SlideShare a Scribd company logo
1 of 120
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ BẠCH TUYẾT
THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TRƯỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
đại học quốc gia hà nội
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ BẠCH TUYẾT
THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TRƯỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt
HÀ NỘI - 2014
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
NguyÔn ThÞ B¹ch TuyÕt
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM
11
1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân 11
1.1.1. Khái niệm chung về thẩm quyền 11
1.1.2. Khái niệm thẩm quyền xét xử 12
1.2. Căn cứ phân định thẩm quyền đối với Tòa án nhân dân 15
1.2.1. Căn cứ vào đường lối chính sách của Đảng 15
1.2.2. Căn cứ vào nguyên tắc tổ chức, hoạt động, cơ cấu tổ chức của
hệ thống cơ quan nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp
nói riêng
17
1.2.3. Căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng, phức tạp của tội
phạm hay vụ án, các đặc điểm nhân thân người phạm tội
18
1.2.4. Căn cứ vào thực trạng đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử 19
1.2.5. Căn cứ vào mối liên hệ giữa thẩm quyền xét xử với các chế
định khác của tố tụng hình sự
20
1.2.6. Căn cứ vào hiệu quả kinh tế của hoạt động xét xử và các hoạt
động tố tụng khác
21
1.2.7. Căn cứ vào sự bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân và những người tham gia tố tụng
22
1.2.8. Căn cứ vào tình hình tội phạm, yêu cầu đấu tranh phòng và
chống tội phạm
22
5
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật tố tụng
hình sự Việt Nam về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân
từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay
23
1.3.1 Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến khi
pháp điển hóa lần thứ nhất Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
năm 1988
23
1.3.2 Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
năm 1988 đến nay
35
Chương 2: THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM
2003 VÀ BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI
40
2.1. Thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân theo Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam năm 2003
40
2.1.1. Thẩm quyền xét xử theo sự việc 40
2.1.2. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng 48
2.1.3. Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ 51
2.1.4. Thẩm quyền xét xử phúc thẩm của Tòa án 53
2.1.5. Thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm 56
2.1.6. Một số quy định khác liên quan đến thẩm quyền xét xử 58
2.2. Quy định về thẩm quyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự
của một số nước trên thế giới
61
2.2.1. Quy định về thẩm quyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự
trung Hoa
61
2.2.2. Quy định về thẩm quyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự
Liên bang Nga
62
2.2.3. Quy định về thẩm quyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình
sự Malaysia
64
2.2.4. Quyđịnh về thẩmquyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự Canada 65
2.2.5. Quy định về thẩm quyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự
Nhật Bản
66
6
2.2.6. Quy định về thẩm quyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự Pháp 68
Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM
ĐỊNH, HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC BIỆN
PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN THẨM QUYỀN XÉT XỬ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG BỘ LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TRƯỚC YÊU CẦU CẢI
CÁCH TƯ PHÁP
72
3.1. Thực tiễn thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân
trên địa bàn tỉnh Nam Định
72
3.1.1. Kết quả của việc thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án
nhân dân hai cấp tỉnh Nam Định
72
3.1.2 Những hạn chế, vướng mắc 87
3.2. Giải pháp hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về
thẩm quyền của Tòa án
90
3.2.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xét xử 90
3.2.2. Những kiến nghị cụ thể 91
3.3. Các biện pháp bảo đảm thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa
án trước yêu cầu cải cách tư pháp
95
3.3.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ những người tiến hành tố tụng
trong Tòa án
97
3.3.3. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật, chính sách
tiền lương
101
3.3.4. Cải cách tổ chức và hoạt động phối hợp giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng, khi thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu của cải
cách tư pháp
104
3.3.5. Tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp 104
KẾT LUẬN 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 108
7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật Hình sự
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
HĐXX : Hội đồng xét xử
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TAQS : Tòa án quân sự
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
8
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
3.1 Tình hình xét xử của Tòa án hai cấp tỉnh Nam Định từ
2009-2013
74
3.2 Tình hình xét xử sơ thẩm án hình sự của Tòa án hai cấp
tỉnh Nam Định từ 2009-2013
75
DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ Trang
3.1 Tình hình thụ lý, xét xử sơ thẩm án hình sự của Tòa án
cấp huyện (tỉnh Nam Định) từ 2009-2013
77
3.2 Tình hình thụ lý, xét xử sơ thẩm án hình sự của Tòa án
cấp tỉnh (tỉnh Nam Định) từ 2009-2013
78
3.3 Tình hình án sửa, hủy của Tòa án cấp phúc thẩm TAND
tỉnh Nam Định từ 2009 - 2013
79
9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong tiến trình phát triển kinh tế, xã hội, để đáp ứng các yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện toàn cầu hóa, Đảng và Nhà nước ta đã
triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm tăng cường khả năng thực thi của các
cơ quan công quyền Việt Nam.
Việc cải cách nền hành chính tư pháp đã được Bộ Chính trị chỉ đạo
thông qua Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và nhất là Nghị quyết
số 49/NQ-TW ngày 26/5/2005 về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020"
đã đề cập một cách cơ bản và toàn diện những vấn đề về cải cách tư pháp trong
tình hình mới. Trong đó nhấn mạnh Tòa án có vai trò trung tâm trong hệ thống
các cơ quan tư pháp và nâng cao chất lượng hoạt động xét xử là trọng tâm.
Tòa án là công cụ của giai cấp cầm quyền trong xã hội, là trung tâm
và là hệ thống cấu thành quan trọng nhất của bộ máy quyền lực nhà nước, là
cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, là phương thức để Nhà nước xác
lập quyền uy của mình đối với xã hội, nhân danh Nhà nước Tòa án là cơ quan
xét xử, mọi vi phạm pháp luật đến mức bị coi là tội phạm và phần lớn các
tranh chấp phát sinh trong xã hội phải được giải quyết thông qua Tòa án.
Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Tòa án nhân dân là cơ
quan xét xử của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền
tư pháp" [30]. So với Hiến pháp năm 1992 thì đã được bổ sung thêm nội dung
"Thực hiện quyền tư pháp". Đây là điểm rất mới thể hiện sự thể chế hóa chủ
trương đổi mới của Đảng trong tiến trình cải cách tư pháp. Như vậy, trong
toàn bộ hệ thống chính trị chỉ có Tòa án có chức năng xét xử và thực hiện
quyền tư pháp [14]. Quyền tư pháp đồng nhất với chức năng xét xử. Có thể
nói, đây là một cuộc cải cách quan trọng, với việc đặt Tòa án vào đúng vị trí
trung tâm của hoạt động tư pháp, với nhiệm vụ trọng tâm là xét xử và thiết lập
10
cơ chế kiểm soát tư pháp do Tòa án thực hiện đối với tất cả hoạt động tham gia
thực hiện quyền tư pháp, nhằm bảo đảm và bảo vệ hiệu quả quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong các quá trình tố tụng tư pháp.
Với vị trí, vai trò Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư
pháp, khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Tòa án có nhiệm vụ
bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân" [30]. Bằng hoạt động của mình, Tòa án bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa (XHCN), bảo vệ tài sản của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của công dân. Thông qua hoạt động xét xử, Tòa án góp
phần giáo dục công dân ý thức pháp luật, tham gia vào cuộc đấu tranh phòng
ngừa tội phạm.
Trong các vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án, việc
phân định thẩm quyền rất quan trọng, chiếm vị trí trung tâm trong tố tụng
hình sự. Việc xác định chính xác thẩm quyền của Tòa án tránh được sự chồng
chéo khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Giúp các đơn vị Tòa án chủ động
công việc, tránh hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm. Thẩm quyền càng được
phân định rõ ràng sát với thực tế bao nhiêu càng đảm bảo cho việc xét xử
được khách quan, chính xác, đúng người, đúng tội bấy nhiêu. Xác định đúng
đắn thẩm quyền xét xử của Tòa án nói chung, thẩm quyền của các đơn vị Tòa
án nhân dân (TAND) nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm chất
lượng, hiệu quả xét xử của hệ thống TAND các cấp, bảo đảm giải quyết vụ án
đúng chức năng, nhiệm vụ, xét từ góc độ pháp lý cũng như từ góc độ chính
trị, xã hội. Có thể nói thẩm quyền xét xử của TAND luôn là vấn đề được quan
tâm hàng đầu ngay từ khi bắt đầu nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS).
Hiện nay, vẫn còn sự nhận thức khác nhau về vai trò của TAND trong
hệ thống cơ quan nhà nước, dẫn đến có nhiều quan điểm khác nhau về thẩm
11
quyền của TAND. Có quan điểm cho rằng "Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết
các vi phạm pháp luật tương đối nghiêm trọng, còn các vi phạm pháp luật nhỏ thì
thuộc về thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước" [33, tr. 15].
Tuy nhiên, theo quan điểm này sẽ tạo ra sự không rành mạch trong tổ chức
thực hiện quyền lực nhà nước, có nguy cơ dẫn đến độc đoán, vi phạm quyền
tự do, dân chủ của công dân, ảnh hưởng tới lòng tin của nhân dân vào công lý.
Bởi vì, cơ quan hành chính nhà nước hoạt động chủ yếu theo nguyên tắc hành
chính mệnh lệnh, quyền uy, phục tùng, còn Tòa án hoạt động theo nguyên tắc
độc lập, tuân theo thủ tục tố tụng công khai, dân chủ. Bảo đảm quyền bình
đẳng trước Tòa án. Xu thế chung hiện nay thẩm quyền của Tòa án càng ngày
càng được mở rộng thêm. Trước mắt, vấn đề liên quan nhiều đến quyền con
người như áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính, hoặc đối với các
tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất là vấn đề nhạy cảm, có nhiều khó
khăn vướng mắc đã giao về cho Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết
trong mọi trường hợp, nếu đương sự lựa chọn khởi kiện đến Tòa án.
Ngành TAND với chức năng, nhiệm vụ của một cơ quan thực hiện
quyền tư pháp luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm đề ra nhiều giải pháp
đổi mới, với những bước đi thích hợp. Một trong các bước đi đó là bố trí sắp
xếp lại hệ thống tổ chức và phân định lại thẩm quyền xét xử của TAND các
cấp, với phương châm kiện toàn đến đâu mở rộng thẩm quyền đến đó. Thông
qua hoạt động thực tiễn cho thấy một số quy định trước đây về thẩm quyền
của TAND các cấp có nhiều điểm bất cập, gây khó khăn cho hoạt động xét xử
của TAND. Đặc biệt, sự phân chia thẩm quyền xét xử giữa TAND cấp huyện
và TAND cấp tỉnh không khoa học, hợp lý dẫn đến tình trạng quá tải các loại
án ở TAND cấp tỉnh và Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC),
trong khi hoàn toàn có thể chia sẻ nhiệm vụ cho TAND cấp huyện. Mặt khác,
đứng trước yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp,
các quy định về thẩm quyền của Tòa án cũng phải thay đổi, hoàn thiện, bổ
12
sung cho phù hợp. Vì vậy, BLTTHS sửa đổi bổ sung thông qua ngày 26/11/2003
có hiệu lực ngày 01/7/2004 đã quy định lại thẩm quyền của TAND các cấp,
đã góp phần khắc phục tình trạng tồn đọng án, hạn chế những sự lãng phí, tốn
kém không cần thiết, TANDTC tập trung hơn vào công tác tổng kết kinh
nghiệm và hướng dẫn công tác xét xử.
Mặc dù, vấn đề thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự của TAND các
cấp đã có nhiều công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, việc coi trọng và tiếp tục
nghiên cứu một cách nghiêm túc, có hệ thống các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam hiện hành vấn đề thẩm quyền xét xử của TAND, thực
tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra giải pháp hoàn thiện
pháp luật cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng
những quy định đó trước yêu cầu cải cách tư pháp là việc làm có ý nghĩa lý
luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng. Đồng thời, với mong muốn thông qua
việc nghiên cứu tổng kết đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về thẩm quyền
xét xử của Tòa án trên địa bàn tỉnh Nam Định, sẽ góp phần vào việc nâng cao
chất lượng công tác xét xử án hình sự của Tòa án hai cấp tỉnh Nam Định, đó
chính là những lý do, luận chứng cho sự cần thiết để tôi lựa chọn đề tài
"Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa
bàn tỉnh Nam Định)" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Do thẩm quyền xét xử của TAND là một trong những chế định trọng
tâm, có vị trí, vai trò quan trọng trong luật tố tụng hình sự nên đã có nhiều
công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh,
phương diện khác nhau như:
* Dưới góc độ luận văn, luận án tiến sĩ luật học có một số công trình
sau: 1) Luận án tiến sĩ luật học "Thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp" của
tác giả Nguyễn Văn Huyên, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002; 2) Luận văn
13
thạc sĩ luật học "Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong tố tụng hình
sự" của tác giả Nguyễn Văn Tiến, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1998; 3)
Luận văn thạc sĩ luật học "Hoàn thiện thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ
án hình sự trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay" của tác giả Nguyễn
Hữu Tuấn, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; 4) Khóa luận tốt
nghiệp "Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo Bộ luật tố tụng hình sự
trước yêu cầu cải cách tư pháp" của tác giả Nguyễn Thị Anh Thư, 2006 v.v…
* Dưới góc độ đề tài nghiên cứu khoa học có một số công trình sau: 1)
Đề tài khoa học cấp Bộ "Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác kiểm sát
hình sự trong giai đoạn giám đốc thẩm" của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
(VKSNDTC), 2007; 2) TS. Nguyễn Văn Hiện (Chủ nhiệm đề tài), "Vấn đề tổ
chức phiên tòa và việc thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng tại phiên
tòa của Tòa án nhân dân", Đề tài khoa học cấp Bộ, TANDTC, Hà Nội, 1999;
3) TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy (Chủ nhiệm đề tài) (2005), "Cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc áp dụng các quy định của việc áp dụng các quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục tố tụng tại phiên tòa xét xử vụ án
hình sự", Đề tài khoa học cấp Bộ, TANDTC, Hà Nội, 2005; v.v...
* Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có
đề cập đến thẩm quyền xét xử của TAND như: 1) "Nâng cải cách hệ thống
Tòa án trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam" của
GS.TSKH. Lê Cảm (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4/2001); 2) GS.TS.
Hoàng Văn Hảo "Tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan quyền lực nhà
nước" 3) GS.TS. Trần Ngọc Đường "Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân
dân"; trong cuốn "Tìm hiểu về đổi mới tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà
nước theo Hiến pháp năm 1992", Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994; 4)
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí, "Tố tụng, tranh tụng và vấn đề cải cách tư pháp
ở Việt Nam trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền", Trong cuốn
chuyên khảo: Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà
14
nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004; 5) PGS.TS. Phạm Hồng
Hải, "Vai trò của Tòa án trong hệ thống các cơ quan tư pháp", Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 1/2001; 6) TS. Vũ Gia Lâm, "Hoàn thiện một số quy
định về xét xử sơ thẩm hình sự", Tạp chí TAND, số 18 (9)/2006; 7) TS. Từ
Văn Nhũ, "Đổi mới thủ tục xét xử nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên tòa hình sự", Tạp chí TAND, số (10 +11)/2002; 8) PGS.TS. Nguyễn
Thái Phúc (2009), "Đổi mới phiên tòa sơ thẩm hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp", Nhà nước và pháp luật, số 2/2009; 9) ThS. Đinh Văn Quế,
"Một số vấn đề về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm", Tạp chí
TAND, số 8/2004; 10) Trịnh Tiến Việt, "Tranh tụng và vấn đề nâng cao chất
lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự", Tạp chí Nghề luật, số 5/2003; v.v...
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta
đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về thẩm quyền xét xử
của TAND. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quan có thể thấy: Những nghiên
cứu về thẩm quyền xét xử của TAND mới chỉ dừng lại ở các công trình
nghiên cứu về một số vấn đề trong chế định thẩm quyền xét xử của TAND,
hoặc là được thể hiện một phần trong kết quả của các công trình nghiên cứu
khác, phân biệt với thẩm quyền của các cơ quan nhà nước khác. Nhất là sau
khi có BLTTHS năm 2003, vấn đề thẩm quyền xét xử của TAND chưa được
triển khai nghiên cứu một cách tổng quan, đánh giá lý luận và tổng kết thực
tiễn để tương xứng với vai trò, vị trí là chế định trọng tâm trong luật tố tụng
hình sự. Và cho đến nay, chưa có tác giả nào nghiên cứu thực tiễn thực hiện
thẩm quyền xét xử về hình sự tại địa bàn tỉnh Nam Định
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép
khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân
theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp" (trên cơ
sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)" là đòi hỏi khách quan, cấp
thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
15
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về
thẩm quyền xét xử của TAND theo luật tố tụng hình sự Việt Nam dưới khía
cạnh lập pháp tố tụng hình sự và áp dụng chúng trong thực tiễn, từ đó luận
văn đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định về thẩm quyền xét xử của
TAND, trước yêu cầu cải cách tư pháp. Đồng thời, đề xuất những biện pháp
bảo đảm thực hiện các quy định của BLTTHS Việt Nam về thẩm quyền xét
xử của Tòa án, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các quy định của pháp luật
về thẩm quyền xét xử của TAND trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có nhiệm vụ làm sáng tỏ:
- Khái niệm, căn cứ phân định thẩm quyền xét xử của TAND;
- Khái quát lịch sử hình thành và phát triển về thẩm quyền xét xử của
TAND trong lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ sau cách mạng
tháng 8 năm 1945 đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu các quy định về thẩm quyền xét xử của TAND trong
