SlideShare a Scribd company logo
1 of 125
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ HOÀI THU
KẾT HỢP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT, GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Ở NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ HOÀI THU
KẾT HỢP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT, GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Ở NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. Đào Trí Úc
Hà Nội – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin đảm bảo những thông tin trong luận văn là trung thực không sao
chép từ bất kỳ công trình nào khác. Được sự hướng dẫn của GS.TSKH Đào Trí Úc
và đọc các tài liệu tham khảo để hoàn thành công trình này. Tôi đã hoàn thành tất cả
các khoản học phí theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Kính
mong khoa Luật tạo điều kiện để tôi được bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Hoài Thu
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU ................................................................................................................1
Chương 1: PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC VỚI NHU CẦU GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN Ở VIỆT
NAM.....................................................................................................................10
1.1. Sự liên hệ giữa pháp luật và đạo đức- cơ sở cho việc xây dựng hành vi xã hội
của người chưa thành niên.....................................................................................10
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của người chưa thành niên ......................................10
1.1.2. Mối liên hệ giữa pháp luật và đạo đức..........................................................17
1.1.3 Mục đích cung cấp tri thức, hình thành kỹ năng pháp luật, quyền con người
cho người chưa thành niên.....................................................................................32
1.1.4 Yêu cầu về sự kết hợp giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật cho người chưa
thành niên..............................................................................................................33
1.1.5 Các chuẩn giá trị pháp luật và đạo đức đối với quá trình hình thành hành vi xã
hội của người chưa thành niên...............................................................................39
1.2. Các hình thức kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho người chưa
thành niên..............................................................................................................46
1.2.1. Thông qua chương trình giáo dục công dân ở nhà trường.............................46
1.2.2. Thông qua sách, báo, phương tiện truyền thông, games ...............................50
1.2.3. Thông qua các chương trình kể chuyện về đạo đức và thi tìm hiểu những câu
chuyện hay về đạo đức và pháp luật.......................................................................53
1.2.4. Thông qua việc xét xử của tòa án từ các vụ án cụ thể...................................53
1.2.5. Thông qua hành động thực tiễn của người lớn trong đời sống hàng ngày.....55
Chương 2: THỰC TRẠNG KẾT HỢP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC
CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN Ở NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY............58
2.1. Thực trạng về người chưa thành niên và sự hiểu biết pháp luật của người chưa
thành niên..............................................................................................................58
2.1.1. Thực trạng về người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay.................58
2.1.2 Thực trạng về sự hiểu biết pháp luật của người chưa thành niên hiện nay .....61
2.2 Thực trạng của việc kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho người
chưa thành niên ở nước ta......................................................................................69
2.2.1. Thực trạng về chủ thể thực hiện công tác kết hợp giáo dục pháp luật và giáo
dục đạo đức cho người chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay................................69
2.2.2 Thực trạng về nội dung kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho
người chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay hiện nay............................................73
2.2.3. Thực trạng về phương pháp kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức
cho người chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay hiện nay .....................................78
2.2.4. Thực trạng GDPL, GDĐĐ thông qua các hình thức giáo dục.......................81
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KẾT HỢP GIÁO
DỤC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.........................................................................85
3.1 Giải pháp chung...............................................................................................85
3.1.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật dựa trên nền tảng các quan điểm,
chuẩn mực đạo đức xã hội .....................................................................................85
3.1.2. Nâng cao nhận thức về vai trò của pháp luật, đạo đức cũng như mối quan hệ
giữa chúng trong giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức cho NCTN........................87
3.1.3. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý bảo đảm kết hợp GDPL,
GDĐĐ cho NCTN.................................................................................................88
3.1.4. Đổi mới, đa dạng hóa các hình thức giáo dục pháp luật, coi trọng giáo dục
đạo đức..................................................................................................................90
3.1.5. Tăng cường công tác đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật, vi phạm
đạo đức; coi trọng khía cạnh giáo dục cải tạo khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế
nhà nước đối với NCTN ........................................................................................94
3.2 Giải pháp cụ thể...............................................................................................95
3.2.1. Tăng cường vai trò của gia đình với ý nghĩa là rào cản của hiện tượng vi
phạm pháp luật của người chưa thành niên............................................................95
3.2.2. Tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình, và xã hội trong việc giáo
dục đạo đức, giáo dục pháp luật cho người chưa thành niên ..................................97
3.2.3. Nâng cao hiệu quả kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức trong nhà
trường....................................................................................................................99
3.2.4. Thiết chặt quản lý trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư...............102
KẾT LUẬN CHUNG..........................................................................................106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................108
Phụ lục
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ LĐ – TB&XH Bộ Lao động – Thương binh & xã hội
ĐĐ Đạo đức
GDĐĐ Giáo dục đạo đức
GDPL Giáo dục pháp luật
NCTN Người chưa thành niên
PL Pháp luật
VPHC Vi phạm hành chính
VPPL Vi phạm pháp luật
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 2.1:
Biểu đồ nhận thức của NCTN về các hành vi vi
phạm PL và ĐĐ
64
Biểu đồ 2.2:
Biểu đồ các hành vi vi phạm pháp luật và đạo đức
của NCTN
66
Biểu đồ 2.3:
Biểu đồ đánh giá của NCTN về sự phối hợp của
các chủ thể trong GDPL, GDĐĐ
73
Biểu đồ 2.4:
Biểu đồ đánh giá của NCTN về mức độ triển khai
các nội dung GDPL, GDĐĐ
74
Biểu đồ 2.5: Biểu đồ các phương pháp GDPL,GDĐĐ 79
Biểu đồ 2.6: Biểu đồ hình thức GDPL 83
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thế hệ trẻ Việt Nam đã và đang có những cống hiến
thiết thực cho đất nước, bởi lẽ, những người trẻ là những người hăng hái, nhiệt tình
đi đầu trên mọi mặt trận: học tập, lao động, sản xuất… Họ xứng đáng là thế hệ kế
tục sự nghiệp vĩ đại của ông cha ta. Chuyển sang xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân sống và làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật, việc tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật (GDPL) đã trở nên
cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, pháp luật dù hoàn thiện đến đâu
cũng không thể điều chỉnh hết mọi quan hệ xã hội. Do đó, ý thức tự giác chấp hành
pháp luật của mỗi người dựa trên lòng tự trọng, danh dự, phẩm giá, lương tâm -
biểu hiện tập trung của một nhân cách đạo đức là những yếu tố điều chỉnh xã hội
không gì có thể thay thế được. Vì vậy mà giáo dục pháp luật (GDPL) và giáo dục
đạo đức (GDĐĐ) phải song hành đồng thời phải có sự kết hợp với nhau là vấn đề
hết sức cần thiết trong tổ chức quản lý xã hội cũng như trong hoạt động giáo dục.
Hiện nay, vẫn còn một bộ phận thanh thiếu niên có những biểu hiện không
lành mạnh trong cuộc sống, vi phạm pháp luật, phạm tội. Vì vậy, đối với người
chưa thành niên, yêu cầu đặt ra đối với toàn xã hội đó là làm thế nào để giảm tối đa
các hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội của thanh thiếu niên. Điều đó cần thiết
phải có sự kết hợp giữa giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho thanh thiếu
niên, nhất là người chưa thành niên trong giai đoạn hiện nay.
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ cấu kinh tế thị trường, tình hình
đời sống xã hội nước ta diễn biến rất phức tạp, tình trạng vi phạm pháp luật đặc biệt
là tình trạng phạm tội ngày càng gia tăng đáng báo động. Mặc dù các cơ quan chức
năng đã có nhiều biện pháp tích cực để nâng cao hiệu quả phòng ngừa và đấu tranh
chống tội phạm , song hoạt động của bọn tội phạm vẫn diễn ra hết sức phức tạp
không chỉ về số lượng các vụ phạm tội tăng lên mà mức độ phạm tội ngày càng
nguy hiểm và hậu quả do chúng gây ra đối cho xã hội hết sức nặng nề.
Hậu quả do bọn tội phạm gây ra không những xác định bằng sự thiệt hại về
người, thiệt hại về vật chất mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến các thành viên khác
2
trong xã hội đặc biệt là thế hệ trẻ. Tình hình vi phạm pháp luật của người chưa
thành niên ở nước ta ngày càng nhiều, số lượng người chưa thành niên phạm tội ở
mức ngày càng cao, quy mô cũng như tính chất, mức độ phạm tội ngày càng
nghiêm trọng, nguy hiểm. Điều này cho thấy sự ảnh hưởng tiêu cực từ tội phạm đã
tác động đến những người trẻ tuổi là thái độ coi thường pháp luật, coi thường tính
mạng, nhân phẩm và tài sản của người khác.
Đất nước ta ngày càng phát triển, chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng
lên song nhược điểm lớn ở đây là vấn đề “người người bận rộn, nhà nhà bận rộn”,
cha mẹ mải mê kiếm tiền, con cái thì ham chơi hơn ham học, không được sự quan
tâm, chăm sóc của gia đình, nhà trường và toàn xã hội nhất là lứa tuổi chưa thành
niên. Đây là lứa tuổi dễ bị tác động từ các yếu tố ngoại cảnh, độ tuổi này dễ bị chi
phối từ các tác nhân bên ngoài, thích nổi trội, hay bị kích động, thích khám phá
những cái mới nên rất cần có sự quan tâm chăm sóc, quản lý đặc biệt của người lớn,
của toàn xã hội.
Trong thời gian dài Đảng và nhà nước ta rất quan tâm, chú trọng đến việc
giáo dục pháp luật ở lứa tuổi thanh thiếu niên, họ là nguồn trí tuệ cho cho xã hội
tương lai và là thế hệ trẻ tiếp nối thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Chính vì
vậy Đảng và nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách pháp luật để thực hiện, điển
hình như:
Ngày 7/12/1982, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành chỉ thị số 315/CT về
việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật đã xác định: “Hình thức
tuyên truyền cần phong phú, hấp dẫn, thích hợp với từng loại đối tượng”[7]. Cần sử
dụng rộng rãi báo chí, phát thanh, truyền hình và các hình thức văn hoá, nghệ thuật
khác để phổ biến pháp luật…Tiếp đó chỉ thị số 300/CT ngày 22/10/1987 của Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng về một số công tác trước măt nhằm tăng cường quản lý
Nhà nước bằng pháp luật đã yêu cầu.
Tiếp đó trong Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 07/01/1998 của Thủ tướng
Chính phủ về việc tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn
hiện nay và Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch triển khai
3
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập Hội
đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật.
QĐ số 13/2003/QĐ-TTg ngày 17/01/2003 phê duyệt chương trình phổ biến,
giáo dục pháp luật từ năm 2003 đến năm 2007; NQ 61/2007/NQ-CP của Chính phủ
ban hành ngày 7/12/2007, phổ biến giáo dục pháp luật là nhiệm vụ của toàn bộ hệ
thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ngày 12/03/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
37/2008/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phổ biến giáo dục pháp luật từ năm 2008
đến năm 2012 trong đó mục tiêu đề ra:
Tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng và chấp
hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, đổi mới phương thức tổ chức thực
hiện phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lựclàm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,..., tổ chức có hiệu quả công
tác phổ biến giáo dục pháp luật trên toàn quốc…” [51].
Đặc biệt những năm gần đây Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định
số 1928/QĐ-TTg ngày 20 tháng 11 năm 2009 về việc phê duyệt đề án “ Nâng cao
chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường” và mới đây Thủ
tướng đã ký Quyết định số 1141/QĐ-BĐHĐA ban hành kế hoạch thực hiện Đề án
nói trên giai đoạn 2013-2016.
Gần đây nhất ngày 20/06/2012 tại kì họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII đã thông
qua luật số 14/2012/QH13 của Quốc hội: LUẬT PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT với năm chương, 41 Điều, với những quy định chung về phổ biến và giáo
dục pháp luật; các nguyên tắc quản lý về phổ biến và giáo dục pháp luật; nội dung
và hình thức phổ biến và giáo dục pháp luật; cũng như trách nhiệm phổ biến và giáo
dục pháp luật cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; và các điều kiện
đảm bảo cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Điều đó cho thấy sự nỗ lực của Chính phủ ta quyết tâm thực hiện việc giáo
dục, phổ biến pháp luật trong nhà trường một cách sâu rộng, toàn diện, phối kết hợp
giáo dục pháp luật trong chương trình chính khóa với các hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp và giáo dục ngoại khóa ở tất cả các cấp học từ Phổ thông cơ sở đến Phổ
4
thông trung học rồi đến trung cấp, cao đẳng và đại học với mục đích tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật và hành vi nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật ở lứa tuổi chưa thành niên và cả lứa tuổi đã thành niên.
Trên thực tế công tác giáo dục môn học đạo đức, giáo dục công dân trong
các trường phổ thông đã và đang tiến hành thường xuyên ở các cấp học song hiệu
quả mà các môn học này mang lại cho xã hội còn rất kém. Cụ thể tình trạng học
sinh vi phạm pháp luật ngày càng nhiều ở các lĩnh vực giao thông, trận tự an toàn xã
hội…. và rất đáng lên án là tình trạng học sinh nữ đánh nhau chỉ vì những lý do rất
đơn giản xảy ra ở nhiều nơi trên cả nước, đồng thời với hành vi không đẹp ấy là một
