng luật sư ngày càng đông đảo hơn và cũng
chính vì có đội ngũ tư vấn pháp lý này mà ý thức pháp luật của người dân cũng
được nâng cao hơn và họ đã thực sự “sống và làm việc theo pháp luật”.
* *
*
37
Như vậy qua chương 1, chúng ta đã cùng tìm hiểu về khái niệm, đặc
điểm của hệ tố tụng tranh tụng cũng như sự hình thành, phát triển và tồn tại
của hệ tố tụng này ở một số quốc gia trên thế giới. Tuy hiện nay, có thể hệ tố
tụng của các nước theo truyền thống luật án lệ – Common law không còn giữ
được nguyên vẹn và các nước theo truyền thống Civil law cũng không tiếp
thu một cách trọn vẹn các đặc điểm của hệ tố tụng tranh tụng truyền thống; và
cho dù sự biến đổi của tự nhiên và xã hội đã làm cho hệ tranh tụng không còn
giữ được vẻ nguyên sơ vốn có thì thực tiễn vẫn chỉ ra rằng tất cả các nước
đang duy trì hệ tranh tụng đều có một nền tư pháp mạnh, còn các nước đang
theo đuổi hệ tranh tụng đều đang vươn mình phát triển mạnh mẽ. Lịch sử phát
triển thế giới đã đúc kết, sự ra đời và phát triển của hệ tranh tụng được coi là
một bước tiến lớn trong quá trình xây dựng nền pháp luật dân chủ và công
bằng của nhân loại. Có thể là đúng, có thể là sai nhưng xét cho đến cùng
chúng ta nên tôn trọng những gì đã được ghi nhận trong quá khứ và hãy gắng
sức phát huy, phát triển hệ tranh tụng một cách hoàn chỉnh trong tương lai.
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY

More Related Content

What's hot

BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...OnTimeVitThu
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sựTé Lầu
 

What's hot (20)

BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sựLuận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự
 
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt NamLuận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nướcLuận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOTLuận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sự
 
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
 
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật, HAY
Luận văn: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật, HAYLuận văn: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật, HAY
Luận văn: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật, HAY
 

Similar to Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY

Similar to Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY (20)

Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luậtNhững căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
 
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAYLuận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOTLuận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
 
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sựLuận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự
 
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAYĐề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOTLuận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
 
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ ÁnLuận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án
 
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly Hôn
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly HônLuận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly Hôn
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly Hôn
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOTĐề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
 
Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, HAYNguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sựLuận văn: Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩmLuận văn: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
 
Đề tài: Quyền công dân trong xét xử vụ án hôn nhân và gia đình
Đề tài: Quyền công dân trong xét xử vụ án hôn nhân và gia đìnhĐề tài: Quyền công dân trong xét xử vụ án hôn nhân và gia đình
Đề tài: Quyền công dân trong xét xử vụ án hôn nhân và gia đình
 
Luận văn: Trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính tỉnh Đăk Lăk
Luận văn: Trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính tỉnh Đăk LăkLuận văn: Trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính tỉnh Đăk Lăk
Luận văn: Trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính tỉnh Đăk Lăk
 
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly Hôn
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly HônLuận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly Hôn
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Các Vụ Án Ly Hôn
 
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ ÁnLuận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án
Luận Văn Thạc Sĩ Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án
 
Đề tài: Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, HAY
Đề tài: Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, HAYĐề tài: Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, HAY
Đề tài: Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )lamdapoet123
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdfdong92356
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào môBryan Williams
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx22146042
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
 

Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM VĂN PHIẾM TRANH TôNG TRONG XÐT Xö THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM (TR£N C¥ Së Sè LIÖU THùC TIÔN §ÞA BµN TØNH §¾K N¤NG) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM VĂN PHIẾM TRANH TôNG TRONG XÐT Xö THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM (TR£N C¥ Së Sè LIÖU THùC TIÔN §ÞA BµN TØNH §¾K N¤NG) Chuyên ngành: Luâ ̣t hình sựvà tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướ ng dẫn khoa ho ̣c: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chín xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị khoa luật xem xét để cho tôi có thể bảo vệ luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Phạm Văn Phiếm
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ .............................................. 8 1.1. KHÁI QUÁT VỀ MÔ HÌNH TỐ TỤNG TRANH TỤNG ................ 8 1.1.1. Sự ra đời của mô hình tố tụng tranh tụng............................................ 8 1.1.2. Khái niệm mô hình tố tụng tranh tụng .............................................. 10 1.1.3. Những ưu điểm và hạn chế của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng......... 11 1.2. VAI TRÒ CỦA TRANH TỤNG TRONG QUÁ TRÌNH XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ...................................................................... 17 1.2.1. Xét xử là biểu hiện tập trung, tiêu biểu nhất quyết định hiệu quả của tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án ................................ 18 1.2.2. Điều khiển tranh tụng tại phiên tòa giữa các bên thông qua vai trò của Hội đồng xét xử..................................................................... 22 1.2.3. Ra các phán quyết về tội phạm và người phạm tội dựa trên kết quả tranh tụng tại tòa......................................................................... 25 1.3. TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI ......................................................................................... 27 1.3.1. Tố tụng tranh tụng tại một số nước theo hệ thống Common law......... 27 1.3.2. Áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự - Điểm cơ bản trong quá trình cải cách tư pháp của nhiều quốc gia trên thế giới.......... 32
  • 5. Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG ..................................................................................... 38 2.1. QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ............................................................................................ 38 2.1.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về tranh tụng trong xét xử trước 2003.......................................................................................... 38 2.1.2. Qui định của Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về tranh tụng trong xét xử........................................................................................ 43 2.2. THỰC TIỄN TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ TẠI TỈNH ĐẮK NÔNG...................................................................................... 50 2.2.1. Một số đặc điểm tình hình kinh tế - Xã hội và tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông................................................. 50 2.2.2. Tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông ............................ 53 2.2.3. Những ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, xã hội, tổ chức ảnh hưởng đến chất lượng tranh tụng trong xét xử.................................. 54 2.2.4. Tình hình xét xử từ năm 2010 – 2014 trên địa bàn Tỉnh Đắk Nông........ 56 2.2.5. Tình hình tham gia tranh tụng của luật sư tại phiên tòa ở Đắc Nông......... 60 2.2.6. Một số phiên toà điển hình của việc xét xử theo hướng tranh tụng tại Đắk Nông ............................................................................. 62 2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ.................................. 66 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................................................ 70 3.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ .............................................. 70 3.1.1. Bất cập qui định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử..................................... 70
  • 6. 3.1.2. Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa...................................................................... 78 3.1.3. Yêu cầu triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp và Hiến pháp 2013 ......................................... 82 3.2. HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2003 VỀ BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ ................................................................. 83 3.2.1. “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử” phải được qui định là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự .............................................. 83 3.2.2. Bổ sung, hoàn thiện các qui định hỗ trợ cho việc “ bảo đảm tranh tụng trong xét xử” .................................................................... 84 3.2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa................. 90 KẾT LUẬN.................................................................................................... 98 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 101
  • 7. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự CQTHTTHS: Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự HĐXX: Hội đồng xét xử HSPT: Hình sự phúc thẩm HSST: Hình sự sơ thẩm TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân Tối cao THTT: Tiến hành tố tụng VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
  • 8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Thống kê số liệu Cán bộ Công chức TAND tỉnh Đắk Nông tính đến ngày 10/07/2014 54 Bảng 2.2: Số vụ án được xét xử 56 Bảng 2.3: Số bị cáo được xét xử 57 Bảng 2.4: Các đối tượng là người chưa thành niên và bị truy tố đến khung hình phạt đến tử hình 60 Bảng 2.5: Số vụ, việc do cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu 61 Bảng 2.6: Số lượng tham gia của luật sư tại phiên tòa 61
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây tình hình vi phạm pháp luật ở nước ta nói chung cũng như tình hình vi phạm ở trên địa bàn tỉnh Đắk Nông xảy ra ngày càng nghiêm trọng, có chiều hướng gia tăng nhanh cụ thể trong 10 đại án mà cả nước quan tâm trong thời gian qua thì tỉnh Đắk Nông có một vụ và đã đưa ra xét xử từ ngày 18/3/2014 đến ngày 20/3/2014. Việc gia tăng tội phạm đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình công nghiệp hóa; hiện đại hóa đất nước. Các cơ quan Tư pháp như Công an, Viện kiểm sát, Tòa án đã nỗ lực phấn đấu giải quyết tốt công việc của mình mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó để góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, trong thời gian qua vẫn còn những trường hợp làm oan người vô tội, các cơ quan Tư pháp phải bồi thường và công khai xin lỗi. Hậu quả để lại cho người bị oan rất nặng nề sau khi được minh oan họ đã trắng tay, gia đình ly tán, người thân đầy mặc cảm với xã hội, con cái không còn giám đến trường học vì bị bạn bè khinh rẻ, kinh tế của gia đình sụt giảm nghiêm trọng có những trường hợp đã khánh kiệt về tài sản; hay họ từ những người thành đạt và được trọng vọng trong xã hội nhưng sau thời gian bị tạm giam và kết án oan thì bị người thân và xã hội xa lánh. Trong khi đó người thực hiện hành vi tội phạm đích thực thì vẫn cứ nhởn nhơ ở ngoài xã hội và chưa bị pháp luật trừng trị... Điều đó tạo dư luận không tốt trong xã hội khiến nhân dân giảm lòng tin vào sự công bằng trong xã hội mà Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân ta đang hướng tới. Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, việc xét xử và ra các bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật có ý nghĩa quyết định và góp phần phát huy được vai trò tích cực là một bộ phận cấu thành không thể thiếu
  • 10. 2 trong hệ thống các biện pháp tác động của Nhà nước và xã hội đến tội phạm. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển toàn diện của đất nước trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và qua thực tiễn áp dụng, nhiều quy định về tranh tụng trong xét xử theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam nói riêng của BLTTHS năm 2003 vẫn còn một số bất cập và hạn chế như: chưa đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tranh tụng tại phiên tòa, những quy định cụ thể của tranh tụng tại phiên tòa... đồng thời cần bổ sung quy định của BLTTHS sự với nội dung tăng cường việc tranh tụng tại phiên tòa v.v.... Một số tồn tại và hạn chế nêu trên đã gây ra những vướng mắc, lúng túng và có không ít trường hợp áp dụng còn chưa thống nhất các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự trong hoạt động xét xử của Tòa án các cấp nhất là về tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự. Mặt khác, trong thực tiễn khi xét xử các vụ án Hình sự do chưa đánh giá hết vai trò, chức năng, công dụng của việc tranh tụng tại phiên tòa, nên các Tòa án; những người tham gia tố tụng còn ít quan tâm. Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra yêu cầu "Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp" và Nghị quyết số 37/2012/HQ13 ngày 23/11/2012 của Quốc Hội cũng yêu cầu Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa; đảm bảo việc giải quyết, xét xử và ra bản án, quyết định đúng pháp luật.
  • 11. 3 Hiện nay, khoa học luật tố tụng hình sự trong và ngoài nước đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tranh tụng tại phiên tòa, nhưng chủ yếu chỉ đề cập một cách tổng thể và có hệ thống những khía cạnh lý luận chung nhất về tranh tụng mà chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và sâu sắc riêng về về tranh tụng tại trong xét xử dưới góc độ lý luận cũng như thực tiễn áp dụng. Trước yêu cầu của thực tế, đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng, lấy lại niềm tin của người dân vào tòa án và nền công lý xã hội chủ nghĩa. Việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về tranh tụng trong xét xử theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra những giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho sự cần thiết để chúng tôi lựa chọn đề tài "Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông)" làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu và sách chuyên khảo đề cập đến vấn đề tranh tụng tại phiên tòa trong tố tụng Hình sự như: Ở Việt Nam, khoa học luật tố tụng hình sự là một trong những ngành khoa học pháp lý phát triển nhất so với các ngành khoa học pháp lý khác, do đó, xét riêng về tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự, cho thấy có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau: TSKH Lê Cảm và TS Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên "Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong gia đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền", Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà nội, 2004. Tống Anh Hào "Về tranh tụng tại phiên tòa Hình sự" trong tạp chí Tòa án số 5/2003; Hồ Nguyễn Quân "Một số giải