BLTTHS hiện hành của Việt Nam, BLTTHS của các nước trên thế giới từ đó
rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định về thẩm
quyền xét xử của TAND trên địa bàn tỉnh Nam Định. Đồng thời, phân tích
làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc thực hiện và những nguyên
nhân cơ bản của nó;
- Đề xuất những định hướng và kiến nghị việc hoàn thiện các quy định
về thẩm quyền xét xử của TAND trong BLTTHS Việt Nam hiện hành, cũng
như những giải pháp bảo đảm thực hiện, nâng cao hiệu quả thực hiện các quy
định này trong thực tiễn.
16
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh thẩm
quyền xét xử của TAND trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, kết hợp với
việc nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng các quy định về thẩm quyền trong
thực tiễn xét xử của các đơn vị TAND thuộc tỉnh Nam Định và tìm ra nguyên
nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật
thực định và đề xuất những biện pháp bảo đảm thực hiện các quy định của
BLTTHS Việt Nam về thẩm quyền xét xử của Tòa án, nâng cao hiệu quả thực
hiện các quy định về thẩm quyền xét xử của TAND trong thực tiễn.
Phạm vi của luận văn chỉ nghiên cứu về thẩm quyền xét xử của TAND
các cấp, không bao gồm Tòa án quân sự (TAQS) khu vực và TAQS quân khu.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu về thực tiễn áp dụng các quy định
về thẩm quyền xét xử của TAND trong luật tố tụng hình sự Việt Nam trong
05 năm (2009 - 2013).
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy
vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng
Nhà nước pháp quyền, về chính sách pháp luật tố tụng hình sự, về vấn đề cải
cách tư pháp được thể hiện trong các nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, X
và các Nghị quyết số 08-NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW về "Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020" của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đã sử dụng các phương
pháp cụ thể và đặc thù như: Phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp
so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương
pháp thống kê, phương pháp điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa
học Luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên
cứu trong luận văn.
17
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên sau khi có
BLTTHS năm 2003 và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về
thẩm quyền xét xử của TAND theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu
cầu cải cách tư pháp (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định),
trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan
tới thẩm quyền xét xử của TAND trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Do đó, những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về thẩm
quyền xét xử của TAND để xây dựng nên khái niệm về thẩm quyền xét xử
của TAND, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời chỉ ra các căn cứ để
phân định thẩm quyền xét xử của TAND;
- Nghiên cứu chỉ ra những điểm khái quát về lịch sử quá trình hình
thành và phát triển của các quy định về thẩm quyền xét xử của TAND trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay;
- Nghiên cứu, đánh giá các quy định về Thẩm quyền xét xử của
TAND trong BLTTHS Việt Nam và BLTTHS một số nước trên thế giới;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình áp dụng các
quy định về thẩm quyền xét xử của TAND của các đơn vị TAND tại tỉnh
Nam Định; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn áp dụng các quy định về thẩm
quyền xét xử của TAND, cũng như những nguyên nhân cơ bản của các tồn
tại, hạn chế đó;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng
cao hiệu quả áp dụng các quy định về thẩm quyền xét xử của TAND trong
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở
Việt Nam.
18
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về thẩm quyền xét xử của Tòa án
nhân dân trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo Bộ luật tố
tụng hình sự Việt Nam năm 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự một số nước trên
thế giới.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân trên địa bàn tỉnh Nam Định, hoàn thiện pháp luật và các biện pháp bảo
đảm thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân trong Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam, trước yêu cầu cải cách tư pháp.
19
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1.1. Khái niệm chung về thẩm quyền
Ở thời kỳ cổ đại, với quan niệm ấu trĩ về tính tất yếu của sự bất bình
đẳng giữa các giai cấp trong xã hội về quyền thống trị tối cao tuyệt đối của
giai cấp thống trị đối với giai cấp nô lệ và dân thường, giải thích nguồn gốc
sức mạnh của quyền lực bằng hào quang thiêng liêng của Thượng đế. Quyền
lực của vua chúa không bị hạn chế. Khắp nơi thịnh hành học thuyết "Đặc miễn
quốc gia", theo đó Nhà nước làm ra pháp luật thì phải đứng trên pháp luật.
Mặc dù với điều kiện sống và nhận thức còn nhiều hạn chế, song một
số nhà tư tưởng đã nhận thức được tình trạng lạm quyền một cách tùy tiện,
thái quá của giai cấp thống trị, họ đã có những ý niệm mơ hồ về mối quan hệ
giữa Nhà nước và pháp luật. Họ mơ ước có một xã hội công bằng, dân chủ,
không có bóc lột. Chính những mơ ước đó đã đặt nền móng cho các nhà tư
tưởng hình thành dần một học thuyết về Nhà nước pháp quyền, mong muốn
loại bỏ Nhà nước chuyên quyền, độc đoán [19, tr. 20].
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khi xây dựng học thuyết
của mình về Nhà nước kiểu mới đã kế thừa những tư tưởng trước đó kết hợp
với tình hình đấu tranh thực tế để đưa ra quan điểm "Quyền lực nhà nước là
thống nhất, không phân chia và thuộc về nhân dân". Nhân dân được hưởng
mọi quyền dân chủ, có quyền làm những việc pháp luật không cấm và có
nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhân dân thực hiện quyền lực thông qua cơ
quan đại diện là Quốc hội. Quốc hội có quyền lập hiến và lập pháp. Quyền
hành pháp thuộc về Chính phủ, là cơ quan chấp hành và hành chính cao nhất
20
của quyền lực nhà nước. Quyền tư pháp do Tòa án và Viện kiểm sát thực
hiện. Hoạt động của ba hệ thống cơ quan này đều thống nhất, nhân danh Nhà
nước, nhằm mục tiêu chung phục vụ lợi ích của dân tộc. Mỗi cơ quan nhà
nước có những quyền hạn, nhiệm vụ khác nhau do luật định. Việc phân công
quyền lực giúp cho việc giải quyết công việc không bị chồng chéo và hoạt
động của các cơ quan được vận hành một cách hợp lý. Phạm vi hoạt động và
quyền năng pháp lý của các cơ quan nhà nước do luật định được hiểu là thẩm
quyền của các cơ quan nhà nước.
Theo Từ điển tiếng Việt thì thẩm quyền là "Quyền chính thức được xem
xét để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề theo pháp luật" [54, tr. 854].
Theo định nghĩa của Từ điển Luật học thì thẩm quyền được hiểu là quyền
chính thức được xem xét để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề.
Thuật ngữ về thẩm quyền của Việt Nam xét về nghĩa nói chung giống với
nghĩa trong tiếng nước ngoài, nhưng cách sử dụng thuật ngữ có nhiều điểm
khác biệt nhất định. Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau về thẩm quyền, tuy
nhiên, tựu trung lại đều được hiểu "Thẩm quyền" là khả năng của chủ thể
trong việc xem xét và giải quyết hay định đoạt một công việc nào đó trên cơ
sở chuẩn mực pháp luật đã định trước.
Tóm lại, dưới góc độ khoa học, theo chúng tôi khái niệm đang nghiên
cứu được định nghĩa như sau: Thẩm quyền là tổng thể các quyền mà pháp
luật quy định cho một chủ thể nhất định được thực hiện công việc trong một
lĩnh vực, một phạm vi nhất định.
1.1.2. Khái niệm thẩm quyền xét xử
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thẩm quyền xét
xử, theo Từ điển Luật học thì:
Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của
các Tòa án. Các Tòa án là những cơ quan duy nhất của một nước
được đảm nhiệm chức năng xét xử. Mọi bản án do Tòa án tuyên
21
đều phải thông qua xét xử. Không ai có thể bị buộc tội mà không
qua xét xử của các Tòa án và kết quả xét xử phải được công bố
công khai bằng bản án...
Thẩm quyền xét xử của Tòa án là một quyền chuyên biệt
được trao riêng cho Tòa án, khác với thẩm quyền của các cơ quan
khác, thẩm quyền xét xử là quyền chính thức của Tòa án, không
phân biệt phân cấp, phân vùng lãnh thổ [53, tr. 701].
Trong khi đó, theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng thì
"Xét xử là hoạt động của Tòa án tại phiên tòa để xét xử các chứng cứ và căn
cứ vào pháp luật, xử lý vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định của Tòa
án" [18, tr. 450].
Xét riêng trong pháp luật tố tụng hình sự, thẩm quyền của Tòa án các
cấp là một chế định quan trọng. Thẩm quyền càng được phân định rõ ràng,
khoa học, sát với thực tế bao nhiêu càng bảo đảm cho việc xét xử khách quan,
chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật bấy nhiêu. Chính vì thế,
trong quá trình hoàn thiện pháp luật nước ta nói chung và hoàn thiện pháp luật
tố tụng hình sự nói riêng, các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử
của Tòa án các cấp luôn được nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi ban hành.
BLTTHS của nước ta đã ra đời khá sớm, qua nhiều lần sửa đổi, các quy định
về thẩm quyền xét xử của Tòa án tương đối đầy đủ. Tại khoản 1 Điều 102
Hiến pháp năm 2013 và Điều 1 Luật tổ chức TAND năm 2002 quy định: "Tòa
án nhân dân là cơ quan xét xử của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp" [30]. Quyền xét xử thuộc về Tòa án được hiểu
là thẩm quyền xét xử.
So sánh với một số thuật ngữ nước ngoài tương đương, thuật ngữ
thẩm quyền xét xử được sử dụng trong tiếng Việt cũng có nhiều điểm tương
đồng và khác biệt nhất định. Trong Từ điển Luật của Anh, người ta dùng
thuật ngữ Jurisdiction để chỉ thẩm quyền hoặc quyền tài phán, tức là quyền
22
lắng nghe và phán quyết một vụ việc nào đó của Tòa án. Trong Từ điển Luật
học của Mỹ, thẩm quyền được hiểu là khả năng cơ bản và tối thiểu để cơ
quan công quyền xem xét và giải quyết một việc gì theo pháp luật. Điểm
chung về thẩm quyền của Tòa án đều được các nước thừa nhận là quyền xem
xét giải quyết các vụ việc trong phạm vi pháp luật cho phép và quyền hạn
trong việc ra các quyết định khi giải quyết vụ việc đó. Quyền xem xét giải
quyết vụ việc và quyền ra các quyết định khi giải quyết vụ việc đó là hai nội
dung quan trọng có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành thẩm quyền
của Tòa án.
Việc kết tội một công dân có ảnh hưởng rất lớn đến đến danh dự, nhân
quyền, tài sản, sức khỏe, tính mạng, các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Do
vậy, Tòa án được quy định là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án
hình sự và Tòa án cũng là cơ quan duy nhất có quyền thay mặt Nhà nước
tuyên bố một người có tội hay không có tội và áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội. Điều 9 BLTTHS năm 2003 quy định: "Không ai bị coi là có
tội cũng như phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu
lực pháp luật" [28].
Việc xét xử của Tòa án hoàn toàn khác biệt với biện pháp xử lý của cơ
quan hành chính, bởi lẽ: Hoạt động xét xử được áp dụng những chế tài, kể cả
hình phạt và việc xét xử được tiến hành theo những thủ tục chặt chẽ được quy
định trong pháp luật tố tụng. Do vậy, hiệu lực các phán quyết của Tòa án cũng
cao hơn các biện pháp xử lý hành chính khác.
Khi xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án, cần phải xác định đồng
thời ba nhóm dấu hiệu là: Những dấu hiệu thể hiện tính nghiêm trọng, phức
tạp của tội phạm hoặc vụ án; những dấu hiệu về không gian, thời gian thực
hiện tội phạm; những dấu hiệu liên quan đến đối tượng phạm tội. Chỉ trên cơ
sở xem xét đầy đủ cả ba nhóm dấu hiệu nêu trên mới có thể xác định thẩm
quyền xét xử được chính xác.
23
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về thẩm quyền xét xử của Tòa án
như sau: Thẩm quyền xét xử của Tòa án là tổng hợp các quyền theo quy định
của pháp luật để Tòa án giải quyết các tranh chấp trong xã hội thông qua
việc xem xét, đánh giá, phán quyết có tính cưỡng chế của Nhà nước.
Và thẩm quyền xét xử về hình sự là: Quyền của Tòa án được xét xử vụ
án hình sự do pháp luật tố tụng hình sự quy định dựa trên cơ sở dấu hiệu về
tính nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, tính phức tạp của vụ án, địa
điểm xảy ra tội phạm và đặc điểm nhân thân người phạm tội. Trong phạm vi
luận văn, tôi chỉ xin đề cập đến thẩm quyền xét xử về hình sự của các cấp TAND.
1.2. CĂN CỨ PHÂN ĐỊNH THẨM QUYỀN ĐỐI VỚI TÒA ÁN NHÂN DÂN
Nếu quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp không phù
hợp sẽ dẫn đến những hậu quả tiêu cực như: Chất lượng hiệu quả hoạt động tư
pháp hình sự bị hạn chế; tình trạng quá tải tại cấp xét xử nào đó khiến án bị
tồn đọng; chi phí cho hoạt động tư pháp cao; vi phạm các quyền tự do dân chủ
của công dân... Song, muốn quy định thẩm quyền được chính xác phải dựa
vào những căn cứ vừa mang tính khoa học vừa bảo đảm yếu tố thực tiễn. Các
căn cứ càng cụ thể, chi tiết thì quy định thẩm quyền càng chính xác. Việc
nghiên cứu lý luận và thực tiễn lập pháp cho thấy, hầu hết các ý kiến tập trung
vào việc căn cứ trình độ năng lực của Thẩm phán, số lượng án hàng năm ở
các cấp để đề nghị phân định thẩm quyền. Nhìn chung, các quan điểm đều có
nhiều yếu tố hợp lý. Song mỗi quan điểm lại có những hạn chế nhất định, vẫn
còn đề cập đến vấn đề căn cứ phân định thẩm quyền một cách đơn giản và
phiến diện. Cần thiết phải có sự đầu tư nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn
để kịp thời điều chỉnh các quy định về thẩm quyền cho phù hợp với từng giai
đoạn phát triển của xã hội. Theo chúng tôi có thể dựa vào các căn cứ sau để
phân định thẩm quyền của TAND các cấp.
1.2.1. Căn cứ vào đường lối chính sách của Đảng
Nhà nước Việt Nam là Nhà nước XHCN, đặt dưới sự lãnh đạo duy
nhất của Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo thông qua việc đề ra đường
24
lối, chủ trương, chính sách qua từng thời kỳ nhất định và sử dụng pháp luật
như một công cụ hữu hiệu để thể chế hóa các quan điểm, đường lối chính
sách của Đảng đi vào cuộc sống. Chúng ta đang trong tiến trình nghiên cứu để
ngày càng hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác Tòa án.
Chánh án TAND cấp tỉnh tham gia cấp ủy địa phương hoặc tham gia Ban
thường vụ cấp tỉnh, bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ đối với các Tòa án về chính
trị, tổ chức và cán bộ, kiện toàn tổ chức Đảng phù hợp với hệ thống tổ chức
Tòa án theo mô hình mới. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, chăm lo công
tác quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bố trí, sử dụng đúng cán bộ trong các cơ
quan Tòa án. Việc xây dựng các quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án
không thể không dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước. Vấn đề thẩm
quyền xét xử và việc phân định lại thẩm quyền xét xử của TAND các cấp
luôn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải cách tư pháp
nói chung và đổi mới tổ chức hoạt động của ngành Tòa án nói riêng. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) đã
đề ra nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp trong đó
xác định: "...Nghiên cứu tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp
huyện theo hướng việc xét xử được thực hiện chủ yếu ở Tòa án cấp này. Tòa
án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm". Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX cũng nêu rõ: "Sắp xếp lại hệ thống Tòa án nhân dân, phân định hợp
lý thẩm quyền của Tòa án nhân dân các cấp". Bước sang thế kỷ thứ XXI,
nước Việt Nam đang có những bước tiến vô cùng mạnh mẽ, nhiệm vụ cải
cách tư pháp, cải cách hệ thống Tòa án trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Nghị
quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới". Tiếp đến là Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ
Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đã thể hiện sự
quyết tâm của Đảng và Nhà nước về sự đổi mới và hoàn thiện hệ thống Tòa
án. Đó chính là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng BLTTHS năm
25
2003, trong đó có việc xây dựng những quy định về thẩm quyền xét xử các vụ
án hình sự của TAND.
1.2.2. Căn cứ vào nguyên tắc tổ chức, hoạt động, cơ cấu tổ chức
của hệ thống cơ quan nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp nói riêng
Nhà nước ta được chia theo ba cấp đơn vị hành chính lãnh thổ: Cấp
tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cấp huyện (quận, huyện, thành
phố thuộc tỉnh và thị xã); cấp xã (xã, phường, thị trấn). Dựa theo sự phân chia
này, hệ thống Tòa án cũng được tổ chức từ trung ương đến cấp huyện gồm
TANDTC, TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện, khác với các cơ quan khác
hệ thống Tòa án chỉ có đến cấp huyện, quận và mối quan hệ giữa Tòa án các
cấp không phải là mối quan hệ phục tùng, chỉ đạo mà chỉ là mối quan hệ theo
thẩm quyền. Mối quan hệ này đảm bảo cho các Tòa án xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật.
Việc phân định thẩm quyền xét xử phải bảo đảm cơ chế giám sát của
các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với các cơ
quan Tòa án. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của Ủy ban Tư pháp Quốc hội,
Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc trong việc thực hiện nhiệm vụ
giám sát hoạt động xét xử. Tăng cường vai trò của các phương tiện thông tin
đại chúng trong việc tuyên truyền, cung cấp thông tin chính xác, khách quan
về hoạt động của Tòa án.
Căn cứ vào cách thức tổ chức hệ thống các cơ quan nhà nước theo
đơn vị hành chính lãnh thổ, căn cứ vào điều kiện, khả năng thực tế của các cơ
quan tiến hành tố tụng, BLTTHS năm 2003 đã quy định về thẩm quyền xét xử
cho từng cấp Tòa án. BLTTHS năm 2003 căn cứ vào cách thức tổ chức đó để
quy định thẩm quyền xét xử. Dựa vào thẩm quyền theo luật định mỗi cấp Tòa
án đều có quyền xét xử riêng mà không bị chi phối bởi Tòa án cấp trên. để
phân định thẩm quyền của Tòa án. Việc phân định thẩm quyền như trên
không chỉ đảm bảo tính khoa học về mặt quản lý mà còn phát huy được khả
26
năng phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng khác, các cơ quan bổ trợ tư
pháp trong giải quyết các vụ án.
1.2.3. Căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng, phức tạp của
tội phạm hay vụ án, các đặc điểm nhân thân người phạm tội
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến khách thể
được bảo vệ bằng pháp luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội được xem xét trên hai phương diện: Về mặt xã hội và về mặt thực tế.
Mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là tiêu chí khách quan về số
lượng, có tính chất bổ sung để phân biệt rõ hơn từng loại tội phạm. Mức độ
nghiêm trọng của tội phạm thể hiện sự gây nguy hại cho xã hội của tội phạm
đến mức độ nào, không lớn hay rất lớn hoặc đặc biệt lớn cho các khách thể được
luật hình sự bảo vệ. Tùy vào mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để áp dụng
các chế tài khác nhau. Tội phạm càng nghiêm trọng thì hình phạt càng cao và
