SlideShare a Scribd company logo
1 of 104
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----------------
NGUYỄN THỊ LIÊN HƢƠNG
QUYỀN ĐƢỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----------------
NGUYỄN THỊ LIÊN HƢƠNG
QUYỀN ĐƢỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã ngành : 60 38 01 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí
Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn Quyền được xét xử công bằng trong tố tụng
hình sự Việt Nam là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Liên Hƣơng
Mở ĐầU ......................................................................................................................1
CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƢỢC XÉT XỬ
CÔNG BẰNG ............................................................................................................5
1.1. KHÁI NIệM QUYềN ĐƢợC XÉT Xử CÔNG BằNG TRONG Tố TụNG HÌNH Sự. ............5
1.1.1. Quyền được xét xử công bằng là quyền con người cơ bản...........................5
1.1.2. Đối tượng của quyền được xét xử công bằng ...............................................6
1.1.3. Các quan điểm và định nghĩa quyền được xét xử công bằng trong TTHS...8
1.2 QUYềN ĐƢợC XÉT Xử CÔNG BằNG TRONG PHÁP LUậT QUốC Tế ..........................11
1.2.1. Quyền được xét xử công bằng theo các tiêu chí quốc tế về quyền con người
...................................................................................................................................11
1.2.2. Các nội dung căn bản của quyền được xét xử công bằng...........................16
1.3. CƠ CHế BảO ĐảM QUYềN ĐƢợC XÉT Xử CÔNG BằNG TRONG Tố TụNG HÌNH Sự..20
1.3.1. Các tiêu chí quyền pháp luật quốc tế về quyền được xét xử công bằng được
nội luật hóa trong TTHS Việt Nam...........................................................................21
1.3.2. Kiểm soát việc thực thi quyền được xét xử công bằng...............................23
1.3.3. Thực thi việc bảo đảm quyền được xét xử công bằng ................................27
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG QUYỀN ĐƢỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM .........................................................31
2.1. THựC TRạNG PHÁP LUậT Tố TụNG HÌNH Sự VIệT NAM Từ 1945 – TRƢớC NĂM
2003...........................................................................................................................31
2.1.1. Giai đoạn từ 1945 – 1988............................................................................31
2.1.2. Theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 ....................................................33
2.2. PHÁP LUậT Tố TụNG HÌNH Sự 2003 Về QUYềN ĐƢợC XÉT Xử CÔNG BằNG ..........37
2.2.1. Quy định về các nguyên tắc tố tụng............................................................38
2.2.2. Quy định về địa vị của người tiến hành tố tụng..........................................45
2.2.3. Các quy định về thủ tục các hoạt động tố tụng ...........................................51
2.2.4. Các quy định về khiếu nại, tố cáo, trong tố tụng hình sự............................54
2.3. THựC TRạNG HOạT ĐộNG Tố TụNG HÌNH Sự VIệT NAM ......................................55
2.3.1. Bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong điều tra, truy tố, xét xử vụ án
hình sự.......................................................................................................................55
2.3.2. Bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong giải quyết khiếu nại tố cáo .........64
CHƢƠNG III. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUYỀN ĐƢỢC
XÉT XỬ CÔNG BẰNG TRONG TTHS VIỆT NAM .........................................68
3.1. CƠ Sở, YÊU CầU CủA VIệC NÂNG CAO HIệU QUả QUYềN ĐƢợC XÉT Xử CÔNG
BằNG TRONG TTHS VIệT NAM .................................................................................68
3.2. CÁC GIảI PHÁP NÂNG CAO HIệU QUả BảO Vệ QUYềN ĐƢợC XÉT Xử CÔNG BằNG
TRONG Tố TụNG HÌNH Sự...........................................................................................79
3.2.1 Nâng cao hiệu quả bảo vệ được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự trên
cơ sở tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ............................................................79
3.2.2. Tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Pháp luật TTHS ..........................80
3.2.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự ...........................................82
3.2.4. Bảo đảm cho Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật............88
KẾT LUẬN..............................................................................................................95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................96
1
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền được xét xử công bằng ngày nay không chỉ là xu hướng chung trong
thế giới đương đại mà còn là điều kiện cho tăng trưởng kinh tế, là tiêu chí, thước đo
đánh giá mức độ phát triển bền vững của một xã hội, là biểu tượng cho việc theo
đuổi biểu tượng văn minh và tiến bộ xã hội. Chủ đề quyền được xét xử công bằng
từ lâu đã được các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam đặc biệt coi trọng,
nhưng chưa bao giờ thu hút được sự quan tâm như ngày nay. Nó đang là một trong
những vấn đề được cả cộng đồng nhân loại nói chung và mỗi quốc gia nói riêng
nghiên cứu.
Trong luật nhân quyền quốc tế, quyền được xét xử công bằng đầu tiên được
đề cập trong các Điều 10 và 11 UDHR. Theo Điều 10, mọi người đều bình đẳng về
quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án độc lập và khách quan,
để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối
với họ, Điều 11 bổ sung thêm một số khía cạnh cụ thể. Hệ thống văn bản pháp luật
Việt Nam về quyền được xét xử công bằng gồm Hiến pháp quy định những quyền
cơ bản trong đó cũng có đề cập đến xét xử công bằng như: Nguyên tắc suy đoán vô
tội, quyền bào chữa, quyền không ai có thể bị bắt nếu không có quyết định của Tòa
án, Viện kiểm sát hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát. Trên cơ sở những quyền cơ
bản này, Luật tố tụng hình sự quy định các quyền công bằng ở từng lĩnh vực cụ thể
của hoạt động Tố tụng hình sự.
Vấn đề quyền được xét xử công bằng mặc dù đã được Nhà nước ta rất quan
tâm, cụ thể là nhà nước đã ban hành rất nhiều các văn bản pháp luật nhằm bảo vệ có
hiệu quả các quyền được xét xử công bằng. Tuy nhiên, việc nhận thức về bản chất
vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ quyền được xét xử công bằng còn những
biểu hiện đơn giản, còn thiếu, chưa hình thành đậm nét các quan điểm, nguyên tắc
chỉ đạo quá trình xây dựng bảo đảm pháp lý thực hiện quyền được xét xử công bằng
trong hệ thống pháp luật. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 tuy đã quy định điều
2
luật nâng cao quyền được xét xử công bằng, nhưng vẫn còn những hạn chế trong
việc đấu tranh phòng và chống tội phạm cũng như bảo vệ quyền con người trong
vấn đề này. Bảo vệ quyền được xét xử công bằng như thế nào một cách có hiệu quả
trong xã hội hiện nay ở nước ta là một vấn đề cấp thiết. Vì vậy, tôi chọn đề tài “
Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự Việt Nam” với mong muốn tìm
ra được những tiêu chí có cơ sở khoa học, có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn trong
giai đoạn hiện nay. Cùng với các công trình nghiên cứu khác, luận văn sẽ góp phần
đưa pháp luật tố tụng hình sự vào cuộc sống, phát huy tác dụng vào công cuộc bảo
vệ quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự Việt Nam
2. Tình hình nghiên cứu.
Vấn đề Quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự Việt Nam là vấn
đề thu hút sự quan tâm của toàn ngành Tư pháp và toàn xã hội. Đặc biệt kể từ khi có
nghị quyết 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị, xác định đảm bảo
quyền được xét xử công bằng, dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác, cũng như trong nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của
Bộ chính trị nhấn mạnh nâng cao chất lượng tranh tụng của các phiên tòa xét xử, coi
đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp, thì nội dung về quyền được xét xử công
bằng lại càng được quan tâm nghiên cứu.
Các tác giả làm luận văn tiến sĩ, luận văn thạc sĩ liên quan đến quyền được
xét xử công bằng trong tố tụng hình sự như tác giả Hoàng Thị Sơn với đề tài: Thực
hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự, NXB Công an Nhân
dân, Hà Nội, 2000; tác giả Nguyễn Duy Phương với đề tài: Vai trò của luật sư
trong việc bảo vệ quyền con người, Khoa Luật – Đại học Huế, 2005; tác giả Nguyễn
Thị Vân Hằng với đề tài: Vai trò của luật sư góp phần bảo đảm dân chủ trong hoạt
động tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay, luận án thạc sỹ trường Đại học cảnh sát
nhân dân 2006 ; Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng với đề tài: Chức năng trong tố tụng
hình sự Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Học viện khoa học xã hội, 2012
; Lại Văn Trình, đề tài: Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo trong TTHS Việt Nam, luận án tiến sỹ luật học, trường Đại học Luật TP Hồ Chí
3
Minh, 2011; tác giả Trần Văn Bảy với đề tài: Người bào chữa trong tố tụng hình sự
Việt Nam, thạc sỹ khoa luật hành chính – Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, 2013; Tác
giả Đỗ Đình Nghĩa với đề tài: Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình
sự Việt Nam, luận văn thạc sỹ luật học, Đại học luật Hà Nội, 2004; Tác giả Nguyễn
Ngọc Khánh với đề tài: Nâng cao vị thế của người bào chữa tại phiên tòa hình sự,
luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2009.
Tuy nhiên, với những công trình nghiên cứu ở trên thì quyền được xét xử
công bằng vẫn chưa được đề cập một cách hệ thống. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề
này vẫn còn rất cần thiết để tiếp tục hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự, đảm bảo
góp phần xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của người phạm tội
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ luận văn cao học, học viên giới hạn nghiên cứu của mình
về các vấn đề sau:
- Khái niệm về quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự.
- Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của chế định Bảo vệ quyền
được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự từ sau 1945 đến nay.
-Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về quyền
được xét xử công bằng ở Việt Nam trong những năm gần đây.
-Những hạn chế bất cập; nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong việc
bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự.
-Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình
sự .
- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật
về quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng ta về Nhà
4
nước và pháp luật, về mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân với tư cách là những
căn cứ lý luận để giải quyết các vấn đề do đề tài đặt ra.
Luận văn đặc biệt coi trọng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
để nghiên cứu quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự. Sử dụng
phương pháp phân tích, tổng hợp trên lập trường duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, để đánh giá thực trạng vấn đề; kết hợp phương pháp hệ thống với phương pháp
logic – lịch sử, phương pháp so sánh, nhằm phân tích luận chứng một cách khoa
học khi xác định các giải pháp bảo đảm thực hiện Quyền được xét xử công bằng
trong Tố tụng hình sự.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Về mặt lý luận: Đề tài nghiên cứu lý luận đánh giá thực trạng về bảo đảm
quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự, từ đó đề ra phương hướng, các
giải pháp đề xuất sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn chi tiết các quy định của pháp luật về
quyền con người, quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự, nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng chế định này trên thực tế. Với kết quả nghiên cứu như vậy, đề
tài góp phần làm phong phú thêm lý luận về quyền được xét xử công bằng trong tố
tụng hình sự Việt Nam
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần đánh giá đúng thực
trạng áp dụng pháp luật về bảo đảm quyền được xét xử công bằng, dân chủ; qua đó
khắc phục những thiếu sót, bất cập trong hoạt động này. Các đề xuất, kiến nghị
trong đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu, hướng dẫn,
sửa đổi, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến vấn đề này
6. Kết cấu của luận văn.
Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương và kết luận, mục lục và danh mục tài liệu
tham khảo.
Chƣơng I: Một số vấn đề lý luận về quyền được xét xử công bằng
Chƣơng II: Thực trạng quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự Việt
Nam
5
Chƣơng III: Các giải pháp nâng cao hiệu quả quyền được xét xử công bằng trong
TTHS Việt Nam
Chƣơng I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƢỢC XÉT XỬ
CÔNG BẰNG
1.1. Khái niệm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự.
1.1.1. Quyền được xét xử công bằng là quyền con người cơ bản.
Quyền được xét xử công bằng là nhân quyền cơ bản và có tính phổ quát cao,
tồn tại trong cả các vụ án hình sự và phi hình sự. Pháp luật nhiều quốc gia quy định
quyền này với quan niệm rằng nó là quyền quan trọng của mọi quốc gia pháp trị. Ở
bình diện khái quát nhất, quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự thể
hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, việc trừng trị người phạm tội gây ra những thiệt hại
cho các quyền và lợi ích hợp pháp của con người, của các cơ quan tố tụng, góp phần
bảo vệ quyền con người của cơ quan tiến hành tố tụng đã góp phần bảo vệ quyền
con người. Khi tội phạm xảy ra, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của con
người thì các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải có trách nhiệm phát
hiện, ngăn chặn, xử lý, đồng thời phải áp dụng chế tài thích đáng, phù hợp với quy
định của pháp luật trừng trị người phạm tội. Đấu tranh chống và phòng ngừa tội
phạm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khỏi sự xâm phạm của hành
vi phạm tội là một trong những chức năng của nhà nước và trách nhiệm quan trọng
của cơ quan tiến hành tố tụng. Thứ hai, khi tiến hành tố tụng giải quyết vụ án các cơ
quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm quyền được xét xử công
bằng của con người. Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không
được lợi dụng quyền tiến hành giải quyết vụ án xâm phạm đến quyền của con người
[2]. Pháp luật tố tụng hình sự có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền của
người bị tình nghi, bị can, bị cáo và những người tham gia vụ án thông qua biện
pháp trấn áp kịp thời, xử lý công minh theo đúng pháp luật đối với mọi hành vi
6
phạm tội xâm phạm tới các quyền của công dân, đảm bảo tất cả mọi tội phạm đều bị
phát hiện và xử lý. Đồng thời pháp luật tố tụng hình sự còn quy định chặt chẽ các
trình tự, thủ tục trong quá trình giải quyết vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng nhằm tôn trọng quyền được xét xử công bằng, tránh sự lợi
dụng của người và cơ quan có thẩm quyền khi tiến hành tố tụng. Đây là hai định
hướng, hai lĩnh vực của pháp luật tố tụng hình sự trong việc bảo vệ quyền được xét
xử công bằng bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ chế độ bảo vệ lợi ích của nhà nước và trật
tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy mà Điều 1 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 quy định: “ trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố xét xử và thi hành án hình
sự, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng; quyền và
nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng của cơ quan, tổ chức và công dân; hợp
tác quốc tế trong tố tụng hình sự, nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm,
phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm
tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Bộ luật tố tụng hình sự góp
phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời
giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm”.
1.1.2. Đối tượng của quyền được xét xử công bằng
Đối tượng quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự là quyền của
nhóm những người dễ bị tổn thương trong xã hội, đó là: người bị bắt, người bị giam
giữ, bị can, bị cáo người phải chấp hành hình phạt. Những người này khi tham gia
vào các hoạt động tố tụng hình sự, dù với tư cách là người bị buộc tội hay là người
bị hại, người tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự thì họ vẫn được pháp luật bảo
vệ và tôn trọng những quyền cơ bản thiết thân của con người. Mặc dù họ là những
đối tượng bị hoặc có khả năng bị áp dụng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất là
trách nhiệm hình sự nhưng vẫn có những quyền cơ bản, thiết thân như những quyền
7
tư pháp để được xét xử công bằng, để được điều tra khách quan trong quá trình tố
tụng. Tuy nhiên so với người khác quyền của nhóm người này bị hạn chế do họ bị
tình nghi phạm tội, bị kết án hoặc buộc phải tham gia tố tụng do có quyền, lợi ích
liên quan đến sự việc phạm tội. Đây là điểm khác biệt của xã hội văn minh so với
những xã hội khác, mà ở đó việc tra tấn người bị tình nghi tội phạm là phương pháp
cơ bản của việc thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm hoặc đối xử với người
phạm tội như những súc vật, không có bất cứ điều gì kể cả những quyền thân thiết
nhất của con người. Như vậy, đối tượng của quyền được xét xử công bằng bao gồm
những loại người sau:
Người bị tình nghi phạm tội đang trong quá trình giải quyết vụ án, đang bị
các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự nhằm
xác nhận sự thật khách quan của vụ án. Những người này có thể là người bị bắt,
người bị giam giữ, bị can, bị cáo theo quy định của pháp luật, họ chưa bị coi là
người phạm tội mà mới chỉ là người bị tình nghi phạm tội.
Người phạm tội bị kết án và phải chấp hành hình phạt do Tòa án tuyên. Khác
với người tình nghi phạm tội, đây là người được các cơ quan tiến hành tố tụng
chứng minh và phán quyết là có tội, bị tuyên áp dụng hình phạt tương xứng với tính
chất mức độ phạm tội của họ phù hợp với quy định của pháp luật và được phán
quyết bởi thủ tục tố tụng hình sự công bằng khách quan
Nhóm người tham gia tố tụng do có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án:
nguyên đơn dân sư, người bị hại, bị đơn dân sự người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan, người bào chữa… Những người này ngoài việc tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền lợi của mình, còn góp phần làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án và góp phần
bảo đảm sự công bằng trong quá trình giải quyết vụ án.
