SlideShare a Scribd company logo
1 of 93
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRƯƠNG THỊ THÙY DUNG
VAI TRß CñA T¦ PH¸P
TRONG VIÖC B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI ë VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRƯƠNG THỊ THÙY DUNG
VAI TRß CñA T¦ PH¸P
TRONG VIÖC B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI ë VIÖT NAM
Chuyên ngành: Pháp luật về Quyền con người
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
bảo đảm tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả
các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy
định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Trương Thị Thùy Dung
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
VÀ QUYỀN TƯ PHÁP........................................................................ 11
1.1. Khái quát về quyền con người............................................................. 11
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng về quyền con người.............................................. 11
1.1.2. Cách thức ghi nhận các quyền con người ............................................... 15
1.2. Khái quát về quyền tư pháp ................................................................ 17
1.2.1. Quan niệm chung về quyền tư pháp ....................................................... 17
1.2.2. Các đặc trưng của quyền tư pháp............................................................ 19
1.2.3. Tính độc lập của quyền tư pháp.............................................................. 21
1.3. Vai trò tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ........................... 26
1.3.1. Mối quan hệ giữa quyền tư pháp với việc bảo vệ quyền con người......... 26
1.3.2. Các đặc trưng cơ bản của việc bảo vệ quyền con người bằng tư pháp..... 29
1.3.3. Một số vai trò cụ thể của tư pháp trong việc bảo vệ các quyền con người..... 31
1.4. Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người theo luật quốc tế..... 37
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM............................. 42
2.1. Khái quát hệ thống tư pháp ở Việt Nam............................................. 42
2.2. Thực trạng bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở
Việt Nam............................................................................................... 44
2.2.1. Đánh giá chung ...................................................................................... 44
2.2.2. Những điểm còn hạn chế và nguyên nhân .............................................. 48
Chương 3: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO VAI TRÒ CỦA TƯ PHÁP TRONG VIỆC BẢO VỆ
QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY............................ 57
3.1. Một số quan điểm nhằm nâng cao vai trò của tư pháp trong việc
bảo vệ quyền con người ở Việt Nam.................................................... 57
3.1.1. Sự cần thiết phải nâng cao vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ
quyền con người..................................................................................... 57
3.1.2. Một số quan điểm nâng cao vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ
quyền con người ở Việt Nam ................................................................. 58
3.1.3. Những phương hướng cơ bản cho cải cách tư pháp ................................ 61
3.2. Một số giải pháp nâng cao vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ
quyền con người ở Việt Nam ............................................................... 65
3.2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền
con người ............................................................................................... 65
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật bảo đảm vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ
quyền con người..................................................................................... 67
3.2.3. Nâng cao tính độc lập của tư pháp.......................................................... 75
KẾT LUẬN..................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................... 86
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cả trong lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, trong mối quan hệ giữa nhà
nước với công dân, thì các nhánh quyền lực nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư
pháp) đều rất dễ có xu hướng lạm dụng quyền lực, xâm hại các quyền con
người, cụ thể:
Đối với nhánh lập pháp: với nhiệm vụ là xây dựng những chính sách, quy
tắc điều chỉnh hành vi của con người, liệu hệ thống pháp luật có đầy đủ và tạo ra
cơ chế hữu hiệu để bảo vệ quyền con người hay chưa? Các nội dung Quy định
của pháp luật thật ra là đang bảo vệ hay hạn chế quyền con người? Bởi, quyền
con người, theo học thuyết về quyền tự nhiên thì mọi cá nhân sinh ra đều được
hưởng, là bẩm sinh, vốn có của con người.
Đối với nhánh hành pháp: có một điều rất dễ nhận thấy, đó là, từ khi sinh
ra cho đến khi mất đi, tất cả những hoạt động của con người hầu như gắn liền
với các cơ quan quản lý nhà nước. Trên thực tế, vấn đề vi phạm những quyền lợi
chính đáng, thiết thân của con người trong lĩnh vực quản lý, hành chính nhà
nước là câu chuyện đã được truyền thông, báo chí phản ánh rất nhiều với những
bức tranh hiện thực muôn màu. Nhận thức được điều này, công cuộc cải cách
thủ tục hành chính đã được Đảng và nhà nước tiến hành trong hơn 10 năm qua
và đã thu được nhiều kết quả, phản hồi tích cực.
Đối với nhánh tư pháp: mặc dù chúng ta cũng đã tiến hành cải cách tư
pháp từ sau Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 về Một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, đặc biệt là Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02-06-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhưng
những kết quả đạt được còn rất ít. Chính vì những đổi mới về nhận thức, lý luận
và áp dụng trong hệ thống tư pháp các cấp còn hạn chế nên quyền con người
trong lĩnh vực tư pháp thường bị vi phạm rất nhiều.
2
Khác với lĩnh vực hành pháp, trong lĩnh vực tư pháp, hậu quả của hành vi
lạm quyền, xét xử không theo nguyên tắc chỉ tuân theo pháp luật thường là rất
nghiêm trọng vì nó liên quan đến uy tín, danh dự, nhân phẩm, vận mệnh và có
thể cả là tính mạng, sự sống của con người, của đời người. Các bản án oan, sai,
xét xử không đúng hạn, vi phạm các thủ tục tố tụng, vi phạm quyền con người là
câu chuyện không còn xa lạ trong đời sống của chúng ta. Vì sao hệ thống tư
pháp lại còn nhiều bất cập đến vậy? Đó là do các nhánh quyền lực nhà nước còn
chưa độc lập, còn chồng chéo lẫn nhau. Quyền lực nhà nước của chúng ta không
được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền như nhiều nước khác trên thế giới.
Chúng ta đang chủ trương kiên trì con đường xây dựng nhà nước pháp
quyền, nhà nước pháp quyền nghĩa là phải tôn trọng và bảo vệ các quyền con
người và tư pháp phải độc lập. Hiện nay chúng ta chưa thể có tư pháp độc lập
khi mà cả lập pháp, hành pháp và tư pháp vẫn theo cách phân công phân nhiệm
chứ không phải phân quyền. Quyền lực nhà nước vẫn theo nguyên tắc tập
quyền, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhưng thực sự nhân dân có
làm chủ quyền đó hay không khi mà chỉ thông qua cơ quan đại diện của nhân
dân là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp mà trong đó nhân dân với tư cách
“người làm chủ” không được quyền bãi nhiệm người đại diện của mình.
Việc phân công, phối hợp quyền lực nhà nước giữa quyền tư pháp với các
quyền lập pháp và hành pháp cần phải bảo đảm nguyên tắc độc lập của tư pháp.
Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của tòa án nước ta chưa bảo đảm được tính độc
lập. Tư pháp chưa thể độc lập khi mà hệ thống tòa án còn được tổ chức theo các
cấp quản lý hành chính, bị chi phối, tác động theo các cấp ủy, Đảng địa phương.
Vì vậy, có thể nói, quyền con người trong lĩnh vực tư pháp của chúng ta
hiện nay chưa được đảm bảo, chưa có cơ chế bảo vệ hữu hiệu và vẫn còn bộc lộ
những bất cập cả về lý luận cũng như hoạt động thực tiễn. Những bất cập này đã
ít nhiều gây thiệt hại đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp
3
pháp của công dân; vi phạm đến các vấn đề về dân chủ, công bằng, bình đẳng
trong xã hội; làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng và nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Đó là nguyên cớ để các thế lực thù địch tìm cách chống phá lại sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân ta đang tích cực triển khai những
nhiệm vụ khác nhau nhằm hiện thực hóa việc xây dựng nhà nước pháp quyền, là
một mô hình tổ chức nhà nước chống lại sự lạm quyền, đề cao, bảo vệ và tôn
trọng các quyền con người. Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền đòi hỏi
chính quyền phải chịu sự kiểm soát của pháp luật. Nhà nước pháp quyền yêu cầu
chính quyền phải chịu sự ràng buộc bởi pháp luật để bảo vệ con người, trong đó
tư pháp là lĩnh vực có chức năng đảm bảo cho pháp luật được thực hiện và bảo
vệ con người. Do đó, việc xây dựng nhà nước pháp quyền không thể tách rời với
quá trình xây dựng, cải cách nền tư pháp, hướng tới một nền tư pháp công minh,
độc lập, hiệu quả, bảo vệ các quyền con người. Chính vì vậy, để xây dựng thành
công nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, chúng ta cần phải đẩy mạnh cải cách tư
pháp, hướng tới một nền “tư pháp độc lập” nhằm “bảo vệ các quyền con người,
quyền công dân”.
Trên thực tế, thời gian vừa qua công luận đã liên tiếp đưa ra ánh sáng tình
trạng bắt người tùy tiện, bắt oan người không có tội, tạm giữ, tạm giam người
không có căn cứ, khởi tố điều tra sai, khởi tố điều tra khi không đủ căn cứ dẫn
đến xâm hại nghiêm trọng đến nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân. Do hoạt động tố tụng là việc đi ngược dòng thời gian để tìm ra sự thật
khách quan, song nhận thức của con người là có hạn nên một số trường hợp
không thể hoặc chưa thể truy ra sự thật. Tuy nhiên, dưới sức ép không để lọt tội
phạm dễ dẫn đến hiện tượng “giết nhằm hơn bỏ sót”, vậy là oan sai lại xảy ra.
Nguyễn Thanh Chấn (ở tù oan hơn 10 năm) là một điển hình của việc này.
Vì tâm lý “sợ lọt tội phạm” nên nhiều vụ án chưa đủ chứng cứ để kết tội
4
đáng lẽ ra phải tuyên bị cáo vô tội và trả tự do; vậy mà tòa tuyên trả hồ sơ điều
tra bổ sung (bị cáo vẫn không được trả tự do), thậm tệ hơn là đưa ra bản án “an
toàn” là chung thân trong những vụ án chỉ có thể tử hình hoặc vô tội, Kỳ án
Vườn Mít là một ví dụ.
Theo quy định của Bộ luật Hình sự 2003, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ
chứng minh mình vô tội – nghĩa là bị can, bị cáo có quyền im lặng trong khâu
chứng minh mình vô tội. Tuy nhiên trên thực tế chỉ vì im lặng mà xảy ra những
cái chết đau lòng tại trụ sở công an. Vụ án 05 công an đánh chết nghi can trong
quá trình điều tra ở Phú Yên trong thời gian vừa qua là một minh chứng.
Thực tế cho thấy vấn đề đảm bảo quyền con người nói chung và đảm bảo
quyền con người trong hoạt động tư pháp ở nước ta tuy đang từng bước được
củng cố và đã trở thành một trong những tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá
về sự công bằng, dân chủ và tiến bộ trong xã hội, tuy nhiên còn bộc lộ nhiều bất
cập, thiếu sót, hạn chế, lý thuyết và là nội dung khá mới mẻ trong nhận thức của
công dân, trong hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý cũng như trong việc tổ
chức thực hiện trên thực tế. Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu một
cách toàn diện cả về lý luận lẫn hoạt động thực tiễn để góp phần thiết thực vào
việc đảm bảo quyền con người nói chung và quyền con người trong hoạt động tư
pháp nói riêng, làm cơ sở cho việc thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Chính vì những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Vai trò của tư pháp
trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu về tư pháp và quyền con người nói
chung, về bảo đảm quyền con người bằng hoạt động tư pháp trong nhà nước
pháp quyền nói riêng, chẳng hạn như:
5
- Bài viết: Vai trò của tư pháp độc lập của tác giả Philippa Strum, được
dịch và in trong cuốn Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến: Một số tiểu luận
của học giả nước ngoài, NXB Lao động xã hội (2012), đã chứng minh những
đóng góp quan trọng của nhánh quyền lực tư pháp trong việc bảo vệ và thúc đẩy
các quyền con người ở Hoa Kỳ.
- Bài viết: Tầm quan trọng của tư pháp độc lập của tác giả Sandra Day
O’Connor, được dịch và in trong cuốn Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến:
Một số tiểu luận của học giả nước ngoài, NXB Lao động xã hội (2012), đã cho
thấy tính phổ biến của tư pháp độc lập trong việc bảo vệ quyền con người, thông
qua hoạt động xét xử.
- Ấn phẩm: Phương thức hoạt động của tòa án Hoa Kỳ của Bộ Ngoại giao
Hoa Kỳ (1999) bao gồm nhiều bài viết của nhiều tác giả về các phương diện của
hệ thống tư pháp Hoa Kỳ, trong đó chủ yếu đều cập đến lịch sử hình thành và
phát triển của nền tư pháp Hoa Kỳ, những thành tựu của Hiến pháp Hoa Kỳ
trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Bên cạnh đó, ấn phẩm này
cũng cung cấp những kinh nhiệm quý báu trong việc bảo đảm sự vô tư, khách
quan của thẩm phán bằng hệ thống đạo đức nghề nghiệp của thẩm pháp và
phương thức kỷ luật thẩm phán trong hệ thống tư pháp Hoa Kỳ.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu về tư pháp, cải cách tư pháp và
quyền con người, có thể kể ra một số nghiên cứu sau:
Một số sách, công trình nghiên cứu:
- Lê Cảm – Nguyễn Ngọc Chí (đồng chủ biên) (2004), Cải cách tư pháp ở
Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội. Tác phẩm đã tình bày những vấn đề cơ bản cần đặt ra trong
quá trình cải cách tư pháp trong mối quan hệ với những yêu cầu của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa về tổ chức, hoạt động của quyền tư pháp; vị trí, vai
6
trò và đặc điểm của mối quan hệ giữa các thiết chế bên trong cũng như mối quan
hệ giữa quyền lực tư pháp với quyền lập pháp và hành pháp.
- Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2004), Thể chế tư pháp trong Nhà nước
pháp quyền, NXB Tư pháp, Hà Nội. Tác phẩm đã đề cập đến vấn đề lý luận về
thể chế tư pháp, thể chế tư pháp ở nhà nước pháp quyền dân chủ và thể chế tư
pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
- Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực Nhà nước, NXB. Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
- Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2012), Tòa án Việt Nam trong bối cảnh
xây dựng Nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Tác
phẩm đã phân tích và làm rõ cơ sở lý luận về vị trí, vai trò của tòa án, phạm vi
của hoạt động xét xử cũng như tầm quan trọng của độc lập tư pháp trong nhà
nước pháp quyền.
- Phạm Hồng Thái – Nguyễn Sĩ Dũng – Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công
Giao – Hoàng Minh Hiếu – Đặng Minh Tuấn (đồng chủ biên) (2012), Sửa đổi,
bổ sung Hiến pháp 1992: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Hồng Đức,
Hà Nội. Tác phẩm này gồm nhiều chuyên luận có giá trị tham khảo rất lớn của
các nhà nghiên cứu trong nước về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền,
các yêu cầu cần phải đảm bảo trong quá trình thực hiện cải cách tư pháp.
- Nguyễn Đăng Dung – Phạm Hồng Thái – Lã Khánh Tùng – Vũ Công
Giao (đồng chủ biên) (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con
người, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội.
- Nguyễn Đăng Dung – Vũ Công Giao – Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên)
(2011), Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Tác phẩm đã cung cấp một khối lượng kiến thức
trọng tâm về pháp luật về quyền con người, nhằm đưa đến cho người đọc một sự
hiểu biết toàn diện và khái quát nhất.
7
- Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân (2012), Giới
thiệu Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR, 1966), NXB
Hồng Đức, Hà Nội. Tác phẩm đã cung cấp những phân tích sâu sắc về nội hàm
của các quyền con người, đồng thời cũng trình bày sơ lược về quá trình phát
triển của các quyền con người.
- Nguyễn Đăng Dung – Phạm Hồng Thái – Lã Khánh Tùng – Vũ Công
Giao (đồng chủ biên) (2012), Tuyển tập Hiến pháp của một số quốc gia, NXB
Hồng Đức, Hà Nội.
- Gudmundur Alfredsson – Asbjorn Eide (đồng chủ biên) (1999), The
Universal Declaration of Human rights: A common standard of Achivement
(Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền 1948 – Mục tiêu chung của Nhân loại), NXB
Martinus Nijhoff.
Một số bài viết:
- Lê Cảm (2006), “Tổ chức quyền tư pháp, yếu tố quan trọng nhất đảm
bảo cho thành công của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Nhà nước
và pháp luật, (5).
- Ngô Huy Cương (2003), “Tổ chức tư pháp hướng tới Nhà nước pháp
quyền: Một số vấn đề cơ bản”, Nhà nước và pháp luật, (7).
- Nguyễn Đăng Dung (2007), “Trọng tâm của công tác cải cách tư pháp
hiện nay là bảo đảm cho nguyên tắc độc lập có hiệu lực trên thực tế”, Dân chủ
và Pháp luật, (178).
- Nguyễn Hải Ninh (2008), “Cải cách tư pháp ở Canada, Trung Quốc và
Nhật Bản”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1 năm 2008.
Những công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập, phân tích rất sâu những
khía cạnh của nhà nước pháp quyền; vị trí, vai trò của tư pháp trong nhà nước
pháp quyền và yêu cầu của tư pháp độc lập nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước,
bảo vệ công lý và pháp luật; những yêu cầu và định hướng cải cách tư pháp
8
nhằm đảo bảo yêu cầu trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam hiện nay. Tuy nhiên, vẫn chưa đề cập đến vai trò cụ thể của tư pháp trong
việc bảo vệ quyền con người, cả trong lý luận và thực tiễn qua hoạt động xét xử
của tòa án ở Việt Nam. Cho nên, luận văn này là công trình đầu tiên nghiên cứu
một cách toàn diện vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt
Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Phân tích mối quan hệ, vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con
người trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn phải giải quyết được các
nhiệm vụ như sau:
- Làm rõ nội hàm và các đặc trưng của khái niệm nhà nước pháp quyền,
quyền con người và quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền.
- Phân tích các yêu cầu, đặc trưng và các nội dung vai trò của tư pháp
trong việc bảo vệ quyền con người.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của tư pháp trong việc
bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
về quyền tư pháp, quyền con người trong nhà nước pháp quyền.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những nội dung về quyền tư pháp, quyền con người
trong nhà nước pháp quyền, vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ các quyền con
người theo những tiêu chuẩn chung của pháp luật thế giới và được áp dụng trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
9
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, các quan điểm,
đường lối của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam về hệ thống pháp luật và
quyền con người. Quan điểm của Liên hợp quốc về vai trò của tư pháp trong
việc bảo vệ các quyền con người.
Các phương pháp được sử dụng trong luận văn này bao gồm: phương
pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và khảo cứu tài liệu.
Cách tiếp cận của luận văn bao gồm: triết học, chính trị học và luật học.
6. Những nét mới của luận văn
Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư pháp và quyền
con người ở Việt Nam, nhưng chưa có công trình nào phân tích toàn diện và
thấu đáo về mối quan hệ, vai trò của tư pháp độc lập trong việc bảo vệ, thúc đẩy
quyền con người. Luận văn này góp phần khỏa lấp khoảng trống đó, bổ sung
cho các nghiên cứu hiện hành về hai lĩnh vực này ở Việt Nam. Tuy vậy, các
công trình đã nghiên cứu sẽ là những tài liệu tham khảo quan trọng đối với tác
giả trong quá trình thực hiện luận văn.
7. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần xây dựng cơ sở khoa học
cho việc hoàn thiện pháp luật về vấn đề cải cách hoạt động tư pháp, nâng cao
chất lượng hệ thống tư pháp nhằm bảo vệ hiệu quả những quyền cơ bản của
công dân nói riêng và quyền con người nói chung.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động giảng dạy,
nghiên cứu ở khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác
ở Việt Nam. Ngoài ra, luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
các nghiên cứu, hội thảo, chuyên đề có liên quan đến vấn đề tư pháp và quyền
con người.
10
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết như sau:
- Chương 1. Một số vấn đề lý luận về quyền con người và quyền tư pháp.
- Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư
pháp ở Việt Nam.
- Chương 3. Một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của
tư pháp trong việc bảo vệ các quyền con người ở Việt Nam
hiện nay.
11
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
VÀ QUYỀN TƯ PHÁP
1.1. Khái quát về quyền con người
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng về quyền con người
Quyền con người là một khái niệm tiến triển theo thời gian. Sự phát triển
của nó “gắn bó chặt chẽ với sự phát triển của các tôn giáo, tư tưởng, tập quán
và pháp luật trong các giai đoạn lịch sử của nhân loại” [14, tr.19]. Trong thời
kì cổ và trung đại, các giáo lý của một số tôn giáo lớn như Phật giáo, Thiên chúa
giáo và Hồi giáo đều đã chứa đựng những tư tưởng có ý nghĩa đạo đức về bình
đẳng, hạnh phúc và tự do. Một số bộ luật cổ còn lưu giữ lại được như Bộ luật
Hammurabi cổ đại (khoảng 1780 tr.CN), Bộ luật của Cyrus Đại đế (khoảng 550
tr.CN), Bộ luật Ashoka (khoảng 273-231 tr.CN),… đã đề cập đến việc bảo vệ
các quyền lợi chính đáng của con người. Trong các tác phẩm của mình, các nhà
tư tưởng có ảnh hưởng trong thời kì này như Aristotle, Platon, Khổng Tử, Mặc
Tử,… đều đã đề cập đến những khía cạnh về sự bình đẳng, tự do và các quyền
của con người.
Tiếp theo, cho đến trước cách mạng tư sản, nhiều văn kiện như Đại
Hiến chương Anh (Magna Carta, 1215), Bộ luật về Quyền của Anh (Bill of
Rights, 1689),… đã chứa đựng những quy định nhằm bảo vệ nhân phẩm của
con người – “chịu ảnh hưởng của các tư tưởng nhân văn trong các học thuyết
tôn giáo” [14, tr.20].
Thời kỳ Khai sáng và cách mạng tư sản, tư tưởng về quyền con người đã
đánh dấu một bước phát triển mới. Nhiều tư tưởng, học thuyết tiến bộ về chính
trị – xã hội ra đời hoặc hồi sinh, nổi bật trong số đó là tư tưởng về quyền tự
nhiên (natural rights) với một số học giả tiêu biểu như Thomas Hobbes, John
12
Locke, Thomas Paine,… Họ cho rằng: “quyền con người là những gì bẩm sinh,
vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thành
viên của gia đình nhân loại” [14, tr.20]. Điều này cũng có thể được hiểu rằng,
các quyền con người “không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống
văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay
nhà nước nào” [12, tr.39]. Cho nên, không một chủ thể nào, kể cả nhà nước có
quyền ban phát hay tước bỏ các quyền gắn với con người này.
Ngược lại, các nhà tư tưởng về học thuyết quyền pháp lý (legal rights) với
đại diện Edmund Burke và Jeremy Bentham lại cho rằng: “quyền con người
không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do các nhà
nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc xuất phát
từ truyền thống văn hóa” [12, tr.39].
Những tư tưởng trong thời kì Khai sáng nêu trên đã có những tác động, ảnh
hưởng to lớn đến các cuộc cách mạng tư sản – với ngọn cờ quyền con người nhằm
chống lại xã hội phong kiến thần quyền. Sự ra đời của Tuyên ngôn độc lập của Mỹ
(1776), Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1789), hay Bộ luật về
Quyền của Mỹ (1791) đã khẳng định quyền con người như một chân lý tự nhiên
rằng: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có
thể xâm phạm được; trong những quyền đó có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc” [15, tr.115]. “Con người sinh ra tự do và bình đẳng về
quyền lợi và phải luôn được tự do, bình đẳng về quyền lợi” [15, tr.119].
Từ thế kỉ XIX cho đến nay, quyền con người càng trở nên phổ biến, được
thừa nhận và tuân thủ bởi nhiều quốc gia trên thế giới, bất chấp sự khác biệt về
thể chế chính trị, hệ tư tưởng, truyền thống văn hóa và pháp luật. Cùng với sự ra
đời của những khái niệm khác có liên quan đến quyền con người như dân chủ,
phát triển, hòa bình, an ninh,… làm cho “quyền con người trở thành một trong
những khái niệm được đề cập, chấp nhận và cổ vũ một cách rộng khắp, thường
xuyên và nồng nhiệt nhất hiện nay” [12, tr.56].
13
Mặc dù có một quá trình phát triển lâu dài như đã trình bày ở trên, vẫn
chưa có một khái niệm thống nhất về quyền con người, bởi đây là một phạm trù
đa diện, đa ngành. Với mỗi cách tiếp cận (luật học, chính trị học, triết học, văn
hóa học, đạo đức, tôn giáo,…) ta lại có một định nghĩa hoặc khái niệm riêng.
Năm 1994, theo một tài liệu của Liên hợp quốc cho thấy “có đến gần 50 định
nghĩa về quyền con người đã được công bố” [12, tr.37]. Đầu tiên phải kể đến
định nghĩa được đưa ra bởi Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc –
định nghĩa này cũng thường được trích dẫn bởi nhiều nhà nghiên cứu, đó là:
“Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá
nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến
nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [12, tr.37].
GS. TS Nguyễn Đăng Dung – một người có nhiều năm kinh nghiệm
nghiên cứu trong lĩnh vực quyền con người lại đưa ra một định nghĩa như sau:
Quyền con người là những quyền cơ bản nhất của con người,
được có một cách tự nhiên, gắn bó mật thiết với con người – một động
vật cao cấp có lý trí và có tình cảm, làm cho con người khác với các
động vật khác, mà nhà nước thành lập với một trong những nhiệm vụ
quan trọng bậc nhất của mình là phải bảo vệ những quyền đó [4].
Từ hai định nghĩa nêu trên, có thể rút ra được một số khía cạnh chung về
cách hiểu, nhận thức về quyền con người là: thứ nhất, quyền con người là những
quyền cơ bản, gắn với cá nhân con người, xuất phát từ phẩm giá vốn có của họ
mà không có bất kì sự phân biệt nào. Nhờ những quyền đó con người mới tồn tại
và phát triển được bản thân trong đời sống cộng đồng; thứ hai, các quyền con
người yêu cầu phải được pháp luật ghi nhận và bảo đảm – đây chính là công cụ
hữu hiệu nhất để bảo vệ các quyền con người, ở cả phạm vi quốc gia và quốc tế.
Về các đặc trưng của quyền con người, theo cách hiểu hiện nay của luật
nhân quyền quốc tế, quyền con người có bốn đặc trưng cơ bản, đó là:
14
Thứ nhất, tính phổ biến (universal). Theo đặc trưng này, “quyền con
người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng
cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại mà không có bất cứ sự phân
biệt nào về chủng tộc, màu da, tôn giáo, xuất thân,…” [12, tr.41] Tuy nhiên, sự
bình đẳng ở đây không phải là cào bằng mức độ hưởng thụ, mà bình đẳng về tư
cách chủ thể, và bình đẳng về cơ hội để thụ hưởng các quyền con người.
Thứ hai, tính không thể phân chia (indivisible). Đặc trưng này chỉ ra các
quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, không quyền nào được coi là
có giá trị hơn quyền nào. Bất kì một sự tước bỏ hay hạn chế quyền con người
nào đều sẽ gây ra những “tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát
triển của con người” [12, tr.42]. Mặc dù vậy, trong những điều kiện, hoàn cảnh
thực tế, tùy theo những yêu cầu cụ thể mà có những quyền được ưu tiên thực
hiện. Chẳng hạn như trong chiến tranh, bệnh dịch, hay đói nghèo thì các quyền
như quyền sống, quyền về y tế, quyền về lương thực sẽ được ưu tiên thực hiện
hơn các quyền con người khác.
Thứ ba, tính không thể tước bỏ (inalienable). Về cơ bản, các quyền con
người là các quyền nhân thân, nó gắn liền với các cá nhân, cho nên không một
chủ thể nào, kể cả cơ quan nhà nước có thể tùy tiện tước đoạt hay giới hạn. Sự
tước đoạt hay giới hạn phải tuân theo những quy định nghiêm ngặt của pháp luật
– được thừa nhận chung bởi các quốc gia trên thế giới. Ví dụ như, trong tình
trạng khẩn cấp quốc gia (state emergency) thì một số quyền con người có thể bị
giới hạn, như quyền tự do đi lại, quyền hội họp, biểu tình,… hoặc khi một cá
nhân vi phạm những tội ác nghiêm trọng nhất, quyền sống của cá nhân đó có thể
sẽ bị tước đoạt (hình phạt tử hình).
Thứ tư, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated & interdependent).
Đặc trưng này nói lên rằng các quyền con người có mối liên hệ phụ thuộc và tác
động qua lại lẫn nhau: “Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây
15
ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong
việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặ gián tiếp tác động tích cực đến việc
bảo đảm các quyền khác” [12, tr.43].
1.1.2. Cách thức ghi nhận các quyền con người
Trong một nhà nước pháp quyền, mối quan hệ giữa nhà nước và công dân
là bình đẳng dựa trên cơ sở của pháp luật, và Hiến pháp – bản khế ước thể hiện
sự đồng thuận của những người bị trị – đóng vai trò rất quan trọng. Các quyền
con người, quyền công dân, thường là một phần trong các bản Hiến pháp. Chẳng
hạn, Bộ luật về Quyền của Mỹ (Bill of Rights, 1791) chính là 10 Tu chính án
Hiến pháp đầu tiên, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1789)
chính là một phần của Hiến pháp Pháp, hay Bộ luật về Quyền của Anh (Bill of
Rights, 1689) là một nguồn của Hiến pháp Anh. Các bản Hiến pháp cổ điển này
chủ yếu quy định các quyền dân sự và chính trị. Ngày nay, các bản Hiến pháp
hiện đại đã mở rộng phạm vi các quyền con người, ghi nhận thêm cả các quyền
kinh tế, văn hóa, xã hội, và cả quyền của các nhóm yếu thế (chẳng hạn như phụ
nữ, trẻ em, người thiểu số…).
Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân được ghi nhận tại Chương II Hiến pháp 2013, chia thành
các nhóm quyền như sau: thứ nhất, các quyền dân sự, chính trị như: quyền tự do
và an ninh cá nhân; quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ
một cách bình đẳng; quyền tự do đi lại và lựa chọn nơi ở; quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do ngôn luận, báo chí và thông tin; quyền lập hội,
hội họp; quyền được bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý đất nước;… thứ hai,
các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội như: quyền làm việc; quyền học tập; quyền
được chăm sóc sức khỏe; các quyền về an sinh xã hội;…
Ngoài ra, các đạo luật, luật cũng đã cụ thể hóa các quyền con người trong
Hiến pháp vào các lĩnh vực pháp lý cụ thể, chẳng hạn như quyền con người
16
trong lĩnh vực dân sự, quyền con người trong lĩnh vực hình sự, hay quyền con
người trong lĩnh vực hành chính, lao động,… Cùng với đó, quyền của các nhóm
cũng được ghi nhận cụ thể hơn, chẳng hạn quyền của phụ nữ, quyền trẻ em,
quyền của người sống chung với HIV/AIDS hay quyền của người khuyết tật,…
Với một hệ thống các quy định của pháp luật như trên, từ Hiến pháp cho
đến các văn bản dưới nó, quyền con người trong nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam luôn được ghi nhận và bảo đảm (về mặt pháp lý). Tuy
nhiên, việc ghi nhận và bảo đảm về mặt pháp lý như trên là chưa đủ, còn cần
phải có những biện pháp, chính sách đảm bảo thực hiện các quyền con người
trên thực tế. Theo PGS. TS Tường Duy Kiên thì cần phải:
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật, trong đó chú trọng pháp
luật về quyền con người, quyền công dân; Xây dựng chế độ trách
nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ công chức trong quá trình thực
thi công vụ; Đảm bảo tính độc lập của cơ quan tư pháp trong việc
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; Đề cao vai trò của các tổ
chức xã hội dân sự [20, tr.64-69].
Còn theo PGS. TS Đinh Văn Mậu, để quyền con người được bảo đảm
thực hiện, cần phải:
Thông qua mối quan hệ giữa nhà nước và công dân do pháp luật
quy định; Thông qua hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước như cơ
quan lập pháp, cơ quan hành pháp, Tòa án và Viện Kiểm sát; Bằng
việc hoàn thiện tổ chức nhà nước như đổi mới tổ chức thực hiện thẩm
quyền Quốc hội, cải cách nền hành chính nhà nước, cải cách tư pháp
và nâng cao trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm, bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong cơ chế thị trường và dân
chủ hóa xã hội [17, tr.82-111].
17
Nhìn chung thì với mỗi nhà nghiên cứu, dưới các góc độ khác nhau lại chỉ
ra được những yêu cầu cần phải thực hiện nhằm đảm bảo quyền con người trên
thực tế. Tựu chung lại, có thể phân biệt thành các nhóm biện pháp sau: thứ nhất,
các biện pháp liên quan đến hoạt động lập pháp và hoạt động thi hành pháp luật;
thứ hai, các biện pháp liên quan đến chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước,
cán bộ, công chức trong việc bảo vệ các quyền con người; thứ ba, các biện pháp
xử lý vi phạm quyền con người, bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân;
thứ tư, các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà nước.
Trong phạm vi của luận văn sẽ đề cập chủ yếu đến nhóm các giải pháp thứ ba,
và sẽ được trình bày cụ thể hơn ở các phần sau.
1.2. Khái quát về quyền tư pháp
1.2.1. Quan niệm chung về quyền tư pháp
Trong khoa học pháp lý, theo nghĩa truyền thống, thuật ngữ “quyền tư
pháp” thường được hiểu đơn giản là quyền xét xử. Cụ thể, đó là quyền của Tòa án
xét xử một vụ việc trên cơ sở xem xét các tính tiết thực tế, áp dụng pháp luật để
xác định hậu quả pháp lý và ra phán quyết, quyết định. Hiểu theo nghĩa này, hệ
thống cơ quan thực hiện quyền tư pháp chính là hệ thống cơ quan thực hiện quyền
xét xử, tức là hệ thống tòa án. Từ điển Black’s Law Dictionary định nghĩa, quyền
tư pháp là “thẩm quyền được trao cho tòa án và các thẩm phán xem xét và quyết
định các vụ việc và đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các vụ
việc ấy; quyền giải thích và áp dụng pháp luật khi có tranh cãi phát sinh từ việc
một điều gì đó có phù hợp hay không phù hợp với pháp luật điều chỉnh ấy” [3].
Ngày nay, cách hiểu truyền thống về quyền tư pháp vẫn được sử dụng, tuy
nhiên cũng đã xuất hiện những quan điểm về quyền tư pháp và cơ quan tư pháp
theo hướng tiếp cận rộng hơn, tổng quát hơn. Chẳng hạn như, các cơ quan công
tố ở nhiều quốc gia trên thế giới có thể trực thuộc nhánh hành pháp hay tòa án,
song ngày càng có xu hướng vận hành theo nguyên tắc độc lập giống như hệ
18
thống tòa án. Quan điểm này được phản ánh trong các bản Hiến pháp xã hội chủ
nghĩa và ở một số Hiến pháp các quốc gia Đông Âu hiện nay. Chẳng hạn như,
Hiến pháp Trung Quốc gộp chung hệ thống Tòa án nhân dân và hệ thống Viện
kiểm sát vào chương điều chỉnh về các cơ quan tư pháp, Hiến pháp Liên bang
Nga quy định Viện công tố và Tòa án (cả Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga)
cùng thực hiện quyền tư pháp trong một chương. Theo nghĩa rộng này, thì các
cơ quan tư pháp có thể bao gồm:
Hệ thống tòa án; Cơ quan giữ quyền công tố; các cơ quan giữ
quyền điều tra; Các cơ quan thi hành án hình sự và dân sự; Các thiết
chế bổ trợ tư pháp, ví dụ công chứng, đăng ký giao dịch có bảo đảm,
thừa phát lại. Ngoài ra, các cơ quan tư pháp còn liên quan mật thiết
đến những người có hành nghề liên quan đến tư pháp như: luật sư;
giám định viên; kiểm toán viên; những người hành nghề bổ trợ tư
pháp khác [18].
Trong phạm vi luận văn này, khái niệm quyền tư pháp được sử dụng theo
nghĩa truyền thống (nghĩa hẹp), đó là quyền xét xử của tòa án, và tòa án chính
là cơ quan tư pháp của một quốc gia: “Quyền tư pháp là khả năng và năng lực
riêng của các cơ quan tòa án, chiếm vị trí đặc biệt trong bộ máy nhà nước thực
hiện để tác động đến hành vi con người, đến quá trình xã hội” [25]. Bởi vì, tòa
án là nơi mà quyền tư pháp được thi hành một cách đầy đủ nhất, và hoạt động
xét xử của tòa án thể hiện đầy đủ nhất các đặc điểm của quyền tư pháp.
Ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở các nước phương Tây, quyền tư
pháp cùng với quyền lập pháp và hành pháp là ba nhánh quyền lực của nhà nước
trong cơ chế phân quyền. Trong khi quyền lập pháp và quyền hành pháp luôn có
xu hướng có quan hệ mật thiết với nhau, thì quyền tư pháp luôn phải độc lập –
một nguyên tắc quan trọng trong nhà nước pháp quyền. Chỉ có vậy, hoạt động
xét xử mới thực sự công bằng, công lý được thực hiện và xây dựng được niềm
19
tin của người dân vào hệ thống tư pháp. Lon Fuller – một nhà nghiên cứu về lĩnh
vực nhà nước pháp quyền viết:
Nguyên tắc nhà nước pháp quyền chỉ tồn tại khi, thứ nhất, công
lý và nhân phẩm của con người được bảo đảm; thứ hai, các cơ quan
hành pháp phải có trách nhiệm thi hành các quy định của lập pháp đã
được thông qua, ngay cả trong trường hợp quy định đó là sai; thứ ba,
khi các quy định đó được các cơ quan tư pháp đảm bảo thực thi một
cách nghiêm túc; thứ tư, khi có một hệ thống cơ quan tòa án độc lập
sẵn sàng bảo vệ các bên bị xâm hại chống lại các hành vi cửa quyền
của các cơ quan chức năng của nhà nước [6, tr.79].
Với tư cách là một trong các nhánh quyền lực nhà nước, bên cạnh những
đặc điểm chung của các bộ phận cấu thành nên bộ máy nhà nước như quyền lực
công cộng, thể hiện ý chí của nhân dân,… hoạt động tư pháp của tòa án có
những đặc trưng riêng mang tính đặc thù sau đây.
1.2.2. Các đặc trưng của quyền tư pháp
Trong một nhà nước pháp quyền, hoạt động tư pháp của hệ thống tòa án
có các đặc trưng sau đây:
Thứ nhất, hoạt động tư pháp là hoạt động thực hiện quyền lực – quyền
nhân danh nhà nước xét xử và tuyên án. Trong nhà nước pháp quyền, không một
cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào có quyền kết tội một công dân. Chỉ có tòa án
mới có quyền nhân danh nhà nước phán xét một người là có tội hay không có
tội. Điều này được thể hiện trong “nguyên tắc suy đoán vô tội” – một nguyên
tắc kinh điển trong hoạt động tư pháp được thừa nhận chung bởi nền văn minh
pháp lý nhân loại, rằng: không có ai bị coi là có tội cung như phải chịu hình
phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra,
bất kì sự giới hạn hay tước bỏ các quyền, lợi ích của cá nhân hay các tổ chức
đều phải bằng con đường hoặc thủ tục tư pháp.
20
Hoạt động xét xử của tòa án cũng chính là việc áp dụng pháp luật vào việc
giải quyết các tranh chấp, vi phạm cụ thể. Quy trình này phải tuân theo những
trình tự, thủ tục luật định một cách nghiêm ngặt, không được bỏ qua một thủ tục
nào, nhằm tránh sự lạm dụng của quyền tư pháp, gây tổn hại cho nền công lý
quốc gia, làm giảm niềm tin của công chúng vào công lý, vào bộ máy nhà nước.
Cho nên, phán quyết và quyết định của tòa án có hiệu lực cao, yêu cầu các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân phải tôn trọng, các chủ thể liên quan
phải nghiêm chỉnh chấp hành. Chỉ có vậy, tính thiêng liêng, hiệu lực và sức
mạnh của pháp luật mới được bảo vệ.
Trong hoạt động xét xử, ngoài căn cứ vào pháp luật, tòa án còn cần phải
căn cứ vào công lý để áp dụng linh hoạt. Đó chính là biểu hiện của sự công
bằng, khách quan, vô tư và tình người, để sao cho công bằng không bị bóp méo
theo điều cứng nhắc, đóng khung của pháp luật.
Thứ hai, hoạt động tư pháp đưa ra những đánh giá về mặt pháp lý cho các
sự kiện. Trước hết, hoạt động tư pháp phải tìm kiếm, xác định và minh định được
các sự kiện xảy ra, trên cơ sở đó phải đưa ra được những đánh giá về mặt pháp
lý cho các sự kiện này, từ đó mới áp dụng được pháp luật. Điều này đòi hỏi nỗ
lực trí tuệ và trách nhiệm rất cao của các chủ thể áp dụng pháp luật, bởi vì đây là
những vấn đề liên quan đến con người, liên quan đến lợi ích của các bên (có thể
trái ngược hoặc mâu thuẫn với nhau). Cho nên, tòa án phải độc lập, khách quan,
vô tư, tôn trọng sự thật thì mới có thể làm trọng tài cho các bên tranh chấp.
Thứ ba, hoạt động tư pháp mang tính hình thức, thể hiện ở những thủ tục
pháp lý chặt chẽ. Trong nhà nước pháp quyền, hoạt động tư pháp có sự đòi hỏi
về tính hình thức rất cao, có nghĩa là phải theo những thủ tục rất chặt chẽ. Đặc
trưng này thể hiện ở “nguyên tắc tranh tụng” – một nguyên tắc rất quan trọng
của hoạt động tư pháp. Tòa án đóng vai trò là người trọng tài, chỉ căn cứ vào các
chứng cứ được đưa ra trước phiên tòa và hoạt động tranh tụng tại phiên tòa để
đưa ra phán quyết, quyết định của mình một cách khách quan, vô tư nhất.
21
Những thủ tục pháp lý chặt chẽ còn có tác dụng bảo vệ pháp luật, bảo vệ
các quyền con người trước nguy cơ tùy tiện của các cơ quan công quyền. Trước
hết, đó có thể là sự lạm dụng quyền lực của chính tòa án để mưu cầu lợi ích cá
nhân. Khi đó, luật thủ tục chính là một trong những biện pháp tốt nhất nhằm giới
hạn sự lạm quyền của những người nắm quyền tư pháp. Tiếp đến, những quy
định về thủ tục và cơ chế cũng nhằm kiểm soát, chống lại sự chuyên chế, lạm
quyền của các cơ quan nhà nước. Buộc các cơ quan nhà nước phải chịu sự ràng
buộc của pháp luật và công lý. Nó có tác dụng giống như một tấm lá chắn giữa
kẻ mạnh và kẻ yếu, giữa người thống trị và người bị thống trị, nhằm ngăn cản sự
xâm phạm của kẻ có quyền, có sức mạnh đối với những cá nhân yếu thế, bảo
đảm sự phát triển bền vững của xã hội.
1.2.3. Tính độc lập của quyền tư pháp
Tính độc lập của tư pháp chính là một điều kiện không thể thiếu và có vị
trí như là một điều kiện của nhà nước pháp quyền, nếu không có tư pháp độc
lập, thì sẽ không thể tồn tại nhà nước pháp quyền. Tư pháp độc lập trong nhà
nước pháp quyền phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
Thứ nhất, hệ thống tư pháp phải là những thiết chế độc lập. Sự độc lập ở
đây không những mang nghĩa “thiết chế” – tức cả hệ thống tòa án, mà còn là sự
độc lập của từng thẩm phán trong giải quyết các vụ việc mà không chịu ảnh
hưởng từ các nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp. Hiệp hội Đoàn Luật sư
Mỹ chỉ rõ nguyên tắc độc lập của hệ thống tòa án như sau:
Một hệ thống tòa án thực sự độc lập là hệ thống đưa ra được các
quyết định và phán quyết được các cơ quan lập pháp và hành pháp tôn
trọng và thực thi, là hệ thống nhận được nguồn ngân sách đầy đủ từ
phía nghị viện, là hệ thống không khoan nhượng trước những nỗ lực
làm giảm đi tính khách quan của nó… Tính độc lập của tòa án gồm
tính độc lập của các cá nhân thẩm phán cũng như toàn bộ hệ thống
một nhánh quyền lực nhà nước [6, tr.108-109].
22
Trong nhà nước pháp quyền, chỉ có hệ thống tòa án mới có chức năng xét
xử các tranh chấp giữa người dân với nhau, hoặc giữa người dân với các cơ quan
nhà nước. Chỉ có tòa án mới có quyền nhân danh nhà nước để đưa ra các phán
quyết và quyết định, buộc các chủ thể có liên quan phải tuân theo. Trong mối
liên hệ với các quyền lập pháp và hành pháp, chỉ có tòa án (tư pháp) với vai trò
của mình mới có quyền năng buộc hai nhánh quyền lực kia phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật và thi hành các điều khoản của Hiến pháp. Cho nên, hai
nhánh quyền lực này luôn tìm các biện pháp và hình thức khác nhau để kìm hãm
nhánh quyền tư pháp, chẳng hạn như việc bổ nhiệm các thẩm phán thiếu khả
năng cương quyết trong việc thực hiện chức năng xét xử của tòa án. Sự độc lập
cho phép các tòa án có quyền tài phán đối với mọi vấn đề thuộc thẩm quyền xét
xử của mình, có quyền quyết định các vụ việc một cách vô tư, không thiên vị,
dựa trên bản chất của sự việc và theo pháp luật. Sự độc lập cũng ngăn ngừa việc
can thiệp một cách vô cớ hay không thỏa đáng của các chủ thể khác vào quá
trình xét xử của tòa án hay việc xem xét lại các phán quyết của tòa án.
Tính độc lập không chỉ bao hàm việc các thẩm phán được miễn trừ khỏi
sức ép chính trị và chính quyền hay các mối quan hệ chính trị phức tạp, mà còn
ở việc họ không được vướng bận vào các mối quan hệ có thể ảnh hưởng đến họ
trong quá trình thực hiện chức năng xét xử (chẳng hạn như mối quan hệ với các
doanh nghiệp). Tính độc lập ở đây được hiểu là độc lập trên mọi phương diện,
cả ở bên trong lẫn bên ngoài. Độc lập ở bên trong có nghĩa là mọi phán quyết
của thẩm phán của tòa án cấp dưới không chịu sự chỉ đạo của tòa án cấp trên,
không bị ảnh hưởng bởi các mối quan hệ trong nội bộ. Các phán quyết của thẩm
phán nếu được cho là sai sẽ được xem xét lại theo các thủ tục nghiêm ngặt được
quy định bởi pháp luật (phúc thẩm, tái thẩm, giám đốc thẩm). Trong quá trình
xét xử, thẩm phán độc lập với hồ sơ vụ án, độc lập với cáo trạng và quyết định
truy tố, không phụ thuộc vào các quyết định hoặc kết luận của cơ quan điều tra,
23
viện kiểm sát. Còn độc lập ở bên ngoài có nghĩa là thẩm phán không phải chịu
bất kỳ sự chỉ đạo, ảnh hưởng nào từ phía các cơ quan, tổ chức, cá nhân, đương
sự, bạn bè, người thân, áp lực xã hội,… đối với các phán quyết của mình.
Từ trước tới nay, con người cũng đã nghĩ ra rất nhiều các giải pháp để
tăng cường tính độc lập của thẩm phán, chẳng hạn như: thẩm phán phải có
nhiệm kì lâu dài, thậm chí có thể là suốt đời, được trả lương xứng đáng để không
bị các hoạt động chính trị khác chi phối; thẩm phán phải là các cá nhân liêm
khiết, có khả năng, chuyên môn và phải do bổ nhiệm; tăng cường tính trách
nhiệm của thẩm phán bằng các quy tắc, các thủ tục tố tụng nghiêm ngặt trong
xét xử; quy định về đạo đức nghề nghiệp của thẩm phán và cho phép thẩm phán
được quyền xét xử theo lương tâm;…
Để hệ thống tòa án là một thiết chế độc lập, thì tòa án trong nhà nước
pháp quyền cần phải có hành chính nội bộ và ngân sách riêng. Các nhà nước
phải cung cấp đầy đủ các nguồn lực để tòa án thực hiện tốt các chức năng của
mình theo một cách thức riêng biệt mà không bị phụ thuộc, chi phối bởi bất cứ
một cơ quan nhà nước nào khác. Ở nhiều nước, trách nhiệm quản lý hệ thống tòa
án thuộc về cơ quan hành pháp thông qua Bộ Tư pháp, từ quản lý các nguồn lực
tài chính, các cơ sở trang thiết bị, kể cả việc tuyển dụng và đào tạo các chức
danh tư pháp,… Điều này có thể gây tác động đến tính độc lập của tòa án trong
hoạt động xét xử.
Về khía cạnh nhân lực, hệ thống tòa án gồm nhiều loại nhân viên nhà nước
cùng đóng góp vào quá trình thực thi chức năng của tòa án, như các thẩm phán
chuyên nghiệp, hội thẩm nhân dân, thư ký tòa án, nhân viên văn phòng,… trong
đó vai trò độc lập của cá nhân các thẩm phán là rất quan trọng và đóng vai trò
trung tâm. Về khía cạnh tài chính, tòa án không thể độc lập một khi các khoản chi
tiêu có liên quan đến hoạt động của tòa án lại bị phụ thuộc. Các khoản ngân sách
dự trù phân bổ cho ngành tòa án và cho hoạt động xét xử nên do chính ngành tư
24
pháp chuẩn bị (có thể phối hợp với một cơ quan có thẩm quyền khác) và trình lên
cơ quan lập pháp. Nhấn mạnh tầm quan trọng của điều này, R.D. Nicholson nói:
“Việc lập dự trù ngân sách cho ngành tòa án bởi bất kỳ cơ quan nào khác không
phải là tòa án và việc Chính phủ kiểm soát cách các tòa án sử dụng ngân sách
được phân bổ là mối đe dọa tiềm tàng cho sự độc lập xét xử” [6, tr.125].
Tuy nhiên, sự độc lập của tòa án cũng cần phải đi kèm theo tính trách
nhiệm của tòa án, bởi sự độc lập có xu hướng giải phóng tòa án khỏi mọi sự
trách nhiệm, hạn chế và kiểm soát để ra các quyết định theo ý muốn của mình
(muốn có một sự độc lập tuyệt đối thì phải vô trách nhiệm). Còn tính trách
nhiệm lại có xu hướng kiềm chế, ràng buộc tòa án, không cho phép tòa án hành
xử một cách tùy tiện, vô lương tâm, gây hại cho công lý và quyền lợi đáng ra
được hưởng của các bên. Cho nên, cần phải có các quy định pháp lý, một mặt
bảo đảm cho tòa án có một sự độc lập vừa đủ, không bị ảnh hưởng tác động từ
phía bên ngoài, mặt khác cũng có thể buộc các thẩm phán thực hiện chức năng
xét xử một cách công bằng và khách quan.
Tính trách nhiệm của thẩm phán ở đây chính là trách nhiệm giải trình các
cơ sở ra phán quyết của mình trong bản án. Trước hết và quan trọng nhất đó
chính là những nhận định của thẩm phán về tình tiết của vụ việc và về cơ sở áp
dụng pháp luật. Điều này nhằm mục đích tránh việc thẩm phán ra phán quyết
một cách tùy tiện và không có cơ sở.
Thứ hai, tư pháp độc lập phải được thể hiện ở sự độc lập ở mỗi cấp xét
xử. Về mặt tổ chức, khác với các cơ quan quyền lực nhà nước khác, các tòa án
không được tổ chức theo một ngành dọc từ trung ương đến địa phương, mà bao
gồm các cấp xét xử theo thẩm quyền tố tụng. Không có tòa cấp trên và tòa cấp
dưới, mà chỉ có mối quan hệ giữa tòa cấp cao hơn và tòa cấp thấp hơn về thẩm
quyền tố tụng. Khi xét xử, các hội đồng xét xử hoàn toàn độc lập trên cơ sở của
pháp luật và ý thức pháp luật của thẩm phán và hội thẩm nhân dân.
25
Việc tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử giúp tăng cường tính
độc lập của tòa án đối với các cơ quan quyền lực nhà nước khác, đồng thời cũng
hạn chế sự can thiệp của các cơ quan tư pháp cấp trên. Việc phân định theo thẩm
quyền xét xử cũng giúp cho việc xử án, giải quyết các vụ việc có hiệu quả hơn,
bởi những vụ việc cần giải quyết rất đa dạng, phong phú, có tính chất phức tạp
không giống nhau, nên cần phân định hợp lý theo khả năng chuyên môn cũng
như kinh nghiệm xét xử, nhằm tránh tình trạng tồn đọng án, án oan sai.
Sự độc lập ở mỗi cấp xét xử yêu cầu hoạt động xét xử phải tuân thủ chặt
chẽ theo những nguyên tắc xét xử và các thủ tục tố tụng được quy định một cách
chặt chẽ. Các nguyên tắc như “nguyên tắc hai cấp xét xử” (sơ thẩm và phúc
thẩm) có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tư pháp, vì nó liên quan trực tiếp
đến quyền lợi của đương sự và ảnh hưởng đến lợi ích chung của toàn xã hội, cho
nên cần cẩn trọng trong xét xử. Hệ thống tòa án được tổ chức theo cấp xét xử
nhằm để tòa án cấp trên có thể xem xét lại phán quyết của tòa án cấp dưới theo
thủ tục kháng cáo, kháng nghị nhằm bảo đảm sự công bằng, tránh oan sai. Tuy
nhiên, việc xem xét lại này cũng phải tuân theo những thủ tục tố tụng chặt chẽ
nhằm bảo đảm tính độc lập giữa các cấp tòa án.
Ngoài hai yêu cầu chủ yếu nêu trên, ở nhiều nước trên thế giới, tư pháp
độc lập trong nhà nước pháp quyền còn cho phép tư pháp có quyền xét xử lập
pháp và hành pháp (thông qua cơ chế bảo hiến), và tư pháp có quyền giải thích
pháp luật. Chẳng hạn như quyền tư pháp trong hệ thống chính trị Mỹ như sau:
Các Tòa án thường có quyền giải thích Hiến pháp; Sự giải thích
Hiến pháp của các tòa án chỉ để nhằm giải quyết những vụ, việc cụ thể
của quá trình xét xử theo thẩm quyền của các Tòa án, gắn việc giải
thích và xem xét sự tương thích của một điều luật nào đó với quy định
của Hiến pháp vào việc xem xét vụ việc cụ thể đó, không có thủ tục
riêng, tách vấn đề hợp hiến ra khỏi vụ án; Khi phát hiện có sự vi phạm
26
hoặc bất tương xứng của điều luật hay đạo luật so với quy định của
Hiến pháp hoặc quy định của một đạo luật phù hợp với Hiến pháp.
Nói cách khác, Hiến pháp có giá trị áp dụng trực tiếp; Văn bản vi hiến
sẽ mất hiệu lực pháp lý [26, tr.11-43].
Như vậy, qua những trình bày ở trên, yêu cầu độc lập của tư pháp trong
nhà nước pháp quyền không những độc lập về tính thiết chế (tức cả hệ thống tòa
án), mà còn là sự độc lập của mỗi cá nhân thẩm phán. Sự độc lập phải được xem
xét đến cả từ bên trong lẫn bên ngoài, giữa tòa án cấp trên với tòa án cấp dưới,…
nhằm bảo đảm đưa ra được những phán quyết độc lập, không bị can thiệp. Tuy
nhiên, sự độc lập của thiết chế có thể sẽ là vô ích nếu cá nhân các thẩm phán –
những người thực hiện chức năng xét xử – lại bị lệ thuộc vào bất kì những yếu
tố bên ngoài nào khác. Khi đó, nguyên tắc nhà nước pháp quyền sẽ không được
bảo đảm. Cho nên, để đảm bảo được sự độc lập của tư pháp, cần phải đảm bảo
được sự độc lập của các yếu tố nêu trên, tức các mặt khác nhau của một vấn đề.
1.3. Vai trò tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người
1.3.1. Mối quan hệ giữa quyền tư pháp với việc bảo vệ quyền con người
Tư pháp trong nhà nước pháp quyền nhằm bảo đảm công lý, tính đúng
đắn của pháp luật, đồng thời đó cũng là bảo vệ các quyền và tự do của con
người, thông qua sự độc lập của tư pháp, nguyên tắc xét xử công bằng và đúng
thời hạn – một trong những nền móng của xã hội tôn trọng pháp quyền. Trên
phương diện lý thuyết, tính độc lập của tư pháp và bảo vệ quyền con người có
mối liên hệ mật thiết với nhau. Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người thường được
giao cho tòa án (nơi cuối cùng để phân xử hoặc giải quyết các tranh chấp), và
để thực hiện được nhiệm vụ này, tính độc lập của tòa án là một điều kiện
không thể thiếu. Chỉ có vậy thẩm phán mới được tự do trong việc xét xử để có
thể ra được những quyết định một cách vô tư, không thiên vị, bảo đảm công lý
và quyền lợi của các bên.
27
Về nội dung của nguyên tắc xét xử công bằng gồm có:
Tất cả mọi người đều được bình đẳng trước tòa án và có quyền
bảo đảm tối thiểu xét xử công bằng; Mọi người có quyền được xét xử
công bằng và công khai, do đó dân chúng công khai được chứng kiến
việc xét xử; Mọi người bị kết tội có quyền được coi là vô tội cho đến
khi chứng minh được sự phạm tội theo đúng quy trình quy định của
pháp luật; Mọi người đều có quyền được xét xử kịp thời; Mọi người
đều được có quyền có mặt khi xét xử; Bị cáo có quyền tự bào chữa
hoặc thông quan trợ giúp pháp lý được lựa chọn, anh ta phải được
thông báo về quyền này, trong trường hợp không đủ khả năng chi trả
bị cáo sẽ được trợ giúp miễn phí; Bị cáo có quyền thẩm vấn nhân
chứng chống lại anh ta và có quyền tiến hành thẩm vấn nhân chứng vì
quyền lợi của mình. Bị cáo có quyền không bị ép buộc nhận tội; Bị
cáo có quyền nhận sự trợ giúp miễn phí của phiên dịch, nếu không
hiểu hoặc không nói được ngôn ngữ mà tòa án sử dụng; Bị cáo không
thể bị buộc phạm tội hình sự do bất kỳ hành vi hay sai sót nào không
cấu thành tội phạm tại thời điểm sự việc xảy ra; bị cáo cũng không thể
chịu hình phạt nặng hơn hình phạt tại thời điểm xảy ra vụ việc [21].
Nguyên tắc xét xử công bằng cũng yêu cầu mọi sự can thiệp có thể gây
ảnh hưởng đến quyền và tự do của công dân phải được tiến hành theo những thủ
tục tố tụng hết sức nghiêm ngặt. Chẳng hạn như “nhà ở của mọi công dân không
thể bị khám xét mà không có lệnh chỉ rõ nguyên nhân chính của việc khám xét;
không ai có thể bị bắt nếu không có lệnh viết của người có trách nhiệm khẳng
định một cách dứt khoát có vi phạm;…” [6, tr.149-150].
Trong hoạt động xét xử, các nguyên tắc xét xử phải được tuân thủ.
Nguyên tắc suy đoán vô tội cho phép bị cáo được suy đoán là chưa có tội, chưa
phải là tội phạm khi chưa có phán quyết của tòa án đã có hiệu lực pháp luật, và
28
có quyền giữ im lặng, mời luật sư để bảo vệ cho mình. Điều này đảm bảo sự
ngang bằng, bình đẳng trước pháp luật của các bị can, bị cáo trước sức mạnh của
các cơ quan tiến hành tố tụng. Người buộc tội phải có trách nhiệm chứng minh
tội phạm theo quy định của pháp luật. Sở dĩ vậy, bởi bên buộc tội (các cơ quan
thực thi pháp luật) có đủ các phương tiện, công cụ đặc quyền của nhà nước (như
cảnh sát, nhà tù, tòa án,…), còn bị can, bị cáo không có một thứ quyền lực nào,
cũng như dụng cụ nào có thể tương đương, họ chỉ còn một cách duy nhất là
trông chờ vào sự vô tư, khách quan của các thẩm phán. Nguyên tắc tranh tụng
đảm bảo cho các bên (buộc tội và gỡ tội) trình bày quan điểm của mình, đưa ra
các chứng cứ trước phiên tòa. Thẩm phán chỉ căn cứ vào các chứng cứ được đưa
ra trước phiên tòa và quá trình tranh tụng tại phiên tòa để ra phán quyết. Như
vậy, công lý được bảo đảm một cách bình đẳng đối với tất cả mọi người, bất cứ
ai cho rằng quyền lợi của mình bị vi phạm, đều có thể khiếu nại ra tòa, khi đó
tòa án với vai trò là người bảo vệ pháp luật đảm bảo xét xử một cách công minh
và độc lập trước mọi sự tác động hay can thiệp.
Nguyên tắc xét xử công bằng cũng giúp cho việc bảo vệ hàng loạt các
quyền con người trong quá trình thực hành công lý, từ lúc nghi ngờ có hành vi vi
phạm pháp luật cho đến khi thực hiện bản án, nó có tác dụng ngăn chặn sự phân
biệt, bảo đảm cả quyền tiếp cận bình đẳng với tòa án và quyền được xét xử bình
đẳng trước tòa án, ngay từ giai đoạn tiền xét xử – tiền đề để bảo đảm các quyền
con người trong các giai đoạn sau của hoạt động xét xử.
Còn nguyên tắc xét xử đúng hạn không chỉ bao gồm thời gian xét xử phải
nhanh chóng, không được chậm trễ, mà còn bao gồm thời gian của toàn bộ quá
trình tố tụng, từ quá trình điều tra cho đến việc kháng cáo lên các tòa án cấp cao
hơn. Nguyên tắc này được thể hiện rất sâu sắc trong câu thành ngữ công lý đến
chậm cũng là không có công lý.
29
1.3.2. Các đặc trưng cơ bản của việc bảo vệ quyền con người bằng tư pháp
1.3.2.1. Bảo vệ quyền con người bằng tư pháp là hoạt động mang tính
quyền lực cưỡng chế mạnh mẽ
Trước hết, quyền tư pháp là một loại quyền lực nhà nước. Hoạt động xét
xử của tư pháp tuân theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ, mang tính quyền lực
cưỡng chế mạnh mẽ. Thông qua hoạt động xét xử, tư pháp khẳng định tính hợp
pháp của hành vi cũng như quyết định các chế tài pháp lý đối với những hành vi
vi phạm pháp luật. Các chế tài pháp lý chính là sự thể hiện mạnh mẽ nhất tính
cưỡng chế của quyền lực nhà nước, nó sẽ hạn chế hoặc tước bỏ những quyền và
lợi ích của người vi phạm, chẳng hạn như hình phạt tù tước đi quyền tự do, hay
hình phạt tử hình tước đi quyền sống của người phạm tội. Bên cạnh đó, tính
cưỡng chế quyền lực nhà nước của tư pháp còn thể hiện ở việc các phán quyết
của hoạt động tư pháp có hiệu lực pháp luật bắt buộc các chủ thể liên quan phải
có nghĩa vụ thi hành, với các cơ chế bảo đảm được quy định bởi pháp luật.
1.3.2.2. Bảo vệ quyền con người bằng tư pháp chịu sự chi phối toàn diện
của pháp luật
Quyền tư pháp được trao cho tòa án, và được bảo đảm bằng việc ghi nhận
trong Hiến pháp. Chẳng hạn Điều 102 Hiến pháp 2013 của nước ta quy định:
“Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp” [19]. Đây chính là cơ sở vững chắc bảo đảm tính
pháp lý và tính quyền lực nhà nước của hoạt động xét xử của tòa án. Tiếp đến,
hoạt động xét xử của tư pháp yêu cầu phải tuân thủ những quy trình và thủ tục
nghiêm ngặt, được quy định bởi pháp luật. Cơ cấu tổ chức và thẩm quyền xét xử
của tư pháp cũng được giới hạn bởi những quy định của pháp luật. Hoạt động
xét xử của tư pháp chính là hoạt động giải thích và áp dụng pháp luật đã được
quy định. Như vậy, có thể thấy việc bảo vệ quyền con người bằng tư pháp được
thực hiện trên cơ sở của pháp luật, đồng thời chịu sự chi phối toàn diện của pháp
luật cả về nội dung, thể chế và hình thức pháp lý.
30
1.3.2.3. Bảo vệ quyền con người bằng tư pháp hình thành trên cơ sở nhu
cầu của cá nhân, nhà nước
Hoạt động bảo vệ quyền con người chủ yếu được thực hiện khi các chủ
thể của quyền con người, hoặc nhà nước có nhu cầu hoặc nhận thấy cần thiết
phải tiến hành các hoạt động nhằm bảo đảm cho các quyền và tự do của con
người. Đó là khi nhận thấy được những nguy cơ đe dọa gây xâm hại đến quyền
con người, hoặc những hành vi hạn chế hoặc tước đoạt các quyền con người, tất
yếu sẽ dẫn đến nhu cầu cần có những hoạt động cần thiết để phòng ngừa, ngăn
chặn và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của những nguy cơ đó. Khi đó, tư
pháp thông qua hoạt động xét xử là cơ chế bảo vệ tốt nhất các quyền con người
trong trường hợp nó bị xâm hại, tư pháp trừng phạt những hành vi vi phạm pháp
luật, phục hồi quyền và lợi ích của cá nhân, của nhà nước và xã hội.
1.3.2.4. Bảo vệ quyền con người bằng tư pháp được thực hiện công khai,
độc lập và bảo đảm công bằng
Sự độc lập và công bằng là những yêu cầu tất yếu của hoạt động tư pháp
nói chung, bởi vì, chỉ khi có mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra thì người ta mới tìm
đến con đường tư pháp – một chủ thể có khả năng độc lập, vô tư giải quyết tranh
chấp, mâu thuẫn – để bảo vệ quyền lợi của mình. Tính độc lập và công bằng
cũng là yêu cầu tiên quyết bảo đảm hiệu quả của hoạt động tư pháp, nếu không
nó sẽ đánh mất vai trò của mình trong xã hội khi người dân không còn tin tưởng
vào sự công bằng và công lý.
Cùng với độc lập và công bằng, công khai trong hoạt động của tư pháp
cũng mang một ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người. Nó đảm
bảo sự giám sát toàn diện đối với hoạt động xét xử, để hoạt động này thực sự
công bằng và bình đẳng. Bên cạnh đó, nó cũng tạo ra được áp lực nhất định
buộc các bên tham gia vào hoạt động xét xử đề cao tính cẩn trọng, tính hợp pháp
trong quá trình xét xử.
31
1.3.3. Một số vai trò cụ thể của tư pháp trong việc bảo vệ các quyền con người
1.3.3.1. Tư pháp kiểm soát hành vi của các cơ quan nhà nước gây xâm
hại đến quyền con người
Trong lĩnh vực quyền con người, nhà nước vừa là chủ thể đóng vai trò đặc
biệt quan trọng trong việc bảo vệ các quyền con người, nhưng cũng đồng thời là
chủ thể có nguy cơ xâm hại đến quyền con người. Quyền lực nhà nước nếu
không được kiểm soát bằng những cơ chế hữu hiệu, thì sẽ dễ dẫn đến sự lạm
dụng quyền lực của các cơ quan nhà nước, xâm hại đến các quyền con người.
Cho nên, từ trước tới nay con người luôn tìm cách xây dựng các cơ chế để kiểm
soát quyền lực nhà nước, trong đó, “cơ chế kiểm soát bằng tòa án là có nhiều ưu
điểm khắc phục được những hạn chế của các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước khác, đặc biệt là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bằng quyền lập
pháp và hành pháp” [5, tr.263].
Thực tiễn cho thấy, hành pháp là nhánh có nguy cơ lạm quyền và dễ xâm
phạm đến các quyền con người, quyền công dân nhất. Chính bởi vậy mà kiểm
soát quyền lực của nhánh hành pháp là một hoạt động có ý nghĩa quan trọng bảo
đảm các quyền con người khỏi sự xâm hại của các cơ quan này. Ở hầu hết các
quốc gia, nhánh lập pháp được giao quyền giám sát tất cả các cơ quan quyền lực
của nhà nước, trong đó có cả hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, dù ở bất kì chính
thể nào (đại nghị hay tổng thống), nhánh hành pháp và lập pháp luôn có xu
hướng liên quan mật thiết đến nhau, cho nên việc lập pháp kiểm soát nguy cơ
lạm quyền và chuyên quyền của hành pháp sẽ không triệt để và thiếu minh bạch,
do hai nhánh quyền lực này không thể độc lập hoàn toàn với nhau.
Bên cạnh nguy cơ lạm quyền và chuyên quyền của hành pháp, lập pháp
cũng chứa đựng những nguy cơ xâm hại đến các quyền con người, đặc biệt là
quyền của số ít (hay thiểu số). Bởi vì, quyền lập pháp được hình thành trên cơ sở
đại diện cho ý chí, lợi ích của đa số trong xã hội, và có thể sẽ không quan tâm
32
hoặc phủ nhận những quyền, lợi ích của số ít trong xã hội. Điều này được thể
hiện rõ trong lập luận sau đây của Philippa Strum:
Nếu đa số tin tưởng một cách cuồng nhiệt vào một ý tưởng nào
đó thì nó sẽ không đón nhận cách phát biểu ý tưởng trái ngược và lại
có khuynh hướng ém nhẹm những ý tưởng đó. Nói cho cùng thì sự an
sinh của một tập thể cộng đồng bao giờ cũng bị chi phối bởi niềm tin
của những người trong cộng đồng. Nếu đa số người trong một nước
đều tin tưởng mãnh liệt vào một tôn giáo thì sự hiện hữu của các tôn
giáo khác có vẻ như mang tính thách thức lại tôn giáo đó và sẽ không
được mọi người yêu thích, chẳng khác gì các tư tưởng không được
hâm mộ khác [16, tr.316].
Trong một nhà nước pháp quyền, chỉ có hệ thống tòa án độc lập với quyền
lực đủ mạnh mới có khả năng chống lại quyền lực của số đông, bảo vệ các
quyền con người. Chỉ có tòa án, với quyền giải thích Hiến pháp và pháp luật,
mới có thể bắt buộc hành pháp và lập pháp phải tuân thủ các giới hạn quyền lực
trong Hiến pháp, bảo vệ tự do, công lý, tính chắc chắn của pháp luật và các
quyền, tự do của cá nhân.
1.3.3.2. Tư pháp bảo vệ các quyền tự do và an toàn của cá nhân
Các quyền tự do và an toàn của cá nhân là một trong những quyền cơ
bản của con người, yêu cầu các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi người
phải có nghĩa vụ tôn trọng. Mọi hành vi tước quyền tự do của cá nhân đều bị
nghiêm cấm và phải tuân theo pháp luật nhằm ngăn ngừa sự lợi dụng bắt,
giam giữ người trái pháp luật, xâm hại đến quyền tự do và an toàn của cá
nhân: “Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân. Không ai bị bắt
hoặc bị giam giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền
đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà pháp luật đã quy định” [13, tr.81].
Trước hết, việc bảo vệ các quyền tự do và an toàn cá nhân được thực hiện
33
bởi nhánh hành pháp, do nó gắn với chính công việc của hành pháp là quản lý xã
hội và phát triển đất nước. Công việc này yêu cầu hành pháp phải đấu tranh với
những biểu hiện tiêu cực, bảo đảm an ninh, trật tự, bảo vệ lợi ích của xã hội. Tuy
nhiên, cũng chính bởi vậy mà hoạt động của hành pháp dễ bị những người trực
tiếp thực hiện lợi dụng nhằm phục vụ lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, dẫn đến xâm
hại các quyền và lợi ích của cá nhân. Cho nên, để vừa có thể phát huy tối đa
năng lực bảo vệ các quyền con người, vừa hạn chế được nguy cơ xâm hại đến
các quyền con người của hành pháp, tư pháp được trao quyền trong việc bảo vệ
các quyền tự do và an toàn của cá nhân.
Đầu tiên là việc người bị bắt, giam giữ có quyền yêu cầu tòa án kiểm tra
và xác định tính hợp pháp của việc họ bị bắt hoặc giam giữ:
Bất cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước tự do
đều có quyền yêu cầu được xét xử trước tòa án, nhằm mục đích để
tòa án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của
việc giam giữ và ra lệnh trả tự do cho họ, nếu việc giam giữ là bất
hợp pháp [13, tr.82].
Và quyền này được áp dụng cho tất cả những người bị tước tự do, kể cả
trong các trường hợp phạm tội hay các trường hợp khác như tâm thần, lang
thang, nghiện ma túy, bị tước tự do vì các mục đích giáo dục, kiểm soát nhập
cư,… Tiếp đến, tòa án có quyền xét xử và áp dụng các hình phạt để bảo vệ các
quyền con người nói chung, các quyền tự do của con người nói riêng.
Như vậy, tòa án không chỉ trừng trị các hành vi xâm hại đến các quyền tự
do và an toàn của cá nhân bằng việc áp dụng các hình phạt, mà tòa án còn xác
định tính hợp pháp hay không hợp pháp của các hành vi hạn chế hoặc tước bỏ
các quyền tự do và an toàn cá nhân của các cơ quan thực hiện hành vi đó (cơ
quan điều tra, cảnh sát,…) nhằm hạn chế tình trạng lạm dụng quyền lực xâm hại
đến quyền tự do và an toàn của cá nhân.
34
1.3.3.3. Tư pháp trừng phạt những chủ thể xâm hại đến quyền con người,
bảo vệ quyền của những người vô tội
Thông qua hoạt động xét xử, tư pháp áp dụng các quy phạm pháp luật (về
tội phạm) và quyết định những biện pháp (hình phạt) nhằm ngăn chặn, trừng trị
và loại trừ các hành vi phạm tội, bảo vệ các quyền con người. Chẳng hạn như
trong lĩnh vực tư pháp hình sự, các hình phạt như tử hình, hình phạt tù hay hình
phạt đã tiền trực tiếp tước đoạt hay hạn chế những quyền cơ bản và quan trọng
của người phạm tội như quyền sống, quyền tự do và quyền sở hữu. Những hình
phạt này được coi là cần thiết, góp phần hữu hiệu hạn chế những hành vi phạm
tội, vì nó khiến người phạm tội phải nhìn nhận được những hậu quả pháp lý có
thể xảy ra mà từ bỏ quyết tâm thực hiện hành vi phạm tội.
Tuy nhiên, việc áp dụng các hình phạt phải thông qua con đường tòa án,
với các thủ tục được quy định nghiêm ngặt bởi pháp luật, có vậy mới đảm bảo
tính công bằng, khách quan, nhằm tránh nguy cơ hình phạt bị áp dụng sai hoặc
bị lợi dụng để xâm hại quyền của người khác: “Mọi người, nếu bị cáo buộc về
hình sự, đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm
tội theo pháp luật, tại một phiên tòa xét xử công khai, nơi người đó được bảo
đảm những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình” [13, tr.50].
Bên cạnh đó, việc xét xử của tòa án cần phải kịp thời, công bằng và khách
quan, bởi đây không chỉ là hoạt động trừng phạt những chủ thể xâm hại đến các
quyền con người, mà còn là phương thức bảo vệ quyền của những người bị buộc
tội: “Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa
án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra bởi pháp luật để quyết
định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự, hoặc để xác định quyền
và nghĩa vụ của người đó trong các vụ kiện dân sự” [13, tr.83].
Như vậy, hoạt động xét xử của tòa án không chỉ bảo vệ quyền con người
bằng việc áp dụng các hình phạt, trừng trị các chủ thể thực hiện hành vi phạm
35
tội nhằm ngăn ngừa và loại trừ các hành vi có nguy cơ xâm hại đến quyền con
người, hoạt động xét xử của tòa án còn giúp bảo vệ quyền của những người bị
buộc tội (bởi các cơ quan điều tra, cơ quan công tố) vì trên thực tế họ có thể là
những người vô tội.
1.3.3.4. Tư pháp giúp khôi phục quyền và lợi ích của chủ thể bị xâm hại
Hoạt động xét xử của tòa án, không những trừng phạt những hành vi xâm
hại đến các quyền con người của các chủ thể, mà còn nhằm mục đích khôi phục
lại những quyền con người đã bị xâm hại, đó chính là những quyền hay lợi ích
đã bị tước bỏ, cắt xén hay hạn chế do những hành vi vi phạm pháp luật gây ra.
Thông qua xét xử, tòa án xác định phương thức, nội dung, mức độ quyền và lợi
ích mà những chủ thể có nghĩa vụ khôi phục phải tiến hành khôi phục. Chẳng
hạn như, trong hoạt động xét xử hình sự, khi kết luận bị cáo vô tội, tòa án sẽ
tuyên bố trả tự do cho bị cáo ngay tại tòa, đồng thời xác định trách nhiệm bồi
thường cho việc bị bắt giữ oan sai của bị cáo, xác định trách nhiệm của các cơ
quan tiến hành tố tụng,…
Trong hoạt động xét xử dân sự và hành chính, tòa án có quyền buộc các
chủ thể khác, kể cả các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước,… phải
khôi phục lại các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân khi họ không thực hiện,
thực hiện không đúng, không đầy đủ hoặc gây thiệt hại cho bên có quyền. Đồng
thời, tòa án cũng có quyền buộc các chủ thể mang tính quyền lực nhà nước phải
khôi phục lại (bồi thường) với những quyền, lợi ích của cá nhân bị hạn chế, tước
bỏ bởi những hành vi thực thi công vụ gây ra qua hoạt động giải quyết trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước.
1.3.3.5. Tư pháp giáo dục ý thức tôn trọng và bảo vệ các quyền con người
Có thể thấy rằng, hoạt động xét xử của tư pháp chính là một biện pháp
hữu hiệu nhằm giáo dục ý thức tôn trọng và bảo vệ các quyền con người trong
xã hội. Bởi vì, trước hết, tòa án được coi là biểu tượng của công lý, công bằng
36
trong xã hội, cho nên các phán quyết hay quyết định của tòa án sẽ được các chủ
thể trong xã hội tôn trọng và thực hiện – thể hiện niềm tin của các tầng lớp nhân
dân vào công bằng, bình đẳng của pháp luật.
Tiếp đến, hoạt động xét xử của tòa án được tiến hành một cách công khai
và dân chủ, với sự tham gia trực tiếp của những chủ thể có liên quan (bị can, bị
cáo, đương sự, người bào chữa, người làm chứng,…), và đôi khi là cả sự tham
dự của công chúng. Trong quá trình này, các chủ thể trên sẽ dễ dàng nắm bắt
được việc áp dụng các quy định của pháp luật về quyền con người để giải quyết
các vụ án, đồng thời cũng trực tiếp sử dụng (thực hành) các quyền và nghĩa vụ
của mình được pháp luật quy định. Cho nên có thể thấy, đây là một phương
pháp giáo dục pháp luật sinh động nhất và thiết thực đối với những chủ thể tham
gia quá trình xét xử. Qua đó nhận thức của họ về pháp luật, về quyền và nghĩa
vụ được nâng lên. Từ đó, thái độ, tình cảm và cách nhìn nhận của họ về những
hành vi vi phạm pháp luật nói chung, vi phạm đến các quyền con người nói
riêng sẽ có những thay đổi theo chiều hướng tích cực.
Hơn nữa, hoạt động xét xử không chỉ đơn thuần là hoạt động áp dụng pháp
luật một cách máy móc, mà nó đòi hỏi người thẩm phán phải sử dụng pháp luật
một cách sáng tạo trên cơ sở phân tích, làm rõ ý nghĩa, nội dung và mục đích của
các quy phạm pháp luật trong mối quan hệ với những hành vi vi phạm. Cho nên,
những chủ thể tham gia quá trình xét xử không chỉ nắm bắt được nội dung của các
quy phạm, mà còn thấu hiểu được ý nghĩa xã hội, những mục đích mà pháp luật
hướng tới. Điều này cũng góp phần không nhỏ trong việc nâng cao ý thức tôn trọng
và bảo vệ các quyền con người của các chủ thể tham gia quá trình xét xử.
Cuối cùng, hoạt động xét xử dẫn đến những phán quyết cuối cùng (bản
án, quyết định), đó là sự khẳng định của nhà nước và pháp luật về tính hợp pháp
của các hành vi pháp lý hoặc là sự lên án gay gắt đối với những hành vi vi phạm
pháp luật. Những phán quyết này sẽ có những tác động đến tâm lý, thái độ, niềm
37
tin của người dân vào nhà nước và pháp luật. Nếu phán quyết là hợp tình, hợp
lý, nó sẽ giúp củng cố thái độ, niềm tin của người dân vào công lý, pháp luật.
Ngược lại, phán quyết bất công sẽ tạo ra những hệ lụy lớn khi người dân không
tin tưởng vào công lý, sự công bằng và bình đẳng của pháp luật và nhà nước.
Như vậy, tư pháp thông qua hoạt động xét xử của mình không chỉ cung
cấp chi thức pháp luật cho các chủ thể tham gia quá trình tố tụng, mà còn hướng
dẫn họ cách thức thực hiện chúng. Đồng thời nó cũng giúp củng cố niềm tin của
công chúng vào công lý, tính đúng đắn và công bằng của pháp luật thông qua
hoạt động xét xử nghiêm minh, công bằng và đúng pháp luật. Qua hoạt động xét
xử, những tri thức về pháp luật nói chung, tri thức pháp luật về quyền con người
nói riêng được các chủ thể tham gia tố tụng (và cả công chúng) được nhận thức
và áp dụng một cách đúng đắn, từ đó giúp hình thành và nâng cao ý thức tôn
trọng và bảo vệ các quyền con người, góp phần xây dựng và phát triển nền văn
hóa tôn trọng các quyền con người của nước mình, đúng như nhận định:
Văn hóa quyền con người có được sức mạnh lớn nhất từ những
mong muốn hiểu biết của mỗi cá nhân. Trách nhiệm bảo vệ quyền con
người là thuộc về các nhà nước. Nhưng chính những hiểu biết, tôn
trọng và mong muốn về quyền con người của mỗi cá nhân là điều mang
lại kết cấu và sức bật hàng ngày cho quyền con người [2, tr.12].
1.4. Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người theo luật quốc tế
Trong pháp luật quốc tế, tính độc lập tư pháp được coi là một yếu tố gắn
liền với việc bảo đảm các quyền con người, đặc biệt là quyền được xét xử công
bằng. Ngay trong Hiến chương Liên hợp quốc 1945 đã khẳng định “quyết tâm
xây dựng các điều kiện cho công lý có thể được duy trì” – hàm ý về tính độc lập
của tòa án – “để thực hiện hợp tác quốc tế trong việc thúc đẩy và khuyến khích
việc tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người mà không có bất kỳ sự
phân biệt đối xử nào” [13, tr.821]. Đến Tuyên ngôn thế giới về quyền con
38
người, nguyên tắc về tính độc lập của tòa án chính thức được ghi nhận, rằng mọi
người có “quyền được một tòa án khách quan, độc lập và có thẩm quyền được
thành lập theo pháp luật xét xử công bằng và công khai” [13, tr.821].
Công ước về các quyền dân sự và chính trị ngoài quy định về quyền xét
xử công bằng, còn bảo đảm “quyền được xét xử ngay mà không bị trì hoãn vô
lý”. Theo đó, các bước bảo đảm sự bình đẳng bao gồm: “bình đẳng trước tòa án
được xét xử công bằng và công khai, có thẩm quyền vô tư và độc lập của các tòa
án được thiết lập theo pháp luật và bảo đảm trong thực tiễn” [24, tr.286]. Yêu
cầu của sự công bằng cần phải được thực hiện xuyên suốt trong hoạt động của
tòa án, từ việc xem xét cho đến quyết định buộc tội tội phạm.
Tính công khai của việc xét xử cũng là một biện pháp quan trọng bảo vệ
cho quyền lợi của cá nhân và xã hội nói chung. Trừ những trường hợp đặc biệt,
việc xét xử phải được mở ra công khai, có sự tham gia của báo chí, và sẽ chỉ giới
hạn một nhóm người nhất định. Trong trường hợp xử kín thì phán quyết cũng
phải công khai trong chừng mực cho phép.
Quyền được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý đảm bảo người bị
buộc tội phải được xét xử mà không bị trì hoãn quá lâu, nó không chỉ liên quan
đến thời gian của buổi xét xử sẽ diễn ra, mà còn là thời điểm kết thúc và phán
quyết được đưa ra – tất cả các giai đoạn phải được tiến hành “không bị trì hoãn
quá lâu” [24, tr.289]. Muốn vậy thì các thủ tục, cả ở sơ thẩm và phúc thẩm, cần
phải được tiến hành theo đúng trật tự để đảm bảo rằng buổi xét xử sẽ được tiến
hành không bị trì hoãn quá lâu.
Ngoài ra, văn kiện này còn quy định các quyền con người khác cần được
bảo đảm trong hoạt động tư pháp, chẳng hạn như quyền được coi là vô tội (hay
suy đoán vô tội), quyền có người bào chữa, quyền được sử dụng ngôn ngữ và
chữ viết của dân tộc mình, quyền không bị áp dụng hồi tố,…
Năm 1985, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua văn kiện Các
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT
Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAYLuận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAY
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOTLuận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
 
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAYĐề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
 
Đề tài: Vai trò của tổ chức pháp chế trong các doanh nghiệp, HOT
Đề tài: Vai trò của tổ chức pháp chế trong các doanh nghiệp, HOTĐề tài: Vai trò của tổ chức pháp chế trong các doanh nghiệp, HOT
Đề tài: Vai trò của tổ chức pháp chế trong các doanh nghiệp, HOT
 
Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAYĐề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hônBáo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
 
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAYLuận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật
Luận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luậtLuận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật
Luận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật
 
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
 
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOTBiện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
 

Similar to Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT

BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...
BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...
BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...hanhha12
 
Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt NamTòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Namhieu anh
 
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con ngườiBÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con ngườiViết thuê báo cáo thực tập giá rẻ
 
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayvai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayhieu anh
 

Similar to Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT (20)

Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOTToà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sựLuận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
 
Vai trò của Quốc hội về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, HAY
Vai trò của Quốc hội về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, HAYVai trò của Quốc hội về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, HAY
Vai trò của Quốc hội về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, HAY
 
Luận văn: Vai trò của Quốc hội trong bảo vệ quyền con người, HAY
Luận văn: Vai trò của Quốc hội trong bảo vệ quyền con người, HAYLuận văn: Vai trò của Quốc hội trong bảo vệ quyền con người, HAY
Luận văn: Vai trò của Quốc hội trong bảo vệ quyền con người, HAY
 
Vai trò của Quốc hội trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
Vai trò của Quốc hội trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con ngườiVai trò của Quốc hội trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
Vai trò của Quốc hội trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
 
BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...
BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...
BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY_1019151205...
 
Luận án: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật, HAY
Luận án: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật, HAYLuận án: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật, HAY
Luận án: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật, HAY
 
Đề tài: Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, HAY
Đề tài: Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, HAYĐề tài: Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, HAY
Đề tài: Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, HAY
 
Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt NamTòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
 
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOTLuận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
 
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
Quyền ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, HOT - Gửi miễn p...
 
Pháp luật về dân chủ cơ sở trong cơ quan hành chính tỉnh Thái Nguyên
Pháp luật về dân chủ cơ sở trong cơ quan hành chính tỉnh Thái NguyênPháp luật về dân chủ cơ sở trong cơ quan hành chính tỉnh Thái Nguyên
Pháp luật về dân chủ cơ sở trong cơ quan hành chính tỉnh Thái Nguyên
 
Quyền, lợi ích hợp pháp cá nhân trong xét xử vụ án hành chính, 9đ
Quyền, lợi ích hợp pháp cá nhân trong xét xử vụ án hành chính, 9đQuyền, lợi ích hợp pháp cá nhân trong xét xử vụ án hành chính, 9đ
Quyền, lợi ích hợp pháp cá nhân trong xét xử vụ án hành chính, 9đ
 
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con ngườiBÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
 
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự doQuyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
 
Luận án: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HAY
Luận án: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HAYLuận án: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HAY
Luận án: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HAYLuận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HOTLuận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HOT
 
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayvai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
 
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAYLuận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Vai trò của tư pháp trong bảo vệ quyền con người, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRƯƠNG THỊ THÙY DUNG VAI TRß CñA T¦ PH¸P TRONG VIÖC B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI ë VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRƯƠNG THỊ THÙY DUNG VAI TRß CñA T¦ PH¸P TRONG VIÖC B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI ë VIÖT NAM Chuyên ngành: Pháp luật về Quyền con người Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG HÀ NỘI - 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Trương Thị Thùy Dung
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ QUYỀN TƯ PHÁP........................................................................ 11 1.1. Khái quát về quyền con người............................................................. 11 1.1.1. Khái niệm, đặc trưng về quyền con người.............................................. 11 1.1.2. Cách thức ghi nhận các quyền con người ............................................... 15 1.2. Khái quát về quyền tư pháp ................................................................ 17 1.2.1. Quan niệm chung về quyền tư pháp ....................................................... 17 1.2.2. Các đặc trưng của quyền tư pháp............................................................ 19 1.2.3. Tính độc lập của quyền tư pháp.............................................................. 21 1.3. Vai trò tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ........................... 26 1.3.1. Mối quan hệ giữa quyền tư pháp với việc bảo vệ quyền con người......... 26 1.3.2. Các đặc trưng cơ bản của việc bảo vệ quyền con người bằng tư pháp..... 29 1.3.3. Một số vai trò cụ thể của tư pháp trong việc bảo vệ các quyền con người..... 31 1.4. Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người theo luật quốc tế..... 37 Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM............................. 42 2.1. Khái quát hệ thống tư pháp ở Việt Nam............................................. 42 2.2. Thực trạng bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam............................................................................................... 44 2.2.1. Đánh giá chung ...................................................................................... 44 2.2.2. Những điểm còn hạn chế và nguyên nhân .............................................. 48
  • 5. Chương 3: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TƯ PHÁP TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY............................ 57 3.1. Một số quan điểm nhằm nâng cao vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam.................................................... 57 3.1.1. Sự cần thiết phải nâng cao vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người..................................................................................... 57 3.1.2. Một số quan điểm nâng cao vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam ................................................................. 58 3.1.3. Những phương hướng cơ bản cho cải cách tư pháp ................................ 61 3.2. Một số giải pháp nâng cao vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam ............................................................... 65 3.2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ............................................................................................... 65 3.2.2. Hoàn thiện pháp luật bảo đảm vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người..................................................................................... 67 3.2.3. Nâng cao tính độc lập của tư pháp.......................................................... 75 KẾT LUẬN..................................................................................................... 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................... 86
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cả trong lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, trong mối quan hệ giữa nhà nước với công dân, thì các nhánh quyền lực nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) đều rất dễ có xu hướng lạm dụng quyền lực, xâm hại các quyền con người, cụ thể: Đối với nhánh lập pháp: với nhiệm vụ là xây dựng những chính sách, quy tắc điều chỉnh hành vi của con người, liệu hệ thống pháp luật có đầy đủ và tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo vệ quyền con người hay chưa? Các nội dung Quy định của pháp luật thật ra là đang bảo vệ hay hạn chế quyền con người? Bởi, quyền con người, theo học thuyết về quyền tự nhiên thì mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng, là bẩm sinh, vốn có của con người. Đối với nhánh hành pháp: có một điều rất dễ nhận thấy, đó là, từ khi sinh ra cho đến khi mất đi, tất cả những hoạt động của con người hầu như gắn liền với các cơ quan quản lý nhà nước. Trên thực tế, vấn đề vi phạm những quyền lợi chính đáng, thiết thân của con người trong lĩnh vực quản lý, hành chính nhà nước là câu chuyện đã được truyền thông, báo chí phản ánh rất nhiều với những bức tranh hiện thực muôn màu. Nhận thức được điều này, công cuộc cải cách thủ tục hành chính đã được Đảng và nhà nước tiến hành trong hơn 10 năm qua và đã thu được nhiều kết quả, phản hồi tích cực. Đối với nhánh tư pháp: mặc dù chúng ta cũng đã tiến hành cải cách tư pháp từ sau Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, đặc biệt là Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02-06-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhưng những kết quả đạt được còn rất ít. Chính vì những đổi mới về nhận thức, lý luận và áp dụng trong hệ thống tư pháp các cấp còn hạn chế nên quyền con người trong lĩnh vực tư pháp thường bị vi phạm rất nhiều.
  • 7. 2 Khác với lĩnh vực hành pháp, trong lĩnh vực tư pháp, hậu quả của hành vi lạm quyền, xét xử không theo nguyên tắc chỉ tuân theo pháp luật thường là rất nghiêm trọng vì nó liên quan đến uy tín, danh dự, nhân phẩm, vận mệnh và có thể cả là tính mạng, sự sống của con người, của đời người. Các bản án oan, sai, xét xử không đúng hạn, vi phạm các thủ tục tố tụng, vi phạm quyền con người là câu chuyện không còn xa lạ trong đời sống của chúng ta. Vì sao hệ thống tư pháp lại còn nhiều bất cập đến vậy? Đó là do các nhánh quyền lực nhà nước còn chưa độc lập, còn chồng chéo lẫn nhau. Quyền lực nhà nước của chúng ta không được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền như nhiều nước khác trên thế giới. Chúng ta đang chủ trương kiên trì con đường xây dựng nhà nước pháp quyền, nhà nước pháp quyền nghĩa là phải tôn trọng và bảo vệ các quyền con người và tư pháp phải độc lập. Hiện nay chúng ta chưa thể có tư pháp độc lập khi mà cả lập pháp, hành pháp và tư pháp vẫn theo cách phân công phân nhiệm chứ không phải phân quyền. Quyền lực nhà nước vẫn theo nguyên tắc tập quyền, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhưng thực sự nhân dân có làm chủ quyền đó hay không khi mà chỉ thông qua cơ quan đại diện của nhân dân là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp mà trong đó nhân dân với tư cách “người làm chủ” không được quyền bãi nhiệm người đại diện của mình. Việc phân công, phối hợp quyền lực nhà nước giữa quyền tư pháp với các quyền lập pháp và hành pháp cần phải bảo đảm nguyên tắc độc lập của tư pháp. Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của tòa án nước ta chưa bảo đảm được tính độc lập. Tư pháp chưa thể độc lập khi mà hệ thống tòa án còn được tổ chức theo các cấp quản lý hành chính, bị chi phối, tác động theo các cấp ủy, Đảng địa phương. Vì vậy, có thể nói, quyền con người trong lĩnh vực tư pháp của chúng ta hiện nay chưa được đảm bảo, chưa có cơ chế bảo vệ hữu hiệu và vẫn còn bộc lộ những bất cập cả về lý luận cũng như hoạt động thực tiễn. Những bất cập này đã ít nhiều gây thiệt hại đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp
  • 8. 3 pháp của công dân; vi phạm đến các vấn đề về dân chủ, công bằng, bình đẳng trong xã hội; làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là nguyên cớ để các thế lực thù địch tìm cách chống phá lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân ta đang tích cực triển khai những nhiệm vụ khác nhau nhằm hiện thực hóa việc xây dựng nhà nước pháp quyền, là một mô hình tổ chức nhà nước chống lại sự lạm quyền, đề cao, bảo vệ và tôn trọng các quyền con người. Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền đòi hỏi chính quyền phải chịu sự kiểm soát của pháp luật. Nhà nước pháp quyền yêu cầu chính quyền phải chịu sự ràng buộc bởi pháp luật để bảo vệ con người, trong đó tư pháp là lĩnh vực có chức năng đảm bảo cho pháp luật được thực hiện và bảo vệ con người. Do đó, việc xây dựng nhà nước pháp quyền không thể tách rời với quá trình xây dựng, cải cách nền tư pháp, hướng tới một nền tư pháp công minh, độc lập, hiệu quả, bảo vệ các quyền con người. Chính vì vậy, để xây dựng thành công nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, chúng ta cần phải đẩy mạnh cải cách tư pháp, hướng tới một nền “tư pháp độc lập” nhằm “bảo vệ các quyền con người, quyền công dân”. Trên thực tế, thời gian vừa qua công luận đã liên tiếp đưa ra ánh sáng tình trạng bắt người tùy tiện, bắt oan người không có tội, tạm giữ, tạm giam người không có căn cứ, khởi tố điều tra sai, khởi tố điều tra khi không đủ căn cứ dẫn đến xâm hại nghiêm trọng đến nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do hoạt động tố tụng là việc đi ngược dòng thời gian để tìm ra sự thật khách quan, song nhận thức của con người là có hạn nên một số trường hợp không thể hoặc chưa thể truy ra sự thật. Tuy nhiên, dưới sức ép không để lọt tội phạm dễ dẫn đến hiện tượng “giết nhằm hơn bỏ sót”, vậy là oan sai lại xảy ra. Nguyễn Thanh Chấn (ở tù oan hơn 10 năm) là một điển hình của việc này. Vì tâm lý “sợ lọt tội phạm” nên nhiều vụ án chưa đủ chứng cứ để kết tội
  • 9. 4 đáng lẽ ra phải tuyên bị cáo vô tội và trả tự do; vậy mà tòa tuyên trả hồ sơ điều tra bổ sung (bị cáo vẫn không được trả tự do), thậm tệ hơn là đưa ra bản án “an toàn” là chung thân trong những vụ án chỉ có thể tử hình hoặc vô tội, Kỳ án Vườn Mít là một ví dụ. Theo quy định của Bộ luật Hình sự 2003, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội – nghĩa là bị can, bị cáo có quyền im lặng trong khâu chứng minh mình vô tội. Tuy nhiên trên thực tế chỉ vì im lặng mà xảy ra những cái chết đau lòng tại trụ sở công an. Vụ án 05 công an đánh chết nghi can trong quá trình điều tra ở Phú Yên trong thời gian vừa qua là một minh chứng. Thực tế cho thấy vấn đề đảm bảo quyền con người nói chung và đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở nước ta tuy đang từng bước được củng cố và đã trở thành một trong những tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá về sự công bằng, dân chủ và tiến bộ trong xã hội, tuy nhiên còn bộc lộ nhiều bất cập, thiếu sót, hạn chế, lý thuyết và là nội dung khá mới mẻ trong nhận thức của công dân, trong hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý cũng như trong việc tổ chức thực hiện trên thực tế. Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận lẫn hoạt động thực tiễn để góp phần thiết thực vào việc đảm bảo quyền con người nói chung và quyền con người trong hoạt động tư pháp nói riêng, làm cơ sở cho việc thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Chính vì những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu 2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu về tư pháp và quyền con người nói chung, về bảo đảm quyền con người bằng hoạt động tư pháp trong nhà nước pháp quyền nói riêng, chẳng hạn như:
  • 10. 5 - Bài viết: Vai trò của tư pháp độc lập của tác giả Philippa Strum, được dịch và in trong cuốn Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến: Một số tiểu luận của học giả nước ngoài, NXB Lao động xã hội (2012), đã chứng minh những đóng góp quan trọng của nhánh quyền lực tư pháp trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người ở Hoa Kỳ. - Bài viết: Tầm quan trọng của tư pháp độc lập của tác giả Sandra Day O’Connor, được dịch và in trong cuốn Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến: Một số tiểu luận của học giả nước ngoài, NXB Lao động xã hội (2012), đã cho thấy tính phổ biến của tư pháp độc lập trong việc bảo vệ quyền con người, thông qua hoạt động xét xử. - Ấn phẩm: Phương thức hoạt động của tòa án Hoa Kỳ của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (1999) bao gồm nhiều bài viết của nhiều tác giả về các phương diện của hệ thống tư pháp Hoa Kỳ, trong đó chủ yếu đều cập đến lịch sử hình thành và phát triển của nền tư pháp Hoa Kỳ, những thành tựu của Hiến pháp Hoa Kỳ trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Bên cạnh đó, ấn phẩm này cũng cung cấp những kinh nhiệm quý báu trong việc bảo đảm sự vô tư, khách quan của thẩm phán bằng hệ thống đạo đức nghề nghiệp của thẩm pháp và phương thức kỷ luật thẩm phán trong hệ thống tư pháp Hoa Kỳ. 2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu về tư pháp, cải cách tư pháp và quyền con người, có thể kể ra một số nghiên cứu sau: Một số sách, công trình nghiên cứu: - Lê Cảm – Nguyễn Ngọc Chí (đồng chủ biên) (2004), Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Tác phẩm đã tình bày những vấn đề cơ bản cần đặt ra trong quá trình cải cách tư pháp trong mối quan hệ với những yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về tổ chức, hoạt động của quyền tư pháp; vị trí, vai
  • 11. 6 trò và đặc điểm của mối quan hệ giữa các thiết chế bên trong cũng như mối quan hệ giữa quyền lực tư pháp với quyền lập pháp và hành pháp. - Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2004), Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền, NXB Tư pháp, Hà Nội. Tác phẩm đã đề cập đến vấn đề lý luận về thể chế tư pháp, thể chế tư pháp ở nhà nước pháp quyền dân chủ và thể chế tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. - Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực Nhà nước, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. - Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2012), Tòa án Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Tác phẩm đã phân tích và làm rõ cơ sở lý luận về vị trí, vai trò của tòa án, phạm vi của hoạt động xét xử cũng như tầm quan trọng của độc lập tư pháp trong nhà nước pháp quyền. - Phạm Hồng Thái – Nguyễn Sĩ Dũng – Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công Giao – Hoàng Minh Hiếu – Đặng Minh Tuấn (đồng chủ biên) (2012), Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Hồng Đức, Hà Nội. Tác phẩm này gồm nhiều chuyên luận có giá trị tham khảo rất lớn của các nhà nghiên cứu trong nước về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền, các yêu cầu cần phải đảm bảo trong quá trình thực hiện cải cách tư pháp. - Nguyễn Đăng Dung – Phạm Hồng Thái – Lã Khánh Tùng – Vũ Công Giao (đồng chủ biên) (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con người, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội. - Nguyễn Đăng Dung – Vũ Công Giao – Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên) (2011), Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Tác phẩm đã cung cấp một khối lượng kiến thức trọng tâm về pháp luật về quyền con người, nhằm đưa đến cho người đọc một sự hiểu biết toàn diện và khái quát nhất.
  • 12. 7 - Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân (2012), Giới thiệu Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR, 1966), NXB Hồng Đức, Hà Nội. Tác phẩm đã cung cấp những phân tích sâu sắc về nội hàm của các quyền con người, đồng thời cũng trình bày sơ lược về quá trình phát triển của các quyền con người. - Nguyễn Đăng Dung – Phạm Hồng Thái – Lã Khánh Tùng – Vũ Công Giao (đồng chủ biên) (2012), Tuyển tập Hiến pháp của một số quốc gia, NXB Hồng Đức, Hà Nội. - Gudmundur Alfredsson – Asbjorn Eide (đồng chủ biên) (1999), The Universal Declaration of Human rights: A common standard of Achivement (Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền 1948 – Mục tiêu chung của Nhân loại), NXB Martinus Nijhoff. Một số bài viết: - Lê Cảm (2006), “Tổ chức quyền tư pháp, yếu tố quan trọng nhất đảm bảo cho thành công của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Nhà nước và pháp luật, (5). - Ngô Huy Cương (2003), “Tổ chức tư pháp hướng tới Nhà nước pháp quyền: Một số vấn đề cơ bản”, Nhà nước và pháp luật, (7). - Nguyễn Đăng Dung (2007), “Trọng tâm của công tác cải cách tư pháp hiện nay là bảo đảm cho nguyên tắc độc lập có hiệu lực trên thực tế”, Dân chủ và Pháp luật, (178). - Nguyễn Hải Ninh (2008), “Cải cách tư pháp ở Canada, Trung Quốc và Nhật Bản”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1 năm 2008. Những công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập, phân tích rất sâu những khía cạnh của nhà nước pháp quyền; vị trí, vai trò của tư pháp trong nhà nước pháp quyền và yêu cầu của tư pháp độc lập nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo vệ công lý và pháp luật; những yêu cầu và định hướng cải cách tư pháp
  • 13. 8 nhằm đảo bảo yêu cầu trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, vẫn chưa đề cập đến vai trò cụ thể của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người, cả trong lý luận và thực tiễn qua hoạt động xét xử của tòa án ở Việt Nam. Cho nên, luận văn này là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Phân tích mối quan hệ, vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền. 3.2. Nhiệm vụ Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn phải giải quyết được các nhiệm vụ như sau: - Làm rõ nội hàm và các đặc trưng của khái niệm nhà nước pháp quyền, quyền con người và quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền. - Phân tích các yêu cầu, đặc trưng và các nội dung vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người. - Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tư pháp, quyền con người trong nhà nước pháp quyền. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những nội dung về quyền tư pháp, quyền con người trong nhà nước pháp quyền, vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ các quyền con người theo những tiêu chuẩn chung của pháp luật thế giới và được áp dụng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
  • 14. 9 5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam về hệ thống pháp luật và quyền con người. Quan điểm của Liên hợp quốc về vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ các quyền con người. Các phương pháp được sử dụng trong luận văn này bao gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và khảo cứu tài liệu. Cách tiếp cận của luận văn bao gồm: triết học, chính trị học và luật học. 6. Những nét mới của luận văn Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư pháp và quyền con người ở Việt Nam, nhưng chưa có công trình nào phân tích toàn diện và thấu đáo về mối quan hệ, vai trò của tư pháp độc lập trong việc bảo vệ, thúc đẩy quyền con người. Luận văn này góp phần khỏa lấp khoảng trống đó, bổ sung cho các nghiên cứu hiện hành về hai lĩnh vực này ở Việt Nam. Tuy vậy, các công trình đã nghiên cứu sẽ là những tài liệu tham khảo quan trọng đối với tác giả trong quá trình thực hiện luận văn. 7. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về vấn đề cải cách hoạt động tư pháp, nâng cao chất lượng hệ thống tư pháp nhằm bảo vệ hiệu quả những quyền cơ bản của công dân nói riêng và quyền con người nói chung. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động giảng dạy, nghiên cứu ở khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác ở Việt Nam. Ngoài ra, luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu, hội thảo, chuyên đề có liên quan đến vấn đề tư pháp và quyền con người.
  • 15. 10 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết như sau: - Chương 1. Một số vấn đề lý luận về quyền con người và quyền tư pháp. - Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam. - Chương 3. Một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ các quyền con người ở Việt Nam hiện nay.
  • 16. 11 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ QUYỀN TƯ PHÁP 1.1. Khái quát về quyền con người 1.1.1. Khái niệm, đặc trưng về quyền con người Quyền con người là một khái niệm tiến triển theo thời gian. Sự phát triển của nó “gắn bó chặt chẽ với sự phát triển của các tôn giáo, tư tưởng, tập quán và pháp luật trong các giai đoạn lịch sử của nhân loại” [14, tr.19]. Trong thời kì cổ và trung đại, các giáo lý của một số tôn giáo lớn như Phật giáo, Thiên chúa giáo và Hồi giáo đều đã chứa đựng những tư tưởng có ý nghĩa đạo đức về bình đẳng, hạnh phúc và tự do. Một số bộ luật cổ còn lưu giữ lại được như Bộ luật Hammurabi cổ đại (khoảng 1780 tr.CN), Bộ luật của Cyrus Đại đế (khoảng 550 tr.CN), Bộ luật Ashoka (khoảng 273-231 tr.CN),… đã đề cập đến việc bảo vệ các quyền lợi chính đáng của con người. Trong các tác phẩm của mình, các nhà tư tưởng có ảnh hưởng trong thời kì này như Aristotle, Platon, Khổng Tử, Mặc Tử,… đều đã đề cập đến những khía cạnh về sự bình đẳng, tự do và các quyền của con người. Tiếp theo, cho đến trước cách mạng tư sản, nhiều văn kiện như Đại Hiến chương Anh (Magna Carta, 1215), Bộ luật về Quyền của Anh (Bill of Rights, 1689),… đã chứa đựng những quy định nhằm bảo vệ nhân phẩm của con người – “chịu ảnh hưởng của các tư tưởng nhân văn trong các học thuyết tôn giáo” [14, tr.20]. Thời kỳ Khai sáng và cách mạng tư sản, tư tưởng về quyền con người đã đánh dấu một bước phát triển mới. Nhiều tư tưởng, học thuyết tiến bộ về chính trị – xã hội ra đời hoặc hồi sinh, nổi bật trong số đó là tư tưởng về quyền tự nhiên (natural rights) với một số học giả tiêu biểu như Thomas Hobbes, John
  • 17. 12 Locke, Thomas Paine,… Họ cho rằng: “quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thành viên của gia đình nhân loại” [14, tr.20]. Điều này cũng có thể được hiểu rằng, các quyền con người “không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào” [12, tr.39]. Cho nên, không một chủ thể nào, kể cả nhà nước có quyền ban phát hay tước bỏ các quyền gắn với con người này. Ngược lại, các nhà tư tưởng về học thuyết quyền pháp lý (legal rights) với đại diện Edmund Burke và Jeremy Bentham lại cho rằng: “quyền con người không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do các nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa” [12, tr.39]. Những tư tưởng trong thời kì Khai sáng nêu trên đã có những tác động, ảnh hưởng to lớn đến các cuộc cách mạng tư sản – với ngọn cờ quyền con người nhằm chống lại xã hội phong kiến thần quyền. Sự ra đời của Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776), Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1789), hay Bộ luật về Quyền của Mỹ (1791) đã khẳng định quyền con người như một chân lý tự nhiên rằng: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền đó có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [15, tr.115]. “Con người sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do, bình đẳng về quyền lợi” [15, tr.119]. Từ thế kỉ XIX cho đến nay, quyền con người càng trở nên phổ biến, được thừa nhận và tuân thủ bởi nhiều quốc gia trên thế giới, bất chấp sự khác biệt về thể chế chính trị, hệ tư tưởng, truyền thống văn hóa và pháp luật. Cùng với sự ra đời của những khái niệm khác có liên quan đến quyền con người như dân chủ, phát triển, hòa bình, an ninh,… làm cho “quyền con người trở thành một trong những khái niệm được đề cập, chấp nhận và cổ vũ một cách rộng khắp, thường xuyên và nồng nhiệt nhất hiện nay” [12, tr.56].
  • 18. 13 Mặc dù có một quá trình phát triển lâu dài như đã trình bày ở trên, vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về quyền con người, bởi đây là một phạm trù đa diện, đa ngành. Với mỗi cách tiếp cận (luật học, chính trị học, triết học, văn hóa học, đạo đức, tôn giáo,…) ta lại có một định nghĩa hoặc khái niệm riêng. Năm 1994, theo một tài liệu của Liên hợp quốc cho thấy “có đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố” [12, tr.37]. Đầu tiên phải kể đến định nghĩa được đưa ra bởi Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc – định nghĩa này cũng thường được trích dẫn bởi nhiều nhà nghiên cứu, đó là: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [12, tr.37]. GS. TS Nguyễn Đăng Dung – một người có nhiều năm kinh nghiệm nghiên cứu trong lĩnh vực quyền con người lại đưa ra một định nghĩa như sau: Quyền con người là những quyền cơ bản nhất của con người, được có một cách tự nhiên, gắn bó mật thiết với con người – một động vật cao cấp có lý trí và có tình cảm, làm cho con người khác với các động vật khác, mà nhà nước thành lập với một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của mình là phải bảo vệ những quyền đó [4]. Từ hai định nghĩa nêu trên, có thể rút ra được một số khía cạnh chung về cách hiểu, nhận thức về quyền con người là: thứ nhất, quyền con người là những quyền cơ bản, gắn với cá nhân con người, xuất phát từ phẩm giá vốn có của họ mà không có bất kì sự phân biệt nào. Nhờ những quyền đó con người mới tồn tại và phát triển được bản thân trong đời sống cộng đồng; thứ hai, các quyền con người yêu cầu phải được pháp luật ghi nhận và bảo đảm – đây chính là công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ các quyền con người, ở cả phạm vi quốc gia và quốc tế. Về các đặc trưng của quyền con người, theo cách hiểu hiện nay của luật nhân quyền quốc tế, quyền con người có bốn đặc trưng cơ bản, đó là:
  • 19. 14 Thứ nhất, tính phổ biến (universal). Theo đặc trưng này, “quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại mà không có bất cứ sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, tôn giáo, xuất thân,…” [12, tr.41] Tuy nhiên, sự bình đẳng ở đây không phải là cào bằng mức độ hưởng thụ, mà bình đẳng về tư cách chủ thể, và bình đẳng về cơ hội để thụ hưởng các quyền con người. Thứ hai, tính không thể phân chia (indivisible). Đặc trưng này chỉ ra các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, không quyền nào được coi là có giá trị hơn quyền nào. Bất kì một sự tước bỏ hay hạn chế quyền con người nào đều sẽ gây ra những “tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người” [12, tr.42]. Mặc dù vậy, trong những điều kiện, hoàn cảnh thực tế, tùy theo những yêu cầu cụ thể mà có những quyền được ưu tiên thực hiện. Chẳng hạn như trong chiến tranh, bệnh dịch, hay đói nghèo thì các quyền như quyền sống, quyền về y tế, quyền về lương thực sẽ được ưu tiên thực hiện hơn các quyền con người khác. Thứ ba, tính không thể tước bỏ (inalienable). Về cơ bản, các quyền con người là các quyền nhân thân, nó gắn liền với các cá nhân, cho nên không một chủ thể nào, kể cả cơ quan nhà nước có thể tùy tiện tước đoạt hay giới hạn. Sự tước đoạt hay giới hạn phải tuân theo những quy định nghiêm ngặt của pháp luật – được thừa nhận chung bởi các quốc gia trên thế giới. Ví dụ như, trong tình trạng khẩn cấp quốc gia (state emergency) thì một số quyền con người có thể bị giới hạn, như quyền tự do đi lại, quyền hội họp, biểu tình,… hoặc khi một cá nhân vi phạm những tội ác nghiêm trọng nhất, quyền sống của cá nhân đó có thể sẽ bị tước đoạt (hình phạt tử hình). Thứ tư, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated & interdependent). Đặc trưng này nói lên rằng các quyền con người có mối liên hệ phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau: “Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây
  • 20. 15 ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặ gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác” [12, tr.43]. 1.1.2. Cách thức ghi nhận các quyền con người Trong một nhà nước pháp quyền, mối quan hệ giữa nhà nước và công dân là bình đẳng dựa trên cơ sở của pháp luật, và Hiến pháp – bản khế ước thể hiện sự đồng thuận của những người bị trị – đóng vai trò rất quan trọng. Các quyền con người, quyền công dân, thường là một phần trong các bản Hiến pháp. Chẳng hạn, Bộ luật về Quyền của Mỹ (Bill of Rights, 1791) chính là 10 Tu chính án Hiến pháp đầu tiên, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1789) chính là một phần của Hiến pháp Pháp, hay Bộ luật về Quyền của Anh (Bill of Rights, 1689) là một nguồn của Hiến pháp Anh. Các bản Hiến pháp cổ điển này chủ yếu quy định các quyền dân sự và chính trị. Ngày nay, các bản Hiến pháp hiện đại đã mở rộng phạm vi các quyền con người, ghi nhận thêm cả các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội, và cả quyền của các nhóm yếu thế (chẳng hạn như phụ nữ, trẻ em, người thiểu số…). Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân được ghi nhận tại Chương II Hiến pháp 2013, chia thành các nhóm quyền như sau: thứ nhất, các quyền dân sự, chính trị như: quyền tự do và an ninh cá nhân; quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng; quyền tự do đi lại và lựa chọn nơi ở; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do ngôn luận, báo chí và thông tin; quyền lập hội, hội họp; quyền được bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý đất nước;… thứ hai, các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội như: quyền làm việc; quyền học tập; quyền được chăm sóc sức khỏe; các quyền về an sinh xã hội;… Ngoài ra, các đạo luật, luật cũng đã cụ thể hóa các quyền con người trong Hiến pháp vào các lĩnh vực pháp lý cụ thể, chẳng hạn như quyền con người
  • 21. 16 trong lĩnh vực dân sự, quyền con người trong lĩnh vực hình sự, hay quyền con người trong lĩnh vực hành chính, lao động,… Cùng với đó, quyền của các nhóm cũng được ghi nhận cụ thể hơn, chẳng hạn quyền của phụ nữ, quyền trẻ em, quyền của người sống chung với HIV/AIDS hay quyền của người khuyết tật,… Với một hệ thống các quy định của pháp luật như trên, từ Hiến pháp cho đến các văn bản dưới nó, quyền con người trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn được ghi nhận và bảo đảm (về mặt pháp lý). Tuy nhiên, việc ghi nhận và bảo đảm về mặt pháp lý như trên là chưa đủ, còn cần phải có những biện pháp, chính sách đảm bảo thực hiện các quyền con người trên thực tế. Theo PGS. TS Tường Duy Kiên thì cần phải: Xây dựng và hoàn thiện pháp luật, trong đó chú trọng pháp luật về quyền con người, quyền công dân; Xây dựng chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ công chức trong quá trình thực thi công vụ; Đảm bảo tính độc lập của cơ quan tư pháp trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; Đề cao vai trò của các tổ chức xã hội dân sự [20, tr.64-69]. Còn theo PGS. TS Đinh Văn Mậu, để quyền con người được bảo đảm thực hiện, cần phải: Thông qua mối quan hệ giữa nhà nước và công dân do pháp luật quy định; Thông qua hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước như cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, Tòa án và Viện Kiểm sát; Bằng việc hoàn thiện tổ chức nhà nước như đổi mới tổ chức thực hiện thẩm quyền Quốc hội, cải cách nền hành chính nhà nước, cải cách tư pháp và nâng cao trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong cơ chế thị trường và dân chủ hóa xã hội [17, tr.82-111].
  • 22. 17 Nhìn chung thì với mỗi nhà nghiên cứu, dưới các góc độ khác nhau lại chỉ ra được những yêu cầu cần phải thực hiện nhằm đảm bảo quyền con người trên thực tế. Tựu chung lại, có thể phân biệt thành các nhóm biện pháp sau: thứ nhất, các biện pháp liên quan đến hoạt động lập pháp và hoạt động thi hành pháp luật; thứ hai, các biện pháp liên quan đến chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong việc bảo vệ các quyền con người; thứ ba, các biện pháp xử lý vi phạm quyền con người, bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân; thứ tư, các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà nước. Trong phạm vi của luận văn sẽ đề cập chủ yếu đến nhóm các giải pháp thứ ba, và sẽ được trình bày cụ thể hơn ở các phần sau. 1.2. Khái quát về quyền tư pháp 1.2.1. Quan niệm chung về quyền tư pháp Trong khoa học pháp lý, theo nghĩa truyền thống, thuật ngữ “quyền tư pháp” thường được hiểu đơn giản là quyền xét xử. Cụ thể, đó là quyền của Tòa án xét xử một vụ việc trên cơ sở xem xét các tính tiết thực tế, áp dụng pháp luật để xác định hậu quả pháp lý và ra phán quyết, quyết định. Hiểu theo nghĩa này, hệ thống cơ quan thực hiện quyền tư pháp chính là hệ thống cơ quan thực hiện quyền xét xử, tức là hệ thống tòa án. Từ điển Black’s Law Dictionary định nghĩa, quyền tư pháp là “thẩm quyền được trao cho tòa án và các thẩm phán xem xét và quyết định các vụ việc và đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các vụ việc ấy; quyền giải thích và áp dụng pháp luật khi có tranh cãi phát sinh từ việc một điều gì đó có phù hợp hay không phù hợp với pháp luật điều chỉnh ấy” [3]. Ngày nay, cách hiểu truyền thống về quyền tư pháp vẫn được sử dụng, tuy nhiên cũng đã xuất hiện những quan điểm về quyền tư pháp và cơ quan tư pháp theo hướng tiếp cận rộng hơn, tổng quát hơn. Chẳng hạn như, các cơ quan công tố ở nhiều quốc gia trên thế giới có thể trực thuộc nhánh hành pháp hay tòa án, song ngày càng có xu hướng vận hành theo nguyên tắc độc lập giống như hệ
  • 23. 18 thống tòa án. Quan điểm này được phản ánh trong các bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa và ở một số Hiến pháp các quốc gia Đông Âu hiện nay. Chẳng hạn như, Hiến pháp Trung Quốc gộp chung hệ thống Tòa án nhân dân và hệ thống Viện kiểm sát vào chương điều chỉnh về các cơ quan tư pháp, Hiến pháp Liên bang Nga quy định Viện công tố và Tòa án (cả Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga) cùng thực hiện quyền tư pháp trong một chương. Theo nghĩa rộng này, thì các cơ quan tư pháp có thể bao gồm: Hệ thống tòa án; Cơ quan giữ quyền công tố; các cơ quan giữ quyền điều tra; Các cơ quan thi hành án hình sự và dân sự; Các thiết chế bổ trợ tư pháp, ví dụ công chứng, đăng ký giao dịch có bảo đảm, thừa phát lại. Ngoài ra, các cơ quan tư pháp còn liên quan mật thiết đến những người có hành nghề liên quan đến tư pháp như: luật sư; giám định viên; kiểm toán viên; những người hành nghề bổ trợ tư pháp khác [18]. Trong phạm vi luận văn này, khái niệm quyền tư pháp được sử dụng theo nghĩa truyền thống (nghĩa hẹp), đó là quyền xét xử của tòa án, và tòa án chính là cơ quan tư pháp của một quốc gia: “Quyền tư pháp là khả năng và năng lực riêng của các cơ quan tòa án, chiếm vị trí đặc biệt trong bộ máy nhà nước thực hiện để tác động đến hành vi con người, đến quá trình xã hội” [25]. Bởi vì, tòa án là nơi mà quyền tư pháp được thi hành một cách đầy đủ nhất, và hoạt động xét xử của tòa án thể hiện đầy đủ nhất các đặc điểm của quyền tư pháp. Ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở các nước phương Tây, quyền tư pháp cùng với quyền lập pháp và hành pháp là ba nhánh quyền lực của nhà nước trong cơ chế phân quyền. Trong khi quyền lập pháp và quyền hành pháp luôn có xu hướng có quan hệ mật thiết với nhau, thì quyền tư pháp luôn phải độc lập – một nguyên tắc quan trọng trong nhà nước pháp quyền. Chỉ có vậy, hoạt động xét xử mới thực sự công bằng, công lý được thực hiện và xây dựng được niềm
  • 24. 19 tin của người dân vào hệ thống tư pháp. Lon Fuller – một nhà nghiên cứu về lĩnh vực nhà nước pháp quyền viết: Nguyên tắc nhà nước pháp quyền chỉ tồn tại khi, thứ nhất, công lý và nhân phẩm của con người được bảo đảm; thứ hai, các cơ quan hành pháp phải có trách nhiệm thi hành các quy định của lập pháp đã được thông qua, ngay cả trong trường hợp quy định đó là sai; thứ ba, khi các quy định đó được các cơ quan tư pháp đảm bảo thực thi một cách nghiêm túc; thứ tư, khi có một hệ thống cơ quan tòa án độc lập sẵn sàng bảo vệ các bên bị xâm hại chống lại các hành vi cửa quyền của các cơ quan chức năng của nhà nước [6, tr.79]. Với tư cách là một trong các nhánh quyền lực nhà nước, bên cạnh những đặc điểm chung của các bộ phận cấu thành nên bộ máy nhà nước như quyền lực công cộng, thể hiện ý chí của nhân dân,… hoạt động tư pháp của tòa án có những đặc trưng riêng mang tính đặc thù sau đây. 1.2.2. Các đặc trưng của quyền tư pháp Trong một nhà nước pháp quyền, hoạt động tư pháp của hệ thống tòa án có các đặc trưng sau đây: Thứ nhất, hoạt động tư pháp là hoạt động thực hiện quyền lực – quyền nhân danh nhà nước xét xử và tuyên án. Trong nhà nước pháp quyền, không một cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào có quyền kết tội một công dân. Chỉ có tòa án mới có quyền nhân danh nhà nước phán xét một người là có tội hay không có tội. Điều này được thể hiện trong “nguyên tắc suy đoán vô tội” – một nguyên tắc kinh điển trong hoạt động tư pháp được thừa nhận chung bởi nền văn minh pháp lý nhân loại, rằng: không có ai bị coi là có tội cung như phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, bất kì sự giới hạn hay tước bỏ các quyền, lợi ích của cá nhân hay các tổ chức đều phải bằng con đường hoặc thủ tục tư pháp.
  • 25. 20 Hoạt động xét xử của tòa án cũng chính là việc áp dụng pháp luật vào việc giải quyết các tranh chấp, vi phạm cụ thể. Quy trình này phải tuân theo những trình tự, thủ tục luật định một cách nghiêm ngặt, không được bỏ qua một thủ tục nào, nhằm tránh sự lạm dụng của quyền tư pháp, gây tổn hại cho nền công lý quốc gia, làm giảm niềm tin của công chúng vào công lý, vào bộ máy nhà nước. Cho nên, phán quyết và quyết định của tòa án có hiệu lực cao, yêu cầu các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân phải tôn trọng, các chủ thể liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Chỉ có vậy, tính thiêng liêng, hiệu lực và sức mạnh của pháp luật mới được bảo vệ. Trong hoạt động xét xử, ngoài căn cứ vào pháp luật, tòa án còn cần phải căn cứ vào công lý để áp dụng linh hoạt. Đó chính là biểu hiện của sự công bằng, khách quan, vô tư và tình người, để sao cho công bằng không bị bóp méo theo điều cứng nhắc, đóng khung của pháp luật. Thứ hai, hoạt động tư pháp đưa ra những đánh giá về mặt pháp lý cho các sự kiện. Trước hết, hoạt động tư pháp phải tìm kiếm, xác định và minh định được các sự kiện xảy ra, trên cơ sở đó phải đưa ra được những đánh giá về mặt pháp lý cho các sự kiện này, từ đó mới áp dụng được pháp luật. Điều này đòi hỏi nỗ lực trí tuệ và trách nhiệm rất cao của các chủ thể áp dụng pháp luật, bởi vì đây là những vấn đề liên quan đến con người, liên quan đến lợi ích của các bên (có thể trái ngược hoặc mâu thuẫn với nhau). Cho nên, tòa án phải độc lập, khách quan, vô tư, tôn trọng sự thật thì mới có thể làm trọng tài cho các bên tranh chấp. Thứ ba, hoạt động tư pháp mang tính hình thức, thể hiện ở những thủ tục pháp lý chặt chẽ. Trong nhà nước pháp quyền, hoạt động tư pháp có sự đòi hỏi về tính hình thức rất cao, có nghĩa là phải theo những thủ tục rất chặt chẽ. Đặc trưng này thể hiện ở “nguyên tắc tranh tụng” – một nguyên tắc rất quan trọng của hoạt động tư pháp. Tòa án đóng vai trò là người trọng tài, chỉ căn cứ vào các chứng cứ được đưa ra trước phiên tòa và hoạt động tranh tụng tại phiên tòa để đưa ra phán quyết, quyết định của mình một cách khách quan, vô tư nhất.
  • 26. 21 Những thủ tục pháp lý chặt chẽ còn có tác dụng bảo vệ pháp luật, bảo vệ các quyền con người trước nguy cơ tùy tiện của các cơ quan công quyền. Trước hết, đó có thể là sự lạm dụng quyền lực của chính tòa án để mưu cầu lợi ích cá nhân. Khi đó, luật thủ tục chính là một trong những biện pháp tốt nhất nhằm giới hạn sự lạm quyền của những người nắm quyền tư pháp. Tiếp đến, những quy định về thủ tục và cơ chế cũng nhằm kiểm soát, chống lại sự chuyên chế, lạm quyền của các cơ quan nhà nước. Buộc các cơ quan nhà nước phải chịu sự ràng buộc của pháp luật và công lý. Nó có tác dụng giống như một tấm lá chắn giữa kẻ mạnh và kẻ yếu, giữa người thống trị và người bị thống trị, nhằm ngăn cản sự xâm phạm của kẻ có quyền, có sức mạnh đối với những cá nhân yếu thế, bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội. 1.2.3. Tính độc lập của quyền tư pháp Tính độc lập của tư pháp chính là một điều kiện không thể thiếu và có vị trí như là một điều kiện của nhà nước pháp quyền, nếu không có tư pháp độc lập, thì sẽ không thể tồn tại nhà nước pháp quyền. Tư pháp độc lập trong nhà nước pháp quyền phải đáp ứng được các yêu cầu sau: Thứ nhất, hệ thống tư pháp phải là những thiết chế độc lập. Sự độc lập ở đây không những mang nghĩa “thiết chế” – tức cả hệ thống tòa án, mà còn là sự độc lập của từng thẩm phán trong giải quyết các vụ việc mà không chịu ảnh hưởng từ các nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp. Hiệp hội Đoàn Luật sư Mỹ chỉ rõ nguyên tắc độc lập của hệ thống tòa án như sau: Một hệ thống tòa án thực sự độc lập là hệ thống đưa ra được các quyết định và phán quyết được các cơ quan lập pháp và hành pháp tôn trọng và thực thi, là hệ thống nhận được nguồn ngân sách đầy đủ từ phía nghị viện, là hệ thống không khoan nhượng trước những nỗ lực làm giảm đi tính khách quan của nó… Tính độc lập của tòa án gồm tính độc lập của các cá nhân thẩm phán cũng như toàn bộ hệ thống một nhánh quyền lực nhà nước [6, tr.108-109].
  • 27. 22 Trong nhà nước pháp quyền, chỉ có hệ thống tòa án mới có chức năng xét xử các tranh chấp giữa người dân với nhau, hoặc giữa người dân với các cơ quan nhà nước. Chỉ có tòa án mới có quyền nhân danh nhà nước để đưa ra các phán quyết và quyết định, buộc các chủ thể có liên quan phải tuân theo. Trong mối liên hệ với các quyền lập pháp và hành pháp, chỉ có tòa án (tư pháp) với vai trò của mình mới có quyền năng buộc hai nhánh quyền lực kia phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và thi hành các điều khoản của Hiến pháp. Cho nên, hai nhánh quyền lực này luôn tìm các biện pháp và hình thức khác nhau để kìm hãm nhánh quyền tư pháp, chẳng hạn như việc bổ nhiệm các thẩm phán thiếu khả năng cương quyết trong việc thực hiện chức năng xét xử của tòa án. Sự độc lập cho phép các tòa án có quyền tài phán đối với mọi vấn đề thuộc thẩm quyền xét xử của mình, có quyền quyết định các vụ việc một cách vô tư, không thiên vị, dựa trên bản chất của sự việc và theo pháp luật. Sự độc lập cũng ngăn ngừa việc can thiệp một cách vô cớ hay không thỏa đáng của các chủ thể khác vào quá trình xét xử của tòa án hay việc xem xét lại các phán quyết của tòa án. Tính độc lập không chỉ bao hàm việc các thẩm phán được miễn trừ khỏi sức ép chính trị và chính quyền hay các mối quan hệ chính trị phức tạp, mà còn ở việc họ không được vướng bận vào các mối quan hệ có thể ảnh hưởng đến họ trong quá trình thực hiện chức năng xét xử (chẳng hạn như mối quan hệ với các doanh nghiệp). Tính độc lập ở đây được hiểu là độc lập trên mọi phương diện, cả ở bên trong lẫn bên ngoài. Độc lập ở bên trong có nghĩa là mọi phán quyết của thẩm phán của tòa án cấp dưới không chịu sự chỉ đạo của tòa án cấp trên, không bị ảnh hưởng bởi các mối quan hệ trong nội bộ. Các phán quyết của thẩm phán nếu được cho là sai sẽ được xem xét lại theo các thủ tục nghiêm ngặt được quy định bởi pháp luật (phúc thẩm, tái thẩm, giám đốc thẩm). Trong quá trình xét xử, thẩm phán độc lập với hồ sơ vụ án, độc lập với cáo trạng và quyết định truy tố, không phụ thuộc vào các quyết định hoặc kết luận của cơ quan điều tra,
  • 28. 23 viện kiểm sát. Còn độc lập ở bên ngoài có nghĩa là thẩm phán không phải chịu bất kỳ sự chỉ đạo, ảnh hưởng nào từ phía các cơ quan, tổ chức, cá nhân, đương sự, bạn bè, người thân, áp lực xã hội,… đối với các phán quyết của mình. Từ trước tới nay, con người cũng đã nghĩ ra rất nhiều các giải pháp để tăng cường tính độc lập của thẩm phán, chẳng hạn như: thẩm phán phải có nhiệm kì lâu dài, thậm chí có thể là suốt đời, được trả lương xứng đáng để không bị các hoạt động chính trị khác chi phối; thẩm phán phải là các cá nhân liêm khiết, có khả năng, chuyên môn và phải do bổ nhiệm; tăng cường tính trách nhiệm của thẩm phán bằng các quy tắc, các thủ tục tố tụng nghiêm ngặt trong xét xử; quy định về đạo đức nghề nghiệp của thẩm phán và cho phép thẩm phán được quyền xét xử theo lương tâm;… Để hệ thống tòa án là một thiết chế độc lập, thì tòa án trong nhà nước pháp quyền cần phải có hành chính nội bộ và ngân sách riêng. Các nhà nước phải cung cấp đầy đủ các nguồn lực để tòa án thực hiện tốt các chức năng của mình theo một cách thức riêng biệt mà không bị phụ thuộc, chi phối bởi bất cứ một cơ quan nhà nước nào khác. Ở nhiều nước, trách nhiệm quản lý hệ thống tòa án thuộc về cơ quan hành pháp thông qua Bộ Tư pháp, từ quản lý các nguồn lực tài chính, các cơ sở trang thiết bị, kể cả việc tuyển dụng và đào tạo các chức danh tư pháp,… Điều này có thể gây tác động đến tính độc lập của tòa án trong hoạt động xét xử. Về khía cạnh nhân lực, hệ thống tòa án gồm nhiều loại nhân viên nhà nước cùng đóng góp vào quá trình thực thi chức năng của tòa án, như các thẩm phán chuyên nghiệp, hội thẩm nhân dân, thư ký tòa án, nhân viên văn phòng,… trong đó vai trò độc lập của cá nhân các thẩm phán là rất quan trọng và đóng vai trò trung tâm. Về khía cạnh tài chính, tòa án không thể độc lập một khi các khoản chi tiêu có liên quan đến hoạt động của tòa án lại bị phụ thuộc. Các khoản ngân sách dự trù phân bổ cho ngành tòa án và cho hoạt động xét xử nên do chính ngành tư
  • 29. 24 pháp chuẩn bị (có thể phối hợp với một cơ quan có thẩm quyền khác) và trình lên cơ quan lập pháp. Nhấn mạnh tầm quan trọng của điều này, R.D. Nicholson nói: “Việc lập dự trù ngân sách cho ngành tòa án bởi bất kỳ cơ quan nào khác không phải là tòa án và việc Chính phủ kiểm soát cách các tòa án sử dụng ngân sách được phân bổ là mối đe dọa tiềm tàng cho sự độc lập xét xử” [6, tr.125]. Tuy nhiên, sự độc lập của tòa án cũng cần phải đi kèm theo tính trách nhiệm của tòa án, bởi sự độc lập có xu hướng giải phóng tòa án khỏi mọi sự trách nhiệm, hạn chế và kiểm soát để ra các quyết định theo ý muốn của mình (muốn có một sự độc lập tuyệt đối thì phải vô trách nhiệm). Còn tính trách nhiệm lại có xu hướng kiềm chế, ràng buộc tòa án, không cho phép tòa án hành xử một cách tùy tiện, vô lương tâm, gây hại cho công lý và quyền lợi đáng ra được hưởng của các bên. Cho nên, cần phải có các quy định pháp lý, một mặt bảo đảm cho tòa án có một sự độc lập vừa đủ, không bị ảnh hưởng tác động từ phía bên ngoài, mặt khác cũng có thể buộc các thẩm phán thực hiện chức năng xét xử một cách công bằng và khách quan. Tính trách nhiệm của thẩm phán ở đây chính là trách nhiệm giải trình các cơ sở ra phán quyết của mình trong bản án. Trước hết và quan trọng nhất đó chính là những nhận định của thẩm phán về tình tiết của vụ việc và về cơ sở áp dụng pháp luật. Điều này nhằm mục đích tránh việc thẩm phán ra phán quyết một cách tùy tiện và không có cơ sở. Thứ hai, tư pháp độc lập phải được thể hiện ở sự độc lập ở mỗi cấp xét xử. Về mặt tổ chức, khác với các cơ quan quyền lực nhà nước khác, các tòa án không được tổ chức theo một ngành dọc từ trung ương đến địa phương, mà bao gồm các cấp xét xử theo thẩm quyền tố tụng. Không có tòa cấp trên và tòa cấp dưới, mà chỉ có mối quan hệ giữa tòa cấp cao hơn và tòa cấp thấp hơn về thẩm quyền tố tụng. Khi xét xử, các hội đồng xét xử hoàn toàn độc lập trên cơ sở của pháp luật và ý thức pháp luật của thẩm phán và hội thẩm nhân dân.
  • 30. 25 Việc tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử giúp tăng cường tính độc lập của tòa án đối với các cơ quan quyền lực nhà nước khác, đồng thời cũng hạn chế sự can thiệp của các cơ quan tư pháp cấp trên. Việc phân định theo thẩm quyền xét xử cũng giúp cho việc xử án, giải quyết các vụ việc có hiệu quả hơn, bởi những vụ việc cần giải quyết rất đa dạng, phong phú, có tính chất phức tạp không giống nhau, nên cần phân định hợp lý theo khả năng chuyên môn cũng như kinh nghiệm xét xử, nhằm tránh tình trạng tồn đọng án, án oan sai. Sự độc lập ở mỗi cấp xét xử yêu cầu hoạt động xét xử phải tuân thủ chặt chẽ theo những nguyên tắc xét xử và các thủ tục tố tụng được quy định một cách chặt chẽ. Các nguyên tắc như “nguyên tắc hai cấp xét xử” (sơ thẩm và phúc thẩm) có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tư pháp, vì nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi của đương sự và ảnh hưởng đến lợi ích chung của toàn xã hội, cho nên cần cẩn trọng trong xét xử. Hệ thống tòa án được tổ chức theo cấp xét xử nhằm để tòa án cấp trên có thể xem xét lại phán quyết của tòa án cấp dưới theo thủ tục kháng cáo, kháng nghị nhằm bảo đảm sự công bằng, tránh oan sai. Tuy nhiên, việc xem xét lại này cũng phải tuân theo những thủ tục tố tụng chặt chẽ nhằm bảo đảm tính độc lập giữa các cấp tòa án. Ngoài hai yêu cầu chủ yếu nêu trên, ở nhiều nước trên thế giới, tư pháp độc lập trong nhà nước pháp quyền còn cho phép tư pháp có quyền xét xử lập pháp và hành pháp (thông qua cơ chế bảo hiến), và tư pháp có quyền giải thích pháp luật. Chẳng hạn như quyền tư pháp trong hệ thống chính trị Mỹ như sau: Các Tòa án thường có quyền giải thích Hiến pháp; Sự giải thích Hiến pháp của các tòa án chỉ để nhằm giải quyết những vụ, việc cụ thể của quá trình xét xử theo thẩm quyền của các Tòa án, gắn việc giải thích và xem xét sự tương thích của một điều luật nào đó với quy định của Hiến pháp vào việc xem xét vụ việc cụ thể đó, không có thủ tục riêng, tách vấn đề hợp hiến ra khỏi vụ án; Khi phát hiện có sự vi phạm
  • 31. 26 hoặc bất tương xứng của điều luật hay đạo luật so với quy định của Hiến pháp hoặc quy định của một đạo luật phù hợp với Hiến pháp. Nói cách khác, Hiến pháp có giá trị áp dụng trực tiếp; Văn bản vi hiến sẽ mất hiệu lực pháp lý [26, tr.11-43]. Như vậy, qua những trình bày ở trên, yêu cầu độc lập của tư pháp trong nhà nước pháp quyền không những độc lập về tính thiết chế (tức cả hệ thống tòa án), mà còn là sự độc lập của mỗi cá nhân thẩm phán. Sự độc lập phải được xem xét đến cả từ bên trong lẫn bên ngoài, giữa tòa án cấp trên với tòa án cấp dưới,… nhằm bảo đảm đưa ra được những phán quyết độc lập, không bị can thiệp. Tuy nhiên, sự độc lập của thiết chế có thể sẽ là vô ích nếu cá nhân các thẩm phán – những người thực hiện chức năng xét xử – lại bị lệ thuộc vào bất kì những yếu tố bên ngoài nào khác. Khi đó, nguyên tắc nhà nước pháp quyền sẽ không được bảo đảm. Cho nên, để đảm bảo được sự độc lập của tư pháp, cần phải đảm bảo được sự độc lập của các yếu tố nêu trên, tức các mặt khác nhau của một vấn đề. 1.3. Vai trò tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người 1.3.1. Mối quan hệ giữa quyền tư pháp với việc bảo vệ quyền con người Tư pháp trong nhà nước pháp quyền nhằm bảo đảm công lý, tính đúng đắn của pháp luật, đồng thời đó cũng là bảo vệ các quyền và tự do của con người, thông qua sự độc lập của tư pháp, nguyên tắc xét xử công bằng và đúng thời hạn – một trong những nền móng của xã hội tôn trọng pháp quyền. Trên phương diện lý thuyết, tính độc lập của tư pháp và bảo vệ quyền con người có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người thường được giao cho tòa án (nơi cuối cùng để phân xử hoặc giải quyết các tranh chấp), và để thực hiện được nhiệm vụ này, tính độc lập của tòa án là một điều kiện không thể thiếu. Chỉ có vậy thẩm phán mới được tự do trong việc xét xử để có thể ra được những quyết định một cách vô tư, không thiên vị, bảo đảm công lý và quyền lợi của các bên.
  • 32. 27 Về nội dung của nguyên tắc xét xử công bằng gồm có: Tất cả mọi người đều được bình đẳng trước tòa án và có quyền bảo đảm tối thiểu xét xử công bằng; Mọi người có quyền được xét xử công bằng và công khai, do đó dân chúng công khai được chứng kiến việc xét xử; Mọi người bị kết tội có quyền được coi là vô tội cho đến khi chứng minh được sự phạm tội theo đúng quy trình quy định của pháp luật; Mọi người đều có quyền được xét xử kịp thời; Mọi người đều được có quyền có mặt khi xét xử; Bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc thông quan trợ giúp pháp lý được lựa chọn, anh ta phải được thông báo về quyền này, trong trường hợp không đủ khả năng chi trả bị cáo sẽ được trợ giúp miễn phí; Bị cáo có quyền thẩm vấn nhân chứng chống lại anh ta và có quyền tiến hành thẩm vấn nhân chứng vì quyền lợi của mình. Bị cáo có quyền không bị ép buộc nhận tội; Bị cáo có quyền nhận sự trợ giúp miễn phí của phiên dịch, nếu không hiểu hoặc không nói được ngôn ngữ mà tòa án sử dụng; Bị cáo không thể bị buộc phạm tội hình sự do bất kỳ hành vi hay sai sót nào không cấu thành tội phạm tại thời điểm sự việc xảy ra; bị cáo cũng không thể chịu hình phạt nặng hơn hình phạt tại thời điểm xảy ra vụ việc [21]. Nguyên tắc xét xử công bằng cũng yêu cầu mọi sự can thiệp có thể gây ảnh hưởng đến quyền và tự do của công dân phải được tiến hành theo những thủ tục tố tụng hết sức nghiêm ngặt. Chẳng hạn như “nhà ở của mọi công dân không thể bị khám xét mà không có lệnh chỉ rõ nguyên nhân chính của việc khám xét; không ai có thể bị bắt nếu không có lệnh viết của người có trách nhiệm khẳng định một cách dứt khoát có vi phạm;…” [6, tr.149-150]. Trong hoạt động xét xử, các nguyên tắc xét xử phải được tuân thủ. Nguyên tắc suy đoán vô tội cho phép bị cáo được suy đoán là chưa có tội, chưa phải là tội phạm khi chưa có phán quyết của tòa án đã có hiệu lực pháp luật, và
  • 33. 28 có quyền giữ im lặng, mời luật sư để bảo vệ cho mình. Điều này đảm bảo sự ngang bằng, bình đẳng trước pháp luật của các bị can, bị cáo trước sức mạnh của các cơ quan tiến hành tố tụng. Người buộc tội phải có trách nhiệm chứng minh tội phạm theo quy định của pháp luật. Sở dĩ vậy, bởi bên buộc tội (các cơ quan thực thi pháp luật) có đủ các phương tiện, công cụ đặc quyền của nhà nước (như cảnh sát, nhà tù, tòa án,…), còn bị can, bị cáo không có một thứ quyền lực nào, cũng như dụng cụ nào có thể tương đương, họ chỉ còn một cách duy nhất là trông chờ vào sự vô tư, khách quan của các thẩm phán. Nguyên tắc tranh tụng đảm bảo cho các bên (buộc tội và gỡ tội) trình bày quan điểm của mình, đưa ra các chứng cứ trước phiên tòa. Thẩm phán chỉ căn cứ vào các chứng cứ được đưa ra trước phiên tòa và quá trình tranh tụng tại phiên tòa để ra phán quyết. Như vậy, công lý được bảo đảm một cách bình đẳng đối với tất cả mọi người, bất cứ ai cho rằng quyền lợi của mình bị vi phạm, đều có thể khiếu nại ra tòa, khi đó tòa án với vai trò là người bảo vệ pháp luật đảm bảo xét xử một cách công minh và độc lập trước mọi sự tác động hay can thiệp. Nguyên tắc xét xử công bằng cũng giúp cho việc bảo vệ hàng loạt các quyền con người trong quá trình thực hành công lý, từ lúc nghi ngờ có hành vi vi phạm pháp luật cho đến khi thực hiện bản án, nó có tác dụng ngăn chặn sự phân biệt, bảo đảm cả quyền tiếp cận bình đẳng với tòa án và quyền được xét xử bình đẳng trước tòa án, ngay từ giai đoạn tiền xét xử – tiền đề để bảo đảm các quyền con người trong các giai đoạn sau của hoạt động xét xử. Còn nguyên tắc xét xử đúng hạn không chỉ bao gồm thời gian xét xử phải nhanh chóng, không được chậm trễ, mà còn bao gồm thời gian của toàn bộ quá trình tố tụng, từ quá trình điều tra cho đến việc kháng cáo lên các tòa án cấp cao hơn. Nguyên tắc này được thể hiện rất sâu sắc trong câu thành ngữ công lý đến chậm cũng là không có công lý.
  • 34. 29 1.3.2. Các đặc trưng cơ bản của việc bảo vệ quyền con người bằng tư pháp 1.3.2.1. Bảo vệ quyền con người bằng tư pháp là hoạt động mang tính quyền lực cưỡng chế mạnh mẽ Trước hết, quyền tư pháp là một loại quyền lực nhà nước. Hoạt động xét xử của tư pháp tuân theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ, mang tính quyền lực cưỡng chế mạnh mẽ. Thông qua hoạt động xét xử, tư pháp khẳng định tính hợp pháp của hành vi cũng như quyết định các chế tài pháp lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật. Các chế tài pháp lý chính là sự thể hiện mạnh mẽ nhất tính cưỡng chế của quyền lực nhà nước, nó sẽ hạn chế hoặc tước bỏ những quyền và lợi ích của người vi phạm, chẳng hạn như hình phạt tù tước đi quyền tự do, hay hình phạt tử hình tước đi quyền sống của người phạm tội. Bên cạnh đó, tính cưỡng chế quyền lực nhà nước của tư pháp còn thể hiện ở việc các phán quyết của hoạt động tư pháp có hiệu lực pháp luật bắt buộc các chủ thể liên quan phải có nghĩa vụ thi hành, với các cơ chế bảo đảm được quy định bởi pháp luật. 1.3.2.2. Bảo vệ quyền con người bằng tư pháp chịu sự chi phối toàn diện của pháp luật Quyền tư pháp được trao cho tòa án, và được bảo đảm bằng việc ghi nhận trong Hiến pháp. Chẳng hạn Điều 102 Hiến pháp 2013 của nước ta quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [19]. Đây chính là cơ sở vững chắc bảo đảm tính pháp lý và tính quyền lực nhà nước của hoạt động xét xử của tòa án. Tiếp đến, hoạt động xét xử của tư pháp yêu cầu phải tuân thủ những quy trình và thủ tục nghiêm ngặt, được quy định bởi pháp luật. Cơ cấu tổ chức và thẩm quyền xét xử của tư pháp cũng được giới hạn bởi những quy định của pháp luật. Hoạt động xét xử của tư pháp chính là hoạt động giải thích và áp dụng pháp luật đã được quy định. Như vậy, có thể thấy việc bảo vệ quyền con người bằng tư pháp được thực hiện trên cơ sở của pháp luật, đồng thời chịu sự chi phối toàn diện của pháp luật cả về nội dung, thể chế và hình thức pháp lý.
  • 35. 30 1.3.2.3. Bảo vệ quyền con người bằng tư pháp hình thành trên cơ sở nhu cầu của cá nhân, nhà nước Hoạt động bảo vệ quyền con người chủ yếu được thực hiện khi các chủ thể của quyền con người, hoặc nhà nước có nhu cầu hoặc nhận thấy cần thiết phải tiến hành các hoạt động nhằm bảo đảm cho các quyền và tự do của con người. Đó là khi nhận thấy được những nguy cơ đe dọa gây xâm hại đến quyền con người, hoặc những hành vi hạn chế hoặc tước đoạt các quyền con người, tất yếu sẽ dẫn đến nhu cầu cần có những hoạt động cần thiết để phòng ngừa, ngăn chặn và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của những nguy cơ đó. Khi đó, tư pháp thông qua hoạt động xét xử là cơ chế bảo vệ tốt nhất các quyền con người trong trường hợp nó bị xâm hại, tư pháp trừng phạt những hành vi vi phạm pháp luật, phục hồi quyền và lợi ích của cá nhân, của nhà nước và xã hội. 1.3.2.4. Bảo vệ quyền con người bằng tư pháp được thực hiện công khai, độc lập và bảo đảm công bằng Sự độc lập và công bằng là những yêu cầu tất yếu của hoạt động tư pháp nói chung, bởi vì, chỉ khi có mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra thì người ta mới tìm đến con đường tư pháp – một chủ thể có khả năng độc lập, vô tư giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn – để bảo vệ quyền lợi của mình. Tính độc lập và công bằng cũng là yêu cầu tiên quyết bảo đảm hiệu quả của hoạt động tư pháp, nếu không nó sẽ đánh mất vai trò của mình trong xã hội khi người dân không còn tin tưởng vào sự công bằng và công lý. Cùng với độc lập và công bằng, công khai trong hoạt động của tư pháp cũng mang một ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người. Nó đảm bảo sự giám sát toàn diện đối với hoạt động xét xử, để hoạt động này thực sự công bằng và bình đẳng. Bên cạnh đó, nó cũng tạo ra được áp lực nhất định buộc các bên tham gia vào hoạt động xét xử đề cao tính cẩn trọng, tính hợp pháp trong quá trình xét xử.
  • 36. 31 1.3.3. Một số vai trò cụ thể của tư pháp trong việc bảo vệ các quyền con người 1.3.3.1. Tư pháp kiểm soát hành vi của các cơ quan nhà nước gây xâm hại đến quyền con người Trong lĩnh vực quyền con người, nhà nước vừa là chủ thể đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ các quyền con người, nhưng cũng đồng thời là chủ thể có nguy cơ xâm hại đến quyền con người. Quyền lực nhà nước nếu không được kiểm soát bằng những cơ chế hữu hiệu, thì sẽ dễ dẫn đến sự lạm dụng quyền lực của các cơ quan nhà nước, xâm hại đến các quyền con người. Cho nên, từ trước tới nay con người luôn tìm cách xây dựng các cơ chế để kiểm soát quyền lực nhà nước, trong đó, “cơ chế kiểm soát bằng tòa án là có nhiều ưu điểm khắc phục được những hạn chế của các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước khác, đặc biệt là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bằng quyền lập pháp và hành pháp” [5, tr.263]. Thực tiễn cho thấy, hành pháp là nhánh có nguy cơ lạm quyền và dễ xâm phạm đến các quyền con người, quyền công dân nhất. Chính bởi vậy mà kiểm soát quyền lực của nhánh hành pháp là một hoạt động có ý nghĩa quan trọng bảo đảm các quyền con người khỏi sự xâm hại của các cơ quan này. Ở hầu hết các quốc gia, nhánh lập pháp được giao quyền giám sát tất cả các cơ quan quyền lực của nhà nước, trong đó có cả hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, dù ở bất kì chính thể nào (đại nghị hay tổng thống), nhánh hành pháp và lập pháp luôn có xu hướng liên quan mật thiết đến nhau, cho nên việc lập pháp kiểm soát nguy cơ lạm quyền và chuyên quyền của hành pháp sẽ không triệt để và thiếu minh bạch, do hai nhánh quyền lực này không thể độc lập hoàn toàn với nhau. Bên cạnh nguy cơ lạm quyền và chuyên quyền của hành pháp, lập pháp cũng chứa đựng những nguy cơ xâm hại đến các quyền con người, đặc biệt là quyền của số ít (hay thiểu số). Bởi vì, quyền lập pháp được hình thành trên cơ sở đại diện cho ý chí, lợi ích của đa số trong xã hội, và có thể sẽ không quan tâm
  • 37. 32 hoặc phủ nhận những quyền, lợi ích của số ít trong xã hội. Điều này được thể hiện rõ trong lập luận sau đây của Philippa Strum: Nếu đa số tin tưởng một cách cuồng nhiệt vào một ý tưởng nào đó thì nó sẽ không đón nhận cách phát biểu ý tưởng trái ngược và lại có khuynh hướng ém nhẹm những ý tưởng đó. Nói cho cùng thì sự an sinh của một tập thể cộng đồng bao giờ cũng bị chi phối bởi niềm tin của những người trong cộng đồng. Nếu đa số người trong một nước đều tin tưởng mãnh liệt vào một tôn giáo thì sự hiện hữu của các tôn giáo khác có vẻ như mang tính thách thức lại tôn giáo đó và sẽ không được mọi người yêu thích, chẳng khác gì các tư tưởng không được hâm mộ khác [16, tr.316]. Trong một nhà nước pháp quyền, chỉ có hệ thống tòa án độc lập với quyền lực đủ mạnh mới có khả năng chống lại quyền lực của số đông, bảo vệ các quyền con người. Chỉ có tòa án, với quyền giải thích Hiến pháp và pháp luật, mới có thể bắt buộc hành pháp và lập pháp phải tuân thủ các giới hạn quyền lực trong Hiến pháp, bảo vệ tự do, công lý, tính chắc chắn của pháp luật và các quyền, tự do của cá nhân. 1.3.3.2. Tư pháp bảo vệ các quyền tự do và an toàn của cá nhân Các quyền tự do và an toàn của cá nhân là một trong những quyền cơ bản của con người, yêu cầu các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi người phải có nghĩa vụ tôn trọng. Mọi hành vi tước quyền tự do của cá nhân đều bị nghiêm cấm và phải tuân theo pháp luật nhằm ngăn ngừa sự lợi dụng bắt, giam giữ người trái pháp luật, xâm hại đến quyền tự do và an toàn của cá nhân: “Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân. Không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà pháp luật đã quy định” [13, tr.81]. Trước hết, việc bảo vệ các quyền tự do và an toàn cá nhân được thực hiện
  • 38. 33 bởi nhánh hành pháp, do nó gắn với chính công việc của hành pháp là quản lý xã hội và phát triển đất nước. Công việc này yêu cầu hành pháp phải đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, bảo đảm an ninh, trật tự, bảo vệ lợi ích của xã hội. Tuy nhiên, cũng chính bởi vậy mà hoạt động của hành pháp dễ bị những người trực tiếp thực hiện lợi dụng nhằm phục vụ lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, dẫn đến xâm hại các quyền và lợi ích của cá nhân. Cho nên, để vừa có thể phát huy tối đa năng lực bảo vệ các quyền con người, vừa hạn chế được nguy cơ xâm hại đến các quyền con người của hành pháp, tư pháp được trao quyền trong việc bảo vệ các quyền tự do và an toàn của cá nhân. Đầu tiên là việc người bị bắt, giam giữ có quyền yêu cầu tòa án kiểm tra và xác định tính hợp pháp của việc họ bị bắt hoặc giam giữ: Bất cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền yêu cầu được xét xử trước tòa án, nhằm mục đích để tòa án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và ra lệnh trả tự do cho họ, nếu việc giam giữ là bất hợp pháp [13, tr.82]. Và quyền này được áp dụng cho tất cả những người bị tước tự do, kể cả trong các trường hợp phạm tội hay các trường hợp khác như tâm thần, lang thang, nghiện ma túy, bị tước tự do vì các mục đích giáo dục, kiểm soát nhập cư,… Tiếp đến, tòa án có quyền xét xử và áp dụng các hình phạt để bảo vệ các quyền con người nói chung, các quyền tự do của con người nói riêng. Như vậy, tòa án không chỉ trừng trị các hành vi xâm hại đến các quyền tự do và an toàn của cá nhân bằng việc áp dụng các hình phạt, mà tòa án còn xác định tính hợp pháp hay không hợp pháp của các hành vi hạn chế hoặc tước bỏ các quyền tự do và an toàn cá nhân của các cơ quan thực hiện hành vi đó (cơ quan điều tra, cảnh sát,…) nhằm hạn chế tình trạng lạm dụng quyền lực xâm hại đến quyền tự do và an toàn của cá nhân.
  • 39. 34 1.3.3.3. Tư pháp trừng phạt những chủ thể xâm hại đến quyền con người, bảo vệ quyền của những người vô tội Thông qua hoạt động xét xử, tư pháp áp dụng các quy phạm pháp luật (về tội phạm) và quyết định những biện pháp (hình phạt) nhằm ngăn chặn, trừng trị và loại trừ các hành vi phạm tội, bảo vệ các quyền con người. Chẳng hạn như trong lĩnh vực tư pháp hình sự, các hình phạt như tử hình, hình phạt tù hay hình phạt đã tiền trực tiếp tước đoạt hay hạn chế những quyền cơ bản và quan trọng của người phạm tội như quyền sống, quyền tự do và quyền sở hữu. Những hình phạt này được coi là cần thiết, góp phần hữu hiệu hạn chế những hành vi phạm tội, vì nó khiến người phạm tội phải nhìn nhận được những hậu quả pháp lý có thể xảy ra mà từ bỏ quyết tâm thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, việc áp dụng các hình phạt phải thông qua con đường tòa án, với các thủ tục được quy định nghiêm ngặt bởi pháp luật, có vậy mới đảm bảo tính công bằng, khách quan, nhằm tránh nguy cơ hình phạt bị áp dụng sai hoặc bị lợi dụng để xâm hại quyền của người khác: “Mọi người, nếu bị cáo buộc về hình sự, đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật, tại một phiên tòa xét xử công khai, nơi người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình” [13, tr.50]. Bên cạnh đó, việc xét xử của tòa án cần phải kịp thời, công bằng và khách quan, bởi đây không chỉ là hoạt động trừng phạt những chủ thể xâm hại đến các quyền con người, mà còn là phương thức bảo vệ quyền của những người bị buộc tội: “Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra bởi pháp luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự, hoặc để xác định quyền và nghĩa vụ của người đó trong các vụ kiện dân sự” [13, tr.83]. Như vậy, hoạt động xét xử của tòa án không chỉ bảo vệ quyền con người bằng việc áp dụng các hình phạt, trừng trị các chủ thể thực hiện hành vi phạm
  • 40. 35 tội nhằm ngăn ngừa và loại trừ các hành vi có nguy cơ xâm hại đến quyền con người, hoạt động xét xử của tòa án còn giúp bảo vệ quyền của những người bị buộc tội (bởi các cơ quan điều tra, cơ quan công tố) vì trên thực tế họ có thể là những người vô tội. 1.3.3.4. Tư pháp giúp khôi phục quyền và lợi ích của chủ thể bị xâm hại Hoạt động xét xử của tòa án, không những trừng phạt những hành vi xâm hại đến các quyền con người của các chủ thể, mà còn nhằm mục đích khôi phục lại những quyền con người đã bị xâm hại, đó chính là những quyền hay lợi ích đã bị tước bỏ, cắt xén hay hạn chế do những hành vi vi phạm pháp luật gây ra. Thông qua xét xử, tòa án xác định phương thức, nội dung, mức độ quyền và lợi ích mà những chủ thể có nghĩa vụ khôi phục phải tiến hành khôi phục. Chẳng hạn như, trong hoạt động xét xử hình sự, khi kết luận bị cáo vô tội, tòa án sẽ tuyên bố trả tự do cho bị cáo ngay tại tòa, đồng thời xác định trách nhiệm bồi thường cho việc bị bắt giữ oan sai của bị cáo, xác định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng,… Trong hoạt động xét xử dân sự và hành chính, tòa án có quyền buộc các chủ thể khác, kể cả các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước,… phải khôi phục lại các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân khi họ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ hoặc gây thiệt hại cho bên có quyền. Đồng thời, tòa án cũng có quyền buộc các chủ thể mang tính quyền lực nhà nước phải khôi phục lại (bồi thường) với những quyền, lợi ích của cá nhân bị hạn chế, tước bỏ bởi những hành vi thực thi công vụ gây ra qua hoạt động giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước. 1.3.3.5. Tư pháp giáo dục ý thức tôn trọng và bảo vệ các quyền con người Có thể thấy rằng, hoạt động xét xử của tư pháp chính là một biện pháp hữu hiệu nhằm giáo dục ý thức tôn trọng và bảo vệ các quyền con người trong xã hội. Bởi vì, trước hết, tòa án được coi là biểu tượng của công lý, công bằng
  • 41. 36 trong xã hội, cho nên các phán quyết hay quyết định của tòa án sẽ được các chủ thể trong xã hội tôn trọng và thực hiện – thể hiện niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào công bằng, bình đẳng của pháp luật. Tiếp đến, hoạt động xét xử của tòa án được tiến hành một cách công khai và dân chủ, với sự tham gia trực tiếp của những chủ thể có liên quan (bị can, bị cáo, đương sự, người bào chữa, người làm chứng,…), và đôi khi là cả sự tham dự của công chúng. Trong quá trình này, các chủ thể trên sẽ dễ dàng nắm bắt được việc áp dụng các quy định của pháp luật về quyền con người để giải quyết các vụ án, đồng thời cũng trực tiếp sử dụng (thực hành) các quyền và nghĩa vụ của mình được pháp luật quy định. Cho nên có thể thấy, đây là một phương pháp giáo dục pháp luật sinh động nhất và thiết thực đối với những chủ thể tham gia quá trình xét xử. Qua đó nhận thức của họ về pháp luật, về quyền và nghĩa vụ được nâng lên. Từ đó, thái độ, tình cảm và cách nhìn nhận của họ về những hành vi vi phạm pháp luật nói chung, vi phạm đến các quyền con người nói riêng sẽ có những thay đổi theo chiều hướng tích cực. Hơn nữa, hoạt động xét xử không chỉ đơn thuần là hoạt động áp dụng pháp luật một cách máy móc, mà nó đòi hỏi người thẩm phán phải sử dụng pháp luật một cách sáng tạo trên cơ sở phân tích, làm rõ ý nghĩa, nội dung và mục đích của các quy phạm pháp luật trong mối quan hệ với những hành vi vi phạm. Cho nên, những chủ thể tham gia quá trình xét xử không chỉ nắm bắt được nội dung của các quy phạm, mà còn thấu hiểu được ý nghĩa xã hội, những mục đích mà pháp luật hướng tới. Điều này cũng góp phần không nhỏ trong việc nâng cao ý thức tôn trọng và bảo vệ các quyền con người của các chủ thể tham gia quá trình xét xử. Cuối cùng, hoạt động xét xử dẫn đến những phán quyết cuối cùng (bản án, quyết định), đó là sự khẳng định của nhà nước và pháp luật về tính hợp pháp của các hành vi pháp lý hoặc là sự lên án gay gắt đối với những hành vi vi phạm pháp luật. Những phán quyết này sẽ có những tác động đến tâm lý, thái độ, niềm
  • 42. 37 tin của người dân vào nhà nước và pháp luật. Nếu phán quyết là hợp tình, hợp lý, nó sẽ giúp củng cố thái độ, niềm tin của người dân vào công lý, pháp luật. Ngược lại, phán quyết bất công sẽ tạo ra những hệ lụy lớn khi người dân không tin tưởng vào công lý, sự công bằng và bình đẳng của pháp luật và nhà nước. Như vậy, tư pháp thông qua hoạt động xét xử của mình không chỉ cung cấp chi thức pháp luật cho các chủ thể tham gia quá trình tố tụng, mà còn hướng dẫn họ cách thức thực hiện chúng. Đồng thời nó cũng giúp củng cố niềm tin của công chúng vào công lý, tính đúng đắn và công bằng của pháp luật thông qua hoạt động xét xử nghiêm minh, công bằng và đúng pháp luật. Qua hoạt động xét xử, những tri thức về pháp luật nói chung, tri thức pháp luật về quyền con người nói riêng được các chủ thể tham gia tố tụng (và cả công chúng) được nhận thức và áp dụng một cách đúng đắn, từ đó giúp hình thành và nâng cao ý thức tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa tôn trọng các quyền con người của nước mình, đúng như nhận định: Văn hóa quyền con người có được sức mạnh lớn nhất từ những mong muốn hiểu biết của mỗi cá nhân. Trách nhiệm bảo vệ quyền con người là thuộc về các nhà nước. Nhưng chính những hiểu biết, tôn trọng và mong muốn về quyền con người của mỗi cá nhân là điều mang lại kết cấu và sức bật hàng ngày cho quyền con người [2, tr.12]. 1.4. Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người theo luật quốc tế Trong pháp luật quốc tế, tính độc lập tư pháp được coi là một yếu tố gắn liền với việc bảo đảm các quyền con người, đặc biệt là quyền được xét xử công bằng. Ngay trong Hiến chương Liên hợp quốc 1945 đã khẳng định “quyết tâm xây dựng các điều kiện cho công lý có thể được duy trì” – hàm ý về tính độc lập của tòa án – “để thực hiện hợp tác quốc tế trong việc thúc đẩy và khuyến khích việc tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào” [13, tr.821]. Đến Tuyên ngôn thế giới về quyền con
  • 43. 38 người, nguyên tắc về tính độc lập của tòa án chính thức được ghi nhận, rằng mọi người có “quyền được một tòa án khách quan, độc lập và có thẩm quyền được thành lập theo pháp luật xét xử công bằng và công khai” [13, tr.821]. Công ước về các quyền dân sự và chính trị ngoài quy định về quyền xét xử công bằng, còn bảo đảm “quyền được xét xử ngay mà không bị trì hoãn vô lý”. Theo đó, các bước bảo đảm sự bình đẳng bao gồm: “bình đẳng trước tòa án được xét xử công bằng và công khai, có thẩm quyền vô tư và độc lập của các tòa án được thiết lập theo pháp luật và bảo đảm trong thực tiễn” [24, tr.286]. Yêu cầu của sự công bằng cần phải được thực hiện xuyên suốt trong hoạt động của tòa án, từ việc xem xét cho đến quyết định buộc tội tội phạm. Tính công khai của việc xét xử cũng là một biện pháp quan trọng bảo vệ cho quyền lợi của cá nhân và xã hội nói chung. Trừ những trường hợp đặc biệt, việc xét xử phải được mở ra công khai, có sự tham gia của báo chí, và sẽ chỉ giới hạn một nhóm người nhất định. Trong trường hợp xử kín thì phán quyết cũng phải công khai trong chừng mực cho phép. Quyền được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý đảm bảo người bị buộc tội phải được xét xử mà không bị trì hoãn quá lâu, nó không chỉ liên quan đến thời gian của buổi xét xử sẽ diễn ra, mà còn là thời điểm kết thúc và phán quyết được đưa ra – tất cả các giai đoạn phải được tiến hành “không bị trì hoãn quá lâu” [24, tr.289]. Muốn vậy thì các thủ tục, cả ở sơ thẩm và phúc thẩm, cần phải được tiến hành theo đúng trật tự để đảm bảo rằng buổi xét xử sẽ được tiến hành không bị trì hoãn quá lâu. Ngoài ra, văn kiện này còn quy định các quyền con người khác cần được bảo đảm trong hoạt động tư pháp, chẳng hạn như quyền được coi là vô tội (hay suy đoán vô tội), quyền có người bào chữa, quyền được sử dụng ngôn ngữ và chữ viết của dân tộc mình, quyền không bị áp dụng hồi tố,… Năm 1985, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua văn kiện Các