bộ phận học sinh đứng ngoài không can ngăn mà lại cổ vũ, khuyến khích, tệ hại hơn
nữa một số em còn quay video qua điện thoại để tung lên mạng. Điều này cho thấy
ý thức pháp luật của học sinh quá kém và sự xuống cấp thê thảm về đạo đức ở một
bộ phận không nhỏ học sinh phổ thông hiện nay.
Tình trạng vi phạm pháp luật hình sự diễn ra ở độ tuổi chưa thành niên
ngày càng diễn biến phức tạp. Nếu như trước đây các em phạm tội do suy nghĩ
bột phát, ngây thơ thì hiện nay mức độ phạm tội của người chưa thành niên ngày
càng nghiêm trọng, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn, các em phạm tội có tổ chức,
băng nhóm, sử dụng nhiều loại phương tiện, công cụ nguy hiểm gây hậu quả
nghiêm trọng về người và tài sản. Một vấn đề báo động và là câu hỏi đặt ra cho
toàn xã hội hiện nay, đó là tại sao tính “hăng máu”, tính “ anh hùng rơm” và tình
trạng “ bạo lực học đường” đang diễn ra gây nhức nhối cho toàn xã hội đến như
vậy. Chỉ có câu trả lời duy nhất là sự xuống cấp về đạo đức và sự kém hiểu biết về
pháp luật trong việc hình thành nhân cách của người chưa thành niên mà hệ quả
của sự việc này là kết quả của nền giáo dục từ gia đình, từ nhà trường và toàn xã
hội trong thời gian dài.
Để góp phần giải quyết vấn đề trên, việc làm sáng tỏ tình hình tội phạm của
người chưa thành niên, phát hiện những quy luật chi phối sự vận động của hiện
tượng xã hội này, đồng thời tìm hiểu, đánh giá được mặt tích cực, các mặt hạn chế
của công tác giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức sẽ cho phép nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục.
5
Như vậy, cần thiết phải tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức và pháp luật
cho lứa tuổi chưa thành niên, đặc biệt là học sinh phổ thông và đề xuất giải pháp để
nâng cao hiệu quả của việc kết hợp hai loại hình giáo dục này trong thực tiễn đang
là yêu cầu bức xúc hiện nay. Từ những điểm phân tích trên đây, tác giả thấy rằng
việc nghiên cứu đề tài: “Kết hợp giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức cho người
chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay” trên cơ sở lý luận và thực tiễn là hết
sức cần thiết, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của toàn xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu
Về phương diện lý luận, từ trước đến nay, mối quan hệ giữa pháp luật và đạo
đức đã thu hút được sự quan tâm của cả Luật học và Đạo đức học. Điều này được
phản ánh trong các tác phẩm lý luận về pháp luật và đạo đức như Giáo trình lý luận
chung về nhà nước và pháp luật của Khoa Luật trường Đại học Tổng hợp, năm
1993; Giáo trình Đạo đức học của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm
2000, đều có những mục xem xét mối quan hệ này. Nội dung của những mục tiêu
này tuy không nhiều nhưng đã đưa ra được những định hướng bước đầu rất có ý
nghĩa cho việc nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức.
Ở góc độ nghiên cứu cụ thể,trong thời gian qua phải kể đến một số công
trình tiêu biểu như Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển ở Việt Nam của
các tác giả Vũ Khiêu và Thành Duy, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2000, các
tác giả đã giới thiệu mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức qua các giai đoạn lịch
sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này… Đặc biệt phải kể đến ở đây là loạt công
trình nghiên cứu chuyên sâu của GS.TS Hoàng Thị Kim Quế về mối quan hệ giữa
pháp luật và đạo đức như: Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo
đức trong hệ thống điều chỉnh xã hội - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 7/
1999; Trần Minh Đoàn (2001), Giáo dục đạo đức cho thanh niên, học sinh theo tư
tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị
- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; Nguyễn Đình Đặng Lục (2008), Giáo dục
pháp luật trong nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội; Nguyễn Thúy Hoa (2005), Kết
hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận văn
thạc sĩ luật, Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; Một số suy nghĩ
6
về trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm đạo đức- Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
3/2000; Xu hướng vận động, phát triển của pháp luật và đạo đức ở Việt Nam qua
các thời kỳ lịch sử - Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 7, 8 /2002…là những bài
viết có giá trị. Bên cạnh đó, phải kể đến một số công trình đáng chú ý khác
như: Bàn về giáo dục pháp luật của TS. Trần Ngọc Đường, Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; Tìm hiểu về mối liên hệ giữa đạo đức và pháp
luật của Luật gia Lê Quang Thưởng; Đạo đức truyền thống của dân tộc là môi
trường thuận lợi của việc thực hiện pháp luật của Luật gia Phạm Văn Tỉnh; Tư
tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội của tác
giả Lương Hồng Quang, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003….
Người chưa thành niên là đối tượng nghiên cứu của rất nhiều tác giả, trong
lĩnh vực luật học, có nhiều luật gia nghiên cứu, có thể kể đến các sách:
Phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội, Nhà xuất bản pháp lý Hà Nội,
1987 do Phó Tiến sĩ Vũ Đức Khiển làm chủ biên. Tác giả đề cập đến vấn đề NCTN,
vấn đề phạm tội của NCTN để từ đó đưa ra một số giải pháp thiết thực.
Tư pháp với người chưa thành niên và quyền trẻ em, 1996, NXB Chính trị
quốc gia, của Vũ Ngọc Bình bàn đến vấn đề tư pháp đối với NCTN và có đề cập
đến quyền trẻ em, từ đó đưa ra cách nhìn về xử lý trên khía cạnh luật pháp đối với
đối tượng này. Ngoài ra còn rất nhiều bài viết về vấn đề này như: Trách nhiệm hình
sự của cha mẹ trong Pháp lệnh bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của tác giả Vũ
Kim đăng trên tập san của Tòa án nhân dân, số 6/1980; Vai trò của Tòa án nhân
dân trong việc ngăn ngừa vị thanh niên phạm tội, tác giả Đặng Quang Phương,
đăng trên tập san của Tòa án nhân dân, số 5/1982. Về tâm lý xã hội đối với tội phạm
và các hành vi vi phạm pháp luật của người chưa thành niên và việc tổ chức phòng
ngừa các tội phạm đó của tác giả Đào Trí Úc (1989), Xây dựng ý thức và lối sống
theo pháp luật của GS.TSKH Đào Trí Úc (đề tài KX - 07 - 17)...
Những kết quả nghiên cứu của các tác giả trên là nguồn tài liệu quý để tác
giả luận văn triển khai đề tài của mình theo cách tiếp cận riêng. Đó là việc phân
tich sự liên hệ giữa pháp luật và đạo đức- cơ sở cho việc xây dựng hành vi xã hội
7
của người chưa thành niên, từ đó đưa ra các hình thức kết hợp giáo dục pháp luật và
giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên. Trên cơ sở phân tích, khảo sát thực
trạng của việc kết hợp giáo dục pháp luật và đạo đức cho người chưa thành niên ở
nước ta để đưa ra các giải pháp thiết thực.
3. Mục đích, nhiệm vụ và ý nghĩa của luận văn
- Mục đích của luận văn:
Nghiên cứu về việc kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho
người chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay để giải quyết việc thay đổi phương
pháp giáo dục pháp luật bằng việc giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức
cho đối tượng là những người chưa thành niên. Từ đó đi đến nghiên cứu đồng bộ hệ
thống chương trình giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho người chưa
thành niên ở nước Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn:
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Thứ nhất, phân tích được cơ sở lý luận của sự liên hệ giữa pháp luật và
đạo đức- cơ sở cho việc xây dựng hành vi xã hội của người chưa thành niên.
- Thứ hai, phân tích thực trạng của việc kết hợp giáo dục pháp luật và giáo
dục đạo đức cho người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay.
-Thứ ba, đề xuất một số phương hướng và giải pháp tăng cường kết hợp
giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở nước Việt Nam
hiện nay
Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn ở mức độ nhất định có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo, góp thêm cơ sở cho việc hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước
để phát huy việc giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở
Việt Nam hiện nay.
Luận văn đóng góp một hướng giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức
cho người chưa thành niên chứ không chỉ đơn thuần là giáo dục pháp luật cho đối
tượng này hiện nay vẫn đang thực hiện. Luận văn còn góp phần nâng cao nhận thức
và phương hướng cho các cơ quan nhà nước trong việc giáo dục pháp luật và đạo
8
đức cho người chưa thành niên. Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích đối với cán
bộ, giáo viên, giảng viên làm công tác giáo dục pháp luật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Với đề tài này tác giả tập trung tìm hiểu
chuẩn giá trị pháp luật và đạo đức và việc kết hợp giữa hai giá trị ấy vào việc giáo
dục nhân cách, phẩm chất, biết tuân thủ pháp luật cho người chưa thành niên. Từ đó
hình thành hành vi xã hội của người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay.
Đề tài nghiên cứu tình hình giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho
người chưa thành niên trên cả nước và tìm hiểu, phân tích thực trạng công tác giáo
dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên hiện nay ở
nước Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tham khảo nguồn số liệu của Tòa án nhân dân tối
cao, Cục cảnh sát điều tra tội phạm xã hội…Ngoài ra, đề tài giới hạn ở việc khảo sát
tình hình giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho người chưa thành
niên ở một số trường THCS, PTTH ở Hà Nội để làm rõ thực trạng công tác giáo dục
pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở nước Việt Nam
hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên việc vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng của Chủ
nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó
luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể là phân tích, đối chiếu, so
sánh, thống kê, tổng hợp, phương pháp điều tra xã hội học; phương pháp phân tích
quy phạm cũng được tác giả vận dụng để phân tích quan điểm của Đảng và pháp
luật của nước ta về hoạt động phổ biến pháp luật nói chung.
6. Những điểm mới của luận văn
Đề tài “Kết hợp giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức cho người chưa
thành niên ở nước Việt Nam hiện nay” mà tác giả lựa chọn có tính mới so với các
đề tài nghiên cứu về giáo dục pháp luật đã được hoàn thành ở chỗ:
9
- Luận văn nghiên cứu và phân tích chi tiết đặc điểm của người chưa thành
niên ở nước ta.
- Luận văn nghiên cứu, tìm hiểu việc kết hợp giữa giáo dục pháp luật và
giáo dục đạo đức cho đối tượng là người chưa thành niên chứ không dừng lại ở việc
giáo dục, phổ biến pháp luật như các đề tài khác.
- Luận văn đóng góp việc giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức
cho người chưa thành niên không chỉ về phương diện lý luận mà còn cần phải áp
dụng việc giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho người chưa thành
niên về mặt thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương.
Chương 1: Pháp luật và đạo đức với nhu cầu giáo dục pháp luật và giáo dục
đạo đức cho người chưa thành niên ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng của việc kết hợp giáo dục pháp luật và đạo đức cho
người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường kết hợp giáo dục pháp luật, giáo
dục đạo đức cho người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay
10
Chương 1
PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC VỚI NHU CẦU GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN Ở
VIỆT NAM
1.1. Sự liên hệ giữa pháp luật và đạo đức- cơ sở cho việc xây dựng hành vi xã
hội của người chưa thành niên
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của người chưa thành niên
* Khái niệm người chưa thành niên:
Khái niệm NCTN là một khái niệm được sử dụng nhiều trong các văn bản
pháp luật. Bên cạnh khái niệm này, chúng ta cũng thường xuyên sử dụng khái niệm
trẻ “vị thành niên” hay “trẻ em”...Tuy nhiên, khái niệm NCTN được đề cập đến
trong một số văn bản sau:
Theo Từ điển Tiếng việt, thì “thành niên” là đến tuổi được pháp luật công
nhận là công dân với đầy đủ quyền và nghĩa vụ, “vị thành niên” là chưa đến tuổi
được pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ quyền và nghĩa vụ [35, tr17].
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc
thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa
là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định
tuổi thành niên sớm hơn” [59, Điều 1].
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong
Hiến Pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và
một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy
định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế
định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể.
Như vậy, qua sự phân tích các quan điểm nêu trên, có thể xác định độ tuổi
NCTN là những người dưới 18 tuổi. Bao gồm tất cả trẻ em (những người chưa đủ
16 tuổi) và vị thành niên (những người trong độ tuổi từ 12 đến dưới 18 tuổi). Trong
phạm vi đề tài này, tác giả chỉ nghiện cứu lứa tuổi vị thành niên ở độ tuổi từ 12 tuổi
11
đến dưới 18 tuổi. Đó là những người chưa trưởng thành (đang phát triển) về thể
chất, thần kinh – tâm lý và xã hội. Trong thực tiễn đời sống mọi người đều hiểu
rằng: người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất lẫn tinh
thần nên họ chưa có khả năng nhận thức, kiểm soát được suy nghĩ, hành vi của
mình, họ dễ bị tác động từ các yếu tố bên ngoài và thực hiện hành vi một cách nông
nổi, thiếu chín chắn.
Từ những quy định và sự phân tích trên đây, khái niệm người chưa thành
niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con
người và được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của
từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của
người chưa thành niên. Có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18
tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có khả năng nhận
thức, kiểm soát được hành vi của mình chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp
lý như người đã thành niên.
* Đặc điểm của người chưa thành niên:
Dưới góc độ tâm lý học, con người trải qua các giai đoạn lứa tuổi khác nhau,
trong đó mỗi giai đoạn có đặc điểm tâm sinh lý riêng, đặc trưng cùng với tác động bên
ngoài làm hình thành những hành vi ứng xử khác nhau. Giai đoạn chưa thành niên là
giai đoạn quan trọng trong quá trình phát triển và hoàn thiện nhân cách của con người.
Nghiên cứu NCTN qua các đặc điểm tâm sinh lý giúp chúng ta lý giải được cơ sở khoa
học của những quy định pháp luật nói chung và pháp lệnh xử lý vi phạm đối với người
NCTN nói riêng. Những đặc điểm của NCTN được biểu hiện cụ thể:
Trong phạm vi đề tài, tác giả đi tìm hiểu NCTN gồm những người ở độ tuổi
từ 12 đến dưới 18 tuổi. Với NCTN ở giai đoạn này họ cần có thời gian để chuẩn bị
về mọi mặt để chuyển sang một giai đoạn mới: giai đoạn trưởng thành (giai đoạn
lớn lên về cơ thể, mở rộng các quan hệ xã hội, tích lũy tri thức, phương thức hoạt
động...). Tuổi của NCTN cũng có thể gọi là “thời kỳ quá độ” (chưa phải là người
lớn cũng không còn là trẻ con), “tuổi khủng hoảng” (cả về tâm lý lẫn sinh lý), “tuổi
khó bảo”, “tuổi bất trị”...những nguyên nhân của cách gọi trên xuất phát từ đặc
điểm sau:
12
Thứ nhất, đặc điểm sinh lý. Thời kỳ này, cơ thể phát triển mạnh mẽ những