ngược lại. Muốn giải quyết được nhanh chóng, chính xác, tránh oan sai thì khi
phân định thẩm quyền xét xử cho Tòa án các cấp phải căn cứ vào tính chất
nghiêm trọng của tội phạm. BLTTHS năm 2003 nước ta quy định thẩm quyền
xét xử của Tòa án theo hướng, loại tội càng nghiêm trọng thì càng đòi hỏi cơ
quan và người tiến hành tố tụng cấp cao hơn và có năng lực cao hơn xét xử.
Bên cạnh đó, khi phân định thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp còn
phải dựa vào tính phức tạp của từng loại tội phạm. Tính phức tạp của tội
phạm được xem xét dưới góc độ luật hình sự dựa vào khách thể bị xâm hại,
còn đường lối xử lý theo quy định của luật tố tụng hình sự thì tính phức tạp lại
dựa vào khả năng điều tra, truy tố, xét xử khó khăn đến mức nào.
Quy định thẩm quyền xét xử phải căn cứ cả tính nghiêm trọng và tính
phức tạp của tội phạm do đây là hai khái niệm khác nhau. Có những trường
hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nhưng
lại bị coi là phức tạp, ngược lại có trường hợp phạm tội nghiêm trọng lại
không quá phức tạp.
27
Tính phức tạp của tội phạm được xem xét dưới các khía cạnh:
- Chủ thể tội phạm: Đối với những chủ thể tội phạm là người có chức
vụ, quyền hạn trong các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc người phạm tội có
liên quan tới yếu tố nước ngoài, người có chức sắc trong tôn giáo được coi là
có tính phức tạp cao nên quy định cho TAND cấp tỉnh, TAQS cấp quân khu
có thẩm quyền giải quyết.
- Khả năng chứng minh tội phạm: Là khả năng điều tra, thu thập
chứng cứ để làm sáng tỏ sự thực khách quan của vụ án. Những trường hợp tội
phạm gây thiệt hại cho quân đội, phạm tội trong khu vực cấm, liên quan đến
bí mật quân sự thì việc chứng minh liên quan đến quân đội, do đó thuộc thẩm
quyền của TAQS. Một số tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm an ninh quốc
gia, mặc dù có khung hình phạt dưới 15 năm tù nhưng vẫn phải quy định
thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh, TAQS cấp quân khu.
1.2.4. Căn cứ vào thực trạng đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử
Thực hiện hoạt động tố tụng là cá nhân con người cụ thể, kết quả của
hoạt động tố tụng ít nhiều vẫn mang màu sắc chủ quan của con người. Để có
thể phản ánh một cách khách quan sự việc phạm tội, xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, đảm bảo tính công bằng trong xã hội thì người tiến hành
tố tụng cần phải có trình độ chuyên môn, năng lực nhất định. Vụ án càng
phức tạp càng cần thiết đòi hỏi người có trình độ năng lực cao hơn giải quyết.
Việc phân định thẩm quyền xét xử không thể không dựa trên cơ sở trình độ
của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Hiện nay chúng ta đang thực
hiện tiêu chuẩn hóa Thẩm phán theo đúng quy định của pháp luật. Để được bổ
nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp ngoài việc bắt buộc phải có trình độ cử nhân
luật, còn phải được đào tạo qua lớp nghiệp vụ xét xử và phải có thâm niên
công tác 05 năm. Tới đây, nếu dự thảo Luật Tổ chức TAND sửa đổi được
thông qua thì để được bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp phải có thêm các tiêu
chuẩn đó là: Có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý; có hiểu biết
28
xã hội phong phú và phải trúng tuyển kỳ thi tuyển nguồn Thẩm phán. Để
được bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp phải qua 05 năm làm Thẩm phán sơ
cấp. Để được bổ nhiệm làm Thẩm phán TANDTC phải có ít nhất 05 năm là
Thẩm phán trung cấp... Nếu so sánh trình độ của Thẩm phán hiện nay với
trình độ của Thẩm phán năm 2009 thì đã có bước tiến rất đáng kể. Phần lớn
đều tốt nghiệp đại học Luật chính quy. Có nhiều Thẩm phán có trình độ Thạc
sĩ và Tiến sĩ. Không còn Thẩm phán chỉ có trình độ sơ cấp, trung cấp và luân
huấn. Thẩm phán còn nợ tiêu chuẩn đại học luật, đã học nhưng chưa tốt
nghiệp hầu như không còn.
Thực tiễn cho thấy năng lực, trình độ chuyên môn của người Thẩm
phán có mối quan hệ mật thiết với thẩm quyền xét xử của TAND các cấp. Với
tính chất đặc thù của hoạt động xét xử, Tòa án cần phải có đội ngũ những
người làm nhiệm vụ xét xử có phẩm chất đạo đức trong sáng, liêm khiết,
trung thực, có kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ
năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật,
có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế XHCN, có bản lĩnh đấu tranh vì công
lý. Chỉ khi hội tụ đủ những phẩm chất như trên thì Thẩm phán mới có thể độc
lập thực sự để giải quyết các vụ án một cách nhanh chóng, chính xác, đúng
pháp luật. Trình độ chuyên môn cùng với kiến thức và kinh nghiệm thực tế
tạo thành năng lực của người Thẩm phán. Những vụ án càng nghiêm trọng,
phức tạp càng đòi hỏi phải được giao cho những Thẩm phán có năng lực cao
giải quyết. Vì vậy, khi phân định thẩm quyền xét xử phải căn cứ vào trình độ,
năng lực của Thẩm phán để quy định cho phù hợp, đảm bảo cho các đơn vị
Tòa án có đủ điều kiện, khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác của mình.
1.2.5. Căn cứ vào mối liên hệ giữa thẩm quyền xét xử với các chế
định khác của tố tụng hình sự
Thẩm quyền xét xử của Tòa án là chế định quan trọng trong tố tụng
hình sự, có liên quan đến nhiều chế định khác như thẩm quyền điều tra, truy
29
tố, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Vì vậy, việc quy
định hoặc điều chỉnh thẩm quyền xét xử không thể không căn cứ vào thực
tiễn hoạt động điều tra, truy tố, thực lực của hệ thống các cơ quan bảo vệ
pháp luật có liên quan đến hoạt động xét xử bao gồm: "Các cơ quan điều tra,
Cảnh sát, an ninh, Viện kiểm sát...". Các cơ quan bổ trợ tư pháp thực hiện
các hoạt động tương ứng của mình hỗ trợ cho việc thực hiện chức năng xét
xử của Tòa án, bao gồm: "Tổ chức luật sư, giám định...". Việc quy định
thẩm quyền xét xử của Tòa án phải căn cứ vào mối liên hệ giữa thẩm quyền
của Tòa án với các chế định khác của tố tụng hình sự, nhất là chế định về
thẩm quyền của cơ quan điều tra để đảm bảo sự phù hợp giữa các cơ quan
điều tra, truy tố và xét xử.
1.2.6. Căn cứ vào hiệu quả kinh tế của hoạt động xét xử và các
hoạt động tố tụng khác
Bất kỳ một hoạt động tố tụng nào cũng phải tính đến yếu tố kinh tế.
Phải tính toán sao cho vừa đạt được hiệu quả vừa phải chi phí ở mức thấp
nhất. Có thể xem xét hiệu quả kinh tế trong hoạt động tố tụng ở các mặt sau:
- Chi phí cho hoạt động điều tra: Các vụ án được điều tra ở cấp huyện
thì ít tốn kém và có điều kiện thu thập chứng cứ tốt hơn cấp tỉnh, bởi lẽ cơ
quan điều tra vừa tiếp cận kịp thời được hiện trường vụ án vừa tiết kiệm được
chi phí đi lại trong việc khám nghiệm hiện trường, xác minh thu thập chứng cứ.
- Chi phí cho hoạt động xét xử: Những vụ án được xét xử sơ thẩm ở
cấp huyện thì cấp tỉnh sẽ xét xử phúc thẩm. Như vậy, sẽ giảm được khoản chi
phí đi lại, ăn ngủ cho Hội đồng xét xử (HĐXX) phúc thẩm.
Qua đó cho thấy, vụ án càng được xét xử ở Tòa án cấp thấp hơn thì
càng cắt giảm được các khoản chi phí cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
cũng như của những người tham gia tố tụng, các tổ chức xã hội và công dân
khi tham gia tố tụng.
30
1.2.7. Căn cứ vào sự bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân và những người tham gia tố tụng
Mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước đều hướng tới mục tiêu
chung là phục vụ cho lợi ích của con người. Vì vậy, khi quy định thẩm quyền
xét xử của Tòa án, nhà làm luật phải luôn quan tâm đến việc bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân và những người tham gia tố tụng. Do cân
nhắc một vụ án được xét xử tại Tòa án cấp huyện thì những người tham gia tố
tụng có điều kiện tốt hơn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, dễ dàng trong việc trực tiếp tham gia tố tụng, trong việc yêu cầu triệu
tập thêm người làm chứng, giảm bớt tình trạng do ngại đi lại có một vài người
trong số những người tham gia tố tụng vắng mặt phải hoãn phiên tòa, làm ảnh
hưởng tới thời gian, chi phí tốn kém đi lại của những người tham gia tố tụng
khác. Nên, xu hướng quy định của luật càng ngày càng mở rộng thẩm quyền
xét xử cho TAND cấp quận, huyện.
1.2.8. Căn cứ vào tình hình tội phạm, yêu cầu đấu tranh phòng và
chống tội phạm
Thực tế cho thấy sự phát triển trên các mặt của đời sống xã hội kéo
theo sự chuyển biến của tình hình tội phạm diễn biến theo chiều hướng ngày
càng nghiêm trọng và tinh vi hơn, xuất hiện thêm nhiều loại tội phạm công
nghệ cao. Trong xu thế toàn cầu hóa, chính sách mở cửa, tăng cường mối
quan hệ hợp tác với nước ngoài của Nhà nước ta trong những năm gần đây
khiến sự giao lưu đi lại giữa các quốc gia ngày càng thuận lợi làm cho tội
phạm có yếu tố nước ngoài tăng dần. Những yếu tố đó dẫn đến số lượng các
vụ án thuộc thẩm quyền của TAND các cấp có thể tăng lên hoặc giảm đi. Vì
vậy, quy định về thẩm quyền xét xử của TAND các cấp cũng phải thay đổi
theo căn cứ vào diễn biến của tình hình tội phạm cũng như yêu cầu đấu tranh
chống và phòng ngừa tội phạm.
Tóm lại: Để quy định thẩm quyền xét xử về hình sự của TAND phải
căn cứ vào đường lối chính sách của Đảng, các nguyên tắc tổ chức và hoạt
31
động, cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan nhà nước nói chung, các cơ quan
tư pháp nói riêng; căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng, phức tạp của
tội phạm hay vụ án; không gian thực hiện tội phạm hoặc hành vi tố tụng; nhân
thân người phạm tội [6, tr. 382]; căn cứ vào thực trạng của đội ngũ cán bộ làm
công tác điều tra, truy tố, xét xử; căn cứ vào mối liên hệ giữa thẩm quyền xét
xử với các chế định khác của tố tụng hình sự; căn cứ vào hiệu quả kinh tế của
hoạt động xét xử, các hoạt động tố tụng khác; căn cứ vào sự bảo đảm các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và những người tham gia tố tụng; căn
cứ vào tình hình tội phạm, yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Các căn cứ trên có mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít với nhau, bổ sung cho
nhau, đôi khi mâu thuẫn nhau, nhưng đều nằm trong mối quan hệ thống nhất.
Vì vậy, nhà làm luật cần phải nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống, có
những dự báo cần thiết liên quan đến các căn cứ thì mới có khả năng quy định
thẩm quyền xét xử của TAND các cấp một cách phù hợp. Trên cơ sở đó đảm
bảo tính tiết kiệm và hiệu quả của hoạt động tố tụng, là cơ sở để tổ chức bộ
máy các cơ quan tư pháp, đảm bảo cho việc xét xử chính xác, khách quan, công
bằng các vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN NAY
1.3.1 Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến khi
pháp điển hóa lần thứ nhất Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988
Cách mạng Tháng tám năm 1945 thành công đã xóa bỏ chính quyền
thực dân phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới đối với nước ta - kỷ nguyên độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lập ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Ngay từ những ngày đầu mới giành được chính quyền, Nhà nước ta đã nhận
thấy nền tư pháp chủ yếu là một bộ máy đàn áp, một bộ máy bóc lột tư sản. Vì
vậy, nhiệm vụ tuyệt đối của cách mạng vô sản không phải là cải cách các chế
32
định tư pháp...mà là hủy bỏ hoàn toàn, phá hủy tận gốc rễ nền tư pháp cũ và
bộ máy của nó... Chính vì lẽ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc
lệnh số 18/SL ngày 8/9/1945 bãi bỏ ngạch học quan; Sắc lệnh số 32/S1 ngày
13/9/1945 bãi bỏ hai ngạch quan hành chính và quan tư pháp. Đồng thời Đảng
và Nhà nước ta khẩn trương xây dựng bộ máy nhà nước cách mạng, trong đó
có TAND.
Ở giai đoạn đầu của Cách mạng tháng Tám, Sắc lệnh số 33C ngày
13/9/1945 và sau đó bổ sung bằng Sắc lệnh số 21 ngày 24/1/1946 của Chính
phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa thiết lập các TAQS nhằm trừng trị tất cả
những người nào xâm hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa. TAQS là công cụ chuyên chính của chính quyền cách mạng, được thành
lập dựa trên sự phối hợp của các Bộ Quốc phòng, Nội vụ và Tư pháp. Các
TAQS ban đầu, chưa phải là tổ chức chuyên trách, thường trực, mà chỉ khi có
vụ án thì lập ra Tòa án để xét xử [38, tr. 23].
Trong khi pháp luật còn thiếu, Sắc lệnh ngày 10/1/1945 cho phép Tòa
án vận dụng những luật lệ của chế độ cũ, trừ những điều khoản trái với
nguyên tắc độc lập, trái với chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Để tăng cường bộ máy tư pháp, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số
13/SL ngày 24/1/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ
cộng hòa quy định về mô hình tổ chức hệ thống Tòa án như sau [36, tr. 68]:
• Ở cấp Trung ương: Tòa thượng thẩm có ở ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
Nam Kỳ) đóng tại Hà Nội, Huế và Sài Gòn có thẩm quyền xét xử những việc
kháng cáo bản án sơ thẩm của các Tòa án đệ nhị cấp.
• Ở cấp tỉnh: Các Tòa án đệ nhị cấp ở các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương và cấp tương đương có thẩm quyền xét xử chung thẩm những án
vi cảnh của Tòa án sơ cấp bị kháng cáo, xét xử sơ thẩm những việc tiểu hình
và đại hình. Những việc tiểu hình là những việc có thể bị phạt tù từ 6 ngày
đến 5 năm, hay phạt bạc trên 9 đồng.
33
• Ở cấp huyện: Các Tòa án sơ cấp ở các huyện, thị xã, châu, phủ có
thẩm quyền xét xử chung thẩm những án phạt bạc từ 0,5 đồng đến 9 đồng,
những án xử bồi thường không quá 150 đồng. Có quyền xét xử sơ thẩm
những vụ án phạt giam từ 1 đến 5 ngày, những vụ án xử bồi thường quá 150
đồng hoặc những việc xin bồi thường quá số tiền ấy.
Thời kỳ này còn có cấp khu nên có Tư pháp khu. Khi xét xử phúc
thẩm có Hội đồng phúc án của Tư pháp khu.
Để phân biệt thẩm quyền của Tòa án, Chính phủ đã ra Sắc lệnh số
51/SL ngày 17/4/1946 quy định các Tòa án sơ cấp và đệ nhị cấp có thẩm
quyền xét xử sơ thẩm đồng thời cả chung thẩm, còn Tòa án thượng thẩm chỉ
xét xử phúc thẩm. Hệ thống Tòa án tư pháp do Bộ Tư pháp quản lý. Bộ
trưởng Bộ Tư pháp từng bước quyết định thiết lập dần dần các Tòa án ở các
nơi tùy điều kiện thuận lợi. Những nơi chưa có điều kiện thành lập Tòa án,
việc tư pháp vẫn do Ủy ban hành chính đảm nhiệm.
Ngày 23/8/1946, Chính phủ đã ra Sắc lệnh số 163/SL ngày 23/8/1946
thành lập Tòa án binh lâm thời, trụ sở đặt tại Hà Nội [38, tr. 30]. Các Tòa án
binh này đều thuộc quyền quản lý của Ủy ban kháng chiến - hành chính khu
và về chuyên môn do Cục Quân pháp - Bộ Quốc phòng đảm nhiệm. Thẩm
quyền của Tòa án binh là xét xử những quân nhân phạm tội, những người có
hành vi gây thiệt hại cho quân đội hoặc có liên quan đến quân đội và các tội
phạm xảy ra ở nơi đóng quân của quân đội. Có thể thấy Sắc lệnh 163/SL là
một trong những văn bản pháp luật đầu tiên quy định về tổ chức, thẩm quyền
của các Tòa án binh. Đây là văn bản pháp luật làm tiền đề cho việc quy định
tổ chức, thẩm quyền của các TAQS hiện nay. Như vậy, trong thời gian này,
song song tồn tại các loại Tòa án: TAQS, Tòa án binh và hệ thống các Tòa án
tư pháp.
Hệ thống Tòa án tư pháp theo Sắc lệnh số 13/SL chỉ tồn tại đến năm
1950. Tuy là Tòa án cách mạng nhưng hệ thống và cơ cấu tổ chức về cơ bản
34
vẫn theo thời Pháp. Trong những năm 50, có những biến đổi quan trọng về tổ
chức và hoạt động của Tòa án cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành
cải cách bộ máy tư pháp, nâng cao vị trí của Tòa án trong bộ máy nhà nước,
Sắc lệnh 85/SL ngày 22/5/1950 quy định cải cách bộ máy tư pháp và luật tố
tụng. Đó là việc xây dựng nền tư pháp nhân dân và mô hình tổ chức hệ thống
Tòa án. Các Tòa án theo Sắc lệnh 13/SL trước đây được đổi tên thành các
TAND. Các Tòa án sơ cấp, đệ nhị cấp, Tòa án thượng thẩm được đổi thành
TAND huyện, TAND tỉnh và các TAND liên khu. Hội đồng phúc án đổi
thành Tòa phúc thẩm, còn các Phụ thẩm nhân dân được đổi thành Hội thẩm
nhân dân. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân có quyền xem xét hồ sơ và ngang
quyền với Thẩm phán khi biểu quyết. Các Thẩm phán được bổ nhiệm là
những người có công với cách mạng, thành phần cốt cán có thành tích xuất
sắc trong chiến đấu và lao động. Ngoài ra, trong thời kỳ này còn có các
TAQS, Tòa án đặc biệt. Tuy nhiên, Tòa án đặc biệt chỉ được tổ chức trong
thời kỳ tiến hành giảm tô và cải cách ruộng đất.
Sắc lệnh 156/SL ngày 22/10/1950 đã giao cho các TAND liên khu
thẩm quyền xét xử những tội phản cách mạng thay thế cho các TAQS.
Ở các vùng bị tạm chiếm, Chính phủ ra Sắc lệnh 157/SL ngày
17/11/1950 quy định thành lập các TAND. Các Tòa án này có thẩm quyền
tương tự như Tòa án các cấp ở vùng tự do, nhưng thủ tục xét xử đơn giản hơn.
Sau khi hòa bình lập lại. Tháng 4/1958 Quốc hội đã quyết định thành
lập TANDTC và Viện công tố nhân dân trung ương. Hai cơ quan này trực thuộc
Hội đồng Chính phủ. Sau đó ngày 14/12/1958 Thủ tướng Chính phủ có Thông
tư số 556/TTg cụ thể hóa nhiệm vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật bao gồm:
Công an, Công tố, Tòa án. Tinh thần các quy định của các văn bản pháp luật
này được ghi nhận vào Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức TAND năm 1960.
Trong công cuộc cải tạo XHCN và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thông
qua xét xử các vụ án, ngành Tòa án đã góp phần to lớn trong việc bóc trần âm
35
mưu của các phần tử phản cách mạng, phá hoại công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân.
* Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1959, Quốc hội đã ban hành
Luật tổ chức TAND ngày 14/7/1960. Theo Luật tổ chức TAND năm 1960 thì
hệ thống các TAND gồm có: TANDTC, các TAND địa phương, các TAQS.
Trong trường hợp cần xét xử các vụ án đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định
thành lập Tòa án đặc biệt. TAND địa phương gồm có: TAND tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương, TAND ở các khu
vực tự trị. Điều đáng lưu ý là trong Luật tổ chức TAND năm 1960 chỉ quy
định có tính chất nguyên tắc về thẩm quyền của các TAND các cấp, mà không
quy định cụ thể về tổ chức của TAND các cấp.
Trên cơ sở của Luật tổ chức TAND ngày 23/3/1961, Ủy ban thường
vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức TANDTC và
tổ chức các TAND địa phương, Sắc lệnh quy định thẩm quyền của TAND cấp
huyện như sau: Tòa án thị xã, thành phố, huyện hoặc đơn vị hành chính tương
đương có thẩm quyền xét xử, phân xử những việc hình sự nhỏ không phải mở
phiên tòa; sơ thẩm những vụ án hình sự có thể phạt 2 năm tù trở xuống. Điều
này đã vi phạm nguyên tắc xét xử là dự kiến trước hình phạt, chưa xét xử đã
biết hình phạt. Do đó, TANDTC trong Thông tư số 1080/TC ngày 25/9/1961
và Thông tư 1071/TC ngày 7/9/1965 đã hướng dẫn rõ về việc phân xử những
việc hình sự nhỏ không phải mở phiên tòa. Đó là những vi phạm pháp luật mà
mức độ nguy hại cho xã hội của hành vi không lớn, có mức án phạt không quá
giá trị 5kg gạo nếu là phạt tiền và không quá 5 ngày nếu là phạt giam. Đối với
những vi phạm này chủ yếu chỉ lấy giáo dục là chính, chỉ xử những người thật
đáng tội.
Để đơn giản hóa thủ tục tố tụng, Nghị quyết 228 NQ/TW ngày
18/1/1974 của Bộ Chính trị và Thông tư 10/TATC của TATC ngày 8/7/1974
36
đã đưa ra quy định về thủ tục rút ngắn đối với những tội ít nghiêm trọng,