  • 12. 4 pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa" trong tạp chí Tòa án số 1/2014; PGS-TS Trần Văn Độ "Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa" Trong tạp chí khoa học pháp lý số 4/2004; Hồ Nguyễn Quân "Một số giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa Hình sự" trong Tạp chí Tòa án số 01/2004. Nguyễn Thị Tuyết "Kiểm sát viên tham gia tranh tụng tại phiên tòa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp" trong tạp chí Tòa án số 04/2010; v.v... Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản về các giải pháp nâng cao chất lượng về tranh tụng tại phiên tòa hình sự còn đối với việc nghiên cứu một cách toàn diện về tranh tụng trong xét xử theo luật Tố tụng Hình sự Việt Nam thì chưa có công trình nào đề cập đến. Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông)" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về tranh tụng trong xét xử dưới khía cạnh lập pháp tố tụng hình sự và áp dụng chúng trong thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về tranh tụng trong xét xử theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc tranh tụng trong xét xử theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam trong thực tiễn áp dụng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Từ cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả trong và
  • 13. 5 ngoài nước về tranh tụng trong xét xử, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về tranh tụng trong xét xử theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam như: Khái niệm tranh tụng, đặc điểm của mô hình tranh tụng; ưu điểm và hạn chế của mô hình tranh tụng; Khái niệm tranh tụng trong xét xử vụ án Hình sự, nội dung, đặc điểm của tranh tụng trong xét xử Hình sự. - Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam về tranh tụng trong xét xử ở Việt Nam từ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 cho đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá; - Nghiên cứu những quy định cụ thể về trang tụng trong xét xử của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành của Việt Nam, từ đó rút ra những tồn tại, hạn chế của các quy định về tranh tụng trong xét xử trong luật Tố tụng Hình sự Việt Nam cần khắc phục; - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự theo luật Tố tụng Hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân của nó; - Từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về Tranh tụng trong xét xử theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành và nâng cao hiệu quả việc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự trong thực tiễn. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh tranh tụng tại phiên tòa theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá tình hình tranh tụng tại phiên tòa trong thực tiễn xét xử các vụ án Hình sự của các Tòa án nhân cấp huyện và Tòa án nhân dân cấp tỉnh thuộc tỉnh Đắk Nông và những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa Hình sự trong thực tiễn.
  • 14. 6 Luận văn cũng có tham khảo những bài học kinh nghiệm lập pháp một số nước trong khi nghiên cứu tranh tụng trong xét xử. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn việc tranh tụng tại các phiên tòa Hình sự trong 05 năm (2010-2014) thuộc Tòa án nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Đắk Nông. 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về vấn đề cải cách tư pháp. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh... để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về tranh tụng trong xét xử, mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới tranh tụng trong xét xử theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về Tranh tụng trong xét xử để xây dựng nên khái niệm tranh tụng, tranh tụng trong xét xử vụ án Hình sự đảm bảo tính chính xác, khoa học, đồng thời chỉ ra các đặc điểm cơ bản của tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự trong mối tương quan với một số thủ tục khác; - Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành
  • 15. 7 và phát triển của tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay; - Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh tình hình thực hiện việc tranh tụng tại các phiên tòa hình sự của Tòa án các cấp thuộc tỉnh Đắk Nông; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn pháp luật và thực tiễn thực hiện việc tranh tụng tại phiên tòa cũng như những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế đó; - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng và nâng cao hiệu quả của việc thực hiện tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan Viện kiểm sát, Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự. Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn tranh tụng trong xét xử. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự.
  • 16. 8 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. KHÁI QUÁT VỀ MÔ HÌNH TỐ TỤNG TRANH TỤNG 1.1.1. Sự ra đời của mô hình tố tụng tranh tụng Mô hình tố tụng hình sự của một Quốc gia được thể hiện trong Luật Tố tụng hình sự của Quốc gia đó phản ánh cách thức giải quyết vụ án hình sự, từ việc xác định, chứng minh tội phạm đến phán quyết về tội phạm và trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Mô hình tố tụng hình sự phụ thuộc vào cơ sở kinh tế- chính trị- xã hội và nền pháp luật cũng như năng lực của các cơ quan tiến hành tố tụng mỗi Quốc gia. Đối với những nước theo hệ thống pháp luật Common Law thì việc tìm đến sự thật khách quan của vụ án được coi là mục tiêu tối quan trọng và các Cơ quan tiến hành tố tụng có địa vị tích cực, chủ động trong quá trình tìm kiếm sự thật đó. Tuy cũng hướng đến mục tiêu tìm đến sự thật khách quan nhưng các nước theo dòng pháp luật Civil Law lại đặc biệt coi trọng đến quyền con người và địa vị bình đẳng giữa các bên trong quá trình tố tụng. Khi nghiên cứu về luật so sánh cho mô hình tố tụng tranh tụng được tìm thấy ở các nước thuộc hệ thống Common law, trong phần trình bày của mình tại Nhà pháp luật Việt – Pháp, bà Elisabeth Pelsez cho rằng mô hình tố tụng đầu tiên trong lịch sử phát triển của xã hội là tố tụng tranh tụng. Bà nhấn mạnh rằng các nhà nghiên cứu lịch sử pháp luật đều nhận định tố tụng tranh tụng đã được áp dụng tại Hy Lạp cổ đại và được đưa tới La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục”. Anh quốc luôn được xem là quê hương của hệ thống Common law cho nên khi nghiên cứu đến tố tụng tranh tụng người ta không thể không xem xét pháp luật của Anh quốc. Phillip L. Reichel cho rằng
  • 17. 9 hệ thống tranh tụng thường được coi là cái thay thế cho sự trả thù cá nhân. Quả thực, cho đến thế kỷ XIII ở Anh quốc những người bị xâm hại về tài sản, về thân thể chưa nhận được sự bảo hộ của pháp luật, họ chưa nhận được sự che chở của toà án và phải tự trả thù. Sau này để chấm dứt một nền công lý thô bạo, giải quyết các mâu thuẫn theo con đường “nợ máu phải trả bằng máu” thì vào khoảng năm 1252 đã xuất hiện một cái gọi là writ of trespass (tố quyền về sự vi phạm) ở Anh quốc và cũng từ đó người buộc tội đã chuyển từ cá nhân sang nhà nước và giữa họ xử sự với nhau theo kiểu tranh cãi và người ta gọi quy trình xét xử đó là tranh tụng hay đối tụng [10, tr.3]. Theo PGS. TS Phạm Hồng Hải thì lịch sử tố tụng hình sự trên thế giới đã từng chứng kiến bốn loại hình tố tụng khác nhau. Ban đầu là tố tụng hình sự tố cáo ở nhà nước nô lệ, sau đó được thay thế bằng kiểu tố tụng hình sự xét hỏi ở nhà nước phong kiến. Vào thế kỷ 17,18 ở Châu Âu các nhà tư tưởng nổi tiếng đã tác động rất lớn tới quá trình dân chủ hoá nền tư pháp nói chung và tố tụng hình sự nói riêng, do đó kiểu tố tụng xét hỏi đã được chuyển sang kiểu tố tụng xét hỏi- tranh tụng và cuối cùng là tố tụng hình sự tranh tụng. Cũng theo PGS.TS Phạm Hồng Hải, mầm mống của tố tụng hình sự tranh tụng đã xuất hiện ở một số quốc gia trong khoảng từ thế kỷ X đến XIII khi ở các nơi đó tồn tại một phong tục gọi là “quyết đấu”. Đây là phong tục rất thịnh hành thời cổ xưa khi người buộc tội và người bị buộc tội phải “thi đấu” với nhau (kể cả bằng sức mạnh) và chân lý được coi là thuộc về người chiến thắng. Ý tưởng có thể coi là “hoang dã” này đã ảnh hưởng tới cách thức tổ chức và thủ tục tố tụng hình sự và mô hình tố tụng hình sự tranh tụng ngày càng được hoàn thiện [18]. Có thể nói rằng, trong lịch sử phát triển tố tụng hình sự, ở hầu hết các nước đều bắt đầu từ mô hình đối tụng. Trong hệ thống đối tụng thời sơ khai, xét xử hình sự do nguyên đơn khởi xướng và thẩm phán không tự động điều tra hay xét xử một vụ án nào vì tất cả các vụ kiện đều được coi là tranh chấp giữa những
  • 18. 10 người tranh tụng. Trong quá trình xét xử, cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ ngang bằng nhau, hai bên tranh tụng trước toà và thẩm phán sẽ xem xét và quyết định xem ai thắng kiện. Và dần dần khi xã hội phát triển đến một chừng mực nào đó và nhà nước buộc phải phát huy vai trò của mình thì kể cả khi không cần có sự khởi xướng của nguyên đơn, nhà nước vẫn có thể truy tố một kẻ nào đó ra trước toà và giữa họ sẽ diễn ra một quá trình tranh luận để đi tìm sự thật khách quan của vụ án, đó chính là hình ảnh của hệ tố tụng tranh tụng ngày nay. Như vậy, để có được mô hình tố tụng hình sự tranh tụng như hiện nay, lịch sử của tố tụng hình sự đã phải trải qua một thời gian khá dài với rất nhiều thử thách, thăng trầm và người ta vẫn đang bàn luận về ưu, nhược điểm của hệ tố tụng này nhưng đa số điều thừa nhận tính ưu việt của mô hình tố tụng tranh tụng so với các mô hình tố tụng hình sự khác. 1.1.2. Khái niệm mô hình tố tụng tranh tụng Trên thế giới, hiện đang tồn tại nhiều loại mô hình tố tụng khác nhau, trong đó có hai mô hình tố tụng chính là: Mô hình tố tụng thẩm vấn (xét hỏi) và mô hình tố tụng tranh tụng. Mô hình tố tụng hình sự là khái niệm khoa học với những tiêu chí nhất định để xác định Luật tố tụng hình sự một quốc gia thuộc mô hình tố tụng hình sự nào. Những tiêu chí đó bao gồm: Thứ nhất, về mục tiêu và phương pháp tố tụng sử dụng trong quá trình giải quyết vụ án. Các mô hình tố tụng đều có chung một mục đích là tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, mô hình tố tụng thẩm vấn chủ yếu áp dụng phương pháp xét hỏi một chiều để tìm ra chân lý. Còn mô hình tố tụng tranh tụng lại áp dụng phương pháp đối đáp hai chiều, một cách bình đẳng để tìm ra bên có lý hơn; Thứ hai, về vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tố tụng. Đối với mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, địa vị của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoàn toàn bình đẳng đối với bên buộc tội. Còn ở mô hình tố tụng thẩm vấn, các cơ quan tiến hành tố tụng giữ vị trí chủ động, tích cực, quyết
  • 19. 11 định trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; Thứ ba, về vấn đề chứng cứ và chứng minh tội phạm: Trong khi mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn quy định chỉ có Cơ quan tiến hành tố tụng mới có quyền thu thập chứng cứ và lập hồ sơ vụ án thì ở mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, bên gỡ tội cũng có quyền thu thập chứng cứ và lập một hồ sơ hình sự riêng của mình. Tại phiên tòa, Luật sư trong mô hình tố tụng tranh tụng có quyền bình đẳng với bên Công tố, được triệu tập nhân chứng, đối đáp, xét hỏi những người có liên quan. Điều này không có ở mô hình tố tụng thẩm vấn. Trên cơ sở các tiêu chí này, mô hình tố tụng tranh tụng có những đặc điểm sau: a.Trong tố tụng tranh tụng quá trình giải quyết vụ án hình sự được coi là quá trình giải quyết tranh chấp; b. Hình thành các bên (bên buộc tội, bên gỡ tội) bình đẳng trong việc thu thập chứng cứ, chứng minh trong quá trình giải quyết vụ án, có quyền nghĩa vụ tố tụng ngang nhau; c. Các chức năng cơ bản của TTHS được phân định rõ ràng tương ứng với các chủ thể buộc tội, chủ thể gỡ tội và chủ thể xét xử; d. Không mong đợi sự hợp tác của bị can, bị cáo trong quá trình chứng minh, họ được quyền giữ im lặng; e. Tố tụng tranh tụng mang tính chất công khai và mở ra cơ hội cho các bên buộc tội và bên gỡ tội. Từ những đặc điểm nêu trên có thể đưa ra khái niệm về mô hình tố tụng tranh tụng như sau: Tố tụng tranh tụng là mô hình tố tụng hình sự mà ở đó xuất hiện bên buộc tội và bên gỡ tội có địa vị pháp lý ngang bằng nhau trong quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án và toà án sẽ ra phán quyết dựa trên kết quả tranh tụng giữa các bên tại phiên toà. 1.1.3. Những ưu điểm và hạn chế của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng 1.1.3.1. Ưu điểm Ưu điểm của mô hình tố tụng tranh tụng thể hiện ở những khía cạnh sau: - Mô hình tố tụng tranh tụng có một quy trình tố tụng công bằng, nhất
  • 20. 12 là trong giai đoạn xét xử với vai trò bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Cả hai chủ thể này đều có quyền và nghĩa vụ như nhau trong suốt quá trình tố tụng. Ở giai đoạn tiền xét xử, họ có quyền như nhau trong việc điều tra, thu thập chứng cứ. Ở giai đoạn xét xử, chứng cứ của họ đều được đưa ra để thẩm tra trước Tòa. Từ góc độ tố tụng, họ đều có quyền tác động như nhau tới phiên xét xử, có quyền lựa chọn nhân chứng để thẩm tra... Tố tụng tranh tụng được biết đến khi tính ưu việt của nó là không chỉ đề cao quyền con người mà còn phát huy tối đa tinh thần dân chủ. Tại các nước theo hệ tranh tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng không bao giờ đứng trên và có ưu thế trội hơn bên gỡ tội mà giữa họ có một vị thế ngang bằng nhau, nhà nước và công dân đều có quyền và nghĩa vụ bình đẳng. Mô hình tố tụng tranh tụng đề cao dân chủ, công dân mà cụ thể là bị cáo cũng có quyền điều tra, thu thập chứng cứ để gỡ tội cho mình giống như là hoạt động của một công tố viên thu thập chứng cứ để buộc tội họ. Tại phiên toà xét xử, công tố viên và luật sư bào chữa tranh cãi với nhau một cách dân chủ cả về nội dung và hình thức. Đây chính là ưu điểm nổi bật của hệ tranh tụng so với hệ thẩm vấn – nơi mà phiên toà thường diễn ra một chiều theo hướng dành toàn bộ ưu thế cho viện công tố khi kết tội bị cáo. Với đặc điểm là toà án chỉ đóng vai trò trung gian như một trọng tài, thẩm phán ở các nước theo hệ tranh tụng không được tiếp cận với hồ sơ vụ án và không tham gia thẩm vấn. Do các bên được tự do trong việc thu thập và xuất trình chứng cứ, tự do trong việc thẩm vấn và tranh tụng tại phiên toà nên tố tụng tranh tụng đảm bảo được tính vô tư khách quan khi đưa ra phán quyết [39, tr.26]. Người ta cũng cho rằng phán quyết mà các vị thẩm phán của mô hình tố tụng tranh tụng đưa ra là một phán quyết rất công bằng. Xin nói cho rõ thêm đây được xem là phán quyết công bằng nhưng không hẳn là phán quyết đem lại công lý, bởi công bằng không có nghĩa là công lý. Công
  • 21. 13 bằng là ở chỗ phán quyết của toà án dựa trên kết quả cuộc tranh luận giữa bên buộc tội và bên gỡ tội – mà cả hai bên này đều được pháp luật trao cho những cơ hội ngang nhau để bảo vệ luận điểm, lý lẽ của mình nên một phán quyết có lợi hơn cho bên giành chiến thắng chính là một phần thưởng xứng đáng giành cho người nỗ lực, tích cực, chủ động và tài giỏi hơn. Sự công bằng còn đem lại những tác động tích cực tới chất lượng của quá trình giải quyết vụ án. Do Luật sư có thể tham gia đầy đủ vào quá trình tố tụng nên Tòa án có thêm được một nguồn thông tin để khám phá sự thật khách quan của vụ án. Thay vì chỉ xem xét các chứng cứ có trong hồ sơ hình sự của bên buộc tội (đối với mô hình tố tụng thẩm vấn) thì Tòa án trong mô hình tố tụng tranh tụng được tiếp cận cả chứng cứ phong phú của cả bên buộc tội và bên gỡ tội. Sự va đập của hai luồng chứng cứ này có thể tìm ra sự thật khách quan một cách chính xác hơn, chất lượng tố tụng vì thế cũng nâng cao hơn. - Tôn trọng và bảo đảm quyền con người hơn trong quá trình tố tụng so với các mô hình tố tụng hình sự khác Tố tụng hình sự là hoạt động khá nhạy cảm và cũng rất dễ động chạm đến quyền con người, nhưng đã từ rất lâu nay, trong lịch sử phát triển cuả mình, tố tụng tranh tụng chưa bao giờ bị coi là xem nhẹ quyền con người. Với nguyên tắc suy đoán vô tội “thà bỏ sót còn hơn bắt nhầm” các cơ quan tiến hành tố tụng luôn đặt quyền hiến định, quyền con người lên trên hết. Đơn cử như ở Anh khi muốn hỏi cung bị can thì sự có mặt của luật sư được coi là bắt buộc và ở tất cả các nước theo hệ tranh tụng, khi một nghi phạm bị bắt giữ, anh ta sẽ nhận được thông báo về quyền và nghĩa vụ của mình và rằng anh ta có quyền im lặng bất hợp tác với cảnh sát và có quyền đòi hỏi sự có mặt của luật sư. Hoặc tại Mỹ, luật TTHS qui định, sau khi tiến hành bắt một ai đó, cảnh sát phải lập chứng cứ hay có một tuyên bố có tính chất thề thốt. Bị can nhất thiết phải được thông báo chính xác về các trách nhiệm và tất cả các
  • 22. 14 quyền hiến định, cũng như các bảo đảm, trong đó quan trọng nhất là một số quyền mà quyết định Miranda của toà án Warren đã tuyên năm 1966. ở một vài tiểu bang của Mỹ còn đòi hỏi phải thông báo cho bị can về các quyền được ghi trong đạo luật về nhân quyền như: quyền được xét xử nhanh chóng và quyền được đối chất với người làm chứng chống lại bị can [10, tr.5-6]. Tại phiên toà, bị cáo có quyền tự bào chữa cho mình hoặc thông qua luật sư bào chữa để thực hiện việc tranh cãi với công tố viên và không ai bị coi là có tội khi chưa có một phán quyết của toà án. Với sự công bằng của quy trình tố tụng, mô hình tố tụng tranh tụng thể hiện ở mức độ cao hơn sự tôn trọng các quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Vai trò của Luật sư giúp giảm đi sự lạm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này hết sức quan trọng bởi vì quá trình tố tụng hình sự là một quá trình hết sức nhạy cảm mà ở đó quyền cơ bản của công dân rất dễ bị vi phạm. Cũng chính vì vậy, các học giả có nhận định chung là trong mô hình tố tụng tranh tụng, quyền được suy đoán vụ tội của người dân được tôn trọng hơn so với mụ hình tố tụng hình sự khác. - Mô hình tố tụng tranh tụng hạn chế tối đa việc làm oan người vô tội Xuất phát từ tính chất dân chủ, khách quan, công bằng mô hình tố tụng tranh tụng luôn mở ra cơ hội cho các bên và kết quả tranh tụng tại toà án là căn cứ để tòa án ra phán quyết nên nó hạn chế đến mức tối đa các trường hợp kết án oan người không phạm tội. Hệ quả này bắt nguồn từ việc tố tụng tranh tụng đề cao quyền tự bào chữa của bị can, bị cáo và không có sự phân biệt đối xử giữa công tố viên và luật sư. Mặt khác, giai đoạn điều tra chỉ thực sự bắt đầu khi phiên toà tuyên bố khai mạc nên các bên còn rất nhiều cơ hội để bảo vệ quan điểm của mình đặc biệt là cơ hội sẽ rất rộng mở đối với bên bị buộc tội. Hồ sơ của cơ quan điều tra, bản luận tội của viện công tố chỉ được xem là một trong những bằng chứng sẽ được kiểm định tại phiên toà. Nếu bản luận
  • 23. 15 tội tại tòa, viện công tố không cứng cỏi, lời lẽ không thuyết phục, bằng chứng không phù hợp với thực tế hay họ làm việc kém nỗ lực, tích cực hơn luật sư bào chữa của bị cáo thì cáo trạng của họ rất dễ bị đổ. Không giống như cáo trạng của viện công tố ở các nước theo mô hình tố tụng thẩm vấn, cáo trạng của viện công tố ở các nước theo mô hình tranh tụng rất dễ phạm phải sai lầm do mục đích mà họ đặt ra là phải tìm mọi chứng cứ buộc tội một bị cáo trước toà nên không tránh khỏi có một cái nhìn thiếu thiện chí đối với bị cáo. Chính vì lẽ đó mà luật sư bào chữa phải tìm đủ mọi chứng cứ để minh oan cho thân chủ của mình và chắc chắn là trong trường hợp này các luật sư sẽ hạn chế đến mức tối đa các trường hợp làm oan người vô tội. Nói như vậy không có nghĩa là ở mô hình tố tụng tranh tụng không có các vụ án oan mà chỉ ít xảy ra hơn do phiên tòa diễn ra dân chủ, khách quan, nếu có oan uổng thì hầu hết đều là do những sai lầm không thể cứu vãn hoặc do bị cáo không có tiền để thuê luật sư giỏi. Ở một số nước như Anh, Mỹ... các luật sư thường rất có trách nhiệm với công việc của mình, có những vụ án kéo dài hàng chục năm trời mới được minh oan; tuy thời gian có trôi qua nhưng các luật sư vẫn quyết tâm làm rõ chân tướng của sự việc, để mặc dù không thể cứu vãn được phán quyết của một phiên toà thì cũng có thể trả lại sự trong sạch cho thân chủ và khiến cho các cơ quan tư pháp phải nghiêm khắc nhìn nhận lại những sai lầm của mình trong quá khứ. 1.1.3.1. Hạn chế Bên cạnh những ưu điểm thì mô hình tố tụng tranh tụng có những hạn chế sau: - Dễ bỏ lọt tội phạm Như trên đã trình bày, một trong những ưu điểm của mô hình tố tụng tranh tụng là hạn chế đến mức tối đa việc kết án oan người vô tội nhưng mặt trái của ưu điểm này lại là một nhược điểm rất lớn của nó là việc dễ bỏ lọt tội
  • 24. 16 phạm. Cáo trạng do viện công tố thiết lập để truy tố một kẻ nào đó không bao giờ được bảo vệ một cách dễ dàng tại mỗi phiên toà cho nên nếu như cáo trạng đó truy tố kẻ phạm tội là chính xác thì cũng có nhiều khi các cơ quan tư pháp phải bó tay nhìn kẻ phạm tội nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. - Mô hình tố tụng tốn kém Người ta thường nói “một nền tư pháp mạnh là một nền tư pháp tốn kém”, với đòi hỏi nội tại của mô hình tố tụng tranh tụng nó tốn kém không chỉ về sức lực, tiền bạc mà còn cả về thời gian. Do khi mở phiên tòa mới bắt đầu là giai đoạn điều tra nên kể từ khi phiên toà khai mạc cho đến khi kết thúc, các bên đều sẽ phải bỏ ra không ít thời gian và công sức để tham dự phiên tòa. Sự tốn kém về thời gian sẽ kéo theo rất nhiều sự tốn kém khác của các bên trong tiến trình xét xử vụ án. Hệ tố tụng tranh tụng không chỉ rút của ngân sách nhà nước một khoản chi phí không nhỏ mà còn là một hệ tố tụng – không phải là chỗ dựa cho người nghèo. Bởi ở hệ tố tụng này, mỗi một vụ án hình sự hầu như đều có luật sư tham gia và chi phí thuê luật sư ở các nước này rất đắt đỏ vì thế sẽ là một bất lợi rất lớn cho người nghèo không có tiền thuê luật sư giỏi. - Vai trò của thẩm phán và hội thẩm ít được phát huy Do người có nhiệm vụ xét xử tham gia một cách thụ động vào phiên tòa và lại là người không chuyên nghiệp, không có kiến thức pháp luật (Bồi thẩm đoàn) nên vô hình chung gây ra phản tác dụng đối với chính những ưu điểm của mô hình tố tụng này. Công tố viên và Luật sư là người chi phối hoàn toàn quá trình tố tụng tranh tụng. Thực tế là họ không có nghĩa vụ tìm ra sự thật khách quan mà chủ yếu thực hiện chức năng, trách nhiệm tố tụng của mình. Trách nhiệm của bên công tố là buộc tội, còn trách nhiệm của bên bào chữa là gỡ tội. Cả hai bên sẽ chỉ dùng những chứng cứ có lợi cho việc thực hiện chức năng tố tụng của mình mà thôi, và điều này làm cho chứng cứ hay quan điểm
  • 25. 17 riêng của một bên khi đưa ra tại phiên tòa không bao giờ phản ánh hoàn toàn sự thật khách quan của vụ án. Trong khi đó, Bồi thẩm đoàn là những người dân, ít hiểu biết về pháp luật, nhưng họ lại có quyền phán quyết về sự thật khách quan của vụ án mà chỉ thông qua việc nghe bên buộc tội và bên bào chữa xét hỏi nhân chứng và tranh luận theo mục đích của mình. Lẽ đương nhiên, Bồi thẩm đoàn sẽ nghiêng về bên có lý, thuyết phục hơn chứ không hẳn là bên tìm ra sự thật khách quan. Điều này hết sức rủi ro cho mục đích tìm sự thật khách quan của mô hình tố tụng tranh tụng. Bởi vì Luật sư hay Công tố viên có thể dễ dàng thông đồng với nhân chứng hay thậm chí là cả giám định viên để làm sai lệch sự thật theo cách có lợi cho mình và bẻ cong chân lý. Thực tiễn xét xử ở cả Anh và Mỹ đó ghi nhận những trường hợp như vậy. - Mô hình tố tụng tranh tụng chưa quan tâm đúng mức đến lợi ích công Việc quá đề cao các lợi ích các nhân làm cho mô hình tố tụng tranh tụng không phản ánh hết được tầm quan trọng của việc bảo vệ lợi ích công cộng trong các vụ án hình sự. Chính điều này dẫn đến thực tiễn giải quyết vụ án hình sự ở một số nước áp dụng mô hình tố tụng tranh tụng đó có thời kỳ báo động về tình trạng lạm dụng thái quá việc áp dụng hình thức mặc cả nhận tội. Thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra ít được pháp luật quy định, thời hạn không được xác định, không có các thiết chế giám sát tuân thủ pháp luật từ Viện kiểm sát/ Viện công tố..., do vậy, cũng tiềm ẩn những khả năng vi phạm quyền con người của bị can từ phía cảnh sát. 1.2. VAI TRÒ CỦA TRANH TỤNG TRONG QUÁ TRÌNH XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ Giải quyết vụ án công khai, dân chủ, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đảm bảo công lý, công bằng là trách nhiệm không chỉ thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mà còn là quyền của
  • 26. 18 người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác, đồng thời cũng là đòi hỏi của xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình TTHS giải quyết vụ án thì tòa án chiếm vị trí trung tâm. Sự ra đời của tòa án gắn liền với hoạt động xét xử và xét xử trở thành đặc điểm quan trọng nhất khi nói đến tòa án. Ngay từ khi nhà nước xuất hiện đã có xét xử và có tòa án. Theo GS.TS Nguyễn Đăng Dung thì Tư pháp tức là pháp đình, là tòa án, là y theo pháp luật mà xét định các việc trong phạm vi pháp luật do vậy, “hệ thống cơ quan tư pháp có chức năng xét xử các hành vi vi phạm các qui định của pháp luật nhà nước” [11, tr.23]. Trong lĩnh vực hình sự, quá trình tố tụng được phân chia ra nhiều giai đoạn: Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án và tham gia vào quá trình tố tụng đó có nhiều chủ thể, nhưng tập trung và điển hình nhất là ở giai đoạn xét xử. Vì vậy, xét xử có vai trò quan trọng đối với tranh tụng. Vai trò đó thể hiện trên các khía cạnh sau: 1.2.1. Xét xử là biểu hiện tập trung, tiêu biểu nhất quyết định hiệu quả của tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án Về bản chất, quá trình tranh tụng chính là quá trình xác định sự thật khách quan về vụ án. Nó cũng là phương tiện để đạt được mục đích và nhiệm vụ đặt ra của tố tụng hình sự là nhằm giải quyết vụ án hình sự khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật. Tranh tụng còn là hình thức tố tụng bảo đảm cho các chủ thể (các bên và Toà án) có thể thực hiện có hiệu quả chức năng của mình trong tố tụng hình sự, đặc biệt là ở giai đoạn xét xử vụ án. Không những tranh tụng thể hiện bản chất dân chủ và nhân đạo của tố tụng hình sự mà còn là cơ sở để xác định địa vị tố tụng, vị trí, vai trò và chức năng của các chủ thể tiến hành tố tụng cũng như các chủ thể tham gia tố tụng. Vì thế, tranh tụng không chỉ là phương pháp nhằm thực hiện mục đích xác định sự thật khách quan trong vụ án hình sự mà không còn là một nguyên tắc của tố tụng hình sự. Việc khẳng định tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản
  • 27. 19 của TTHS có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ các quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Chính vì vậy, nguyên tắc tranh tụng đã được thừa nhận trên phạm vi toàn cầu và được quy định trong pháp luật của hầu hết các quốc gia. Tại Điều 10 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc ngày 10.12.1948 ghi nhận: "Mọi người đều có quyền hoàn toàn ngang nhau được phát biểu bình đẳng và công khai trước một Toà án độc lập và không thiên vị, nơi quyết định các quyền và nghĩa vụ của mình hoặc về việc buộc tội mình có cơ sở trước Toà". Tuy nhiên, những mức độ khác nhau, nguyên tắc tranh tụng cũng đòi hỏi phải được thể hiện trong suốt quá trình giải quyết vụ án dưới hình thức tranh luận, phản bác công khai các quan điểm giữa các bên về vụ án. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi sự phân định rõ ràng ba chức năng: Buộc tội, bào chữa và tài phán thuộc các bên tương ứng – Bên buộc tội, bên bào chữa và Toà án. Nội dung của nguyên tắc tranh tụng hình sự không chỉ được ghi nhận ở một điều luật cụ thể mà nó được thể hiện và cụ thể hoá trong nhiều quy phạm pháp luật tố tụng hình sự có liên quan, liên hệ và thống nhất với nhau để tạo thành một chế định pháp lý hoàn chỉnh xuyên suốt toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự. Mô hình tố tụng tranh tụng trong giải quyết vụ án hình sự là một loại hình tố tụng hình sự mà ở đó khi kiện tụng các bên phải đưa ra chứng cứ, lý lẽ và được tranh cãi với nhau về những chứng cứ, lý lẽ đó trước Toà án với vai trò là trọng tài phân xử. Hay nói một cách khác tố tụng tranh tụng trong giải quyết vụ án hình sự là loại hình tố tụng hình sự mà ở đó bên buộc tội và bên gỡ tội có địa vị tố tụng ngang bằng nhau, tham gia vào quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án và Toà án sẽ ra phán quyết dựa trên kết quả tranh tụng giữa các bên tại phiên toà. Tại giai đoạn điều tra, đã có một số yếu tố của tranh tụng cùng với sự
  • 28. 20 xuất hiện của bên buộc tội và bên bào chữa, tuy nhiên những đặc điểm của tranh tụng chỉ có đủ khi xuất hiện chức năng tài phán của người trọng tài. Như vậy đặc điểm, tính chất của tranh tụng chỉ có được trong giai đoạn xét xử. Về hình thức, tranh tụng tại phiên toà là hình thức tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật của bên buộc tội và bên bào chữa trước toà án. Về nội dung tranh tụng là quá trình chứng minh hoặc phủ nhận tính hợp pháp của nội dung quyết định buộc tội. Tất cả mọi hoạt động của các chủ thể ở phiên toà đều tập trung kiểm tra tính xác thực và hợp pháp của từng nội dung trong cáo trạng truy tố. Trong tố tụng hình sự giai đoạn xét xử được coi là giai đoạn trung tâm, và trong các cấp xét xử thì cấp sơ thẩm lại có vai trò quan trọng nhất bởi vì toàn bộ vụ án và mọi vấn đề liên quan đến vụ án được xem xét và quyết định tại giai đoạn này. Xét xử vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, trong đó, Toà án có thẩm quyền phán quyết có hay không có tội phạm xảy ra, một người có phải là người phạm tội hay không, nếu có tội sẽ áp dụng loại, mức hình phạt nào. Tại các phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có sự tham gia đầy đủ nhất của tất cả các chủ thể của hai bên (buộc tội, bào chữa) và các chủ thể khác tham gia vào quá trình tố tụng. Như vậy, chỉ có tại phiên toà các chức năng tố tụng cơ bản: Buộc tội, gỡ tội, tài phán được phân định rõ ràng giữa bên buộc tội, bên bào chữa, Toà án và cũng chỉ tại phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự vai trò của bên buộc tội, bên bào chữa được xác định là các bên có quyền bình đẳng với nhau trong việc sử dụng các phương tiện mà pháp luật cho phép để thực hiện chức năng tranh tụng. Vì phiên toà thường ghi âm, ghi hình, nên trong hệ tranh tụng, với mục đích xem xét lại việc tuân thủ các quy tắc tố tụng, các thẩm phán phúc thẩm sẽ xem lại (nghe lại) toàn bộ diễn biến phiên toà và có thể huỷ án nếu có sự vi phạm tố tụng. Trong trường hợp có kháng cáo, kháng nghị với lý do không
  • 29. 21 phải từ thủ tục tố tụng, thì chủ thể kháng cáo, kháng nghị có trách nhiệm chỉ ra rằng trong phiên toà xét xử sơ thẩm có sự sai lầm trong việc thực thi công lý hoặc chứng minh được rằng chứng cứ được đưa ra xem xét tại phiên toà sơ thẩm không có quan hệ hợp lý với phán quyết của bồi thẩm đoàn. Quan điểm là căn cứ cho kháng cáo, kháng nghị thường do một bên đưa ra với yêu cầu được toà án xem xét lại. đó là những đề nghị lên quan đến chức năng tài phán của toà án chứ không phải là quan điểm đưa ra để tranh luận với bên có lập trường tương phản. Ngay khi phiên toà phúc thẩm có được thiết lập thì nội dung của phiên toà cũng chỉ xoay quanh những vấn đề bị kháng cáo, kháng nghị và chủ yếu do các chủ thể kháng cáo, kháng nghị trình bày với toà. Trong phiên toà chỉ có sự có mặt của chủ thể có kháng cáo, kháng nghị và có thể có một số chủ thể khác có liên quan (nhưng không bị bắt buộc). Như vậy trong phiên toà phúc thẩm, sự tranh luận (nếu có) chỉ tồn tại một cách phiến diện, được xác định ở một góc độ hoặc một khía cạnh nào đó chứ không phải toàn bộ vụ án hình sự và tính tranh tụng không được thể hiện với đầy đủ những đặc điểm của nó. Mặc dù, như đã nêu ở trên nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc tổ chức của tố tụng hình sự giữ vai trò định hướng cho hoạt động và các hành vi tố tụng của các chủ thể nhằm thực hiện chức năng của mình trong quá trình tranh tụng để giải quyết vụ án hình sự, nhưng rõ ràng nguyên tắc tranh tụng được thể hiện một cách đầy đủ và tập trung rõ nét nhất ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Nó xác định rõ vai trò và vị trí đặc biệt của Toà án trong tố tụng hình sự nói chung và trong tranh tụng nói riêng. Toà án phải tạo mọi điều kiện mà pháp luật cho phép để các bên có thể phát huy hết tính chủ động và tích cực khi tham gia giải quyết vụ án hình sự. Là chủ thể chính trong việc đưa ra phán quyết cuối cùng dựa trên các chứng cứ của các chủ thể khác xuất trình tại phiên toà, Toà án phải tham gia ở một mức độ cần thiết vào quá trình
  • 30. 22 tranh tụng để làm rõ các chứng cứ và tình tiết về vụ án. Tuy nhiên, Toà án không được để chủ thể nào bị động khi khi tham gia tranh tụng bằng cách làm thay chức năng của họ và ngược lại không được để quá trình tranh tụng diễn biến theo ý chí chủ quan của bất kỳ chủ thể nào tham gia phiên toà. Tất cả những phân tích trên đây cho thấy: chỉ có ở giai đoạn xét xử, nguyên tắc tranh tụng mới được thể hiện một cách đầy đủ và toàn diện nhất. 1.2.2. Điều khiển tranh tụng tại phiên tòa giữa các bên thông qua vai trò của Hội đồng xét xử Về bản chất, tranh tụng trong tố tụng hình sự là một quá trình cọ sát các quan điểm lập luận về vụ án giữa các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa tham gia vào quá trình tố tụng hình sự nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Tranh tụng chỉ được coi là bắt đầu khi có sự xuất hiện chức năng buộc tội và tương ứng với nó là chức năng gỡ tội. Bên buộc tội gồm: công tố viên, người bị hại, nguyên đơn dân sự và những người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Bên bào chữa gồm: người bị buộc tội, người bào chữa, bị đơn dân sự và người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người này. Trong suốt quá trình tranh tụng, bên buộc tội và bên bào chữa liên tục trao đổi với nhau những lập luận, chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Tố tụng tranh tụng dành một vị trí đặc biệt cho lợi ích các bên. Lợi ích của xã hội được đặt xuống hàng thứ yếu. Có thể coi tố tụng tranh tụng là một dạng tố tụng đặc biệt diễn ra tại toà án để xử lý các tranh chấp giữa ít nhất hai bên. Tranh chấp do các bên “kiểm soát”, nghĩa là các bên xác định tranh chấp, xác định các vấn đề phải được quyết định và mỗi bên đều có cơ hội trình bày phần tranh luận của mình tại toà. Như vậy, tố tụng tranh tụng thực sự mở ra cơ hội cho các bên, bên buộc tội và bên bào chữa có một vị thế ngang nhau trong việc tìm hiểu sự thật khách quan của vụ án và bảo vệ luận điểm của mình trước Toà án. Sự ngang bằng này được
  • 31. 23 thể hiện ở địa vị là các bên trong tố tụng và có những phương tiện mà pháp luật dành cho họ trong việc thực hiện quyền của mình. Bên buộc tội, bên bào chữa đều có quyền điều tra, thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng để bảo vệ cho lý lẽ của mình và cũng là để phản bác lại luận điểm của phía bên kia. Toà án chỉ ra phán quyết theo những chứng cứ và lý lẽ được coi là hợp pháp và bác bỏ những chứng cứ chưa đúng luật và bất hợp lý. Với mục đích của mô hình tố tụng tranh tụng là hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp của những người có quyền quyết định vụ án để đảm bảo cho các thủ tục tố tụng được tiến hành một cách công bằng theo cách các bên tranh chấp có quyền trình bày về vụ án mà không bị sự lấn át của bên kia nên trong tố tụng tranh tụng không có ai chiếm vai trò tuyệt đối về quyền lực, mà có sự chia sẻ quyền lực giữa công tố viên - đại diện cho bên buộc tội, luật sư - đại diện cho bên bào chữa, Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà và bồi thẩm đoàn. Viện công tố ở các nước theo hệ tranh tụng sẽ làm nhiệm vụ truy tố kẻ bị tình nghi là phạm tội ra trước Toà. Người giữ quyền công tố - đại diện cho cơ quan này trước Toà án được gọi là công tố viên hay là luật sư buộc tội. Vai trò của công tố viên trong một phiên toà hình sự là lựa chọn và trình bày tất cả những chứng cứ mà Nhà nước sẽ lấy làm căn cứ buộc tội. Công việc buộc tội không chỉ đơn giản là đưa bản cáo trạng ra trước Toà mà còn phải dùng nhân chứng, vật chứng và lý lẽ của mình để đấu trí với luật sư bào chữa nhằm mục đích bảo vệ cáo trạng của mình tại phiên toà. Trách nhiệm của bên buộc tội là sự chứng minh sự đúng đắn và hợp pháp của nội dung truy tố bằng cách đưa ra các chứng cứ, căn cứ pháp lý và các lập luận để bảo vệ quan điểm của mình về sự buộc tội đối với bị cáo và bác bỏ các chứng cứ, căn cứ và lập luận của bị cáo và người bào chữa. Trước khi phiên toà diễn ra, công tố viên có quyền điều tra thu thập chứng cứ và tại phiên toà với tư cách là đại diện cho cơ quan công quyền họ sẽ tranh cãi với luật sư của bên bị buộc tội để cùng đi đến sự thật của vụ án.
  • 32. 24 Bào chữa là toàn bộ các hành vi, hoạt động tố tụng của người bị tình nghi; bị can; bị cáo; người bào chữa; đại diện hợp pháp của người bị tình nghi, bị can, bị cáo là vị thành niên nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị tình nghi, gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội. Luật sư bào chữa là một chức danh dùng để chỉ người sẽ thay mặt và là người đại diện cho bên bị buộc tội trong việc phủ nhận những lý lẽ của công tố viên nhằm mục đích buộc tội bị cáo. Vai trò của Luật sư bào chữa là hành động không sợ hãi trong việc bào chữa cho khách hàng. Mặc dù Luật sư có nghĩa vụ với Toà án nhưng nghĩa vụ chính của họ là đối với khách hàng. Luật sư của các bị cáo theo hệ tranh tụng thường có tư duy pháp lý cao và rất mẫn cán với công việc. Pháp luật của các nước này dành cho luật sư bào chữa một vị thế và những quyền năng không hề thua kém các công tố viên. Một công tố viên có quyền gì thì tương ứng một luật sư bào chữa sẽ cũng có những quyền như thế. Họ cũng điều tra, cũng thu thập chứng cứ, cũng được phép trình bày lý lẽ của mình trước Toà án để bác bỏ sự buộc tội, chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ tội cho bị cáo và được phép tranh luận dân chủ với công tố viên. Từ những phân tích trên cho thấy, Thẩm phán, Hội đồng xét xử có vai trò điều tiết, duy trì cuộc tranh cãi không biết mệt mỏi giữa công tố viên – luật sư buộc tội và luật sư bào chữa và chỉ thực sự chấm dứt khi một trong hai bên hoặc cả hai bên không đưa ra được một nhân chứng, vật chứng nào để chứng minh cho luận điểm của mình hoặc bằng chứng mà một bên đưa ra đã là quá đủ để buộc tội hay gỡ tội cho bị cáo.Trong phiên toà, Toà án giữ vai trò "trọng tài" là người "cầm trịch" giữa hai bên. Trước khi phiên toà bắt đầu Thẩm phán và các bồi thẩm không hề có một tài liệu, hồ sơ trong tay vì vậy họ không biết gì về vụ án ngoài cái tên gọi của nó. Thẩm phán có nhiệm vụ duy trì trật tự phiên toà và giám sát quá trình tranh tụng giữa hai bên, còn vai
  • 33. 25 trò của bồi thẩm đoàn tại phiên toà giống như "những khán giả" và chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là quan sát quá trình tranh cãi gay gắt giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội cho đến khi vào phòng nghị án để quyết định vấn đề bị cáo có tội hay không có tội. Mặc dù, pháp luật của các nước đều quy định cho Toà án có quyền thẩm vấn các nhân chứng, bị cáo nhưng trên thực tế hầu như chẳng bao giờ Thẩm phán hoặc các bồi thẩm sử dụng quyền này. Với vai trò là người trọng tài "cầm cân công lý" làm nhiệm vụ phân xử giữa bên buộc tội và bên bào chữa, để có quyết định đúng đắn và khách quan về vụ án, Toà án không được phép định kiến đối với bất cứ bên nào và cũng không thể bị ràng buộc bởi bất cứ một yêu cầu, đề nghị hoặc ý kiến của bất kỳ ai. 1.2.3. Ra các phán quyết về tội phạm và người phạm tội dựa trên kết quả tranh tụng tại tòa Với đặc điểm là toà án chỉ đóng vai trò trung gian như một trọng tài, thẩm phán ở các nước theo hệ tranh tụng không được tiếp cận với hồ sơ vụ án và không tham gia thẩm vấn. Do các bên được tự do trong việc thu thập và xuất trình chứng cứ, tự do trong việc thẩm vấn và tranh tụng tại phiên toà nên tố tụng tranh tụng đảm bảo được tính vô tư khách quan khi đưa ra phán quyết [38, tr.26]. Người ta cũng cho rằng phán quyết mà các vị thẩm phán của hệ tranh tụng đưa ra là một phán quyết rất công bằng. Công bằng là ở chỗ phán quyết của toà án dựa trên kết quả cuộc tranh luận giữa bên buộc tội và bên gỡ tội – mà cả hai bên này đều được pháp luật trao cho những cơ hội ngang nhau để bảo vệ luận điểm, lý lẽ của mình nên một phán quyết có lợi hơn cho bên giành chiến thắng chính là một phần thưởng xứng đáng giành cho người nỗ lực, tích cực, chủ động và tài giỏi hơn. Xuất phát từ một hệ tố tụng dân chủ, khách quan, công bằng, một hệ tố tụng luôn mở ra cơ hội cho các bên, một hệ tố tụng mà phán quyết dựa vào kết quả tranh tụng tại toà án nên tố tụng tranh tụng có thể hạn chế đến mức tối
  • 34. 26 đa các trường hợp kết án oan người không phạm tội. Hệ quả này bắt nguồn từ việc tố tụng tranh tụng rất đề cao quyền tự bào chữa của bị can, bị cáo và không có sự phân biệt đối xử giữa công tố viên và luật sư. Mặt khác, giai đoạn điều tra chỉ thực sự bắt đầu khi một phiên toà tuyên bố khai mạc nên các bên còn rất nhiều cơ hội để bảo vệ quan điểm của mình đặc biệt là cơ hội sẽ rất rộng mở đối với bên bị buộc tội. Hồ sơ của cơ quan điều tra, bản luận tội của viện công tố chỉ được xem là một trong những bằng chứng sẽ được kiểm định tại phiên toà. Nếu bản luận tội tại viện công tố không cứng cỏi, lời lẽ không thuyết phục, bằng chứng không phù hợp với thực tế hay họ làm việc kém nỗ lực, tích cực hơn luật sư bào chữa của bị cáo thì cáo trạng của họ rất dễ bị đổ. Không giống như cáo trạng của viện công tố ở các nước theo hệ thẩm vấn, cáo trạng của viện công tố ở các nước theo hệ tranh tụng rất dễ phạm phải sai lầm do mục đích mà họ đặt ra là phải tìm mọi chứng cứ buộc tội một bị cáo trước toà nên không tránh khỏi có một cái nhìn thiếu thiện chí đối với bị cáo. Chính vì lẽ đó mà luật sư bào chữa phải tìm đủ mọi chứng cứ để minh oan cho thân chủ của mình và chắc chắn là trong trường hợp này các luật sư sẽ hạn chế đến mức tối đa các trường hợp làm oan người vô tội. Bồi thẩm đoàn thường được nói tới như là một tổ chức được trao nghĩa vụ hiến định là quyết định các tình tiết sự thực vụ án. Bồi thẩm đoàn là một cơ quan rất đặc trưng tại các nước theo hệ tranh tụng, đây là một cơ quan được tuyển lựa thông qua con đường bầu cử. Bồi thẩm đoàn thường gồm từ 9 đến 12 thành viên và họ sẽ làm việc trong một khoảng thời gian nhất định. Tại Vương Quốc Anh, bồi thẩm chỉ làm việc theo lời mời của Toà án cho từng vụ việc với cơ chế kiêm nhiệm, khi tham gia xét xử, bồi thẩm đoàn bỏ phiếu để quyết định bị cáo có tội hay không có tội, trong trường hợp bị cáo tự thú tội, việc xét xử không cần có bồi thẩm tham gia. Để ra được một kết luận chính xác Bồi thẩm đoàn phải chú ý lắng nghe
  • 35. 27 phần tranh luận giữa các bên tại Toà án và đặt ra các câu hỏi để xác định xem một người nào đó có phạm tội hay không. Nếu bồi thẩm đoàn phán quyết một kẻ nào đó là không có tội thì phiên toà xét xử sẽ chấm dứt và bị cáo sẽ được phóng thích ngay, ngược lại nếu đó là phán quyết bị cáo có tội thì giai đoạn kết án sẽ được bắt đầu [41, tr.43]. Quan điểm nhìn nhận bồi thẩm đoàn không chỉ là những người cần phải thụ động và trung lập mà còn là một cơ chế quan trọng để hạn chế sự chuyên chế của Chính phủ cũng như của các "quan toà". Quy định quyền được xét xử trước bồi thẩm đoàn như một hạn chế đối với mọi can thiệp từ chính quyền. 1.3. TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 1.3.1. Tố tụng tranh tụng tại một số nước theo hệ thống Common law 1.3.1.1. Vương quốc Anh Cũng giống như tất cả các nước theo hệ tố tụng tranh tụng khác, phiên tòa ở Anh quốc cũng có sự tham gia của công tố viên, bồi thẩm đoàn, thẩm phán chủ toạ và luật sư bào chữa. Toà hoàng gia của Anh có thẩm phán và 12 bồi thẩm, ở các toà khác bồi thẩm được bầu theo đơn vị bầu cử, số lượng bồi thẩm căn cứ vào sự trưng cầu ý kiến nơi bầu họ. Ở Anh, bồi thẩm đoàn chỉ có quyền khẳng định là bị cáo có tội hay không có tội, trong trường hợp bị cáo tự thú tội thì phiên toà xét xử sẽ không cần có sự tham gia của bồi thẩm đoàn. Mỗi phòng xét xử ở Anh có một camera quay trực tiếp và khi xét xử, công tố viên không được đề nghị mức án, khác với ở Mỹ, công tố viên ở Anh chỉ trình bày lại các nội dung tình tiết của vụ án cho toà nghe. Cơ quan công tố ở Anh không phải là cơ quan độc lập như ở một số quốc gia vì họ có thể hôm nay làm công tố, hôm sau làm bào chữa viên. Các luật sư ở Anh tự tổ chức lại thành công ty, thuê thư ký làm việc. Ở tổ chức này có hai loại luật sư, một loại cứ chuẩn bị hồ sơ bào chữa (luật sư
  • 36. 28 bào chữa), một loại cứ chuẩn bị báo cáo trước toà (luật sư công tố). Nước Anh chỉ có khoảng 20 công tố Nhà nước tham gia giải quyết những vụ án nghiêm trọng, còn lại công tố hoạt động có tính chất tư nhân[41, tr.107]. 1.3.1.2. Hoa Kỳ Hoa Kỳ tuy là một quốc gia có lịch sử không lâu đời lại là lại là thuộc địa trước đây của người Anh điêng nhưng hiện nay xét trên bất cứ phương diện nào Hoa Kỳ cũng không hề thua kém các nước Châu Âu lục địa. Nền tư pháp của Hoa Kỳ là một ví dụ điển hình, tuy tố tụng tranh tụng có khởi nguồn từ nước Anh nhưng lại được tiếp thu và phát huy một cách rực rỡ tại Hoa Kỳ và có thể nói rằng Hoa Kỳ có một hệ tố tụng hình sự rất điển hình và tiến bộ. Ở Hoa Kỳ có hai dạng bắt giữ người là bắt giữ có lệnh và bắt giữ không có lệnh, khi bị bắt giữ, bị can nhất định phải được thông báo về các quyền hiến định một cách chính xác, trong đó bị can nhất định phải được thông báo trước khi thẩm vấn rằng bị can có quyền giữ im lặng, rằng bất kỳ những gì bị can nói có thể được sử dụng để chống lại bị can tại toà án, rằng bị can có quyền đòi hỏi sự có mặt của luật sư và rằng nếu bị can không có khả năng thuê luật sư, thì một luật sư có thể được chỉ định giúp bị can trước khi thẩm vấn [10, tr. 5]. Như vậy, tại Hoa Kỳ luật sư có quyền tham gia vụ án kể từ khi một nghi phạm bị bắt giữ và thực hiện nhiều công việc trong khuôn khổ pháp luật để gỡ tội cho thân chủ của mình. Theo luật tố tụng hình sự liên bang Mỹ, luật sư bào chữa có quyền tiến hành các công việc điều tra như có quyền thẩm vấn nhân chứng hoặc cá nhân có biết một vài thông tin liên quan đến vụ án, điều tra tại hiện trường vụ án và xem xét bất cứ chứng cứ phạm tội nào. Luật sư có quyền tiếp cận với một số chứng cứ buộc tội của bên công tố để tìm hiểu rõ hơn về vụ án và tìm các chứng cứ khác bác lại những chứng cứ này, tức là theo đó bên công tố phải cho luật sư biết những thứ bên công tố dự định dùng làm chứng cứ tại toà, những thứ được thu giữ từ bị can và chính vì lẽ đó mà mặc dù bị
  • 37. 29 tạm giam nhưng bị can vẫn biết tường tận về diễn biến của vụ án thông qua thư từ hay các cuộc ghé thăm của luật sư. Công tố viên và luật sư bào chữa có quyền điều tra, thu thập chứng cứ để bảo vệ luận điểm của mình trong một phiên toà mang tính tranh tụng rất cao. Phiên toà hình sự sẽ được bắt đầu với phần công tố viên đọc bản cáo trạng, kể đến công tố viên sẽ đưa ra chứng cứ và nhân chứng để làm rõ việc kết tội của mình. Luật sư bào chữa có quyền chất vấn những nhân chứng do phía công tố đưa ra và quan toà có quyền bác bỏ những chứng cứ này nếu tin rằng chứng cứ không chứng minh được bị cáo phạm tội. Sau đó, luật sư bào chữa trình bày những chứng cứ và nhân chứng nhằm gỡ tội cho thân chủ của mình và bên công tố cũng có thể chất vấn những nhân chứng này và đưa ra chứng cứ hoặc lý lẽ để bác bỏ chứng cứ của luật sư bào chữa. Bị cáo có quyền đối chất với điều tra viên, nguyên cáo có quyền yêu cầu một số nhân chứng nào đó tham dự phiên toà và đối chất với họ [20]. Thủ tục “hỏi - đáp” hết sức được tôn trọng. Trong khi thực hiện công việc tranh tụng, thẩm phán đóng vai trò trung gian với công việc đầu tiên là theo dõi phiên toà, sau đó là xem xét các kiến nghị của công tố viên và luật sư liên quan đến các dạng chứng cứ và các câu hỏi được đặt ra cho nhân chứng. Trong một vài tiểu bang, thẩm phán được phép đặt những câu hỏi quan trọng về nhân chứng và cũng được phép bình luận với bồi thẩm đoàn về chứng cứ nhưng ở Hoa Kỳ thường thì quyền năng này của thẩm phán rất hạn chế [10, tr.6]. Thẩm phán phải duy trì trật tự giữa những người dự khán và hai bên nguyên - bị trong quá trình xét xử, phần tranh tụng kết thúc bằng lời phát biểu cuối cùng của cả hai bên kết tội và bào chữa. Sau khi việc tranh luận tại toà kết thúc, bồi thẩm đoàn sẽ nhóm họp và quyết định xem bị cáo có tội hay không có tội. Nếu bị cáo bị tuyên là có tội thì giai đoạn kết án sẽ được bắt đầu và trong giai đoạn này, quan toà phải chuẩn bị một án văn trong đó nêu rõ hành vi phạm tội của bị cáo cùng với các
  • 38. 30 nhân chứng, chứng cứ chứng minh cho hành vi phạm tội này. Thẩm phán chủ toạ phiên toà là người quyết định hình phạt đối với bị cáo và cách thức thi hành hình phạt đó. Có thể xem xét tiến trình xét xử một vụ án hình sự thông qua sơ đồ sau đây: 1.3.1.3. Oxtraylia Cũng giống như Hoa Kỳ, hệ tố tụng hình sự của Oxtraylia cũng là hệ tố tụng tranh tụng nên theo luật pháp của nước này, luật sư bào chữa được tiến hành công việc của một điều tra viên trước khi phiên toà xét xử diễn ra nhằm chuẩn bị cho phần biện hộ của mình. Luật đòi hỏi bên công tố phải cung cấp cho bị can một số tài liệu liên quan đến vụ án. Tại phiên toà, vai trò của công tố viên rất quan trọng, việc có bảo vệ được cáo trạng hay không phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của công tố viên, nếu công tố viên không bảo vệ được lời buộc tội của mình thì cáo trạng rất dễ bị đổ. Công tố viên sẽ phối hợp cùng điều tra viên để thu thập chứng cứ, hoàn thiện hồ sơ vụ án và tại phiên toà Bị can bị bắt giữ Bào chữa của luật sư biện hộ Phát biểu kết thúc Bồi thẩm đoàn tuyên đọc bản luận tội Chuẩn bị cho phần biện hộ Kiến nghị phản đối những chứng cứ sai Phiên toà sơ khởi Đưa ra chứng cứ Luận tội của công tố viên Phát biểu mở đầu Xét xử Quan toà hướng dẫn cho bồi thẩm đoàn Phần tranh luận của bồi thẩm đoàn Phán quyết
  • 39. 31 nghĩa vụ chứng minh bị cáo có phạm tội hay không thuộc về công tố viên. Để bảo vệ được bản luận tội một kẻ bị tình nghi ra trước toà là một việc rất khó khăn nên dù đã làm việc cật lực hết sức thì các công tố viên cũng chỉ bảo vệ được khoảng 50% cáo trạng đã truy tố. Ở Oxtraylia, công tố viên sẽ phải đối đầu với một nhân vật có một vị thế rất cao trong xã hội và có một trình độ pháp lý cũng rất đáng nể, đó là các vị luật sư. Trong tố tụng hình sự, luật sư được quyền tham gia ngay từ khi khởi tố vụ án, được quyền tìm hiểu vụ án như một điều tra viên và thay mặt bị cáo để thực hiện quyền phản bác tại phiên toà. Công tố viên có trách nhiệm phải thông báo tất cả các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được cho luật sư để họ thực hiện việc bào chữa, ngược lại luật sư có quyền giữ bí mật tài liệu chứng cứ mà họ có được để thực hiện việc phản bác cáo trạng. Tại phiên toà, luật sư thay mặt cho bị cáo thực hiện việc tranh luận với công tố viên và các nhân chứng về từng chứng cứ được nêu ra. Phần lớn các vụ xét xử ở Oxtraylia đều có luật sư tham gia, nếu bị cáo là người nghèo không có tiền thuê luật sư thì một luật sư công sẽ được nhà nước chỉ định để bào chữa cho họ [41, tr.113-114]. Phiên toà xét xử tại Oxtraylia cũng giống như tại các nước theo hệ tranh tụng khác, phiên toà sẽ được bắt đầu bằng việc đọc bản luận tội của cơ quan công tố, sau đó một công tố viên sẽ trình bày những chứng cứ chứng minh cho bản luận tội của mình. Luật sư bào chữa sẽ dùng lý lẽ để phản bác lại những chứng cứ đó và đưa ra bằng chứng gỡ tội cho thân chủ mình. Cứ như vậy, công tố viên và luật sư bào chữa sẽ tranh luận với nhau theo một dòng đều chảy, Thẩm phán và bồi thẩm đoàn sẽ ngồi nghe phần tranh luận giữa các bên và đưa ra phán quyết xem bị cáo có phạm tội hay không, nếu có thì thẩm phán sẽ quyết định bị cáo phạm tội gì và tuyên mức hình phạt. Nói tóm lại, hầu hết các nước theo hệ thống Common law đều tổ chức hoạt động tố tụng hình sự của mình theo nguyên tắc tranh tụng. Các nước
  • 40. 32 thuộc hệ pháp luật Common law đều tự hào rằng hệ tố tụng của họ rất dân chủ và tiến bộ, trội hơn hẳn so với hệ tố tụng thẩm vấn nhưng xét cho đến cùng thì mỗi hệ tố tụng đều có ưu- nhược điểm riêng mà các nước nên tiếp nhận những hạt nhân hợp lý của chúng để xây dựng cho mình một hệ tố tụng tiến bộ và hoàn chỉnh, gọn nhẹ và vì con người. 1.3.2. Áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự - Điểm cơ bản trong quá trình cải cách tư pháp của nhiều quốc gia trên thế giới Tố tụng thẩm vấn là một hệ tố tụng truyền thống của các nước theo Civil law. Nhưng thời gian dần trôi đã chứng minh rằng trong một thế giới đề cao quyền con người thì kiểu loại tố tụng này dường như không còn phù hợp nữa. Trong quá trình thực hiện công cuộc cải cách tư pháp, nhiều quốc gia trên thế giới đã tìm thấy ở hệ tố tụng tranh tụng rất nhiều điểm hợp lý để thay thế cho những nhược điểm cố hữu của hệ tố tụng thẩm vấn. Tuy không sao chép y nguyên hệ tranh tụng vào trong hoạt động tố tụng hình sự của nước mình nhưng tiếp thu những hạt nhân hợp lý của nguyên tắc tranh tụng đã làm cho hoạt động tố tụng hình sự ở các nước này đổi mới khởi sắc hơn. 1.3.2.1. Cộng hoà Pháp Trong nghiên cứu của luật so sánh, Pháp được xếp vào các nước theo truyền thống pháp luật Châu Âu lục địa. Trước đây, cũng như nhiều quốc gia khác, tố tụng hình sự ở Pháp được bắt đầu từ mô hình đối tụng. Nhưng khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định thì nhà nước ngày càng giữ một vai trò quan trọng trong phòng chống tội phạm, chính vì lẽ đó mô hình thẩm tra đã thay thế mô hình đối tụng ở hầu hết các nước Châu Âu lục địa. Pháp bắt đầu sử dụng mô hình thẩm tra từ thế kỷ XIII vì sự cần thiết phải giải quyết các vụ án nghiêm trọng của đất nước. Trong thời kỳ này, thẩm phán thường dùng hình thức tra tấn để lấy cung của bị cáo vì thế cho nên nó được coi là kém tiến bộ hơn so với mô hình đối tụng. Nhưng trong quá trình thực hiện tố
  • 41. 33 tụng thẩm vấn, Pháp cũng đã nhận thấy các yếu điểm của hệ tố tụng này khi chú trọng đến quyền con người và nguyên tắc suy đoán vô tội. Chính vì lẽ đó vào năm 2000, Pháp đã phải đưa một số nội dung của tố tụng tranh tụng vào hệ thống pháp luật nước mình. Hiện nay, tại Pháp mọi vụ án hình sự đều phải có luật sư. Khi cảnh sát bắt giữ một người bị nghi là phạm tội thì luật sư của anh ta sẽ ngay lập tức được mời đến, nếu không một luật sư chỉ định cũng sẽ được mời để giúp đỡ cho anh ta, khi lấy lời khai của bị can mà không có mặt của luật sư thì biên bản lấy lời khai không có giá trị. Ở Pháp, luật sư được quyền xem hồ sơ, gặp gỡ, trao đổi với thân chủ và tuy không có quyền tự mình tiến hành điều tra nhưng luật sư có quyền yêu cầu dự thẩm giám định, tái giám định, mời nhân chứng... Ở Pháp, cơ quan làm nhiệm vụ truy tố một bị cáo ra trước toà là Viện công tố. Trong phiên toà, công tố viên sẽ tranh luận với luật sư bào chữa để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Khi tranh luận, luật sư có quyền đi lại, đứng lên ngồi xuống theo thói quen của từng vị và mang bảng, biển để minh hoạ. Thời gian biện hộ của luật sư là không hạn chế, tuy nhiên thường không dài tránh “ru ngủ” bồi thẩm đoàn. Tại phiên toà, luật sư và công tố viên phải mặc áo thụng trong khi bị cáo vẫn mặc thường phục bởi trước khi một phán quyết được đưa ra, họ vẫn chưa bị coi là có tội. Luật sư tại Pháp tham gia vụ án mà không cần phải có giấy giới thiệu và họ cũng không thể “chạy án” bởi quyền lực được san sẻ cho nhiều người mà không chỉ tập trung vào thẩm phán và đối với bản thân thẩm phán cũng không thể gây áp lực lên bồi thẩm đoàn. Mỗi vụ án tại Pháp, bồi thẩm đoàn thường gồm 9 hoặc 12 người. Các thành viên của bồi thẩm đoàn không hề được xem xét hồ sơ từ trước mà chỉ ngồi nghe tranh tụng tại toà, sau đó vào phòng nghị án và biểu quyết. Hồ sơ vụ án cũng không được đem vào phòng nghị án. Do vậy, hội đồng xét xử đóng vai trò trọng tài là chính. Trong khi xét xử, bồi thẩm viên được quyền hỏi bị cáo,
  • 42. 34 nhân chứng... nhưng không được đưa ra quan điểm chủ quan, phát biểu kết tội bị cáo, nguyên tắc suy đoán vô tội luôn luôn được đề cao [30]. Không cần phải nhắc lại chúng ta cũng có thể hình dung ra rằng một phiên toà tại Pháp sẽ là cuộc tranh tụng gay gắt giữa luật sư và công tố viên nên như ông luật sư Jacques Bourdals – chủ tịch hiệp hội hợp tác pháp luật Việt – Pháp đã nói “Bản án hoàn toàn dựa vào kết quả tranh tụng tại toà”. Đây là một kết luận mà nếu Pháp còn sử dụng mô hình thẩm tra thì sẽ không thể nào có được. 1.3.2.2. Nhật Bản Nhật Bản là một quốc gia ở Đông Á với truyền thống thuộc hệ thống pháp luật Civil law nhưng hiện nay trong nền tư pháp Nhật Bản đã thấy xuất hiện rất nhiều những hoạt động đặc trưng của hệ tố tụng tranh tụng. Ở Nhật Bản, công tố viên được trao cho rất nhiều quyền hành, tất cả các vụ án do cảnh sát hoặc các cơ quan khác điều tra đều được chuyển cho viện công tố. Ngoài ra, công tố viên còn có thẩm quyền điều tra với bất cứ tội phạm nào, công tố viên là người duy nhất có quyền quyết định truy tố hay không truy tố. Tại Nhật Bản, công tố viên không bao giờ truy tố một cách không căn cứ, chỉ trong trường hợp thấy có khả năng rất cao là có thể luận tội được tại phiên xử thì công tố viên mới truy tố bị can. Vì vậy tỉ lệ phán quyết vô tội tại Nhật Bản rất thấp và tỉ lệ phán quyết là có tội rất cao, vượt trên 99%. Ở giai đoạn trước khi xét xử, công tố viên chỉ gửi cáo trạng đến toà án mà không cần gửi hồ sơ nhưng khi bắt đầu vào phiên toà thì công tố viên phải chuyển hồ sơ cho thẩm phán - chủ toạ phiên toà Theo điều 289 BLTTHS Nhật Bản thì trong trường hợp bị cáo bị truy tố về tội có hình phạt chung thân, tử hình, tù có thời hạn từ 3 năm trở lên đều phải có luật sư bào chữa hoặc sẽ được chỉ định một luật sư bào chữa tại phiên toà. Tố tụng Nhật Bản tại phiên toà được tiến hành theo nguyên tắc tranh tụng nên luật sư có quyền độc lập trong việc thu thập chứng cứ, được nghiên
  • 43. 35 cứu hồ sơ của công tố viên để chuẩn bị cho việc bào chữa. Quyền của luật sư và công tố viên là ngang nhau, bình đẳng trong việc thu thập và trình bày chứng cứ tại phiên toà. Điều 299 BLTTHS quy định “khi có yêu cầu thẩm vấn người làm chứng, công tố viên hoặc luật sư bào chữa của bị cáo phải cho người phản bác của mình có cơ hội trước để họ biết tên, địa chỉ người làm chứng, các tài liệu và chứng cứ sẽ được đưa ra trình bày”. Như vậy, theo luật tố tụng hình sự của Nhật Bản, luật sư có quyền thu thập chứng cứ và xem hồ sơ của công tố viên, công tố viên có quyền thu thập chứng cứ và xem hồ sơ của luật sư. Nếu luật sư bào chữa trình Toà những chứng cứ mà công tố viên chưa biết thì công tố viên có thể bác bỏ với lý do không biết chứng cứ này. Đây là điểm khác biệt giữa tố tụng hình sự của Nhật Bản và các nước Common law là luật sư được phép giữ bí mật các chứng cứ mà mình thu thập được. Vì theo mô hình đối tụng nên phiên toà tại Nhật Bản cũng diễn ra theo chu trình: Công tố viên công bố bản cáo trạng, trình bày và đề xuất chứng cứ, kết luận tội lỗi của bị can, tranh luận với luật sư, đề xuất mức hình phạt... [41, tr.34, 36, 46]. 1.3.2.3. Trung Quốc Cũng giống như Việt Nam, Trung Quốc theo mô hình Xã hội chủ nghĩa nên đã từ lâu nay hoạt động tố tụng hình sự của Trung Quốc đều được tổ chức theo kiểu tố tụng thẩm vấn nhưng với một đất nước rộng lớn và nhiều tiềm năng như Trung Quốc thì trong quá trình hội nhập kiểu tố tụng này ngày càng bộc lộ nhiều thiếu sót vì lẽ đó, Trung Quốc đã quyết định thực hiện công cuộc cải tổ nền tư pháp của mình. Uỷ ban pháp luật của Trung Quốc đã triệu tập các chuyên gia thống nhất cần sửa đổi bộ luật tố tụng hình sự trước, bộ luật hình sự sau. Kết quả là ngày 23 tháng 3 năm 1996, Quốc hội thông qua bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi, có hiệu lực từ 1/7/1997. Bộ luật này có những nội dung sửa đổi lớn sau.
  • 44. 36 - Nếu toà án không tuyên là có tội thì không được bắt giữ bất kỳ người nào - Bỏ điều kiện miễn tố - Luật sư được tham gia tố tụng từ khi một người bị tình nghi phạm tội bị bắt giữ. Luật sư được đến viện kiểm sát để đọc hồ sơ vụ án. Trước khi mở phiên toà, luật sư được tự mình thu thập chứng cứ, luật sư được quyền bình đẳng với kiểm sát viên tranh luận tại phiên toà. - Mở rộng quyền hạn của bị cáo, người bị hại. Luật 1979, người bị hại không được bảo vệ quyền lợi trước toà, luật 1997 cho phép tự bảo vệ. Người bị hại có quyền khởi tố trước toà án trong trường hợp phát hiện có người phạm tội mà viện kiểm sát không khởi tố - Cải cách công tác điều tra tại toà án, áp dụng thủ tục tranh tụng tại toà án, học tập pháp luật tố tụng của Anh, Mỹ. Khi hoàn thành cáo trạng, viện kiểm sát chuyển giao toàn bộ hồ sơ chứng cứ cho toà án, luật cũ quy định việc đưa chứng cứ ra toà thuộc nhiệm vụ của toà án. Sau khi nhận được hồ sơ của viện kiểm sát chuyển sang thì toà án mở phiên toà xét xử. Tại phiên toà, viện kiểm sát đọc cáo trạng rồi tiến hành tranh tụng với luật sư, bị cáo. Thẩm phán nghe các bên tranh luận rồi quyết định. Như vậy, cả viện kiểm sát và luật sư đều đưa chứng cứ ra toà để tranh luận còn phán quyết sẽ thuộc thẩm quyền của toà án [41, tr.23-24]. Trong những năm vừa qua khi áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự mới, nền tư pháp của Trung Quốc đã thu được nhiều kết quả đáng kể như số người bị tuyên là vô tội đã tăng lên, số lượng luật sư ngày càng đông đảo hơn và cũng chính vì có đội ngũ tư vấn pháp lý này mà ý thức pháp luật của người dân cũng được nâng cao hơn và họ đã thực sự “sống và làm việc theo pháp luật”. * * *
  • 45. 37 Như vậy qua chương 1, chúng ta đã cùng tìm hiểu về khái niệm, đặc điểm của hệ tố tụng tranh tụng cũng như sự hình thành, phát triển và tồn tại của hệ tố tụng này ở một số quốc gia trên thế giới. Tuy hiện nay, có thể hệ tố tụng của các nước theo truyền thống luật án lệ – Common law không còn giữ được nguyên vẹn và các nước theo truyền thống Civil law cũng không tiếp thu một cách trọn vẹn các đặc điểm của hệ tố tụng tranh tụng truyền thống; và cho dù sự biến đổi của tự nhiên và xã hội đã làm cho hệ tranh tụng không còn giữ được vẻ nguyên sơ vốn có thì thực tiễn vẫn chỉ ra rằng tất cả các nước đang duy trì hệ tranh tụng đều có một nền tư pháp mạnh, còn các nước đang theo đuổi hệ tranh tụng đều đang vươn mình phát triển mạnh mẽ. Lịch sử phát triển thế giới đã đúc kết, sự ra đời và phát triển của hệ tranh tụng được coi là một bước tiến lớn trong quá trình xây dựng nền pháp luật dân chủ và công bằng của nhân loại. Có thể là đúng, có thể là sai nhưng xét cho đến cùng chúng ta nên tôn trọng những gì đã được ghi nhận trong quá khứ và hãy gắng sức phát huy, phát triển hệ tranh tụng một cách hoàn chỉnh trong tương lai.