chưa đồng đều, biểu hiện bên ngoài là các em lớn lên trông thấy. Tùy thuộc vào độ
tuổi, ngay trong cùng một giai đoạn mà sự phát triển giữa nam và nữ là khác nhau,
các em nữ phát triển cao hơn nam về hình dáng ở độ tuổi 14 – 15. Tuy nhiên, các
em lại có chung những đặc điểm chung của lứa tuổi. Nhóm tuổi chưa thành niên là
nhóm tuổi có sự thay đổi mạnh mẽ nhất về thể chất trong cuộc đời mỗi người. Trên
bình diện y sinh học nó là giai đoạn chuyển biến từ đứa trẻ non nớt thành một người
lớn khỏe mạnh. Cấu tạo hệ thần kinh có những thay đổi rất nhiều và chức năng của
hệ thần kinh phức tạp hơn. Hệ tim mạch phát triển mạnh làm cho các em đôi khi có
cảm giác mệt mỏi, chóng mặt dẫn đến hiện tượng dễ bị kích động, dễ nổi nóng.
“Tuyến nội tiết hoạt động mạnh, đặc biệt là tuyến sinh dục và tuyến giáp gây ra sự
mất cân bằng tạm thời trong hoạt động của hệ thần kinh trung ương”[48, tr.35],
điều đó lý giải vì sao một số em hay bị xúc động mạnh, một số em khác nóng nảy
vô cớ hoặc có hành vi bất thường không làm chủ được bản thân. Một đặc điểm sinh
lý nữa của NCTN đó là sự phát dục, điều này làm xuất hiện ở các em những nhu
cầu mới như nhu cầu giao tiếp với bạn bè, đặc biệt là bạn bè khác giới. Các em
trưởng thành hơn về mặt cơ thể, nhưng nhận thức vẫn còn hạn chế.
Thứ hai, về đặc điểm tâm lý. NCTN đã bắt đầu hình thành sự “tự ý thức ” về
mình, các em thường đặt ra câu hỏi: mình đang làm gì? Mình như thế nào? Những ai
quan tâm đến mình?...quá trình này diễn ra dần dần với những diễn biến tâm lý phức tạp,
dễ xúc động, chợt vui, chợt buồn, tình cảm bồng bột, hoạt động thần kinh không cân
bằng, do đó khiến các em không tự kiềm chế được bản thân khi gặp tình huống bất ngờ.
Các nhà tâm lý học đã nói nhiều về sự đa dạng, phức tạp trong tình cảm, tâm lý của các
em. Lúc này trẻ mang đầy tính năng động, mang nhiều mơ ước và khát vọng nói chung
song có nhiều em gái mang trong mình tâm lý trầm tư, u uất, khép mình vào thế giới nội
tâm trong khi đó nhiều ban trai tỏ thái độ ngang bướng, thậm chí phá phách, muốn khẳng
định mình. Do vậy, có thể nói rằng , độ tuổi chưa thành niên là giai đoạn có nhiều biến
động nhất trong sự hình thành các giá trị đạo đức, lối sống và nhân cách của mỗi người.
“Tuổi vị thành niên là thời gắn liền với các xung đột và xáo trộn tâm trạng. Những suy
13
nghĩ, cảm xúc của NCTN thường dao động giữa tính kiêu ngạo và tính tự ti, giữa sự
điềm tĩnh và sự nóng nảy, giữa niềm hạnh phúc và nỗi đau buồn” [18, tr.7- 8].
Do có thể tự ý thức về bản thân mình, các em đôi khi có những thái độ khó chịu
với sự thay đổi về tâm sinh lý. Các em biết những việc nào thì được phép làm, những
việc nào không nhưng đôi khi vẫn làm theo cách của mình với những lý do rất riêng.
Do đó, khi mắc lỗi, thay vì nhìn nhận thẳng vào vấn đề, một số em lại cố che giấu, cử
chỉ bên ngoài thiếu tự nhiên, các em muốn bộc lộ cá tính, tự khẳng định mình, muốn
nhanh chóng được trở thành người lớn và cố gắng đối xử như người lớn, song nhận
thức về xã hội, đạo đức, đặc biệt là pháp luật còn nhiều hạn chế.
Từ sự thay đổi về thể chất và tinh thần dẫn đến việc biến đổi mạnh mẽ trong
hành vi ở nhóm tuổi chưa thành niên. Rất nhiều hành vi của nhóm tuổi chưa thành
niên luôn khó hiểu và không lường trước được đối với những thế hệ khác đặc biệt là
người lớn tuổi. Các em hành động một cách bột phát mà không cần cân nhắc, tính
toán chín chắn. Các em đã biết nhìn nhận về bản thân và mong muốn tạo cho mình
uy tín, sự mến phục trong con mắt bạn bè, đặc biệt là bạn khác giới. Trẻ chưa thành
niên có thể là những người vị tha, độ lượng, có thể hy sinh thân mình để làm những
điều tốt đẹp nhưng cũng có thể ngay sau đó lại bị lôi kéo vào những hành vi xấu mà
không nhận biết được. Các em cũng dễ bị lây nhiễm vào các tệ nạn xã hội như cờ
bạc, rượu chè, trộm cắp, đánh nhau khi ở vào tuổi này mà đến khi trưởng thành đã
không thể dễ dàng từ bỏ những tệ nạn đó.
NCTN cần có sự quan tâm, chăm sóc của cha mẹ bởi những khó khăn, rắc
rối về mặt tâm sinh lý là không tránh khỏi. Cha mẹ phải là người hiểu rõ điều đó và
cần có sự quan tâm đúng mức, sao cho các em vẫn phát huy được tính độc lập của
mình nhưng cũng không tách rời sự quản lý cần thiết và chặt chẽ của cha mẹ.
Phần lớn NCTN sống phụ thuộc vào gia đình, trong mối quan hệ với gia
đình, cụ thể là đối với cha mẹ, sự hiểu biết tâm sinh lý đối với NCTN là rất quan
trọng. Tuy nhiên, sự hiểu biết này mới dừng lại ở những thay đổi bên ngoài, còn
những thay đổi tâm sinh lý bên trong cha mẹ ít quan tâm hơn. Do đó, khi ý thức của
NCTN lệch lạc dẫn đến vi phạm pháp luật, cha mẹ lại nghĩ nguyên nhân chính do
bản thân chúng gây ra, rất nhiều trong số các em bị cha mẹ bỏ mặc và không quan
14
tâm. Khi thiếu vắng tình cảm của cha mẹ, NCTN còn tìm sự an ủi ở họ hàng, gia
đình và bạn bè, tuy nhiên điều đó không thể thay thế bằng tình cảm thân yêu của
cha mẹ, khi đó các em nhanh chóng tìm đến sự giải tỏa tâm lý bằng những hành
động nông nổi, bồng bột.
NCTN VPPL là những người có hành vi vi phạm các quy định của pháp luật
ở các mức độ khác nhau từ vi phạm hành chính cho đến vi phạm pháp luật hình sự.
Tuy nhiên, khi NCTN từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi mà phạm tội quy định trong Bộ
luật hình sự thì họ chỉ chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp phạm tội rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng theo điều 12 Bộ luật
hình sự 1999. NCTN VPPL thường có những đặc điểm tâm lý về nhận thức và tính
cách như sau:
Lệch lạc trong nhận thức về hành vi vi phạm như: Nói giảm nhẹ hành vi vi
phạm của mình để người nghe có thể chấp nhận được; Chối bỏ trách nhiệm về hành
vi của mình; Có niềm tin sở hữu khi cho rằng mình có quyền đối với tài sản của
người khác; Cho rằng mình có quyền gây tổn thương cho người khác; Đổ lỗi cho
nạn nhân.
Đặc điểm tính tiêu cực ở người chưa thành niên vi phạm pháp luật như:
Không vâng lời, bướng bỉnh, có xu hướng chống đối các biện pháp giáo dục; Vô kỷ
luật, dối trá, xấc xược, hung tính, dễ manh động; Lười biếng thiếu quyết tâm, thiếu
trách nhiệm đối với bản thân và người khác; A dua, bắt chước; Thất vọng ở bản
thân; Có xu hướng xung đột nội tâm và mâu thuẫn trong hành vi; Thiếu kiềm chế,
xúc cảm thất thường;...
Khi NCTN bị người thân bỏ rơi, thiếu nâng đỡ tinh thần hoặc bị bạo lực,
chửi rủa, xỉ vả và xúc phạm liên tục, hoặc thường xuyên sống trong lo sợ, căng
thẳng,...họ dễ bị tổn thương tâm lý. Đôi khi để giải tỏa trạng thái tâm lý tiêu cực
trong gia đình, họ có những phản ứng chống trả quyết liệt như: bỏ học; bỏ nhà đi
lang thang; sử dụng các chất kích thích; hoặc gây ra những hành vi rối loạn xã hội
như gây hấn với người khác, phá hoại tài sản, trộm cắp; thậm chí tự hủy hoại bản
thân mình như tự hành xác, tự tử.
15
NCTN vi phạm pháp luật là một hiện tượng xã hội vô cùng phức tạp và
nguyên nhân của hiện tượng này cũng vô cùng đa dạng. Nhìn từ góc độ bản thân
người NCTN thì mỗi người lại có những hành động vi phạm pháp luật dưới sự chi
phối của những ý thức xã hội khác nhau. Những ý thức xã hội khác nhau ấy là
những phản ứng của NCTN trước những biến động xã hội khi tác động vào bộ não
của họ. NCTN có sự phát triển và thay đổi sinh lý khá nhanh chóng, nhưng lại có sự
phát triển tâm lí và nhận thức xã hội tương đối chậm. Lúc này, gia đình, nhà trường,
bạn bè và môi trường khách quan bên ngoài sẽ có tác động hai chiều đến sự hình
thành và phát triển tâm lý, ý thức của họ. Nếu sự tác động là tích cực, phù hợp thì
sự phát triển tâm lý, ý thức của NCTN sẽ theo hướng tích cực. Ngược lại, nếu sự tác
động là tiêu cực, chưa phù hợp thì sự phát triển tâm lý, ý thức của NCTN sẽ theo
hướng tiêu cực, và đây chính là mầm mống hình thành ý thức phạm tội của họ.
Nghiên cứu này chủ yếu xem xét những ảnh hưởng từ môi trường bên ngoài dẫn
đến tâm lý phạm tội của NCTN bao gồm: gia đình, nhà trường, xã hội và pháp luật.
Do vậy, NCTN là giai đoạn phát triển đặc biệt quan trọng trong cả cuộc đời
con người, mỗi người ở độ tuổi này thường có những thay đổi rõ nét về tâm sinh lý
và hành vi. Hiểu được những đặc điểm mang tính đặc thù này là chìa khóa mở ra
cánh cửa thành công cho công tác giáo dục NCTN.
Nếu ở độ tuổi này NCTN có những hành vi vi phạm pháp luật, hình thành
thế giới quan, nhân sinh quan không phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội thì
rất có thể đến lứa tuổi trưởng thành họ sẽ là đại diện cho những thành phần bất
kham trong xã hội.
NCTN vẫn đang ở trong giai đoạn hình thành để đi đến tương đối ổn định về
nhân sinh quan và thế giới quan vì thế mà những hành vi và quan điểm giá trị của
họ có thể uốn nắn được. Đứng từ góc độ tâm lý học và sinh lý học có thể nhận thấy
thanh thiếu niên về tâm lý vẫn chưa ổn định, về sinh lý vẫn chưa phát triển hoàn
thiện. Sự mất cân bằng giữa phát triển sinh lý và nhận thức xã hội có ảnh hưởng
quan trọng đến đặc điểm tâm lý, tình cảm, hành vi của NCTN trong giai đoạn này.
Hệ thống thần kinh của các em vẫn ở trong trạng thái chưa ổn định. Nhận thức, tình
cảm và ý chí của các em vẫn đang có những sự biến đổi mạnh mẽ, điều này khiến
16
cho các em khó kiểm soát tình cảm và hành vi của mình, các em thường dùng tình
cảm nhất thời để giải quyết mọi việc, đồng thời cũng dễ bị ảnh hưởng của môi
trường bên ngoài tác động.
Điều kiện sống, sinh hoạt và học tập của NCTN đều đa phần phụ thuộc vào
người lớn và sự bảo trợ của xã hội. Các em không có thu nhập ổn định, khả năng tự
lập còn kém, sức chịu đựng tâm lý cũng còn kém cùng với đó là cảm xúc, tình cảm
cũng chưa ổn định, đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thanh thiếu niên
thường có tính dựa dẫm, mà chính sự dựa dẫm và phụ thuộc này khiến cho thanh
thiếu niên trở thành những người dễ gặp phải những nguy cơ không tốt trong cuộc
sống và cũng dễ bị tổn thương. Nếu không nhận được tình cảm từ gia đình, sự dạy
dỗ từ thầy cô, sự yêu mến từ bạn bè và sự quan tâm từ xã hội thì các em khó có
được tương lai tốt đẹp. Những hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội, sự mất công bằng
trong giáo dục gia đình và nhà trường,… đều là những nhân tố có thể trở thành
nguyên nhân dẫn đến việc NCTN đi theo những con đường xấu.
NCTN nói riêng và bộ phận thanh thiếu niên nói chung chính là những chủ
nhân tương lai của xã hội giúp duy trì và ổn định sự phát triển bền vững của xã hội.
Đồng thời cũng chính bởi thanh thiếu niên là đại diện cho tương lai nên bản thân
các em cũng có những quan điểm, suy nghĩ, việc làm không giống với chúng ta. Ở
các em có những quan niệm mới, thói quen mới, tri thức mới, kỹ thuật mới mà
người trưởng thành cho rằng khó chấp nhận và khó thực hiện được trong cuộc sống
thì các em lại dễ dàng chấp nhận và dễ dàng theo đuổi. Các em dám bước qua
những quan niệm truyền thống để tạo dựng cho thế hệ mình những nấc thang mới,
xét trên khía cạnh này thì sự dũng cảm của thanh thiếu niên được đánh giá là cao
hơn người trưởng thành. Nếu không có sự bứt phá trong tư duy và hành động của
NCTN thì xã hội của chúng ta trong tương lai sẽ không thể phát triển hơn xã hội
hiện tại. Nhưng trong thực tế những điều mới mẻ của NCTN lại dễ bị người lớn phủ
nhận và bác bỏ, người lớn hay những người đang làm chủ cuộc sống hiện tại luôn
mong muốn NCTN sẽ trưởng thành trong sự quản lý và bao bọc của họ, cũng như
làm theo những điều mà họ đã đề ra, chấp hành những luật lệ mà họ đưa ra. Khi
đứng trước những rào cản này một bộ phận NCTN trở nên cô độc, những hành động
17
bộc phát mang tính tiêu cực chính là những ví dụ điển hình cho việc chống lại
những quy tắc gò bó. Do vậy, giúp cho thế hệ trẻ của chúng ta có cơ hội phát triển
đúng đắn mà vẫn đảm bảo phát huy được những tư duy mới mẻ của trẻ cần kết hợp
giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật, để cung cấp cho NTCN những kiến thức về
đạo đức và pháp luật, những chuẩn giá trị về đạo đức, chuẩn giá trị về pháp luật
nhằm ngăn chặn những hành vi lệch lạc của trẻ.
1.1.2. Mối liên hệ giữa pháp luật và đạo đức
Điều chỉnh hành vi con người, xã hội có nhiều công cụ khác nhau, trong đó,
pháp luật và đạo đức là công cụ quan trọng bậc nhất. Bên cạnh những ưu thế vốn
có, cả pháp luật và đạo đức đều có những hạn chế nhất định. Song pháp luật và đạo
đức có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại, bổ sung cho nhau. Do vậy, để quản lý
xã hội có hiệu quả, cần phải có sự kết hợp giữa pháp luật và đạo đức.
Để tìm hiểu mối liên hệ giữa đạo đức và pháp luật trước hết chúng ta cần tìm
hiểu đạo đức, pháp luật và vai trò của đạo đức và pháp luật trong đời sống xã hội.
*Đạo đức
Đạo đức là khái niệm có lịch sử lâu đời ở phương Đông lẫn
phương Tây. Nếu như ở phương Tây, đạo đức có gốc từ thuật ngữ dùng
để chỉ tập quán, lề thói, những phương thức ứng xử được xã hội công
nhận thì phương Đông, chữ “đạo đức” bắt nguồn từ “đạo” nghĩa là quy
luật, con đường sống của con người và “đức” là biểu hiện của đạo, là
nhân đức, là tình nghĩa con người. Đạo đức ghép lại là quy luật sống của
con người theo nhân nghĩa, luân lý, là nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà
con người phải tuân theo. Đạo đức là nguyên tắc của cả cộng đồng. Cá
nhân tuân theo những nguyên tắc ấy là hoàn toàn tự nguyện, tự giác. Đây
là một đặc trưng của đạo đức và là sức mạnh của đạo đức khác hẳn với
các quy tắc tôn giáo hay những quy phạm pháp luật"[17,tr.5].
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, “đạo đức là tập hợp những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá ứng xử của con
người trong quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện
bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [17, tr.8].
18
Theo đó đạo đức chính là công cụ để con người tự giác điều chỉnh mối quan
hệ giữa người với người sao cho tránh khỏi những xung đột về lợi ích giữa cá nhân
với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, bao gồm hệ thống những
quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời, tồn
tại và biến đổi từ nhu cầu của xã hội. Nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi
của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội
trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội.
Như vậy đạo đức là cái tốt ở bên trong nhưng được đánh giá bằng biểu hiện
ra bên ngoài. Đạo đức bên trong chi phối hành vi và lời nói bên ngoài. Một người
có đạo đức thì những hành vi và lời nói bên ngoài họ luôn tử tế với mọi người, họ vị
tha, chân thành, luôn quan tâm đến người khác nhưng bản thân mình luôn khiêm
tốn, kín đáo, giản dị.
Có thể thấy rằng đạo đức xuất hiện như là một nhu cầu tất yếu khách quan
của lịch sử xã hội loài người. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức
phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức bao giờ cũng bị chi phối bởi điều kiện kinh tế xã
hội, lịch sử. Còn với tư cách là hành vi của con người thì đạo đức luôn mang tính tự
nguyện, tự giác, không chịu sự cưỡng ép và những chuẩn mực của đạo đức luôn
khiến người ta thấy mình phải có bổn phận phải làm theo những chuẩn mực đó. Và
hơn nữa những chuẩn mực đạo đức luôn phải phù hợp với mối tương quan giữa lợi
ích chung của xã hội và lợi ích riêng của cá nhân trong những hoàn cảnh lịch sử cụ
thể. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng đạo đức còn được xem xét dưới tư cách một hệ
thống những giá trị, hệ thống cấu thành nhân cách của cá nhân. Những phẩm chất
như lòng nhân ái, tình yêu đất nước,... không chỉ bộc lộ qua ý thức của cá nhân mà
chủ yếu được đánh giá qua hành động của cá nhân đó.
Tóm lại, có thể khái niệm đạo đức như sau: Đạo đức một hệ thống những