phạm pháp quả tang, đơn giản rõ ràng, hình phạt mà Tòa án có thể quyết định
là từ 2 năm trở xuống.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Chính phủ cách mạng
lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ban hành Sắc lệnh số 01/SI ngày
15/3/1976 nhằm thiết lập, tổ chức Tòa án ở miền Nam, quy định TAND cấp
huyện chỉ có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự có thể phạt từ 2 năm trở
xuống. Đồng thời ngày 28/3/1976 Bộ Tư pháp Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra Thông tư 01/BTP-TT về tổ chức TAND
quy định chỉ nên giao cho TAND cấp huyện xét xử những vụ án hình sự đơn
giản, ít quan trọng, không được xét xử những tội phản cách mạng, những tội
phạm gây tổn thương đến nhiều người hoặc chết người, những vụ án mà việc
xác định tội phạm gặp nhiều khó khăn và những vụ án ảnh hưởng chính trị lớn.
Việc hạn chế thẩm quyền của Tòa án cấp huyện chỉ được xử những vụ
án có mức phạt từ 02 năm trở xuống đã làm cho số lượng những vụ án thuộc
thẩm quyền xét của của Tòa án cấp tỉnh tăng lên, chỉ riêng những vụ án có
mức án dưới 5 năm tù đã chiếm tới 70% tổng số án đã xét xử.
Luật tổ chức TAND năm 1981 đã kế thừa và phát triển Luật tổ chức
TAND năm 1960 và có những nội dung mới. Điều 36 Luật tổ chức TAND
năm 1981 quy định: "Các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án hình sự, trừ: Những tội xâm
phạm an ninh quốc gia và những tội phạm hình sự khác có tính chất nghiêm
trọng, gây hậu quả lớn" [21].
Thẩm quyền mới của Tòa án đã xác định theo sự việc chứ không bị
khống chế bởi mức hình phạt tù, không giao cho TAND cấp huyện xét xử
những tội có tính chất nghiêm trọng.
Sau khi Luật này có hiệu lực, để các Tòa án thực hiện tốt thẩm quyền
xét xử, ngày 6/2/1982 TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ ban
37
hành Thông tư liên ngành hướng dẫn thực hiện thẩm quyền của Tòa án cấp
huyện. Theo thông tư này, các TAND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh được xét xử những tội phạm về hình sự quy định tại khung 1 có mức hình
phạt từ 7 năm trở xuống, nếu là hình phạt quy định trong khung 2 nhưng thực
tế chỉ cần xử phạt tương đương với khung 1 vì có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì
TAND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh cũng có thẩm quyền giải
quyết. TAND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh không được xét
xử những tội phạm phản cách mạng, những vụ án có tính chất nghiêm trọng,
phức tạp hoặc gây hậu quả lớn.
Để tạm thời giảm bớt lượng án thuộc thẩm quyền cấp tỉnh, Ngày
26/7/1986, VKSNDTC, TANDTC, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ ra Thông tư
liên ngành số 01/TTLN hướng dẫn các TAND cấp huyện được xét xử một số
tội mà pháp luật quy định hình phạt từ 7 năm tù trở xuống nhưng có tình tiết
giảm nhẹ cho phép phạt từ 5 năm tù trở xuống. Tuy nhiên, cách giải quyết này
cũng chỉ là tạm thời, vì vẫn có điểm bất hợp lý là cho phép Tòa án dự kiến
mức hình phạt trước khi xét xử.
* Thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương
Theo quy định của Luật tổ chức TAND năm 1960 và sau đó là Pháp
lệnh Tổ chức TANDTC và TAND địa phương ngày 23/3/1961, TAND cấp
huyện được xét xử những vụ án có thể xử phạt 2 năm tù trở xuống nên ngoài
công việc này ra, những công việc còn lại thuộc thẩm quyền của TAND cấp
tỉnh tức là những vụ án hình sự có thể phạt trên 2 năm tù hoặc những vụ án
thuộc thẩm quyền cấp dưới nhưng TAND cấp tỉnh lấy lên để xét xử.
Theo quy định của Luật tổ chức TAND năm 1981, các TAND cấp
huyện được xét xử các tội phạm có khung hình phạt từ 5 năm tù trở xuống và
cả một số tội có khung hình phạt từ 7 năm tù trở xuống nhưng có nhiều tình
tiết giảm nhẹ. Thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện được mở rộng hơn đã
38
làm cho số lượng các vụ án phải xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh giảm đi
nhiều. Quy định này hợp lý hơn vì nếu việc xét xử của TAND cấp tỉnh giảm
đi thì TAND cấp tỉnh có điều kiện tập trung thực hiện chức năng phúc thẩm
các bản án, quyết định sơ thẩm của TAND cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị.
Thời kỳ này ở nước ta còn tổ chức đơn vị hành chính khu tự trị bao gồm
nhiều tỉnh trong khu. Phù hợp với mô hình tổ chức khu tự trị cần phải có TAND
khu. Do đó năm 1963 Quốc hội quyết định thành lập các TAND khu ở những
khu tự trị. Hai khu tự trị Việt Bắc và Tây Bắc đã thành lập các TAND khu.
Tại Điều 2 của Điều lệ quy định cụ thể về tổ chức của TAND các cấp
trong khu tự trị Việt Bắc được Ủy ban tư vấn Quốc hội phê chuẩn ngày
02/3/1963 quy định: "Tòa án nhân dân khu có thẩm quyền sơ thẩm những vụ
án hình sự và dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp dưới, nhưng
xét thấy quan trọng hoặc phức tạp cần lấy lên để xem xét". Điều này cũng
được quy định tại Điều lệ quy định cụ thể về tổ chức TAND các cấp trong
khu tự trị Tây Bắc. Thực hiện thẩm quyền này, các TAND khu tự trị đã xét xử
được nhiều vụ án phức tạp làm giảm một phần công việc của TAND tỉnh
trong khu, tạo điều kiện cho các Tòa án này giải quyết tốt các vụ án khác.
Điều đó cho thấy việc thành lập TAND khu tự trị đã đáp ứng được với hoàn
cảnh đất nước thời kỳ đó, kịp thời xét xử các vụ án hình sự trong điều kiện đi
lại khó khăn của miền núi.
* Thẩm quyền của TANDTC
Trong Nghị định số 3881/TTg ngày 20/10/1959 của Thủ tướng Chính
phủ xác định TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa, giám đốc việc xét xử các TAND địa phương và TAQS các cấp.
TANDTC có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án
mà pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của TANDTC và những vụ án đặc
biệt mà Viện công tố Trung ương hoặc TANDTC thấy phải do TANDTC
xét xử.
39
Sau một thời gian thực hiện thẩm quyền xét xử theo Nghị định trên,
xét thấy cẩn quy định thẩm quyền xét xử của TANDTC và các Tòa án khác
trong một văn bản pháp luật cao hơn. Do đó, Luật tổ chức TAND năm 1960
ra đời, quy định thẩm quyền xét xử của TANDTC là những vụ án thuộc thẩm
quyền của TAND cấp dưới mà TANDTC lấy lên để xét xử. Pháp lệnh ngày
23/3/1961 về tổ chức TAND đã quy định cụ thể hóa Luật tổ chức TAND năm
1960: TANDTC có thẩm quyền sơ thẩm đồng thời là chung thẩm những vụ án
do pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của TANDTC và những vụ án thuộc
thẩm quyền của TAND cấp dưới nhưng TANDTC xét thấy cần lấy lên để xét
xử. Nhưng quy định này không quy định cụ thể những vụ án nào là thuộc
thẩm quyền xét xử của TANDTC nên các TAND địa phương rất khó xác định
vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án mình hay của TANDTC.
Đến năm 1981, Quốc hội ban hành Luật tổ chức TAND mới quy định
TANDTC có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm những vụ
án đặc biệt nghiêm trọng hoặc phức tạp. Nhưng phải đến ngày 22/12/1981
Liên ngành TANDTC, VKSNDTC, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp ra Thông tư số
05/TTLN mới hướng dẫn những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp cần
đưa ra xét xử thủ tục sơ thẩm đồng thời là chung thẩm phải thỏa mãn 4 điều
kiện sau:
- Về loại tội: Là những tội xâm phạm ninh quốc gia, xâm phạm sở hữu
XHCN, xâm phạm tính mạng, sức khỏe.
- Về đối tượng: Bị cáo là những tên phản cách mạng, lưu manh côn đồ,
những tên chuyên làm ăn phi pháp, cán bộ công nhân viên sa đọa, biến chất.
- Về chứng cứ vụ án: Phải có chứng cứ rõ ràng và thường ít bị cáo.
- Về hình phạt: Thường áp dụng hình phạt cao nhất là tử hình.
Với thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm, chúng ta đã
trấn áp kịp thời những bọn phản cách mạng, lưu manh côn đồ hung hãn, giữ
vững chính quyền, bảo vệ trật tự an toàn xã hội. Tuy vậy, việc quy định thẩm
40
quyền này không đảm bảo được quyền kháng cáo của bị cáo, không đảm bảo
được nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật nên ngày càng
bị hạn chế và sau đó đã bị xóa bỏ.
* Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm
Điều 3 Sắc lệnh ngày 13/9/1945 quy định việc xét xử của các TAQS
là chung thẩm, các bản án được thi hành ngay, đương sự không có quyền
chống án, trừ những bản án tuyên xử tử. Đối với những bản án này do mức
hình phạt là cao nhất nên pháp luật vẫn cho phép bị cáo vẫn có quyền đệ đơn
xin Chủ tịch Chính phủ ân giảm. Đây có thể coi là văn bản đầu tiên đặt nền
móng cho việc xét xử phúc thẩm mà sau đó là một loạt các văn bản cũng quy
định về vấn đề này. Đó là các Sắc lệnh 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức các
Tòa án và các ngạch bậc Thẩm phán, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946, Sắc
lệnh số 112/SL ngày 28/6/1946. Điều 63 của Hiến pháp 1946 quy định cơ
quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm có: TATC, Tòa án
phúc thẩm, Tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp.
Thực hiện quy định của Hiến pháp, các Tòa án phúc thẩm được thành
lập. Nhà nước ta ban hành Sắc lệnh 85/SL ngày 22/5/1950 quy định "Người
bị thiệt hại có quyền kháng cáo để xin tăng hình phạt, tiền bồi thường và các
khoản bồi hoàn"; Thông tư 1828/TT ngày 18/10/1955 cũng quy định về các
thủ tục phúc thẩm. Để khắc phục tình trạng xét xử chung thẩm của TAND
tỉnh như trước, ngày 19/8/1955 Bộ Tư pháp ra Thông tư 1459/HCTP xác định
nguyên tắc 2 cấp xét xử, nhưng đối với các vụ phạm pháp về chính trị vẫn
được thực hiện Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/2/1946 và Sắc lệnh số 156/SL
ngày 17/11/1950 xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm, Sắc lệnh số 12/SL
ngày 30/3/1957 các TAND tỉnh được giao thẩm quyền xét xử các vụ án chính
trị, mà không phải thực hiện việc ủy quyền xét xử như trước đây để nâng cao
chất lượng xét xử phúc thẩm, ngày 14/8/1959 Thủ tướng Chính phủ ra Nghị
định số 300/TTg xác nhận các Tòa phúc thẩm khu thành TAND phúc thẩm
41
Hà Nội, TAND phúc thẩm Hải Phòng, TAND phúc thẩm Vinh. Các Tòa này
có thẩm quyền xét xử lại các bản án của TAND tỉnh bị kháng cáo.
Sau khi TANDTC tách khỏi Bộ Tư pháp, Thủ tướng Chính phủ đã ra
Nghị định số 381/TTg ngày 20/10/1959 giao cho TANDTC có thẩm quyền
xét xử phúc thẩm những vụ án do TAND cấp dưới xét xử trong các trường
hợp có kháng nghị của cơ quan công tố.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức
TAND ngày 14/7/1960, theo đó xác định chế độ hai cấp xét xử. Theo Luật tổ
chức TAND năm 1960, TANDTC và TAND tỉnh có thẩm quyền xét xử phúc
thẩm các bản án quyết định của TAND cấp dưới bị chống án hoặc bị kháng
nghị trên cơ sở của Luật tổ chức TAND năm 1960, TANDTC đã ban hành
Thông tư 03/TATC ngày 19/5/1967. Thông tư cho phép Tòa án cấp phúc
thẩm có quyền xét lại toàn bộ vụ án, kể cả những người không kháng cáo,
cũng không bị kháng cáo, kháng nghị. Điều này làm cho công tác xét xử phúc
thẩm cồng kềnh, không hợp lý. Khắc phục tình trạng đó, ngày 02/10/1974,
TANDTC ban hành văn bản hướng dẫn về trình tự tố tụng phúc thẩm về hình
sự kèm theo Thông tư số 19/TATC quy định cụ thể về trình tự thủ tục xét xử
phúc thẩm. Trong đó xác định chức năng của TAND cấp phúc thẩm là xét xử
lại những vụ án đã được xét xử theo trình tự sơ thẩm, khi bản án chưa có hiệu
lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Nhiệm vụ cụ thể của TAND cấp phúc
thẩm là kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của bản án sơ thẩm và xét xử
lại vụ án về nội dung. Nếu kháng cáo, kháng nghị một phần bản án thì Tòa án
cấp phúc thẩm chỉ được xét xử đối với những người có kháng cáo, kháng nghị
nhưng khi xem xét nội dung của kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc
thẩm phải đặt nó trong toàn bộ vụ án. Đối với những bị cáo không kháng cáo,
cũng không bị kháng cáo, kháng nghị nếu xét thấy mức án sơ thẩm là quá nhẹ
thì Tòa án cấp phúc thẩm đề nghị Viện kiểm sát kháng nghị.
Thông tư 19/TATC đã góp phần nâng cao tác dụng của việc xét xử
phúc thẩm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân.
42
* Thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm
Để khắc phục tình trạng phát hiện sai lầm đối với những bản án quyết
định có hiệu lực pháp luật, Bộ Tư pháp đã ra Thông tư 312/TT ngày
12/2/1958 yêu cầu Tòa án các cấp phải xem xét giải quyết các khiếu nại tố
cáo để khắc phục những sai lầm đối với những bản án có hiệu lực pháp luật.
Sau đó, Bộ Tư pháp thống nhất với TANDTC ra Thông tư số 02/TT ngày
13/1/1959 và Thông tư số 04/TT ngày 3/2/1959. Theo các Thông tư này thì
Tòa án xem xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật đối với các
can phạm bị giam giữ thi hành án trong các trường hợp bị xét xử oan; tội nặng
xử nhẹ, tội nhẹ xử nặng.
Đối với những trường hợp phải xét lại bản án, quyết định đã có hiệu
lực này, TANDTC căn cứ vào báo cáo của các TAND cấp tỉnh, chứ không
căn cứ vào kháng nghị của người có thẩm quyền.
Sau khi Luật tổ chức TAND năm 1960 được ban hành, thẩm quyền,
thủ tục giám đốc thẩm được quy định rõ và chi tiết hơn: Đối với những bản
án, quyết định của TAND địa phương đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát
hiện có sai lầm thì TANDTC có quyền xét lại hoặc giao cho TAND cấp dưới
xét lại, đối với những bản án của TANDTC đã có hiệu lực pháp luật, nếu phát
hiện có sai lầm thì Chánh án TANDTC đưa ra Ủy ban thẩm phán TANDTC
xét định.
Luật tổ chức TAND ngày 3/7/1981 đã mở rộng thẩm quyền xét lại bản
án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Lần đầu tiên đã có một văn bản
pháp luật tố tụng hình sự quy định thủ tục tái thẩm đối với những bản án và
quyết định đã có hiệu lực pháp luật nếu phát hiện có những tình tiết mới. Luật
tổ chức TAND năm 1981 mở rộng thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái
thẩm những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND huyện
cho Ủy ban thẩm phán TAND cấp tỉnh. Ngày 1/2/1982, TANDTC, VKSNDTC,
Bộ Tư pháp đã ra Thông tư số 01/TT-LB hướng dẫn về thủ tục giám đốc thẩm
43
hình sự ở TAND cấp tỉnh. Thông tư đã hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền, thủ
tục, thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Cùng ngày 1/2/1982,
TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp ra Thông tư số 02/TT-LB hướng dẫn về
thủ tục tái thẩm ở TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương
đương. Thông tư chỉ rõ nguồn tài liệu để phát hiện ra những tình tiết mới là
kết quả của công tác điều tra xác minh mới do cơ quan điều tra hoặc VKSND
tiến hành sau khi có quyết định khởi tố, điều tra xác minh của VKSNDTC.
Hai Thông tư liên bộ 01 và 02 hướng dẫn về thủ tục giám đốc thẩm và tái
thẩm ở TAND cấp tỉnh, tuy quy định chưa được đầy đủ các vấn đề thẩm
quyền, trình tự thủ tục xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, nhưng cơ bản đã thống
nhất được thủ tục xét lại các bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật,
khắc phục được các thiếu sót trong xét xử, bảo đảm chất lượng các bản án
ngày càng đúng pháp luật.
1.3.2 Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
năm 1988 đến nay
Ngày 28/6/1988 Quốc hội thông qua BLTTHS đầu tiên của nước ta có
hiệu lực ngày 01/01/1989, đã kế thừa và phát triển những thành tựu của Luật
tố tụng hình sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu bảo vệ chế độ XHCN, phục vụ sự
nghiệp đổi mới đất nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
xử lý kiên quyết và triệt để mọi hành vi phạm tội.
Thẩm quyền của TAND cấp huyện và TAQS khu vực xét xử sơ thẩm
những tội phạm mà Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 quy định hình phạt từ
7 năm tù trở xuống, trừ những tội sau:
+ Các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia;
+ Các tội quy định tại các điều 89, 90, 91, 92, 93, khoản 3 Điều 101,
các điều 102, 179, 231, 232 BLHS năm 1999.
Thẩm quyền của TAND cấp tỉnh và TAQS cấp quân khu xét xử sơ
thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của
44
TAND cấp huyện và TAQS khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của
cấp dưới mà mình lấy lên xét xử.
Tòa hình sự TANDTC, TAQSTW xét xử sơ thẩm đồng thời chung
thẩm những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp.
Tòa án quân sự xét xử những bị cáo thuộc thẩm quyền xét xử của
mình theo quy định của pháp luật.
* Thẩm quyền xét xử theo đối tượng
Điều 3 Pháp lệnh tổ chức TAQS năm 1993 quy định: Các TAQS có
thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là:
Quân nhân tại ngũ, công nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị trong
thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu với
quân đội và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị
quân đội trực tiếp quản lý;
Những người không thuộc các đối tượng quy định ở trên phạm tội có
liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội.
* Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ
Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Tòa án nơi thực hiện tội
phạm. Trong trường hợp không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì
thẩm quyền xét xử của Tòa án là nơi kết thúc điều tra.
Trong trường hợp bị cáo phạm tội ở nước ngoài thì thẩm quyền xét xử
của TAND được xác định như sau: Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở
Việt Nam thì do TAND cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước
xét xử. Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị
cáo thì tùy trường hợp, Chánh án TANDTC ra quyết định giao cho TAND
thành phố Hà Nội hoặc TAND Thành phố Hồ Chí Minh xét xử. Bị cáo phạm
tội ở nước ngoài nếu thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS thì do TAQS quân
khu trở lên xét xử theo quyết định của Chánh án TAQS trung ương. Đối với
những vụ án xảy ra trên máy bay, tàu biển của nước Cộng hòa XHCN Việt
45
Nam đang hoạt động ở nước ngoài thì TAND ở Việt Nam nơi có sân bay, bến
cảng mà máy bay, tàu biển đó trở về đầu tiên trên lãnh thổ Việt Nam hoặc nơi
máy bay, tàu biển đó đăng ký có thẩm quyền xét xử.
* Thẩm quyền xét xử phúc thẩm
Theo các quy định của Luật tổ chức TAND năm 1992, thẩm quyền xét
xử phúc thẩm vụ án hình sự được phân định như sau:
Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm
quyền phúc thẩm những vụ án hình sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị.
Tòa án quân sự cấp quân khu và tương đương có thẩm quyền phúc
thẩm các vụ án hình sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật của TAQS cấp khu vực bị kháng cáo, kháng nghị.
Tòa phúc thẩm TANDTC có thẩm quyền phúc thẩm đối với vụ án,
quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương bị kháng cáo, kháng nghị.
Tòa án quân sự Trung ương có thẩm quyền phúc thẩm đối với những
bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TAQS cấp quân khu hoặc
tương đương, bị kháng cáo, kháng nghị.
* Thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
- Quy định về thẩm quyền giám đốc thẩm: Theo quy định tại Điều 248
BLTTHS năm 1988:
Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh giám đốc thẩm
những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
nhân dân cấp huyện; Ủy ban thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân
khu giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án quân sự khu vực;
Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những
bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng

More Related Content

What's hot

Tổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đề
Tổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đềTổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đề
Tổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đềThanh Trúc Lưu Hoàng
 

What's hot (20)

Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAYLuận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp, HOTLuận văn: Giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Tổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đề
Tổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đềTổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đề
Tổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đề
 
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt NamĐè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
Đè tài: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự, HAY
Luận văn: Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự, HAYLuận văn: Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự, HAY
Luận văn: Thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự, HAY
 
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễnLỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOTLuận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
 
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAYLuận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí MinhLuận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
 
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sựLuận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
 
Mô tả công việc của sinh viên thực tập tại tòa án quận, huyện
Mô tả công việc của sinh viên thực tập tại tòa án quận, huyệnMô tả công việc của sinh viên thực tập tại tòa án quận, huyện
Mô tả công việc của sinh viên thực tập tại tòa án quận, huyện
 

Similar to Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng

nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nư...
 nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nư... nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nư...
nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nư...hieu anh
 
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayvai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayhieu anh
 
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayvai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayhieu anh
 
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM>...
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM>...NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM>...
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM>...OnTimeVitThu
 

Similar to Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng (20)

nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nư...
 nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nư... nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nư...
nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nư...
 
Luận văn: Hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
Luận văn: Hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữLuận văn: Hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
Luận văn: Hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
 
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOTThi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, HOT
 
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
 
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con ngườiThẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
 
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụngNgười tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
 
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAYĐề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tùQuyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận án: Pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, HAYLuận án: Pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayvai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
 
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayvai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
 
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAYLuận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
 
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM>...
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM>...NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM>...
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM>...
 
Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Đà Nẵng, HAY
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào môBryan Williams
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx22146042
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )lamdapoet123
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 

Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ BẠCH TUYẾT THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TRƯỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. 2 đại học quốc gia hà nội ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ BẠCH TUYẾT THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TRƯỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt HÀ NỘI - 2014
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn ThÞ B¹ch TuyÕt
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 11 1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân 11 1.1.1. Khái niệm chung về thẩm quyền 11 1.1.2. Khái niệm thẩm quyền xét xử 12 1.2. Căn cứ phân định thẩm quyền đối với Tòa án nhân dân 15 1.2.1. Căn cứ vào đường lối chính sách của Đảng 15 1.2.2. Căn cứ vào nguyên tắc tổ chức, hoạt động, cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp nói riêng 17 1.2.3. Căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm hay vụ án, các đặc điểm nhân thân người phạm tội 18 1.2.4. Căn cứ vào thực trạng đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử 19 1.2.5. Căn cứ vào mối liên hệ giữa thẩm quyền xét xử với các chế định khác của tố tụng hình sự 20 1.2.6. Căn cứ vào hiệu quả kinh tế của hoạt động xét xử và các hoạt động tố tụng khác 21 1.2.7. Căn cứ vào sự bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và những người tham gia tố tụng 22 1.2.8. Căn cứ vào tình hình tội phạm, yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm 22
  • 5. 5 1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật tố tụng hình sự Việt Nam về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay 23 1.3.1 Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến khi pháp điển hóa lần thứ nhất Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 23 1.3.2 Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 đến nay 35 Chương 2: THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2003 VÀ BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 40 2.1. Thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 40 2.1.1. Thẩm quyền xét xử theo sự việc 40 2.1.2. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng 48 2.1.3. Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ 51 2.1.4. Thẩm quyền xét xử phúc thẩm của Tòa án 53 2.1.5. Thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm 56 2.1.6. Một số quy định khác liên quan đến thẩm quyền xét xử 58 2.2. Quy định về thẩm quyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới 61 2.2.1. Quy định về thẩm quyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự trung Hoa 61 2.2.2. Quy định về thẩm quyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga 62 2.2.3. Quy định về thẩm quyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự Malaysia 64 2.2.4. Quyđịnh về thẩmquyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự Canada 65 2.2.5. Quy định về thẩm quyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản 66
  • 6. 6 2.2.6. Quy định về thẩm quyền xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự Pháp 68 Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH, HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TRƯỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP 72 3.1. Thực tiễn thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Nam Định 72 3.1.1. Kết quả của việc thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Nam Định 72 3.1.2 Những hạn chế, vướng mắc 87 3.2. Giải pháp hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án 90 3.2.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xét xử 90 3.2.2. Những kiến nghị cụ thể 91 3.3. Các biện pháp bảo đảm thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án trước yêu cầu cải cách tư pháp 95 3.3.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ những người tiến hành tố tụng trong Tòa án 97 3.3.3. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật, chính sách tiền lương 101 3.3.4. Cải cách tổ chức và hoạt động phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, khi thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu của cải cách tư pháp 104 3.3.5. Tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp 104 KẾT LUẬN 106 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 108
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự HĐXX : Hội đồng xét xử TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TAQS : Tòa án quân sự VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 8. 8 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 3.1 Tình hình xét xử của Tòa án hai cấp tỉnh Nam Định từ 2009-2013 74 3.2 Tình hình xét xử sơ thẩm án hình sự của Tòa án hai cấp tỉnh Nam Định từ 2009-2013 75 DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang 3.1 Tình hình thụ lý, xét xử sơ thẩm án hình sự của Tòa án cấp huyện (tỉnh Nam Định) từ 2009-2013 77 3.2 Tình hình thụ lý, xét xử sơ thẩm án hình sự của Tòa án cấp tỉnh (tỉnh Nam Định) từ 2009-2013 78 3.3 Tình hình án sửa, hủy của Tòa án cấp phúc thẩm TAND tỉnh Nam Định từ 2009 - 2013 79
  • 9. 9 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong tiến trình phát triển kinh tế, xã hội, để đáp ứng các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện toàn cầu hóa, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm tăng cường khả năng thực thi của các cơ quan công quyền Việt Nam. Việc cải cách nền hành chính tư pháp đã được Bộ Chính trị chỉ đạo thông qua Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và nhất là Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 26/5/2005 về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đã đề cập một cách cơ bản và toàn diện những vấn đề về cải cách tư pháp trong tình hình mới. Trong đó nhấn mạnh Tòa án có vai trò trung tâm trong hệ thống các cơ quan tư pháp và nâng cao chất lượng hoạt động xét xử là trọng tâm. Tòa án là công cụ của giai cấp cầm quyền trong xã hội, là trung tâm và là hệ thống cấu thành quan trọng nhất của bộ máy quyền lực nhà nước, là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, là phương thức để Nhà nước xác lập quyền uy của mình đối với xã hội, nhân danh Nhà nước Tòa án là cơ quan xét xử, mọi vi phạm pháp luật đến mức bị coi là tội phạm và phần lớn các tranh chấp phát sinh trong xã hội phải được giải quyết thông qua Tòa án. Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp" [30]. So với Hiến pháp năm 1992 thì đã được bổ sung thêm nội dung "Thực hiện quyền tư pháp". Đây là điểm rất mới thể hiện sự thể chế hóa chủ trương đổi mới của Đảng trong tiến trình cải cách tư pháp. Như vậy, trong toàn bộ hệ thống chính trị chỉ có Tòa án có chức năng xét xử và thực hiện quyền tư pháp [14]. Quyền tư pháp đồng nhất với chức năng xét xử. Có thể nói, đây là một cuộc cải cách quan trọng, với việc đặt Tòa án vào đúng vị trí trung tâm của hoạt động tư pháp, với nhiệm vụ trọng tâm là xét xử và thiết lập
  • 10. 10 cơ chế kiểm soát tư pháp do Tòa án thực hiện đối với tất cả hoạt động tham gia thực hiện quyền tư pháp, nhằm bảo đảm và bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong các quá trình tố tụng tư pháp. Với vị trí, vai trò Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân" [30]. Bằng hoạt động của mình, Tòa án bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ tài sản của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân. Thông qua hoạt động xét xử, Tòa án góp phần giáo dục công dân ý thức pháp luật, tham gia vào cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Trong các vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án, việc phân định thẩm quyền rất quan trọng, chiếm vị trí trung tâm trong tố tụng hình sự. Việc xác định chính xác thẩm quyền của Tòa án tránh được sự chồng chéo khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Giúp các đơn vị Tòa án chủ động công việc, tránh hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm. Thẩm quyền càng được phân định rõ ràng sát với thực tế bao nhiêu càng đảm bảo cho việc xét xử được khách quan, chính xác, đúng người, đúng tội bấy nhiêu. Xác định đúng đắn thẩm quyền xét xử của Tòa án nói chung, thẩm quyền của các đơn vị Tòa án nhân dân (TAND) nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm chất lượng, hiệu quả xét xử của hệ thống TAND các cấp, bảo đảm giải quyết vụ án đúng chức năng, nhiệm vụ, xét từ góc độ pháp lý cũng như từ góc độ chính trị, xã hội. Có thể nói thẩm quyền xét xử của TAND luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu ngay từ khi bắt đầu nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS). Hiện nay, vẫn còn sự nhận thức khác nhau về vai trò của TAND trong hệ thống cơ quan nhà nước, dẫn đến có nhiều quan điểm khác nhau về thẩm
  • 11. 11 quyền của TAND. Có quan điểm cho rằng "Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết các vi phạm pháp luật tương đối nghiêm trọng, còn các vi phạm pháp luật nhỏ thì thuộc về thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước" [33, tr. 15]. Tuy nhiên, theo quan điểm này sẽ tạo ra sự không rành mạch trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, có nguy cơ dẫn đến độc đoán, vi phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, ảnh hưởng tới lòng tin của nhân dân vào công lý. Bởi vì, cơ quan hành chính nhà nước hoạt động chủ yếu theo nguyên tắc hành chính mệnh lệnh, quyền uy, phục tùng, còn Tòa án hoạt động theo nguyên tắc độc lập, tuân theo thủ tục tố tụng công khai, dân chủ. Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án. Xu thế chung hiện nay thẩm quyền của Tòa án càng ngày càng được mở rộng thêm. Trước mắt, vấn đề liên quan nhiều đến quyền con người như áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính, hoặc đối với các tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất là vấn đề nhạy cảm, có nhiều khó khăn vướng mắc đã giao về cho Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết trong mọi trường hợp, nếu đương sự lựa chọn khởi kiện đến Tòa án. Ngành TAND với chức năng, nhiệm vụ của một cơ quan thực hiện quyền tư pháp luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm đề ra nhiều giải pháp đổi mới, với những bước đi thích hợp. Một trong các bước đi đó là bố trí sắp xếp lại hệ thống tổ chức và phân định lại thẩm quyền xét xử của TAND các cấp, với phương châm kiện toàn đến đâu mở rộng thẩm quyền đến đó. Thông qua hoạt động thực tiễn cho thấy một số quy định trước đây về thẩm quyền của TAND các cấp có nhiều điểm bất cập, gây khó khăn cho hoạt động xét xử của TAND. Đặc biệt, sự phân chia thẩm quyền xét xử giữa TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh không khoa học, hợp lý dẫn đến tình trạng quá tải các loại án ở TAND cấp tỉnh và Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), trong khi hoàn toàn có thể chia sẻ nhiệm vụ cho TAND cấp huyện. Mặt khác, đứng trước yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, các quy định về thẩm quyền của Tòa án cũng phải thay đổi, hoàn thiện, bổ
  • 12. 12 sung cho phù hợp. Vì vậy, BLTTHS sửa đổi bổ sung thông qua ngày 26/11/2003 có hiệu lực ngày 01/7/2004 đã quy định lại thẩm quyền của TAND các cấp, đã góp phần khắc phục tình trạng tồn đọng án, hạn chế những sự lãng phí, tốn kém không cần thiết, TANDTC tập trung hơn vào công tác tổng kết kinh nghiệm và hướng dẫn công tác xét xử. Mặc dù, vấn đề thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự của TAND các cấp đã có nhiều công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, việc coi trọng và tiếp tục nghiên cứu một cách nghiêm túc, có hệ thống các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành vấn đề thẩm quyền xét xử của TAND, thực tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó trước yêu cầu cải cách tư pháp là việc làm có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng. Đồng thời, với mong muốn thông qua việc nghiên cứu tổng kết đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về thẩm quyền xét xử của Tòa án trên địa bàn tỉnh Nam Định, sẽ góp phần vào việc nâng cao chất lượng công tác xét xử án hình sự của Tòa án hai cấp tỉnh Nam Định, đó chính là những lý do, luận chứng cho sự cần thiết để tôi lựa chọn đề tài "Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo luật tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)" làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Do thẩm quyền xét xử của TAND là một trong những chế định trọng tâm, có vị trí, vai trò quan trọng trong luật tố tụng hình sự nên đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh, phương diện khác nhau như: * Dưới góc độ luận văn, luận án tiến sĩ luật học có một số công trình sau: 1) Luận án tiến sĩ luật học "Thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp" của tác giả Nguyễn Văn Huyên, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002; 2) Luận văn
  • 13. 13 thạc sĩ luật học "Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong tố tụng hình sự" của tác giả Nguyễn Văn Tiến, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1998; 3) Luận văn thạc sĩ luật học "Hoàn thiện thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay" của tác giả Nguyễn Hữu Tuấn, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; 4) Khóa luận tốt nghiệp "Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo Bộ luật tố tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp" của tác giả Nguyễn Thị Anh Thư, 2006 v.v… * Dưới góc độ đề tài nghiên cứu khoa học có một số công trình sau: 1) Đề tài khoa học cấp Bộ "Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác kiểm sát hình sự trong giai đoạn giám đốc thẩm" của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), 2007; 2) TS. Nguyễn Văn Hiện (Chủ nhiệm đề tài), "Vấn đề tổ chức phiên tòa và việc thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng tại phiên tòa của Tòa án nhân dân", Đề tài khoa học cấp Bộ, TANDTC, Hà Nội, 1999; 3) TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy (Chủ nhiệm đề tài) (2005), "Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng các quy định của việc áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục tố tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự", Đề tài khoa học cấp Bộ, TANDTC, Hà Nội, 2005; v.v... * Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có đề cập đến thẩm quyền xét xử của TAND như: 1) "Nâng cải cách hệ thống Tòa án trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam" của GS.TSKH. Lê Cảm (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4/2001); 2) GS.TS. Hoàng Văn Hảo "Tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước" 3) GS.TS. Trần Ngọc Đường "Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân"; trong cuốn "Tìm hiểu về đổi mới tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1992", Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994; 4) PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí, "Tố tụng, tranh tụng và vấn đề cải cách tư pháp ở Việt Nam trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền", Trong cuốn chuyên khảo: Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà
  • 14. 14 nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004; 5) PGS.TS. Phạm Hồng Hải, "Vai trò của Tòa án trong hệ thống các cơ quan tư pháp", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2001; 6) TS. Vũ Gia Lâm, "Hoàn thiện một số quy định về xét xử sơ thẩm hình sự", Tạp chí TAND, số 18 (9)/2006; 7) TS. Từ Văn Nhũ, "Đổi mới thủ tục xét xử nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự", Tạp chí TAND, số (10 +11)/2002; 8) PGS.TS. Nguyễn Thái Phúc (2009), "Đổi mới phiên tòa sơ thẩm hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", Nhà nước và pháp luật, số 2/2009; 9) ThS. Đinh Văn Quế, "Một số vấn đề về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm", Tạp chí TAND, số 8/2004; 10) Trịnh Tiến Việt, "Tranh tụng và vấn đề nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự", Tạp chí Nghề luật, số 5/2003; v.v... Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về thẩm quyền xét xử của TAND. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quan có thể thấy: Những nghiên cứu về thẩm quyền xét xử của TAND mới chỉ dừng lại ở các công trình nghiên cứu về một số vấn đề trong chế định thẩm quyền xét xử của TAND, hoặc là được thể hiện một phần trong kết quả của các công trình nghiên cứu khác, phân biệt với thẩm quyền của các cơ quan nhà nước khác. Nhất là sau khi có BLTTHS năm 2003, vấn đề thẩm quyền xét xử của TAND chưa được triển khai nghiên cứu một cách tổng quan, đánh giá lý luận và tổng kết thực tiễn để tương xứng với vai trò, vị trí là chế định trọng tâm trong luật tố tụng hình sự. Và cho đến nay, chưa có tác giả nào nghiên cứu thực tiễn thực hiện thẩm quyền xét xử về hình sự tại địa bàn tỉnh Nam Định Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp" (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
  • 15. 15 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử của TAND theo luật tố tụng hình sự Việt Nam dưới khía cạnh lập pháp tố tụng hình sự và áp dụng chúng trong thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định về thẩm quyền xét xử của TAND, trước yêu cầu cải cách tư pháp. Đồng thời, đề xuất những biện pháp bảo đảm thực hiện các quy định của BLTTHS Việt Nam về thẩm quyền xét xử của Tòa án, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử của TAND trong thực tiễn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có nhiệm vụ làm sáng tỏ: - Khái niệm, căn cứ phân định thẩm quyền xét xử của TAND; - Khái quát lịch sử hình thành và phát triển về thẩm quyền xét xử của TAND trong lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá; - Nghiên cứu các quy định về thẩm quyền xét xử của TAND trong BLTTHS hiện hành của Việt Nam, BLTTHS của các nước trên thế giới từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá; - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định về thẩm quyền xét xử của TAND trên địa bàn tỉnh Nam Định. Đồng thời, phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc thực hiện và những nguyên nhân cơ bản của nó; - Đề xuất những định hướng và kiến nghị việc hoàn thiện các quy định về thẩm quyền xét xử của TAND trong BLTTHS Việt Nam hiện hành, cũng như những giải pháp bảo đảm thực hiện, nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định này trong thực tiễn.
  • 16. 16 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh thẩm quyền xét xử của TAND trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng các quy định về thẩm quyền trong thực tiễn xét xử của các đơn vị TAND thuộc tỉnh Nam Định và tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và đề xuất những biện pháp bảo đảm thực hiện các quy định của BLTTHS Việt Nam về thẩm quyền xét xử của Tòa án, nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định về thẩm quyền xét xử của TAND trong thực tiễn. Phạm vi của luận văn chỉ nghiên cứu về thẩm quyền xét xử của TAND các cấp, không bao gồm Tòa án quân sự (TAQS) khu vực và TAQS quân khu. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu về thực tiễn áp dụng các quy định về thẩm quyền xét xử của TAND trong luật tố tụng hình sự Việt Nam trong 05 năm (2009 - 2013). 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách pháp luật tố tụng hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù như: Phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, phương pháp điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học Luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
  • 17. 17 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên sau khi có BLTTHS năm 2003 và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về thẩm quyền xét xử của TAND theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định), trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới thẩm quyền xét xử của TAND trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Do đó, những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về thẩm quyền xét xử của TAND để xây dựng nên khái niệm về thẩm quyền xét xử của TAND, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời chỉ ra các căn cứ để phân định thẩm quyền xét xử của TAND; - Nghiên cứu chỉ ra những điểm khái quát về lịch sử quá trình hình thành và phát triển của các quy định về thẩm quyền xét xử của TAND trong luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay; - Nghiên cứu, đánh giá các quy định về Thẩm quyền xét xử của TAND trong BLTTHS Việt Nam và BLTTHS một số nước trên thế giới; - Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình áp dụng các quy định về thẩm quyền xét xử của TAND của các đơn vị TAND tại tỉnh Nam Định; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn áp dụng các quy định về thẩm quyền xét xử của TAND, cũng như những nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn chế đó; - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về thẩm quyền xét xử của TAND trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
  • 18. 18 Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 2: Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới. Chương 3: Thực tiễn thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Nam Định, hoàn thiện pháp luật và các biện pháp bảo đảm thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, trước yêu cầu cải cách tư pháp.
  • 19. 19 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN 1.1.1. Khái niệm chung về thẩm quyền Ở thời kỳ cổ đại, với quan niệm ấu trĩ về tính tất yếu của sự bất bình đẳng giữa các giai cấp trong xã hội về quyền thống trị tối cao tuyệt đối của giai cấp thống trị đối với giai cấp nô lệ và dân thường, giải thích nguồn gốc sức mạnh của quyền lực bằng hào quang thiêng liêng của Thượng đế. Quyền lực của vua chúa không bị hạn chế. Khắp nơi thịnh hành học thuyết "Đặc miễn quốc gia", theo đó Nhà nước làm ra pháp luật thì phải đứng trên pháp luật. Mặc dù với điều kiện sống và nhận thức còn nhiều hạn chế, song một số nhà tư tưởng đã nhận thức được tình trạng lạm quyền một cách tùy tiện, thái quá của giai cấp thống trị, họ đã có những ý niệm mơ hồ về mối quan hệ giữa Nhà nước và pháp luật. Họ mơ ước có một xã hội công bằng, dân chủ, không có bóc lột. Chính những mơ ước đó đã đặt nền móng cho các nhà tư tưởng hình thành dần một học thuyết về Nhà nước pháp quyền, mong muốn loại bỏ Nhà nước chuyên quyền, độc đoán [19, tr. 20]. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khi xây dựng học thuyết của mình về Nhà nước kiểu mới đã kế thừa những tư tưởng trước đó kết hợp với tình hình đấu tranh thực tế để đưa ra quan điểm "Quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân chia và thuộc về nhân dân". Nhân dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm những việc pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhân dân thực hiện quyền lực thông qua cơ quan đại diện là Quốc hội. Quốc hội có quyền lập hiến và lập pháp. Quyền hành pháp thuộc về Chính phủ, là cơ quan chấp hành và hành chính cao nhất
  • 20. 20 của quyền lực nhà nước. Quyền tư pháp do Tòa án và Viện kiểm sát thực hiện. Hoạt động của ba hệ thống cơ quan này đều thống nhất, nhân danh Nhà nước, nhằm mục tiêu chung phục vụ lợi ích của dân tộc. Mỗi cơ quan nhà nước có những quyền hạn, nhiệm vụ khác nhau do luật định. Việc phân công quyền lực giúp cho việc giải quyết công việc không bị chồng chéo và hoạt động của các cơ quan được vận hành một cách hợp lý. Phạm vi hoạt động và quyền năng pháp lý của các cơ quan nhà nước do luật định được hiểu là thẩm quyền của các cơ quan nhà nước. Theo Từ điển tiếng Việt thì thẩm quyền là "Quyền chính thức được xem xét để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề theo pháp luật" [54, tr. 854]. Theo định nghĩa của Từ điển Luật học thì thẩm quyền được hiểu là quyền chính thức được xem xét để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề. Thuật ngữ về thẩm quyền của Việt Nam xét về nghĩa nói chung giống với nghĩa trong tiếng nước ngoài, nhưng cách sử dụng thuật ngữ có nhiều điểm khác biệt nhất định. Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau về thẩm quyền, tuy nhiên, tựu trung lại đều được hiểu "Thẩm quyền" là khả năng của chủ thể trong việc xem xét và giải quyết hay định đoạt một công việc nào đó trên cơ sở chuẩn mực pháp luật đã định trước. Tóm lại, dưới góc độ khoa học, theo chúng tôi khái niệm đang nghiên cứu được định nghĩa như sau: Thẩm quyền là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định cho một chủ thể nhất định được thực hiện công việc trong một lĩnh vực, một phạm vi nhất định. 1.1.2. Khái niệm thẩm quyền xét xử Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thẩm quyền xét xử, theo Từ điển Luật học thì: Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án. Các Tòa án là những cơ quan duy nhất của một nước được đảm nhiệm chức năng xét xử. Mọi bản án do Tòa án tuyên