Như vậy, đối tượng quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự là
người bị buộc tội, bị áp dụng hình phạt phải được chứng minh khách quan và được
xét xử công bằng, đồng thời trong quá trình đó nhân phẩm danh dự, sức khỏe của họ
phải được tôn trọng. Đối tượng quyền con người trong tố tụng hình sự chỉ là những
8
con người dễ bị tổn thương do các hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng áp
dụng mà đại diện là những người tiến hành tố tụng.
1.1.3. Các quan điểm và định nghĩa quyền được xét xử công bằng trong TTHS
“Xét xử” là hoạt động của Tòa án, một hoạt động đặc trưng của việc thực
hiện chức năng Tư pháp của Nhà nước. Hoạt động này được tiến hành theo cách
thức (thủ tục) nhất định dựa trên nguyên tắc tố tụng hết sức nghiêm ngặt. Bởi lẽ kết
quả của nó ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan,
tổ chức có liên quan Theo từ điển tiếng Việt “ công bằng” được hiểu là “đúng lẽ
phải, không thiên vị”. Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành quy định xét xử công
bằng có thể được hiểu là việc tuân thủ quá trình tố tụng tôn trọng những giá trị đúng
đắn, những quy tắc chuẩn mực chung hoặc cách thức hành động phù hợp được luật
pháp thừa nhận
Theo PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí xây dựng khái niệm “ Quyền được xét xử
công bằng là quyền cơ bản của người bị buộc tội trong vụ án hình sự và của các
bên trong các vụ án phi hình sự trước cơ quan tư pháp ( công an, công tố và tòa án)
được pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia ghi nhận và bảo vệ, bao gồm nhiều
quyền cụ thể như ( được bảo đảm quyền bào chữa, được xét xử nhanh chóng, công
khai bởi tòa án độc lập không thiên vị …) nhằm bảo đảm việc xét xử được công
bằng cũng như các quyền và lợi ích của mọi cá nhân [1, tr 42]
Theo THS Lã Khánh Tùng “Quyền được xét xử công bằng” là một nhân
quyền cơ bản có tính phổ quát cao, tồn tại trong cả các vụ án hình sự và phi hình sự.
Pháp luật nhiều quốc gia quy định quyền này với quan niệm rằng nó là quyền thiết
yếu trong mọi quốc gia pháp trị. Việc đối xử với một người khi họ bị buộc tội phản
ánh rõ nhà nước tôn trọng nhân quyền đến mức nào, bởi vậy, quyền được xét xử
công bằng đã được coi là một hòn đá tảng của các xã hội dân chủ. Giống như đặc
tính của mọi nhân quyền là phụ thuộc lẫn nhau, quyền được xét xử công bằng với
các quyền khác có mối quan hệ hai chiều. Một phiên toà công bằng là yếu tố thiết
yếu để bảo đảm các quyền cơ bản khác của con người như quyền sống, quyền được
an toàn về thân thể, tự do ngôn luận... Ngược lại, trong một xã hội không dân chủ,
9
các quyền cơ bản của con người không được tôn trọng thì khó có thể có chuyện mọi
người đều được xét xử công bằng. Quan hệ chặt chẽ giữa quyền được xét xử công
bằng với pháp trị và dân chủ cũng đã được khẳng định chính thức trong Tuyên ngôn
Dakar về quyền được xét xử công bằng tại châu Phi. [33, tr 2010]
Phạm vi của quyền được xét xử công bằng được hiểu tương đối khác nhau
trong lập pháp và trong nhiều tài liệu nghiên cứu, hướng dẫn áp dụng. Nếu dịch sát
nghĩa “right to a fair trial” được hiểu là quyền đối với (quyền có một) phiên xử công
bằng. Tức là không phải bị xét xử bởi một phiên toà không công bằng (unfair trial),
dù là hình sự hay phi hình sự. Về mặt lập pháp, ngoài hệ thông pháp luật của các
quốc gia, quyền được xét xử công bằng được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế
và khu vực. Trước hết phải kể đến Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị (ICCPR), đã được đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 16 tháng 12 năm
1966. Tuy nhiên, theo nhiều quan điểm thì quyền được xét xử công bằng không chỉ
gồm các quy định liên quan đến giai đoạn xét xử, được quy định tại Điều 14 mà cả
ở nhiều điều luật khác (Điều 7, 9, 15...) của ICCPR. Về thời điểm phát sinh, nhiều
luật gia cho rằng ngay từ khi một cá nhân bị bắt họ đã có quyền này. Bởi lẽ các
quyền trước, trong và sau khi xét xử đều có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Việc đối xử với một người khi họ bị buộc tội phản ánh rõ nhà nước tôn trọng
nhân quyền đến mức nào, bởi vậy quyền được xét xử công bằng được coi là một
hòn đá tảng của các xã hội dân chủ. Giống như đặc tính của mọi nhân quyền là phụ
thuộc lẫn nhau, quyền được xét xử công bằng với các quyền khác có mối quan hệ
hai chiều. Một phiên tòa công bằng là yếu tố thiết yếu để bảo đảm các quyền cơ bản
khác của con người như quyền sống, quyền được an toàn về thân thể, tự do ngôn
luận…Ngượi lại, trong một xã hội không dân chủ các quyền cơ bản của con người
không được tôn trọng thì khó có thể có chuyện mọi người đều được xét xử công
bằng. Quan hệ chặt chẽ giữa quyền được xét xử công bằng với pháp trị và dân chủ
cũng đã được khẳng định chính thức trong tuyên ngôn Dakar về quyền được xét xử
công bằng tại Châu Phi.
10
Trong tuyên ngôn Dakar “ Quyền được xét xử công bằng là một quyền tổng
hợp gồm những quyền cụ thể sau: Quyền bình đẳng trước tòa án và được xét xử bởi
tòa án độc lập, không thiên vị, công khai; Quyền bào chữa; Quyền được xét xử theo
thủ tục riêng của người chưa thành niên; Quyền kháng cáo; Quyền được bồi
thương khi bị kết án oan; Quyền không bị xét xử hai lần về cùng một tội danh;
Không bị truy cứu hình sự vì lý do không thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng; Không
bị coi là có tội nếu hành vi không cấu thành tội phạm theo pháp luật vào thời điểm
thực hiện hành vi; Không áp dụng hồi tố cũng như nghiên cứu khi đề cập đến quyền
được xét xử công bằng”
Từ những phân tích ở trên, khái niệm quyền được xét xử công bằng trong tố
tụng hình sự có thể được định nghĩa như sau: Quyền được xét xử công bằng trong tố
tụng hình sự là tổng thể những nhóm quyền cụ thể như ( được bảo đảm quyền bào
chữa, được xét xử nhanh chóng, công khai bởi tòa án độc lập không thiên vị …)
được chủ yếu là luật tố tụng hình sự thừa nhận hay quy định cho các chủ thể khi
tham gia vào các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự với những địa vị pháp lý khác
nhau. Là những giá trị gắn liền với một nhà nước nhất định và được nhà nước đó
bảo vệ, thể hiện mối quan hệ pháp lý cơ bản giữa các chủ thể trong mối quan hệ
pháp luật tố tụng hình sự với một nhà nước nhất định.
Như vậy, Bảo vệ quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự là các
biện pháp, công cụ chống lại sự xâm phạm quyền được xét xử công bằng trong tố
tụng hình sự đã được pháp luật, pháp luật tố tụng hình sự của các quốc gia ghi nhận
hay quy định cho các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật Tố tụng hình sự không
bị xâm phạm, có tính khả thi trong thực tế và phải được tôn trọng trong suốt quá
trình Tố tụng hình sự
Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự
nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác nhanh chóng
và xử lý công minh kịp thời mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm không làm
oan người vô tội
11
1.2 Quyền được xét xử công bằng trong pháp luật quốc tế
1.2.1. Quyền được xét xử công bằng theo các tiêu chí quốc tế về quyền con người
Quyền được xét xử công bằng đầu tiên được đề cập trong các Điều 10 và
Điều 11 UDHR. Theo Điều 10, mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử
công bằng và công khai bởi một tòa án độc lập và khách quan để xác định các
quyền và nghĩa vụ của họ cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ. Điều 11 bổ
sung thêm một số khía cạnh cụ thể, tại một phiên toà đó mọi người bị cáo buộc về
hình sự đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội
theo pháp luật tại một phiên tòa được xét xử công khai nơi người đó được bảo đảm
những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình. Không ai bị cáo buộc là phạm tội
vì bất cứ hành vi hoặc sự tắc trách nào mà không cấu thành một tội phạm hình sự
theo pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế vào thời điểm thực hiện hành vi hay
có sự tắc trách đó. Cũng không ai bị tuyên phạt nặng hơn mức hình phạt được quy
định vào thời điểm hành vi phạm tội được thực hiện
Các quy định kể trên sau đó được tái khẳng định và cụ thể hóa trong các điều
14, 15 và 11 ICCPR [17, tr 174 – 175]
Liên quan đến Điều 14, bên cạnh những khía cạnh đã được nêu cụ thể như
trên, trong Bình luận chung số 13 thông qua tại Phiên họp lần thứ 21 năm 1984,
HRC đã làm rõ thêm một số khía cạnh khác mà có thể tóm tắt như sau:
Thứ nhất, Điều 14 có nội dung đa dạng nhưng tất cả đều hướng vào mục đích
nhằm bảo đảm sự chính xác và công bằng trong hoạt động tư pháp. Nội dung của
Điều này cần được sử dụng như là cơ sở không chỉ trong hoạt động truy tố và xét xử
tội phạm, mà còn trong việc xác định các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo, cụ
thể như các quyền bình đẳng trước tòa án và trước thẩm phán, quyền được bào
chữa, được xét xử công khai bởi một tòa án có đủ thẩm quyền, độc lập và vô tư,
được thành lập theo pháp luật
Thứ hai, Điều 14 áp dụng cho tất cả các dạng tòa án và thẩm phán, bất kể tòa
án thông thường, tòa án quân sự hay tòa án đặc biệt. Và mặc dù ICCPR không cấm
12
việc thành lập các tòa án quân sự hay tòa án đặc biệt nhưng việc sử dụng các tòa án
đó để xét xử các vụ việc dân sự là sự đe dọa nghiêm trọng đến tính công bằng, độc
lập và vô tư của các tòa án và thẩm phán.
Thứ ba, những quy định trong Khoản 3 Điều 14 chỉ là những bảo đảm tối
thiểu để thực hiện yêu cầu về xét xử công bằng.
Thứ tư, yêu cầu về việc được thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một
ngôn ngữ mà người đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình là bảo đảm tối thiểu
đầu tiên mà bị can, bị cáo được hưởng trong tiến trình tố tụng. Quy định này áp
dụng cho tất cả mọi trường hợp bị cáo buộc phạm tội, kể cả những người không bị
tạm giữ, tạm giam. Yêu cầu về việc thông báo không chậm trễ đòi hỏi việc này phải
được thực hiện ngay sau khi có sự buộc tội bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền
dưới dạng thông báo nói hay văn bản, nhưng phải chỉ ra những chứng cứ và quy
định pháp luật được viện dẫn để buộc tội.
Thứ năm, việc xác định thời gian thích hợp để người bị buộc tội có thể chuẩn
bị bào chữa và liên hệ với luật sư phụ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi vụ án, còn việc
dành cho họ điều kiện thuận lợi trong vấn đề này thì liên quan đến các yếu tố như:
hoạt động thu thập tài liệu và bằng chứng cần cho việc bào chữa, cơ hội thuê và tiếp
xúc với luật sư.
Thứ sáu, yêu cầu được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý không chỉ
liên quan đến khoảng thời gian từ khi bị cáo buộc đến khi mở phiên tòa, mà còn đến
thời gian xét xử tại tòa và thời gian giữa hai phiên xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, tất
cả đều không được trì hoãn quá lâu.
Thứ bảy, yêu cầu được có phiên dịch miễn phí nếu không hiểu hoặc không
nói được ngôn ngữ sử dụng trong phiên toà phải được đáp ứng mà không phụ thuộc
vào kết quả của hoạt động tố tụng, và phải được áp dụng cả với người nước ngoài
cũng như với công dân của nước mình nếu cần thiết.
Thứ tám, để thực hiện được bảo đảm không bị buộc phải đưa ra lời khai
chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội cần phải thực hiện các
quyền quy định trong các Điều 7 và Khoản 1 Điều 10 ICCPR. Thêm vào đó, luật
13
pháp quốc gia cần có quy định chứng cứ thu được từ việc sử dụng các biện pháp tra
tấn, đối xử tàn bạo,vô nhân đạo hay từ bất cứ hình thức ép buộc nào khác trong hoạt
động tố tụng là vô giá trị.
Thứ chín, để thực hiện các bảo đảm nêu ở các Khoản 1 và 3 Điều 14 ICCPR,
các thẩm phán cần được trao quyền giải quyết những khiếu nại, tố cáo về việc vi
phạm các quyền của bị can, bị cáo trong bất kỳ giai đoạn tố tụng nào.
Thứ mười, người chưa thành niên làm trái pháp luật phải được hưởng những
bảo đảm tố tụng ít nhất cũng ngang bằng với những bảo đảm áp dụng với những
người đã thành niên. Việc thi hành tố tụng với những người chưa thành niên làm
trái pháp luật cần tính đến độ tuổi của các em và mục đích khuyến khích các em
hoàn lương, mà thể hiện qua các khía cạnh như: xác định độ tuổi tối thiểu phải chịu
trách nhiệm hình sự và độ tuổi tối đa một người có thể được coi là chưa thành niên;
xây dựng các tòa án, luật và thủ tục tố tụng đặc biệt áp dụng với người chưa thành
niên và bảo đảm rằng những luật và thủ tục đặc biệt đó đã tính đến mục đích
khuyến khích các em hoàn lương.
Thứ mười một, quy định bất kỳ người nào bị kết án đều có quyền yêu cầu toà
án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp
luật cần được áp dụng với mọi trường hợp phạm tội chứ không chỉ với những
trường hợp phạm tội nghiêm trọng. [ 12, tr 169 - 172]
Quyền được xét xử công bằng như đã đề cập, được ghi nhận trong nhiều điều
ước quốc tế và khu vực. Trước hết phải kể đến Công ước quốc tế về các quyền dân
sự và chính trị (ICCPR), mà Việt Nam đã gia nhập từ năm 1982, là văn kiện quốc tế
có giá trị cao trong hệ thống pháp luật quốc tế về quyền con người. Trong Công ước
này, quyền được xét xử công bằng được ghi nhận một cách trang trọng tại Điều 14
và một số điều luật khác. Mặc dù Điều 14 không gọi trực tiếp bằng tên “quyền được
xét xử công bằng” nhưng quyền này đã được Uỷ ban Nhân quyền (Human rights
Committee), cơ quan được thiết lập nhằm giám sát việc thi hành ICCPR, sử dụng
khi phân tích các nội dung của điều luật. Đồng thời, nội hàm của Điều 14 cũng
trùng với các quy định về “quyền được xét xử công bằng” trong nhiều điều ước
14
quốc tế về nhân quyền. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948) (Tuyên ngôn) cũng
đã bảo vệ quyền này khi khẳng định tại Điều 10 rằng mọi người đều được hưởng
quyền bình đẳng hoàn toàn trong việc xem xét công khai và công bằng bởi một tòa
án “có năng lực, độc lập và không thiên vị”.
Trong ICCPR, bên cạnh quyền được sống, tự do thân thể, tự do ngôn luận...
quyền được xét xử công bằng là một trong các quyền dân sự cơ bản của con người
được đề cao bởi cộng đồng quốc tế và được quy định tập trung nhất tại Điều 14.
Cạnh đó, các quyền không bị tra tấn, đối xử tàn bạo (Điều 7), quyền được bảo đảm
an toàn về thân thể (Điều 9, Điều 10), nguyên tắc không áp dụng hồi tố (Điều 15)
cũng được coi là hướng tới đảm bảo quyền được xét xử công bằng. Điều 14 có
phạm vi tương đối rộng và nhiều nội dung, bao gồm 7 khoản. Các nội dung cơ bản
của điều luật khẳng định các quyền: 1) bình đẳng trước tòa án, được xét xử bởi tòa
án độc lập, không thiên vị và việc xét xử công khai trừ các trường hợp đặc biệt; 2)
được suy đoán vô tội; 3) được bảo đảm tối thiểu liên quan đến quyền được biết lý
do buộc tội, quyền bào chữa, được trợ giúp pháp lý, được xét xử nhanh chóng, được
đối chất với người làm chứng; 4) đối với người chưa thành niên được áp dụng thủ
tục áp dụng riêng; 5) được xét xử phúc thẩm; 6) được bồi thường khi bị kết án oan;
7) không bị xét xử hai lần về cùng một tội danh. Liên quan đến Điều 14, Uỷ ban
Nhân quyền đã có một Bình luận chung(General Comment) số 13 ra đời năm 1984.
Bình luận chung nêu một số hướng dẫn cho các quốc gia trong việc thực thi các
nghĩa vụ liên quan đến điều luật này. Ngoài ra, các bản án của Uỷ ban Nhân quyền
cũng được coi là nguồn “án lệ” (case law) quan trọng, dựa trên các án lệ này mà Uỷ
ban hệ thống hoá lại thành các Bình luận chung.
Đối chiếu với quy định về quyền này trong ICCPR với Công ước về nhân
quyền của một số khu vực (châu Âu, châu Mỹ, châu Phi) cũng thấy rất nhiều điểm
tương đồng. Công ước châu Âu về bảo vệ nhân quyền và tự do căn bản (ECHR)
năm 1950 tại Điều 6, cũng như Công ước châu Mỹ về nhân quyền (1969) tại Điều 8,
đều quy định với tiêu đề “quyền được xét xử công bằng” (Right to a fair trial),
khẳng định quyền được xét xử bởi “toà án độc lập và không thiên vị, được thiết lập
15
theo luật pháp” trong các vụ việc dân sự hay hình sự, quyền được suy đoán vô tội và
các quyền tối thiểu liên quan đến việc bị buộc tội. Tại các điều ước khu vực khác,
có thể không gọi trực tiếp tên quyền này, như Điều 7 của Hiến chương châu Phi về
nhân quyền và quyền của các dân tộc, nhưng cũng quy định về một số quyền như
được kháng cáo, được suy đoán vô tội, được bào chữa, được xét xử bởi “một toà án
không thiên vị”. Cũng cần lưu ý là châu Phi đã có riêng một văn kiện về quyền
được xét xử công bằng là Tuyên ngôn Dakar về quyền được xét xử công bằng tại
châu Phi (2000), như đã nhắc đến ở trên. Hiến chương nhân quyền Ả-rập (1994), dù
không có điều nào đề cập trực tiếp đến toà án, nhưng cũng có quy định về quyền
được suy đoán vô tội (Điều 7), quyền không bị xét xử hai lần, được bồi thường nếu
bị giam giữ oan (Điều 16). Các điều ước khu vực hiển nhiên chỉ có giá trị bắt buộc
đối với các quốc gia tham gia điều ước, nhưng rõ ràng quyền được xét xử công
bằng mang tính phổ quát cao và được quan tâm bảo vệ trên khắp thế giới.
Bên cạnh các văn kiện mang tính ràng buộc pháp lý (công ước, điều ước),
nhiều văn kiện không mang tính ràng buộc pháp lý như Hướng dẫn, Nguyên tắc,
Quy tắc có liên quan đến bảo vệ quyền được xét xử công bằng. Chẳng hạn như liên
quan đến người tiến hành tố tụng và các nghĩa vụ của họ có Các nguyên tắc cơ bản
về tính độc lập của Tòa án (1985), Quy ước đạo đức của quan chức thi hành pháp
luật (1979), Hướng dẫn về vai trò của công tố viên (1990) … Liên quan đến người
tham gia tố tụng có Các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay tù
dưới bất kỳ hình thức nào (1988), Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về
tư pháp người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) (1985), Quy tắc của Liên hợp
quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do (1990), Các nguyên tắc
cơ bản về vai trò của luật sư (1990)… Những văn kiện này dù không mang tính
ràng buộc về mặt pháp lý, nhưng lại là những tiêu chuẩn chung đã được cộng đồng
quốc tế nhất trí nhằm hướng đến bảo vệ nhân quyền và nhân phẩm của con người –
những giá trị mang tính phổ quát. Bên cạnh giá trị đạo đức và chính trị, các văn kiện
này đã và đang được nghiên cứu và nội luật hoá bởi nhiều quốc gia.
16
Tập hợp các văn kiện văn kiện mang tính ràng buộc và không mang tính ràng
buộc pháp lý nêu trên tạo nên một hệ thống các chuẩn mực quốc tế về quyền được
xét xử công bằng. Hệ thống chuẩn mực này có thể dùng làm thước đo mức độ tuân
thủ của các quốc gia trên khía cạnh pháp luật thực định và thực tiễn thi hành pháp
luật.
1.2.2. Các nội dung căn bản của quyền được xét xử công bằng
Như trên đã đề cập nội dung của quyền được xét xử công bằng tương đối
rộng, bao trùm nhiều quyền cụ thể. Nói cách khác, quyền được xét xử công bằng là
một quyền tổng hợp. Các quyền cụ thể đó và một số chuẩn mực quốc tế liên quan.
Một số quyền trong giai đoạn trước xét xử
Mặc dù quyền được xét xử công bằng liên quan nhiều nhất đến hoạt động xét
xử của toà án, nhưng giai đoạn tiền xét xử lại có quan hệ chặt chẽ, làm tiền đề cho
giai đoạn xét xử. Các nhân quyền cơ bản nếu bị xâm hại từ giai đoạn đầu này sẽ ảnh
hưởng đến các quyền ở giai đoạn sau. Chẳng hạn quyền không bị tra tấn, bức cung