nguyên tắc, giá trị, chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi con người mang tính tự
nguyện, tự giác trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã
hội theo hướng giảm bớt và loại trừ những cái ác, cái tác hại đến con người.
19
Giáo dục đạo đức: GDĐĐ là hoạt động có tổ chức, có mục đích, có tính định
hướng nhằm tác động lên các đối tượng giáo dục nhằm điều chỉnh hành vi con
người mang tính tự nguyện, tự giác trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân,
giữa cá nhân với xã hội theo hướng giảm bớt và loại trừ những cái ác, cái tác hại
đến con người.
Có thể khẳng định rằng đạo đức có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã
hội. Nó là phương thức điều chỉnh hành vi con người theo hướng giảm bớt và loại trừ cái
ác, cái có hại cho con người nên đạo đức không thể thiếu đối với sự tồn tại xã hội. Bởi lẽ,
con người trong đời sống xã hội luôn cần có những nguyên tắc quy định hành vi để tránh
những xung đột về lợi ích giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội. Đạo đức
cũng được hiểu là một mặt của nhân cách, là tập hợp những phẩm chất đạo đức hay
những giá trị đạo đức do cá nhân đó lĩnh hội và rèn luyện trong quá trình hoạt động sống,
quá trình hình thành nhân cách của mình. Có thể nói , đạo đức là nền tảng của nhân cách
con người. GDĐĐ có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách, lối sống.
Đạo đức là những chuẩn mực để con người rèn luyện, tu dưỡng nhân cách; là những
quan điểm, quan niệm, tư tưởng về đạo lý làm người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người thấm nhuần đạo đức xã hội chủ
nghĩa” [32, tr.485]. Nhờ có đạo đức, mỗi người tự xác định được vị trí, vai trò của mình
trong xã hội để từ đó có những hành vi, xử sự cho phù hợp với những chuẩn mực chung
của xã hội, đảm bảo hài hòa lợi ích cá nhân trong mối quan hệ với lợi ích của cộng đồng.
Đạo đức điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội từ giản đơn đến phức tạp,
nhạy cảm, từ hẹp đến rộng, từ biểu hiện bằng hành vi cho đến những suy nghĩ, tư
tưởng lẩn khuất bên trong mỗi người… Đây là những quan hệ xã hội mà pháp luật
và các công cụ khác khó có thể can thiệp, thậm chí nhiều khi sự can thiệp của pháp
luật chỉ đem đến kết quả ngược lại.
GDĐĐ còn ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển tài năng. Tài năng
của con người muốn phát triển phải dựa trên sự phát triển của nhân cách đạo đức.
Không có được những phẩm chất, giá trị đạo đức làm nền tảng, tài năng sẽ rất khó
phát triển hoặc phát triển một cách méo mó, lệch lạc, thậm chí còn có thể trở thành
tội ác, phản đạo đức.
20
Khi mỗi người có được nhân cách đạo đức tốt, lối ứng xử đúng mực do
GDĐĐ mang lại, thì đó là cơ sở cho tài năng phát triển. Một người có lòng yêu
nước thiết tha, có lý tưởng, ước mơ, hoài bão lớn, sống hòa mình với mọi người, họ
sẽ là người cần cù trong học tập, nghiên cứu khoa học, hăng hái trong lao động,
nhiệt tình trong công tác, có nhiều đóng góp cho xã hội.
GDĐĐ còn có vai trò quan trọng trong trường hợp pháp luật chưa hoàn
thiện, còn nhiều chỗ trống. Bởi vì, nhờ có đạo đức, người ta sẽ biết kiềm chế, không
lợi dụng khe hở của pháp luật để thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật hoặc
hành vi tuy chưa phải là trái pháp luật (vì chưa có luật điều chỉnh) nhưng không phù
hợp với những chuẩn mực đạo đức.
*Pháp luật
Khác với đạo đức, pháp luật cũng thuộc hình thái ý thức xã hội song pháp
luật chỉ xuất hiện khi có những chủ thể quyền lực chính trị nhà nước.Pháp luật chỉ
ra đời khi xã hội có giai cấp và nhà nước. Pháp luật là hệ thống chuẩn mực điều
chỉnh hành vi con người, quy định trật tự xã hội nhưng pháp luật được ban hành bởi
một nhà nước nhất định. Pháp luật mang tính cưỡng chế và được đảm bảo thi hành
bởi nhà nước tạo ra nó. Như vậy: “pháp luật là hệ thống những quy tắc xử xự do
nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và nhu cầu tồn tại xã hội,
có tính bắt buộc chung và được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội”[50, tr.27].
Xã hội đi vào trật tự và phát triển là nhờ có pháp luật. Bởi vậy, pháp luật là
công cụ để nhà nước quản lý xã hội một cách hiệu quả nhất. Ở nhà nước pháp
quyền, vai trò của pháp luật trong xã hội được thể hiện rõ ràng nhất. Nhà nước pháp
quyền đề cao tính tối thượng của pháp luật. Đây là nhà nước dân chủ và là nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật.
Bản chất của giáo dục pháp luật là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ
định của chủ thể giáo dục thông qua các hình thức, phương pháp khác nhau tác
động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống, thường xuyên nhằm mục đích
hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm và niềm tin phù hợp với các đòi hỏi của
quy định PL hiện hành. Vì vậy, giáo dục PL không phải là sự tác động đơn giản,
21
nhất thời mà là hoạt động có tổ chức với cấu trúc đồng bộ bao gồm chủ thể, khách
thể, nguyên tắc, mục đích... Giáo dục PL là một hoạt động giáo dục vừa có tính chất
khoa học (với tư cách là một nội dung khoa học), vừa có tính chất xã hội – nhân văn
( với tư cách là hoạt động gắn bó, gần gũi với chủ thể).
Giáo dục PL là một nội dung của hoạt động sống của con người trong quá
trình phát triển. Do vậy, việc hình thành những giá trị PL cho NCTN là nhu cầu tất
yếu, là điều kiện bắt buộc của xã hội đối với cá thể khi họ gia nhập vào chỉnh thể xã
hội. Như vậy, có thể hiểu: GDPL là hoạt động có tổ chức, có mục đích, có tính định
hướng nhằm tác động lên các đối tượng giáo dục nhằm làm hình thành ở họ tri thức
pháp luật, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật và hành vi xử sự phù hợp với pháp
luật hiện hành.
Biện pháp GDPL là cách thức cụ thể mà chủ thể giáo dục tác động đến đối
tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ ý thức, thái độ, hành vi pháp luật đúng đắn,
tạo ra nếp sống, thói quen – hành vi chấp hành pháp luật từ những yêu cầu cụ thể
đến những nội dung các luật trong một thể chế, đích cuối cùng là hình thành một
nhân cách có văn hóa pháp luật trong xã hội văn minh.
GDPL góp phần hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng tri thức pháp
luật của công dân. Tri thức pháp luật có vai trò quan trọng đối với việc hình thành
tình cảm, lòng tin và thái độ đúng đắn đối với pháp luật. Tri thức pháp luật giúp con
người đánh giá, kiểm tra, đối chiếu hành vi với các chuẩn mực pháp luật. Mục đích
này đặc biệt quan trọng trong điều kiện nước ta hiện nay, khi hiểu biết pháp luật của
công dân còn thấp, nhận thức về quyền và nghĩa vụ của công dân chưa đầy đủ. Đây
cũng là yêu cầu của việc hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội bằng pháp luật, xây dựng
một xã hội văn minh, công bằng, dân chủ, bình đẳng, kỷ cương và trật tự.
Để phát huy vai trò của pháp luật trên thực tế, tạo lập mối quan hệ hài hòa
giữa nhà nước và công dân, quyền dân chủ và tự do của công dân được tôn trọng và
thực thi, bộ máy nhà nước được tổ chức và vận hành có hiệu quả thì điều kiện tiên
quyết là phải có sự hiện diện của pháp luật ở mọi nơi; văn hóa pháp lý của công dân
được nâng cao, nghĩa là phải tiến hành GDPL. GDPL là cầu nối quan trọng để đưa
pháp luật vào đời sống bởi nếu pháp luật được ban hành dù tốt đến đâu chăng nữa
22
nhưng nếu không được triển khai thực hiện tới mọi người dân thông qua GDPL thì
không thể phát huy được hiệu lực, hiệu quả.
Nếu pháp luật là phương tiện chủ yếu nhà nước sử dụng để quản lý xã hội,
phương tiện để công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì GDPL có
vai trò quan trọng trong việc trợ giúp các cơ quan, cán bộ công chức và mọi công
dân biết cách sử dụng đúng đắn pháp luật trong công việc cũng như trong cuộc sống
hằng ngày. GDPL làm cho mỗi người ý thức sâu sắc quyền hạn, nghĩa vụ và trách
nhiệm của mình.
Cùng với giáo dục chính trị, tư tưởng, GDĐĐ, GDPL tạo ra những khả năng
và nhân tố thuận lợi cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thông
qua việc củng cố ở những người làm công tác quản lý, ở mọi công dân những phẩm
chất tích cực trong ý thức cũng như hành vi pháp lý, tạo ra ở họ khả năng phản ứng
và không đồng tình, không tiếp nhận các hành vi tiêu cực, chống đối pháp luật. Vì
vậy, trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền thì
GDPL càng có ý nghĩa quan trọng.
Đối với thế hệ trẻ, nhất là đối với NCTN, GDPL được tiến hành sớm sẽ giúp họ
có những nhận thức cơ bản về pháp luật, nâng cao khả năng tư duy pháp lý, tránh được
hành động bột phát, gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. GDPL cho NCTN là biện pháp
tích cực để phòng ngừa, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật ở người chưa thành niên.
GDPL được tiến hành thường xuyên sẽ làm cho chủ thể có ý thức pháp luật cao trong
hành động và có suy nghĩ chín chắn hơn trước khi hành động.
GDPL hình thành niềm tin vào đối tượng GDPL, bởi lẽ, việc thực thi PL một
cách nghiêm chỉnh không chỉ phụ thuộc vào sự đe dọa, cưỡng chế mà còn phụ thuộc
vào sự giáo dục, phụ thuộc vào sự nhận thức vị trí, vai trò của PL trong đời sống xã
hội, từ đó tạo ra ý thức, động cơ đúng đắn trong thực hiện PL và đấu tranh với
những hành vi vi phạm PL.
GDPL cung cấp cho mọi người dân trong xã hội biết quyền và nghĩa vụ của
mình, từ việc tuân thủ đến việc nghiêm chỉnh chấp hành các quy định PL, về những
việc PL quy định được phép làm và những việc PL không cho phép làm hoặc
nghiêm cấm, về cách thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. GDPL chính
23
là sự hỗ trợ tích cực đối với NCTN để họ nhận thức và điều chỉnh hành vi của mình
cho phù hợp với PL.
* Mối liên hệ giữa pháp luật và đạo đức
Về lý luận cũng như thực tiễn, GDPL, GDĐĐ luôn có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Điều đó được quy định khách quan bởi mối quan hệ hữu cơ giữa pháp luật
và đạo đức. Trước khi nhà nước và pháp luật ra đời, xã hội đã được điều chỉnh bằng
các quy phạm đạo đức. Khi pháp luật trở thành phương tiện chủ yếu để nhà nước
quản lý xã hội, thì đạo đức vẫn giữ một vai trò quan trọng và không thể thiếu trong
điều chỉnh hành vi con người. Chỉ với sự đảm bảo bằng quyền lực nhà nước thôi thì
pháp luật khó đi vào cuộc sống. Trước tiên không phải là cưỡng chế mà chính đạo
đức và các quy phạm xã hội khác giúp cho pháp luật không chỉ được thực hiện một
cách nghiêm chỉnh mà còn được thực hiện một cách tự giác, tự nguyện. Nhưng
pháp luật không chỉ dựa vào đạo đức để đi vào đời sống xã hội, pháp luật còn là một
trong những phương tiện để nhà nước đưa các quan điểm, quan niệm đạo đức của
giai cấp thống trị thành các quy phạm đạo đức chính thống trong xã hội - tức
chuyển hóa các quy phạm đạo đức thành quy phạm pháp luật.
Các quy phạm pháp luật tiến bộ đều có sự phù hợp với đạo đức. Pháp luật
càng phù hợp với đạo đức thì hiệu quả điều chỉnh càng cao. Pháp luật tiến bộ luôn
hướng con người đấu tranh chống lại cái ác, vươn tới cái thiện. Nói cách khác, pháp
luật tiến bộ là hiện thân của đạo đức, bảo vệ đạo đức. Có thể nói, pháp luật là
phương tiện không thể thiếu được cho sự tồn tại bình thường của xã hội nói chung
và đạo đức nói riêng.
Pháp luật là một trong những biện pháp để khẳng định một chuẩn
mực đạo đức và biến nó thành thói quen. Chuẩn mực càng khó khẳng
định bao nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng bấy nhiêu. Vì
vậy, không thể buông lỏng pháp luật nếu như việc này chưa được chuẩn
bị bằng sự tiến bộ đạo đức của xã hội [14, tr.177].
Cả pháp luật và đạo đức đều góp phần bảo vệ các giá trị chân, thiện, mỹ, đều liên
quan đến hành vi và đụng chạm đến lợi ích của con người và xã hội. Pháp luật buộc
người ta hành động bằng áp lực từ bên ngoài, còn đạo đức buộc người ta hành động bằng
24
áp lực nội tâm, tức bằng lương tâm, sự giác ngộ và thôi thúc từ bên trong. “Có pháp luật
điều chỉnh mà không có đạo đức, không có lương tâm thì sẽ bất chấp pháp luật, xuyên
tạc luật, lợi dụng luật”[40, tr.6-7]. Hành vi con người chỉ đạt hiệu quả cao và bền vững
nếu nó phù hợp với động cơ nội tại bên trong. Sự khác biệt nhưng lại thống nhất này là
cơ sở để pháp luật và đạo đức bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Chính mối quan hệ này giải
thích vì sao trong quản lý xã hội nói chung, trong giáo dục nói riêng phải kết hợp chặt
chẽ giữa GDPL với GDĐĐ.
Văn kiện Đại hội VIII đã khẳng định: “Tăng cường pháp chế, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng
thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức” [9, tr.45]. GDPL tạo ra khả năng thiết
lập những nguyên tắc đạo đức, củng cố tình cảm, nghĩa vụ đạo đức cho mỗi người.
GDĐĐ sẽ hình thành ở công dân sự tôn trọng sâu sắc đối với pháp luật.
Đạo đức là tiền đề cần thiết, quan trọng cho việc hình thành nhân cách con
người. Nếu chỉ chú trọng pháp luật, không chú ý đạo đức thì các hiện tượng vi
phạm đạo đức sẽ diễn ra. Bởi lẽ, người ta có thể thực hiện đúng pháp luật, nhưng
vẫn có thể vi phạm về mặt đạo đức. Mặt khác, bản thân pháp luật sẽ không có tác
dụng nếu không có “gốc” đạo đức và tuân thủ pháp luật là một giá trị đạo đức cơ
bản, hàng đầu của mọi công dân.
Như vậy, giữa pháp luật và đạo đức có sự thống nhất về mục tiêu, sự hỗ trợ, tác
động đồng thuận, từ đó nâng cao được hiệu quả giáo dục chung, làm cho việc thực hiện
pháp luật trở nên tự giác, tức là đáp ứng những yêu cầu của các chuẩn mực đạo đức. Sự
thống nhất đó đòi hỏi sự tác động tổng hợp của cả hai dạng giáo dục này để bổ sung, hỗ
trợ lẫn nhau nhằm hình thành hành vi không những hợp pháp mà còn hợp đạo đức.
“Cho dù xã hội có phát triển đến đâu, cũng không thể đạt đến sự xóa nhòa đường biên,
ranh giới giữa đạo đức và pháp luật” [38, tr.6].
GDPL, GDĐĐ đều hướng con người đến việc thực hiện những hành vi phù
hợp với các chuẩn mực đã được xã hội thừa nhận trên cơ sở những tri thức được
lĩnh hội và tình cảm, niềm tin hình thành trong mỗi cá nhân. Tuy nhiên, GDPL sẽ có
hiệu quả hơn rất nhiều nếu nó được tiến hành trong một môi trường xã hội lành
mạnh, với những con người trọng đạo lý, tình nghĩa. Ngược lại, GDĐĐ cũng sẽ có
25
hiệu quả hơn nếu nó được tiến hành trong một tổ chức có trật tự, kỷ cương, với
những con người có ý thức về các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý, có sự
hiểu biết về pháp luật. Kết hợp được giữa GDPL, GDĐĐ do vậy sẽ nâng cao hơn
rất nhiều hiệu quả giáo dục chung đối với con người. Ở đây, sự kết hợp giữa GDPL,
GDĐĐ được hiểu là toàn bộ hoạt động thực tiễn được tiến hành theo nội dung, hình
thức, phương pháp và theo một cơ chế nhất định nhằm phát huy vai trò và trách
nhiệm của các chủ thể trong tác động hình thành ý thức pháp luật, nhân cách đạo
đức, hành vi, xử sự của con người, đáp ứng cao nhất yêu cầu của nhà nước và đòi
hỏi của xã hội.
Kết hợp GDPL, GDĐĐ là hoạt động được tiến hành thường xuyên, liên tục và
lâu dài. “Hiệu quả của mỗi loại hình giáo dục này chỉ có thể đạt được nếu biết lồng
ghép kết hợp cả hai” [42, tr.31]. Pháp luật và đạo đức không phải ngẫu nhiên có được
mà hình thành trên cơ sở đòi hỏi và nhu cầu của cuộc sống. Các chuẩn mực pháp luật,
đạo đức không phải là cố định, bất biến vì bên cạnh những chuẩn mực tồn tại lâu dài, ổn
định, vẫn có nhiều chuẩn mực biến đổi do tác động của điều kiện kinh tế, xã hội. Trong
khi đó, hoạt động của con người từ môi trường gia đình đến môi trường xã hội đều chịu
sự tác động của hai loại quy phạm có tính phổ biến này. Do đó, nếu không có sự kết hợp
GDPL, GDĐĐ một cách thường xuyên, lâu dài thì việc thiếu hiểu biết, thiếu ý thức dễ
dẫn con người đến những hành vi lệch chuẩn.
Sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật được tiến hành theo nội dung và hình thức,
phương pháp và theo một cơ chế nhất định nhằm phát huy vai trò và trách nhiệm của các
chủ thể trong tác động hình thành ý thức pháp luật, nhân cách đạo đức, hành vi, xử sự
của con người, đáp ứng yêu cầu của chuẩn mực đạo đức, pháp luật và xã hội.
Kết hợp GDPL, GDĐĐ diễn ra từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng. Ở phạm vi
hẹp là giáo dục gia đình, thông qua ứng xử, lối sống, tấm gương của cha mẹ và các
thành viên khác trong gia đình. Ở phạm vi rộng là những tác động giáo dục trong
mỗi cơ quan, tổ chức, rộng hơn là tác động giáo dục của toàn xã hội. Sự tác động đó
có đặc trưng là luôn có mối liên hệ và sự hỗ trợ, thống nhất với nhau. Nếu tác động
giáo dục từ các loại hình giáo dục ấy mâu thuẫn với nhau thì có thể dẫn đến triệt
tiêu tính tích cực của chủ thể vốn đã được hình thành từ trước đó. Điều này lý giải
26
tại sao phần lớn NCTN vi phạm pháp luật có nguyên nhân từ gia đình (cha mẹ vi
phạm pháp luật) trong khi ở trường các em được giáo dục toàn những điều hay lẽ
phải. Tuy nhiên, cũng không loại trừ trường hợp tác động tích cực của những quan
hệ ngoài phạm vi gia đình đã loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của quan hệ gia
đình trước đó. Nhưng, để đạt được hiệu quả kết hợp GDPL, GDĐĐ đòi hỏi phải có
sự thống nhất, hỗ trợ lẫn nhau giữa các môi trường.
Tác động của đạo đức đến pháp luật
Một là, đạo đức tác động đến việc hình thành các quy định cụ thể trong hệ
thống pháp luật.
Nội dung các quy phạm pháp luật chịu ảnh hưởng của các quan niệm, quan
điểm đạo đức xã hội. Tuy nhiên, không phải mọi quy định trong hệ thống pháp luật
đều chịu ảnh hưởng bởi đạo đức. Khi đạo đức xã hội thay đổi, các quy định của
pháp luật cũng thay đổi theo, nhưng, đạo đức xã hội thường khá ổn định, ít biến đổi,
bởi vậy, những quy phạm pháp luật ghi nhận, phản ánh đạo đức xã hội vì thế cũng
thường ổn định tương đối. Đạo đức là cơ sở của pháp luật: đạo đức về cơ bản phải
phù hợp với đạo đức, đạo đức là nguồn gốc của pháp luật, nhiều quy phạm pháp
luật chính là luật hóa các quy tắc đạo đức.
Khi cộng đồng thừa nhận một quan điểm, quan niệm đạo đức nào đó, nó trở
thành giá trị tinh thần, trở thành chuẩn mực hành vi của mọi người trong cộng đồng.
Những quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức đó dần trở thành phong tục, tập
quán, thói quen trong cách ứng xử hàng ngày của con người. Chính vì vậy, pháp luật
do nhà nước ban hành phải phù hợp với đạo đức xã hội. Khi đó, pháp luật không chỉ
được đảm bảo bằng các biện pháp nhà nước mà còn được đảm bảo bằng dư luận xã
hội. Ngược lại, nếu pháp luật không phù hợp với đạo đức xã hội tức là pháp luật trái
với nguyên lý tự nhiên, trái với yêu cầu của cuộc sống, với ý nguyện chung của cộng
đồng thì trong trường hợp này, chẳng những sự tự nguyện, tự giác thực hiện chúng sẽ
mất đi, mà thay vào đó, người ta còn tìm cách chống đối và vi phạm.
Trong một nền đạo đức xã hội, dễ dàng nhận thấy những giá trị đạo đức
truyền thống được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đây là bản sắc văn hoá
của mỗi dân tộc. Truyền thống trong đó có các truyền thống đạo đức chính là cơ sở,
27
động lực để phát triển. Ở khía cạnh khác, truyền thống nói chung, truyền thống đạo
đức nói riêng đã ăn sâu vào trong tiềm thức của con người, đã trở thành thói quen
trong ứng xử của một cộng đồng người, không dễ gì có thể thay đổi được. Khi pháp
luật phù hợp với đạo lý, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chẳng những nó được
thực hiện nghiêm chỉnh trong cuộc sống mà nó còn góp phần to lớn trong việc giữ
gìn và phát huy truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc.
Hai là, đạo đức tác động đến việc thực hiện pháp luật của các chủ thể trong
đời sống. Khi pháp luật được xây dựng phù hợp với các quan niệm, quan điểm,
chuẩn mực đạo đức xã hội, nó sẽ được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, bởi lẽ
hành vi thực hiện pháp luật hoàn toàn phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của đạo đức
xã hội. Ngược lại, nếu pháp luật trái với đạo đức xã hội, nó sẽ bị xã hội tẩy chay, vì
thế rất khó có thể đi vào đời sống. Do vậy, việc người dân không thực hiện những
qui định pháp luật đó là điều dễ hiểu.
Ba là, ý thức đạo đức cá nhân có tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện pháp luật.
Có thể nói, pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh hay không một phần luận xã hội có
tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy các chủ thể thực hiện pháp luật. Con người ngay từ
khi mới sinh ra đã được giáo hoá các quan điểm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức. Mỗi con
người, trước khi đạt đến độ tuổi để có thể thực hiện một cách đầy đủ các quyền, nghĩa vụ
công dân theo qui định của pháp luật thì họ đã là con, là em, là học trò... họ có nghĩa vụ,
bổn phận tuân thủ các qui tắc, chuẩn mực đạo đức như phải làm người tốt, sống trung
thực, khiêm tốn, đúng mực, lễ phép, ăn ngay, ở lành, làm điều thiện...
Thông qua sự giáo dục trong gia đình, nhà trường, thông qua môi trường sống,
thông qua sự tự ý thức của chủ thể, các quan niệm, quan điểm, tư tưởng, chuẩn mực đạo
đức trong xã hội trở thành phẩm chất đạo đức của mỗi cá nhân, hình thành cách đối nhân
xử thế, thành nếp nghĩ, lối sống của họ trong đời sống xã hội. Người có ý thức đạo đức
cao trong mọi trường hợp đều nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật.
Bốn là, nếu đạo đức trong xã hội được coi trọng, các thành viên trong xã hội
đều coi trọng các giá trị, chuẩn mực đạo đức... thì việc thực hiện pháp luật sẽ
nghiêm chỉnh hơn. Ngược lại, nếu đạo đức xã hội bị xuống cấp, các giá trị đạo đức
xã hội bị xem nhẹ, việc giáo dục đạo đức bị lơi lỏng, coi thường, dẫn đến ý thức đạo
28
đức của các chủ thể không cao thì việc thực hiện pháp luật sẽ không nghiêm chỉnh,
vi phạm pháp luật sẽ gia tăng. Một khi cái thiện không được coi trọng, cái ác sẽ
càng có cơ hội để tồn tại. Vì vậy, có thể nói, đạo đức xã hội bị thoái hoá, xuống cấp
là một trong những nguyên nhân làm cho vi phạm pháp luật gia tăng, cả về số lượng
và tính chất nguy hiểm, trong đó không loại trừ những hành vi man rợ, "phi nhân
tính". Chính vì thế, cùng với việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải tăng cường
giáo dục đạo đức.
Đạo đức giúp việc thực hiện pháp luật triệt để và hiệu quả hơn. Những người
có đạo đức thường ít khi vi phạm pháp luật, họ tuân thủ pháp luật với sự tự giác
cao. Vì vậy sự tuân thủ pháp luật được xem là chuẩn mực đạo đức. Còn những
người xấu thì có thể sẵn sàng vi phạm pháp luật hay lách luật mặc dù họ hiểu biết
pháp luật. Có thể nói chính đạo đức của chủ thể thực hiện pháp luật sẽ quy định việc
người đó có tuân theo pháp luật một các tự giác hay không.
Đạo đức làm tăng tính nhân văn, nhân đạo của pháp luật. Pháp luật bao hàm yếu
tố đạo đức sẽ giúp tăng cường hiệu quả của pháp luật. Vì vậy pháp luật phải luôn bảo vệ
con người và vì con người. Khi mọi người nhận thức được ý nghĩa của đạo đức trong
pháp luật thì họ thực hiện pháp luật một cách tự giác. Vì vậy, có thể khẳng định: “bản
chất đích thực của mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức suy cho cùng đó là vấn đề
mang tính nguyên tắc: đạo đức là cơ sở của pháp luật” [42, tr. 3-6].
Đạo đức có thể bổ sung cho pháp luật, đạo đức có thể điều chỉnh cả lĩnh vực
mà pháp luật chưa điều chỉnh đến hoặc không điều chỉnh được. Chẳng hạn trong
quan hệ bạn bè, quan hệ đồng nghiệp không thể bắt buộc bằng các quy phạm pháp
luật nhưng đạo đức lại điều chỉnh hiệu quả.
Đạo đức lạc hậu có thể tác động tiêu cực tới việc thực hiện pháp luật tiến bộ
của con người. Ví như nguyên tắc đạo đức lạc hậu trọng nam khinh nữ có thể cản
trở việc thực thi pháp luật về bình đẳng giới trong xã hội hiện tại.
*Tác động của pháp luật đến đạo đức
Một là, pháp luật giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức của dân tộc, ngăn
chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức. Pháp luật không chỉ làm cho các quan
niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức trở nên phổ biến trong toàn xã hội, mà quan
29
trọng hơn, nó đảm bảo cho đạo đức được thực hiện nghiêm chỉnh hơn, đồng thời nó
góp phần quan trọng trong việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá trị của chúng. Pháp
luật bảo vệ, củng cố và nâng cao hiệu quả việc thực hiện những nguyên tắc, chuẩn
mực đạo đức xã hội. Khi các chuẩn mực đạo đức được luật hóa, chúng được củng
cố và bảo vệ lâu dài trong xã hội. Bên cạnh đó, pháp luật còn tạo môi trường pháp
lý để bảo vệ những nhân cách đạo đức của những người tốt trong xã hội.
Pháp luật giúp những chuẩn mực đạo đức mới được hình thành trong cuộc
sống. Ví dụ: những chuẩn mực đạo đức mới như chuẩn mực “bình đẳng nam nữ”
khi được luật hóa trong luật về bình đẳng giới có thể được củng cố và hoàn thiện
trong xã hội hiện đại. Việc phát hiện và ủng hộ những chuẩn mực đạo đức mới tiến
bộ luôn là biểu hiện của tiến bộ xã hội.
Tùy trường hợp mà pháp luật có qui định các thành viên trong xã hội được
làm gì, không được làm gì, phải làm gì, phải làm như thế nào sao cho phù hợp với
các chuẩn mực đạo đức xã hội. Chẳng hạn, điều 7, Luật tổ chức Tòa án Việt Nam
năm 2002 qui định: “Tòa án xét xử công khai, trừ trường hợp cần xét xử kín để giữ
gìn bí mật của nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc giữ bí mật của
đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ” [45, Điều 7]. Trường hợp khác, pháp
luật lại qui định nghiêm cấm các hành vi trái đạo đức xã hội. Tuy nhiên, như đã đề
cập, đạo đức xã hội thường không được ghi nhận một cách chính thức trong những
văn bản chuyên biệt, vì vậy, quan niệm về hành vi không trái đạo đức xã hội là vấn
đề không đơn giản. Điều này đòi hỏi nhà chức trách không những phải có ý thức
giữ gìn, bảo vệ các giá trị đạo đức xã hội mà còn cần phải có một tri thức đạo đức.
Hai là, một mặt, pháp luật qui định các biện pháp tuyên truyền, vận động các
thành viên trong xã hội không thực hiện những hành vi theo các quan niệm, quan điểm
đạo đức cũ, lạc hậu. Mặt khác, pháp luật nghiêm cấm những hành vi đó, qui định các
biện pháp chế tài nghiêm khắc đối với các chủ thể thực hiện những hành vi đó. Đồng
thời, pháp luật khuyến khích, bắt buộc các thành viên trong xã hội thực hiện những hành
vi phù hợp với các chuẩn mực đạo đức mới. Các quan điểm, quan niệm về pháp luật vì
thế cũng trở thành các quan niệm, tư tưởng đạo đức, “đạo đức được đảm bảo trước hết
nhờ vào những yếu tố kích thích nội tâm của con người - sức mạnh từ bên trong, từ
30
lương tâm, từ những thói quen xử sự và từ sức mạnh bên ngoài - dư luận xã hội” [39,
tr.17].
Như vậy rõ ràng pháp luật đã góp phần làm hình thành những quan niệm đạo
đức mới. Bằng việc nghiêm trị các hành vi theo đạo đức cũ, bắt buộc thực hiện những
hành vi theo đạo đức mới, pháp luật góp phần khẳng định quan điểm đạo đức mới, làm
cho nó tồn tại một cách chắc chắn trong đời sống xã hội. “Có pháp luật điều chỉnh mà
không có đạo đức, không có lương tâm thì sẽ bất chấp pháp luật, xuyên tạc luật, lợi dụng
luật” [40, tr.6 -7].
Trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của chúng ta từ trước đến
nay, từ Hiến pháp đến các Bộ luật và Luật đều có những quy phạm pháp luật ghi
nhận các giá trị, chuẩn mực đạo đức truyền thống. Trong các luật chuyên ngành như
Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Luật hôn nhân gia đình ... đều cho thấy rất nhiều
chuẩn mực đạo đức được ghi nhận thành những quy phạm pháp luật. Chẳng hạn:
Trong Luật hôn nhân gia đình tại điều 2 quy định các nguyên tắc cơ bản của chế độ
hôn nhân gia đình điển hình tại khoản 2:
Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội;con có nghĩa
vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc,
phụng dưỡng ông bà; các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc giúp
đỡ nhau [44, Điều 2] hay tại khoản 1,3 điều 35: Con có bổn phận yêu quý, biết ơn, hiếu
thảo với cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự,
truyền thống tốt đẹp của gia đình; Nghiêm cấm con có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc
phạm cha mẹ [44, Điều 35 ] hoặc khoản 2 điều 47: Cháu có bổn phận kính trọng, chăm
sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại [44, Điều 47], điều 48: Anh, chị, em thương
yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có nghĩa vụ và quyền đùm bọc, nuôi dưỡng nhau trong
trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện chăm nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục con [44, Điều 48].
Còn trong Bộ luật hình sự quy định các tội chứa mại dâm, tội hiếp dâm, tội loạn
luân, tội sản xuất, buôn bán hàng giả, tội đào ngũ,... nếu ai vi phạm các điều nói trên đều
có chế tài hình sự kèm theo để xử lý.
31
Như vậy pháp luật là những quy phạm pháp luật hiện hữu do nhà nước ban
hành còn đạo đức không thể hiện ra bên ngoài nhưng được thể hiện thông qua hành
vi của con người. Đạo đức của mỗi người có được thông qua nhân cách của người
đó. Đạo đức không những thể hiện qua những quy phạm pháp luật mà còn chứa
đựng trong các quy phạm xã hội khác như quy phạm tôn giáo, các quy tắc trong
cách ứng xử giữa người với người... Trong mỗi người luôn tồn tại đạo đức và ý thức
pháp luật. Đạo đức mỗi người được hình thành qua trải nghiệm trong cuộc sống,
qua những tấm gương hay câu chuyện kể về đạo đức gây xúc động lòng người về
lòng dũng cảm, tính thật thà, lòng hiếu thảo, thương người..., thông qua việc thấm
nhuần những quy phạm tôn giáo, hiểu về tôn giáo, về văn hóa của dân tộc mình.
Còn ý thức pháp luật của mỗi người có được thông qua việc học tập, tìm hiểu các
quy phạm pháp luật và còn phải thông qua thái độ, tình cảm tôn trọng pháp luật,
tình cảm đạo đức ...
Sự tuân thủ pháp luật giúp định hướng hành vi con người theo những yêu cầu
từ phía xã hội. Điều này giúp hạn chế những xung đột trong quan hệ giữa người và
người. Vì thế tuân theo pháp luật đã trở thành chuẩn mực đạo đức trong xã hội, đặc
biệt trong xã hội hiện đại.
Tuy nhiên, pháp luật cũng có thể tác động tiêu cực đến đạo đức khi việc tuân
theo pháp luật hay thực thi pháp luật một cách cứng nhắc, bỏ qua yêu cầu về đạo
đức thì có thể dẫn đến độc đoán, độc tài, vô tình, vô nghĩa. Điều này thể hiện rõ ở
pháp luật mang tính bản chất của giai cấp bóc lột thống trị khi giai cấp bóc lột muốn
sử dụng pháp luật làm công cụ để bóc lột, đàn áp giai cấp bị trị, những người lao
động nghèo khổ trong xã hội.
Chính vì sự khác biệt nhưng thống nhất giữa đạo đức và pháp luật tạo tiền đề
cho sự tác động qua lại, ảnh hưởng và bổ sung lẫn nhau như đã nêu và do đó cần
phải có sự kết hợp hài hòa cả hai trong hoạt động giáo dục. Sự kết hợp đồng thời cả
giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật đối với thế hệ trẻ nhất là lứa tuổi chưa thành
niên hiện nay là một biện pháp thực sự cần thiết.
Tóm lại, đạo đức và pháp luật khác nhau ở hình thức biểu hiện, tính chất và
phương pháp điều chỉnh. Pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các cá nhân, giữa
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên
Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, HAY!
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, HAY!Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, HAY!
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, HAY!
 