  • 21. 21 đều phải thông qua xét xử. Không ai có thể bị buộc tội mà không qua xét xử của các Tòa án và kết quả xét xử phải được công bố công khai bằng bản án... Thẩm quyền xét xử của Tòa án là một quyền chuyên biệt được trao riêng cho Tòa án, khác với thẩm quyền của các cơ quan khác, thẩm quyền xét xử là quyền chính thức của Tòa án, không phân biệt phân cấp, phân vùng lãnh thổ [53, tr. 701]. Trong khi đó, theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng thì "Xét xử là hoạt động của Tòa án tại phiên tòa để xét xử các chứng cứ và căn cứ vào pháp luật, xử lý vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định của Tòa án" [18, tr. 450]. Xét riêng trong pháp luật tố tụng hình sự, thẩm quyền của Tòa án các cấp là một chế định quan trọng. Thẩm quyền càng được phân định rõ ràng, khoa học, sát với thực tế bao nhiêu càng bảo đảm cho việc xét xử khách quan, chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật bấy nhiêu. Chính vì thế, trong quá trình hoàn thiện pháp luật nước ta nói chung và hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nói riêng, các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp luôn được nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi ban hành. BLTTHS của nước ta đã ra đời khá sớm, qua nhiều lần sửa đổi, các quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án tương đối đầy đủ. Tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 và Điều 1 Luật tổ chức TAND năm 2002 quy định: "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp" [30]. Quyền xét xử thuộc về Tòa án được hiểu là thẩm quyền xét xử. So sánh với một số thuật ngữ nước ngoài tương đương, thuật ngữ thẩm quyền xét xử được sử dụng trong tiếng Việt cũng có nhiều điểm tương đồng và khác biệt nhất định. Trong Từ điển Luật của Anh, người ta dùng thuật ngữ Jurisdiction để chỉ thẩm quyền hoặc quyền tài phán, tức là quyền
  • 22. 22 lắng nghe và phán quyết một vụ việc nào đó của Tòa án. Trong Từ điển Luật học của Mỹ, thẩm quyền được hiểu là khả năng cơ bản và tối thiểu để cơ quan công quyền xem xét và giải quyết một việc gì theo pháp luật. Điểm chung về thẩm quyền của Tòa án đều được các nước thừa nhận là quyền xem xét giải quyết các vụ việc trong phạm vi pháp luật cho phép và quyền hạn trong việc ra các quyết định khi giải quyết vụ việc đó. Quyền xem xét giải quyết vụ việc và quyền ra các quyết định khi giải quyết vụ việc đó là hai nội dung quan trọng có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành thẩm quyền của Tòa án. Việc kết tội một công dân có ảnh hưởng rất lớn đến đến danh dự, nhân quyền, tài sản, sức khỏe, tính mạng, các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Do vậy, Tòa án được quy định là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án hình sự và Tòa án cũng là cơ quan duy nhất có quyền thay mặt Nhà nước tuyên bố một người có tội hay không có tội và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Điều 9 BLTTHS năm 2003 quy định: "Không ai bị coi là có tội cũng như phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật" [28]. Việc xét xử của Tòa án hoàn toàn khác biệt với biện pháp xử lý của cơ quan hành chính, bởi lẽ: Hoạt động xét xử được áp dụng những chế tài, kể cả hình phạt và việc xét xử được tiến hành theo những thủ tục chặt chẽ được quy định trong pháp luật tố tụng. Do vậy, hiệu lực các phán quyết của Tòa án cũng cao hơn các biện pháp xử lý hành chính khác. Khi xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án, cần phải xác định đồng thời ba nhóm dấu hiệu là: Những dấu hiệu thể hiện tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm hoặc vụ án; những dấu hiệu về không gian, thời gian thực hiện tội phạm; những dấu hiệu liên quan đến đối tượng phạm tội. Chỉ trên cơ sở xem xét đầy đủ cả ba nhóm dấu hiệu nêu trên mới có thể xác định thẩm quyền xét xử được chính xác.
  • 23. 23 Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về thẩm quyền xét xử của Tòa án như sau: Thẩm quyền xét xử của Tòa án là tổng hợp các quyền theo quy định của pháp luật để Tòa án giải quyết các tranh chấp trong xã hội thông qua việc xem xét, đánh giá, phán quyết có tính cưỡng chế của Nhà nước. Và thẩm quyền xét xử về hình sự là: Quyền của Tòa án được xét xử vụ án hình sự do pháp luật tố tụng hình sự quy định dựa trên cơ sở dấu hiệu về tính nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, tính phức tạp của vụ án, địa điểm xảy ra tội phạm và đặc điểm nhân thân người phạm tội. Trong phạm vi luận văn, tôi chỉ xin đề cập đến thẩm quyền xét xử về hình sự của các cấp TAND. 1.2. CĂN CỨ PHÂN ĐỊNH THẨM QUYỀN ĐỐI VỚI TÒA ÁN NHÂN DÂN Nếu quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp không phù hợp sẽ dẫn đến những hậu quả tiêu cực như: Chất lượng hiệu quả hoạt động tư pháp hình sự bị hạn chế; tình trạng quá tải tại cấp xét xử nào đó khiến án bị tồn đọng; chi phí cho hoạt động tư pháp cao; vi phạm các quyền tự do dân chủ của công dân... Song, muốn quy định thẩm quyền được chính xác phải dựa vào những căn cứ vừa mang tính khoa học vừa bảo đảm yếu tố thực tiễn. Các căn cứ càng cụ thể, chi tiết thì quy định thẩm quyền càng chính xác. Việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn lập pháp cho thấy, hầu hết các ý kiến tập trung vào việc căn cứ trình độ năng lực của Thẩm phán, số lượng án hàng năm ở các cấp để đề nghị phân định thẩm quyền. Nhìn chung, các quan điểm đều có nhiều yếu tố hợp lý. Song mỗi quan điểm lại có những hạn chế nhất định, vẫn còn đề cập đến vấn đề căn cứ phân định thẩm quyền một cách đơn giản và phiến diện. Cần thiết phải có sự đầu tư nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để kịp thời điều chỉnh các quy định về thẩm quyền cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của xã hội. Theo chúng tôi có thể dựa vào các căn cứ sau để phân định thẩm quyền của TAND các cấp. 1.2.1. Căn cứ vào đường lối chính sách của Đảng Nhà nước Việt Nam là Nhà nước XHCN, đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo thông qua việc đề ra đường
  • 24. 24 lối, chủ trương, chính sách qua từng thời kỳ nhất định và sử dụng pháp luật như một công cụ hữu hiệu để thể chế hóa các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng đi vào cuộc sống. Chúng ta đang trong tiến trình nghiên cứu để ngày càng hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác Tòa án. Chánh án TAND cấp tỉnh tham gia cấp ủy địa phương hoặc tham gia Ban thường vụ cấp tỉnh, bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ đối với các Tòa án về chính trị, tổ chức và cán bộ, kiện toàn tổ chức Đảng phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án theo mô hình mới. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, chăm lo công tác quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bố trí, sử dụng đúng cán bộ trong các cơ quan Tòa án. Việc xây dựng các quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án không thể không dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước. Vấn đề thẩm quyền xét xử và việc phân định lại thẩm quyền xét xử của TAND các cấp luôn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải cách tư pháp nói chung và đổi mới tổ chức hoạt động của ngành Tòa án nói riêng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) đã đề ra nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp trong đó xác định: "...Nghiên cứu tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp huyện theo hướng việc xét xử được thực hiện chủ yếu ở Tòa án cấp này. Tòa án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm". Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX cũng nêu rõ: "Sắp xếp lại hệ thống Tòa án nhân dân, phân định hợp lý thẩm quyền của Tòa án nhân dân các cấp". Bước sang thế kỷ thứ XXI, nước Việt Nam đang có những bước tiến vô cùng mạnh mẽ, nhiệm vụ cải cách tư pháp, cải cách hệ thống Tòa án trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới". Tiếp đến là Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đã thể hiện sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước về sự đổi mới và hoàn thiện hệ thống Tòa án. Đó chính là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng BLTTHS năm
  • 25. 25 2003, trong đó có việc xây dựng những quy định về thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự của TAND. 1.2.2. Căn cứ vào nguyên tắc tổ chức, hoạt động, cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp nói riêng Nhà nước ta được chia theo ba cấp đơn vị hành chính lãnh thổ: Cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cấp huyện (quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã); cấp xã (xã, phường, thị trấn). Dựa theo sự phân chia này, hệ thống Tòa án cũng được tổ chức từ trung ương đến cấp huyện gồm TANDTC, TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện, khác với các cơ quan khác hệ thống Tòa án chỉ có đến cấp huyện, quận và mối quan hệ giữa Tòa án các cấp không phải là mối quan hệ phục tùng, chỉ đạo mà chỉ là mối quan hệ theo thẩm quyền. Mối quan hệ này đảm bảo cho các Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Việc phân định thẩm quyền xét xử phải bảo đảm cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với các cơ quan Tòa án. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của Ủy ban Tư pháp Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc trong việc thực hiện nhiệm vụ giám sát hoạt động xét xử. Tăng cường vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, cung cấp thông tin chính xác, khách quan về hoạt động của Tòa án. Căn cứ vào cách thức tổ chức hệ thống các cơ quan nhà nước theo đơn vị hành chính lãnh thổ, căn cứ vào điều kiện, khả năng thực tế của các cơ quan tiến hành tố tụng, BLTTHS năm 2003 đã quy định về thẩm quyền xét xử cho từng cấp Tòa án. BLTTHS năm 2003 căn cứ vào cách thức tổ chức đó để quy định thẩm quyền xét xử. Dựa vào thẩm quyền theo luật định mỗi cấp Tòa án đều có quyền xét xử riêng mà không bị chi phối bởi Tòa án cấp trên. để phân định thẩm quyền của Tòa án. Việc phân định thẩm quyền như trên không chỉ đảm bảo tính khoa học về mặt quản lý mà còn phát huy được khả
  • 26. 26 năng phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng khác, các cơ quan bổ trợ tư pháp trong giải quyết các vụ án. 1.2.3. Căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm hay vụ án, các đặc điểm nhân thân người phạm tội Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được xem xét trên hai phương diện: Về mặt xã hội và về mặt thực tế. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là tiêu chí khách quan về số lượng, có tính chất bổ sung để phân biệt rõ hơn từng loại tội phạm. Mức độ nghiêm trọng của tội phạm thể hiện sự gây nguy hại cho xã hội của tội phạm đến mức độ nào, không lớn hay rất lớn hoặc đặc biệt lớn cho các khách thể được luật hình sự bảo vệ. Tùy vào mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để áp dụng các chế tài khác nhau. Tội phạm càng nghiêm trọng thì hình phạt càng cao và ngược lại. Muốn giải quyết được nhanh chóng, chính xác, tránh oan sai thì khi phân định thẩm quyền xét xử cho Tòa án các cấp phải căn cứ vào tính chất nghiêm trọng của tội phạm. BLTTHS năm 2003 nước ta quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án theo hướng, loại tội càng nghiêm trọng thì càng đòi hỏi cơ quan và người tiến hành tố tụng cấp cao hơn và có năng lực cao hơn xét xử. Bên cạnh đó, khi phân định thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp còn phải dựa vào tính phức tạp của từng loại tội phạm. Tính phức tạp của tội phạm được xem xét dưới góc độ luật hình sự dựa vào khách thể bị xâm hại, còn đường lối xử lý theo quy định của luật tố tụng hình sự thì tính phức tạp lại dựa vào khả năng điều tra, truy tố, xét xử khó khăn đến mức nào. Quy định thẩm quyền xét xử phải căn cứ cả tính nghiêm trọng và tính phức tạp của tội phạm do đây là hai khái niệm khác nhau. Có những trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nhưng lại bị coi là phức tạp, ngược lại có trường hợp phạm tội nghiêm trọng lại không quá phức tạp.
  • 27. 27 Tính phức tạp của tội phạm được xem xét dưới các khía cạnh: - Chủ thể tội phạm: Đối với những chủ thể tội phạm là người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc người phạm tội có liên quan tới yếu tố nước ngoài, người có chức sắc trong tôn giáo được coi là có tính phức tạp cao nên quy định cho TAND cấp tỉnh, TAQS cấp quân khu có thẩm quyền giải quyết. - Khả năng chứng minh tội phạm: Là khả năng điều tra, thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ sự thực khách quan của vụ án. Những trường hợp tội phạm gây thiệt hại cho quân đội, phạm tội trong khu vực cấm, liên quan đến bí mật quân sự thì việc chứng minh liên quan đến quân đội, do đó thuộc thẩm quyền của TAQS. Một số tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia, mặc dù có khung hình phạt dưới 15 năm tù nhưng vẫn phải quy định thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh, TAQS cấp quân khu. 1.2.4. Căn cứ vào thực trạng đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử Thực hiện hoạt động tố tụng là cá nhân con người cụ thể, kết quả của hoạt động tố tụng ít nhiều vẫn mang màu sắc chủ quan của con người. Để có thể phản ánh một cách khách quan sự việc phạm tội, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo tính công bằng trong xã hội thì người tiến hành tố tụng cần phải có trình độ chuyên môn, năng lực nhất định. Vụ án càng phức tạp càng cần thiết đòi hỏi người có trình độ năng lực cao hơn giải quyết. Việc phân định thẩm quyền xét xử không thể không dựa trên cơ sở trình độ của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Hiện nay chúng ta đang thực hiện tiêu chuẩn hóa Thẩm phán theo đúng quy định của pháp luật. Để được bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp ngoài việc bắt buộc phải có trình độ cử nhân luật, còn phải được đào tạo qua lớp nghiệp vụ xét xử và phải có thâm niên công tác 05 năm. Tới đây, nếu dự thảo Luật Tổ chức TAND sửa đổi được thông qua thì để được bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp phải có thêm các tiêu chuẩn đó là: Có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý; có hiểu biết
  • 28. 28 xã hội phong phú và phải trúng tuyển kỳ thi tuyển nguồn Thẩm phán. Để được bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp phải qua 05 năm làm Thẩm phán sơ cấp. Để được bổ nhiệm làm Thẩm phán TANDTC phải có ít nhất 05 năm là Thẩm phán trung cấp... Nếu so sánh trình độ của Thẩm phán hiện nay với trình độ của Thẩm phán năm 2009 thì đã có bước tiến rất đáng kể. Phần lớn đều tốt nghiệp đại học Luật chính quy. Có nhiều Thẩm phán có trình độ Thạc sĩ và Tiến sĩ. Không còn Thẩm phán chỉ có trình độ sơ cấp, trung cấp và luân huấn. Thẩm phán còn nợ tiêu chuẩn đại học luật, đã học nhưng chưa tốt nghiệp hầu như không còn. Thực tiễn cho thấy năng lực, trình độ chuyên môn của người Thẩm phán có mối quan hệ mật thiết với thẩm quyền xét xử của TAND các cấp. Với tính chất đặc thù của hoạt động xét xử, Tòa án cần phải có đội ngũ những người làm nhiệm vụ xét xử có phẩm chất đạo đức trong sáng, liêm khiết, trung thực, có kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế XHCN, có bản lĩnh đấu tranh vì công lý. Chỉ khi hội tụ đủ những phẩm chất như trên thì Thẩm phán mới có thể độc lập thực sự để giải quyết các vụ án một cách nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật. Trình độ chuyên môn cùng với kiến thức và kinh nghiệm thực tế tạo thành năng lực của người Thẩm phán. Những vụ án càng nghiêm trọng, phức tạp càng đòi hỏi phải được giao cho những Thẩm phán có năng lực cao giải quyết. Vì vậy, khi phân định thẩm quyền xét xử phải căn cứ vào trình độ, năng lực của Thẩm phán để quy định cho phù hợp, đảm bảo cho các đơn vị Tòa án có đủ điều kiện, khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác của mình. 1.2.5. Căn cứ vào mối liên hệ giữa thẩm quyền xét xử với các chế định khác của tố tụng hình sự Thẩm quyền xét xử của Tòa án là chế định quan trọng trong tố tụng hình sự, có liên quan đến nhiều chế định khác như thẩm quyền điều tra, truy
  • 29. 29 tố, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Vì vậy, việc quy định hoặc điều chỉnh thẩm quyền xét xử không thể không căn cứ vào thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, thực lực của hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật có liên quan đến hoạt động xét xử bao gồm: "Các cơ quan điều tra, Cảnh sát, an ninh, Viện kiểm sát...". Các cơ quan bổ trợ tư pháp thực hiện các hoạt động tương ứng của mình hỗ trợ cho việc thực hiện chức năng xét xử của Tòa án, bao gồm: "Tổ chức luật sư, giám định...". Việc quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án phải căn cứ vào mối liên hệ giữa thẩm quyền của Tòa án với các chế định khác của tố tụng hình sự, nhất là chế định về thẩm quyền của cơ quan điều tra để đảm bảo sự phù hợp giữa các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử. 1.2.6. Căn cứ vào hiệu quả kinh tế của hoạt động xét xử và các hoạt động tố tụng khác Bất kỳ một hoạt động tố tụng nào cũng phải tính đến yếu tố kinh tế. Phải tính toán sao cho vừa đạt được hiệu quả vừa phải chi phí ở mức thấp nhất. Có thể xem xét hiệu quả kinh tế trong hoạt động tố tụng ở các mặt sau: - Chi phí cho hoạt động điều tra: Các vụ án được điều tra ở cấp huyện thì ít tốn kém và có điều kiện thu thập chứng cứ tốt hơn cấp tỉnh, bởi lẽ cơ quan điều tra vừa tiếp cận kịp thời được hiện trường vụ án vừa tiết kiệm được chi phí đi lại trong việc khám nghiệm hiện trường, xác minh thu thập chứng cứ. - Chi phí cho hoạt động xét xử: Những vụ án được xét xử sơ thẩm ở cấp huyện thì cấp tỉnh sẽ xét xử phúc thẩm. Như vậy, sẽ giảm được khoản chi phí đi lại, ăn ngủ cho Hội đồng xét xử (HĐXX) phúc thẩm. Qua đó cho thấy, vụ án càng được xét xử ở Tòa án cấp thấp hơn thì càng cắt giảm được các khoản chi phí cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cũng như của những người tham gia tố tụng, các tổ chức xã hội và công dân khi tham gia tố tụng.
  • 30. 30 1.2.7. Căn cứ vào sự bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và những người tham gia tố tụng Mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước đều hướng tới mục tiêu chung là phục vụ cho lợi ích của con người. Vì vậy, khi quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án, nhà làm luật phải luôn quan tâm đến việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và những người tham gia tố tụng. Do cân nhắc một vụ án được xét xử tại Tòa án cấp huyện thì những người tham gia tố tụng có điều kiện tốt hơn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, dễ dàng trong việc trực tiếp tham gia tố tụng, trong việc yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, giảm bớt tình trạng do ngại đi lại có một vài người trong số những người tham gia tố tụng vắng mặt phải hoãn phiên tòa, làm ảnh hưởng tới thời gian, chi phí tốn kém đi lại của những người tham gia tố tụng khác. Nên, xu hướng quy định của luật càng ngày càng mở rộng thẩm quyền xét xử cho TAND cấp quận, huyện. 1.2.8. Căn cứ vào tình hình tội phạm, yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm Thực tế cho thấy sự phát triển trên các mặt của đời sống xã hội kéo theo sự chuyển biến của tình hình tội phạm diễn biến theo chiều hướng ngày càng nghiêm trọng và tinh vi hơn, xuất hiện thêm nhiều loại tội phạm công nghệ cao. Trong xu thế toàn cầu hóa, chính sách mở cửa, tăng cường mối quan hệ hợp tác với nước ngoài của Nhà nước ta trong những năm gần đây khiến sự giao lưu đi lại giữa các quốc gia ngày càng thuận lợi làm cho tội phạm có yếu tố nước ngoài tăng dần. Những yếu tố đó dẫn đến số lượng các vụ án thuộc thẩm quyền của TAND các cấp có thể tăng lên hoặc giảm đi. Vì vậy, quy định về thẩm quyền xét xử của TAND các cấp cũng phải thay đổi theo căn cứ vào diễn biến của tình hình tội phạm cũng như yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Tóm lại: Để quy định thẩm quyền xét xử về hình sự của TAND phải căn cứ vào đường lối chính sách của Đảng, các nguyên tắc tổ chức và hoạt
  • 31. 31 động, cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp nói riêng; căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm hay vụ án; không gian thực hiện tội phạm hoặc hành vi tố tụng; nhân thân người phạm tội [6, tr. 382]; căn cứ vào thực trạng của đội ngũ cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử; căn cứ vào mối liên hệ giữa thẩm quyền xét xử với các chế định khác của tố tụng hình sự; căn cứ vào hiệu quả kinh tế của hoạt động xét xử, các hoạt động tố tụng khác; căn cứ vào sự bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và những người tham gia tố tụng; căn cứ vào tình hình tội phạm, yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Các căn cứ trên có mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít với nhau, bổ sung cho nhau, đôi khi mâu thuẫn nhau, nhưng đều nằm trong mối quan hệ thống nhất. Vì vậy, nhà làm luật cần phải nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống, có những dự báo cần thiết liên quan đến các căn cứ thì mới có khả năng quy định thẩm quyền xét xử của TAND các cấp một cách phù hợp. Trên cơ sở đó đảm bảo tính tiết kiệm và hiệu quả của hoạt động tố tụng, là cơ sở để tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, đảm bảo cho việc xét xử chính xác, khách quan, công bằng các vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. 1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN NAY 1.3.1 Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến khi pháp điển hóa lần thứ nhất Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 Cách mạng Tháng tám năm 1945 thành công đã xóa bỏ chính quyền thực dân phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới đối với nước ta - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lập ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngay từ những ngày đầu mới giành được chính quyền, Nhà nước ta đã nhận thấy nền tư pháp chủ yếu là một bộ máy đàn áp, một bộ máy bóc lột tư sản. Vì vậy, nhiệm vụ tuyệt đối của cách mạng vô sản không phải là cải cách các chế
  • 32. 32 định tư pháp...mà là hủy bỏ hoàn toàn, phá hủy tận gốc rễ nền tư pháp cũ và bộ máy của nó... Chính vì lẽ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 18/SL ngày 8/9/1945 bãi bỏ ngạch học quan; Sắc lệnh số 32/S1 ngày 13/9/1945 bãi bỏ hai ngạch quan hành chính và quan tư pháp. Đồng thời Đảng và Nhà nước ta khẩn trương xây dựng bộ máy nhà nước cách mạng, trong đó có TAND. Ở giai đoạn đầu của Cách mạng tháng Tám, Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 và sau đó bổ sung bằng Sắc lệnh số 21 ngày 24/1/1946 của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa thiết lập các TAQS nhằm trừng trị tất cả những người nào xâm hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. TAQS là công cụ chuyên chính của chính quyền cách mạng, được thành lập dựa trên sự phối hợp của các Bộ Quốc phòng, Nội vụ và Tư pháp. Các TAQS ban đầu, chưa phải là tổ chức chuyên trách, thường trực, mà chỉ khi có vụ án thì lập ra Tòa án để xét xử [38, tr. 23]. Trong khi pháp luật còn thiếu, Sắc lệnh ngày 10/1/1945 cho phép Tòa án vận dụng những luật lệ của chế độ cũ, trừ những điều khoản trái với nguyên tắc độc lập, trái với chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa. Để tăng cường bộ máy tư pháp, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định về mô hình tổ chức hệ thống Tòa án như sau [36, tr. 68]: • Ở cấp Trung ương: Tòa thượng thẩm có ở ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) đóng tại Hà Nội, Huế và Sài Gòn có thẩm quyền xét xử những việc kháng cáo bản án sơ thẩm của các Tòa án đệ nhị cấp. • Ở cấp tỉnh: Các Tòa án đệ nhị cấp ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương có thẩm quyền xét xử chung thẩm những án vi cảnh của Tòa án sơ cấp bị kháng cáo, xét xử sơ thẩm những việc tiểu hình và đại hình. Những việc tiểu hình là những việc có thể bị phạt tù từ 6 ngày đến 5 năm, hay phạt bạc trên 9 đồng.