hay nhục hình nếu bị xâm hại, rất dễ dẫn đến những lời khai không khách quan, từ
đó nội dung vụ án bị sai lệch. Mặt khác, toà án trong giai đoạn này đã có vai trò
xem xét về tính hợp pháp của việc bắt giữ người.
Quyền bình đẳng trước tòa án và được xét xử bởi tòa án độc lập, không thiên
vị, công khai
Trước hết, bình đẳng thể hiện ở sự ngang bằng về quyền giữa các bên trong
tố tụng. Các buộc tội với bên gỡ tội có quyền như nhau trong việc đưa ra chứng cứ,
quan điểm, yêu cầu là những đòi hỏi đầu tiên của công bằng trong xét xử. Đây cũng
là yêu cầu của Điều 7 Tuyên ngôn rằng mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và
có quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng.
Thứ hai, tòa án cần phải độc lập, không thiên vị cũng là nội dung quan trọng
đảm bảo công bằng. Toà án là cơ quan có thẩm quyền đưa ra phán quyết về việc
một người có tội hay không và trách nhiệm hình sự mà người đó phải ghánh chịu.
Tại Các nguyên tắc cơ bản về tính độc lập của Tòa án (Basic Principles on the
Independence of the Judiciary) do Hội nghị Liên hợp quốc về phòng chống tội
17
phạm và xử lý người phạm tội thông qua và được Đại hội đồng Liên hợp quốc chấp
thuận cùng trong năm 1985, tính độc lập của toà án đã được cụ thể hoá từ nhiều góc
độ như cần có sự bảo đảm của nhà nước, bảo đảm của hiến pháp, toà án không bị
ảnh hưởng bởi dụ dỗ, sức ép, can thiệp sai trái... Bên cạnh sự độc lập của tòa án và
các thẩm phán, sự độc lập của cảnh sát và công tố viên cũng ảnh hưởng đáng kể đến
tính độc lập của hệ thống tư pháp. Hướng dẫn về vai trò của công tố viên (được Hội
nghị Liên hợp quốc thông qua năm 1990) đã khẳng định trách nhiệm của nhà nước
trong bảo đảm cho công tố viên thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn mà không bị
đe doạ, ngăn cản, can thiệp (Khoản 4) và văn phòng công tố viên phải triệt để tách
khỏi chức năng xét xử (Khoản 10)... Trong Quy ước đạo đức của quan chức thi
hành pháp luật (được Đại hội đồng LHQ thông qua năm 1979), một số khía cạnh
liên quan đến tính độc lập như các quan chức thi hành pháp luật (thực thi quyền lực
cảnh sát) không được tham nhũng (Điều 7).
Công khai và minh bạch là những đòi hỏi thiết yếu của công bằng. Toà án
xét xử công khai là một yêu cầu trong Điều 14/1 ICCPR. Tuy nhiên, việc xét xử
công khai có thể bị hạn chế vì lý do an ninh quốc gia hoặc để giữ kín đời tư của các
bên. Trong Công ước Châu Âu về nhân quyền (ECHR), tính công khai của việc xét
xử (Điều 6) cũng như việc đảm bảo quyền thông tin của công chúng được đề cao
(Điều 10). Gần đây, Hội đồng châu Âu nêu lên kiến nghị liên quan đến tính minh
bạch và khuyến cáo các quốc gia bảo đảm quyền của công chúng trong việc nhận
các thông tin về hoạt động của cơ quan tư pháp, công an thông qua các phương tiện
truyền thông, đồng thời, các phóng viên phải được tự do viết, bình luận về hệ thống
tư pháp. Năm 2005, Hội đồng tư vấn Thẩm phán châu Âu (the Consultative Council
of European Judges) cũng đã đề cao mối quan hệ giữa toà án với các phương tiện
truyền thông đại chúng.
Quyền được suy đoán vô tội
Nguyên tắc suy đoán vô tội được hình thành tương đối sớm trong nhiều nền
tư pháp trên thế giới. Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1789) đã
khẳng định mọi người đều được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội
18
(Điều 9). Trong Hiến pháp Mỹ, dù không trực tiếp đề cập đến nhưng có thể được
suy ra từ các tu chính án 4, 5 và 14. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948) tại Điều
11 và ECHR tại khoản 2 Điều 6 cũng khẳng định quyền này.
Điều 14/2 ICCPR đã ghi nhận quyền được suy đoán vô tội của bị can, bị cáo,
cạnh đó, Khoản 7 của Bình luận chung số 13 nhấn mạnh mối quan hệ của quyền
này với nghĩa vụ chứng minh của bên công tố, bên công tố có nghĩa vụ chứng minh
trong suốt quá trình xét xử. Quy định về suy đoán vô tội có quan hệ chặt chẽ với
quy định về toà án không thiên vị. Các cơ quan tiến hành tố tụng, các thẩm phán,
công tố viên có nghĩa vụ không được có định kiến trước về kết quả của việc xét xử.
Cụ thể, việc tiến hành phiên toà phải được dựa trên việc giả định suy đoán là vôi tội.
Liên quan đến suy đoán vô tội, các yếu tố có thể tạo nên định kiến cũng cần phải
tránh như việc yêu cầu bị can, bị cáo đeo còng tay, mặc đồng phục trại giam hoặc
buộc phải cạo trọc đầu.
Quyền bào chữa
Quyền bào chữa có vai trò đặc biệt là quyền bảo vệ các quyền khác. Điều
14/3 ICCPR khẳng định trong quá trình xét xử hình sự, mọi người phải được các
bảo đảm tối thiểu liên quan đến quyền bào chữa. Các quyền đó bao gồm quyền
được biết lý do buộc tội, quyền bào chữa, được trợ giúp pháp lý, được xét xử nhanh
chóng, được đối chất với người làm chứng...
Trước hết, để có thể thực hiện việc bào chữa, người bị buộc tội phải được
thông báo về lý do buộc tội (Điều 14/3/a). Nguyên tắc 10 trong Các nguyên tắc về
bảo vệ tất cả những người bị giam giữ hay tù dưới bất kỳ hình thức nào (1988) cũng
nhấn mạnh quyền được thông báo này của người bị bắt giữ. Bên cạnh quyền có đủ
thời gian để chuẩn bị cho việc bào chữa (Điều 14/3/b), bị cáo lại có quyền được xét
xử nhanh chóng (Điều 14/3/c).
Để đảm bảo quyền bào chữa còn có các quy định liên quan đến chứng minh,
người làm chứng. Cá nhân có quyền thẩm vấn và yêu cầu thẩm vấn những nhân
chứng buộc tội mình, được mời người làm chứng gỡ tội cho mình tới phiên toà
(Điều 14/3/e). Về nghĩa vụ chứng minh, bị can, bị cáo không phải đưa ra lời khai
19
chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội (Điều 14/3/g) và nghĩa vụ
chứng minh trong vụ án hình sự thuộc về phía công tố.
Quyền được xét xử theo thủ tục riêng của người chưa thành niên
Do đặc điểm của người chưa thành niên có nhiều hạn chế về thể chất, tâm
sinh lý, cộng đồng quốc tế đã giành nhiều quan tâm để bảo vệ người chưa thành
niên về mặt pháp lý. Điều 14/4 ICCPR quy định thủ tục áp dụng đối với người chưa
thành niên phải xem xét đến độ tuổi và khuyến khích sự phục hồi của trẻ. Công ước
về quyền trẻ em (1989) tại Điều 40/2/b cũng đã khẳng định các quyền của trẻ em
được các đảm bảo khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu
của Liên hợp quốc về tư pháp người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh)(1985) đã
dành rất nhiều ưu đãi đặc biệt cho người chưa thanh niên. Ngoài ra Quy tắc của
Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do (1990), bên
cạnh việc quy định rất nhiều bảo đảm đối với người chưa thành niên, cũng nhấn
mạnh quyền có luật sư bào chữa và được yêu cầu trợ giúp pháp lý không phải trả
tiền trong giai đoạn chờ xét xử của họ (Khoản 18, phần III).
Quyền kháng cáo
Điều 14/5 ICCPR quy định quyền kháng cáo quyền được xét xử phúc thẩm.
Người nào bị kết án đều có quyền yêu cầu toà án cấp cao hơn xem xét lại bản án và
hình phạt đối với họ mà toà án cấp dưới đã tuyên. Quyền này nhằm hạn chế những
sai lầm của các cơ quan tiên hành tố tụng cấp dưới có thể gây thiệt hại đến quyền
lợi chính đáng của các đương sự. Trong Khoản 7 của Bình luận chung số 13 về
quyền kháng cáo đã nhấn mạnh rằng, trong các vụ án hình sự, quyền này không chỉ
áp dụng đối với những tội phạm nghiêm trọng mà áp dụng đối với tất cả các loại tội
phạm.
Một số quyền khác
Điều 14 ICCPR còn quy định về quyền được bồi thường khi bị kết án oan,
quyền không bị xét xử hai lần về cùng một tội danh. Khi một cá nhân bị kết tội, kèm
theo đó bị tuyên một hình phạt, nhân phẩm và danh dự của họ đã bị ảnh hưởng.
Điều 14/6 ICCPR quy định quyền được yêu cầu bồi thường khi bị kết án oan. Điều
20
luật quy định cụ thể nếu bản án có hiệu lực chung thẩm bị huỷ bỏ hoặc tuyên vô tội
trên cơ sở tình tiết mới cho thấy việc xét xử là oan, người bị kết án oan có quyền
yêu cầu bồi thường. Điều 14/7 ICCPR còn quy định quyền không bị xét xử hay phải
chịu hình phạt hai lần về cùng một tội danh.
Trong ICCPR, ngoài các nội dung quy định tại Điều 14 nêu trên, các nội
dung quy định trong Điều 11 về không bị truy cứu hình sự vì lý do không thực hiện
được nghĩa vụ hợp đồng và Điều 15 về không bị coi là có tội nếu hành vi không cấu
thành tội phạm theo pháp luật vào thời điểm thực hiện hành vi, không áp dụng hồi
tố cũng được nghiên cứu khi đề cập đến quyền được xét xử công bằng.
Trên đây là những nội dung cơ bản của các quy phạm pháp luật quốc tế về
quyền được xét xử công bằng. Mức độ tuân thủ của các quốc gia, trên khía cạnh
pháp luật thực định và thực tiễn thi hành pháp luật, lại là một vấn đề lớn và phức tạp
hơn nhiều.
1.3. Cơ chế bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự
Lịch sử nhân loài đã chứng minh ở mỗi thời đại, mỗi chế độ chính trị - xã hội
nhất định lòng khát khao được bình đẳng về công lý và công bằng xã hội luôn là sức
mạnh vô tận trong nhu cầu được bảo vệ một nhu cầu hết sức tự nhiên của con
người. Do vậy, vai trò của pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói
riêng hơn bao giờ hết cần phải có những quy định cụ thể tạo nên cơ chế bảo vệ thích
đáng xuất phát từ yêu cầu khách quan của đời sống pháp luật, đặc biệt là hoạt động
có tính chất nhạy cảm, phức tạp như trong hoạt động tố tụng hình sự. Quyền được
xét xử công bằng là một quá trình mà nó phụ thuộc nhiều vào biện pháp khác nhau
trong đó pháp luật cũng như các cơ quan trong bộ máy nhà nước có vị trí, vai trò và
tầm quan trọng hàng đầu của các biện pháp bảo vệ quyền được xét xử công bằng
trong tố tụng hình sự
21
1.3.1. Các tiêu chí quyền pháp luật quốc tế về quyền được xét xử công bằng được
nội luật hóa trong TTHS Việt Nam
Vai trò của pháp luật là phương tiện chính thức hóa các giá trị xã hội của
quyền được xét xử công bằng các quyền công bằng được pháp luật đưa vào trong
các điều luật mang tính chất bắt buộc và được xã hội thừa nhận, bảo vệ. Nếu không
có sự thừa nhận của xã hội thông qua pháp luật thì quyền tự nhiên vốn có của con
người chưa trở thành quyền thực sự. Ngược lại, quyền được xét xử công bằng được
quy định trong pháp luật nó sẽ trở thành pháp định, quyền thực sự, là ý chí của toàn
xã hội, được xã hội thừa nhận phục tùng, được quyền lực nhà nước tôn trọng và bảo
vệ.
Pháp luật là công cụ sắc bén của nhà nước trong việc thực hiện và bảo vệ
quyền được xét xử công bằng. Cho nên những quy định về quyền công bằng trong
tố tụng hình sự cùng với những thiết chế nhằm thực hiện bảo vệ nó trong hiến pháp
và pháp luật có tính chất bắt buộc mọi thành viên trong xã hội phải tuyệt đối chấp
hành, kể cả các cơ quan tổ chức, công chức nhà nước. Mặt khác tính sắc bén của
pháp luật trong việc thực hiện việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự
còn được bảo đảm bằng bộ máy, cách thức tác động quyền lực của nhà nước, khi
cần thiết thì nhà nước có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế trên cơ sở tiến hành
các biện pháp giáo dục thuyết phục, bảo đảm cho nội dung quyền được xét xử công
bằng trong tố tụng hình sự được thực hiện và bảo vệ. Bên cạnh đó, nhờ hệ thống cơ
quan bảo vệ pháp luật mà mọi hành vi vi phạm quyền đều có khả năng bị phát hiện
và xử lý kịp thời
Pháp luật tố tụng hình sự là một trong những phương tiện nhằm nội luật hóa
Công ước quốc tế về quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự và
cũng là nơi thực hiện sự cam kết giữa các quốc gia về quyền được xét xử công
bằng. Quyền được xét xử công bằng, bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong
tố tụng hình sự có những đặc thù khác với những lĩnh vực hoạt động nhà nước khác.
Những đặc thù này chính là sự phản ánh của các hoạt động tố tụng hình sự là lĩnh
vực hoạt động nhà nước đặc biệt ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Để có thể phát
22
hiện ra tội phạm, ngăn chặn các hành vi tội phạm, tiến hành các hoạt động tố tụng
thì việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự là sự cần thiết khách
quan mang tính phổ biến và hậu quả của nó là hạn chế một cách trực tiếp đến các
quyền cơ bản của công dân do Hiến pháp quy định.
Hệ thống văn bản pháp luật về quyền được xét xử công bằng gồm Hiến pháp
quy định những quyền cơ bản, trong đó cũng có đề cập đến xét xử công bằng như
Nguyên tắc suy đoán vô tội, quyền bào chữa, quyền không ai có thể bị bắt nếu
không có quyết định của Tòa án, Viện kiểm sát hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm
sát…Trên cơ sở những quyền cơ bản này, luật tố tụng hình sự quy định các quyền
công bằng ở từng lĩnh vực cụ thể của hoạt động tố tụng hình sự. Quyền được xét xử
công bằng cũng được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của nhà nước tạo thành
hệ thống các quy phạm pháp luật, một mặt phản ánh nội dung các quyền được xét
xử công bằng, thủ tục thực hiện các quyền đó, đồng thời cũng là cơ chế pháp lý bảo
đảm quyền được công bằng trọng hoạt động tố tụng hình sự. Luật tổ chức các cơ
quan tiến hành tố tụng như Luật tổ chức Tòa án nhân dân; Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân, Pháp luật tổ chức điều tra hình sự. Những luật này trong khi quy định
về tổ chức của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng quy định những quyền con người
có liên quan như nguyên tắc thực hiện quyền hai cấp xét xử trong hình sự, nguyên
tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng. Bộ luật tố tụng hình sự đã quy
định tương đối đầy đủ các quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự và ở
trong tất cả các giai đọan khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án của quá trình
giải quyết vụ án. Những văn bản quy phạm pháp luật của Tòa án, các cơ quan tiến
hành tố tụng khác hoặc của cơ quan hành pháp quy định chi tiết, cụ thể hóa các
quyền con người trong tố tụng hình sự hoặc được bảo đảm để các quyền đó được
thực thi nghiêm túc trong thực tế. Chẳng hạn, Nghị định của chính phủ quy định về
chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam trong quá trình giải quyết vụ án.
Những quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự nêu trên được ghi
nhận trong pháp luật quốc gia nhưng phải trên các tiêu chí được ghi nhận trong
pháp luật quốc tế mà trọng tâm là các bộ luật về nhân quyền. Sở dĩ như vậy, là do
23
các văn bản pháp lý về nhân quyền là giá trị chung của nhân loài là kết quả đấu
tranh hàng nghìn năm của những tư tưởng tiến bộ với những thế lực độc tài, là sự cố
gắng không biết mệt mỏi của các quốc gia và cộng đồng quốc tế sau những biến cố
mang tính lịch sử. Chuyền tải những tiêu chuẩn quốc tế về quyền được xét xử công
bằng nói chung, trong tố tụng hình sự nói riêng là biểu hiện cụ thể sinh động của sự
nhận thức tiến bộ hợp quy luật của mỗi quốc gia. Mặt khác, khi quốc gia đã tham
gia các công ước quốc tế về công bằng trong quyền con người thì phải có nghĩa vụ
thực hiện và một trong những cam kết đó là phải nội luật hóa những quy định quyền
được xét xử công bằng liên quan đến việc giải quyết nếu có sự khác biệt giữa luật
quốc tế và luật quốc gia khi quy định quyền được xét xử công bằng của con người
trong tố tụng hình sự cơ bản phải tuân theo những tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên
trong điều kiện nhất định, pháp luật quốc gia có thể định ra một lộ trình cho sự hoàn
thiện pháp luật của mình hoặc có những quy định cho sự phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế - xã hội và đặc điểm pháp lý ở từng giai đoạn của đất nước.
1.3.2. Kiểm soát việc thực thi quyền được xét xử công bằng
Hoạt động kiểm soát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là nội
dung quan trọng của chức năng kiểm soát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát.
Bằng hoạt động của mình Viện kiểm sát ngăn chặn vi phạm quyền con người, phát
hiện vi phạm, khôi phục quyền, lợi ích vi phạm, áp dụng biện pháp loại trừ nguyên
nhân và điều kiện vi phạm. Với vị trí chức năng và nhiệm vụ của mình trong tố tụng
hình sự, Viện kiểm sát có khả năng to lớn trong việc bảo vệ quyền con người. Bằng
cách đó Viện kiển sát có thể can thiệp một cách mau lẹ khi phát hiện vi phạm pháp
luật trong hoạt động điều tra và thực sự là một lá chắn tin cậy bảo vệ quyền được
xét xử công bằng của con người của những người tham gia tố tụng, ngoài ra hoạt
động của Viện kiểm sát còn bảo đảm tính khách quan và tính hợp pháp cho kết quả
của hoạt động điều tra đối tượng xét xử của Tòa án ở giai đọan tiếp theo. Hoạt động
kiểm sát việc xét xử nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh kịp
24
thời bảo đảm tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, bảo đảm quyền con người
của những chủ thể tham gia phiên tòa
Các quyền tố tụng của những người tham gia tố tụng nhằm bảo vệ các quyền
con người của mình. Trong tổng thể có quyền tố tụng có những quyền tố tụng là
hiện thân của quyền con người hay nói cách khác là quyền con người được cụ thể
hóa trong lĩnh vực tố tụng hình sự bằng những quyền cụ thể mà bản chất của chúng
lại là những bảo đảm cho tính hiện thực của những quyền tố tụng khác.
Theo tiêu chí ưu tiên bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng
hình sự quyền được xét xử công bằng có nguy cơ bị hạn chế bị xâm phạm nhiều
nhất trong hoạt động tố tụng hình sự. Bảo đảm quyền được bình đẳng là một trong
những chỉ số phản ánh tính dân chủ tinh nhân đạo của luật tố tụng hình sự theo mô
hình tố tụng hình sự của nước ta hiện nay thì giai đoạn điều tra là giai đoạn sung
yếu nhất ở khía cạnh quyền con người và đảm bảo quyền được xét xử công bằng.
Giai đoạn điều tra là giai đoạn mà khả năng và nhu cầu áp dụng biện pháp cưỡng
chế phổ biến nhất so với các giai đoạn tố tụng khác, giai đoạn này cũng là giai đoạn
mà sự bình đẳng tính tranh tụng giữa các bên còn bị hạn chế.
Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc chống lạm quyền và cũng vì thế có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm
bảo quyền được xét xử công bằng nói chung và trong tố tụng hình nói riêng. Đa
phần các quốc gia đều hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước với hai hình
thức “ kiểm soát bên trong hệ thống và kiểm soát ngoài” trong đó coi trọng những
thiết chế kiểm soát trong. Ở nước ta, có chế kiểm soát quyền lực được hình thành
dựa trên đặc điểm thiết kế bộ máy thực hiện quyền lực Nhà nước theo Hiến pháp
1992. Cơ chế này đã phát huy tác dụng và góp phần bảo đảm quyền con người trong
tố tụng hình sự. Đứng trước yêu cầu đổi mới Nghị quyết 49 của bộ chính trị đã
khẳng định: “ Tăng cường và nâng cao hiệu lực giám sát việc chấp hành pháp luật
của cơ quan tư pháp, đặc biệt là lãnh đạo các cơ quan tư pháp”. Trên cơ sở định
hướng này việc hoàn thiện cơ chế kiểm tra giám sát hoạt động tố tụng hình sự phải
bảo đảm những yêu cầu sau. Cơ chế kiểm tra giám sát trong tố tụng hình sự phải
25
bảo đảm thực thi quyền lực nhân dân một cách tốt nhất trên cơ sở tính tối cao và
hiệu lực tối cao của hiến pháp. Bảo đảm tính thống nhất của quyền lực và sự phân
công giành mạch giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Cơ chế kiểm soát quyền lực phải bảo đảm tư pháp độc lập
nhằm bảo vệ tự do, bình đẳng và quyền con người. Với những yêu cầu này việc
hoàn thiện cơ chế kiểm tra giám sát trong tố tụng hình sự có những nội dụng cụ
thể[16].
Thứ nhất, đổi mới cơ chế kiểm tra giám sát của Quốc hội đối với hoạt động
Tố tụng hình sự. Quốc hội có chức năng giám sát tối cao đối với hoạt động của tất
cả các hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó có hoạt động tố tụng hình sự.
Chức năng này được cụ thể hóa trong Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội
thông qua tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa 11 đã tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động
giám sát của quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, các hội đồng, ủy ban của Quốc
hội. Quốc hội nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân
trực tiếp bầu ra với các chức năng lập hiến, lập pháp hoạch định chính sách phát
triển đất nước và giám sát các hoạt động của nhà nước. Mọi hoạt động của các cơ
quan nhà nước trong đó có Chính phủ, Tòa án, Viện kiểm sát và của Chủ tịch nước
đều chịu sự giám sát của Quốc hội. Hội đồng nhân dân các cấp tỉnh huyện và xã là
cơ quan trực tiếp do nhân dân bầu ra, đại diện cho nhân dân để thực hiện quyền lực
của nhân dân và giám sát hoạt động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm
quyền tại địa phương. Các ý kiến chất vấn của cử tri đều được đưa ra xem xét tại
các cơ quan quyền lực của nhân dân, các cơ quan này có bộ phận chuyên môn chăm
lo dân nguyện, yêu cầu các cơ quan và cả nhân dân có thẩm quyền phải trả lời và
quan tâm đến ý kiến của cử tri
Bên cạnh những mặt được thì hạn chế lớn nhất của Luật này, theo GS.TSKH
Đào Chí Úc là “các hình thức và cơ chế nêu trên đồng dạng với những hình thức
hoạt động của Quốc hội với tư cách là cơ quan đại diện cao nhất của quyền lực nhà
nước và “luật này chưa tạo lập được một cơ chế giám sát có tình chất thường xuyên,
26
tính chuyên môn cao, tính độc lập tương đối với các phạm vi hoạt động khác của
Quốc hội do vậy, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường
vụ Quốc hội, các hội đồng và Ủy ban của Quốc hội theo hướng nâng cao tình
chuyên nghiệp của quốc hội và đại biểu Quốc hội” [26, tr 417]. Do vậy, hoàn thiện
cơ chế kiểm tra giám sát cuae Quốc hội, UBTVQH, các hội đồng, ủy ban của Quốc
hội theo hướng. Tăng số lượng các Ủy ban của quốc hội và đảm bảo tính chuyên
trách cũng như chất lượng hoạt động của các Ủy ban đó nâng cao tình tích cực của
Đại biểu quốc hội trong các hoạt động liên quan đến nhiệm vụ Đại biểu quốc hội.
Hoàn thiện quy trình thực hiện các hình thức giám sát của Quốc hội, bảo đảm cho
hoạt động giám sát được tiến hành theo một trình tự, cơ chế khép kín.
Thứ hai, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất, chịu trách nhiệm quản lý các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong
phạm vi chức năng nhiệm vụ quyền hạn của luật định, Chính phủ đứng đầu cơ quan
hành pháp, thống nhất quản lý việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, an ninh quốc phòng đối nội và đối ngoại của Nhà nước. Hội đồng nhân dân
là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thông qua cơ quan chấp hành là Ủy
ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra để đảm bảo thi hành hiến pháp, pháp
luật trong lĩnh vực đời sống xã hội của địa phương
Thứ ba, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát của Mặt trận tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức thành viên đối với hoạt động tố tụng hình sự. Đây thực chất là hoạt
động giám sát của nhân dân thông qua các tổ chức của mình đối với hoạt động Tố
tụng hình sự. Vì vậy, nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, cũng cần xây
dựng và từng bước hoàn thiện để sự kiểm tra giám sát của mặt trận và các tổ chức
thành viên của nó đối với hoạt động Tố tụng hình sự của nó được thường xuyên và
hiệu quả.
Thứ tư, hoàn thiện cơ chế kiểm tra giám sát của viện kiểm sát đối với hoạt
động tố tụng hình sự. Cơ chế kiểm tra giám sát của Viện kiểm sát trong tố tụng hình
sự phụ thuộc vào việc lựa chọn mô hình Tố tụng hình sự do xuất phát từ nguyên lý,
cách thức phân chia, tổ chức thực hiện quyền lực nào sẽ có cơ chế kiểm tra giám sát
27
quyền lực đó. Trong trường hợp lựa chọn mô hình tố tụng hình sự tranh tụng thì
Viện kiểm sát chỉ còn chức năng thực hành quyền công tố và trở thành đối tượng
của Quyền kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự. Nếu lựa chọn mô hình tố tụng
hình sự đan xen hoặc giữ nguyên mô hình tố tụng hình sự như hiện nay thì chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng hình sự của Viện kiểm sát giữ vai trò
quan trọng do vị trí của Viện kiểm sát trong cơ cấu quyền lực của nước ta. Trường
hợp này sảy ra thì việc hoàn thiện cơ chế kiểm tra giám sát trong tố tụng hình sự của
Viện kiểm sát càng được tăng cường đảm bảo mọi vi phạm trong hoạt độngTố tụng
hình sự đều đựoc phát hiện và xử lý.
Thứ năm, hoàn thiện cơ chế kiểm tra giám sát của Tòa án đối với hoạt động
tố tụng hình sự phải dựa trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét
xử của Tòa án. Sự độc lập của Tòa án một mặt là mục tiêu của hoạt động kiểm tra,
giám sát trong tố tụng hình sự, mặt khác nó là điều kiện để Tòa án có thể thực hiện
việc kiểm tra giám sát trong Tố tụng hình sự thông qua hoạt động xét xử và giám
đốc hoạt động xét xử.
1.3.3. Thực thi việc bảo đảm quyền được xét xử công bằng
Thực thi pháp luật tố tụng hình sự, trong cơ chế bảo đảm quyền con người có
ý nghĩa quan trong trong việc hiện thực hóa các quyền con người trong quá trình
giải quyết vụ án, biến những điều tốt đẹp trong các quy phạm pháp luật tố tụng hình
sự thành thực tiễn sinh động trong hoạt động tư pháp hình sự. Những bảo đảm
quyền trong việc thực thi pháp luật về quyền con người trong tố tụng hình sự thể
hiện trên những khía cạnh. Những bảo đảm pháp luật về tổ chức của cơ quan tiến
hành tố tụng.
Thứ nhất, phải hoàn thiện các quy định về tổ chức là hoạt động của Tòa án
trong tố tụng hình sự trên cơ sở xác định là cơ quan trung tâm của hoạt động tố tụng
hình sự bảo vệ quyền con người, xử lý nghiêm minh mọi hành vi xâm phạm quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân. Tòa án độc lập, không thiên vị là một trong
những nội dung quan trọng bảo đảm quyền công bằng trong tố tụng hình sự. Tòa án
28
là cơ quan có thẩm quyền đưa ra phán quyết về việc một người có tội hay không và
trách nhiệm hình sự mà người đó phải chịu. Tại các nguyên tắc cơ bản về tính độc
lập của Tòa án do Hội nghị Liên hợp quốc về phòng chống tội phạm và xử lý người
phạm tội thông qua và được Đại hội đồng Liên hợp quốc chấp thuận. Trong năm
1985 tính độc lập của Tòa án đã được cụ thể hóa từ nhiều góc độ như cần có sự bảo
đảm của Nhà nước, bảo đảm của Hiến pháp, Tòa án không bị ảnh hưởng bởi dụ dỗ
sức ép can thiệp sai trái [13, tr 124].
Theo pháp luật hiện hành, Tòa án là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt
Nam do Quốc hội cơ quan quyền lực cao nhất lập ra, chịu sự giám sát và phải báo
cáo trước Quốc hội về hoạt động xét xử của mình trong các kỳ họp Quốc hội. Quy
định này bảo đảm cho sự thống nhất quyền lực trong Nhà nước ta, nhưng nó cũng
làm ảnh hưởng tới nguyên tắc độc lập của Tòa án trong hoạt động xét xử, làm cho
việc giải quyết vụ án thiếu khách quan. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn
đến hiện tượng oan, sai trong hoạt động tố tụng và những hậu quả tiêu cực khác. Vì
vậy, khi nói về vị trí của Tòa án trong hệ thống cơ quan Nhà nước, Nghị quyết 48
của Bộ chính trị đã chỉ ra: “Trọng tâm là hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt
động của Tòa án nhân dân, bảo đảm Tòa án xét xử độc lập đúng pháp luật, kịp thời
và nghiêm minh”
Thứ hai, nghiên cứu và sớm thay đổi quy định Thẩm phán bổ nhiệm với
nhiệm kỳ 5 năm bằng cơ chế bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời, góp phần bảo đảm sự
độc lập của Thẩm phán trong hoạt động xét xử, góp phần bảo đảm quyền con người.
Thứ ba, pháp luật về tổ chức và chức năng của Cơ quan công tố hiện nay
theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND thì VKS ngoài chức năng
thực hiện quyền công tố, còn được giao thực hiện chứa năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền bình đẳng giữa các
bên tranh tụng thì VKS nên trở lại đúng vị trí là bên buộc tội, chủ động xét hỏi,
tranh luận để bảo vệ cáo trạng hay quyết định truy tố có nhiều ý kiến cho rằng nên
bỏ quyền Kiểm sát tư pháp của VKS, bởi các KSV là một bên tranh tụng đại diện
cho Nhà nước được xem là bình đẳng với bị cáo quy định VKS chỉ có chức năng
29
giữ quyền công tố mới tạo điều kiện để quá trình giải quyết vụ án khách quan, bình
đẳng, tránh được oan, sai và vẫn đảm bảo được yêu cầu phát hiện và xử lý mọi tội
phạm. Hệ thống tổ chức VKS cũng cần phải được hoàn thiện cho phù hợp với tính
chất là một viện công tố và phải phù hợp với hệ thống Tòa án.
Thứ tư, Cơ quan Điều tra được giao thực hiện chức năng điều tra làm rõ vụ
án làm cơ sở cho việc truy tố, xét xử người phạm tội, vì vậy quyền hạn, trách nhiệm
của cơ quan điều tra được quy định trong BLTTHS, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình
sự. Trước yêu cầu đặt ra của cải cách tư pháp, pháp luật về cơ quan điều tra cũng
cần được hoàn thiện cũng cần được đổi mới của Tòa án và Viện kiểm sát, việc hoàn
thiện về pháp luật về CQĐT theo những định hướng sau: Tổ chức lại cơ quan điều
tra theo hướng thu gọn đầu mối, khẳng định vị trí của cơ quan điều tra trong TTHS
thuộc phạm vi của việc thực hiện quyền công tố, làm cơ sở cho việc hoàn thiện
pháp luật về mối quan hệ với VKS; xác định rõ ràng trách nhiệm của cơ quan điều
tra trong các mối quan hệ với các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt
động điều tra. Mối quan hệ này cần theo định hướng Cơ quan điều tra chuyên trách,
điều tra tất cả tội phạm, các vụ án, các cơ quan khác chỉ điều tra sơ bộ và tiến hành
một số hoạt động điều tra theo yêu cầu của cơ quan điều tra chuyên trách
Cải cách tư pháp đang là yêu cầu cấp bách và có ý nghĩa rất quan trọng của
cải cách bộ máy nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng nhất đến xây dựng
nhà nước pháp quyền và bảo đảm thực hiện, phát triển quyền được xét xử công
bằng của con người. Đồng thời là quá trình khôi phục và nâng cao vị thế của hệ
thống cơ quan này và của bộ máy nhà nước. Cải cách tư pháp hiện nay cần coi trọng
pháp luật, loại trừ các hành vi tội phạm và vi phạm pháp luật trong xã hội và trong
bộ máy nhà nước, hướng tới việc xử lý được hầu hết các tranh chấp trong đời sống
xã hội, góp phần xây dựng xã hội công bằng dân chủ, công bằng văn minh. Trong
đó cần chú trọng đến việc hạn chế sự lạm quyền quan liêu, tham những từ phía các
cơ quan hành chính và bộ máy nhà nước. P. Ăngghen đã chỉ rõ: “Điều kiện đầu tiên
của tự do đó là tất cả các quan chức nhà nước đều phải chịu trách nhiệm về những
hành vi chức vụ của mình đối với bất kỳ công dân nào trước tòa án”.
30
KẾT LUẬN CHƢƠNG I
Việc đối xử với một người khi họ bị buộc tội, phản ánh rõ Nhà nước tôn
trọng nhân quyền đến mức nào, bởi vậy quyền được xét xử công bằng được coi là
một hòn đá tảng của các xã hội dân chủ. Giống như mọi đặc tính của mọi nhân
quyền là phụ thuộc lẫn nhau, quyền được xét xử công bằng với các quyền khác có
mối quan hệ hai chiều. Một phiên tòa công bằng là yếu tố thiết yếu để đảm bảo các
quyền cơ bản khác của con người như quyền sống, quyền được an toàn về thân thể,
tự do ngôn luận …Ngược lại, trong một xã hội không dân chủ các quyền cơ bản của
con người không được tôn trọng thì khó có thể có chuyện mọi người được xét xử
công bằng. Quan hệ chặt chẽ giữa quyền được xét xử công bằng với pháp trị và dân
chủ cũng đã được khẳng định chính thức trong tuyên ngôn Dakar về quyền được xét
xử công bằng tại châu Phi và nhiều các văn bản quốc tế khác.
Quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự là tổng thể những nhóm
quyền cụ thể như ( được bào đảm quyền bào chữa, được xét xử nhanh chóng, công
khai bởi Tòa án độc lập không thiên vị …) được chủ yếu là luật tố tụng hình sự thừa
nhận hay quy định cho các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật tố tụng
hình sự với những địa vị pháp lý khác nhau. Là những giá trị gắn liền với một nhà
nước nhất định và được nhà nước đó bảo vệ, thể hiện mối quan hệ pháp lý cơ bản
giữa các chủ thể trong mối quan hệ pháp luật tố tụng hình sự với một Nhà nước nhất
định
Vì vậy, khi nghiên cứu quyền các vấn đề lý luận quyền được xét xử công
bằng trong tố tụng hình sự, là tập trung phân tích: Đối tượng quyền được xét xử
công bằng;
Các quan điểm và định nghĩa quyền được xét xử công bằng trong TTHS;
Quyền được xét xử công bằng theo các tiêu chí Quốc tế về quyền con người từ đó
31
đưa ra các nội dung căn bản của quyền được xét xử công bằng; Các tiêu chí quyền
pháp luật Quốc tế về quyền được xét xử công bằng được nội luật hóa trong TTHS
Việt Nam; Kiểm soát việc thực thi quyền được xét xử công bằng; Thực thi việc bảo
đảm quyền được xét xử công bằng.
Chƣơng II: THỰC TRẠNG QUYỀN ĐƢỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
2.1. Thực trạng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ 1945 – trước năm 2003
Trước hết, phải thừa nhận yếu tố lịch sử đã tác động lớn đến phương thức
hoạt động tố tụng hình sự của Việt Nam. Từ năm 1945 đến năm 1975, nước ta luôn
sống trong cảnh thời chiến, luôn phải đối phó với các lực lượng phản động. Trong
cuốn Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh của ông Vũ Đình Hòe (Bộ trưởng Tư
pháp đầu tiên) có nêu “Một chế độ nào, cho dẫu là theo hướng dân chủ mới, nhưng
mới thành lập sau một cuộc cách mạng, cũng cần phải dùng những phương sách bất
thường để chống với những lực lượng phản động”. Bởi vậy, lực lượng công an có
một quyền lực tương đối lớn và độc lập được Nhà nước trao cho để đối phó mạnh
mẽ với tình hình thời điểm đó, với mục tiêu trên hết là an ninh quốc gia. Trong thời
gian này, cách thức hoạt động phòng, chống tội phạm vẫn theo ý thức hệ cũ: Quyền
được xét xử công bằng vẫn còn nhiều hạn chế:
2.1.1. Giai đoạn từ 1945 – 1988
Ngày 2-9-1945, các mạng tháng 8 thành công và nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời. Là nhà nước dân chủ nhân dân, mặc dù còn non trẻ và tình hình đối
nội cũng như đối ngoại cực kỳ phức tạp, nhà nước đã quan tâm đến việc bảo vệ
quyền tự do dân chủ của công dân nói chung và trong xét xử của Tòa án nói riêng
Ngày 13 - 9 - 1945, Chính phủ lâm thời ra sắc lệnh số 33/SL về thành lập
Tòa án - cơ quan xét xử đầu tiên của nhà nước ta. Sắc lệnh quy định các nguyên tắc
cơ bản của hoạt động xét xử là xét xử công khai (Điều VI) bảo đảm quyền tự bào
chữa hoặc nhờ người khác bào chữa ( Điều V) quy định trách nhiệm của Tòa án
32
phải có giải thích cho người bị kết án tử hình đệ đơn xin ân giảm lên chủ tịch nước (
Điều III) vv…
Ngày 9 -11-1946, Hiến pháp đầu tiên của Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
được quốc hội thông qua. Những tư tưởng cơ bản về bảo vệ quyền tự do dân chủ
công dân trong xét xử vụ án hình sự đã được quy định Hiến pháp khẳng định tất cả
công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 7) Công dân không bị bắt
giam khi chưa có quyết định của Tòa án (Điều 11); Trong hoạt động xét xử Hiến
pháp năm 1946 quy định nguyên tắc Tòa án xét xử công khai, trừ những trường hợp
đặc biệt; bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc mượn người bào chữa (Điều 67); Cấm
các hình thức tra tấn, đánh đập, ngược đãi bị cáo (Điều 68); Tòa án xét xử chỉ tuân
theo pháp luật, không ai được can thiệp (Điều 69). Đặc biệt việc bảo đảm quyền
được xét xử công bằng trước khi ban hành.
Hiến pháp năm 1959 được quy định đồng bộ và cụ thể tại luật số 103 –
SL/L005 ngày 24 -1 -1957 bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm
phạm đối với đồ vật, thư tín của nhân dân luật này không chỉ quy định nguyên tắc
chung, tạm giam phải do cơ quan tư pháp (Tòa án) cấp tỉnh trở lên hoặc tòa án binh
quyết định với thời hạn cụ thể; đồng thời cũng quy định việc tạm tha trong trường
hợp không cần thiết hoặc đối với các đối tượng đặc biệt là người già yếu, phụ nữ có
thai hoặc đang cho con bú ( Điều 7, 8) vv.
Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp thứ ba của nước ta đã có những quy định hệ
thống, cụ thể và tương đối hoàn chỉnh về Bảo đảm quyền được xét xử công bằng
liên quan đến hoạt động xét xử vụ án hình sự. Ngoài việc quy định các quyền cơ
bản của công dân như quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, nhà ở quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và
tài sản, quyền bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín, quyền khiếu nại tố cáo… Hiến
pháp còn quy định các bảo đảm cũng như trách nhiệm trong việc bảo đảm thực hiện
các quyền đó của công dân. Ví dụ: Khi quy định quyền bất khả xâm phạm về thân
thể, Hiến pháp quy định không ai có thể bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án
33
hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát việc bắt và giam giữ người phải theo đúng pháp
luật, nghiêm cấm mọi hành vi truy bức, nhục hình …
Về tổ chức của hoạt động Tòa án nhân dân, Hiến pháp năm 1980 tiếp tục ghi
nhận các nguyên tắc quan trọng bảo đảm thực hiện quyền được xét xử công bằng
như nguyên tắc. Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc tòa án
xét xử tập thể, nguyên tắc tòa án xét xử công khai, nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa của bị cáo, nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật vv.
Như vậy, từ khi cách mạng tháng tám thành công cho đến khi Bộ luật tố tụng
hình sự 1988 được ban hành, dù trong hoàn cảnh kinh tế, xã hội nào việc bảo đảm
quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự cũng được nhà nước ta thể hiện
nhất quán trong các bản Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác với phạm vi ngày
càng rộng hơn nội dung ngày càng cụ thể hơn, hoàn chỉnh hơn đó chính là cơ sở
quan trọng cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật của Nhà nước ta về Bảo đảm
quyền con người liên quan đến hoạt động Tố tụng hình sự trong bộ luật Tố tụng
hình sự năm 1988 và các văn bản pháp luật sau này.
2.1.2. Theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988
Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của nước ta được Quốc hội thông qua ngày
28 - 6 - 1988 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 - 01 -1989 bằng việc ban hành bộ
luật này lần đầu tiên pháp luật tố tụng hình sự được pháp điển hóa hệ thống trong
một văn bản thống nhất.
Cùng với các chế định khác, việc bảo đảm quyền được xét xử công bằng của
con người trong Tố tụng hình sự được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
1988 tương đối đầy đủ, toàn diện và hệ thống. Tính đầy đủ, toàn diện và hệ thống
đó của Bộ Luật tố tụng hình sự thể hiện trong các điểm
Thứ nhất, BLTTS 1988 quy định các nguyên tắc tố tụng quan trọng bảo đảm
quyền được xét xử công bằng. Bộ luật TTHS 1988 quy định hệ thống các nguyên
tắc tố tụng khác nhau, trong đó nhóm nguyên tắc bảo đảm quyền được xét xử công
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự

More Related Content

What's hot

Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

What's hot (20)

Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữuLuận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niênLuận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luậtHình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đLuận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà NộiLuận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
 
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCMLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
 
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAYLuận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
 

Similar to Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự

Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...nataliej4
 
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNuioKila
 

Similar to Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự (20)

Đề tài: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân, HAY
Đề tài: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân, HAYĐề tài: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân, HAY
Đề tài: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luậtLuận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
 
Bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HOT
Bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HOTBảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HOT
Bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HOT
 
Bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HAY
Bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HAYBảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HAY
Bảo vệ quyền con người thông qua chế định người bào chữa, HAY
 
Luận án: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
Luận án: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAYLuận án: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
Luận án: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
 
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...
Vai trò của luật sư trong bảo vệ quyền con người ở giai đoạn khởi tố điều tra...
 
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOTĐề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm, HAYLuận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm, HAY
 
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
 
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự doQuyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
 
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOTToà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sựLuận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
 
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docxHỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
 
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docxHỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
 
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOTLuận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Đề tài: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng, HOT
Đề tài: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng, HOTĐề tài: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng, HOT
Đề tài: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng, HOT
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxTrnHiYn5
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...ChuThNgnFEFPLHN
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 

Recently uploaded (20)

BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 

Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ---------------- NGUYỄN THỊ LIÊN HƢƠNG QUYỀN ĐƢỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ---------------- NGUYỄN THỊ LIÊN HƢƠNG QUYỀN ĐƢỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã ngành : 60 38 01 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí Hà Nội - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn Quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự Việt Nam là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Liên Hƣơng
  • 4. Mở ĐầU ......................................................................................................................1 CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƢỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG ............................................................................................................5 1.1. KHÁI NIệM QUYềN ĐƢợC XÉT Xử CÔNG BằNG TRONG Tố TụNG HÌNH Sự. ............5 1.1.1. Quyền được xét xử công bằng là quyền con người cơ bản...........................5 1.1.2. Đối tượng của quyền được xét xử công bằng ...............................................6 1.1.3. Các quan điểm và định nghĩa quyền được xét xử công bằng trong TTHS...8 1.2 QUYềN ĐƢợC XÉT Xử CÔNG BằNG TRONG PHÁP LUậT QUốC Tế ..........................11 1.2.1. Quyền được xét xử công bằng theo các tiêu chí quốc tế về quyền con người ...................................................................................................................................11 1.2.2. Các nội dung căn bản của quyền được xét xử công bằng...........................16 1.3. CƠ CHế BảO ĐảM QUYềN ĐƢợC XÉT Xử CÔNG BằNG TRONG Tố TụNG HÌNH Sự..20 1.3.1. Các tiêu chí quyền pháp luật quốc tế về quyền được xét xử công bằng được nội luật hóa trong TTHS Việt Nam...........................................................................21 1.3.2. Kiểm soát việc thực thi quyền được xét xử công bằng...............................23 1.3.3. Thực thi việc bảo đảm quyền được xét xử công bằng ................................27 CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG QUYỀN ĐƢỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM .........................................................31 2.1. THựC TRạNG PHÁP LUậT Tố TụNG HÌNH Sự VIệT NAM Từ 1945 – TRƢớC NĂM 2003...........................................................................................................................31 2.1.1. Giai đoạn từ 1945 – 1988............................................................................31 2.1.2. Theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 ....................................................33 2.2. PHÁP LUậT Tố TụNG HÌNH Sự 2003 Về QUYềN ĐƢợC XÉT Xử CÔNG BằNG ..........37 2.2.1. Quy định về các nguyên tắc tố tụng............................................................38 2.2.2. Quy định về địa vị của người tiến hành tố tụng..........................................45 2.2.3. Các quy định về thủ tục các hoạt động tố tụng ...........................................51 2.2.4. Các quy định về khiếu nại, tố cáo, trong tố tụng hình sự............................54 2.3. THựC TRạNG HOạT ĐộNG Tố TụNG HÌNH Sự VIệT NAM ......................................55
  • 5. 2.3.1. Bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.......................................................................................................................55 2.3.2. Bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong giải quyết khiếu nại tố cáo .........64 CHƢƠNG III. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUYỀN ĐƢỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG TRONG TTHS VIỆT NAM .........................................68 3.1. CƠ Sở, YÊU CầU CủA VIệC NÂNG CAO HIệU QUả QUYềN ĐƢợC XÉT Xử CÔNG BằNG TRONG TTHS VIệT NAM .................................................................................68 3.2. CÁC GIảI PHÁP NÂNG CAO HIệU QUả BảO Vệ QUYềN ĐƢợC XÉT Xử CÔNG BằNG TRONG Tố TụNG HÌNH Sự...........................................................................................79 3.2.1 Nâng cao hiệu quả bảo vệ được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự trên cơ sở tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ............................................................79 3.2.2. Tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Pháp luật TTHS ..........................80 3.2.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự ...........................................82 3.2.4. Bảo đảm cho Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật............88 KẾT LUẬN..............................................................................................................95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................96
  • 6. 1 Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền được xét xử công bằng ngày nay không chỉ là xu hướng chung trong thế giới đương đại mà còn là điều kiện cho tăng trưởng kinh tế, là tiêu chí, thước đo đánh giá mức độ phát triển bền vững của một xã hội, là biểu tượng cho việc theo đuổi biểu tượng văn minh và tiến bộ xã hội. Chủ đề quyền được xét xử công bằng từ lâu đã được các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam đặc biệt coi trọng, nhưng chưa bao giờ thu hút được sự quan tâm như ngày nay. Nó đang là một trong những vấn đề được cả cộng đồng nhân loại nói chung và mỗi quốc gia nói riêng nghiên cứu. Trong luật nhân quyền quốc tế, quyền được xét xử công bằng đầu tiên được đề cập trong các Điều 10 và 11 UDHR. Theo Điều 10, mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án độc lập và khách quan, để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ, Điều 11 bổ sung thêm một số khía cạnh cụ thể. Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam về quyền được xét xử công bằng gồm Hiến pháp quy định những quyền cơ bản trong đó cũng có đề cập đến xét xử công bằng như: Nguyên tắc suy đoán vô tội, quyền bào chữa, quyền không ai có thể bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, Viện kiểm sát hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát. Trên cơ sở những quyền cơ bản này, Luật tố tụng hình sự quy định các quyền công bằng ở từng lĩnh vực cụ thể của hoạt động Tố tụng hình sự. Vấn đề quyền được xét xử công bằng mặc dù đã được Nhà nước ta rất quan tâm, cụ thể là nhà nước đã ban hành rất nhiều các văn bản pháp luật nhằm bảo vệ có hiệu quả các quyền được xét xử công bằng. Tuy nhiên, việc nhận thức về bản chất vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ quyền được xét xử công bằng còn những biểu hiện đơn giản, còn thiếu, chưa hình thành đậm nét các quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo quá trình xây dựng bảo đảm pháp lý thực hiện quyền được xét xử công bằng trong hệ thống pháp luật. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 tuy đã quy định điều
  • 7. 2 luật nâng cao quyền được xét xử công bằng, nhưng vẫn còn những hạn chế trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm cũng như bảo vệ quyền con người trong vấn đề này. Bảo vệ quyền được xét xử công bằng như thế nào một cách có hiệu quả trong xã hội hiện nay ở nước ta là một vấn đề cấp thiết. Vì vậy, tôi chọn đề tài “ Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự Việt Nam” với mong muốn tìm ra được những tiêu chí có cơ sở khoa học, có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. Cùng với các công trình nghiên cứu khác, luận văn sẽ góp phần đưa pháp luật tố tụng hình sự vào cuộc sống, phát huy tác dụng vào công cuộc bảo vệ quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự Việt Nam 2. Tình hình nghiên cứu. Vấn đề Quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự Việt Nam là vấn đề thu hút sự quan tâm của toàn ngành Tư pháp và toàn xã hội. Đặc biệt kể từ khi có nghị quyết 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị, xác định đảm bảo quyền được xét xử công bằng, dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác, cũng như trong nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị nhấn mạnh nâng cao chất lượng tranh tụng của các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp, thì nội dung về quyền được xét xử công bằng lại càng được quan tâm nghiên cứu. Các tác giả làm luận văn tiến sĩ, luận văn thạc sĩ liên quan đến quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự như tác giả Hoàng Thị Sơn với đề tài: Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội, 2000; tác giả Nguyễn Duy Phương với đề tài: Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền con người, Khoa Luật – Đại học Huế, 2005; tác giả Nguyễn Thị Vân Hằng với đề tài: Vai trò của luật sư góp phần bảo đảm dân chủ trong hoạt động tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay, luận án thạc sỹ trường Đại học cảnh sát nhân dân 2006 ; Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng với đề tài: Chức năng trong tố tụng hình sự Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, Học viện khoa học xã hội, 2012 ; Lại Văn Trình, đề tài: Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam, luận án tiến sỹ luật học, trường Đại học Luật TP Hồ Chí
  • 8. 3 Minh, 2011; tác giả Trần Văn Bảy với đề tài: Người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, thạc sỹ khoa luật hành chính – Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, 2013; Tác giả Đỗ Đình Nghĩa với đề tài: Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, luận văn thạc sỹ luật học, Đại học luật Hà Nội, 2004; Tác giả Nguyễn Ngọc Khánh với đề tài: Nâng cao vị thế của người bào chữa tại phiên tòa hình sự, luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2009. Tuy nhiên, với những công trình nghiên cứu ở trên thì quyền được xét xử công bằng vẫn chưa được đề cập một cách hệ thống. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề này vẫn còn rất cần thiết để tiếp tục hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự, đảm bảo góp phần xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội 3. Phạm vi nghiên cứu đề tài Trong khuôn khổ luận văn cao học, học viên giới hạn nghiên cứu của mình về các vấn đề sau: - Khái niệm về quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự. - Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của chế định Bảo vệ quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự từ sau 1945 đến nay. -Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về quyền được xét xử công bằng ở Việt Nam trong những năm gần đây. -Những hạn chế bất cập; nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong việc bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự. -Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự . - Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài. Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng ta về Nhà
  • 9. 4 nước và pháp luật, về mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân với tư cách là những căn cứ lý luận để giải quyết các vấn đề do đề tài đặt ra. Luận văn đặc biệt coi trọng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự. Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp trên lập trường duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, để đánh giá thực trạng vấn đề; kết hợp phương pháp hệ thống với phương pháp logic – lịch sử, phương pháp so sánh, nhằm phân tích luận chứng một cách khoa học khi xác định các giải pháp bảo đảm thực hiện Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận: Đề tài nghiên cứu lý luận đánh giá thực trạng về bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự, từ đó đề ra phương hướng, các giải pháp đề xuất sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn chi tiết các quy định của pháp luật về quyền con người, quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự, nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trên thực tế. Với kết quả nghiên cứu như vậy, đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận về quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự Việt Nam Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần đánh giá đúng thực trạng áp dụng pháp luật về bảo đảm quyền được xét xử công bằng, dân chủ; qua đó khắc phục những thiếu sót, bất cập trong hoạt động này. Các đề xuất, kiến nghị trong đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu, hướng dẫn, sửa đổi, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan đến vấn đề này 6. Kết cấu của luận văn. Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chương và kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo. Chƣơng I: Một số vấn đề lý luận về quyền được xét xử công bằng Chƣơng II: Thực trạng quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự Việt Nam
  • 10. 5 Chƣơng III: Các giải pháp nâng cao hiệu quả quyền được xét xử công bằng trong TTHS Việt Nam Chƣơng I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƢỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG 1.1. Khái niệm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự. 1.1.1. Quyền được xét xử công bằng là quyền con người cơ bản. Quyền được xét xử công bằng là nhân quyền cơ bản và có tính phổ quát cao, tồn tại trong cả các vụ án hình sự và phi hình sự. Pháp luật nhiều quốc gia quy định quyền này với quan niệm rằng nó là quyền quan trọng của mọi quốc gia pháp trị. Ở bình diện khái quát nhất, quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, việc trừng trị người phạm tội gây ra những thiệt hại cho các quyền và lợi ích hợp pháp của con người, của các cơ quan tố tụng, góp phần bảo vệ quyền con người của cơ quan tiến hành tố tụng đã góp phần bảo vệ quyền con người. Khi tội phạm xảy ra, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của con người thì các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải có trách nhiệm phát hiện, ngăn chặn, xử lý, đồng thời phải áp dụng chế tài thích đáng, phù hợp với quy định của pháp luật trừng trị người phạm tội. Đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khỏi sự xâm phạm của hành vi phạm tội là một trong những chức năng của nhà nước và trách nhiệm quan trọng của cơ quan tiến hành tố tụng. Thứ hai, khi tiến hành tố tụng giải quyết vụ án các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm quyền được xét xử công bằng của con người. Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không được lợi dụng quyền tiến hành giải quyết vụ án xâm phạm đến quyền của con người [2]. Pháp luật tố tụng hình sự có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền của người bị tình nghi, bị can, bị cáo và những người tham gia vụ án thông qua biện pháp trấn áp kịp thời, xử lý công minh theo đúng pháp luật đối với mọi hành vi
  • 11. 6 phạm tội xâm phạm tới các quyền của công dân, đảm bảo tất cả mọi tội phạm đều bị phát hiện và xử lý. Đồng thời pháp luật tố tụng hình sự còn quy định chặt chẽ các trình tự, thủ tục trong quá trình giải quyết vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhằm tôn trọng quyền được xét xử công bằng, tránh sự lợi dụng của người và cơ quan có thẩm quyền khi tiến hành tố tụng. Đây là hai định hướng, hai lĩnh vực của pháp luật tố tụng hình sự trong việc bảo vệ quyền được xét xử công bằng bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ chế độ bảo vệ lợi ích của nhà nước và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy mà Điều 1 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “ trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố xét xử và thi hành án hình sự, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng của cơ quan, tổ chức và công dân; hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Bộ luật tố tụng hình sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. 1.1.2. Đối tượng của quyền được xét xử công bằng Đối tượng quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự là quyền của nhóm những người dễ bị tổn thương trong xã hội, đó là: người bị bắt, người bị giam giữ, bị can, bị cáo người phải chấp hành hình phạt. Những người này khi tham gia vào các hoạt động tố tụng hình sự, dù với tư cách là người bị buộc tội hay là người bị hại, người tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự thì họ vẫn được pháp luật bảo vệ và tôn trọng những quyền cơ bản thiết thân của con người. Mặc dù họ là những đối tượng bị hoặc có khả năng bị áp dụng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất là trách nhiệm hình sự nhưng vẫn có những quyền cơ bản, thiết thân như những quyền
  • 12. 7 tư pháp để được xét xử công bằng, để được điều tra khách quan trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên so với người khác quyền của nhóm người này bị hạn chế do họ bị tình nghi phạm tội, bị kết án hoặc buộc phải tham gia tố tụng do có quyền, lợi ích liên quan đến sự việc phạm tội. Đây là điểm khác biệt của xã hội văn minh so với những xã hội khác, mà ở đó việc tra tấn người bị tình nghi tội phạm là phương pháp cơ bản của việc thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm hoặc đối xử với người phạm tội như những súc vật, không có bất cứ điều gì kể cả những quyền thân thiết nhất của con người. Như vậy, đối tượng của quyền được xét xử công bằng bao gồm những loại người sau: Người bị tình nghi phạm tội đang trong quá trình giải quyết vụ án, đang bị các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự nhằm xác nhận sự thật khách quan của vụ án. Những người này có thể là người bị bắt, người bị giam giữ, bị can, bị cáo theo quy định của pháp luật, họ chưa bị coi là người phạm tội mà mới chỉ là người bị tình nghi phạm tội. Người phạm tội bị kết án và phải chấp hành hình phạt do Tòa án tuyên. Khác với người tình nghi phạm tội, đây là người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh và phán quyết là có tội, bị tuyên áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của họ phù hợp với quy định của pháp luật và được phán quyết bởi thủ tục tố tụng hình sự công bằng khách quan Nhóm người tham gia tố tụng do có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án: nguyên đơn dân sư, người bị hại, bị đơn dân sự người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người bào chữa… Những người này ngoài việc tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi của mình, còn góp phần làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án và góp phần bảo đảm sự công bằng trong quá trình giải quyết vụ án. Như vậy, đối tượng quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự là người bị buộc tội, bị áp dụng hình phạt phải được chứng minh khách quan và được xét xử công bằng, đồng thời trong quá trình đó nhân phẩm danh dự, sức khỏe của họ phải được tôn trọng. Đối tượng quyền con người trong tố tụng hình sự chỉ là những
  • 13. 8 con người dễ bị tổn thương do các hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng mà đại diện là những người tiến hành tố tụng. 1.1.3. Các quan điểm và định nghĩa quyền được xét xử công bằng trong TTHS “Xét xử” là hoạt động của Tòa án, một hoạt động đặc trưng của việc thực hiện chức năng Tư pháp của Nhà nước. Hoạt động này được tiến hành theo cách thức (thủ tục) nhất định dựa trên nguyên tắc tố tụng hết sức nghiêm ngặt. Bởi lẽ kết quả của nó ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan Theo từ điển tiếng Việt “ công bằng” được hiểu là “đúng lẽ phải, không thiên vị”. Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành quy định xét xử công bằng có thể được hiểu là việc tuân thủ quá trình tố tụng tôn trọng những giá trị đúng đắn, những quy tắc chuẩn mực chung hoặc cách thức hành động phù hợp được luật pháp thừa nhận Theo PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí xây dựng khái niệm “ Quyền được xét xử công bằng là quyền cơ bản của người bị buộc tội trong vụ án hình sự và của các bên trong các vụ án phi hình sự trước cơ quan tư pháp ( công an, công tố và tòa án) được pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia ghi nhận và bảo vệ, bao gồm nhiều quyền cụ thể như ( được bảo đảm quyền bào chữa, được xét xử nhanh chóng, công khai bởi tòa án độc lập không thiên vị …) nhằm bảo đảm việc xét xử được công bằng cũng như các quyền và lợi ích của mọi cá nhân [1, tr 42] Theo THS Lã Khánh Tùng “Quyền được xét xử công bằng” là một nhân quyền cơ bản có tính phổ quát cao, tồn tại trong cả các vụ án hình sự và phi hình sự. Pháp luật nhiều quốc gia quy định quyền này với quan niệm rằng nó là quyền thiết yếu trong mọi quốc gia pháp trị. Việc đối xử với một người khi họ bị buộc tội phản ánh rõ nhà nước tôn trọng nhân quyền đến mức nào, bởi vậy, quyền được xét xử công bằng đã được coi là một hòn đá tảng của các xã hội dân chủ. Giống như đặc tính của mọi nhân quyền là phụ thuộc lẫn nhau, quyền được xét xử công bằng với các quyền khác có mối quan hệ hai chiều. Một phiên toà công bằng là yếu tố thiết yếu để bảo đảm các quyền cơ bản khác của con người như quyền sống, quyền được an toàn về thân thể, tự do ngôn luận... Ngược lại, trong một xã hội không dân chủ,
  • 14. 9 các quyền cơ bản của con người không được tôn trọng thì khó có thể có chuyện mọi người đều được xét xử công bằng. Quan hệ chặt chẽ giữa quyền được xét xử công bằng với pháp trị và dân chủ cũng đã được khẳng định chính thức trong Tuyên ngôn Dakar về quyền được xét xử công bằng tại châu Phi. [33, tr 2010] Phạm vi của quyền được xét xử công bằng được hiểu tương đối khác nhau trong lập pháp và trong nhiều tài liệu nghiên cứu, hướng dẫn áp dụng. Nếu dịch sát nghĩa “right to a fair trial” được hiểu là quyền đối với (quyền có một) phiên xử công bằng. Tức là không phải bị xét xử bởi một phiên toà không công bằng (unfair trial), dù là hình sự hay phi hình sự. Về mặt lập pháp, ngoài hệ thông pháp luật của các quốc gia, quyền được xét xử công bằng được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế và khu vực. Trước hết phải kể đến Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), đã được đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 16 tháng 12 năm 1966. Tuy nhiên, theo nhiều quan điểm thì quyền được xét xử công bằng không chỉ gồm các quy định liên quan đến giai đoạn xét xử, được quy định tại Điều 14 mà cả ở nhiều điều luật khác (Điều 7, 9, 15...) của ICCPR. Về thời điểm phát sinh, nhiều luật gia cho rằng ngay từ khi một cá nhân bị bắt họ đã có quyền này. Bởi lẽ các quyền trước, trong và sau khi xét xử đều có quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc đối xử với một người khi họ bị buộc tội phản ánh rõ nhà nước tôn trọng nhân quyền đến mức nào, bởi vậy quyền được xét xử công bằng được coi là một hòn đá tảng của các xã hội dân chủ. Giống như đặc tính của mọi nhân quyền là phụ thuộc lẫn nhau, quyền được xét xử công bằng với các quyền khác có mối quan hệ hai chiều. Một phiên tòa công bằng là yếu tố thiết yếu để bảo đảm các quyền cơ bản khác của con người như quyền sống, quyền được an toàn về thân thể, tự do ngôn luận…Ngượi lại, trong một xã hội không dân chủ các quyền cơ bản của con người không được tôn trọng thì khó có thể có chuyện mọi người đều được xét xử công bằng. Quan hệ chặt chẽ giữa quyền được xét xử công bằng với pháp trị và dân chủ cũng đã được khẳng định chính thức trong tuyên ngôn Dakar về quyền được xét xử công bằng tại Châu Phi.
  • 15. 10 Trong tuyên ngôn Dakar “ Quyền được xét xử công bằng là một quyền tổng hợp gồm những quyền cụ thể sau: Quyền bình đẳng trước tòa án và được xét xử bởi tòa án độc lập, không thiên vị, công khai; Quyền bào chữa; Quyền được xét xử theo thủ tục riêng của người chưa thành niên; Quyền kháng cáo; Quyền được bồi thương khi bị kết án oan; Quyền không bị xét xử hai lần về cùng một tội danh; Không bị truy cứu hình sự vì lý do không thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng; Không bị coi là có tội nếu hành vi không cấu thành tội phạm theo pháp luật vào thời điểm thực hiện hành vi; Không áp dụng hồi tố cũng như nghiên cứu khi đề cập đến quyền được xét xử công bằng” Từ những phân tích ở trên, khái niệm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự có thể được định nghĩa như sau: Quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự là tổng thể những nhóm quyền cụ thể như ( được bảo đảm quyền bào chữa, được xét xử nhanh chóng, công khai bởi tòa án độc lập không thiên vị …) được chủ yếu là luật tố tụng hình sự thừa nhận hay quy định cho các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự với những địa vị pháp lý khác nhau. Là những giá trị gắn liền với một nhà nước nhất định và được nhà nước đó bảo vệ, thể hiện mối quan hệ pháp lý cơ bản giữa các chủ thể trong mối quan hệ pháp luật tố tụng hình sự với một nhà nước nhất định. Như vậy, Bảo vệ quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự là các biện pháp, công cụ chống lại sự xâm phạm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự đã được pháp luật, pháp luật tố tụng hình sự của các quốc gia ghi nhận hay quy định cho các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật Tố tụng hình sự không bị xâm phạm, có tính khả thi trong thực tế và phải được tôn trọng trong suốt quá trình Tố tụng hình sự Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác nhanh chóng và xử lý công minh kịp thời mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm không làm oan người vô tội
  • 16. 11 1.2 Quyền được xét xử công bằng trong pháp luật quốc tế 1.2.1. Quyền được xét xử công bằng theo các tiêu chí quốc tế về quyền con người Quyền được xét xử công bằng đầu tiên được đề cập trong các Điều 10 và Điều 11 UDHR. Theo Điều 10, mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án độc lập và khách quan để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ. Điều 11 bổ sung thêm một số khía cạnh cụ thể, tại một phiên toà đó mọi người bị cáo buộc về hình sự đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật tại một phiên tòa được xét xử công khai nơi người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình. Không ai bị cáo buộc là phạm tội vì bất cứ hành vi hoặc sự tắc trách nào mà không cấu thành một tội phạm hình sự theo pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế vào thời điểm thực hiện hành vi hay có sự tắc trách đó. Cũng không ai bị tuyên phạt nặng hơn mức hình phạt được quy định vào thời điểm hành vi phạm tội được thực hiện Các quy định kể trên sau đó được tái khẳng định và cụ thể hóa trong các điều 14, 15 và 11 ICCPR [17, tr 174 – 175] Liên quan đến Điều 14, bên cạnh những khía cạnh đã được nêu cụ thể như trên, trong Bình luận chung số 13 thông qua tại Phiên họp lần thứ 21 năm 1984, HRC đã làm rõ thêm một số khía cạnh khác mà có thể tóm tắt như sau: Thứ nhất, Điều 14 có nội dung đa dạng nhưng tất cả đều hướng vào mục đích nhằm bảo đảm sự chính xác và công bằng trong hoạt động tư pháp. Nội dung của Điều này cần được sử dụng như là cơ sở không chỉ trong hoạt động truy tố và xét xử tội phạm, mà còn trong việc xác định các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo, cụ thể như các quyền bình đẳng trước tòa án và trước thẩm phán, quyền được bào chữa, được xét xử công khai bởi một tòa án có đủ thẩm quyền, độc lập và vô tư, được thành lập theo pháp luật Thứ hai, Điều 14 áp dụng cho tất cả các dạng tòa án và thẩm phán, bất kể tòa án thông thường, tòa án quân sự hay tòa án đặc biệt. Và mặc dù ICCPR không cấm
  • 17. 12 việc thành lập các tòa án quân sự hay tòa án đặc biệt nhưng việc sử dụng các tòa án đó để xét xử các vụ việc dân sự là sự đe dọa nghiêm trọng đến tính công bằng, độc lập và vô tư của các tòa án và thẩm phán. Thứ ba, những quy định trong Khoản 3 Điều 14 chỉ là những bảo đảm tối thiểu để thực hiện yêu cầu về xét xử công bằng. Thứ tư, yêu cầu về việc được thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình là bảo đảm tối thiểu đầu tiên mà bị can, bị cáo được hưởng trong tiến trình tố tụng. Quy định này áp dụng cho tất cả mọi trường hợp bị cáo buộc phạm tội, kể cả những người không bị tạm giữ, tạm giam. Yêu cầu về việc thông báo không chậm trễ đòi hỏi việc này phải được thực hiện ngay sau khi có sự buộc tội bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền dưới dạng thông báo nói hay văn bản, nhưng phải chỉ ra những chứng cứ và quy định pháp luật được viện dẫn để buộc tội. Thứ năm, việc xác định thời gian thích hợp để người bị buộc tội có thể chuẩn bị bào chữa và liên hệ với luật sư phụ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi vụ án, còn việc dành cho họ điều kiện thuận lợi trong vấn đề này thì liên quan đến các yếu tố như: hoạt động thu thập tài liệu và bằng chứng cần cho việc bào chữa, cơ hội thuê và tiếp xúc với luật sư. Thứ sáu, yêu cầu được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý không chỉ liên quan đến khoảng thời gian từ khi bị cáo buộc đến khi mở phiên tòa, mà còn đến thời gian xét xử tại tòa và thời gian giữa hai phiên xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, tất cả đều không được trì hoãn quá lâu. Thứ bảy, yêu cầu được có phiên dịch miễn phí nếu không hiểu hoặc không nói được ngôn ngữ sử dụng trong phiên toà phải được đáp ứng mà không phụ thuộc vào kết quả của hoạt động tố tụng, và phải được áp dụng cả với người nước ngoài cũng như với công dân của nước mình nếu cần thiết. Thứ tám, để thực hiện được bảo đảm không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội cần phải thực hiện các quyền quy định trong các Điều 7 và Khoản 1 Điều 10 ICCPR. Thêm vào đó, luật
  • 18. 13 pháp quốc gia cần có quy định chứng cứ thu được từ việc sử dụng các biện pháp tra tấn, đối xử tàn bạo,vô nhân đạo hay từ bất cứ hình thức ép buộc nào khác trong hoạt động tố tụng là vô giá trị. Thứ chín, để thực hiện các bảo đảm nêu ở các Khoản 1 và 3 Điều 14 ICCPR, các thẩm phán cần được trao quyền giải quyết những khiếu nại, tố cáo về việc vi phạm các quyền của bị can, bị cáo trong bất kỳ giai đoạn tố tụng nào. Thứ mười, người chưa thành niên làm trái pháp luật phải được hưởng những bảo đảm tố tụng ít nhất cũng ngang bằng với những bảo đảm áp dụng với những người đã thành niên. Việc thi hành tố tụng với những người chưa thành niên làm trái pháp luật cần tính đến độ tuổi của các em và mục đích khuyến khích các em hoàn lương, mà thể hiện qua các khía cạnh như: xác định độ tuổi tối thiểu phải chịu trách nhiệm hình sự và độ tuổi tối đa một người có thể được coi là chưa thành niên; xây dựng các tòa án, luật và thủ tục tố tụng đặc biệt áp dụng với người chưa thành niên và bảo đảm rằng những luật và thủ tục đặc biệt đó đã tính đến mục đích khuyến khích các em hoàn lương. Thứ mười một, quy định bất kỳ người nào bị kết án đều có quyền yêu cầu toà án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp luật cần được áp dụng với mọi trường hợp phạm tội chứ không chỉ với những trường hợp phạm tội nghiêm trọng. [ 12, tr 169 - 172] Quyền được xét xử công bằng như đã đề cập, được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế và khu vực. Trước hết phải kể đến Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), mà Việt Nam đã gia nhập từ năm 1982, là văn kiện quốc tế có giá trị cao trong hệ thống pháp luật quốc tế về quyền con người. Trong Công ước này, quyền được xét xử công bằng được ghi nhận một cách trang trọng tại Điều 14 và một số điều luật khác. Mặc dù Điều 14 không gọi trực tiếp bằng tên “quyền được xét xử công bằng” nhưng quyền này đã được Uỷ ban Nhân quyền (Human rights Committee), cơ quan được thiết lập nhằm giám sát việc thi hành ICCPR, sử dụng khi phân tích các nội dung của điều luật. Đồng thời, nội hàm của Điều 14 cũng trùng với các quy định về “quyền được xét xử công bằng” trong nhiều điều ước
  • 19. 14 quốc tế về nhân quyền. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948) (Tuyên ngôn) cũng đã bảo vệ quyền này khi khẳng định tại Điều 10 rằng mọi người đều được hưởng quyền bình đẳng hoàn toàn trong việc xem xét công khai và công bằng bởi một tòa án “có năng lực, độc lập và không thiên vị”. Trong ICCPR, bên cạnh quyền được sống, tự do thân thể, tự do ngôn luận... quyền được xét xử công bằng là một trong các quyền dân sự cơ bản của con người được đề cao bởi cộng đồng quốc tế và được quy định tập trung nhất tại Điều 14. Cạnh đó, các quyền không bị tra tấn, đối xử tàn bạo (Điều 7), quyền được bảo đảm an toàn về thân thể (Điều 9, Điều 10), nguyên tắc không áp dụng hồi tố (Điều 15) cũng được coi là hướng tới đảm bảo quyền được xét xử công bằng. Điều 14 có phạm vi tương đối rộng và nhiều nội dung, bao gồm 7 khoản. Các nội dung cơ bản của điều luật khẳng định các quyền: 1) bình đẳng trước tòa án, được xét xử bởi tòa án độc lập, không thiên vị và việc xét xử công khai trừ các trường hợp đặc biệt; 2) được suy đoán vô tội; 3) được bảo đảm tối thiểu liên quan đến quyền được biết lý do buộc tội, quyền bào chữa, được trợ giúp pháp lý, được xét xử nhanh chóng, được đối chất với người làm chứng; 4) đối với người chưa thành niên được áp dụng thủ tục áp dụng riêng; 5) được xét xử phúc thẩm; 6) được bồi thường khi bị kết án oan; 7) không bị xét xử hai lần về cùng một tội danh. Liên quan đến Điều 14, Uỷ ban Nhân quyền đã có một Bình luận chung(General Comment) số 13 ra đời năm 1984. Bình luận chung nêu một số hướng dẫn cho các quốc gia trong việc thực thi các nghĩa vụ liên quan đến điều luật này. Ngoài ra, các bản án của Uỷ ban Nhân quyền cũng được coi là nguồn “án lệ” (case law) quan trọng, dựa trên các án lệ này mà Uỷ ban hệ thống hoá lại thành các Bình luận chung. Đối chiếu với quy định về quyền này trong ICCPR với Công ước về nhân quyền của một số khu vực (châu Âu, châu Mỹ, châu Phi) cũng thấy rất nhiều điểm tương đồng. Công ước châu Âu về bảo vệ nhân quyền và tự do căn bản (ECHR) năm 1950 tại Điều 6, cũng như Công ước châu Mỹ về nhân quyền (1969) tại Điều 8, đều quy định với tiêu đề “quyền được xét xử công bằng” (Right to a fair trial), khẳng định quyền được xét xử bởi “toà án độc lập và không thiên vị, được thiết lập
  • 20. 15 theo luật pháp” trong các vụ việc dân sự hay hình sự, quyền được suy đoán vô tội và các quyền tối thiểu liên quan đến việc bị buộc tội. Tại các điều ước khu vực khác, có thể không gọi trực tiếp tên quyền này, như Điều 7 của Hiến chương châu Phi về nhân quyền và quyền của các dân tộc, nhưng cũng quy định về một số quyền như được kháng cáo, được suy đoán vô tội, được bào chữa, được xét xử bởi “một toà án không thiên vị”. Cũng cần lưu ý là châu Phi đã có riêng một văn kiện về quyền được xét xử công bằng là Tuyên ngôn Dakar về quyền được xét xử công bằng tại châu Phi (2000), như đã nhắc đến ở trên. Hiến chương nhân quyền Ả-rập (1994), dù không có điều nào đề cập trực tiếp đến toà án, nhưng cũng có quy định về quyền được suy đoán vô tội (Điều 7), quyền không bị xét xử hai lần, được bồi thường nếu bị giam giữ oan (Điều 16). Các điều ước khu vực hiển nhiên chỉ có giá trị bắt buộc đối với các quốc gia tham gia điều ước, nhưng rõ ràng quyền được xét xử công bằng mang tính phổ quát cao và được quan tâm bảo vệ trên khắp thế giới. Bên cạnh các văn kiện mang tính ràng buộc pháp lý (công ước, điều ước), nhiều văn kiện không mang tính ràng buộc pháp lý như Hướng dẫn, Nguyên tắc, Quy tắc có liên quan đến bảo vệ quyền được xét xử công bằng. Chẳng hạn như liên quan đến người tiến hành tố tụng và các nghĩa vụ của họ có Các nguyên tắc cơ bản về tính độc lập của Tòa án (1985), Quy ước đạo đức của quan chức thi hành pháp luật (1979), Hướng dẫn về vai trò của công tố viên (1990) … Liên quan đến người tham gia tố tụng có Các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay tù dưới bất kỳ hình thức nào (1988), Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về tư pháp người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) (1985), Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do (1990), Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư (1990)… Những văn kiện này dù không mang tính ràng buộc về mặt pháp lý, nhưng lại là những tiêu chuẩn chung đã được cộng đồng quốc tế nhất trí nhằm hướng đến bảo vệ nhân quyền và nhân phẩm của con người – những giá trị mang tính phổ quát. Bên cạnh giá trị đạo đức và chính trị, các văn kiện này đã và đang được nghiên cứu và nội luật hoá bởi nhiều quốc gia.
  • 21. 16 Tập hợp các văn kiện văn kiện mang tính ràng buộc và không mang tính ràng buộc pháp lý nêu trên tạo nên một hệ thống các chuẩn mực quốc tế về quyền được xét xử công bằng. Hệ thống chuẩn mực này có thể dùng làm thước đo mức độ tuân thủ của các quốc gia trên khía cạnh pháp luật thực định và thực tiễn thi hành pháp luật. 1.2.2. Các nội dung căn bản của quyền được xét xử công bằng Như trên đã đề cập nội dung của quyền được xét xử công bằng tương đối rộng, bao trùm nhiều quyền cụ thể. Nói cách khác, quyền được xét xử công bằng là một quyền tổng hợp. Các quyền cụ thể đó và một số chuẩn mực quốc tế liên quan. Một số quyền trong giai đoạn trước xét xử Mặc dù quyền được xét xử công bằng liên quan nhiều nhất đến hoạt động xét xử của toà án, nhưng giai đoạn tiền xét xử lại có quan hệ chặt chẽ, làm tiền đề cho giai đoạn xét xử. Các nhân quyền cơ bản nếu bị xâm hại từ giai đoạn đầu này sẽ ảnh hưởng đến các quyền ở giai đoạn sau. Chẳng hạn quyền không bị tra tấn, bức cung hay nhục hình nếu bị xâm hại, rất dễ dẫn đến những lời khai không khách quan, từ đó nội dung vụ án bị sai lệch. Mặt khác, toà án trong giai đoạn này đã có vai trò xem xét về tính hợp pháp của việc bắt giữ người. Quyền bình đẳng trước tòa án và được xét xử bởi tòa án độc lập, không thiên vị, công khai Trước hết, bình đẳng thể hiện ở sự ngang bằng về quyền giữa các bên trong tố tụng. Các buộc tội với bên gỡ tội có quyền như nhau trong việc đưa ra chứng cứ, quan điểm, yêu cầu là những đòi hỏi đầu tiên của công bằng trong xét xử. Đây cũng là yêu cầu của Điều 7 Tuyên ngôn rằng mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng. Thứ hai, tòa án cần phải độc lập, không thiên vị cũng là nội dung quan trọng đảm bảo công bằng. Toà án là cơ quan có thẩm quyền đưa ra phán quyết về việc một người có tội hay không và trách nhiệm hình sự mà người đó phải ghánh chịu. Tại Các nguyên tắc cơ bản về tính độc lập của Tòa án (Basic Principles on the Independence of the Judiciary) do Hội nghị Liên hợp quốc về phòng chống tội
  • 22. 17 phạm và xử lý người phạm tội thông qua và được Đại hội đồng Liên hợp quốc chấp thuận cùng trong năm 1985, tính độc lập của toà án đã được cụ thể hoá từ nhiều góc độ như cần có sự bảo đảm của nhà nước, bảo đảm của hiến pháp, toà án không bị ảnh hưởng bởi dụ dỗ, sức ép, can thiệp sai trái... Bên cạnh sự độc lập của tòa án và các thẩm phán, sự độc lập của cảnh sát và công tố viên cũng ảnh hưởng đáng kể đến tính độc lập của hệ thống tư pháp. Hướng dẫn về vai trò của công tố viên (được Hội nghị Liên hợp quốc thông qua năm 1990) đã khẳng định trách nhiệm của nhà nước trong bảo đảm cho công tố viên thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn mà không bị đe doạ, ngăn cản, can thiệp (Khoản 4) và văn phòng công tố viên phải triệt để tách khỏi chức năng xét xử (Khoản 10)... Trong Quy ước đạo đức của quan chức thi hành pháp luật (được Đại hội đồng LHQ thông qua năm 1979), một số khía cạnh liên quan đến tính độc lập như các quan chức thi hành pháp luật (thực thi quyền lực cảnh sát) không được tham nhũng (Điều 7). Công khai và minh bạch là những đòi hỏi thiết yếu của công bằng. Toà án xét xử công khai là một yêu cầu trong Điều 14/1 ICCPR. Tuy nhiên, việc xét xử công khai có thể bị hạn chế vì lý do an ninh quốc gia hoặc để giữ kín đời tư của các bên. Trong Công ước Châu Âu về nhân quyền (ECHR), tính công khai của việc xét xử (Điều 6) cũng như việc đảm bảo quyền thông tin của công chúng được đề cao (Điều 10). Gần đây, Hội đồng châu Âu nêu lên kiến nghị liên quan đến tính minh bạch và khuyến cáo các quốc gia bảo đảm quyền của công chúng trong việc nhận các thông tin về hoạt động của cơ quan tư pháp, công an thông qua các phương tiện truyền thông, đồng thời, các phóng viên phải được tự do viết, bình luận về hệ thống tư pháp. Năm 2005, Hội đồng tư vấn Thẩm phán châu Âu (the Consultative Council of European Judges) cũng đã đề cao mối quan hệ giữa toà án với các phương tiện truyền thông đại chúng. Quyền được suy đoán vô tội Nguyên tắc suy đoán vô tội được hình thành tương đối sớm trong nhiều nền tư pháp trên thế giới. Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1789) đã khẳng định mọi người đều được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội
  • 23. 18 (Điều 9). Trong Hiến pháp Mỹ, dù không trực tiếp đề cập đến nhưng có thể được suy ra từ các tu chính án 4, 5 và 14. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948) tại Điều 11 và ECHR tại khoản 2 Điều 6 cũng khẳng định quyền này. Điều 14/2 ICCPR đã ghi nhận quyền được suy đoán vô tội của bị can, bị cáo, cạnh đó, Khoản 7 của Bình luận chung số 13 nhấn mạnh mối quan hệ của quyền này với nghĩa vụ chứng minh của bên công tố, bên công tố có nghĩa vụ chứng minh trong suốt quá trình xét xử. Quy định về suy đoán vô tội có quan hệ chặt chẽ với quy định về toà án không thiên vị. Các cơ quan tiến hành tố tụng, các thẩm phán, công tố viên có nghĩa vụ không được có định kiến trước về kết quả của việc xét xử. Cụ thể, việc tiến hành phiên toà phải được dựa trên việc giả định suy đoán là vôi tội. Liên quan đến suy đoán vô tội, các yếu tố có thể tạo nên định kiến cũng cần phải tránh như việc yêu cầu bị can, bị cáo đeo còng tay, mặc đồng phục trại giam hoặc buộc phải cạo trọc đầu. Quyền bào chữa Quyền bào chữa có vai trò đặc biệt là quyền bảo vệ các quyền khác. Điều 14/3 ICCPR khẳng định trong quá trình xét xử hình sự, mọi người phải được các bảo đảm tối thiểu liên quan đến quyền bào chữa. Các quyền đó bao gồm quyền được biết lý do buộc tội, quyền bào chữa, được trợ giúp pháp lý, được xét xử nhanh chóng, được đối chất với người làm chứng... Trước hết, để có thể thực hiện việc bào chữa, người bị buộc tội phải được thông báo về lý do buộc tội (Điều 14/3/a). Nguyên tắc 10 trong Các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam giữ hay tù dưới bất kỳ hình thức nào (1988) cũng nhấn mạnh quyền được thông báo này của người bị bắt giữ. Bên cạnh quyền có đủ thời gian để chuẩn bị cho việc bào chữa (Điều 14/3/b), bị cáo lại có quyền được xét xử nhanh chóng (Điều 14/3/c). Để đảm bảo quyền bào chữa còn có các quy định liên quan đến chứng minh, người làm chứng. Cá nhân có quyền thẩm vấn và yêu cầu thẩm vấn những nhân chứng buộc tội mình, được mời người làm chứng gỡ tội cho mình tới phiên toà (Điều 14/3/e). Về nghĩa vụ chứng minh, bị can, bị cáo không phải đưa ra lời khai
  • 24. 19 chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội (Điều 14/3/g) và nghĩa vụ chứng minh trong vụ án hình sự thuộc về phía công tố. Quyền được xét xử theo thủ tục riêng của người chưa thành niên Do đặc điểm của người chưa thành niên có nhiều hạn chế về thể chất, tâm sinh lý, cộng đồng quốc tế đã giành nhiều quan tâm để bảo vệ người chưa thành niên về mặt pháp lý. Điều 14/4 ICCPR quy định thủ tục áp dụng đối với người chưa thành niên phải xem xét đến độ tuổi và khuyến khích sự phục hồi của trẻ. Công ước về quyền trẻ em (1989) tại Điều 40/2/b cũng đã khẳng định các quyền của trẻ em được các đảm bảo khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về tư pháp người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh)(1985) đã dành rất nhiều ưu đãi đặc biệt cho người chưa thanh niên. Ngoài ra Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do (1990), bên cạnh việc quy định rất nhiều bảo đảm đối với người chưa thành niên, cũng nhấn mạnh quyền có luật sư bào chữa và được yêu cầu trợ giúp pháp lý không phải trả tiền trong giai đoạn chờ xét xử của họ (Khoản 18, phần III). Quyền kháng cáo Điều 14/5 ICCPR quy định quyền kháng cáo quyền được xét xử phúc thẩm. Người nào bị kết án đều có quyền yêu cầu toà án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với họ mà toà án cấp dưới đã tuyên. Quyền này nhằm hạn chế những sai lầm của các cơ quan tiên hành tố tụng cấp dưới có thể gây thiệt hại đến quyền lợi chính đáng của các đương sự. Trong Khoản 7 của Bình luận chung số 13 về quyền kháng cáo đã nhấn mạnh rằng, trong các vụ án hình sự, quyền này không chỉ áp dụng đối với những tội phạm nghiêm trọng mà áp dụng đối với tất cả các loại tội phạm. Một số quyền khác Điều 14 ICCPR còn quy định về quyền được bồi thường khi bị kết án oan, quyền không bị xét xử hai lần về cùng một tội danh. Khi một cá nhân bị kết tội, kèm theo đó bị tuyên một hình phạt, nhân phẩm và danh dự của họ đã bị ảnh hưởng. Điều 14/6 ICCPR quy định quyền được yêu cầu bồi thường khi bị kết án oan. Điều
  • 25. 20 luật quy định cụ thể nếu bản án có hiệu lực chung thẩm bị huỷ bỏ hoặc tuyên vô tội trên cơ sở tình tiết mới cho thấy việc xét xử là oan, người bị kết án oan có quyền yêu cầu bồi thường. Điều 14/7 ICCPR còn quy định quyền không bị xét xử hay phải chịu hình phạt hai lần về cùng một tội danh. Trong ICCPR, ngoài các nội dung quy định tại Điều 14 nêu trên, các nội dung quy định trong Điều 11 về không bị truy cứu hình sự vì lý do không thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng và Điều 15 về không bị coi là có tội nếu hành vi không cấu thành tội phạm theo pháp luật vào thời điểm thực hiện hành vi, không áp dụng hồi tố cũng được nghiên cứu khi đề cập đến quyền được xét xử công bằng. Trên đây là những nội dung cơ bản của các quy phạm pháp luật quốc tế về quyền được xét xử công bằng. Mức độ tuân thủ của các quốc gia, trên khía cạnh pháp luật thực định và thực tiễn thi hành pháp luật, lại là một vấn đề lớn và phức tạp hơn nhiều. 1.3. Cơ chế bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự Lịch sử nhân loài đã chứng minh ở mỗi thời đại, mỗi chế độ chính trị - xã hội nhất định lòng khát khao được bình đẳng về công lý và công bằng xã hội luôn là sức mạnh vô tận trong nhu cầu được bảo vệ một nhu cầu hết sức tự nhiên của con người. Do vậy, vai trò của pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng hơn bao giờ hết cần phải có những quy định cụ thể tạo nên cơ chế bảo vệ thích đáng xuất phát từ yêu cầu khách quan của đời sống pháp luật, đặc biệt là hoạt động có tính chất nhạy cảm, phức tạp như trong hoạt động tố tụng hình sự. Quyền được xét xử công bằng là một quá trình mà nó phụ thuộc nhiều vào biện pháp khác nhau trong đó pháp luật cũng như các cơ quan trong bộ máy nhà nước có vị trí, vai trò và tầm quan trọng hàng đầu của các biện pháp bảo vệ quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự
  • 26. 21 1.3.1. Các tiêu chí quyền pháp luật quốc tế về quyền được xét xử công bằng được nội luật hóa trong TTHS Việt Nam Vai trò của pháp luật là phương tiện chính thức hóa các giá trị xã hội của quyền được xét xử công bằng các quyền công bằng được pháp luật đưa vào trong các điều luật mang tính chất bắt buộc và được xã hội thừa nhận, bảo vệ. Nếu không có sự thừa nhận của xã hội thông qua pháp luật thì quyền tự nhiên vốn có của con người chưa trở thành quyền thực sự. Ngược lại, quyền được xét xử công bằng được quy định trong pháp luật nó sẽ trở thành pháp định, quyền thực sự, là ý chí của toàn xã hội, được xã hội thừa nhận phục tùng, được quyền lực nhà nước tôn trọng và bảo vệ. Pháp luật là công cụ sắc bén của nhà nước trong việc thực hiện và bảo vệ quyền được xét xử công bằng. Cho nên những quy định về quyền công bằng trong tố tụng hình sự cùng với những thiết chế nhằm thực hiện bảo vệ nó trong hiến pháp và pháp luật có tính chất bắt buộc mọi thành viên trong xã hội phải tuyệt đối chấp hành, kể cả các cơ quan tổ chức, công chức nhà nước. Mặt khác tính sắc bén của pháp luật trong việc thực hiện việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự còn được bảo đảm bằng bộ máy, cách thức tác động quyền lực của nhà nước, khi cần thiết thì nhà nước có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế trên cơ sở tiến hành các biện pháp giáo dục thuyết phục, bảo đảm cho nội dung quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự được thực hiện và bảo vệ. Bên cạnh đó, nhờ hệ thống cơ quan bảo vệ pháp luật mà mọi hành vi vi phạm quyền đều có khả năng bị phát hiện và xử lý kịp thời Pháp luật tố tụng hình sự là một trong những phương tiện nhằm nội luật hóa Công ước quốc tế về quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự và cũng là nơi thực hiện sự cam kết giữa các quốc gia về quyền được xét xử công bằng. Quyền được xét xử công bằng, bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự có những đặc thù khác với những lĩnh vực hoạt động nhà nước khác. Những đặc thù này chính là sự phản ánh của các hoạt động tố tụng hình sự là lĩnh vực hoạt động nhà nước đặc biệt ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Để có thể phát
  • 27. 22 hiện ra tội phạm, ngăn chặn các hành vi tội phạm, tiến hành các hoạt động tố tụng thì việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự là sự cần thiết khách quan mang tính phổ biến và hậu quả của nó là hạn chế một cách trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân do Hiến pháp quy định. Hệ thống văn bản pháp luật về quyền được xét xử công bằng gồm Hiến pháp quy định những quyền cơ bản, trong đó cũng có đề cập đến xét xử công bằng như Nguyên tắc suy đoán vô tội, quyền bào chữa, quyền không ai có thể bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, Viện kiểm sát hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát…Trên cơ sở những quyền cơ bản này, luật tố tụng hình sự quy định các quyền công bằng ở từng lĩnh vực cụ thể của hoạt động tố tụng hình sự. Quyền được xét xử công bằng cũng được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của nhà nước tạo thành hệ thống các quy phạm pháp luật, một mặt phản ánh nội dung các quyền được xét xử công bằng, thủ tục thực hiện các quyền đó, đồng thời cũng là cơ chế pháp lý bảo đảm quyền được công bằng trọng hoạt động tố tụng hình sự. Luật tổ chức các cơ quan tiến hành tố tụng như Luật tổ chức Tòa án nhân dân; Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Pháp luật tổ chức điều tra hình sự. Những luật này trong khi quy định về tổ chức của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng quy định những quyền con người có liên quan như nguyên tắc thực hiện quyền hai cấp xét xử trong hình sự, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng. Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định tương đối đầy đủ các quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự và ở trong tất cả các giai đọan khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án của quá trình giải quyết vụ án. Những văn bản quy phạm pháp luật của Tòa án, các cơ quan tiến hành tố tụng khác hoặc của cơ quan hành pháp quy định chi tiết, cụ thể hóa các quyền con người trong tố tụng hình sự hoặc được bảo đảm để các quyền đó được thực thi nghiêm túc trong thực tế. Chẳng hạn, Nghị định của chính phủ quy định về chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam trong quá trình giải quyết vụ án. Những quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự nêu trên được ghi nhận trong pháp luật quốc gia nhưng phải trên các tiêu chí được ghi nhận trong pháp luật quốc tế mà trọng tâm là các bộ luật về nhân quyền. Sở dĩ như vậy, là do
  • 28. 23 các văn bản pháp lý về nhân quyền là giá trị chung của nhân loài là kết quả đấu tranh hàng nghìn năm của những tư tưởng tiến bộ với những thế lực độc tài, là sự cố gắng không biết mệt mỏi của các quốc gia và cộng đồng quốc tế sau những biến cố mang tính lịch sử. Chuyền tải những tiêu chuẩn quốc tế về quyền được xét xử công bằng nói chung, trong tố tụng hình sự nói riêng là biểu hiện cụ thể sinh động của sự nhận thức tiến bộ hợp quy luật của mỗi quốc gia. Mặt khác, khi quốc gia đã tham gia các công ước quốc tế về công bằng trong quyền con người thì phải có nghĩa vụ thực hiện và một trong những cam kết đó là phải nội luật hóa những quy định quyền được xét xử công bằng liên quan đến việc giải quyết nếu có sự khác biệt giữa luật quốc tế và luật quốc gia khi quy định quyền được xét xử công bằng của con người trong tố tụng hình sự cơ bản phải tuân theo những tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên trong điều kiện nhất định, pháp luật quốc gia có thể định ra một lộ trình cho sự hoàn thiện pháp luật của mình hoặc có những quy định cho sự phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và đặc điểm pháp lý ở từng giai đoạn của đất nước. 1.3.2. Kiểm soát việc thực thi quyền được xét xử công bằng Hoạt động kiểm soát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là nội dung quan trọng của chức năng kiểm soát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát. Bằng hoạt động của mình Viện kiểm sát ngăn chặn vi phạm quyền con người, phát hiện vi phạm, khôi phục quyền, lợi ích vi phạm, áp dụng biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện vi phạm. Với vị trí chức năng và nhiệm vụ của mình trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát có khả năng to lớn trong việc bảo vệ quyền con người. Bằng cách đó Viện kiển sát có thể can thiệp một cách mau lẹ khi phát hiện vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra và thực sự là một lá chắn tin cậy bảo vệ quyền được xét xử công bằng của con người của những người tham gia tố tụng, ngoài ra hoạt động của Viện kiểm sát còn bảo đảm tính khách quan và tính hợp pháp cho kết quả của hoạt động điều tra đối tượng xét xử của Tòa án ở giai đọan tiếp theo. Hoạt động kiểm sát việc xét xử nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh kịp
  • 29. 24 thời bảo đảm tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, bảo đảm quyền con người của những chủ thể tham gia phiên tòa Các quyền tố tụng của những người tham gia tố tụng nhằm bảo vệ các quyền con người của mình. Trong tổng thể có quyền tố tụng có những quyền tố tụng là hiện thân của quyền con người hay nói cách khác là quyền con người được cụ thể hóa trong lĩnh vực tố tụng hình sự bằng những quyền cụ thể mà bản chất của chúng lại là những bảo đảm cho tính hiện thực của những quyền tố tụng khác. Theo tiêu chí ưu tiên bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự quyền được xét xử công bằng có nguy cơ bị hạn chế bị xâm phạm nhiều nhất trong hoạt động tố tụng hình sự. Bảo đảm quyền được bình đẳng là một trong những chỉ số phản ánh tính dân chủ tinh nhân đạo của luật tố tụng hình sự theo mô hình tố tụng hình sự của nước ta hiện nay thì giai đoạn điều tra là giai đoạn sung yếu nhất ở khía cạnh quyền con người và đảm bảo quyền được xét xử công bằng. Giai đoạn điều tra là giai đoạn mà khả năng và nhu cầu áp dụng biện pháp cưỡng chế phổ biến nhất so với các giai đoạn tố tụng khác, giai đoạn này cũng là giai đoạn mà sự bình đẳng tính tranh tụng giữa các bên còn bị hạn chế. Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chống lạm quyền và cũng vì thế có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo quyền được xét xử công bằng nói chung và trong tố tụng hình nói riêng. Đa phần các quốc gia đều hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước với hai hình thức “ kiểm soát bên trong hệ thống và kiểm soát ngoài” trong đó coi trọng những thiết chế kiểm soát trong. Ở nước ta, có chế kiểm soát quyền lực được hình thành dựa trên đặc điểm thiết kế bộ máy thực hiện quyền lực Nhà nước theo Hiến pháp 1992. Cơ chế này đã phát huy tác dụng và góp phần bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Đứng trước yêu cầu đổi mới Nghị quyết 49 của bộ chính trị đã khẳng định: “ Tăng cường và nâng cao hiệu lực giám sát việc chấp hành pháp luật của cơ quan tư pháp, đặc biệt là lãnh đạo các cơ quan tư pháp”. Trên cơ sở định hướng này việc hoàn thiện cơ chế kiểm tra giám sát hoạt động tố tụng hình sự phải bảo đảm những yêu cầu sau. Cơ chế kiểm tra giám sát trong tố tụng hình sự phải
  • 30. 25 bảo đảm thực thi quyền lực nhân dân một cách tốt nhất trên cơ sở tính tối cao và hiệu lực tối cao của hiến pháp. Bảo đảm tính thống nhất của quyền lực và sự phân công giành mạch giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cơ chế kiểm soát quyền lực phải bảo đảm tư pháp độc lập nhằm bảo vệ tự do, bình đẳng và quyền con người. Với những yêu cầu này việc hoàn thiện cơ chế kiểm tra giám sát trong tố tụng hình sự có những nội dụng cụ thể[16]. Thứ nhất, đổi mới cơ chế kiểm tra giám sát của Quốc hội đối với hoạt động Tố tụng hình sự. Quốc hội có chức năng giám sát tối cao đối với hoạt động của tất cả các hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó có hoạt động tố tụng hình sự. Chức năng này được cụ thể hóa trong Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa 11 đã tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát của quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, các hội đồng, ủy ban của Quốc hội. Quốc hội nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra với các chức năng lập hiến, lập pháp hoạch định chính sách phát triển đất nước và giám sát các hoạt động của nhà nước. Mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước trong đó có Chính phủ, Tòa án, Viện kiểm sát và của Chủ tịch nước đều chịu sự giám sát của Quốc hội. Hội đồng nhân dân các cấp tỉnh huyện và xã là cơ quan trực tiếp do nhân dân bầu ra, đại diện cho nhân dân để thực hiện quyền lực của nhân dân và giám sát hoạt động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền tại địa phương. Các ý kiến chất vấn của cử tri đều được đưa ra xem xét tại các cơ quan quyền lực của nhân dân, các cơ quan này có bộ phận chuyên môn chăm lo dân nguyện, yêu cầu các cơ quan và cả nhân dân có thẩm quyền phải trả lời và quan tâm đến ý kiến của cử tri Bên cạnh những mặt được thì hạn chế lớn nhất của Luật này, theo GS.TSKH Đào Chí Úc là “các hình thức và cơ chế nêu trên đồng dạng với những hình thức hoạt động của Quốc hội với tư cách là cơ quan đại diện cao nhất của quyền lực nhà nước và “luật này chưa tạo lập được một cơ chế giám sát có tình chất thường xuyên,
  • 31. 26 tính chuyên môn cao, tính độc lập tương đối với các phạm vi hoạt động khác của Quốc hội do vậy, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, các hội đồng và Ủy ban của Quốc hội theo hướng nâng cao tình chuyên nghiệp của quốc hội và đại biểu Quốc hội” [26, tr 417]. Do vậy, hoàn thiện cơ chế kiểm tra giám sát cuae Quốc hội, UBTVQH, các hội đồng, ủy ban của Quốc hội theo hướng. Tăng số lượng các Ủy ban của quốc hội và đảm bảo tính chuyên trách cũng như chất lượng hoạt động của các Ủy ban đó nâng cao tình tích cực của Đại biểu quốc hội trong các hoạt động liên quan đến nhiệm vụ Đại biểu quốc hội. Hoàn thiện quy trình thực hiện các hình thức giám sát của Quốc hội, bảo đảm cho hoạt động giám sát được tiến hành theo một trình tự, cơ chế khép kín. Thứ hai, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, chịu trách nhiệm quản lý các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong phạm vi chức năng nhiệm vụ quyền hạn của luật định, Chính phủ đứng đầu cơ quan hành pháp, thống nhất quản lý việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng đối nội và đối ngoại của Nhà nước. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thông qua cơ quan chấp hành là Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra để đảm bảo thi hành hiến pháp, pháp luật trong lĩnh vực đời sống xã hội của địa phương Thứ ba, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đối với hoạt động tố tụng hình sự. Đây thực chất là hoạt động giám sát của nhân dân thông qua các tổ chức của mình đối với hoạt động Tố tụng hình sự. Vì vậy, nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, cũng cần xây dựng và từng bước hoàn thiện để sự kiểm tra giám sát của mặt trận và các tổ chức thành viên của nó đối với hoạt động Tố tụng hình sự của nó được thường xuyên và hiệu quả. Thứ tư, hoàn thiện cơ chế kiểm tra giám sát của viện kiểm sát đối với hoạt động tố tụng hình sự. Cơ chế kiểm tra giám sát của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự phụ thuộc vào việc lựa chọn mô hình Tố tụng hình sự do xuất phát từ nguyên lý, cách thức phân chia, tổ chức thực hiện quyền lực nào sẽ có cơ chế kiểm tra giám sát
  • 32. 27 quyền lực đó. Trong trường hợp lựa chọn mô hình tố tụng hình sự tranh tụng thì Viện kiểm sát chỉ còn chức năng thực hành quyền công tố và trở thành đối tượng của Quyền kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự. Nếu lựa chọn mô hình tố tụng hình sự đan xen hoặc giữ nguyên mô hình tố tụng hình sự như hiện nay thì chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng hình sự của Viện kiểm sát giữ vai trò quan trọng do vị trí của Viện kiểm sát trong cơ cấu quyền lực của nước ta. Trường hợp này sảy ra thì việc hoàn thiện cơ chế kiểm tra giám sát trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát càng được tăng cường đảm bảo mọi vi phạm trong hoạt độngTố tụng hình sự đều đựoc phát hiện và xử lý. Thứ năm, hoàn thiện cơ chế kiểm tra giám sát của Tòa án đối với hoạt động tố tụng hình sự phải dựa trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án. Sự độc lập của Tòa án một mặt là mục tiêu của hoạt động kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự, mặt khác nó là điều kiện để Tòa án có thể thực hiện việc kiểm tra giám sát trong Tố tụng hình sự thông qua hoạt động xét xử và giám đốc hoạt động xét xử. 1.3.3. Thực thi việc bảo đảm quyền được xét xử công bằng Thực thi pháp luật tố tụng hình sự, trong cơ chế bảo đảm quyền con người có ý nghĩa quan trong trong việc hiện thực hóa các quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án, biến những điều tốt đẹp trong các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự thành thực tiễn sinh động trong hoạt động tư pháp hình sự. Những bảo đảm quyền trong việc thực thi pháp luật về quyền con người trong tố tụng hình sự thể hiện trên những khía cạnh. Những bảo đảm pháp luật về tổ chức của cơ quan tiến hành tố tụng. Thứ nhất, phải hoàn thiện các quy định về tổ chức là hoạt động của Tòa án trong tố tụng hình sự trên cơ sở xác định là cơ quan trung tâm của hoạt động tố tụng hình sự bảo vệ quyền con người, xử lý nghiêm minh mọi hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tòa án độc lập, không thiên vị là một trong những nội dung quan trọng bảo đảm quyền công bằng trong tố tụng hình sự. Tòa án
  • 33. 28 là cơ quan có thẩm quyền đưa ra phán quyết về việc một người có tội hay không và trách nhiệm hình sự mà người đó phải chịu. Tại các nguyên tắc cơ bản về tính độc lập của Tòa án do Hội nghị Liên hợp quốc về phòng chống tội phạm và xử lý người phạm tội thông qua và được Đại hội đồng Liên hợp quốc chấp thuận. Trong năm 1985 tính độc lập của Tòa án đã được cụ thể hóa từ nhiều góc độ như cần có sự bảo đảm của Nhà nước, bảo đảm của Hiến pháp, Tòa án không bị ảnh hưởng bởi dụ dỗ sức ép can thiệp sai trái [13, tr 124]. Theo pháp luật hiện hành, Tòa án là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam do Quốc hội cơ quan quyền lực cao nhất lập ra, chịu sự giám sát và phải báo cáo trước Quốc hội về hoạt động xét xử của mình trong các kỳ họp Quốc hội. Quy định này bảo đảm cho sự thống nhất quyền lực trong Nhà nước ta, nhưng nó cũng làm ảnh hưởng tới nguyên tắc độc lập của Tòa án trong hoạt động xét xử, làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách quan. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng oan, sai trong hoạt động tố tụng và những hậu quả tiêu cực khác. Vì vậy, khi nói về vị trí của Tòa án trong hệ thống cơ quan Nhà nước, Nghị quyết 48 của Bộ chính trị đã chỉ ra: “Trọng tâm là hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, bảo đảm Tòa án xét xử độc lập đúng pháp luật, kịp thời và nghiêm minh” Thứ hai, nghiên cứu và sớm thay đổi quy định Thẩm phán bổ nhiệm với nhiệm kỳ 5 năm bằng cơ chế bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời, góp phần bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán trong hoạt động xét xử, góp phần bảo đảm quyền con người. Thứ ba, pháp luật về tổ chức và chức năng của Cơ quan công tố hiện nay theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND thì VKS ngoài chức năng thực hiện quyền công tố, còn được giao thực hiện chứa năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền bình đẳng giữa các bên tranh tụng thì VKS nên trở lại đúng vị trí là bên buộc tội, chủ động xét hỏi, tranh luận để bảo vệ cáo trạng hay quyết định truy tố có nhiều ý kiến cho rằng nên bỏ quyền Kiểm sát tư pháp của VKS, bởi các KSV là một bên tranh tụng đại diện cho Nhà nước được xem là bình đẳng với bị cáo quy định VKS chỉ có chức năng
  • 34. 29 giữ quyền công tố mới tạo điều kiện để quá trình giải quyết vụ án khách quan, bình đẳng, tránh được oan, sai và vẫn đảm bảo được yêu cầu phát hiện và xử lý mọi tội phạm. Hệ thống tổ chức VKS cũng cần phải được hoàn thiện cho phù hợp với tính chất là một viện công tố và phải phù hợp với hệ thống Tòa án. Thứ tư, Cơ quan Điều tra được giao thực hiện chức năng điều tra làm rõ vụ án làm cơ sở cho việc truy tố, xét xử người phạm tội, vì vậy quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan điều tra được quy định trong BLTTHS, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự. Trước yêu cầu đặt ra của cải cách tư pháp, pháp luật về cơ quan điều tra cũng cần được hoàn thiện cũng cần được đổi mới của Tòa án và Viện kiểm sát, việc hoàn thiện về pháp luật về CQĐT theo những định hướng sau: Tổ chức lại cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối, khẳng định vị trí của cơ quan điều tra trong TTHS thuộc phạm vi của việc thực hiện quyền công tố, làm cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ với VKS; xác định rõ ràng trách nhiệm của cơ quan điều tra trong các mối quan hệ với các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Mối quan hệ này cần theo định hướng Cơ quan điều tra chuyên trách, điều tra tất cả tội phạm, các vụ án, các cơ quan khác chỉ điều tra sơ bộ và tiến hành một số hoạt động điều tra theo yêu cầu của cơ quan điều tra chuyên trách Cải cách tư pháp đang là yêu cầu cấp bách và có ý nghĩa rất quan trọng của cải cách bộ máy nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng nhất đến xây dựng nhà nước pháp quyền và bảo đảm thực hiện, phát triển quyền được xét xử công bằng của con người. Đồng thời là quá trình khôi phục và nâng cao vị thế của hệ thống cơ quan này và của bộ máy nhà nước. Cải cách tư pháp hiện nay cần coi trọng pháp luật, loại trừ các hành vi tội phạm và vi phạm pháp luật trong xã hội và trong bộ máy nhà nước, hướng tới việc xử lý được hầu hết các tranh chấp trong đời sống xã hội, góp phần xây dựng xã hội công bằng dân chủ, công bằng văn minh. Trong đó cần chú trọng đến việc hạn chế sự lạm quyền quan liêu, tham những từ phía các cơ quan hành chính và bộ máy nhà nước. P. Ăngghen đã chỉ rõ: “Điều kiện đầu tiên của tự do đó là tất cả các quan chức nhà nước đều phải chịu trách nhiệm về những hành vi chức vụ của mình đối với bất kỳ công dân nào trước tòa án”.
  • 35. 30 KẾT LUẬN CHƢƠNG I Việc đối xử với một người khi họ bị buộc tội, phản ánh rõ Nhà nước tôn trọng nhân quyền đến mức nào, bởi vậy quyền được xét xử công bằng được coi là một hòn đá tảng của các xã hội dân chủ. Giống như mọi đặc tính của mọi nhân quyền là phụ thuộc lẫn nhau, quyền được xét xử công bằng với các quyền khác có mối quan hệ hai chiều. Một phiên tòa công bằng là yếu tố thiết yếu để đảm bảo các quyền cơ bản khác của con người như quyền sống, quyền được an toàn về thân thể, tự do ngôn luận …Ngược lại, trong một xã hội không dân chủ các quyền cơ bản của con người không được tôn trọng thì khó có thể có chuyện mọi người được xét xử công bằng. Quan hệ chặt chẽ giữa quyền được xét xử công bằng với pháp trị và dân chủ cũng đã được khẳng định chính thức trong tuyên ngôn Dakar về quyền được xét xử công bằng tại châu Phi và nhiều các văn bản quốc tế khác. Quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự là tổng thể những nhóm quyền cụ thể như ( được bào đảm quyền bào chữa, được xét xử nhanh chóng, công khai bởi Tòa án độc lập không thiên vị …) được chủ yếu là luật tố tụng hình sự thừa nhận hay quy định cho các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự với những địa vị pháp lý khác nhau. Là những giá trị gắn liền với một nhà nước nhất định và được nhà nước đó bảo vệ, thể hiện mối quan hệ pháp lý cơ bản giữa các chủ thể trong mối quan hệ pháp luật tố tụng hình sự với một Nhà nước nhất định Vì vậy, khi nghiên cứu quyền các vấn đề lý luận quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự, là tập trung phân tích: Đối tượng quyền được xét xử công bằng; Các quan điểm và định nghĩa quyền được xét xử công bằng trong TTHS; Quyền được xét xử công bằng theo các tiêu chí Quốc tế về quyền con người từ đó
  • 36. 31 đưa ra các nội dung căn bản của quyền được xét xử công bằng; Các tiêu chí quyền pháp luật Quốc tế về quyền được xét xử công bằng được nội luật hóa trong TTHS Việt Nam; Kiểm soát việc thực thi quyền được xét xử công bằng; Thực thi việc bảo đảm quyền được xét xử công bằng. Chƣơng II: THỰC TRẠNG QUYỀN ĐƢỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 2.1. Thực trạng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ 1945 – trước năm 2003 Trước hết, phải thừa nhận yếu tố lịch sử đã tác động lớn đến phương thức hoạt động tố tụng hình sự của Việt Nam. Từ năm 1945 đến năm 1975, nước ta luôn sống trong cảnh thời chiến, luôn phải đối phó với các lực lượng phản động. Trong cuốn Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh của ông Vũ Đình Hòe (Bộ trưởng Tư pháp đầu tiên) có nêu “Một chế độ nào, cho dẫu là theo hướng dân chủ mới, nhưng mới thành lập sau một cuộc cách mạng, cũng cần phải dùng những phương sách bất thường để chống với những lực lượng phản động”. Bởi vậy, lực lượng công an có một quyền lực tương đối lớn và độc lập được Nhà nước trao cho để đối phó mạnh mẽ với tình hình thời điểm đó, với mục tiêu trên hết là an ninh quốc gia. Trong thời gian này, cách thức hoạt động phòng, chống tội phạm vẫn theo ý thức hệ cũ: Quyền được xét xử công bằng vẫn còn nhiều hạn chế: 2.1.1. Giai đoạn từ 1945 – 1988 Ngày 2-9-1945, các mạng tháng 8 thành công và nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Là nhà nước dân chủ nhân dân, mặc dù còn non trẻ và tình hình đối nội cũng như đối ngoại cực kỳ phức tạp, nhà nước đã quan tâm đến việc bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân nói chung và trong xét xử của Tòa án nói riêng Ngày 13 - 9 - 1945, Chính phủ lâm thời ra sắc lệnh số 33/SL về thành lập Tòa án - cơ quan xét xử đầu tiên của nhà nước ta. Sắc lệnh quy định các nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử là xét xử công khai (Điều VI) bảo đảm quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa ( Điều V) quy định trách nhiệm của Tòa án
  • 37. 32 phải có giải thích cho người bị kết án tử hình đệ đơn xin ân giảm lên chủ tịch nước ( Điều III) vv… Ngày 9 -11-1946, Hiến pháp đầu tiên của Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được quốc hội thông qua. Những tư tưởng cơ bản về bảo vệ quyền tự do dân chủ công dân trong xét xử vụ án hình sự đã được quy định Hiến pháp khẳng định tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 7) Công dân không bị bắt giam khi chưa có quyết định của Tòa án (Điều 11); Trong hoạt động xét xử Hiến pháp năm 1946 quy định nguyên tắc Tòa án xét xử công khai, trừ những trường hợp đặc biệt; bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc mượn người bào chữa (Điều 67); Cấm các hình thức tra tấn, đánh đập, ngược đãi bị cáo (Điều 68); Tòa án xét xử chỉ tuân theo pháp luật, không ai được can thiệp (Điều 69). Đặc biệt việc bảo đảm quyền được xét xử công bằng trước khi ban hành. Hiến pháp năm 1959 được quy định đồng bộ và cụ thể tại luật số 103 – SL/L005 ngày 24 -1 -1957 bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với đồ vật, thư tín của nhân dân luật này không chỉ quy định nguyên tắc chung, tạm giam phải do cơ quan tư pháp (Tòa án) cấp tỉnh trở lên hoặc tòa án binh quyết định với thời hạn cụ thể; đồng thời cũng quy định việc tạm tha trong trường hợp không cần thiết hoặc đối với các đối tượng đặc biệt là người già yếu, phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú ( Điều 7, 8) vv. Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp thứ ba của nước ta đã có những quy định hệ thống, cụ thể và tương đối hoàn chỉnh về Bảo đảm quyền được xét xử công bằng liên quan đến hoạt động xét xử vụ án hình sự. Ngoài việc quy định các quyền cơ bản của công dân như quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhà ở quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản, quyền bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín, quyền khiếu nại tố cáo… Hiến pháp còn quy định các bảo đảm cũng như trách nhiệm trong việc bảo đảm thực hiện các quyền đó của công dân. Ví dụ: Khi quy định quyền bất khả xâm phạm về thân thể, Hiến pháp quy định không ai có thể bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án
  • 38. 33 hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát việc bắt và giam giữ người phải theo đúng pháp luật, nghiêm cấm mọi hành vi truy bức, nhục hình … Về tổ chức của hoạt động Tòa án nhân dân, Hiến pháp năm 1980 tiếp tục ghi nhận các nguyên tắc quan trọng bảo đảm thực hiện quyền được xét xử công bằng như nguyên tắc. Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc tòa án xét xử tập thể, nguyên tắc tòa án xét xử công khai, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật vv. Như vậy, từ khi cách mạng tháng tám thành công cho đến khi Bộ luật tố tụng hình sự 1988 được ban hành, dù trong hoàn cảnh kinh tế, xã hội nào việc bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong tố tụng hình sự cũng được nhà nước ta thể hiện nhất quán trong các bản Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác với phạm vi ngày càng rộng hơn nội dung ngày càng cụ thể hơn, hoàn chỉnh hơn đó chính là cơ sở quan trọng cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật của Nhà nước ta về Bảo đảm quyền con người liên quan đến hoạt động Tố tụng hình sự trong bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và các văn bản pháp luật sau này. 2.1.2. Theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của nước ta được Quốc hội thông qua ngày 28 - 6 - 1988 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 - 01 -1989 bằng việc ban hành bộ luật này lần đầu tiên pháp luật tố tụng hình sự được pháp điển hóa hệ thống trong một văn bản thống nhất. Cùng với các chế định khác, việc bảo đảm quyền được xét xử công bằng của con người trong Tố tụng hình sự được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 tương đối đầy đủ, toàn diện và hệ thống. Tính đầy đủ, toàn diện và hệ thống đó của Bộ Luật tố tụng hình sự thể hiện trong các điểm Thứ nhất, BLTTS 1988 quy định các nguyên tắc tố tụng quan trọng bảo đảm quyền được xét xử công bằng. Bộ luật TTHS 1988 quy định hệ thống các nguyên tắc tố tụng khác nhau, trong đó nhóm nguyên tắc bảo đảm quyền được xét xử công