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt NamLuận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
Luận án: Hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam
 
Nhân tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành nghề của học sinh
Nhân tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành nghề của học sinhNhân tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành nghề của học sinh
Nhân tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành nghề của học sinh
 
Luận văn thực trạng vấn đề vi phạm đạo đức nhà báo trên báo mạng điện tử hiện...
Luận văn thực trạng vấn đề vi phạm đạo đức nhà báo trên báo mạng điện tử hiện...Luận văn thực trạng vấn đề vi phạm đạo đức nhà báo trên báo mạng điện tử hiện...
Luận văn thực trạng vấn đề vi phạm đạo đức nhà báo trên báo mạng điện tử hiện...
 
Luận văn: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội
Luận văn: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà NộiLuận văn: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội
Luận văn: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội
 
Đề tài: Chất lượng đội ngũ giáo viên tiểu học ở Bạc Liêu, HAY
Đề tài: Chất lượng đội ngũ giáo viên tiểu học ở Bạc Liêu, HAYĐề tài: Chất lượng đội ngũ giáo viên tiểu học ở Bạc Liêu, HAY
Đề tài: Chất lượng đội ngũ giáo viên tiểu học ở Bạc Liêu, HAY
 
Khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinh
Khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinhKhó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinh
Khó khăn tâm lý trong định hướng nghề nghiệp của học sinh
 
Luận văn: Văn hóa doanh nghiệp của Công ty TNHH Nước giải khát Coca Cola Việt...
Luận văn: Văn hóa doanh nghiệp của Công ty TNHH Nước giải khát Coca Cola Việt...Luận văn: Văn hóa doanh nghiệp của Công ty TNHH Nước giải khát Coca Cola Việt...
Luận văn: Văn hóa doanh nghiệp của Công ty TNHH Nước giải khát Coca Cola Việt...
 
Công tác đối với trẻ em khuyết tật vận động tai Thanh Hóa, HAY
Công tác đối với trẻ em khuyết tật vận động tai Thanh Hóa, HAYCông tác đối với trẻ em khuyết tật vận động tai Thanh Hóa, HAY
Công tác đối với trẻ em khuyết tật vận động tai Thanh Hóa, HAY
 
Khóa luận: Đánh giá hoạt động truyền thông PR của công ty, HAY
Khóa luận: Đánh giá hoạt động truyền thông PR của công ty, HAYKhóa luận: Đánh giá hoạt động truyền thông PR của công ty, HAY
Khóa luận: Đánh giá hoạt động truyền thông PR của công ty, HAY
 
Kế hoạch kinh doanh dịch vụ đưa đón
Kế hoạch kinh doanh dịch vụ đưa đón Kế hoạch kinh doanh dịch vụ đưa đón
Kế hoạch kinh doanh dịch vụ đưa đón
 
Luận văn: Kỹ năng giao tiếp của giáo viên mầm non với trẻ, HOT
Luận văn: Kỹ năng giao tiếp của giáo viên mầm non với trẻ, HOTLuận văn: Kỹ năng giao tiếp của giáo viên mầm non với trẻ, HOT
Luận văn: Kỹ năng giao tiếp của giáo viên mầm non với trẻ, HOT
 
Luận văn: Nhận thức và thái độ về các mạng xã hội của học sinh
Luận văn: Nhận thức và thái độ về các mạng xã hội của học sinhLuận văn: Nhận thức và thái độ về các mạng xã hội của học sinh
Luận văn: Nhận thức và thái độ về các mạng xã hội của học sinh
 
Luận án: Hành vi tham gia giao thông đường bộ của thanh niên
Luận án: Hành vi tham gia giao thông đường bộ của thanh niênLuận án: Hành vi tham gia giao thông đường bộ của thanh niên
Luận án: Hành vi tham gia giao thông đường bộ của thanh niên
 
Luận án: Kỹ năng giao tiếp của trẻ 5 – 6 tuổi Tỉnh Tuyên Quang
Luận án: Kỹ năng giao tiếp của trẻ 5 – 6 tuổi Tỉnh Tuyên QuangLuận án: Kỹ năng giao tiếp của trẻ 5 – 6 tuổi Tỉnh Tuyên Quang
Luận án: Kỹ năng giao tiếp của trẻ 5 – 6 tuổi Tỉnh Tuyên Quang
 
CHIẾN LƯỢC KINH DOANH SẢN PHẨM BỘT MỲ TỈNH QUẢNG NGÃI
CHIẾN LƯỢC KINH DOANH SẢN PHẨM BỘT MỲ TỈNH QUẢNG NGÃICHIẾN LƯỢC KINH DOANH SẢN PHẨM BỘT MỲ TỈNH QUẢNG NGÃI
CHIẾN LƯỢC KINH DOANH SẢN PHẨM BỘT MỲ TỈNH QUẢNG NGÃI
 
Đề tài: Xây dựng kế hoạch kinh doanh vàng tại công ty TNHH Thiện Nhân Tâm
Đề tài: Xây dựng kế hoạch kinh doanh vàng tại công ty TNHH Thiện Nhân TâmĐề tài: Xây dựng kế hoạch kinh doanh vàng tại công ty TNHH Thiện Nhân Tâm
Đề tài: Xây dựng kế hoạch kinh doanh vàng tại công ty TNHH Thiện Nhân Tâm
 
Luận văn: Phát triển đội ngũ giáo viên trung học cơ sở người dân tộc Khmer
Luận văn: Phát triển đội ngũ giáo viên trung học cơ sở người dân tộc KhmerLuận văn: Phát triển đội ngũ giáo viên trung học cơ sở người dân tộc Khmer
Luận văn: Phát triển đội ngũ giáo viên trung học cơ sở người dân tộc Khmer
 
Đề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
Đề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hộiĐề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
Đề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
 
SINH VIÊN VÀ MẠNG XÃ HỘI FACEBOOK - MỘT PHÂN TÍCH VỀ SỰ TIẾN TRIỂN VỐN XÃ HỘI...
SINH VIÊN VÀ MẠNG XÃ HỘI FACEBOOK - MỘT PHÂN TÍCH VỀ SỰ TIẾN TRIỂN VỐN XÃ HỘI...SINH VIÊN VÀ MẠNG XÃ HỘI FACEBOOK - MỘT PHÂN TÍCH VỀ SỰ TIẾN TRIỂN VỐN XÃ HỘI...
SINH VIÊN VÀ MẠNG XÃ HỘI FACEBOOK - MỘT PHÂN TÍCH VỀ SỰ TIẾN TRIỂN VỐN XÃ HỘI...
 

Similar to Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên

Similar to Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên (20)

Luận án: Giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên tỉnh Quảng Ninh - Gửi miễn p...
Luận án: Giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên tỉnh Quảng Ninh - Gửi miễn p...Luận án: Giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên tỉnh Quảng Ninh - Gửi miễn p...
Luận án: Giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên tỉnh Quảng Ninh - Gửi miễn p...
 
Luận văn: Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên, HOT
Luận văn: Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên, HOTLuận văn: Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên, HOT
Luận văn: Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên, HOT
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
 
Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408
Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408
Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em ở việt nam hiện nay 6834408
 
Đề tài: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi, HOT
Đề tài: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi, HOTĐề tài: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi, HOT
Đề tài: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi, HOT
 
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng NgãiLuận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Ngãi
 
Khóa luận Pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực giáo dục phổ thông, 9 điể...
Khóa luận Pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực giáo dục phổ thông, 9 điể...Khóa luận Pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực giáo dục phổ thông, 9 điể...
Khóa luận Pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực giáo dục phổ thông, 9 điể...
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải, HAYLuận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải, HAY
 
Giáo dục cho người chưa thành niên phạm tội tại xã phường, HOT
Giáo dục cho người chưa thành niên phạm tội tại xã phường, HOTGiáo dục cho người chưa thành niên phạm tội tại xã phường, HOT
Giáo dục cho người chưa thành niên phạm tội tại xã phường, HOT
 
Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng BìnhĐề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
 
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đPhổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đLuận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
 
Luận văn: Biện pháp tư pháp giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Biện pháp tư pháp giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Biện pháp tư pháp giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Đề tài: Giáo dục pháp luật cho sinh viên trường cao đẳng nghề
Đề tài: Giáo dục pháp luật cho sinh viên trường cao đẳng nghềĐề tài: Giáo dục pháp luật cho sinh viên trường cao đẳng nghề
Đề tài: Giáo dục pháp luật cho sinh viên trường cao đẳng nghề
 
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật tại huyện Vân Đồn, Quảng Ninh
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật tại huyện Vân Đồn, Quảng NinhLuận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật tại huyện Vân Đồn, Quảng Ninh
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật tại huyện Vân Đồn, Quảng Ninh
 
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật trên tỉnh Quảng Ninh, HOT
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật trên tỉnh Quảng Ninh, HOTLuận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật trên tỉnh Quảng Ninh, HOT
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật trên tỉnh Quảng Ninh, HOT
 
Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt NamCác tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
 
Đề tài: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự, HOT
Đề tài: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự, HOTĐề tài: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự, HOT
Đề tài: Các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự, HOT
 
Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTBiện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Đề tài: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc tỉnh Phú Yên
Đề tài: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc tỉnh Phú YênĐề tài: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc tỉnh Phú Yên
Đề tài: Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc tỉnh Phú Yên
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Recently uploaded (20)

Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdfTiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
 
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
 
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
 
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt NamNhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
 
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
 
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp haiBài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
 
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
 
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
 
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌCTIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Kết hợp giáo dục pháp luật, đạo đức cho người chưa thành niên