  • 33. 33 • Ở cấp huyện: Các Tòa án sơ cấp ở các huyện, thị xã, châu, phủ có thẩm quyền xét xử chung thẩm những án phạt bạc từ 0,5 đồng đến 9 đồng, những án xử bồi thường không quá 150 đồng. Có quyền xét xử sơ thẩm những vụ án phạt giam từ 1 đến 5 ngày, những vụ án xử bồi thường quá 150 đồng hoặc những việc xin bồi thường quá số tiền ấy. Thời kỳ này còn có cấp khu nên có Tư pháp khu. Khi xét xử phúc thẩm có Hội đồng phúc án của Tư pháp khu. Để phân biệt thẩm quyền của Tòa án, Chính phủ đã ra Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 quy định các Tòa án sơ cấp và đệ nhị cấp có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời cả chung thẩm, còn Tòa án thượng thẩm chỉ xét xử phúc thẩm. Hệ thống Tòa án tư pháp do Bộ Tư pháp quản lý. Bộ trưởng Bộ Tư pháp từng bước quyết định thiết lập dần dần các Tòa án ở các nơi tùy điều kiện thuận lợi. Những nơi chưa có điều kiện thành lập Tòa án, việc tư pháp vẫn do Ủy ban hành chính đảm nhiệm. Ngày 23/8/1946, Chính phủ đã ra Sắc lệnh số 163/SL ngày 23/8/1946 thành lập Tòa án binh lâm thời, trụ sở đặt tại Hà Nội [38, tr. 30]. Các Tòa án binh này đều thuộc quyền quản lý của Ủy ban kháng chiến - hành chính khu và về chuyên môn do Cục Quân pháp - Bộ Quốc phòng đảm nhiệm. Thẩm quyền của Tòa án binh là xét xử những quân nhân phạm tội, những người có hành vi gây thiệt hại cho quân đội hoặc có liên quan đến quân đội và các tội phạm xảy ra ở nơi đóng quân của quân đội. Có thể thấy Sắc lệnh 163/SL là một trong những văn bản pháp luật đầu tiên quy định về tổ chức, thẩm quyền của các Tòa án binh. Đây là văn bản pháp luật làm tiền đề cho việc quy định tổ chức, thẩm quyền của các TAQS hiện nay. Như vậy, trong thời gian này, song song tồn tại các loại Tòa án: TAQS, Tòa án binh và hệ thống các Tòa án tư pháp. Hệ thống Tòa án tư pháp theo Sắc lệnh số 13/SL chỉ tồn tại đến năm 1950. Tuy là Tòa án cách mạng nhưng hệ thống và cơ cấu tổ chức về cơ bản
  • 34. 34 vẫn theo thời Pháp. Trong những năm 50, có những biến đổi quan trọng về tổ chức và hoạt động của Tòa án cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành cải cách bộ máy tư pháp, nâng cao vị trí của Tòa án trong bộ máy nhà nước, Sắc lệnh 85/SL ngày 22/5/1950 quy định cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng. Đó là việc xây dựng nền tư pháp nhân dân và mô hình tổ chức hệ thống Tòa án. Các Tòa án theo Sắc lệnh 13/SL trước đây được đổi tên thành các TAND. Các Tòa án sơ cấp, đệ nhị cấp, Tòa án thượng thẩm được đổi thành TAND huyện, TAND tỉnh và các TAND liên khu. Hội đồng phúc án đổi thành Tòa phúc thẩm, còn các Phụ thẩm nhân dân được đổi thành Hội thẩm nhân dân. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân có quyền xem xét hồ sơ và ngang quyền với Thẩm phán khi biểu quyết. Các Thẩm phán được bổ nhiệm là những người có công với cách mạng, thành phần cốt cán có thành tích xuất sắc trong chiến đấu và lao động. Ngoài ra, trong thời kỳ này còn có các TAQS, Tòa án đặc biệt. Tuy nhiên, Tòa án đặc biệt chỉ được tổ chức trong thời kỳ tiến hành giảm tô và cải cách ruộng đất. Sắc lệnh 156/SL ngày 22/10/1950 đã giao cho các TAND liên khu thẩm quyền xét xử những tội phản cách mạng thay thế cho các TAQS. Ở các vùng bị tạm chiếm, Chính phủ ra Sắc lệnh 157/SL ngày 17/11/1950 quy định thành lập các TAND. Các Tòa án này có thẩm quyền tương tự như Tòa án các cấp ở vùng tự do, nhưng thủ tục xét xử đơn giản hơn. Sau khi hòa bình lập lại. Tháng 4/1958 Quốc hội đã quyết định thành lập TANDTC và Viện công tố nhân dân trung ương. Hai cơ quan này trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Sau đó ngày 14/12/1958 Thủ tướng Chính phủ có Thông tư số 556/TTg cụ thể hóa nhiệm vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật bao gồm: Công an, Công tố, Tòa án. Tinh thần các quy định của các văn bản pháp luật này được ghi nhận vào Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức TAND năm 1960. Trong công cuộc cải tạo XHCN và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thông qua xét xử các vụ án, ngành Tòa án đã góp phần to lớn trong việc bóc trần âm
  • 35. 35 mưu của các phần tử phản cách mạng, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân. * Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1959, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức TAND ngày 14/7/1960. Theo Luật tổ chức TAND năm 1960 thì hệ thống các TAND gồm có: TANDTC, các TAND địa phương, các TAQS. Trong trường hợp cần xét xử các vụ án đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt. TAND địa phương gồm có: TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương, TAND ở các khu vực tự trị. Điều đáng lưu ý là trong Luật tổ chức TAND năm 1960 chỉ quy định có tính chất nguyên tắc về thẩm quyền của các TAND các cấp, mà không quy định cụ thể về tổ chức của TAND các cấp. Trên cơ sở của Luật tổ chức TAND ngày 23/3/1961, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức TANDTC và tổ chức các TAND địa phương, Sắc lệnh quy định thẩm quyền của TAND cấp huyện như sau: Tòa án thị xã, thành phố, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương có thẩm quyền xét xử, phân xử những việc hình sự nhỏ không phải mở phiên tòa; sơ thẩm những vụ án hình sự có thể phạt 2 năm tù trở xuống. Điều này đã vi phạm nguyên tắc xét xử là dự kiến trước hình phạt, chưa xét xử đã biết hình phạt. Do đó, TANDTC trong Thông tư số 1080/TC ngày 25/9/1961 và Thông tư 1071/TC ngày 7/9/1965 đã hướng dẫn rõ về việc phân xử những việc hình sự nhỏ không phải mở phiên tòa. Đó là những vi phạm pháp luật mà mức độ nguy hại cho xã hội của hành vi không lớn, có mức án phạt không quá giá trị 5kg gạo nếu là phạt tiền và không quá 5 ngày nếu là phạt giam. Đối với những vi phạm này chủ yếu chỉ lấy giáo dục là chính, chỉ xử những người thật đáng tội. Để đơn giản hóa thủ tục tố tụng, Nghị quyết 228 NQ/TW ngày 18/1/1974 của Bộ Chính trị và Thông tư 10/TATC của TATC ngày 8/7/1974
  • 36. 36 đã đưa ra quy định về thủ tục rút ngắn đối với những tội ít nghiêm trọng, phạm pháp quả tang, đơn giản rõ ràng, hình phạt mà Tòa án có thể quyết định là từ 2 năm trở xuống. Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ban hành Sắc lệnh số 01/SI ngày 15/3/1976 nhằm thiết lập, tổ chức Tòa án ở miền Nam, quy định TAND cấp huyện chỉ có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự có thể phạt từ 2 năm trở xuống. Đồng thời ngày 28/3/1976 Bộ Tư pháp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra Thông tư 01/BTP-TT về tổ chức TAND quy định chỉ nên giao cho TAND cấp huyện xét xử những vụ án hình sự đơn giản, ít quan trọng, không được xét xử những tội phản cách mạng, những tội phạm gây tổn thương đến nhiều người hoặc chết người, những vụ án mà việc xác định tội phạm gặp nhiều khó khăn và những vụ án ảnh hưởng chính trị lớn. Việc hạn chế thẩm quyền của Tòa án cấp huyện chỉ được xử những vụ án có mức phạt từ 02 năm trở xuống đã làm cho số lượng những vụ án thuộc thẩm quyền xét của của Tòa án cấp tỉnh tăng lên, chỉ riêng những vụ án có mức án dưới 5 năm tù đã chiếm tới 70% tổng số án đã xét xử. Luật tổ chức TAND năm 1981 đã kế thừa và phát triển Luật tổ chức TAND năm 1960 và có những nội dung mới. Điều 36 Luật tổ chức TAND năm 1981 quy định: "Các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án hình sự, trừ: Những tội xâm phạm an ninh quốc gia và những tội phạm hình sự khác có tính chất nghiêm trọng, gây hậu quả lớn" [21]. Thẩm quyền mới của Tòa án đã xác định theo sự việc chứ không bị khống chế bởi mức hình phạt tù, không giao cho TAND cấp huyện xét xử những tội có tính chất nghiêm trọng. Sau khi Luật này có hiệu lực, để các Tòa án thực hiện tốt thẩm quyền xét xử, ngày 6/2/1982 TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ ban
  • 37. 37 hành Thông tư liên ngành hướng dẫn thực hiện thẩm quyền của Tòa án cấp huyện. Theo thông tư này, các TAND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh được xét xử những tội phạm về hình sự quy định tại khung 1 có mức hình phạt từ 7 năm trở xuống, nếu là hình phạt quy định trong khung 2 nhưng thực tế chỉ cần xử phạt tương đương với khung 1 vì có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì TAND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh cũng có thẩm quyền giải quyết. TAND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh không được xét xử những tội phạm phản cách mạng, những vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp hoặc gây hậu quả lớn. Để tạm thời giảm bớt lượng án thuộc thẩm quyền cấp tỉnh, Ngày 26/7/1986, VKSNDTC, TANDTC, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ ra Thông tư liên ngành số 01/TTLN hướng dẫn các TAND cấp huyện được xét xử một số tội mà pháp luật quy định hình phạt từ 7 năm tù trở xuống nhưng có tình tiết giảm nhẹ cho phép phạt từ 5 năm tù trở xuống. Tuy nhiên, cách giải quyết này cũng chỉ là tạm thời, vì vẫn có điểm bất hợp lý là cho phép Tòa án dự kiến mức hình phạt trước khi xét xử. * Thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Theo quy định của Luật tổ chức TAND năm 1960 và sau đó là Pháp lệnh Tổ chức TANDTC và TAND địa phương ngày 23/3/1961, TAND cấp huyện được xét xử những vụ án có thể xử phạt 2 năm tù trở xuống nên ngoài công việc này ra, những công việc còn lại thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh tức là những vụ án hình sự có thể phạt trên 2 năm tù hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền cấp dưới nhưng TAND cấp tỉnh lấy lên để xét xử. Theo quy định của Luật tổ chức TAND năm 1981, các TAND cấp huyện được xét xử các tội phạm có khung hình phạt từ 5 năm tù trở xuống và cả một số tội có khung hình phạt từ 7 năm tù trở xuống nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện được mở rộng hơn đã
  • 38. 38 làm cho số lượng các vụ án phải xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh giảm đi nhiều. Quy định này hợp lý hơn vì nếu việc xét xử của TAND cấp tỉnh giảm đi thì TAND cấp tỉnh có điều kiện tập trung thực hiện chức năng phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của TAND cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị. Thời kỳ này ở nước ta còn tổ chức đơn vị hành chính khu tự trị bao gồm nhiều tỉnh trong khu. Phù hợp với mô hình tổ chức khu tự trị cần phải có TAND khu. Do đó năm 1963 Quốc hội quyết định thành lập các TAND khu ở những khu tự trị. Hai khu tự trị Việt Bắc và Tây Bắc đã thành lập các TAND khu. Tại Điều 2 của Điều lệ quy định cụ thể về tổ chức của TAND các cấp trong khu tự trị Việt Bắc được Ủy ban tư vấn Quốc hội phê chuẩn ngày 02/3/1963 quy định: "Tòa án nhân dân khu có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án hình sự và dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp dưới, nhưng xét thấy quan trọng hoặc phức tạp cần lấy lên để xem xét". Điều này cũng được quy định tại Điều lệ quy định cụ thể về tổ chức TAND các cấp trong khu tự trị Tây Bắc. Thực hiện thẩm quyền này, các TAND khu tự trị đã xét xử được nhiều vụ án phức tạp làm giảm một phần công việc của TAND tỉnh trong khu, tạo điều kiện cho các Tòa án này giải quyết tốt các vụ án khác. Điều đó cho thấy việc thành lập TAND khu tự trị đã đáp ứng được với hoàn cảnh đất nước thời kỳ đó, kịp thời xét xử các vụ án hình sự trong điều kiện đi lại khó khăn của miền núi. * Thẩm quyền của TANDTC Trong Nghị định số 3881/TTg ngày 20/10/1959 của Thủ tướng Chính phủ xác định TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, giám đốc việc xét xử các TAND địa phương và TAQS các cấp. TANDTC có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án mà pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của TANDTC và những vụ án đặc biệt mà Viện công tố Trung ương hoặc TANDTC thấy phải do TANDTC xét xử.
  • 39. 39 Sau một thời gian thực hiện thẩm quyền xét xử theo Nghị định trên, xét thấy cẩn quy định thẩm quyền xét xử của TANDTC và các Tòa án khác trong một văn bản pháp luật cao hơn. Do đó, Luật tổ chức TAND năm 1960 ra đời, quy định thẩm quyền xét xử của TANDTC là những vụ án thuộc thẩm quyền của TAND cấp dưới mà TANDTC lấy lên để xét xử. Pháp lệnh ngày 23/3/1961 về tổ chức TAND đã quy định cụ thể hóa Luật tổ chức TAND năm 1960: TANDTC có thẩm quyền sơ thẩm đồng thời là chung thẩm những vụ án do pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của TANDTC và những vụ án thuộc thẩm quyền của TAND cấp dưới nhưng TANDTC xét thấy cần lấy lên để xét xử. Nhưng quy định này không quy định cụ thể những vụ án nào là thuộc thẩm quyền xét xử của TANDTC nên các TAND địa phương rất khó xác định vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án mình hay của TANDTC. Đến năm 1981, Quốc hội ban hành Luật tổ chức TAND mới quy định TANDTC có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm những vụ án đặc biệt nghiêm trọng hoặc phức tạp. Nhưng phải đến ngày 22/12/1981 Liên ngành TANDTC, VKSNDTC, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp ra Thông tư số 05/TTLN mới hướng dẫn những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp cần đưa ra xét xử thủ tục sơ thẩm đồng thời là chung thẩm phải thỏa mãn 4 điều kiện sau: - Về loại tội: Là những tội xâm phạm ninh quốc gia, xâm phạm sở hữu XHCN, xâm phạm tính mạng, sức khỏe. - Về đối tượng: Bị cáo là những tên phản cách mạng, lưu manh côn đồ, những tên chuyên làm ăn phi pháp, cán bộ công nhân viên sa đọa, biến chất. - Về chứng cứ vụ án: Phải có chứng cứ rõ ràng và thường ít bị cáo. - Về hình phạt: Thường áp dụng hình phạt cao nhất là tử hình. Với thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm, chúng ta đã trấn áp kịp thời những bọn phản cách mạng, lưu manh côn đồ hung hãn, giữ vững chính quyền, bảo vệ trật tự an toàn xã hội. Tuy vậy, việc quy định thẩm
  • 40. 40 quyền này không đảm bảo được quyền kháng cáo của bị cáo, không đảm bảo được nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật nên ngày càng bị hạn chế và sau đó đã bị xóa bỏ. * Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm Điều 3 Sắc lệnh ngày 13/9/1945 quy định việc xét xử của các TAQS là chung thẩm, các bản án được thi hành ngay, đương sự không có quyền chống án, trừ những bản án tuyên xử tử. Đối với những bản án này do mức hình phạt là cao nhất nên pháp luật vẫn cho phép bị cáo vẫn có quyền đệ đơn xin Chủ tịch Chính phủ ân giảm. Đây có thể coi là văn bản đầu tiên đặt nền móng cho việc xét xử phúc thẩm mà sau đó là một loạt các văn bản cũng quy định về vấn đề này. Đó là các Sắc lệnh 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức các Tòa án và các ngạch bậc Thẩm phán, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946, Sắc lệnh số 112/SL ngày 28/6/1946. Điều 63 của Hiến pháp 1946 quy định cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm có: TATC, Tòa án phúc thẩm, Tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp. Thực hiện quy định của Hiến pháp, các Tòa án phúc thẩm được thành lập. Nhà nước ta ban hành Sắc lệnh 85/SL ngày 22/5/1950 quy định "Người bị thiệt hại có quyền kháng cáo để xin tăng hình phạt, tiền bồi thường và các khoản bồi hoàn"; Thông tư 1828/TT ngày 18/10/1955 cũng quy định về các thủ tục phúc thẩm. Để khắc phục tình trạng xét xử chung thẩm của TAND tỉnh như trước, ngày 19/8/1955 Bộ Tư pháp ra Thông tư 1459/HCTP xác định nguyên tắc 2 cấp xét xử, nhưng đối với các vụ phạm pháp về chính trị vẫn được thực hiện Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/2/1946 và Sắc lệnh số 156/SL ngày 17/11/1950 xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm, Sắc lệnh số 12/SL ngày 30/3/1957 các TAND tỉnh được giao thẩm quyền xét xử các vụ án chính trị, mà không phải thực hiện việc ủy quyền xét xử như trước đây để nâng cao chất lượng xét xử phúc thẩm, ngày 14/8/1959 Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 300/TTg xác nhận các Tòa phúc thẩm khu thành TAND phúc thẩm
  • 41. 41 Hà Nội, TAND phúc thẩm Hải Phòng, TAND phúc thẩm Vinh. Các Tòa này có thẩm quyền xét xử lại các bản án của TAND tỉnh bị kháng cáo. Sau khi TANDTC tách khỏi Bộ Tư pháp, Thủ tướng Chính phủ đã ra Nghị định số 381/TTg ngày 20/10/1959 giao cho TANDTC có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những vụ án do TAND cấp dưới xét xử trong các trường hợp có kháng nghị của cơ quan công tố. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức TAND ngày 14/7/1960, theo đó xác định chế độ hai cấp xét xử. Theo Luật tổ chức TAND năm 1960, TANDTC và TAND tỉnh có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các bản án quyết định của TAND cấp dưới bị chống án hoặc bị kháng nghị trên cơ sở của Luật tổ chức TAND năm 1960, TANDTC đã ban hành Thông tư 03/TATC ngày 19/5/1967. Thông tư cho phép Tòa án cấp phúc thẩm có quyền xét lại toàn bộ vụ án, kể cả những người không kháng cáo, cũng không bị kháng cáo, kháng nghị. Điều này làm cho công tác xét xử phúc thẩm cồng kềnh, không hợp lý. Khắc phục tình trạng đó, ngày 02/10/1974, TANDTC ban hành văn bản hướng dẫn về trình tự tố tụng phúc thẩm về hình sự kèm theo Thông tư số 19/TATC quy định cụ thể về trình tự thủ tục xét xử phúc thẩm. Trong đó xác định chức năng của TAND cấp phúc thẩm là xét xử lại những vụ án đã được xét xử theo trình tự sơ thẩm, khi bản án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Nhiệm vụ cụ thể của TAND cấp phúc thẩm là kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của bản án sơ thẩm và xét xử lại vụ án về nội dung. Nếu kháng cáo, kháng nghị một phần bản án thì Tòa án cấp phúc thẩm chỉ được xét xử đối với những người có kháng cáo, kháng nghị nhưng khi xem xét nội dung của kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm phải đặt nó trong toàn bộ vụ án. Đối với những bị cáo không kháng cáo, cũng không bị kháng cáo, kháng nghị nếu xét thấy mức án sơ thẩm là quá nhẹ thì Tòa án cấp phúc thẩm đề nghị Viện kiểm sát kháng nghị. Thông tư 19/TATC đã góp phần nâng cao tác dụng của việc xét xử phúc thẩm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân.
  • 42. 42 * Thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm Để khắc phục tình trạng phát hiện sai lầm đối với những bản án quyết định có hiệu lực pháp luật, Bộ Tư pháp đã ra Thông tư 312/TT ngày 12/2/1958 yêu cầu Tòa án các cấp phải xem xét giải quyết các khiếu nại tố cáo để khắc phục những sai lầm đối với những bản án có hiệu lực pháp luật. Sau đó, Bộ Tư pháp thống nhất với TANDTC ra Thông tư số 02/TT ngày 13/1/1959 và Thông tư số 04/TT ngày 3/2/1959. Theo các Thông tư này thì Tòa án xem xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật đối với các can phạm bị giam giữ thi hành án trong các trường hợp bị xét xử oan; tội nặng xử nhẹ, tội nhẹ xử nặng. Đối với những trường hợp phải xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực này, TANDTC căn cứ vào báo cáo của các TAND cấp tỉnh, chứ không căn cứ vào kháng nghị của người có thẩm quyền. Sau khi Luật tổ chức TAND năm 1960 được ban hành, thẩm quyền, thủ tục giám đốc thẩm được quy định rõ và chi tiết hơn: Đối với những bản án, quyết định của TAND địa phương đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm thì TANDTC có quyền xét lại hoặc giao cho TAND cấp dưới xét lại, đối với những bản án của TANDTC đã có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện có sai lầm thì Chánh án TANDTC đưa ra Ủy ban thẩm phán TANDTC xét định. Luật tổ chức TAND ngày 3/7/1981 đã mở rộng thẩm quyền xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Lần đầu tiên đã có một văn bản pháp luật tố tụng hình sự quy định thủ tục tái thẩm đối với những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật nếu phát hiện có những tình tiết mới. Luật tổ chức TAND năm 1981 mở rộng thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND huyện cho Ủy ban thẩm phán TAND cấp tỉnh. Ngày 1/2/1982, TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp đã ra Thông tư số 01/TT-LB hướng dẫn về thủ tục giám đốc thẩm
  • 43. 43 hình sự ở TAND cấp tỉnh. Thông tư đã hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền, thủ tục, thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Cùng ngày 1/2/1982, TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp ra Thông tư số 02/TT-LB hướng dẫn về thủ tục tái thẩm ở TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương. Thông tư chỉ rõ nguồn tài liệu để phát hiện ra những tình tiết mới là kết quả của công tác điều tra xác minh mới do cơ quan điều tra hoặc VKSND tiến hành sau khi có quyết định khởi tố, điều tra xác minh của VKSNDTC. Hai Thông tư liên bộ 01 và 02 hướng dẫn về thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm ở TAND cấp tỉnh, tuy quy định chưa được đầy đủ các vấn đề thẩm quyền, trình tự thủ tục xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, nhưng cơ bản đã thống nhất được thủ tục xét lại các bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật, khắc phục được các thiếu sót trong xét xử, bảo đảm chất lượng các bản án ngày càng đúng pháp luật. 1.3.2 Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 đến nay Ngày 28/6/1988 Quốc hội thông qua BLTTHS đầu tiên của nước ta có hiệu lực ngày 01/01/1989, đã kế thừa và phát triển những thành tựu của Luật tố tụng hình sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu bảo vệ chế độ XHCN, phục vụ sự nghiệp đổi mới đất nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý kiên quyết và triệt để mọi hành vi phạm tội. Thẩm quyền của TAND cấp huyện và TAQS khu vực xét xử sơ thẩm những tội phạm mà Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 quy định hình phạt từ 7 năm tù trở xuống, trừ những tội sau: + Các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia; + Các tội quy định tại các điều 89, 90, 91, 92, 93, khoản 3 Điều 101, các điều 102, 179, 231, 232 BLHS năm 1999. Thẩm quyền của TAND cấp tỉnh và TAQS cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của
  • 44. 44 TAND cấp huyện và TAQS khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của cấp dưới mà mình lấy lên xét xử. Tòa hình sự TANDTC, TAQSTW xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp. Tòa án quân sự xét xử những bị cáo thuộc thẩm quyền xét xử của mình theo quy định của pháp luật. * Thẩm quyền xét xử theo đối tượng Điều 3 Pháp lệnh tổ chức TAQS năm 1993 quy định: Các TAQS có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là: Quân nhân tại ngũ, công nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu với quân đội và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý; Những người không thuộc các đối tượng quy định ở trên phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội. * Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Tòa án nơi thực hiện tội phạm. Trong trường hợp không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì thẩm quyền xét xử của Tòa án là nơi kết thúc điều tra. Trong trường hợp bị cáo phạm tội ở nước ngoài thì thẩm quyền xét xử của TAND được xác định như sau: Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì do TAND cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử. Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo thì tùy trường hợp, Chánh án TANDTC ra quyết định giao cho TAND thành phố Hà Nội hoặc TAND Thành phố Hồ Chí Minh xét xử. Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS thì do TAQS quân khu trở lên xét xử theo quyết định của Chánh án TAQS trung ương. Đối với những vụ án xảy ra trên máy bay, tàu biển của nước Cộng hòa XHCN Việt
  • 45. 45 Nam đang hoạt động ở nước ngoài thì TAND ở Việt Nam nơi có sân bay, bến cảng mà máy bay, tàu biển đó trở về đầu tiên trên lãnh thổ Việt Nam hoặc nơi máy bay, tàu biển đó đăng ký có thẩm quyền xét xử. * Thẩm quyền xét xử phúc thẩm Theo các quy định của Luật tổ chức TAND năm 1992, thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự được phân định như sau: Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền phúc thẩm những vụ án hình sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị. Tòa án quân sự cấp quân khu và tương đương có thẩm quyền phúc thẩm các vụ án hình sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAQS cấp khu vực bị kháng cáo, kháng nghị. Tòa phúc thẩm TANDTC có thẩm quyền phúc thẩm đối với vụ án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bị kháng cáo, kháng nghị. Tòa án quân sự Trung ương có thẩm quyền phúc thẩm đối với những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TAQS cấp quân khu hoặc tương đương, bị kháng cáo, kháng nghị. * Thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm - Quy định về thẩm quyền giám đốc thẩm: Theo quy định tại Điều 248 BLTTHS năm 1988: Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện; Ủy ban thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực; Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân