SlideShare a Scribd company logo
1 of 99
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐOÀN THỊ VÂN
TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐOÀN THỊ VÂN
TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. CAO THỊ OANH
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi.. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy
định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đoàn Thị Vân
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ..............6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc quy định tội giết con mới đẻ........6
1.1.1. Vài nét về các tội xâm phạm tính mạng trong Luật hình sự Việt Nam......... 6
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của tội giết con mới đẻ....................................... 7
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định tội giết con mới đẻ..................................... 9
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp của Việt Nam về tội giết con mới đẻ ......16
1.2.1. Quy định về tội giết con mới đẻ của pháp luật hình sự Việt Nam
trong giai đoạn từ năm 1945 đến khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 ......16
1.2.2. Quy định về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Việt Nam
trong giai đoạn năm 1985 đến khi ban hành Bộ luật hình sự 1999...........19
1.2.3. Quy định về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Việt
Nam giai đoạn từ năm 1999 đến nay..................................................20
1.3. Kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới về tội
giết con mới đẻ ..................................................................................23
1.3.1. Quy định về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Thụy Điển ......24
1.3.2. Quy định về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Liên Bang Nga...25
1.3.3. Quy định của về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Canada.........26
1.3.4. Quy định về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Nhật Bản........27
Kết luận Chương 1........................................................................................29
Chương 2: TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 1999 ................................................................................... 30
2.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội giết con mới đẻ ................................30
2.1.1. Khách thể của tội phạm ......................................................................31
2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm.............................................................34
2.1.3. Chủ thể của tội phạm..........................................................................42
2.1.4. Mặt chủ quan của tội phạm ................................................................48
2.2. Hình phạt đối với tội giết con mới đẻ..............................................50
2.3. So sánh tội giết con mới đẻ với một số tội phạm khác ..................53
2.3.1. So sánh tội giết con mới đẻ với tội giết người. .................................53
2.3.2. So sánh tội giết con mới đẻ với tội vô ý làm chết người....................56
Kết luận Chương 2........................................................................................58
Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI
VỚI TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ TRÊN ĐỊA BÀN CẢ NƯỚC
VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT,
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG
TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ................................................................59
3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với tội giết con
mới đẻ trên địa bàn cả nước............................................................59
3.2. Những bất cập, tồn tại trong quy định của pháp luật hình sự
và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội giết con mới đẻ.....69
3.2.1. Bất cập còn tồn tại trong quy định của pháp luật...............................69
3.2.2. Những bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật..............................70
3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng chống tội giết con mới đẻ......................................................74
3.3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự đối với tội giết con mới đẻ ..................74
3.3.2. Các kiến nghị khác nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội
giết con mới đẻ ...................................................................................81
KẾT LUẬN....................................................................................................87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................89
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nghĩa đầy đủ
BLHS: Bộ luật Hình sự
CRC: Công ước quốc tế về quyền trẻ em, 1989 (Convention on
the Rights of the Child, 1989)
ICCPR: Công ước quốc tế về các quyền dân dự và chính trị của
con người, 1966 (Internatinal Covernant on Civil and
Political Rights, 1966)
TNHS: Trách nhiệm hình sự
UDHR: Tuyên ngôn Quốc tế về nhân quyền, 1948 (Universal
Declatation of Human Rights, 1948)
UNHRC: Ủy ban quyền con người Liên hợp quốc, 1948 (Unitted
Nations Human Rights Council, 1948)
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 3.1: Thống kê số lượng vụ án về tội giết con mới đẻ
trên địa bàn cả nước giai đoạn 2010 - 2014 60
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Quyền sống là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm” [10]. Những
năm gần đây, tội phạm giết người nói chung và giết con mới đẻ nói riêng ở
Việt Nam có diễn biến phức tạp. Liên tiếp xảy ra các vụ bỏ rơi trẻ sơ sinh ở
vệ đường, đống rác, cống rãnh mặc cho côn trùng, động vật tấn công, không ít
trường hợp em bé chịu thương tật suốt đời hoặc giết đứa con vừa mới sinh
xảy ra liên tiếp khiến dư luận đau xót.
Hành vi của bà mẹ giết con mới đẻ là một hành vi quá sức tàn ác,
trước hết hành vi này không chỉ vi phạm nghiêm trọng các tiêu chuẩn đạo
đức truyền thống mà còn là hành vi vi phạm pháp luật xâm hại quyền con
người, quyền trẻ em của những người mẹ thiếu suy nghĩ. Nguyên nhân dẫn
đến tình trạng tội phạm giết con mới đẻ gia tăng thì có nhiều, nhưng phổ
biến vẫn là vấn đề đạo đức con người, là gánh nặng mưu sinh, lựa chọn giới
tính, có thai ngoài ý muốn… Những suy nghĩ nông nổi dẫn đến hành động
đau lòng của người mẹ chẳng những đã tước đoạt đi sinh mạng của đứa trẻ
mà bản thân người mẹ còn đối diện với những bản án nghiêm khắc của pháp
luật và tòa án lương tâm.
Việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em được thể hiện trong tinh thần của nhiều
văn bản pháp luật như Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật Dân sự, Bộ luật
Lao động, Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật
Chống bạo lực gia đình, đặc biệt trong Bộ luật Hình sự (BLHS) có quy định
nhiều tội mà đối tượng bị xâm hại là trẻ em với hình phạt nghiêm khắc.
Trong hầu hết các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe được quy định
trong BLHS, thì đối tượng xâm hại là trẻ em luôn được coi là một trong
những tình tiết định tội hoặc định khung tăng nặng hình phạt, như tội hiếp
2
dâm trẻ em, cưỡng dâm trẻ em, giao cấu đối với trẻ em, giết con mới đẻ…
Tuy nhiên, nhiều tội xâm hại trẻ em được quy định trong BLHS chưa có
hướng dẫn cụ thể vì vậy không tránh khỏi những vấn đề bất cập trong thực
tiễn, việc nhận thức và áp dụng thiếu thống nhất, thậm chí dẫn đến việc tranh
cãi giữa các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử.
Theo quy định của BLHS Việt Nam hiện nay dấu hiệu bắt buộc của tội
giết con mới đẻ là đứa trẻ bị chết. Trường hợp trẻ may mắn được cứu sống thì
đương nhiên hành vi của người mẹ vứt con dù tiềm ẩn nhiều nguy hiểm
nhưng không phạm tội. Và việc đứa trẻ được cứu sống là do may mắn, việc
thoát chết nằm ngoài ý chí chủ quan của người mẹ. Vậy nên, nhiều ý kiến cho
rằng xác định những trường hợp đứa trẻ không chết thì người mẹ không phạm
tội là sự vị tha không đáng có của pháp luật, đã nương tay đối với tội ác khiến
tình trạng những ác mẫu vứt con mới đẻ ngày càng có chiều hướng gia tăng.
Vì vậy người nghiên cứu chọn đề tài “Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự
Việt Nam” nhằm mong muốn góp phần vào việc hoàn thiện các quy định của
pháp luật hình sự về vấn đề này để đảm bảo tính khả thi, góp phần nâng cao
hiệu quả áp dụng trong thực tiễn, đấu tranh phòng ngừa loại tội phạm này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài “Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt
Nam” đã có một số công trình nghiên cứu nhưng chủ yếu đề cập đến những
vấn đề, mang tính chất lý luận khái quát của tội giết con mới đẻ trong những
tội xâm hại tính mạng sức khỏe của con người dưới dạng tài liệu chuyên
khảo, tham khảo, giáo trình, bình luận khoa học như: Những vấn đề cơ bản
trong khoa học Luật Hình sự, của PGS.TSKH. Lê Cảm, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, năm 2005; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), do
GS.TSKH. Lê Cảm (chủ biên), tái bản 2007…
Tại các công trình nghiên cứu dưới dạng các bài viết đăng trên các tạp
3
chí chuyên ngành hay các công trình nghiên cứu khoa học là các khóa luận tốt
nghiệp thì mới chỉ đề cập từng khía cạnh của tội giết con mới đẻ mà chưa có
luận văn thạc sĩ nào nghiên cứu sâu sắc, toàn diện và hệ thống tội giết con
mới đẻ trong luật hình sự Việt nam như:
- Phạm Văn Báu, Tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Việt
Nam, Tạp chí Luật học/ Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 2/2000.
- Trần Minh Hưởng, Bàn về dấu hiệu cấu thành tội “Giết con mới đẻ”
theo Điều 94 Bộ luật hình sự năm 1999 và một số vấn đề cần lưu ý khi định
tội danh, Kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 22/2010.
- Thạc sĩ Đặng Thi Thu Hiền, Một số vấn đề cần chú ý khi áp dụng tội
giết con mới đẻ trong bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Dân chủ và pháp
luật, số chuyên đề 07/2010;
- Đặng Thị Hồng Thắm, Tội giết con mới đẻ trong Bộ luật Hình sự Việt
Nam: Khóa luật tốt nghiệp, trường Đại học Luật Hà Nội, 2011.
Vì vậy trong nội dung nghiên cứu luận văn tốt nghiệp người nghiên cứu
chọn đề tài “Tội giết con mới đẻ trong Luật hình sự Việt Nam”, trên cơ sở
kế thừa những nền tảng lý luận và pháp lý đã có người nghiên cứu đi vào
phân tích sâu sắc hơn, rõ hơn về các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội giết con
mới đẻ, đi sâu vào nghiên cứu thực trạng diễn biến tội giết con mới đẻ trên địa
bàn cả nước giai đoạn 2010 đến 2014 trên địa bàn cả nước. Từ những thực
trạng tình hình tội phạm tiếp tục đi vào phân loại, nhận xét đánh giá về những
nguyên nhân tội phạm, về độ tuổi phạm tội, thành phần phạm tội... Đồng thời
từ thực tiễn xét xử người nghiên cứu đưa ra những bất cập của quy định pháp
luật hiện hành, những tồn tại khó khăn trong quá trình thực thi pháp luật hình
sự và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả xử lý
tội giết con mới đẻ trong tình hình mới.
4
3. Mục đích, nhiệm vụ
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu trên cơ sở các quy
định của pháp luật về tội giết con mới đẻ, cũng như việc áp dụng các quy định
của loại tội này trong thực tiễn, từ đó cho thấy những tồn tại, hạn chế khi áp
dụng. Từ những cơ sở này người nghiên cứu đưa ra những giải pháp hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả xử lý tội giết con mới đẻ, góp phần nâng
cao các biện pháp phòng chống tội phạm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, trong quá trình nghiên cứu đề tài cần
thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu các quy định cụ thể của pháp luật Hình sự Việt Nam hiện
nay về tội giết con mới đẻ.
- Nghiên cứu, phân tích thực tiễn tình hình tội giết con mới đẻ, đồng
thời đưa ra những vướng mắc, khó khăn trong việc áp dụng pháp luật Hình sự
hiện hành đang gặp phải.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về tội giết
con mới đẻ, đưa ra những biện pháp nhằm đấu tranh phòng chống loại tội
phạm và nâng cao hiệu quả xử lý tội giết con mới đẻ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Luận văn triển khai nghiên cứu đối tượng là hành vi phạm tội và
người phạm tội giết con mới đẻ.
- Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh chế định
tội phạm giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, kết hợp với việc
nghiên cứu, đánh giá tình hình thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân các cấp
trên địa bàn cả nước, đưa ra được những nguyên nhân, tồn tại, hạn chế.
5
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn xét xử tội giết con mới đẻ
trên địa bàn cả nước trong thời gian năm năm (từ năm 2010 đến năm 2014).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn sử dụng lý luận, quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về xây dựng Nhà nước và
pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm; quan điểm của Đảng và Nhà nước
về đấu tranh chống tội phạm xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm
của con người nói chung và tội giết con mới đẻ nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng những phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương
pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp… Từ đó tìm mối liên hệ
giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn đã phù hợp hay chưa, xem xét
nội dung quy định của pháp luật khi áp dụng trong thực tiễn đời sống xã hội.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống và tương đối toàn diện về
tội giết con mới đẻ. Là đề tài chuyên khảo khoa học pháp lý với hướng nghiên
cứu mới, chuyên sâu hơn, làm rõ các vấn đề về cấu thành tội phạm, tội danh,
hình phạt, đồng phạm, các giai đoạn thực hiện tội phạm... Góp phần làm rõ
những quy định của pháp luật về tội giết con mới đẻ, đánh giá thực tiễn áp
dụng pháp luật, tình hình tội phạm từ đó phát hiện những tồn tại vướng mắc và
đề xuất được những biện pháp khắc phục những khúc mắc tồn tại đó.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tội giết con mới đẻ
Chương 2: Tội giết con mới đẻ theo Bộ luật hình sự năm 1999
Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với tội giết con
mới đẻ trên địa bàn cả nước và những kiến nghị hoàn thiện pháp luật, nâng
cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội giết con mới đẻ.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc quy định tội giết con mới đẻ
1.1.1. Vài nét về các tội xâm phạm tính mạng trong Luật hình sự Việt Nam
Con người được coi là vốn quí của xã hội, là đối tượng hàng đầu
được luật hình sự nói riêng cũng như pháp luật nói chung bảo vệ. Bảo vệ
con người trước hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh
dự và tự do của họ, vì đó là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đối
đối với con người.
Điều 19 Hiến pháp 2013 của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quy định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật
bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”. Do đó, khi có bất kỳ hành
vi nào xâm phạm đến các quyền con người nói chung, quyền bất khả xâm phạm
về tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm nói riêng đều bị xử lý rất nghiêm
khắc. BLHS Việt Nam năm 1999, sửa đổi năm 2009 đã dành một chương riêng
quy định trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của con người. Đây được coi là một trong những chế định
quan trọng nhất của bộ luật hình sự Việt Nam, trực tiếp bảo vệ con người với tư
cách là chủ thể của các mối quan hệ xã hội.
Khái niệm: Các tội xâm phạm tính mạng của con người là những hành
vi (hành động hoặc không hành động), có lỗi (cố ý hoặc vô ý) xâm phạm
quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng của người khác.
Đặc điểm của nhóm các tội xâm phạm tính mạng của con người:
Khách thể của nhóm tội này là một trong những khách thể quan trọng
nhất trong số các nhóm khách thể được Luật hình sự bảo vệ. Đó là quyền
sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng.
7
Đối tượng của nhóm tội này là những chủ thể có quyền được tôn trọng
và bảo vệ tính mạng. Đó là những người đang sống, đang tồn tại độc lập trong
xã hội với tư cách là một con người, một thực thể tự nhiên và xã hội. Như
vậy, bào thai và xác chết không phải đối tượng của những hành vi phạm tội
thuộc nhóm tội này.
Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của các tội xâm phạm tính mạng tuy khác nhau ở
hình thức thể hiện cụ thể, nhưng có cùng tính chất là đều có thể trực tiếp hoặc
gián tiếp gây ra thiệt hại về tính mạng. Trong những hành vi phạm tội của
nhóm tội phạm này có những hành vi có thể thực hiện được bằng cả hai hình
thức hành động và không hành động, có những hành vi chỉ có thể thực hiện
được bằng hình thức hành động và có những hành vi chỉ có thể thực hiện
được bằng hình thức không hành động. Đối với tội giết con mới đẻ được quy
định tại Điều 94 thì loại tội phạm này có những hành vi có thể thực hiện cả
bằng hình thức hành động và không hành động.
Hậu quả mà những hành vi nói trên có thể trực tiếp hoặc gián tiếp gây
ra thiệt hại đến quyền được sống của con người, thể hiện dưới dạng thiệt hại
về vật chất là chết người. Tuy nhiên, dấu hiệu hậu quả chết người chỉ là dấu
hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm một số tội. Ở các cấu thành tội phạm
còn lại, hậu quả chết người không phải là dấu hiệu định tội.
Chủ thể: Chủ thể của hầu hết các tội xâm phạm tính mạng là chủ thể
thường. Những người có năng lực trách nhiệm hình sự đều có khả năng để trở
thành chủ thể của nhiều tội thuộc nhóm tội phạm này.
Mặt chủ quan: Lỗi của người phạm tội có thể là lỗi cố ý hoặc vô ý
hoặc có thể cả lỗi cố ý hay vô ý.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của tội giết con mới đẻ
Khái niệm: Tội giết con mới đẻ là trường hợp người mẹ nào do ảnh
8
hưởng nặng nề của tư tưởng phong kiến lạc hậu hoặc do hoàn cảnh khách
quan đặc biệt mà giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ đó dẫn đến hậu quả là
đứa trẻ chết.
Đặc điểm của tội giết con mới đẻ:
Khách thể: Hành vi giết con mới đẻ xâm phạm tính mạng của người
khác một cách trái pháp luật, đặc biệt khi người đó lại có mối quan hệ ruột
thịt, huyết thống với người phạm tội, cụ thể ở đây là tính mạng của đứa trẻ
mới sinh ra, là con ruột của người phạm tội.
Nạn nhân phải là con mới đẻ - tức là con mới sinh trong vòng bảy ngày
tuổi và đó phải là con do chính người phạm tội (người mẹ) sinh ra.
Mặt khách quan: Hành vi giết con mới đẻ thường được thể hiện dưới
dạng không hành động như: bỏ con đói cho đến chết, không cho trẻ ăn, uống,
không cho bú, không chăm sóc dẫn đến hậu quả là đứa trẻ chết; hay cũng có
thể được thể hiện dưới dạng hành động như người mẹ có những hành vi làm
cho trẻ ngạt thở (bóp mũi, úp gối lên mặt con, vứt bỏ ngoài đường…. dẫn đến
hậu quả là đứa trẻ bị chết.
Việc giết con không phải do một ác ý nào mà do hoàn cảnh bất đắc dĩ
hoặc do ảnh hưởng nặng nề của tư tư tưởng lạc hậu (như người phụ nữ không
có chồng mà sinh con hoang, do sợ dư luận mà phải giết con); hoặc do hoàn
cảnh khách quan đặc biệt (như đứa trẻ mới sinh có khuyết tật…). Nếu giết con
mình vì một lý do nào khác không phải do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng
lạc hậu hay hoàn cảnh đặc biệt thì không được xác định là tội phạm này mà
phải định tội giết người.
Mặt chủ quan: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý. Khi thực hiện
hành vi phạm tội, người mẹ đang trong tình trạng tâm – sinh lý không bình
thường, khả năng nhận thức và kiềm chế đều bị hạn chế.
Chủ thể: Tội phạm có chủ thể đặc biệt, đó là những người mẹ đang
9
trong tình trạng mới sinh con trong vòng 7 ngày tuổi, có năng lực trách nhiệm
hình sự. Do đây là tôi phạm ít nghiêm trọng nên người mẹ là chủ thể phải đạt
từ đủ 16 tuổi trở lên. Vì vậy, đối với những bà mẹ bất đắc dĩ chưa đủ 16 tuổi
mà giết con mới sinh của mình sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Hình phạt: Người mẹ giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ của mình dẫn đến
đứa bé chết có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù
từ ba tháng đến hai năm. Cùng là tội pham xâm hại tới khách thể quan trọng
được pháp luật hình sự bảo vệ là quyền sống của con người, đặc biệt đối
tượng bị xâm hại là những đứa trẻ non nớt không có khả năng tự vệ nhưng lại
được áp dụng hình phạt nhẹ hơ nhiều so với hành vi giết người quy định tại
Điều 93. Xuất phát từ bản chất nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa, Luật
hình sự quy định áp dụng hình phạt nhẹ. Bởi người phạm tội trong trường hợp
này là người mẹ trực tiếp sinh ra nạn nhân với tình mẫu tưt, họ phải giết con
mình do ảnh hưởng tư tưởng lạc hậu, do tàn dư của xã hội cũ, những tệ nạn,
hủ tục của xã họi hay những hoàn cảnh khách quan đặc biệt đưa người phụ nữ
vào sự bế tắc… nhìn ở một góc độ khác thì họ nạn nhân của những tư tưởng
lạc hậu, hoàn cảnh éo le trong cuộc sống. Bên cạnh đó người phụ nữ khi mang
thai và sinh nở có nhiều diễn biến phức tạp về tâm lý và thể chất, sự kiềm chế
hành vi cũng như nhận thức bị hạn chế.
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định tội giết con mới đẻ
1.1.3.1. Ý nghĩa về mặt lý luận
Giết con mới đẻ là tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm tính mạng sức
khỏe, danh dự nhân phẩm của con người. Việc quy định tội giết con mới đẻ
vào nhóm tội này là dựa trên những cơ sở lý luận chặt chẽ và có ý nghĩa vô
cùng quan trọng. Việc quy định tội giết con mới đẻ về mặt lý luận đáp ứng
yêu cầu bảo vệ quyền trẻ em nói riêng và con người nói chung.
Quyền của trẻ em đã được ghi nhận chi tiết tại các văn kiện quốc tế.
10
Xét ở góc độ luật quốc tế, các quyền và tự do cá nhân đầu đầu tiên được ghi
nhận trong một văn kiện quốc tế đó là Tuyên ngôn Quốc tế về nhân quyền,
1948 (UDHR) và Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị 1966
(ICCPR) đã đặt nền móng cho việc tạo dựng một hệ thống tương đối đầy đủ
các văn kiện quốc tế về quyền dân sự và chính trị của con người, một cơ chế
quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy các quyền dân sự và chính trị của con người,
biến các quyền dân sự và chính trị của con người trở thành một bộ phận quan
trọng cấu tạo thành hệ thống các quyền con người. Việt Nam gia nhập Công
ước ngày 24/09/1984. Tính tới thời điểm hiện tại, Công ước quốc tế về quyền
dân sự và chính trị của con người năm 1966 là văn bản pháp lý phổ cập, quy
định đầy đủ và toàn diện nhất các quyền dân sự và chính trị của con người nói
chung, đặc biệt quyền được sống của con người [42, tr.28]. Quyền được sống
được đề cập đầu tiên trong Điều 3 UDHR và tiếp tục được ghi nhận tại Điều 6
ICCPR: “Mọi người đều có quyền cố hữu là được sống. Quyền này phải được
pháp luật bảo vệ. Không ai có thể bị tước mạng sống một cách tùy tiện” [10].
Ngoài những khía cạnh đã nêu cụ thể ở Điều 6 ICCPR, trong Bình luận chung
số 06 thông qua tại phiên họp lần thứ 16 năm 1982, UNHRC đã giải thích
thêm một số khía cạnh liên quan đến ý nghĩa và nội dung của quyền sống
như: (i) quyền sống là một quyền cơ bản của con người mà trong bất cứ hoàn
cảnh nào, kể cả trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia, cũng không thể vi
phạm; (ii) quyền sống bao gồm cả những khía cạnh nhằm đảm bảo sự tồn tại
của con người; (iii) các quốc gia có nghĩa vụ cấm các hoạt động tuyên truyền
chiến tranh, kích động hận thù, bạo lực, chống chiến tranh và các tội phạm;
(iv) quốc gia thành viên tiến hành các biện pháp phòng, chống và trừng trị
việc tùy tiện tước đoạt tính mạng con người do bất kỳ chủ thể nào gây ra; (v)
các quốc gia thành viên hạn chế sử dụng hình phạt tử hình [44, tr171-196].
Cũng liên quan đến quyền sống, UNHRC còn thông qua Bình luận số 14 tái
11
khẳng định tầm quan trọng của quyền sống, coi đó là cơ sở cho tất cả các
quyền con người và yêu cầu thực hiện quyền sống trong mọi hoàn cảnh.
Quyền sống của con người nói chung và của trẻ em được coi là quyền tối cao
của con người không được phép bỏ qua kể cả trong trường hợp khẩn cấp.
Công ước quốc tế về quyền trẻ em (CRC) là văn bản quốc tế đầu tiên
đề cập đến quyền trẻ em theo hướng tiến bộ, bình đẳng, toàn diện và mang
tính pháp lý cao. Công ước được Đại Hội đồng Liên hợp quốc chính thức
thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1989. Tính đến năm 2002 đã có 191 nước ký
và phê chuẩn, tham gia. Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới và là nước đầu
tiên ở châu Á đã ký cam kết thực hiện. Công ước gồm 54 điều khoản trong đó
có tới 41 điều khoản để ra các quyền của tất cả trẻ em và quyền được sống là
một trong bốn nhóm quyền quan trọng được quy định tại công ước [42, tr.27].
Quyền sống của trẻ em được ghi nhận tại Điều 6 của Công ước quốc tế về
quyền trẻ em theo đó: “Các quốc gia thành viên công nhận rằng, mọi trẻ em
đều có quyền cố hữu được sống; các quốc gia thành viên phải bảo đảm đến
mức tối đa có thể được sự sống còn và phát triển của trẻ em” [10, Điều 6].
Điều này được công ước khẳng định bằng việc quy định công nhận quyền của
mọi trẻ em tại Điều 24. Theo nội dung bình luận số 17 được thông qua tại
phiên họp thứ 35 năm 1989 thì: Điều 24 của Công ước quốc tế về quyền dân
sự và chính trị đã công nhận quyền của mọi trẻ em, không có bất cứ sự phân
biệt nào, gia đình, xã hội và Chính phủ phải bảo vệ chúng với tư cách một
người chưa thành niên. Các quốc gia thành viên phải áp dụng các phương
thức đặc biệt để bảo vệ trẻ em, đồng thời có nghĩa vụ thực hiện theo Điều 2
công ước quốc tế về quyền dân sự chính trị là đảm bảo mọi người đều được
hưởng những quyền theo quy định của công ước. Điều 24 không phải là điều
khoản duy nhất của công ước công nhận quyền trẻ em, mà như mọi cá nhân,
trẻ em có quyền hưởng tất cả các quyền công dân được đề ra trong Công ước.
12
Một vài điều khoản của Công ước chỉ ra cho các quốc gia các biện pháp thực
hiện với quan điểm tạo điều kiện cho người chưa thành niên được bảo vệ tốt
hơn người trưởng thành [44, tr.171-196].
Vì vậy, liên quan đến quyền được sống, hình phạt tử hình không thể áp
dụng cho tội phạm dưới 18 tuổi. Tuy nhiên trong hầu hết các trường hợp các
biện pháp tiến hành không được chỉ ra mà do từng nước tùy thuộc vào tình
hình thực tế của mỗi nước đưa ra những biện pháp như các biện pháp kinh tế
và xã hội cần làm giảm bớt tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, và diệt tận gốc vấn đề
thiếu dinh dưỡng ở trẻ em và bảo vệ trẻ em khỏi những hành vi phạm tội, sự
đối xử độc ác vô nhân đạo… Ngoài ra trong nội dung bình luận chung số 17
khẳng định các quốc gia thành viên có quyền thực hiện các biện pháp bảo vệ
đặc biệt thuộc về mỗi đứa trẻ bởi vì chúng còn quá nhỏ [44, tr 171-196].
Với nhận thức đúng ý nghĩa xã hội, vị trí và vai trò của các Điều ước
quốc tế về quyền con người Việt Nam đã nhanh chóng ký kết và gia nhập
nhiều Điều ước từ những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XIX. Chúng ta đã
từng bước sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật, khắc phục những khó khăn
tồn tại để từng bước xây dựng, mở rộng, phát triển tới hoàn thiện pháp luật về
quyền con người nói chung đặc biệt liên quan tới trẻ em. Ngay sau khi giành
được độc lập năm 1945, quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận
trong Hiến pháp 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau đó tiếp
tục được khẳng định, mở rộng trong các Hiến pháp 1959, 1980, 1992 sửa đổi
bổ sung năm 2001) và 2013, cũng như các văn pháp pháp luật quốc gia khác.
Sau khi Việt Nam trở thành thành viên của Công ước quốc tế về quyền
dân sự và chính trị năm 1966 thì việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền
này càng được đẩy mạnh hơn thông qua các hoạt động lập pháp. Tham gia
vào các Điều ước quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực dân sự và chính
trị, Việt Nam ý thức được sâu sắc đó là cam kết chính trị, pháp lý của Việt
13
Nam trong sự nghiệp bảo vệ nhân quyền trước cộng đồng thế giới. Chuyển
hóa các quy định của Điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên cũng là một
nghĩa vụ bắt buộc. Các quy định của điều ước quốc tế về quyền con người
trong lĩnh vực dân sự chính trị được chuyển hóa vào pháp luật Việt Nam
thông qua việc xây dựng xác văn bản quy phạm pháp luật mới hoặc sửa đổi
bổ sung các văn bản hiện hành. Tội giết con mới đẻ được quy định trên tinh
thần nội luật hóa các điều ước mà Việt Nam là thành viên.
Tội giết con mới đẻ xâm phạm trực tiếp tới đối tượng là mạng sống của
trẻ em nói riêng, xâm phạm tới tính mạng và quyền sống của con người nói
chung. Con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được
pháp luật hình sự nói riêng cũng như pháp luật nói chung bảo vệ. Trong các
quyền con người, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm có vị trí đặc biệt quan trọng trong chính sách, pháp luật của Nhà
nước ta. Trên cơ sở quy định tại Điều 71 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ
sung năm 2001) được nhắc lại khoản 1 Điều 20 Hiến pháp Việt Nam 2013
quy đinh: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật
bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy
bức, nhục hình hay bất cứ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức
khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm…” [27, Điều 20, Khoản 1]. Bảo vệ con
người trước hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự và tự
do của họ vì đó là những điều có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với con người.
Do đó, khi có bất kỳ hành vi nào xâm phạm đến các quyền con người nói chung,
quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm nói riêng
đều bị xử lý rất nghiêm khắc. BLHS Việt Nam năm 1999, sửa đổi năm 2009 đã
dành một chương riêng quy định trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Đây được coi là một
trong những chế định quan trọng nhất của bộ luật hình sự Việt Nam, trực tiếp
bảo vệ con người với tư cách là chủ thể của các mối quan hệ xã hội.
14
Như vậy tội giết con mới đẻ được quy định tại điều 94 của BLHS năm
1999 đã cụ thể hóa tinh thần bảo đảm quyền được sống của con người theo
quy định điều 71 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung 2001) của đạo luật
gốc – Hiến pháp 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là một
điều trong một chương của bộ luật hình sự năm 1999. Ngoài ra ở một số văn
bản pháp luật khác có quy định về việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em như Luật hôn
nhân gia đình, luật bảo vệ chăm sóc trẻ em… Vì vậy vậy việc quy định tội
giết con mới đẻ mang lại ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận, đã đặt nên
tảng cho việc bảo đảm quyền trẻ em, cụ thể ở đây là quyền bảo đảm về tính
mạng nói riêng, và bảo đảm việc thực hiện quyền con người nói chung, góp
phần thực hiện tốt nghĩa vụ thành viên với vai trò Việt Nam là quốc gia thành
viên của các Điều ước quốc tế về quyền trẻ em và quyền con người.
1.1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn của việc quy định tội giết con mới đẻ
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu của
Đảng và Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ, quyền làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa các dân tộc,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, duy trì trật tự, an toàn xã hội,
đồng thời, pháp luật hình sự còn góp phần chống lại mọi hành vi phạm tội,
giáo dục mọi người ý thức chấp hành và tuân thủ pháp luật. Trải qua hơn 20
năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn và quan trọng trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội cùng với sự
phát triển không ngừng về kinh tế, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội. Đời sống của nhân dân ngày một được nâng cao do sự tác động tích
cực của công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và chính sách mở cửa thị
trường, hội nhập toàn cầu hóa. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt đươc,
nền kinh tế thị trường cũng có những mặt trái của nó, có ảnh hưởng tiêu cực
15
làm nảy sinh nhiều vấn đề trong đó có các vấn đề về dân số, việc làm, tệ nạn
xã hội, tình hình tội phạm ngày càng tăng.
Trong những năm gần đây do nhiều nguyên nhân khác nhau tình trạng
giết hoặc vứt bỏ trẻ sơ sinh mà người thực hiện hành vi này là cha mẹ hoặc
người thân của trẻ sơ sinh đã diễn ra ngày càng nhiều, gây dư luận bất bình
trong xã hội. Từ năm 2012 trở lại đây trên cả nước liên tục diễn ra những vụ
giết con mới đẻ gây phẫn nộn dư luận. Từ những vụ việc giết con mới đẻ được
báo đài, phương tiện thông tin đại chúng đưa tin trong thời gian qua có thể thấy
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hành vi giết con mới đẻ đó là: người mẹ là trẻ vị
thành niên, chưa có nhận thức đầy đủ về sức khỏe giới tính ảnh hưởng bởi lối
sống tây hóa, quan hệ tình dục trước hôn nhân dẫn tới hậu quả có thai ngoài ý
muốn, lo sợ xã hội, gia đình, bạn bè lên án về hành vi có con ngoài giá thú mà
sau khi sinh đã giết đứa con do chính mình sinh ra; Do ảnh hưởng nặng nề tư
tưởng lạc hậu hoặc hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, điều kiện kinh tế khó khăn
không có khả năng nuôi con nghĩ quẩn giết con ngay sau khi sinh.
Theo thống kê của tòa án nhân dân tối cao trên địa bàn cả nước trong
vòng 05 năm từ năm 2010 đến năm 2014 trên địa bàn cả nước đã thụ lý 15 vụ
án về tội giết con mới đẻ với 22 bị cáo. Tổng số vụ án tội giết con mới đẻ trên
địa bàn cả nước đã được đưa ra xét xử 11 vụ với 13 bị cáo. Qua các năm các
vụ án có chiều hướng gia tăng về cả số lượng vụ án và số lượng vị cáo [37].
Như vậy chúng ta có thể thấy mật độ xảy ra các vụ việc vứt bỏ, giết con
mới đẻ xảy ra có xu hướng gia tăng. Những hành vi trên không chỉ vi phạm
về đạo đức xã hội mà còn trực tiếp vi phạm vấn đề pháp luật quốc gia cũng
như quốc tế về bảo vệ quyền con người nói chung và các quy định về bảo vệ
quyền trẻ em nói riêng, trực tiếp xâm phạm đến quyền sống của trẻ em. Tuy
vậy, việc nhận thức và xử lý đối với các hành vi giết con mới đẻ đặc biệt là
hành vi vứt bỏ trẻ sơ sinh chưa thực sự được triệt để, thậm chí còn chưa đúng
16
pháp luật, dẫn tới tình trạng coi thường pháp luật. Điều này làm cho cho tình
trạng giết hoặc vứt bỏ trẻ sơ sinh càng tăng, số lượng các vụ việc liên quan
đến trẻ sơ sinh ngày càng nhiều và đa dạng hơn về cách thức thực hiện. Vì
vậy việc quy định tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam là điều vô
cùng cần thiết đối với tình hình thực tế hiện nay, giải quyết được yêu cầu đấu
tranh phòng chống loại tội phạm này trong tình hình mới.
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp của Việt Nam về tội giết con mới đẻ
1.2.1. Quy định về tội giết con mới đẻ của pháp luật hình sự Việt
Nam trong giai đoạn từ năm 1945 đến khi ban hành Bộ luật hình sự 1985
Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời đã mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam, lần đầu tiên
trong lịch sử dân tộc Việt Nam, nhân dân thực sự làm chủ đất nước. Cuộc
chiến tranh kéo dài, điều kiên đất nước còn nhiều khó khăn nên việc pháp
điển hóa BLHS chưa thể thực hiện được.
Tuy vậy, Nhà nước ta đã tập trung ban hành các văn bản pháp luật để
thực hiện công cuộc quản lý, xây dựng đất nước. Vào thời điểm này hàng loạt
Sắc lệnh đã được ra đời là cơ sở pháp lý cho công tác bảo vệ trật tự an toàn xã
hội trong giai đoạn hiện tại, đồng thời Chính phủ cũng ban hành các Sắc lệnh
quy định việc trừng trị những hành động xâm phạm đến nền kinh tế, tài chính,
trật tự trị an xã hội như: Sắc lệnh thiết lập Tòa án quân sự ngày 14/12/1946 để
xét xử tất cả những người nào thực hiện một việc gì đó gây phương hại đến
nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Sắc lệnh số 27/SL ngày
28/2/1946, Sắc lệnh số 223/SL ngày 27/11/1946, Sắc lệnh số 168/SL ngày
14/04/1948 nhằm tăng cường bảo vệ trật tự an toàn xã hội trong giai đoạn
hiện tại. Ngoài ra, do còn có những hạn chế về mặt lập pháp nên Chính phủ
còn cho phép áp dụng một số điều khoản của pháp luật hình sự cũ nhằm duy
trì ổn định trật tự xã hội trong lúc chưa xây dựng kịp thời các văn bản Luật
17
mới. Tuy nhiên, việc áp dụng một số điều khoản trên cần có những điều kiện
là không được trái với nguyên tắc độc lập của Việt Nam và chính thể cộng
hòa, khi vận dụng vào những vụ án hình sự người thẩm phán phải xuất phát từ
ý thức cách mạng [30, tr.5].
Năm 1954 với chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, hiệp định
Giơnevơ được ký kết, miền Bắc bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ
nghĩa đồng thời tiếp tục đấu tranh chống đế quốc Mỹ, hoàn thành cách mạng
dân tộc, dân chủ ở Miền Nam tiến tới thống nhất đất nước, thời kỳ này tình
hình xã hội có nhiều thay đổi lớn, các văn bản pháp luật về hình sự được Nhà
nước ban hành đã tương đối nhiều, chính sách hình sự đối với một số loại tội
phạm rõ ràng, cụ thể hơn. Tuy nhiên hành vi giết con mới đẻ chưa được quy
định thành tội danh độc lập, thậm chí chưa được đề cập trong các quy định
của pháp luật. Tội phạm có liên quan được đề cập đến là tội giết người với
một loạt các văn bản quy định và hướng dẫn như: Điểm 3, Thông tư 442/Ttg
ngày 19/01/1955 của Thủ tướng Chính phủ về việc trừng trị một số tội phạm
quy định: “Cố ý giết người phạt tù từ 5 năm đến 20 năm, nếu có trường hợp
nhẹ có thể hạ xuống một năm, giết người có dự mưu có thể phạt đến tử hình”.
Như vậy sau 10 năm giành được độc lập, lần đầu tiên tội giết người được quy
định một cách cụ thể trong các văn bản pháp luật nước ta. Kế tiếp là Thông tư
số 556 ngày 24/12/1958 của Thủ tướng Chính phủ nêu một cách toàn diện
chính sách truy tố và xét xử với tội phạm hình sự trong đó có tội giết người
nhưng không quy định về tội giết con mới đẻ. Thông báo về Hội nghị Ban bí
thư Trung ương Đảng ngày 25/03/1963 về phương hướng, nhiệm vụ công tác
năm 1963 của ngành Tòa án nhân dân ở Điểm 3 nhấn mạnh: “Đấu tranh
chống tệ nạn xã hội, đặc biệt phải nghiệm trị tội giết người…” [29, tr.5].
Trong thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội giai đoạn năm 1960-
1965, ở miền Bắc đã bắt đầu xuất hiện hành vi giết trẻ em mới đẻ. Hầu hết
18
những trường hợp này là người mẹ đẻ con hoang vì sợ dư luận xã hội chê
cười hoặc vì gặp hoàn cảnh khó khăn về nhiều mặt nên đã bí mật giết con
mình đi, cá biệt có một số vụ giết trẻ em mới đẻ vì mê tín. Năm 1963 ngành
Tòa án nhân dân đã tổng kết và đưa ra Chỉ thị số 01/NCCS ngày 14/03/1963
về đường lối xử lý tội gọi là tội giết trẻ sơ sinh [1, tr.9]. Đây là lần đầu tiên tội
danh giết trẻ sơ sinh được xác định. Chỉ thị quy định tội này cần được hiểu là
việc người mẹ đã bất đắc dĩ phải giết đứa con đẻ hoang của mình vì sợ dư
luận chê cười hoặc gặp phải hoàn cảnh khó khăn, khốn quẫn về mặt kinh tế và
tình cảm. Đứa trẻ mới sinh được một thời gian ngắn (thông thường từ một
tuần trở lại, cũng có thể kéo dài hơn không quá một tháng).
Năm 1960, Tòa án nhân dân tối cao tổng kết thực tiễn xét xử và ban
hành Chỉ thị 1025 ngày 15/06/1960 hướng dẫn đường lối xét xử, trong đó xác
định hoàn cảnh giết trẻ sơ sinh có thể do mê tín hoặc vì sợ lây bệnh để khỏi
phải nuôi trong hoàn cảnh khốn cùng về kinh tế. Đồng thời ngày 10/08/1970
Tòa án nhân dân tối cao cũng có bản chuyên đề tổng kết thực hiện xét xử loại
tội giết người kèm theo Công văn số 452/HS2 cũng xác nhận giết trẻ em mới
đẻ là phạm tối giết người có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt đồng thời cụ thể hóa
các dấu hiệu của trường hợp phạm tội này [1, tr.10]. Trong một thời gian dài,
việc xét xử các vụ án giết người trong đó có hành vi giết trẻ sơ sinh chủ yếu
dựa vào Thông tư 442/TTg ngày 19/01/1955 củ Thủ tướng chính phủ, Sắc
luật 03 – SL/76 ngày 15/03/1976 của Hội đồng chính phủ cách mạng lâm thời
cộng hòa miền Nam Việt Nam và một số văn bản hướng dẫn khác của Tòa án
nhân dân tối cao [29, tr.6].
Như vậy, pháp luật thời kỳ này đã xác định được một số dấu hiệu đặc
trưng của trường hợp phạm tội giết con mới đẻ với đường lối xử lý giảm nhẹ
hơn so với tội giết người. Tuy nhiên, tất cả các văn bản pháp luật hình sự trên
đều là những văn bản đơn hành để tổng kết, để hướng dẫn nên có hiệu lực
19
thấp (như Sắc luật, Sắc lệnh, Thông tư của Chính phủ…), thiếu sự đồng bộ,
thiếu thống nhất, nhiều lỗ hổng dẫn đến tình trạng tùy tiện áp dụng pháp luật,
xử nặng, xử nhẹ, thậm chí xử sai, làm oan người vô tội. Sự cần thiết của việc
ban hành Bộ luật hình sự là một tất yếu khách quan, xuất phát từ nhiệm vụ
của giai đoạn cách mạng mới vào thời điểm này [1, tr.10].
1.2.2. Quy định về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Việt
Nam trong giai đoạn năm 1985 đến khi ban hành Bộ luật hình sự 1999
Trước đây, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau
mà Nhà nước ta chưa có điều kiện để xây dựng BLHS- văn bản quy phạm
pháp luật quy định toàn diện và thống nhất những vấn đề về tội phạm và
quyết định hình phạt, cũng như những vấn đề khác liên quan đến chính sách
hình sự. Chính vì vậy, khi BLHS 1985 ra đời đã trở thành công cụ sắc bén của
Nhà nước ta để bảo vệ những thành quả của cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giáo dục mọi người
dân ý thức tôn trọng và tuân theo pháp luật đấu tranh chống – phòng ngừa tội
phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Hành vi giết con mới đẻ đã được đề cập trong BLHS năm 1985, đây
một bước tiến lớn trong công tác xây dựng pháp luật của Nhà nước, là cơ sở
để các cơ quan hành pháp tiến hành đấu tranh với loại tội phạm này. Tuy
nhiên, tội giết con mới đẻ không được quy định là tội phạm độc lập mà chỉ
được coi là một trường hợp giết người được giảm nhẹ đặc biệt. Bộ luật hình
sự 1985 quy định:
Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu
hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con mới đẻ
hoặc vứt bỏ con mới đẻ dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết thì bị phạt
cảnh cáo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba
tháng đến hai năm [25, Điều 101, Khoản 4].
20
Những dấu hiệu xác định tình tiết giảm nhẹ đặc biệt được mô tả cụ
thể trong quy định của Bộ luật hình sự như do ảnh hưởng nặng nề của tư
tưởng lạc hậu, trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn… [25, Điều 101, Khoản
4] thực chất là những tổng kết của thực tiễn xét xử trước đây. Nghị quyết
04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán hướng dẫn phần các
tội phạm của Bộ luật hình sự 1985 cũng có giải thích, hướng dẫn thêm, quy
định hành vi giết con mới đẻ thuộc một số tình tiết định khung hình phạt
nhẹ và nêu rõ “Đây là một tội phạm có cấu thành giảm nhẹ đặc biệt, cần
được vận dụng một cách thận trọng và chặt chẽ” [19].
Trong giai đoạn này, tội giết con mới đẻ được quy định là chính sách
hình sự giảm nhẹ đặc biệt của Nhà nước ta, bởi vậy hình phạt của tội phạm
cũng được giảm nhẹ với mức cao nhất của khung hình phạt tương ứng là cải
tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Xét
trong tương quan so sánh với khung cơ bản của tội giết người với mức hình
phạt tù từ năm năm đến mười lăn năm thì có thể thấy được mức độ hình phạt
của tội phạm này đã được giảm nhẹ rất nhiều. Tuy nhiên, theo quy định của
Bộ luật hình sự năm 1985 thì nếu người mẹ nào do ảnh hưởng của tư tưởng
lạc hậu, hoặc trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà giết con mới đẻ thì sẽ
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, điều này gây tâm lý xấu cũng
như dư luận xã hội nặng về đối với người phạm tội. Vì vậy việc tách tội giết
con mới đẻ thành một tội riêng biệt, được quy định tại một điều luật riêng
biệt, không quy định tội giết con mới đẻ nằm trong điều luật quy định tội giết
người là hết sức cần thiết [20, tr.194].
1.2.3. Quy định về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Việt
Nam giai đoạn từ năm 1999 đến nay
Do chuyển biến của tình hình xã hội, xuất phát từ những đòi hỏi cấp
thiết của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời kỳ mới, ngày
21
21/12/1999, BLHS năm 1999 được thông qua tại kỳ hợp thứ VI của Quốc hội
khóa X. Sự ra đời của BLHS năm 1999 góp phần sửa đổi toàn diện BLHS
năm 1985 về kỹ thuật lập pháp lẫn chính sách hình sự. Đặc biệt, BLHS năm
1999 đã tách tội giết con mới đẻ thành một tội danh độc lập, quy định tại Điều
94, phần nào phản ánh rõ hơn tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi giết
con mới đẻ. Đồng thời đây chính là sự kế thừa chính sách hình sự đã có từ
trước đây, thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc của Đảng, Nhà nước ta.
Việc tách tội giết con mới đẻ thành tội danh độc lập trong quy định
của Bộ luật hình sự 1999 có ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận và thực
tiễn. Bởi theo quy định của BLHS năm 1985 thì giết con mới đẻ được coi là
một cấu thành giảm nhẹ của tội giết người, nên trong thực tiễn xét xử người
phạm tội tuy được hưởng hình phạt giảm nhẹ nhưng vẫn bị định danh là tội
giết người. Điều này gây ảnh hưởng tâm lý khá nặng nề cũng như dư luận xã
hội đối với người phạm tội. Việc sửa đổi của Bộ luật hình sự 1999 đã thể
hiện rõ nét chính sách hình sự của Nhà nước ta ngay ở việc định tội danh, từ
đây, người phạm tội giết con mới đẻ sẽ không phải gánh chịu tội danh giết
người nữa [29, tr.9].
BLHS năm 1999 quy định tội giết con mới đẻ là trường hợp:
Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu
hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con mới đẻ
hoặc vứt bỏ đứa trẻ đó dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt
cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt từ ba tháng đến hai
năm [27, Điều 94].
Điều luật trên đã mô tả khá đầy đủ các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội
phạm, mức hình phạt cũng được sửa đổi cao hơn so với quy định của BLHS
1985, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật trong thời kỳ mới. Đồng thời,
việc quy định cụ thể tội danh trong điều luật còn khẳng định được tính nhân
đạo của pháp luật nước ta.
22
Trong lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự gần đây nhất, BLHS năm
1999 được sửa đổi bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS
số 37/2009/QH12 ngày 19 tháng 06 năm 2009 thì tội giết con mới đẻ vẫn được
giữ nguyên. Sở dĩ Điều luật quy định tội giết con mới đẻ không có thay đổi gì
do vào giai đoạn từ năm 1999 đến năm 2009 tình hình diễn biến tội giết con
mới đẻ không nhiều, những quy định của pháp luật về tội giết con mới đẻ vẫn
phù hợp với sự phát triển của xã hội thời điểm đó, vẫn đáp ứng được sự răn đe,
trừng trị người phạm tội và thể hiện sự khoan hồng của pháp luật Việt Nam.
Trong những năm qua, mặc dù BLHS đã phát huy tác dụng tích cực
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần quan trọng giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Tuy nhiên, theo Báo cáo của các cơ quan chức năng, tình hình tội
phạm nhìn chung vẫn diễn biến hết sức phức tạp với những phương thức, thủ
đoạn tinh vi, xảo quyệt. Số lượng tội phạm luôn có xu hướng gia tăng, nghiêm
trọng hơn cả về quy mô và tính chất [5, tr.3]. Theo Báo cáo của các cơ quan
tiến hành tố tụng ở trung ương và một số địa phương cho thấy, một số loại tội
phạm có diễn biến khá phức tạp với những phương thức và thủ đoạn phạm tội
ngày càng tinh vi, xảo quyệt, cụ thể: Về loại tội phạm xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Nhóm tội phạm này diễn biến
ngày càng phức tạp về số lượng, phương thức, thủ đoạn cũng như tính chất dã
man, tàn bạo của hành vi phạm tội. Các hành vi xâm hại trẻ em nó có chiều
hướng gia tăng, tội giết con mới đẻ nói riêng diễn ra theo chiều hướng gia tăng
với các hình thức thực hiện tội phạm ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn [5,
tr.3]. Vấn đề đặt ra ở đây là hiện tại với những quy định pháp luật hình sự
Việt Nam từ năm 1999 đến nay có còn phù hợp nữa hay không? Tại sao phải
sửa đổi? Sửa đổi bổ sung ở điểm gì?
Hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng với tội giết con mới đẻ đã được thực
23
hiện hoàn thành, hậu quả đứa trẻ chết đã xảy ra thì việc phải chịu với mức
hình phạt theo như quy định tại Điều 94 BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung
năm 2009) không có tính răn đe cao. Có nhiều vụ việc người mẹ cố tình bỏ
rơi hoặc giết đứa trẻ nhưng đứa trẻ lại được cứu sống thì người mẹ không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự, như vậy là quá nhẹ với người mẹ. Vấn đề này
đã được các các nhà làm luật đề cập đến trong dự thảo sửa đổi bổ sung bộ luật
hình sự năm 2015. Bộ Tư pháp cùng Chính phủ trình dự thảo BLHS (sửa đổi)
xin ý kiến toàn dân về việc tăng nặng trách nhiệm hình sự với tội giết con mới
đẻ. Cụ thể tại Điều 124, dự thảo sửa đổi bổ sung luật hình sự năm 2015 quy
định: “Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong
hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ dẫn đến
hậu quả đứa trẻ đó chết thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm” [6, Điều 124]. Tuy
nhiên có không ít luồng dư luận xung quanh đề nghị này, vấn đề này được lấy
ý kiến rộng rãi trong nhân dân đảm bảo đưa ra những quy định hợp lý, hợp
tình nhất đồng thời đảm bảo tính răn đe, nghiêm trị cao nhất.
Theo truyền thống đạo đức của dân tộc ta, con người luôn là vốn quý,
tính mạng con người là thiêng liêng bất khả xâm phạm, không một ai có
quyền tước đoạt sinh mạng của người khác trái pháp luật, đặc biệt ở đây lại là
một đứa trẻ sơ sinh mới chào đời. Bởi vậy, việc quy định tội phạm này trong
BLHS Việt Nam thành một tội phạm độc lập là hết sức cần thiết, nhằm bảo
đảm nhận thức đầy đủ bản chất pháp lý của tội phạm và cụ thể hóa đường lối
xử lý, chính sách hình sự với người phạm tội.
1.3. Kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới về tội giết
con mới đẻ
Hành vi giết con mới đẻ không chỉ là hiện tượng, là tội phạm được quy
định trong pháp luật hình sự của Việt Nam mà được pháp luật hình sự của
một số như: Liên Bang Nga, Thụy Điển, Canada… cũng quy định về loại tội
phạm này và cách thức xử lý trong pháp luật hình sự của mỗi nước.
24
1.3.1. Quy định về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Thụy Điển
Trong BLHS của Thụy Điển có 38 chương bao gồm 379 điều. Tội giết
con mới đẻ được quốc gia Thụy Điển quy định tại điều 3 chương 4 thuộc
nhóm các tội xâm phạm tính mạng và sức khỏe của con người. Điều 3,
chương 4 Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định: “Người mẹ nào do rối loạn
tâm thần hoặc quá đau khổ mà giết con mới đẻ thì bị phạt tù đến sáu năm về
tội giết con mới đẻ” [38, Điều 3].
Khách thể mà người phạm tội xâm phạm ở đây được pháp luật đề cập
đến đó là quyền sống, là tính mạng của đứa trẻ. Chủ thể thực hiện hành vi
phạm tội là người mẹ đẻ - người trực tiếp sinh ra đứa trẻ đó thực hiện hành vi
nhằm tước đoạt mạng sống của đứa trẻ, hậu quả dẫn đến đứa trẻ chết người
mẹ phải chịu trách nhiệm hình sự.
Ngay trong quy định của điều luật chúng ta có thể thấy sự giống nhau
của BLHS Thụy Điển và BLHS Việt Nam đó là dấu hiệu nguyên nhân phạm
tội là dấu hiệu quan trọng, được BLHS Thụy Điển quy định là yếu tố cấu
thành tội phạm. Dấu hiệu nguyên nhân phạm tội của người mẹ ở đây được
nhấn mạnh đó là “do rối loạn tâm thần hoặc quá đau khổ” [38, Điều 3] dẫn
đến hành vi giết con mới đẻ. Đối tượng tác động của tội giết con mới đẻ theo
quy định của pháp luật Thụy Điển và pháp luật Việt Nam đều là con mới đẻ.
Mặt khác chúng ta có thể nhận thấy hình phạt đối với tội giết con mới
đẻ của Thụy Điển nặng hơn so với hình phạt của BLHS Việt Nam. Trong khi
BLHS Việt Nam quy định hình phạt đối với tội giết con mới đẻ là “cải tạo
không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm” [27, Điều
94] thì BLHS Thụy Điển quy định bị “phạt tù đến sáu năm” [38, Điều 3]. Có
thể thấy mức hình phạt của Thụy Điển cao hơn, có sức răn đe trừng trị cao
hơn Việt Nam.
25
1.3.2. Quy định về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Liên
Bang Nga
BLHS Liên bang Nga được Đuma quốc gia thông qua ngày 24/05/1996
và có hiệu lực từ ngày 01/07/1997. Bộ luật đã hai lần được sửa đổi và bổ sung
bằng Luật số 77 ngày 22/08/1998 và Luật số 92 ngày 25/06/1998. Bộ luật
hiện tại có 34 chương cồm 361 Điều. Tội giết con mới đẻ được BLHS Liên
bang Nga quy định tại điều 106 thuộc chương các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. BLHS Liên bang Nga quy
định: “Người mẹ giết con mới đẻ trong hoặc ngay sau khi sinh, cũng như
người mẹ giết con mới đẻ trong tình trạng thần kinh bị ức chế hoặc rối loạn
tâm thần mà không làm mất năng lực trách nhiệm hình sự thì bị phạt tù đến
năm năm” [40, Điều 106]. Quy định của BLHS Liên bang Nga khách thể bị
người phạm tội xâm phạm ở đây cũng là quyền sống, tính mạng của đứa trẻ.
Chủ thể thực hiện tội giết con mới đẻ cũng là người mẹ - người trực tiếp sinh
ra đứa trẻ. Cũng giống như theo quy định của BLHS Việt Nam, BLHS Liên
Bang Nga cũng nhấn mạnh nguyên nhân “người mẹ giết con mới đẻ trong tình
trạng thần kinh bị ức chế hoặc rối loạn tâm thần” [40, Điều 106].
Tuy nhiên khác với quy định của BLHS Việt Nam và BLHS của Thụy
Điển, BLHS Liên Bang Nga đưa cả điều kiện người mẹ không bị mất năng
lực trách nhiệm hình sự vào điều luật. Trong khi đó BLHS Việt Nam và
BLHS của Thụy Điển không đưa quy định điều kiện người mẹ không bị mất
năng lực trách nhiệm hình sự trong điều luật mà vấn đề trách nhiệm hình sự
đã được hiểu là đã là chủ thể của tội phạm thì phải thỏa mãn đầy đủ điều kiện
về tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự. Đối tượng tác động của tội giết con
mới đẻ theo quy định của BLHS Liên Bang Nga không chỉ là con mới đẻ sau
khi sinh mà cả con mới đẻ đang trong khi sinh. Và mức hình phạt đối với tội
phạm hoàn thành theo quy định của BLHS Liên bang Nga là năm năm tù,
hình phạt cao hơn hẳn so với quy định hình phạt của Việt Nam hiện nay.
26
1.3.3. Quy định của về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Canada
Tội giết con mới đẻ được quy định tại Điều 3, chương 3 các tội xâm
phạm tính mạng và sức khỏe của con người, phần II các tội phạm. BLHS
Canada quy định: “Người mẹ nào giết con mới đẻ hoặc vào thời điểm sinh
con trong trạng thái bị rối loạn tâm thần hoặc đau khổ trầm trọng thì bị phạt
tù đến sáu năm về tội giết trẻ sơ sinh” [39, Điều 3]. Theo quy định của Bộ
luật hình sự Canada thì khách thể bị người phạm tội xâm hại ở đây cũng là
quyền sống, tính mạng của đứa trẻ. Chủ thể thực hiện tội giết con mới đẻ cũng
là người mẹ - người trực tiếp sinh ra đứa trẻ. Đối tượng tác động của tội giết
con mới đẻ theo quy định của bộ luật hình sự Canada giống với quy định về
đối tượng tác động trong quy định của Bộ luật hình sự Liên Bang Nga tức là
đều gồm hai đối tượng: Con mới đẻ sau khi sinh và trong khi sinh. Nguyên
nhân phạm tội cũng được Bộ luật hình sự Canda nhấn mạnh đó là “trong
trạng thái bị rối loạn tâm thần hoặc đau khổ trầm trọng” [39, Điều 3]. Hình
phạt đối với tội giết con mới đẻ theo quy định của Bộ luật hình sự Canada là
sáu năm, cao hơn so với hình phạt của Việt Nam, Liên Bang Nga và bằng với
mức hình hình phạt của Thụy Điển.
Như vậy thông qua việc phân tích quy định pháp luật hình sự của ba
quốc gia Thụy Điển, Liên bang Nga, Canada về tội giết con mới đẻ ta có thể
thấy được một số điểm sau:
Thứ nhất về khách thể bị xâm phạm theo quy định của BLHS của Thụy
Điển, Liên Bang Nga, Canada và Việt Nam đều là tính mạng, sự sống của đứa
trẻ mới sinh.
Thứ hai về chủ thể thực hiện hành vi phạm tội đều phải là người mẹ -
người trực tiếp sinh ra đứa trẻ đó.
Thứ ba về nguyên nhân phạm tội, trong quy định của pháp luật của
Thụy Điển, Liên bang Nga, Canada và Việt Nam đều coi trọng dấu hiệu này
trong việc xét cấu thành tội phạm.
27
Thứ tư về đối tượng tác động BLHS Thụy Điển và BLHS Việt Nam có
điểm tương đồng đối tượng tác động của tội phạm chỉ là con mới đẻ sau sinh
trong khi đó đối tượng tác động của tội giết con mới đẻ trong quy định của
BLHS Liên bang Nga và Bộ luật hình sự Canada bao gồm cả trường hợp con
mới đẻ sau khi sinh và con mới đẻ trong khi sinh.
Thứ năm về hình phạt, so sánh với quy định hình phạt của Thụy Điển
và Liên bang Nga, Canada thì quy định của Luật hình sự Việt Nam khá nhẹ.
Hiện nay có khá nhiều quan điểm về hình phạt, chúng ta cùng nhau phân tích
và đưa ra câu trả lời trong các chương sau.
1.3.4. Quy định về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Nhật Bản
Trong quy định của Bộ luật hình sự Nhật Bản, hành vi giết con mới đẻ
không được quy định rõ thành một tội danh độc lập như Bộ luật hình sự của
Việt Nam, Liên Bang Nga hay Thụy Điển mà liên quan đến tội giết con mới
đẻ được quy định trong tội bỏ rơi tại dẫn tới thương tích hoặc chết.
Điều 217: Bỏ rơi:
“Người nào bỏ rơi người già yếu, trẻ thơ, người tàn tật, người bệnh
hoạn đang cần sự chăm sóc thì bị phạt từ từ dưới 1 năm”.
Điều 218: Bỏ rơi của người có trách nhiệm chăm nom, v.v…. quy định:
“Người có trách nhiệm chăm nom người già yếu, trẻ thơ, người tàn tật
hoặc người bệnh hoạn mà bỏ rơi những người này, hoặc không có sự chăm
nom cần thiết cho sự sống còn của những người này thì bị phạt từ trên 3
tháng đến dưới 5 năm”.
Điều 219: Tội bỏ rơi, v.v…dẫn tới thương tích hoặc chết người.
“Đối với người phạm các tội được quy định tại 2 điều trên mà do đó
gây ra thương tích hoặc chết người thì so với các tội gây ra thương tích xử lý
theo khung hình phạt nặng”.
Như vậy theo quy định của bộ luật hình sự Nhật Bản con mới đẻ là trẻ
28
thơ, là nhóm đối tượng được chăm nom và đang cần sự chăm sóc. Theo quy
định tại Điều 217 thì chỉ cần là trẻ thơ mà đang cần được chăm sóc, người
phạm tội là bất cứ ai không nhất thiết phải là người mẹ trực tiếp sinh ra cũng
đã phạm tội và bị phạt dưới một năm tù. Tại Điều 218 quy định rõ hơn đối với
những người có trách nhiệm chăm nom. Người có trách nhiệm chăm nom có
thể là: bố, mẹ, anh, chị, em… trong gia đình. Người nào thuộc nhóm những
người có trách nhiệm chăm nom trẻ thơ mà bỏ rơi những đứa trẻ đó thì đầu bị
phạt từ và khung hình phạt đã được tăng nặng lên từ trên 3 tháng đến dưới
năm năm. Đối với trường hợp bỏ rơi mà dẫn tới hậu quả đứa trẻ bị thương
tích hoặc chết người thì so với các tội gây ra thương tích xử lý theo khung
hình phạt nặng.
Thông qua việc tìm hiểu các quy định của pháp luật hình sự Nhật Bản
ta có thể thấy, ở Nhật Bản trẻ em là đối tượng bảo vệ đặc biệt. Không riêng gì
trường hợp là trẻ sơ sinh mới sinh ra, cứ là trẻ em đang cần phải chăm sóc mà
bị bỏ rơi bất kể là người nào đều bị xử lý, đối với những người có trách nhiệm
trực tiếp chăm sóc sẽ bị xử lý nặng với mức hình phạt nặng hơn. Đặc biệt
hành vi bỏ rơi mà dẫn tới hậu quả gây thương tích hoặc chết người xảy ra bị
xử lý theo khung hình phạt nặng. Như vậy so với hình phạt của bộ luật hình
sự Việt Nam, bộ luật hình sự Thụy Điển, bộ luật hình sự Canada, bộ luật hình
sự Liên Bang Nga cao hơn có tính răn đe tốt hơn. Và đặc biệt, theo quy định
của bộ luật hình sự Nhật Bản thì người mẹ là người trực tiếp sinh ra đứa trẻ
thực hiện hành vi bỏ rơi dẫn tới hậu quả gây ra thương tích hoặc chết người sẽ
còn bị xử lý nặng hơn. Bởi người mẹ được xếp vào nhóm người có trách
nhiệm chăm sóc, không được xử lý nhẹ đối với đối tượng thực hiện hành vi
phạm tội khác như quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam, bộ luật hình sự
Canada, bộ luật hình sự Thụy Điển, bộ luật hình sự Liên Bang Nga.
29
Kết luận Chương 1
Việc quy định tội giết con mới đẻ là một tội danh độc lập trong BLHS
năm 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) đã thể hiện cam kết của Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi trở thành thành viên của các Điều ước
quốc tế về quyền con người như: Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính
chị năm 1966, Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989. Cùng với đó việc
bảo vệ trẻ em đã được Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quy định qua các năm, vì thế khi các bộ luật được ban hành đã cụ thể hóa các
quy định trong việc bảo vệ trẻ em trong từng lĩnh vực cụ thể như: Luật bảo
vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em năm 2004, BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung
năm 2009). Những quy định pháp luật được quy định trong các văn bản pháp
luật trên đã tạo cơ sở pháp lý bảo vệ quyền được sống cho những đứa trẻ sơ
sinh và thể hiện quan điểm của Nhà nước ta qua các thời kỳ về hành vi giết
con mới đẻ.
Bên cạnh đó, người nghiên cứu đã có sự đối chiếu, học hỏi kinh
nghiệm lập pháp của một số quốc gia trên thế giới về quy định tội giết con
mới đẻ như: Thụy Điển, Liên Bang Nga, Canada để tích lũy thêm cơ sở khoa
học, cơ sở thực tiễn cho khoa học pháp lý hình sự của Việt Nam khi sửa đổi
quy định về tội giết con mới đẻ trong dự thảo BLHS đang được Quốc hội
khóa XIII thảo luận trong thời gian vừa qua.
30
Chương 2
TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ
THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
Trong nội dung chương trước, tôi đã trình bày quy định về tội giết
con mới đẻ ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Trong nội dung chương
này, tôi muốn phân tích làm sang tỏ các dấu hiệu pháp lý cơ bản và những
tiêu chí phân biệt tội giết con mới đẻ với một số tội phạm khác xâm phạm
tính mạng của con người được quy định tại chương XII – Bộ luật Hình sự
Việt Nam năm 1999.
2.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội giết con mới đẻ
Về bản chất, giết con mới đẻ là một trường hợp cụ thể của giết người.
Tội giết con mới đẻ quy định tại Điều 94 Bộ luật hình sự 1999 được tách ra từ
Khoản 4 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985. Theo đó, về pháp lý, hành vi bị
coi là phạm tội giết con mới đẻ phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu pháp lý
đặc trưng của tội giết người. Bên cạnh đó, giết con mới đẻ được coi là trường
hợp giảm nhẹ của tội giết người, cấu thành tội phạm tội giết con mới đẻ là cấu
thành tội phạm giảm nhẹ của tội giết người. Những tình tiết có ý nghĩa giảm
nhẹ định tội được mô tả trong cấu thành tội phạm tội giết con mới đẻ phản
ánh đặc trưng của tội phạm [29, tr.10].
Về lý luận, tội phạm có đặc điểm chung là đều được hợp thành bởi
những yếu tố nhất định, tồn tại không tách rời nhau nhưng có thể phân chia
được trong tư duy và do vậy có thể cho phép nghiên cứu độc lập với nhau.
Các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm giết người nói chung cũng
như cấu thành tội giết con mới đẻ nói riêng đều có thể nghiên cứu về cấu
thành tội phạm bởi các yếu tố theo khoa học luật hình sự Việt Nam là khách
thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm [41, tr.82].
31
Theo luật hình sự Việt Nam, bất cứ hành vi phạm tội nào, dù ít nghiêm
trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng, dù có khung
hình phạt tới chung thân, tử hình hay chỉ là cảnh cáo, phạt tiền cũng đều là thể
thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan – giữa những biểu hiện bên
ngoài và những quan hệ tâm lý bên trong, đều là hoạt động của con người cụ
thể, xâm hại hoặc nhằm xâm hại những quan hệ xã hội nhất định. Sự thống
nhất của bốn yếu tố này là hình thức cấu trúc, thể hiện đầy đủ nội dung chính
trị, xã hội của tội phạm. Nếu về mặt nội dung chính trị, xã hội, những hành vi
phạm tội có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau thì về mặt
cấu trúc, bốn yếu tố cấu thành tội phạm cũng có những nội dung biểu hiện khác
nhau. Chính sự khác nhau này quyết định tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội [41, tr.82]. Chính vì vậy chúng ta sẽ tiến hành phân
tích dấu hiệu pháp lý của tội giết con mới đẻ trên cơ sở các dấu hiệu trên.
2.1.1. Khách thể của tội phạm
2.1.1.1. Khách thể của tội phạm
“Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ bị
tội phạm xâm hại” [8, tr.155].
Về lý luận, khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội bị tội phạm
xâm hại nhưng không phải mọi quan hệ xã hội bị xâm hại đều là khách thể
của tội phạm, mà chỉ những quan hệ nào được Nhà nước xác định cần được
bảo vệ bằng những quy định pháp luật hình sự mới được xem là khách thể của
tội phạm khi chúng bị gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại ở nhiều mức độ.
Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở thừa nhận tính giai cấp của pháp luật nói
chung cũng như của Luật hình sự nói riêng khẳng định: Khách thể bị tội phạm
gây thiệt hại là hệ thống những quan hệ xã hội của chế độ xã hội có giai cấp
được luật hình sự của chế độ đó bảo vệ. Quan điểm này đã được khẳng định
trong BLHS 1999 tại Điều 1–Nhiệm vụ của Bộ luật hình sự và Điều 8–Khái
niệm tội phạm [41, tr.85].
32
Khoa học Luật hình sự Việt Nam phân biệt ba loại khách thể của tội
phạm là khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp. Cả ba khách
thể đều là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm
hại nhưng ở mức độ khác nhau. Trong đó, khách thể trực tiếp của tội phạm là
quan hệ xã hội cụ thể bị loại tội phạm cụ thể trực tiếp xâm hại và có ý nghĩa
quan trọng trong việc xây dựng pháp luật cũng như trong thực tiễn xét xử.
Khách thể trực tiếp của tội phạm trước hết phải là những quan hệ xã hội bị tội
phạm cụ thể trực tiếp gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại. Chính qua sự
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại này mà tội phạm xâm hại đến khách thể
loại và khách thể chung.
Tội giết người nói chung, giết con mới đẻ nói riêng trực tiếp xâm phạm
đến quyền sống của con người – quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính
mạng. Trong số các quyền nhân thân, quyền sống của con người là một trong
những quyền cơ bản, tự nhiên, thiêng liêng và cao quý nhất. Quyền sống được
đảm bảo bằng sự an toàn trong cuộc sống của mỗi người, cuộc sống được tính
bằng thời điểm lọt lòng mẹ cất tiếng khóc chào đời, có khả năng độc lập tiếp
nhận những yếu tố vật chất (ôxy, các loại thức ăn...) cho đến khi chết theo quy
luật tự nhiên. Đây là quyền cơ bản, quan trọng nhất của công dân được pháp
luật Việt Nam cũng như pháp luật thế giới thừa nhận và bảo vệ [20, tr.194].
Cụ thể, tại Điều 19 Hiến pháp 2013 quy định:
Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật
bảo hộ, Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật [28, Điều 19]; Mọi
người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ
về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức,
nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể,
sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm [28, Điều 20, Khoản 1].
Các công ước về nhân quyền, đặc biệt về quyền trẻ em, các Điều ước
33
quốc tế được ký kết giữa các quốc gia, các vùng lãnh thổ cũng luôn đặt vấn đề
tôn trọng quyền sống của con người lên hàng đầu. Pháp luật hình sự bảo hộ
người đang sống, con người mà có khả năng độc lập tiếp nhận yếu tố đảm bảo
cuộc sống cho dù tình trạng sống hay khả năng tiếp nhận yếu tố đảm bảo cuộc
sống là tối thiểu [20, tr.194].
2.1.1.2. Đối tượng tác động của tội phạm
Đối tượng tác động là một bộ phận của khách thể bị hành vi phạm tội
tác động đến, để gây thiệt hại cho khách thể. Đối tượng tác động của tội phạm
là con mới đẻ - đối tượng đặc biệt, nên vấn đề xác định thế nào là con mới đẻ
là hết sức quan trọng trong việc định tội danh. Qua tìm hiểu Luật hình sự của
Việt nam và của một số nước trên thế giới thì có thể nhận thấy không chỉ Việt
Nam mà một số nước như Thụy Điển, Liên bang Nga, Canada cũng có quy
định về tội giết con mới đẻ. Tuy nhiên việc xác định đối tượng của tội phạm
có sự khác nhau.
Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy định: “Người mẹ giết con mới đẻ
trong hoặc ngay sau khi sinh… thì bị phạt tù đến 5 năm” [40, Điều 106]. Còn
theo quy định tại Điều 3 chương 4 của bộ luật hình sự Thụy Điển thì: “Người
mẹ nào giết con mới đẻ hoặc vào thời điểm sinh con…” [38, Điều 3]. Như vậy
theo Luật hình sự Liên bang Nga và luật hình sự Thụy Điển thì con mới đẻ
bao gồm những đứa trẻ đang trong quá trình sinh nở và sau khi sinh là đối
tượng tác động của tội phạm này. Trong BLHS Việt Nam năm 1999 không
nêu rõ thế nào là con mới đẻ, tuy nhiên theo quy định tại Điểm b, Khoản 1,
Phần II Nghị quyết 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao thì con mới đẻ được xác định là đứa trẻ được xác định là
“đứa trẻ được sinh ra trong vòng bảy ngày trở lại” [19]. Như vậy thực tiễn
xét xử công nhận đối tượng tác động của tội giết con mới đẻ theo Luật hình sự
Việt Nam, là đứa trẻ phải còn sống và tính từ khi sinh ra đến khi bị xâm hại
34
chỉ trong khoảng thời gian bảy ngày. Kể từ ngày thứ tám trở đi, đứa trẻ đó sẽ
không được coi là con mới đẻ và đương nhiên sẽ là đối tượng của một tội
khác, như Tội giết người (Điều 93), Tội vô ý làm chết người (Điều 98)….
Ví dụ: Vụ án Lý Văn Sáng ở Lai Châu. Sáng cùng vợ là Nông Thị
Tòng đã sinh 7 người con nhưng đều là con gái, khi mang thai đứa thứ 8, vợ
chồng Sáng đã thuê thầy mo về cúng ma và làm lễ cầu xin sinh một con trai.
Đến khi chị Tòng sinh đứa thứ 8 thì vẫn là con gái, vì vậy vợ chồng Sáng nuôi
cháu nhỏ được 01 thì một hôm vợ chồng Sáng bàn nhau bóp chết đứa trẻ và
lại sinh đứa khác hy vọng kiếm được được con trai để duy trì nòi giống [21,
tr.22]. Khi giải quyết vụ án này đã có ý kiến cho rằng, Tòng phạm tội giết con
mới đẻ vì trong Bộ luật hình sự không quy định con mới đẻ là đẻ được bao
nhiêu lâu. Nhưng theo quy định tại Nghị quyết số 04 ngày 29/11/1986 chỉ coi
là hành vi giết con mới đẻ khi nạn nhân bị chết trong phạm vi 7 ngày tuổi, tức
là từ khi sinh ra cho đến khi bị giết. Như vậy trong trường hợp này mặc dù chị
Tòng là người mẹ trực tiếp sinh ra nạn nhân nhưng cháu nhỏ đã ngoài 7 ngày
tuổi vì vậy vợ chồng chi Tòng phải chịu trách nhiệm về tội giết người theo
quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự.
Như vậy theo quy định tại Điều 94, cũng như Nghị quyết hướng dẫn số
04 của HĐTP thì khách thể của tội giết con mới đẻ là quyền sống của con
người. Trong đó, đối tượng tác động của tội phạm là đứa trẻ được sinh ra
trong vòng bảy ngày trở lại.
2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm
Tội phạm là hành vi của con người, là thể thống nhất giữa những diễn
biến tâm lý bên trong của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và
những biểu hiện diễn ra bên ngoài mà ta có thể nhận biết trực tiếp bằng các
giác quan. Những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài bao gồm: hành vi nguy
hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi và hậu quả, các dấu hiệu biểu hiện sự thực hiện hành vi phạm tội và
35
gắn liền với hành vi như: Công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm
tội, thời gian, địa điểm và hoàn cảnh phạm tội. Tổng thể các biểu hiện trên
đây tọa thành mặt khách quan của tội phạm. Như vậy, mặt khách quan của tội
phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm các dấu hiệu biểu hiện tội
phạm diễn ra trong thế giới khách quan [8, tr.165].
Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố của tội phạm.
Không có mặt khách quan thì cũng không có các yếu tố khác của tội phạm và
do vậy cũng không có tội phạm. Việc nghiên cứu những tình tiết thuộc mặt
khách quan của tội phạm có ý nghĩa đối với việc định tội, xác định mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội, xác định mức độ trách nhiệm hình sự của
người đã thực hiện hành vi đó, ngoài ra trong nhiều trường hợp việc nghiên
cứu này có ý nghĩa trong việc xác định mặt chủ quan của tội phạm, trước hết
là xác định lỗi cũng như đánh giá mức độ lỗi của người phạm tội.
Tội giết con mới đẻ cũng như tội giết người đều có cấu thành vật chất,
các dấu hiệu thuộc mặt khách quan bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội,
hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu
quả. Khi có hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra, có mối quan hệ nhân quả
với hành vi nguy hiểm thì tội phạm được coi là hoàn thành. Các dấu hiện khác
như công cụ, phương tiện phạm tội, thời gian, địa điểm không là dấu hiệu bắt
buộc trong các cấu thành tội phạm, các dấu hiệu này thường được xác định
làm dấu hiệu định khung tăng nặng của các tội phạm cụ thể [20, tr.195].
2.1.2.1. Hành vi nguy hiểm cho xã hội
“Hành vi nguy hiểm cho xã hội là xử sự cụ thể của con người được
thể hiện ra thế giới khách quan dưới dạng hình thức nhất định, gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ” [8, tr.167].
Hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội giết người nói chung, giết con
36
mới đẻ nói riêng là hành vi có khả năng tước đoạt tính mạng của người khách
một cách trái pháp luật - được hiểu là hành vi có khả năng gây ra cái chết cho
con người, chấm dứt sự sống của họ. Hành vi này có thể được thể hiện bằng
các hành động như đâm, chém, bắn… Đồng thời cũng có thể hiện bằng không
hành động như người mẹ không cho con bú… Những hành vi không có khả
năng này không thể là hành vi khách quan của tội giết người. Hành vi tước bỏ
quyền sống của người khác là trái pháp luật mới cấu thành tội giết người, sẽ
không coi là phạm tội giết người trong trường hợp phòng vệ chính đáng hoặc
thi hành bản án tử hình hay là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết. Theo quy
định của pháp luật hiện hành những hành vi tước bỏ quyền sống của người
khác kể cả được sự đồng ý của nạn nhân đều là trái pháp luật [31, tr.15].
Giết con mới đẻ thực chất cũng là giết người, tức là hành vi trước đoạt
tính mạng người khác một cách trái pháp luật. Khoản 1, Điều 94 quy định hai
dạng hành vi là giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa dẫn đến đứa trẻ chết.
Dạng hành vi thứ nhất giết con mới đẻ. Ở dạng hành vi này, người mẹ
có thể thực hiện dưới hai hình thức hành động hoặc không hành động. “ Hành
đồng phạm tội là chủ thể làm một việc mà pháp luật cấm, qua đó làm thay đổi
trạng thái bình thường của đối tượng tác động gây thiệt hại cho khách thể
của tội phạm” [8, tr.168]. Hành vi giết con mới đẻ thực hiện bằng hành động
thể hiện như bóp cổ, thắt cổ, dìm xuống nước, đâm chết…
Ví dụ: Vụ án chị Nguyễn Thị L ở huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định sinh
cháu Hạnh là đứa con ngoài giá thú, do bị gia đình, dòng tộc và làng xóm hắt
hủi, không chịu đựng được sức ép của dư luận và những lễ giáo khắc nghiệt
của gia đình, ngày 02/07/2000 chị đã bỏ cháu Hạnh vào một chiếc hộp caton
rồi thả cháu Hạnh xuống con sông Đào chảy qua làng, sau đó chị L nhảy
xuống sông tự sát. Những người đi làm đồng gần đó đã kịp thời phát hiện cứu
sống được chị L còn cháu Hạnh đã chết, sau 03 mới tìm được xác (khi chết
37
cháu Hạnh được 06 ngày tuổi). Tòa án đã xử chị L về tội giết con mới đẻ
(Điều 94 Bộ luật Hình sự năm 1999). Như vậy hành vi phạm tội của chị L
được thực hiện dưới dạng hành động “giết”. Ở đây chị L không dùng vũ lực
hay công cụ nào tác động vào cơ thể của đứa bé nhưng chị L đã có hành vi
cho vào thùng caton thả xuống sống. Việc cho đứa trẻ mới sinh 06 ngày tuổi
vào thùng caton thì hậu quả đứa trẻ chết là chắc chắn xảy ra [21, tr.21].
Không hành động phạm tội là chủ thể không làm hoặc làm
không đầy đủ một việc mà pháp luật quy định phải làm mặc dù có
đủ khả năng và điều kiện để thực hiện việc đó, làm biến đối trạng
thái bình thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại cho khách thể
của tội phạm [8, tr.167].
Hành vi phạm tội được thực hiện bằng phương pháp không hành động
như không cho con bú sữa dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết. Với thể trạng non
nớt, vừa sinh ra trong vòng bảy ngày, trẻ vẫn chưa thể thích nghi với môi
trường sống khi bị tách khỏi cơ thể mẹ. Chính vì vậy nếu không được chăm
sóc chu đáo trẻ sẽ bị chết vì tác động của các yếu tố ngoại cảnh. Việc cố ý
không chăm sóc trẻ dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết cũng được coi là phạm tội
giết con mới đẻ dưới hình thức không hành động.
Dạng hành vi thứ hai vứt bỏ con mới đẻ dẫn đến đứa trẻ chết. Ở dạng
hành vi ngày người mẹ không nhẫn tâm tự tay giết đứa con mình đứt ruột đẻ
ra nên đã vứt bỏ con ở những nơi như: bệnh viện, cổng cô nhi viện, nhà
chùa… dẫn đến đứa trẻ chết do bị đói, rét hoặc côn trùng, súc vật ăn thịt….
Xét cho cùng, hành vi vứt bỏ con mới để này cũng là một dạng hành vi không
hành động phạm tội (không chăm sóc, không cho bú…). Ở dạng hành vi
phạm tội này, tội giết con mới đẻ đòi hỏi phải có hậu quả chết người và lỗi
của người phạm tội là lỗi cố ý gián tiếp. Tuy nhiên, nếu hành vi vứt bỏ nhưng
thái độ tâm lý của người mẹ là mong muốn đứa trẻ chết thì hành vi lúc này sẽ
được xác định là giết và lỗi ở đây sẽ là lỗi cố ý trực tiếp.
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOTLuận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
 
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
 
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOTLuận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
Luận văn: Các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự, HOT
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Luận văn: Tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người, HOT
Luận văn: Tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người, HOTLuận văn: Tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người, HOT
Luận văn: Tội danh các tội xâm phạm sức khỏe của con người, HOT
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
 
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sựĐề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đTội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAYLuận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
 

Similar to Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT

Similar to Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT (20)

Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAYLuận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
 
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt NamLuận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận Văn Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
luanvancactoihiepdamtheoquydinhcualuathinhsu-190517085817.doc
luanvancactoihiepdamtheoquydinhcualuathinhsu-190517085817.docluanvancactoihiepdamtheoquydinhcualuathinhsu-190517085817.doc
luanvancactoihiepdamtheoquydinhcualuathinhsu-190517085817.doc
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
 
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạtBảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
 
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOTLuận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Luận văn: Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
 
Luận văn: Phòng, chống buôn bán người ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Phòng, chống buôn bán người ở Việt Nam, HOTLuận văn: Phòng, chống buôn bán người ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Phòng, chống buôn bán người ở Việt Nam, HOT
 
TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAMTỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỘI HÀNH HẠ NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
 
Luận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long An
Luận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long AnLuận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long An
Luận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long An
 
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAYLuận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
 
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAYLuận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
 
Pháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội
Pháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tộiPháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội
Pháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đLuận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
 
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAYĐề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sựLuận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 

Recently uploaded (20)

Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họcChương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
Logistics ngược trong thương mại doa.pdf
Logistics ngược trong thương mại doa.pdfLogistics ngược trong thương mại doa.pdf
Logistics ngược trong thương mại doa.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 

Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐOÀN THỊ VÂN TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐOÀN THỊ VÂN TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. CAO THỊ OANH HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đoàn Thị Vân
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ..............6 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc quy định tội giết con mới đẻ........6 1.1.1. Vài nét về các tội xâm phạm tính mạng trong Luật hình sự Việt Nam......... 6 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của tội giết con mới đẻ....................................... 7 1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định tội giết con mới đẻ..................................... 9 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp của Việt Nam về tội giết con mới đẻ ......16 1.2.1. Quy định về tội giết con mới đẻ của pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1945 đến khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 ......16 1.2.2. Quy định về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn năm 1985 đến khi ban hành Bộ luật hình sự 1999...........19 1.2.3. Quy định về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1999 đến nay..................................................20 1.3. Kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới về tội giết con mới đẻ ..................................................................................23 1.3.1. Quy định về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Thụy Điển ......24 1.3.2. Quy định về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Liên Bang Nga...25 1.3.3. Quy định của về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Canada.........26 1.3.4. Quy định về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Nhật Bản........27 Kết luận Chương 1........................................................................................29 Chương 2: TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 ................................................................................... 30
  • 5. 2.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội giết con mới đẻ ................................30 2.1.1. Khách thể của tội phạm ......................................................................31 2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm.............................................................34 2.1.3. Chủ thể của tội phạm..........................................................................42 2.1.4. Mặt chủ quan của tội phạm ................................................................48 2.2. Hình phạt đối với tội giết con mới đẻ..............................................50 2.3. So sánh tội giết con mới đẻ với một số tội phạm khác ..................53 2.3.1. So sánh tội giết con mới đẻ với tội giết người. .................................53 2.3.2. So sánh tội giết con mới đẻ với tội vô ý làm chết người....................56 Kết luận Chương 2........................................................................................58 Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ TRÊN ĐỊA BÀN CẢ NƯỚC VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ................................................................59 3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với tội giết con mới đẻ trên địa bàn cả nước............................................................59 3.2. Những bất cập, tồn tại trong quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội giết con mới đẻ.....69 3.2.1. Bất cập còn tồn tại trong quy định của pháp luật...............................69 3.2.2. Những bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật..............................70 3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội giết con mới đẻ......................................................74 3.3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự đối với tội giết con mới đẻ ..................74 3.3.2. Các kiến nghị khác nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội giết con mới đẻ ...................................................................................81 KẾT LUẬN....................................................................................................87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................89
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Nghĩa đầy đủ BLHS: Bộ luật Hình sự CRC: Công ước quốc tế về quyền trẻ em, 1989 (Convention on the Rights of the Child, 1989) ICCPR: Công ước quốc tế về các quyền dân dự và chính trị của con người, 1966 (Internatinal Covernant on Civil and Political Rights, 1966) TNHS: Trách nhiệm hình sự UDHR: Tuyên ngôn Quốc tế về nhân quyền, 1948 (Universal Declatation of Human Rights, 1948) UNHRC: Ủy ban quyền con người Liên hợp quốc, 1948 (Unitted Nations Human Rights Council, 1948)
  • 7. DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 3.1: Thống kê số lượng vụ án về tội giết con mới đẻ trên địa bàn cả nước giai đoạn 2010 - 2014 60
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài “Quyền sống là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm” [10]. Những năm gần đây, tội phạm giết người nói chung và giết con mới đẻ nói riêng ở Việt Nam có diễn biến phức tạp. Liên tiếp xảy ra các vụ bỏ rơi trẻ sơ sinh ở vệ đường, đống rác, cống rãnh mặc cho côn trùng, động vật tấn công, không ít trường hợp em bé chịu thương tật suốt đời hoặc giết đứa con vừa mới sinh xảy ra liên tiếp khiến dư luận đau xót. Hành vi của bà mẹ giết con mới đẻ là một hành vi quá sức tàn ác, trước hết hành vi này không chỉ vi phạm nghiêm trọng các tiêu chuẩn đạo đức truyền thống mà còn là hành vi vi phạm pháp luật xâm hại quyền con người, quyền trẻ em của những người mẹ thiếu suy nghĩ. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng tội phạm giết con mới đẻ gia tăng thì có nhiều, nhưng phổ biến vẫn là vấn đề đạo đức con người, là gánh nặng mưu sinh, lựa chọn giới tính, có thai ngoài ý muốn… Những suy nghĩ nông nổi dẫn đến hành động đau lòng của người mẹ chẳng những đã tước đoạt đi sinh mạng của đứa trẻ mà bản thân người mẹ còn đối diện với những bản án nghiêm khắc của pháp luật và tòa án lương tâm. Việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em được thể hiện trong tinh thần của nhiều văn bản pháp luật như Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Chống bạo lực gia đình, đặc biệt trong Bộ luật Hình sự (BLHS) có quy định nhiều tội mà đối tượng bị xâm hại là trẻ em với hình phạt nghiêm khắc. Trong hầu hết các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe được quy định trong BLHS, thì đối tượng xâm hại là trẻ em luôn được coi là một trong những tình tiết định tội hoặc định khung tăng nặng hình phạt, như tội hiếp
  • 9. 2 dâm trẻ em, cưỡng dâm trẻ em, giao cấu đối với trẻ em, giết con mới đẻ… Tuy nhiên, nhiều tội xâm hại trẻ em được quy định trong BLHS chưa có hướng dẫn cụ thể vì vậy không tránh khỏi những vấn đề bất cập trong thực tiễn, việc nhận thức và áp dụng thiếu thống nhất, thậm chí dẫn đến việc tranh cãi giữa các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử. Theo quy định của BLHS Việt Nam hiện nay dấu hiệu bắt buộc của tội giết con mới đẻ là đứa trẻ bị chết. Trường hợp trẻ may mắn được cứu sống thì đương nhiên hành vi của người mẹ vứt con dù tiềm ẩn nhiều nguy hiểm nhưng không phạm tội. Và việc đứa trẻ được cứu sống là do may mắn, việc thoát chết nằm ngoài ý chí chủ quan của người mẹ. Vậy nên, nhiều ý kiến cho rằng xác định những trường hợp đứa trẻ không chết thì người mẹ không phạm tội là sự vị tha không đáng có của pháp luật, đã nương tay đối với tội ác khiến tình trạng những ác mẫu vứt con mới đẻ ngày càng có chiều hướng gia tăng. Vì vậy người nghiên cứu chọn đề tài “Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam” nhằm mong muốn góp phần vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về vấn đề này để đảm bảo tính khả thi, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn, đấu tranh phòng ngừa loại tội phạm này. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Liên quan đến đề tài “Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam” đã có một số công trình nghiên cứu nhưng chủ yếu đề cập đến những vấn đề, mang tính chất lý luận khái quát của tội giết con mới đẻ trong những tội xâm hại tính mạng sức khỏe của con người dưới dạng tài liệu chuyên khảo, tham khảo, giáo trình, bình luận khoa học như: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật Hình sự, của PGS.TSKH. Lê Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), do GS.TSKH. Lê Cảm (chủ biên), tái bản 2007… Tại các công trình nghiên cứu dưới dạng các bài viết đăng trên các tạp
  • 10. 3 chí chuyên ngành hay các công trình nghiên cứu khoa học là các khóa luận tốt nghiệp thì mới chỉ đề cập từng khía cạnh của tội giết con mới đẻ mà chưa có luận văn thạc sĩ nào nghiên cứu sâu sắc, toàn diện và hệ thống tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt nam như: - Phạm Văn Báu, Tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học/ Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 2/2000. - Trần Minh Hưởng, Bàn về dấu hiệu cấu thành tội “Giết con mới đẻ” theo Điều 94 Bộ luật hình sự năm 1999 và một số vấn đề cần lưu ý khi định tội danh, Kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 22/2010. - Thạc sĩ Đặng Thi Thu Hiền, Một số vấn đề cần chú ý khi áp dụng tội giết con mới đẻ trong bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề 07/2010; - Đặng Thị Hồng Thắm, Tội giết con mới đẻ trong Bộ luật Hình sự Việt Nam: Khóa luật tốt nghiệp, trường Đại học Luật Hà Nội, 2011. Vì vậy trong nội dung nghiên cứu luận văn tốt nghiệp người nghiên cứu chọn đề tài “Tội giết con mới đẻ trong Luật hình sự Việt Nam”, trên cơ sở kế thừa những nền tảng lý luận và pháp lý đã có người nghiên cứu đi vào phân tích sâu sắc hơn, rõ hơn về các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội giết con mới đẻ, đi sâu vào nghiên cứu thực trạng diễn biến tội giết con mới đẻ trên địa bàn cả nước giai đoạn 2010 đến 2014 trên địa bàn cả nước. Từ những thực trạng tình hình tội phạm tiếp tục đi vào phân loại, nhận xét đánh giá về những nguyên nhân tội phạm, về độ tuổi phạm tội, thành phần phạm tội... Đồng thời từ thực tiễn xét xử người nghiên cứu đưa ra những bất cập của quy định pháp luật hiện hành, những tồn tại khó khăn trong quá trình thực thi pháp luật hình sự và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả xử lý tội giết con mới đẻ trong tình hình mới.
  • 11. 4 3. Mục đích, nhiệm vụ 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu trên cơ sở các quy định của pháp luật về tội giết con mới đẻ, cũng như việc áp dụng các quy định của loại tội này trong thực tiễn, từ đó cho thấy những tồn tại, hạn chế khi áp dụng. Từ những cơ sở này người nghiên cứu đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả xử lý tội giết con mới đẻ, góp phần nâng cao các biện pháp phòng chống tội phạm. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, trong quá trình nghiên cứu đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Nghiên cứu các quy định cụ thể của pháp luật Hình sự Việt Nam hiện nay về tội giết con mới đẻ. - Nghiên cứu, phân tích thực tiễn tình hình tội giết con mới đẻ, đồng thời đưa ra những vướng mắc, khó khăn trong việc áp dụng pháp luật Hình sự hiện hành đang gặp phải. - Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về tội giết con mới đẻ, đưa ra những biện pháp nhằm đấu tranh phòng chống loại tội phạm và nâng cao hiệu quả xử lý tội giết con mới đẻ. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Luận văn triển khai nghiên cứu đối tượng là hành vi phạm tội và người phạm tội giết con mới đẻ. - Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh chế định tội phạm giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu, đánh giá tình hình thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân các cấp trên địa bàn cả nước, đưa ra được những nguyên nhân, tồn tại, hạn chế.
  • 12. 5 - Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn xét xử tội giết con mới đẻ trên địa bàn cả nước trong thời gian năm năm (từ năm 2010 đến năm 2014). 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Luận văn sử dụng lý luận, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về xây dựng Nhà nước và pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm; quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh chống tội phạm xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của con người nói chung và tội giết con mới đẻ nói riêng. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp… Từ đó tìm mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn đã phù hợp hay chưa, xem xét nội dung quy định của pháp luật khi áp dụng trong thực tiễn đời sống xã hội. 6. Những điểm mới của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống và tương đối toàn diện về tội giết con mới đẻ. Là đề tài chuyên khảo khoa học pháp lý với hướng nghiên cứu mới, chuyên sâu hơn, làm rõ các vấn đề về cấu thành tội phạm, tội danh, hình phạt, đồng phạm, các giai đoạn thực hiện tội phạm... Góp phần làm rõ những quy định của pháp luật về tội giết con mới đẻ, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật, tình hình tội phạm từ đó phát hiện những tồn tại vướng mắc và đề xuất được những biện pháp khắc phục những khúc mắc tồn tại đó. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về tội giết con mới đẻ Chương 2: Tội giết con mới đẻ theo Bộ luật hình sự năm 1999 Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với tội giết con mới đẻ trên địa bàn cả nước và những kiến nghị hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội giết con mới đẻ.
  • 13. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc quy định tội giết con mới đẻ 1.1.1. Vài nét về các tội xâm phạm tính mạng trong Luật hình sự Việt Nam Con người được coi là vốn quí của xã hội, là đối tượng hàng đầu được luật hình sự nói riêng cũng như pháp luật nói chung bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự và tự do của họ, vì đó là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đối đối với con người. Điều 19 Hiến pháp 2013 của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”. Do đó, khi có bất kỳ hành vi nào xâm phạm đến các quyền con người nói chung, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm nói riêng đều bị xử lý rất nghiêm khắc. BLHS Việt Nam năm 1999, sửa đổi năm 2009 đã dành một chương riêng quy định trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Đây được coi là một trong những chế định quan trọng nhất của bộ luật hình sự Việt Nam, trực tiếp bảo vệ con người với tư cách là chủ thể của các mối quan hệ xã hội. Khái niệm: Các tội xâm phạm tính mạng của con người là những hành vi (hành động hoặc không hành động), có lỗi (cố ý hoặc vô ý) xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng của người khác. Đặc điểm của nhóm các tội xâm phạm tính mạng của con người: Khách thể của nhóm tội này là một trong những khách thể quan trọng nhất trong số các nhóm khách thể được Luật hình sự bảo vệ. Đó là quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng.
  • 14. 7 Đối tượng của nhóm tội này là những chủ thể có quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng. Đó là những người đang sống, đang tồn tại độc lập trong xã hội với tư cách là một con người, một thực thể tự nhiên và xã hội. Như vậy, bào thai và xác chết không phải đối tượng của những hành vi phạm tội thuộc nhóm tội này. Mặt khách quan: Hành vi khách quan của các tội xâm phạm tính mạng tuy khác nhau ở hình thức thể hiện cụ thể, nhưng có cùng tính chất là đều có thể trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra thiệt hại về tính mạng. Trong những hành vi phạm tội của nhóm tội phạm này có những hành vi có thể thực hiện được bằng cả hai hình thức hành động và không hành động, có những hành vi chỉ có thể thực hiện được bằng hình thức hành động và có những hành vi chỉ có thể thực hiện được bằng hình thức không hành động. Đối với tội giết con mới đẻ được quy định tại Điều 94 thì loại tội phạm này có những hành vi có thể thực hiện cả bằng hình thức hành động và không hành động. Hậu quả mà những hành vi nói trên có thể trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra thiệt hại đến quyền được sống của con người, thể hiện dưới dạng thiệt hại về vật chất là chết người. Tuy nhiên, dấu hiệu hậu quả chết người chỉ là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm một số tội. Ở các cấu thành tội phạm còn lại, hậu quả chết người không phải là dấu hiệu định tội. Chủ thể: Chủ thể của hầu hết các tội xâm phạm tính mạng là chủ thể thường. Những người có năng lực trách nhiệm hình sự đều có khả năng để trở thành chủ thể của nhiều tội thuộc nhóm tội phạm này. Mặt chủ quan: Lỗi của người phạm tội có thể là lỗi cố ý hoặc vô ý hoặc có thể cả lỗi cố ý hay vô ý. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của tội giết con mới đẻ Khái niệm: Tội giết con mới đẻ là trường hợp người mẹ nào do ảnh
  • 15. 8 hưởng nặng nề của tư tưởng phong kiến lạc hậu hoặc do hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ đó dẫn đến hậu quả là đứa trẻ chết. Đặc điểm của tội giết con mới đẻ: Khách thể: Hành vi giết con mới đẻ xâm phạm tính mạng của người khác một cách trái pháp luật, đặc biệt khi người đó lại có mối quan hệ ruột thịt, huyết thống với người phạm tội, cụ thể ở đây là tính mạng của đứa trẻ mới sinh ra, là con ruột của người phạm tội. Nạn nhân phải là con mới đẻ - tức là con mới sinh trong vòng bảy ngày tuổi và đó phải là con do chính người phạm tội (người mẹ) sinh ra. Mặt khách quan: Hành vi giết con mới đẻ thường được thể hiện dưới dạng không hành động như: bỏ con đói cho đến chết, không cho trẻ ăn, uống, không cho bú, không chăm sóc dẫn đến hậu quả là đứa trẻ chết; hay cũng có thể được thể hiện dưới dạng hành động như người mẹ có những hành vi làm cho trẻ ngạt thở (bóp mũi, úp gối lên mặt con, vứt bỏ ngoài đường…. dẫn đến hậu quả là đứa trẻ bị chết. Việc giết con không phải do một ác ý nào mà do hoàn cảnh bất đắc dĩ hoặc do ảnh hưởng nặng nề của tư tư tưởng lạc hậu (như người phụ nữ không có chồng mà sinh con hoang, do sợ dư luận mà phải giết con); hoặc do hoàn cảnh khách quan đặc biệt (như đứa trẻ mới sinh có khuyết tật…). Nếu giết con mình vì một lý do nào khác không phải do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hay hoàn cảnh đặc biệt thì không được xác định là tội phạm này mà phải định tội giết người. Mặt chủ quan: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý. Khi thực hiện hành vi phạm tội, người mẹ đang trong tình trạng tâm – sinh lý không bình thường, khả năng nhận thức và kiềm chế đều bị hạn chế. Chủ thể: Tội phạm có chủ thể đặc biệt, đó là những người mẹ đang
  • 16. 9 trong tình trạng mới sinh con trong vòng 7 ngày tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự. Do đây là tôi phạm ít nghiêm trọng nên người mẹ là chủ thể phải đạt từ đủ 16 tuổi trở lên. Vì vậy, đối với những bà mẹ bất đắc dĩ chưa đủ 16 tuổi mà giết con mới sinh của mình sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự. Hình phạt: Người mẹ giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ của mình dẫn đến đứa bé chết có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Cùng là tội pham xâm hại tới khách thể quan trọng được pháp luật hình sự bảo vệ là quyền sống của con người, đặc biệt đối tượng bị xâm hại là những đứa trẻ non nớt không có khả năng tự vệ nhưng lại được áp dụng hình phạt nhẹ hơ nhiều so với hành vi giết người quy định tại Điều 93. Xuất phát từ bản chất nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa, Luật hình sự quy định áp dụng hình phạt nhẹ. Bởi người phạm tội trong trường hợp này là người mẹ trực tiếp sinh ra nạn nhân với tình mẫu tưt, họ phải giết con mình do ảnh hưởng tư tưởng lạc hậu, do tàn dư của xã hội cũ, những tệ nạn, hủ tục của xã họi hay những hoàn cảnh khách quan đặc biệt đưa người phụ nữ vào sự bế tắc… nhìn ở một góc độ khác thì họ nạn nhân của những tư tưởng lạc hậu, hoàn cảnh éo le trong cuộc sống. Bên cạnh đó người phụ nữ khi mang thai và sinh nở có nhiều diễn biến phức tạp về tâm lý và thể chất, sự kiềm chế hành vi cũng như nhận thức bị hạn chế. 1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định tội giết con mới đẻ 1.1.3.1. Ý nghĩa về mặt lý luận Giết con mới đẻ là tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm tính mạng sức khỏe, danh dự nhân phẩm của con người. Việc quy định tội giết con mới đẻ vào nhóm tội này là dựa trên những cơ sở lý luận chặt chẽ và có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Việc quy định tội giết con mới đẻ về mặt lý luận đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền trẻ em nói riêng và con người nói chung. Quyền của trẻ em đã được ghi nhận chi tiết tại các văn kiện quốc tế.
  • 17. 10 Xét ở góc độ luật quốc tế, các quyền và tự do cá nhân đầu đầu tiên được ghi nhận trong một văn kiện quốc tế đó là Tuyên ngôn Quốc tế về nhân quyền, 1948 (UDHR) và Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị 1966 (ICCPR) đã đặt nền móng cho việc tạo dựng một hệ thống tương đối đầy đủ các văn kiện quốc tế về quyền dân sự và chính trị của con người, một cơ chế quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy các quyền dân sự và chính trị của con người, biến các quyền dân sự và chính trị của con người trở thành một bộ phận quan trọng cấu tạo thành hệ thống các quyền con người. Việt Nam gia nhập Công ước ngày 24/09/1984. Tính tới thời điểm hiện tại, Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị của con người năm 1966 là văn bản pháp lý phổ cập, quy định đầy đủ và toàn diện nhất các quyền dân sự và chính trị của con người nói chung, đặc biệt quyền được sống của con người [42, tr.28]. Quyền được sống được đề cập đầu tiên trong Điều 3 UDHR và tiếp tục được ghi nhận tại Điều 6 ICCPR: “Mọi người đều có quyền cố hữu là được sống. Quyền này phải được pháp luật bảo vệ. Không ai có thể bị tước mạng sống một cách tùy tiện” [10]. Ngoài những khía cạnh đã nêu cụ thể ở Điều 6 ICCPR, trong Bình luận chung số 06 thông qua tại phiên họp lần thứ 16 năm 1982, UNHRC đã giải thích thêm một số khía cạnh liên quan đến ý nghĩa và nội dung của quyền sống như: (i) quyền sống là một quyền cơ bản của con người mà trong bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia, cũng không thể vi phạm; (ii) quyền sống bao gồm cả những khía cạnh nhằm đảm bảo sự tồn tại của con người; (iii) các quốc gia có nghĩa vụ cấm các hoạt động tuyên truyền chiến tranh, kích động hận thù, bạo lực, chống chiến tranh và các tội phạm; (iv) quốc gia thành viên tiến hành các biện pháp phòng, chống và trừng trị việc tùy tiện tước đoạt tính mạng con người do bất kỳ chủ thể nào gây ra; (v) các quốc gia thành viên hạn chế sử dụng hình phạt tử hình [44, tr171-196]. Cũng liên quan đến quyền sống, UNHRC còn thông qua Bình luận số 14 tái
  • 18. 11 khẳng định tầm quan trọng của quyền sống, coi đó là cơ sở cho tất cả các quyền con người và yêu cầu thực hiện quyền sống trong mọi hoàn cảnh. Quyền sống của con người nói chung và của trẻ em được coi là quyền tối cao của con người không được phép bỏ qua kể cả trong trường hợp khẩn cấp. Công ước quốc tế về quyền trẻ em (CRC) là văn bản quốc tế đầu tiên đề cập đến quyền trẻ em theo hướng tiến bộ, bình đẳng, toàn diện và mang tính pháp lý cao. Công ước được Đại Hội đồng Liên hợp quốc chính thức thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1989. Tính đến năm 2002 đã có 191 nước ký và phê chuẩn, tham gia. Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới và là nước đầu tiên ở châu Á đã ký cam kết thực hiện. Công ước gồm 54 điều khoản trong đó có tới 41 điều khoản để ra các quyền của tất cả trẻ em và quyền được sống là một trong bốn nhóm quyền quan trọng được quy định tại công ước [42, tr.27]. Quyền sống của trẻ em được ghi nhận tại Điều 6 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em theo đó: “Các quốc gia thành viên công nhận rằng, mọi trẻ em đều có quyền cố hữu được sống; các quốc gia thành viên phải bảo đảm đến mức tối đa có thể được sự sống còn và phát triển của trẻ em” [10, Điều 6]. Điều này được công ước khẳng định bằng việc quy định công nhận quyền của mọi trẻ em tại Điều 24. Theo nội dung bình luận số 17 được thông qua tại phiên họp thứ 35 năm 1989 thì: Điều 24 của Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị đã công nhận quyền của mọi trẻ em, không có bất cứ sự phân biệt nào, gia đình, xã hội và Chính phủ phải bảo vệ chúng với tư cách một người chưa thành niên. Các quốc gia thành viên phải áp dụng các phương thức đặc biệt để bảo vệ trẻ em, đồng thời có nghĩa vụ thực hiện theo Điều 2 công ước quốc tế về quyền dân sự chính trị là đảm bảo mọi người đều được hưởng những quyền theo quy định của công ước. Điều 24 không phải là điều khoản duy nhất của công ước công nhận quyền trẻ em, mà như mọi cá nhân, trẻ em có quyền hưởng tất cả các quyền công dân được đề ra trong Công ước.
  • 19. 12 Một vài điều khoản của Công ước chỉ ra cho các quốc gia các biện pháp thực hiện với quan điểm tạo điều kiện cho người chưa thành niên được bảo vệ tốt hơn người trưởng thành [44, tr.171-196]. Vì vậy, liên quan đến quyền được sống, hình phạt tử hình không thể áp dụng cho tội phạm dưới 18 tuổi. Tuy nhiên trong hầu hết các trường hợp các biện pháp tiến hành không được chỉ ra mà do từng nước tùy thuộc vào tình hình thực tế của mỗi nước đưa ra những biện pháp như các biện pháp kinh tế và xã hội cần làm giảm bớt tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, và diệt tận gốc vấn đề thiếu dinh dưỡng ở trẻ em và bảo vệ trẻ em khỏi những hành vi phạm tội, sự đối xử độc ác vô nhân đạo… Ngoài ra trong nội dung bình luận chung số 17 khẳng định các quốc gia thành viên có quyền thực hiện các biện pháp bảo vệ đặc biệt thuộc về mỗi đứa trẻ bởi vì chúng còn quá nhỏ [44, tr 171-196]. Với nhận thức đúng ý nghĩa xã hội, vị trí và vai trò của các Điều ước quốc tế về quyền con người Việt Nam đã nhanh chóng ký kết và gia nhập nhiều Điều ước từ những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XIX. Chúng ta đã từng bước sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật, khắc phục những khó khăn tồn tại để từng bước xây dựng, mở rộng, phát triển tới hoàn thiện pháp luật về quyền con người nói chung đặc biệt liên quan tới trẻ em. Ngay sau khi giành được độc lập năm 1945, quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau đó tiếp tục được khẳng định, mở rộng trong các Hiến pháp 1959, 1980, 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001) và 2013, cũng như các văn pháp pháp luật quốc gia khác. Sau khi Việt Nam trở thành thành viên của Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 thì việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền này càng được đẩy mạnh hơn thông qua các hoạt động lập pháp. Tham gia vào các Điều ước quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực dân sự và chính trị, Việt Nam ý thức được sâu sắc đó là cam kết chính trị, pháp lý của Việt
  • 20. 13 Nam trong sự nghiệp bảo vệ nhân quyền trước cộng đồng thế giới. Chuyển hóa các quy định của Điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên cũng là một nghĩa vụ bắt buộc. Các quy định của điều ước quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực dân sự chính trị được chuyển hóa vào pháp luật Việt Nam thông qua việc xây dựng xác văn bản quy phạm pháp luật mới hoặc sửa đổi bổ sung các văn bản hiện hành. Tội giết con mới đẻ được quy định trên tinh thần nội luật hóa các điều ước mà Việt Nam là thành viên. Tội giết con mới đẻ xâm phạm trực tiếp tới đối tượng là mạng sống của trẻ em nói riêng, xâm phạm tới tính mạng và quyền sống của con người nói chung. Con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được pháp luật hình sự nói riêng cũng như pháp luật nói chung bảo vệ. Trong các quyền con người, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm có vị trí đặc biệt quan trọng trong chính sách, pháp luật của Nhà nước ta. Trên cơ sở quy định tại Điều 71 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) được nhắc lại khoản 1 Điều 20 Hiến pháp Việt Nam 2013 quy đinh: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất cứ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm…” [27, Điều 20, Khoản 1]. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự và tự do của họ vì đó là những điều có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với con người. Do đó, khi có bất kỳ hành vi nào xâm phạm đến các quyền con người nói chung, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm nói riêng đều bị xử lý rất nghiêm khắc. BLHS Việt Nam năm 1999, sửa đổi năm 2009 đã dành một chương riêng quy định trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Đây được coi là một trong những chế định quan trọng nhất của bộ luật hình sự Việt Nam, trực tiếp bảo vệ con người với tư cách là chủ thể của các mối quan hệ xã hội.
  • 21. 14 Như vậy tội giết con mới đẻ được quy định tại điều 94 của BLHS năm 1999 đã cụ thể hóa tinh thần bảo đảm quyền được sống của con người theo quy định điều 71 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung 2001) của đạo luật gốc – Hiến pháp 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là một điều trong một chương của bộ luật hình sự năm 1999. Ngoài ra ở một số văn bản pháp luật khác có quy định về việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em như Luật hôn nhân gia đình, luật bảo vệ chăm sóc trẻ em… Vì vậy vậy việc quy định tội giết con mới đẻ mang lại ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận, đã đặt nên tảng cho việc bảo đảm quyền trẻ em, cụ thể ở đây là quyền bảo đảm về tính mạng nói riêng, và bảo đảm việc thực hiện quyền con người nói chung, góp phần thực hiện tốt nghĩa vụ thành viên với vai trò Việt Nam là quốc gia thành viên của các Điều ước quốc tế về quyền trẻ em và quyền con người. 1.1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn của việc quy định tội giết con mới đẻ Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu của Đảng và Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, quyền làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, duy trì trật tự, an toàn xã hội, đồng thời, pháp luật hình sự còn góp phần chống lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục mọi người ý thức chấp hành và tuân thủ pháp luật. Trải qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và quan trọng trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội cùng với sự phát triển không ngừng về kinh tế, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đời sống của nhân dân ngày một được nâng cao do sự tác động tích cực của công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và chính sách mở cửa thị trường, hội nhập toàn cầu hóa. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt đươc, nền kinh tế thị trường cũng có những mặt trái của nó, có ảnh hưởng tiêu cực
  • 22. 15 làm nảy sinh nhiều vấn đề trong đó có các vấn đề về dân số, việc làm, tệ nạn xã hội, tình hình tội phạm ngày càng tăng. Trong những năm gần đây do nhiều nguyên nhân khác nhau tình trạng giết hoặc vứt bỏ trẻ sơ sinh mà người thực hiện hành vi này là cha mẹ hoặc người thân của trẻ sơ sinh đã diễn ra ngày càng nhiều, gây dư luận bất bình trong xã hội. Từ năm 2012 trở lại đây trên cả nước liên tục diễn ra những vụ giết con mới đẻ gây phẫn nộn dư luận. Từ những vụ việc giết con mới đẻ được báo đài, phương tiện thông tin đại chúng đưa tin trong thời gian qua có thể thấy nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hành vi giết con mới đẻ đó là: người mẹ là trẻ vị thành niên, chưa có nhận thức đầy đủ về sức khỏe giới tính ảnh hưởng bởi lối sống tây hóa, quan hệ tình dục trước hôn nhân dẫn tới hậu quả có thai ngoài ý muốn, lo sợ xã hội, gia đình, bạn bè lên án về hành vi có con ngoài giá thú mà sau khi sinh đã giết đứa con do chính mình sinh ra; Do ảnh hưởng nặng nề tư tưởng lạc hậu hoặc hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, điều kiện kinh tế khó khăn không có khả năng nuôi con nghĩ quẩn giết con ngay sau khi sinh. Theo thống kê của tòa án nhân dân tối cao trên địa bàn cả nước trong vòng 05 năm từ năm 2010 đến năm 2014 trên địa bàn cả nước đã thụ lý 15 vụ án về tội giết con mới đẻ với 22 bị cáo. Tổng số vụ án tội giết con mới đẻ trên địa bàn cả nước đã được đưa ra xét xử 11 vụ với 13 bị cáo. Qua các năm các vụ án có chiều hướng gia tăng về cả số lượng vụ án và số lượng vị cáo [37]. Như vậy chúng ta có thể thấy mật độ xảy ra các vụ việc vứt bỏ, giết con mới đẻ xảy ra có xu hướng gia tăng. Những hành vi trên không chỉ vi phạm về đạo đức xã hội mà còn trực tiếp vi phạm vấn đề pháp luật quốc gia cũng như quốc tế về bảo vệ quyền con người nói chung và các quy định về bảo vệ quyền trẻ em nói riêng, trực tiếp xâm phạm đến quyền sống của trẻ em. Tuy vậy, việc nhận thức và xử lý đối với các hành vi giết con mới đẻ đặc biệt là hành vi vứt bỏ trẻ sơ sinh chưa thực sự được triệt để, thậm chí còn chưa đúng
  • 23. 16 pháp luật, dẫn tới tình trạng coi thường pháp luật. Điều này làm cho cho tình trạng giết hoặc vứt bỏ trẻ sơ sinh càng tăng, số lượng các vụ việc liên quan đến trẻ sơ sinh ngày càng nhiều và đa dạng hơn về cách thức thực hiện. Vì vậy việc quy định tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam là điều vô cùng cần thiết đối với tình hình thực tế hiện nay, giải quyết được yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong tình hình mới. 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp của Việt Nam về tội giết con mới đẻ 1.2.1. Quy định về tội giết con mới đẻ của pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1945 đến khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, nhân dân thực sự làm chủ đất nước. Cuộc chiến tranh kéo dài, điều kiên đất nước còn nhiều khó khăn nên việc pháp điển hóa BLHS chưa thể thực hiện được. Tuy vậy, Nhà nước ta đã tập trung ban hành các văn bản pháp luật để thực hiện công cuộc quản lý, xây dựng đất nước. Vào thời điểm này hàng loạt Sắc lệnh đã được ra đời là cơ sở pháp lý cho công tác bảo vệ trật tự an toàn xã hội trong giai đoạn hiện tại, đồng thời Chính phủ cũng ban hành các Sắc lệnh quy định việc trừng trị những hành động xâm phạm đến nền kinh tế, tài chính, trật tự trị an xã hội như: Sắc lệnh thiết lập Tòa án quân sự ngày 14/12/1946 để xét xử tất cả những người nào thực hiện một việc gì đó gây phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Sắc lệnh số 27/SL ngày 28/2/1946, Sắc lệnh số 223/SL ngày 27/11/1946, Sắc lệnh số 168/SL ngày 14/04/1948 nhằm tăng cường bảo vệ trật tự an toàn xã hội trong giai đoạn hiện tại. Ngoài ra, do còn có những hạn chế về mặt lập pháp nên Chính phủ còn cho phép áp dụng một số điều khoản của pháp luật hình sự cũ nhằm duy trì ổn định trật tự xã hội trong lúc chưa xây dựng kịp thời các văn bản Luật
  • 24. 17 mới. Tuy nhiên, việc áp dụng một số điều khoản trên cần có những điều kiện là không được trái với nguyên tắc độc lập của Việt Nam và chính thể cộng hòa, khi vận dụng vào những vụ án hình sự người thẩm phán phải xuất phát từ ý thức cách mạng [30, tr.5]. Năm 1954 với chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa đồng thời tiếp tục đấu tranh chống đế quốc Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở Miền Nam tiến tới thống nhất đất nước, thời kỳ này tình hình xã hội có nhiều thay đổi lớn, các văn bản pháp luật về hình sự được Nhà nước ban hành đã tương đối nhiều, chính sách hình sự đối với một số loại tội phạm rõ ràng, cụ thể hơn. Tuy nhiên hành vi giết con mới đẻ chưa được quy định thành tội danh độc lập, thậm chí chưa được đề cập trong các quy định của pháp luật. Tội phạm có liên quan được đề cập đến là tội giết người với một loạt các văn bản quy định và hướng dẫn như: Điểm 3, Thông tư 442/Ttg ngày 19/01/1955 của Thủ tướng Chính phủ về việc trừng trị một số tội phạm quy định: “Cố ý giết người phạt tù từ 5 năm đến 20 năm, nếu có trường hợp nhẹ có thể hạ xuống một năm, giết người có dự mưu có thể phạt đến tử hình”. Như vậy sau 10 năm giành được độc lập, lần đầu tiên tội giết người được quy định một cách cụ thể trong các văn bản pháp luật nước ta. Kế tiếp là Thông tư số 556 ngày 24/12/1958 của Thủ tướng Chính phủ nêu một cách toàn diện chính sách truy tố và xét xử với tội phạm hình sự trong đó có tội giết người nhưng không quy định về tội giết con mới đẻ. Thông báo về Hội nghị Ban bí thư Trung ương Đảng ngày 25/03/1963 về phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 1963 của ngành Tòa án nhân dân ở Điểm 3 nhấn mạnh: “Đấu tranh chống tệ nạn xã hội, đặc biệt phải nghiệm trị tội giết người…” [29, tr.5]. Trong thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội giai đoạn năm 1960- 1965, ở miền Bắc đã bắt đầu xuất hiện hành vi giết trẻ em mới đẻ. Hầu hết
  • 25. 18 những trường hợp này là người mẹ đẻ con hoang vì sợ dư luận xã hội chê cười hoặc vì gặp hoàn cảnh khó khăn về nhiều mặt nên đã bí mật giết con mình đi, cá biệt có một số vụ giết trẻ em mới đẻ vì mê tín. Năm 1963 ngành Tòa án nhân dân đã tổng kết và đưa ra Chỉ thị số 01/NCCS ngày 14/03/1963 về đường lối xử lý tội gọi là tội giết trẻ sơ sinh [1, tr.9]. Đây là lần đầu tiên tội danh giết trẻ sơ sinh được xác định. Chỉ thị quy định tội này cần được hiểu là việc người mẹ đã bất đắc dĩ phải giết đứa con đẻ hoang của mình vì sợ dư luận chê cười hoặc gặp phải hoàn cảnh khó khăn, khốn quẫn về mặt kinh tế và tình cảm. Đứa trẻ mới sinh được một thời gian ngắn (thông thường từ một tuần trở lại, cũng có thể kéo dài hơn không quá một tháng). Năm 1960, Tòa án nhân dân tối cao tổng kết thực tiễn xét xử và ban hành Chỉ thị 1025 ngày 15/06/1960 hướng dẫn đường lối xét xử, trong đó xác định hoàn cảnh giết trẻ sơ sinh có thể do mê tín hoặc vì sợ lây bệnh để khỏi phải nuôi trong hoàn cảnh khốn cùng về kinh tế. Đồng thời ngày 10/08/1970 Tòa án nhân dân tối cao cũng có bản chuyên đề tổng kết thực hiện xét xử loại tội giết người kèm theo Công văn số 452/HS2 cũng xác nhận giết trẻ em mới đẻ là phạm tối giết người có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt đồng thời cụ thể hóa các dấu hiệu của trường hợp phạm tội này [1, tr.10]. Trong một thời gian dài, việc xét xử các vụ án giết người trong đó có hành vi giết trẻ sơ sinh chủ yếu dựa vào Thông tư 442/TTg ngày 19/01/1955 củ Thủ tướng chính phủ, Sắc luật 03 – SL/76 ngày 15/03/1976 của Hội đồng chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam và một số văn bản hướng dẫn khác của Tòa án nhân dân tối cao [29, tr.6]. Như vậy, pháp luật thời kỳ này đã xác định được một số dấu hiệu đặc trưng của trường hợp phạm tội giết con mới đẻ với đường lối xử lý giảm nhẹ hơn so với tội giết người. Tuy nhiên, tất cả các văn bản pháp luật hình sự trên đều là những văn bản đơn hành để tổng kết, để hướng dẫn nên có hiệu lực
  • 26. 19 thấp (như Sắc luật, Sắc lệnh, Thông tư của Chính phủ…), thiếu sự đồng bộ, thiếu thống nhất, nhiều lỗ hổng dẫn đến tình trạng tùy tiện áp dụng pháp luật, xử nặng, xử nhẹ, thậm chí xử sai, làm oan người vô tội. Sự cần thiết của việc ban hành Bộ luật hình sự là một tất yếu khách quan, xuất phát từ nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới vào thời điểm này [1, tr.10]. 1.2.2. Quy định về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn năm 1985 đến khi ban hành Bộ luật hình sự 1999 Trước đây, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau mà Nhà nước ta chưa có điều kiện để xây dựng BLHS- văn bản quy phạm pháp luật quy định toàn diện và thống nhất những vấn đề về tội phạm và quyết định hình phạt, cũng như những vấn đề khác liên quan đến chính sách hình sự. Chính vì vậy, khi BLHS 1985 ra đời đã trở thành công cụ sắc bén của Nhà nước ta để bảo vệ những thành quả của cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giáo dục mọi người dân ý thức tôn trọng và tuân theo pháp luật đấu tranh chống – phòng ngừa tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Hành vi giết con mới đẻ đã được đề cập trong BLHS năm 1985, đây một bước tiến lớn trong công tác xây dựng pháp luật của Nhà nước, là cơ sở để các cơ quan hành pháp tiến hành đấu tranh với loại tội phạm này. Tuy nhiên, tội giết con mới đẻ không được quy định là tội phạm độc lập mà chỉ được coi là một trường hợp giết người được giảm nhẹ đặc biệt. Bộ luật hình sự 1985 quy định: Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ con mới đẻ dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết thì bị phạt cảnh cáo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm [25, Điều 101, Khoản 4].
  • 27. 20 Những dấu hiệu xác định tình tiết giảm nhẹ đặc biệt được mô tả cụ thể trong quy định của Bộ luật hình sự như do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu, trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn… [25, Điều 101, Khoản 4] thực chất là những tổng kết của thực tiễn xét xử trước đây. Nghị quyết 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán hướng dẫn phần các tội phạm của Bộ luật hình sự 1985 cũng có giải thích, hướng dẫn thêm, quy định hành vi giết con mới đẻ thuộc một số tình tiết định khung hình phạt nhẹ và nêu rõ “Đây là một tội phạm có cấu thành giảm nhẹ đặc biệt, cần được vận dụng một cách thận trọng và chặt chẽ” [19]. Trong giai đoạn này, tội giết con mới đẻ được quy định là chính sách hình sự giảm nhẹ đặc biệt của Nhà nước ta, bởi vậy hình phạt của tội phạm cũng được giảm nhẹ với mức cao nhất của khung hình phạt tương ứng là cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Xét trong tương quan so sánh với khung cơ bản của tội giết người với mức hình phạt tù từ năm năm đến mười lăn năm thì có thể thấy được mức độ hình phạt của tội phạm này đã được giảm nhẹ rất nhiều. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 thì nếu người mẹ nào do ảnh hưởng của tư tưởng lạc hậu, hoặc trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà giết con mới đẻ thì sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, điều này gây tâm lý xấu cũng như dư luận xã hội nặng về đối với người phạm tội. Vì vậy việc tách tội giết con mới đẻ thành một tội riêng biệt, được quy định tại một điều luật riêng biệt, không quy định tội giết con mới đẻ nằm trong điều luật quy định tội giết người là hết sức cần thiết [20, tr.194]. 1.2.3. Quy định về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1999 đến nay Do chuyển biến của tình hình xã hội, xuất phát từ những đòi hỏi cấp thiết của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời kỳ mới, ngày
  • 28. 21 21/12/1999, BLHS năm 1999 được thông qua tại kỳ hợp thứ VI của Quốc hội khóa X. Sự ra đời của BLHS năm 1999 góp phần sửa đổi toàn diện BLHS năm 1985 về kỹ thuật lập pháp lẫn chính sách hình sự. Đặc biệt, BLHS năm 1999 đã tách tội giết con mới đẻ thành một tội danh độc lập, quy định tại Điều 94, phần nào phản ánh rõ hơn tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi giết con mới đẻ. Đồng thời đây chính là sự kế thừa chính sách hình sự đã có từ trước đây, thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc của Đảng, Nhà nước ta. Việc tách tội giết con mới đẻ thành tội danh độc lập trong quy định của Bộ luật hình sự 1999 có ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn. Bởi theo quy định của BLHS năm 1985 thì giết con mới đẻ được coi là một cấu thành giảm nhẹ của tội giết người, nên trong thực tiễn xét xử người phạm tội tuy được hưởng hình phạt giảm nhẹ nhưng vẫn bị định danh là tội giết người. Điều này gây ảnh hưởng tâm lý khá nặng nề cũng như dư luận xã hội đối với người phạm tội. Việc sửa đổi của Bộ luật hình sự 1999 đã thể hiện rõ nét chính sách hình sự của Nhà nước ta ngay ở việc định tội danh, từ đây, người phạm tội giết con mới đẻ sẽ không phải gánh chịu tội danh giết người nữa [29, tr.9]. BLHS năm 1999 quy định tội giết con mới đẻ là trường hợp: Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ đó dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt từ ba tháng đến hai năm [27, Điều 94]. Điều luật trên đã mô tả khá đầy đủ các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội phạm, mức hình phạt cũng được sửa đổi cao hơn so với quy định của BLHS 1985, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật trong thời kỳ mới. Đồng thời, việc quy định cụ thể tội danh trong điều luật còn khẳng định được tính nhân đạo của pháp luật nước ta.
  • 29. 22 Trong lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự gần đây nhất, BLHS năm 1999 được sửa đổi bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 37/2009/QH12 ngày 19 tháng 06 năm 2009 thì tội giết con mới đẻ vẫn được giữ nguyên. Sở dĩ Điều luật quy định tội giết con mới đẻ không có thay đổi gì do vào giai đoạn từ năm 1999 đến năm 2009 tình hình diễn biến tội giết con mới đẻ không nhiều, những quy định của pháp luật về tội giết con mới đẻ vẫn phù hợp với sự phát triển của xã hội thời điểm đó, vẫn đáp ứng được sự răn đe, trừng trị người phạm tội và thể hiện sự khoan hồng của pháp luật Việt Nam. Trong những năm qua, mặc dù BLHS đã phát huy tác dụng tích cực trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần quan trọng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, theo Báo cáo của các cơ quan chức năng, tình hình tội phạm nhìn chung vẫn diễn biến hết sức phức tạp với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Số lượng tội phạm luôn có xu hướng gia tăng, nghiêm trọng hơn cả về quy mô và tính chất [5, tr.3]. Theo Báo cáo của các cơ quan tiến hành tố tụng ở trung ương và một số địa phương cho thấy, một số loại tội phạm có diễn biến khá phức tạp với những phương thức và thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt, cụ thể: Về loại tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Nhóm tội phạm này diễn biến ngày càng phức tạp về số lượng, phương thức, thủ đoạn cũng như tính chất dã man, tàn bạo của hành vi phạm tội. Các hành vi xâm hại trẻ em nó có chiều hướng gia tăng, tội giết con mới đẻ nói riêng diễn ra theo chiều hướng gia tăng với các hình thức thực hiện tội phạm ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn [5, tr.3]. Vấn đề đặt ra ở đây là hiện tại với những quy định pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1999 đến nay có còn phù hợp nữa hay không? Tại sao phải sửa đổi? Sửa đổi bổ sung ở điểm gì? Hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng với tội giết con mới đẻ đã được thực
  • 30. 23 hiện hoàn thành, hậu quả đứa trẻ chết đã xảy ra thì việc phải chịu với mức hình phạt theo như quy định tại Điều 94 BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) không có tính răn đe cao. Có nhiều vụ việc người mẹ cố tình bỏ rơi hoặc giết đứa trẻ nhưng đứa trẻ lại được cứu sống thì người mẹ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, như vậy là quá nhẹ với người mẹ. Vấn đề này đã được các các nhà làm luật đề cập đến trong dự thảo sửa đổi bổ sung bộ luật hình sự năm 2015. Bộ Tư pháp cùng Chính phủ trình dự thảo BLHS (sửa đổi) xin ý kiến toàn dân về việc tăng nặng trách nhiệm hình sự với tội giết con mới đẻ. Cụ thể tại Điều 124, dự thảo sửa đổi bổ sung luật hình sự năm 2015 quy định: “Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ dẫn đến hậu quả đứa trẻ đó chết thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm” [6, Điều 124]. Tuy nhiên có không ít luồng dư luận xung quanh đề nghị này, vấn đề này được lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân đảm bảo đưa ra những quy định hợp lý, hợp tình nhất đồng thời đảm bảo tính răn đe, nghiêm trị cao nhất. Theo truyền thống đạo đức của dân tộc ta, con người luôn là vốn quý, tính mạng con người là thiêng liêng bất khả xâm phạm, không một ai có quyền tước đoạt sinh mạng của người khác trái pháp luật, đặc biệt ở đây lại là một đứa trẻ sơ sinh mới chào đời. Bởi vậy, việc quy định tội phạm này trong BLHS Việt Nam thành một tội phạm độc lập là hết sức cần thiết, nhằm bảo đảm nhận thức đầy đủ bản chất pháp lý của tội phạm và cụ thể hóa đường lối xử lý, chính sách hình sự với người phạm tội. 1.3. Kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới về tội giết con mới đẻ Hành vi giết con mới đẻ không chỉ là hiện tượng, là tội phạm được quy định trong pháp luật hình sự của Việt Nam mà được pháp luật hình sự của một số như: Liên Bang Nga, Thụy Điển, Canada… cũng quy định về loại tội phạm này và cách thức xử lý trong pháp luật hình sự của mỗi nước.
  • 31. 24 1.3.1. Quy định về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Thụy Điển Trong BLHS của Thụy Điển có 38 chương bao gồm 379 điều. Tội giết con mới đẻ được quốc gia Thụy Điển quy định tại điều 3 chương 4 thuộc nhóm các tội xâm phạm tính mạng và sức khỏe của con người. Điều 3, chương 4 Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định: “Người mẹ nào do rối loạn tâm thần hoặc quá đau khổ mà giết con mới đẻ thì bị phạt tù đến sáu năm về tội giết con mới đẻ” [38, Điều 3]. Khách thể mà người phạm tội xâm phạm ở đây được pháp luật đề cập đến đó là quyền sống, là tính mạng của đứa trẻ. Chủ thể thực hiện hành vi phạm tội là người mẹ đẻ - người trực tiếp sinh ra đứa trẻ đó thực hiện hành vi nhằm tước đoạt mạng sống của đứa trẻ, hậu quả dẫn đến đứa trẻ chết người mẹ phải chịu trách nhiệm hình sự. Ngay trong quy định của điều luật chúng ta có thể thấy sự giống nhau của BLHS Thụy Điển và BLHS Việt Nam đó là dấu hiệu nguyên nhân phạm tội là dấu hiệu quan trọng, được BLHS Thụy Điển quy định là yếu tố cấu thành tội phạm. Dấu hiệu nguyên nhân phạm tội của người mẹ ở đây được nhấn mạnh đó là “do rối loạn tâm thần hoặc quá đau khổ” [38, Điều 3] dẫn đến hành vi giết con mới đẻ. Đối tượng tác động của tội giết con mới đẻ theo quy định của pháp luật Thụy Điển và pháp luật Việt Nam đều là con mới đẻ. Mặt khác chúng ta có thể nhận thấy hình phạt đối với tội giết con mới đẻ của Thụy Điển nặng hơn so với hình phạt của BLHS Việt Nam. Trong khi BLHS Việt Nam quy định hình phạt đối với tội giết con mới đẻ là “cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm” [27, Điều 94] thì BLHS Thụy Điển quy định bị “phạt tù đến sáu năm” [38, Điều 3]. Có thể thấy mức hình phạt của Thụy Điển cao hơn, có sức răn đe trừng trị cao hơn Việt Nam.
  • 32. 25 1.3.2. Quy định về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Liên Bang Nga BLHS Liên bang Nga được Đuma quốc gia thông qua ngày 24/05/1996 và có hiệu lực từ ngày 01/07/1997. Bộ luật đã hai lần được sửa đổi và bổ sung bằng Luật số 77 ngày 22/08/1998 và Luật số 92 ngày 25/06/1998. Bộ luật hiện tại có 34 chương cồm 361 Điều. Tội giết con mới đẻ được BLHS Liên bang Nga quy định tại điều 106 thuộc chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. BLHS Liên bang Nga quy định: “Người mẹ giết con mới đẻ trong hoặc ngay sau khi sinh, cũng như người mẹ giết con mới đẻ trong tình trạng thần kinh bị ức chế hoặc rối loạn tâm thần mà không làm mất năng lực trách nhiệm hình sự thì bị phạt tù đến năm năm” [40, Điều 106]. Quy định của BLHS Liên bang Nga khách thể bị người phạm tội xâm phạm ở đây cũng là quyền sống, tính mạng của đứa trẻ. Chủ thể thực hiện tội giết con mới đẻ cũng là người mẹ - người trực tiếp sinh ra đứa trẻ. Cũng giống như theo quy định của BLHS Việt Nam, BLHS Liên Bang Nga cũng nhấn mạnh nguyên nhân “người mẹ giết con mới đẻ trong tình trạng thần kinh bị ức chế hoặc rối loạn tâm thần” [40, Điều 106]. Tuy nhiên khác với quy định của BLHS Việt Nam và BLHS của Thụy Điển, BLHS Liên Bang Nga đưa cả điều kiện người mẹ không bị mất năng lực trách nhiệm hình sự vào điều luật. Trong khi đó BLHS Việt Nam và BLHS của Thụy Điển không đưa quy định điều kiện người mẹ không bị mất năng lực trách nhiệm hình sự trong điều luật mà vấn đề trách nhiệm hình sự đã được hiểu là đã là chủ thể của tội phạm thì phải thỏa mãn đầy đủ điều kiện về tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự. Đối tượng tác động của tội giết con mới đẻ theo quy định của BLHS Liên Bang Nga không chỉ là con mới đẻ sau khi sinh mà cả con mới đẻ đang trong khi sinh. Và mức hình phạt đối với tội phạm hoàn thành theo quy định của BLHS Liên bang Nga là năm năm tù, hình phạt cao hơn hẳn so với quy định hình phạt của Việt Nam hiện nay.
  • 33. 26 1.3.3. Quy định của về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Canada Tội giết con mới đẻ được quy định tại Điều 3, chương 3 các tội xâm phạm tính mạng và sức khỏe của con người, phần II các tội phạm. BLHS Canada quy định: “Người mẹ nào giết con mới đẻ hoặc vào thời điểm sinh con trong trạng thái bị rối loạn tâm thần hoặc đau khổ trầm trọng thì bị phạt tù đến sáu năm về tội giết trẻ sơ sinh” [39, Điều 3]. Theo quy định của Bộ luật hình sự Canada thì khách thể bị người phạm tội xâm hại ở đây cũng là quyền sống, tính mạng của đứa trẻ. Chủ thể thực hiện tội giết con mới đẻ cũng là người mẹ - người trực tiếp sinh ra đứa trẻ. Đối tượng tác động của tội giết con mới đẻ theo quy định của bộ luật hình sự Canada giống với quy định về đối tượng tác động trong quy định của Bộ luật hình sự Liên Bang Nga tức là đều gồm hai đối tượng: Con mới đẻ sau khi sinh và trong khi sinh. Nguyên nhân phạm tội cũng được Bộ luật hình sự Canda nhấn mạnh đó là “trong trạng thái bị rối loạn tâm thần hoặc đau khổ trầm trọng” [39, Điều 3]. Hình phạt đối với tội giết con mới đẻ theo quy định của Bộ luật hình sự Canada là sáu năm, cao hơn so với hình phạt của Việt Nam, Liên Bang Nga và bằng với mức hình hình phạt của Thụy Điển. Như vậy thông qua việc phân tích quy định pháp luật hình sự của ba quốc gia Thụy Điển, Liên bang Nga, Canada về tội giết con mới đẻ ta có thể thấy được một số điểm sau: Thứ nhất về khách thể bị xâm phạm theo quy định của BLHS của Thụy Điển, Liên Bang Nga, Canada và Việt Nam đều là tính mạng, sự sống của đứa trẻ mới sinh. Thứ hai về chủ thể thực hiện hành vi phạm tội đều phải là người mẹ - người trực tiếp sinh ra đứa trẻ đó. Thứ ba về nguyên nhân phạm tội, trong quy định của pháp luật của Thụy Điển, Liên bang Nga, Canada và Việt Nam đều coi trọng dấu hiệu này trong việc xét cấu thành tội phạm.
  • 34. 27 Thứ tư về đối tượng tác động BLHS Thụy Điển và BLHS Việt Nam có điểm tương đồng đối tượng tác động của tội phạm chỉ là con mới đẻ sau sinh trong khi đó đối tượng tác động của tội giết con mới đẻ trong quy định của BLHS Liên bang Nga và Bộ luật hình sự Canada bao gồm cả trường hợp con mới đẻ sau khi sinh và con mới đẻ trong khi sinh. Thứ năm về hình phạt, so sánh với quy định hình phạt của Thụy Điển và Liên bang Nga, Canada thì quy định của Luật hình sự Việt Nam khá nhẹ. Hiện nay có khá nhiều quan điểm về hình phạt, chúng ta cùng nhau phân tích và đưa ra câu trả lời trong các chương sau. 1.3.4. Quy định về tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Nhật Bản Trong quy định của Bộ luật hình sự Nhật Bản, hành vi giết con mới đẻ không được quy định rõ thành một tội danh độc lập như Bộ luật hình sự của Việt Nam, Liên Bang Nga hay Thụy Điển mà liên quan đến tội giết con mới đẻ được quy định trong tội bỏ rơi tại dẫn tới thương tích hoặc chết. Điều 217: Bỏ rơi: “Người nào bỏ rơi người già yếu, trẻ thơ, người tàn tật, người bệnh hoạn đang cần sự chăm sóc thì bị phạt từ từ dưới 1 năm”. Điều 218: Bỏ rơi của người có trách nhiệm chăm nom, v.v…. quy định: “Người có trách nhiệm chăm nom người già yếu, trẻ thơ, người tàn tật hoặc người bệnh hoạn mà bỏ rơi những người này, hoặc không có sự chăm nom cần thiết cho sự sống còn của những người này thì bị phạt từ trên 3 tháng đến dưới 5 năm”. Điều 219: Tội bỏ rơi, v.v…dẫn tới thương tích hoặc chết người. “Đối với người phạm các tội được quy định tại 2 điều trên mà do đó gây ra thương tích hoặc chết người thì so với các tội gây ra thương tích xử lý theo khung hình phạt nặng”. Như vậy theo quy định của bộ luật hình sự Nhật Bản con mới đẻ là trẻ
  • 35. 28 thơ, là nhóm đối tượng được chăm nom và đang cần sự chăm sóc. Theo quy định tại Điều 217 thì chỉ cần là trẻ thơ mà đang cần được chăm sóc, người phạm tội là bất cứ ai không nhất thiết phải là người mẹ trực tiếp sinh ra cũng đã phạm tội và bị phạt dưới một năm tù. Tại Điều 218 quy định rõ hơn đối với những người có trách nhiệm chăm nom. Người có trách nhiệm chăm nom có thể là: bố, mẹ, anh, chị, em… trong gia đình. Người nào thuộc nhóm những người có trách nhiệm chăm nom trẻ thơ mà bỏ rơi những đứa trẻ đó thì đầu bị phạt từ và khung hình phạt đã được tăng nặng lên từ trên 3 tháng đến dưới năm năm. Đối với trường hợp bỏ rơi mà dẫn tới hậu quả đứa trẻ bị thương tích hoặc chết người thì so với các tội gây ra thương tích xử lý theo khung hình phạt nặng. Thông qua việc tìm hiểu các quy định của pháp luật hình sự Nhật Bản ta có thể thấy, ở Nhật Bản trẻ em là đối tượng bảo vệ đặc biệt. Không riêng gì trường hợp là trẻ sơ sinh mới sinh ra, cứ là trẻ em đang cần phải chăm sóc mà bị bỏ rơi bất kể là người nào đều bị xử lý, đối với những người có trách nhiệm trực tiếp chăm sóc sẽ bị xử lý nặng với mức hình phạt nặng hơn. Đặc biệt hành vi bỏ rơi mà dẫn tới hậu quả gây thương tích hoặc chết người xảy ra bị xử lý theo khung hình phạt nặng. Như vậy so với hình phạt của bộ luật hình sự Việt Nam, bộ luật hình sự Thụy Điển, bộ luật hình sự Canada, bộ luật hình sự Liên Bang Nga cao hơn có tính răn đe tốt hơn. Và đặc biệt, theo quy định của bộ luật hình sự Nhật Bản thì người mẹ là người trực tiếp sinh ra đứa trẻ thực hiện hành vi bỏ rơi dẫn tới hậu quả gây ra thương tích hoặc chết người sẽ còn bị xử lý nặng hơn. Bởi người mẹ được xếp vào nhóm người có trách nhiệm chăm sóc, không được xử lý nhẹ đối với đối tượng thực hiện hành vi phạm tội khác như quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam, bộ luật hình sự Canada, bộ luật hình sự Thụy Điển, bộ luật hình sự Liên Bang Nga.
  • 36. 29 Kết luận Chương 1 Việc quy định tội giết con mới đẻ là một tội danh độc lập trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) đã thể hiện cam kết của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi trở thành thành viên của các Điều ước quốc tế về quyền con người như: Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính chị năm 1966, Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989. Cùng với đó việc bảo vệ trẻ em đã được Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định qua các năm, vì thế khi các bộ luật được ban hành đã cụ thể hóa các quy định trong việc bảo vệ trẻ em trong từng lĩnh vực cụ thể như: Luật bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em năm 2004, BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009). Những quy định pháp luật được quy định trong các văn bản pháp luật trên đã tạo cơ sở pháp lý bảo vệ quyền được sống cho những đứa trẻ sơ sinh và thể hiện quan điểm của Nhà nước ta qua các thời kỳ về hành vi giết con mới đẻ. Bên cạnh đó, người nghiên cứu đã có sự đối chiếu, học hỏi kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia trên thế giới về quy định tội giết con mới đẻ như: Thụy Điển, Liên Bang Nga, Canada để tích lũy thêm cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn cho khoa học pháp lý hình sự của Việt Nam khi sửa đổi quy định về tội giết con mới đẻ trong dự thảo BLHS đang được Quốc hội khóa XIII thảo luận trong thời gian vừa qua.
  • 37. 30 Chương 2 TỘI GIẾT CON MỚI ĐẺ THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 Trong nội dung chương trước, tôi đã trình bày quy định về tội giết con mới đẻ ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Trong nội dung chương này, tôi muốn phân tích làm sang tỏ các dấu hiệu pháp lý cơ bản và những tiêu chí phân biệt tội giết con mới đẻ với một số tội phạm khác xâm phạm tính mạng của con người được quy định tại chương XII – Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999. 2.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội giết con mới đẻ Về bản chất, giết con mới đẻ là một trường hợp cụ thể của giết người. Tội giết con mới đẻ quy định tại Điều 94 Bộ luật hình sự 1999 được tách ra từ Khoản 4 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 1985. Theo đó, về pháp lý, hành vi bị coi là phạm tội giết con mới đẻ phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội giết người. Bên cạnh đó, giết con mới đẻ được coi là trường hợp giảm nhẹ của tội giết người, cấu thành tội phạm tội giết con mới đẻ là cấu thành tội phạm giảm nhẹ của tội giết người. Những tình tiết có ý nghĩa giảm nhẹ định tội được mô tả trong cấu thành tội phạm tội giết con mới đẻ phản ánh đặc trưng của tội phạm [29, tr.10]. Về lý luận, tội phạm có đặc điểm chung là đều được hợp thành bởi những yếu tố nhất định, tồn tại không tách rời nhau nhưng có thể phân chia được trong tư duy và do vậy có thể cho phép nghiên cứu độc lập với nhau. Các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm giết người nói chung cũng như cấu thành tội giết con mới đẻ nói riêng đều có thể nghiên cứu về cấu thành tội phạm bởi các yếu tố theo khoa học luật hình sự Việt Nam là khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm [41, tr.82].
  • 38. 31 Theo luật hình sự Việt Nam, bất cứ hành vi phạm tội nào, dù ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng, dù có khung hình phạt tới chung thân, tử hình hay chỉ là cảnh cáo, phạt tiền cũng đều là thể thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan – giữa những biểu hiện bên ngoài và những quan hệ tâm lý bên trong, đều là hoạt động của con người cụ thể, xâm hại hoặc nhằm xâm hại những quan hệ xã hội nhất định. Sự thống nhất của bốn yếu tố này là hình thức cấu trúc, thể hiện đầy đủ nội dung chính trị, xã hội của tội phạm. Nếu về mặt nội dung chính trị, xã hội, những hành vi phạm tội có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau thì về mặt cấu trúc, bốn yếu tố cấu thành tội phạm cũng có những nội dung biểu hiện khác nhau. Chính sự khác nhau này quyết định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội [41, tr.82]. Chính vì vậy chúng ta sẽ tiến hành phân tích dấu hiệu pháp lý của tội giết con mới đẻ trên cơ sở các dấu hiệu trên. 2.1.1. Khách thể của tội phạm 2.1.1.1. Khách thể của tội phạm “Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ bị tội phạm xâm hại” [8, tr.155]. Về lý luận, khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại nhưng không phải mọi quan hệ xã hội bị xâm hại đều là khách thể của tội phạm, mà chỉ những quan hệ nào được Nhà nước xác định cần được bảo vệ bằng những quy định pháp luật hình sự mới được xem là khách thể của tội phạm khi chúng bị gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại ở nhiều mức độ. Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở thừa nhận tính giai cấp của pháp luật nói chung cũng như của Luật hình sự nói riêng khẳng định: Khách thể bị tội phạm gây thiệt hại là hệ thống những quan hệ xã hội của chế độ xã hội có giai cấp được luật hình sự của chế độ đó bảo vệ. Quan điểm này đã được khẳng định trong BLHS 1999 tại Điều 1–Nhiệm vụ của Bộ luật hình sự và Điều 8–Khái niệm tội phạm [41, tr.85].
  • 39. 32 Khoa học Luật hình sự Việt Nam phân biệt ba loại khách thể của tội phạm là khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp. Cả ba khách thể đều là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại nhưng ở mức độ khác nhau. Trong đó, khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội cụ thể bị loại tội phạm cụ thể trực tiếp xâm hại và có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng pháp luật cũng như trong thực tiễn xét xử. Khách thể trực tiếp của tội phạm trước hết phải là những quan hệ xã hội bị tội phạm cụ thể trực tiếp gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại. Chính qua sự gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại này mà tội phạm xâm hại đến khách thể loại và khách thể chung. Tội giết người nói chung, giết con mới đẻ nói riêng trực tiếp xâm phạm đến quyền sống của con người – quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng. Trong số các quyền nhân thân, quyền sống của con người là một trong những quyền cơ bản, tự nhiên, thiêng liêng và cao quý nhất. Quyền sống được đảm bảo bằng sự an toàn trong cuộc sống của mỗi người, cuộc sống được tính bằng thời điểm lọt lòng mẹ cất tiếng khóc chào đời, có khả năng độc lập tiếp nhận những yếu tố vật chất (ôxy, các loại thức ăn...) cho đến khi chết theo quy luật tự nhiên. Đây là quyền cơ bản, quan trọng nhất của công dân được pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật thế giới thừa nhận và bảo vệ [20, tr.194]. Cụ thể, tại Điều 19 Hiến pháp 2013 quy định: Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ, Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật [28, Điều 19]; Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm [28, Điều 20, Khoản 1]. Các công ước về nhân quyền, đặc biệt về quyền trẻ em, các Điều ước
  • 40. 33 quốc tế được ký kết giữa các quốc gia, các vùng lãnh thổ cũng luôn đặt vấn đề tôn trọng quyền sống của con người lên hàng đầu. Pháp luật hình sự bảo hộ người đang sống, con người mà có khả năng độc lập tiếp nhận yếu tố đảm bảo cuộc sống cho dù tình trạng sống hay khả năng tiếp nhận yếu tố đảm bảo cuộc sống là tối thiểu [20, tr.194]. 2.1.1.2. Đối tượng tác động của tội phạm Đối tượng tác động là một bộ phận của khách thể bị hành vi phạm tội tác động đến, để gây thiệt hại cho khách thể. Đối tượng tác động của tội phạm là con mới đẻ - đối tượng đặc biệt, nên vấn đề xác định thế nào là con mới đẻ là hết sức quan trọng trong việc định tội danh. Qua tìm hiểu Luật hình sự của Việt nam và của một số nước trên thế giới thì có thể nhận thấy không chỉ Việt Nam mà một số nước như Thụy Điển, Liên bang Nga, Canada cũng có quy định về tội giết con mới đẻ. Tuy nhiên việc xác định đối tượng của tội phạm có sự khác nhau. Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy định: “Người mẹ giết con mới đẻ trong hoặc ngay sau khi sinh… thì bị phạt tù đến 5 năm” [40, Điều 106]. Còn theo quy định tại Điều 3 chương 4 của bộ luật hình sự Thụy Điển thì: “Người mẹ nào giết con mới đẻ hoặc vào thời điểm sinh con…” [38, Điều 3]. Như vậy theo Luật hình sự Liên bang Nga và luật hình sự Thụy Điển thì con mới đẻ bao gồm những đứa trẻ đang trong quá trình sinh nở và sau khi sinh là đối tượng tác động của tội phạm này. Trong BLHS Việt Nam năm 1999 không nêu rõ thế nào là con mới đẻ, tuy nhiên theo quy định tại Điểm b, Khoản 1, Phần II Nghị quyết 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì con mới đẻ được xác định là đứa trẻ được xác định là “đứa trẻ được sinh ra trong vòng bảy ngày trở lại” [19]. Như vậy thực tiễn xét xử công nhận đối tượng tác động của tội giết con mới đẻ theo Luật hình sự Việt Nam, là đứa trẻ phải còn sống và tính từ khi sinh ra đến khi bị xâm hại
  • 41. 34 chỉ trong khoảng thời gian bảy ngày. Kể từ ngày thứ tám trở đi, đứa trẻ đó sẽ không được coi là con mới đẻ và đương nhiên sẽ là đối tượng của một tội khác, như Tội giết người (Điều 93), Tội vô ý làm chết người (Điều 98)…. Ví dụ: Vụ án Lý Văn Sáng ở Lai Châu. Sáng cùng vợ là Nông Thị Tòng đã sinh 7 người con nhưng đều là con gái, khi mang thai đứa thứ 8, vợ chồng Sáng đã thuê thầy mo về cúng ma và làm lễ cầu xin sinh một con trai. Đến khi chị Tòng sinh đứa thứ 8 thì vẫn là con gái, vì vậy vợ chồng Sáng nuôi cháu nhỏ được 01 thì một hôm vợ chồng Sáng bàn nhau bóp chết đứa trẻ và lại sinh đứa khác hy vọng kiếm được được con trai để duy trì nòi giống [21, tr.22]. Khi giải quyết vụ án này đã có ý kiến cho rằng, Tòng phạm tội giết con mới đẻ vì trong Bộ luật hình sự không quy định con mới đẻ là đẻ được bao nhiêu lâu. Nhưng theo quy định tại Nghị quyết số 04 ngày 29/11/1986 chỉ coi là hành vi giết con mới đẻ khi nạn nhân bị chết trong phạm vi 7 ngày tuổi, tức là từ khi sinh ra cho đến khi bị giết. Như vậy trong trường hợp này mặc dù chị Tòng là người mẹ trực tiếp sinh ra nạn nhân nhưng cháu nhỏ đã ngoài 7 ngày tuổi vì vậy vợ chồng chi Tòng phải chịu trách nhiệm về tội giết người theo quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự. Như vậy theo quy định tại Điều 94, cũng như Nghị quyết hướng dẫn số 04 của HĐTP thì khách thể của tội giết con mới đẻ là quyền sống của con người. Trong đó, đối tượng tác động của tội phạm là đứa trẻ được sinh ra trong vòng bảy ngày trở lại. 2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm Tội phạm là hành vi của con người, là thể thống nhất giữa những diễn biến tâm lý bên trong của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và những biểu hiện diễn ra bên ngoài mà ta có thể nhận biết trực tiếp bằng các giác quan. Những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các dấu hiệu biểu hiện sự thực hiện hành vi phạm tội và
  • 42. 35 gắn liền với hành vi như: Công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, thời gian, địa điểm và hoàn cảnh phạm tội. Tổng thể các biểu hiện trên đây tọa thành mặt khách quan của tội phạm. Như vậy, mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm các dấu hiệu biểu hiện tội phạm diễn ra trong thế giới khách quan [8, tr.165]. Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố của tội phạm. Không có mặt khách quan thì cũng không có các yếu tố khác của tội phạm và do vậy cũng không có tội phạm. Việc nghiên cứu những tình tiết thuộc mặt khách quan của tội phạm có ý nghĩa đối với việc định tội, xác định mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xác định mức độ trách nhiệm hình sự của người đã thực hiện hành vi đó, ngoài ra trong nhiều trường hợp việc nghiên cứu này có ý nghĩa trong việc xác định mặt chủ quan của tội phạm, trước hết là xác định lỗi cũng như đánh giá mức độ lỗi của người phạm tội. Tội giết con mới đẻ cũng như tội giết người đều có cấu thành vật chất, các dấu hiệu thuộc mặt khách quan bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Khi có hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra, có mối quan hệ nhân quả với hành vi nguy hiểm thì tội phạm được coi là hoàn thành. Các dấu hiện khác như công cụ, phương tiện phạm tội, thời gian, địa điểm không là dấu hiệu bắt buộc trong các cấu thành tội phạm, các dấu hiệu này thường được xác định làm dấu hiệu định khung tăng nặng của các tội phạm cụ thể [20, tr.195]. 2.1.2.1. Hành vi nguy hiểm cho xã hội “Hành vi nguy hiểm cho xã hội là xử sự cụ thể của con người được thể hiện ra thế giới khách quan dưới dạng hình thức nhất định, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ” [8, tr.167]. Hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội giết người nói chung, giết con
  • 43. 36 mới đẻ nói riêng là hành vi có khả năng tước đoạt tính mạng của người khách một cách trái pháp luật - được hiểu là hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con người, chấm dứt sự sống của họ. Hành vi này có thể được thể hiện bằng các hành động như đâm, chém, bắn… Đồng thời cũng có thể hiện bằng không hành động như người mẹ không cho con bú… Những hành vi không có khả năng này không thể là hành vi khách quan của tội giết người. Hành vi tước bỏ quyền sống của người khác là trái pháp luật mới cấu thành tội giết người, sẽ không coi là phạm tội giết người trong trường hợp phòng vệ chính đáng hoặc thi hành bản án tử hình hay là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết. Theo quy định của pháp luật hiện hành những hành vi tước bỏ quyền sống của người khác kể cả được sự đồng ý của nạn nhân đều là trái pháp luật [31, tr.15]. Giết con mới đẻ thực chất cũng là giết người, tức là hành vi trước đoạt tính mạng người khác một cách trái pháp luật. Khoản 1, Điều 94 quy định hai dạng hành vi là giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa dẫn đến đứa trẻ chết. Dạng hành vi thứ nhất giết con mới đẻ. Ở dạng hành vi này, người mẹ có thể thực hiện dưới hai hình thức hành động hoặc không hành động. “ Hành đồng phạm tội là chủ thể làm một việc mà pháp luật cấm, qua đó làm thay đổi trạng thái bình thường của đối tượng tác động gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm” [8, tr.168]. Hành vi giết con mới đẻ thực hiện bằng hành động thể hiện như bóp cổ, thắt cổ, dìm xuống nước, đâm chết… Ví dụ: Vụ án chị Nguyễn Thị L ở huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định sinh cháu Hạnh là đứa con ngoài giá thú, do bị gia đình, dòng tộc và làng xóm hắt hủi, không chịu đựng được sức ép của dư luận và những lễ giáo khắc nghiệt của gia đình, ngày 02/07/2000 chị đã bỏ cháu Hạnh vào một chiếc hộp caton rồi thả cháu Hạnh xuống con sông Đào chảy qua làng, sau đó chị L nhảy xuống sông tự sát. Những người đi làm đồng gần đó đã kịp thời phát hiện cứu sống được chị L còn cháu Hạnh đã chết, sau 03 mới tìm được xác (khi chết
  • 44. 37 cháu Hạnh được 06 ngày tuổi). Tòa án đã xử chị L về tội giết con mới đẻ (Điều 94 Bộ luật Hình sự năm 1999). Như vậy hành vi phạm tội của chị L được thực hiện dưới dạng hành động “giết”. Ở đây chị L không dùng vũ lực hay công cụ nào tác động vào cơ thể của đứa bé nhưng chị L đã có hành vi cho vào thùng caton thả xuống sống. Việc cho đứa trẻ mới sinh 06 ngày tuổi vào thùng caton thì hậu quả đứa trẻ chết là chắc chắn xảy ra [21, tr.21]. Không hành động phạm tội là chủ thể không làm hoặc làm không đầy đủ một việc mà pháp luật quy định phải làm mặc dù có đủ khả năng và điều kiện để thực hiện việc đó, làm biến đối trạng thái bình thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm [8, tr.167]. Hành vi phạm tội được thực hiện bằng phương pháp không hành động như không cho con bú sữa dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết. Với thể trạng non nớt, vừa sinh ra trong vòng bảy ngày, trẻ vẫn chưa thể thích nghi với môi trường sống khi bị tách khỏi cơ thể mẹ. Chính vì vậy nếu không được chăm sóc chu đáo trẻ sẽ bị chết vì tác động của các yếu tố ngoại cảnh. Việc cố ý không chăm sóc trẻ dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết cũng được coi là phạm tội giết con mới đẻ dưới hình thức không hành động. Dạng hành vi thứ hai vứt bỏ con mới đẻ dẫn đến đứa trẻ chết. Ở dạng hành vi ngày người mẹ không nhẫn tâm tự tay giết đứa con mình đứt ruột đẻ ra nên đã vứt bỏ con ở những nơi như: bệnh viện, cổng cô nhi viện, nhà chùa… dẫn đến đứa trẻ chết do bị đói, rét hoặc côn trùng, súc vật ăn thịt…. Xét cho cùng, hành vi vứt bỏ con mới để này cũng là một dạng hành vi không hành động phạm tội (không chăm sóc, không cho bú…). Ở dạng hành vi phạm tội này, tội giết con mới đẻ đòi hỏi phải có hậu quả chết người và lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý gián tiếp. Tuy nhiên, nếu hành vi vứt bỏ nhưng thái độ tâm lý của người mẹ là mong muốn đứa trẻ chết thì hành vi lúc này sẽ được xác định là giết và lỗi ở đây sẽ là lỗi cố ý trực tiếp.