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HOÀI THU KẾT HỢP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT, GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN Ở NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HOÀI THU KẾT HỢP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT, GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN Ở NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. Đào Trí Úc Hà Nội – 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin đảm bảo những thông tin trong luận văn là trung thực không sao chép từ bất kỳ công trình nào khác. Được sự hướng dẫn của GS.TSKH Đào Trí Úc và đọc các tài liệu tham khảo để hoàn thành công trình này. Tôi đã hoàn thành tất cả các khoản học phí theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Kính mong khoa Luật tạo điều kiện để tôi được bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Hoài Thu
  • 4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ MỞ ĐẦU ................................................................................................................1 Chương 1: PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC VỚI NHU CẦU GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN Ở VIỆT NAM.....................................................................................................................10 1.1. Sự liên hệ giữa pháp luật và đạo đức- cơ sở cho việc xây dựng hành vi xã hội của người chưa thành niên.....................................................................................10 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của người chưa thành niên ......................................10 1.1.2. Mối liên hệ giữa pháp luật và đạo đức..........................................................17 1.1.3 Mục đích cung cấp tri thức, hình thành kỹ năng pháp luật, quyền con người cho người chưa thành niên.....................................................................................32 1.1.4 Yêu cầu về sự kết hợp giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật cho người chưa thành niên..............................................................................................................33 1.1.5 Các chuẩn giá trị pháp luật và đạo đức đối với quá trình hình thành hành vi xã hội của người chưa thành niên...............................................................................39 1.2. Các hình thức kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên..............................................................................................................46 1.2.1. Thông qua chương trình giáo dục công dân ở nhà trường.............................46 1.2.2. Thông qua sách, báo, phương tiện truyền thông, games ...............................50 1.2.3. Thông qua các chương trình kể chuyện về đạo đức và thi tìm hiểu những câu chuyện hay về đạo đức và pháp luật.......................................................................53 1.2.4. Thông qua việc xét xử của tòa án từ các vụ án cụ thể...................................53 1.2.5. Thông qua hành động thực tiễn của người lớn trong đời sống hàng ngày.....55 Chương 2: THỰC TRẠNG KẾT HỢP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN Ở NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY............58
  • 5. 2.1. Thực trạng về người chưa thành niên và sự hiểu biết pháp luật của người chưa thành niên..............................................................................................................58 2.1.1. Thực trạng về người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay.................58 2.1.2 Thực trạng về sự hiểu biết pháp luật của người chưa thành niên hiện nay .....61 2.2 Thực trạng của việc kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở nước ta......................................................................................69 2.2.1. Thực trạng về chủ thể thực hiện công tác kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay................................69 2.2.2 Thực trạng về nội dung kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay hiện nay............................................73 2.2.3. Thực trạng về phương pháp kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay hiện nay .....................................78 2.2.4. Thực trạng GDPL, GDĐĐ thông qua các hình thức giáo dục.......................81 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KẾT HỢP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.........................................................................85 3.1 Giải pháp chung...............................................................................................85 3.1.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật dựa trên nền tảng các quan điểm, chuẩn mực đạo đức xã hội .....................................................................................85 3.1.2. Nâng cao nhận thức về vai trò của pháp luật, đạo đức cũng như mối quan hệ giữa chúng trong giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức cho NCTN........................87 3.1.3. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý bảo đảm kết hợp GDPL, GDĐĐ cho NCTN.................................................................................................88 3.1.4. Đổi mới, đa dạng hóa các hình thức giáo dục pháp luật, coi trọng giáo dục đạo đức..................................................................................................................90 3.1.5. Tăng cường công tác đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức; coi trọng khía cạnh giáo dục cải tạo khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước đối với NCTN ........................................................................................94 3.2 Giải pháp cụ thể...............................................................................................95
  • 6. 3.2.1. Tăng cường vai trò của gia đình với ý nghĩa là rào cản của hiện tượng vi phạm pháp luật của người chưa thành niên............................................................95 3.2.2. Tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình, và xã hội trong việc giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật cho người chưa thành niên ..................................97 3.2.3. Nâng cao hiệu quả kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức trong nhà trường....................................................................................................................99 3.2.4. Thiết chặt quản lý trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư...............102 KẾT LUẬN CHUNG..........................................................................................106 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................108 Phụ lục
  • 7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Bộ LĐ – TB&XH Bộ Lao động – Thương binh & xã hội ĐĐ Đạo đức GDĐĐ Giáo dục đạo đức GDPL Giáo dục pháp luật NCTN Người chưa thành niên PL Pháp luật VPHC Vi phạm hành chính VPPL Vi phạm pháp luật
  • 8. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang Biểu đồ 2.1: Biểu đồ nhận thức của NCTN về các hành vi vi phạm PL và ĐĐ 64 Biểu đồ 2.2: Biểu đồ các hành vi vi phạm pháp luật và đạo đức của NCTN 66 Biểu đồ 2.3: Biểu đồ đánh giá của NCTN về sự phối hợp của các chủ thể trong GDPL, GDĐĐ 73 Biểu đồ 2.4: Biểu đồ đánh giá của NCTN về mức độ triển khai các nội dung GDPL, GDĐĐ 74 Biểu đồ 2.5: Biểu đồ các phương pháp GDPL,GDĐĐ 79 Biểu đồ 2.6: Biểu đồ hình thức GDPL 83
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, thế hệ trẻ Việt Nam đã và đang có những cống hiến thiết thực cho đất nước, bởi lẽ, những người trẻ là những người hăng hái, nhiệt tình đi đầu trên mọi mặt trận: học tập, lao động, sản xuất… Họ xứng đáng là thế hệ kế tục sự nghiệp vĩ đại của ông cha ta. Chuyển sang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, việc tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật (GDPL) đã trở nên cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, pháp luật dù hoàn thiện đến đâu cũng không thể điều chỉnh hết mọi quan hệ xã hội. Do đó, ý thức tự giác chấp hành pháp luật của mỗi người dựa trên lòng tự trọng, danh dự, phẩm giá, lương tâm - biểu hiện tập trung của một nhân cách đạo đức là những yếu tố điều chỉnh xã hội không gì có thể thay thế được. Vì vậy mà giáo dục pháp luật (GDPL) và giáo dục đạo đức (GDĐĐ) phải song hành đồng thời phải có sự kết hợp với nhau là vấn đề hết sức cần thiết trong tổ chức quản lý xã hội cũng như trong hoạt động giáo dục. Hiện nay, vẫn còn một bộ phận thanh thiếu niên có những biểu hiện không lành mạnh trong cuộc sống, vi phạm pháp luật, phạm tội. Vì vậy, đối với người chưa thành niên, yêu cầu đặt ra đối với toàn xã hội đó là làm thế nào để giảm tối đa các hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội của thanh thiếu niên. Điều đó cần thiết phải có sự kết hợp giữa giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho thanh thiếu niên, nhất là người chưa thành niên trong giai đoạn hiện nay. Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ cấu kinh tế thị trường, tình hình đời sống xã hội nước ta diễn biến rất phức tạp, tình trạng vi phạm pháp luật đặc biệt là tình trạng phạm tội ngày càng gia tăng đáng báo động. Mặc dù các cơ quan chức năng đã có nhiều biện pháp tích cực để nâng cao hiệu quả phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm , song hoạt động của bọn tội phạm vẫn diễn ra hết sức phức tạp không chỉ về số lượng các vụ phạm tội tăng lên mà mức độ phạm tội ngày càng nguy hiểm và hậu quả do chúng gây ra đối cho xã hội hết sức nặng nề. Hậu quả do bọn tội phạm gây ra không những xác định bằng sự thiệt hại về người, thiệt hại về vật chất mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến các thành viên khác
  • 10. 2 trong xã hội đặc biệt là thế hệ trẻ. Tình hình vi phạm pháp luật của người chưa thành niên ở nước ta ngày càng nhiều, số lượng người chưa thành niên phạm tội ở mức ngày càng cao, quy mô cũng như tính chất, mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng, nguy hiểm. Điều này cho thấy sự ảnh hưởng tiêu cực từ tội phạm đã tác động đến những người trẻ tuổi là thái độ coi thường pháp luật, coi thường tính mạng, nhân phẩm và tài sản của người khác. Đất nước ta ngày càng phát triển, chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng lên song nhược điểm lớn ở đây là vấn đề “người người bận rộn, nhà nhà bận rộn”, cha mẹ mải mê kiếm tiền, con cái thì ham chơi hơn ham học, không được sự quan tâm, chăm sóc của gia đình, nhà trường và toàn xã hội nhất là lứa tuổi chưa thành niên. Đây là lứa tuổi dễ bị tác động từ các yếu tố ngoại cảnh, độ tuổi này dễ bị chi phối từ các tác nhân bên ngoài, thích nổi trội, hay bị kích động, thích khám phá những cái mới nên rất cần có sự quan tâm chăm sóc, quản lý đặc biệt của người lớn, của toàn xã hội. Trong thời gian dài Đảng và nhà nước ta rất quan tâm, chú trọng đến việc giáo dục pháp luật ở lứa tuổi thanh thiếu niên, họ là nguồn trí tuệ cho cho xã hội tương lai và là thế hệ trẻ tiếp nối thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Chính vì vậy Đảng và nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách pháp luật để thực hiện, điển hình như: Ngày 7/12/1982, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành chỉ thị số 315/CT về việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật đã xác định: “Hình thức tuyên truyền cần phong phú, hấp dẫn, thích hợp với từng loại đối tượng”[7]. Cần sử dụng rộng rãi báo chí, phát thanh, truyền hình và các hình thức văn hoá, nghệ thuật khác để phổ biến pháp luật…Tiếp đó chỉ thị số 300/CT ngày 22/10/1987 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về một số công tác trước măt nhằm tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật đã yêu cầu. Tiếp đó trong Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 07/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay và Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch triển khai
  • 11. 3 công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật. QĐ số 13/2003/QĐ-TTg ngày 17/01/2003 phê duyệt chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2003 đến năm 2007; NQ 61/2007/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 7/12/2007, phổ biến giáo dục pháp luật là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngày 12/03/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phổ biến giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012 trong đó mục tiêu đề ra: Tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, đổi mới phương thức tổ chức thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao chất lượng nguồn nhân lựclàm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,..., tổ chức có hiệu quả công tác phổ biến giáo dục pháp luật trên toàn quốc…” [51]. Đặc biệt những năm gần đây Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số 1928/QĐ-TTg ngày 20 tháng 11 năm 2009 về việc phê duyệt đề án “ Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường” và mới đây Thủ tướng đã ký Quyết định số 1141/QĐ-BĐHĐA ban hành kế hoạch thực hiện Đề án nói trên giai đoạn 2013-2016. Gần đây nhất ngày 20/06/2012 tại kì họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII đã thông qua luật số 14/2012/QH13 của Quốc hội: LUẬT PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT với năm chương, 41 Điều, với những quy định chung về phổ biến và giáo dục pháp luật; các nguyên tắc quản lý về phổ biến và giáo dục pháp luật; nội dung và hình thức phổ biến và giáo dục pháp luật; cũng như trách nhiệm phổ biến và giáo dục pháp luật cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; và các điều kiện đảm bảo cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Điều đó cho thấy sự nỗ lực của Chính phủ ta quyết tâm thực hiện việc giáo dục, phổ biến pháp luật trong nhà trường một cách sâu rộng, toàn diện, phối kết hợp giáo dục pháp luật trong chương trình chính khóa với các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và giáo dục ngoại khóa ở tất cả các cấp học từ Phổ thông cơ sở đến Phổ
  • 12. 4 thông trung học rồi đến trung cấp, cao đẳng và đại học với mục đích tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật và hành vi nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật ở lứa tuổi chưa thành niên và cả lứa tuổi đã thành niên. Trên thực tế công tác giáo dục môn học đạo đức, giáo dục công dân trong các trường phổ thông đã và đang tiến hành thường xuyên ở các cấp học song hiệu quả mà các môn học này mang lại cho xã hội còn rất kém. Cụ thể tình trạng học sinh vi phạm pháp luật ngày càng nhiều ở các lĩnh vực giao thông, trận tự an toàn xã hội…. và rất đáng lên án là tình trạng học sinh nữ đánh nhau chỉ vì những lý do rất đơn giản xảy ra ở nhiều nơi trên cả nước, đồng thời với hành vi không đẹp ấy là một bộ phận học sinh đứng ngoài không can ngăn mà lại cổ vũ, khuyến khích, tệ hại hơn nữa một số em còn quay video qua điện thoại để tung lên mạng. Điều này cho thấy ý thức pháp luật của học sinh quá kém và sự xuống cấp thê thảm về đạo đức ở một bộ phận không nhỏ học sinh phổ thông hiện nay. Tình trạng vi phạm pháp luật hình sự diễn ra ở độ tuổi chưa thành niên ngày càng diễn biến phức tạp. Nếu như trước đây các em phạm tội do suy nghĩ bột phát, ngây thơ thì hiện nay mức độ phạm tội của người chưa thành niên ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn, các em phạm tội có tổ chức, băng nhóm, sử dụng nhiều loại phương tiện, công cụ nguy hiểm gây hậu quả nghiêm trọng về người và tài sản. Một vấn đề báo động và là câu hỏi đặt ra cho toàn xã hội hiện nay, đó là tại sao tính “hăng máu”, tính “ anh hùng rơm” và tình trạng “ bạo lực học đường” đang diễn ra gây nhức nhối cho toàn xã hội đến như vậy. Chỉ có câu trả lời duy nhất là sự xuống cấp về đạo đức và sự kém hiểu biết về pháp luật trong việc hình thành nhân cách của người chưa thành niên mà hệ quả của sự việc này là kết quả của nền giáo dục từ gia đình, từ nhà trường và toàn xã hội trong thời gian dài. Để góp phần giải quyết vấn đề trên, việc làm sáng tỏ tình hình tội phạm của người chưa thành niên, phát hiện những quy luật chi phối sự vận động của hiện tượng xã hội này, đồng thời tìm hiểu, đánh giá được mặt tích cực, các mặt hạn chế của công tác giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức sẽ cho phép nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.
  • 13. 5 Như vậy, cần thiết phải tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức và pháp luật cho lứa tuổi chưa thành niên, đặc biệt là học sinh phổ thông và đề xuất giải pháp để nâng cao hiệu quả của việc kết hợp hai loại hình giáo dục này trong thực tiễn đang là yêu cầu bức xúc hiện nay. Từ những điểm phân tích trên đây, tác giả thấy rằng việc nghiên cứu đề tài: “Kết hợp giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay” trên cơ sở lý luận và thực tiễn là hết sức cần thiết, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của toàn xã hội. 2. Tình hình nghiên cứu Về phương diện lý luận, từ trước đến nay, mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức đã thu hút được sự quan tâm của cả Luật học và Đạo đức học. Điều này được phản ánh trong các tác phẩm lý luận về pháp luật và đạo đức như Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Khoa Luật trường Đại học Tổng hợp, năm 1993; Giáo trình Đạo đức học của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2000, đều có những mục xem xét mối quan hệ này. Nội dung của những mục tiêu này tuy không nhiều nhưng đã đưa ra được những định hướng bước đầu rất có ý nghĩa cho việc nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức. Ở góc độ nghiên cứu cụ thể,trong thời gian qua phải kể đến một số công trình tiêu biểu như Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển ở Việt Nam của các tác giả Vũ Khiêu và Thành Duy, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2000, các tác giả đã giới thiệu mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức qua các giai đoạn lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này… Đặc biệt phải kể đến ở đây là loạt công trình nghiên cứu chuyên sâu của GS.TS Hoàng Thị Kim Quế về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức như: Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hệ thống điều chỉnh xã hội - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 7/ 1999; Trần Minh Đoàn (2001), Giáo dục đạo đức cho thanh niên, học sinh theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; Nguyễn Đình Đặng Lục (2008), Giáo dục pháp luật trong nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội; Nguyễn Thúy Hoa (2005), Kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật, Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; Một số suy nghĩ
  • 14. 6 về trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm đạo đức- Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2000; Xu hướng vận động, phát triển của pháp luật và đạo đức ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử - Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 7, 8 /2002…là những bài viết có giá trị. Bên cạnh đó, phải kể đến một số công trình đáng chú ý khác như: Bàn về giáo dục pháp luật của TS. Trần Ngọc Đường, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; Tìm hiểu về mối liên hệ giữa đạo đức và pháp luật của Luật gia Lê Quang Thưởng; Đạo đức truyền thống của dân tộc là môi trường thuận lợi của việc thực hiện pháp luật của Luật gia Phạm Văn Tỉnh; Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội của tác giả Lương Hồng Quang, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003…. Người chưa thành niên là đối tượng nghiên cứu của rất nhiều tác giả, trong lĩnh vực luật học, có nhiều luật gia nghiên cứu, có thể kể đến các sách: Phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội, Nhà xuất bản pháp lý Hà Nội, 1987 do Phó Tiến sĩ Vũ Đức Khiển làm chủ biên. Tác giả đề cập đến vấn đề NCTN, vấn đề phạm tội của NCTN để từ đó đưa ra một số giải pháp thiết thực. Tư pháp với người chưa thành niên và quyền trẻ em, 1996, NXB Chính trị quốc gia, của Vũ Ngọc Bình bàn đến vấn đề tư pháp đối với NCTN và có đề cập đến quyền trẻ em, từ đó đưa ra cách nhìn về xử lý trên khía cạnh luật pháp đối với đối tượng này. Ngoài ra còn rất nhiều bài viết về vấn đề này như: Trách nhiệm hình sự của cha mẹ trong Pháp lệnh bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của tác giả Vũ Kim đăng trên tập san của Tòa án nhân dân, số 6/1980; Vai trò của Tòa án nhân dân trong việc ngăn ngừa vị thanh niên phạm tội, tác giả Đặng Quang Phương, đăng trên tập san của Tòa án nhân dân, số 5/1982. Về tâm lý xã hội đối với tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật của người chưa thành niên và việc tổ chức phòng ngừa các tội phạm đó của tác giả Đào Trí Úc (1989), Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật của GS.TSKH Đào Trí Úc (đề tài KX - 07 - 17)... Những kết quả nghiên cứu của các tác giả trên là nguồn tài liệu quý để tác giả luận văn triển khai đề tài của mình theo cách tiếp cận riêng. Đó là việc phân tich sự liên hệ giữa pháp luật và đạo đức- cơ sở cho việc xây dựng hành vi xã hội
  • 15. 7 của người chưa thành niên, từ đó đưa ra các hình thức kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên. Trên cơ sở phân tích, khảo sát thực trạng của việc kết hợp giáo dục pháp luật và đạo đức cho người chưa thành niên ở nước ta để đưa ra các giải pháp thiết thực. 3. Mục đích, nhiệm vụ và ý nghĩa của luận văn - Mục đích của luận văn: Nghiên cứu về việc kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay để giải quyết việc thay đổi phương pháp giáo dục pháp luật bằng việc giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho đối tượng là những người chưa thành niên. Từ đó đi đến nghiên cứu đồng bộ hệ thống chương trình giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay. - Nhiệm vụ của luận văn: Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau đây: - Thứ nhất, phân tích được cơ sở lý luận của sự liên hệ giữa pháp luật và đạo đức- cơ sở cho việc xây dựng hành vi xã hội của người chưa thành niên. - Thứ hai, phân tích thực trạng của việc kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay. -Thứ ba, đề xuất một số phương hướng và giải pháp tăng cường kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn ở mức độ nhất định có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, góp thêm cơ sở cho việc hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước để phát huy việc giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay. Luận văn đóng góp một hướng giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên chứ không chỉ đơn thuần là giáo dục pháp luật cho đối tượng này hiện nay vẫn đang thực hiện. Luận văn còn góp phần nâng cao nhận thức và phương hướng cho các cơ quan nhà nước trong việc giáo dục pháp luật và đạo
  • 16. 8 đức cho người chưa thành niên. Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích đối với cán bộ, giáo viên, giảng viên làm công tác giáo dục pháp luật. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Với đề tài này tác giả tập trung tìm hiểu chuẩn giá trị pháp luật và đạo đức và việc kết hợp giữa hai giá trị ấy vào việc giáo dục nhân cách, phẩm chất, biết tuân thủ pháp luật cho người chưa thành niên. Từ đó hình thành hành vi xã hội của người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay. Đề tài nghiên cứu tình hình giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên trên cả nước và tìm hiểu, phân tích thực trạng công tác giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên hiện nay ở nước Việt Nam hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tham khảo nguồn số liệu của Tòa án nhân dân tối cao, Cục cảnh sát điều tra tội phạm xã hội…Ngoài ra, đề tài giới hạn ở việc khảo sát tình hình giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở một số trường THCS, PTTH ở Hà Nội để làm rõ thực trạng công tác giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên việc vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể là phân tích, đối chiếu, so sánh, thống kê, tổng hợp, phương pháp điều tra xã hội học; phương pháp phân tích quy phạm cũng được tác giả vận dụng để phân tích quan điểm của Đảng và pháp luật của nước ta về hoạt động phổ biến pháp luật nói chung. 6. Những điểm mới của luận văn Đề tài “Kết hợp giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay” mà tác giả lựa chọn có tính mới so với các đề tài nghiên cứu về giáo dục pháp luật đã được hoàn thành ở chỗ:
  • 17. 9 - Luận văn nghiên cứu và phân tích chi tiết đặc điểm của người chưa thành niên ở nước ta. - Luận văn nghiên cứu, tìm hiểu việc kết hợp giữa giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho đối tượng là người chưa thành niên chứ không dừng lại ở việc giáo dục, phổ biến pháp luật như các đề tài khác. - Luận văn đóng góp việc giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên không chỉ về phương diện lý luận mà còn cần phải áp dụng việc giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên về mặt thực tiễn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương. Chương 1: Pháp luật và đạo đức với nhu cầu giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở Việt Nam Chương 2: Thực trạng của việc kết hợp giáo dục pháp luật và đạo đức cho người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường kết hợp giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay
  • 18. 10 Chương 1 PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC VỚI NHU CẦU GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN Ở VIỆT NAM 1.1. Sự liên hệ giữa pháp luật và đạo đức- cơ sở cho việc xây dựng hành vi xã hội của người chưa thành niên 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của người chưa thành niên * Khái niệm người chưa thành niên: Khái niệm NCTN là một khái niệm được sử dụng nhiều trong các văn bản pháp luật. Bên cạnh khái niệm này, chúng ta cũng thường xuyên sử dụng khái niệm trẻ “vị thành niên” hay “trẻ em”...Tuy nhiên, khái niệm NCTN được đề cập đến trong một số văn bản sau: Theo Từ điển Tiếng việt, thì “thành niên” là đến tuổi được pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ quyền và nghĩa vụ, “vị thành niên” là chưa đến tuổi được pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ quyền và nghĩa vụ [35, tr17]. Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn” [59, Điều 1]. Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến Pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể. Như vậy, qua sự phân tích các quan điểm nêu trên, có thể xác định độ tuổi NCTN là những người dưới 18 tuổi. Bao gồm tất cả trẻ em (những người chưa đủ 16 tuổi) và vị thành niên (những người trong độ tuổi từ 12 đến dưới 18 tuổi). Trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ nghiện cứu lứa tuổi vị thành niên ở độ tuổi từ 12 tuổi
  • 19. 11 đến dưới 18 tuổi. Đó là những người chưa trưởng thành (đang phát triển) về thể chất, thần kinh – tâm lý và xã hội. Trong thực tiễn đời sống mọi người đều hiểu rằng: người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất lẫn tinh thần nên họ chưa có khả năng nhận thức, kiểm soát được suy nghĩ, hành vi của mình, họ dễ bị tác động từ các yếu tố bên ngoài và thực hiện hành vi một cách nông nổi, thiếu chín chắn. Từ những quy định và sự phân tích trên đây, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên. Có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có khả năng nhận thức, kiểm soát được hành vi của mình chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên. * Đặc điểm của người chưa thành niên: Dưới góc độ tâm lý học, con người trải qua các giai đoạn lứa tuổi khác nhau, trong đó mỗi giai đoạn có đặc điểm tâm sinh lý riêng, đặc trưng cùng với tác động bên ngoài làm hình thành những hành vi ứng xử khác nhau. Giai đoạn chưa thành niên là giai đoạn quan trọng trong quá trình phát triển và hoàn thiện nhân cách của con người. Nghiên cứu NCTN qua các đặc điểm tâm sinh lý giúp chúng ta lý giải được cơ sở khoa học của những quy định pháp luật nói chung và pháp lệnh xử lý vi phạm đối với người NCTN nói riêng. Những đặc điểm của NCTN được biểu hiện cụ thể: Trong phạm vi đề tài, tác giả đi tìm hiểu NCTN gồm những người ở độ tuổi từ 12 đến dưới 18 tuổi. Với NCTN ở giai đoạn này họ cần có thời gian để chuẩn bị về mọi mặt để chuyển sang một giai đoạn mới: giai đoạn trưởng thành (giai đoạn lớn lên về cơ thể, mở rộng các quan hệ xã hội, tích lũy tri thức, phương thức hoạt động...). Tuổi của NCTN cũng có thể gọi là “thời kỳ quá độ” (chưa phải là người lớn cũng không còn là trẻ con), “tuổi khủng hoảng” (cả về tâm lý lẫn sinh lý), “tuổi khó bảo”, “tuổi bất trị”...những nguyên nhân của cách gọi trên xuất phát từ đặc điểm sau:
  • 20. 12 Thứ nhất, đặc điểm sinh lý. Thời kỳ này, cơ thể phát triển mạnh mẽ những chưa đồng đều, biểu hiện bên ngoài là các em lớn lên trông thấy. Tùy thuộc vào độ tuổi, ngay trong cùng một giai đoạn mà sự phát triển giữa nam và nữ là khác nhau, các em nữ phát triển cao hơn nam về hình dáng ở độ tuổi 14 – 15. Tuy nhiên, các em lại có chung những đặc điểm chung của lứa tuổi. Nhóm tuổi chưa thành niên là nhóm tuổi có sự thay đổi mạnh mẽ nhất về thể chất trong cuộc đời mỗi người. Trên bình diện y sinh học nó là giai đoạn chuyển biến từ đứa trẻ non nớt thành một người lớn khỏe mạnh. Cấu tạo hệ thần kinh có những thay đổi rất nhiều và chức năng của hệ thần kinh phức tạp hơn. Hệ tim mạch phát triển mạnh làm cho các em đôi khi có cảm giác mệt mỏi, chóng mặt dẫn đến hiện tượng dễ bị kích động, dễ nổi nóng. “Tuyến nội tiết hoạt động mạnh, đặc biệt là tuyến sinh dục và tuyến giáp gây ra sự mất cân bằng tạm thời trong hoạt động của hệ thần kinh trung ương”[48, tr.35], điều đó lý giải vì sao một số em hay bị xúc động mạnh, một số em khác nóng nảy vô cớ hoặc có hành vi bất thường không làm chủ được bản thân. Một đặc điểm sinh lý nữa của NCTN đó là sự phát dục, điều này làm xuất hiện ở các em những nhu cầu mới như nhu cầu giao tiếp với bạn bè, đặc biệt là bạn bè khác giới. Các em trưởng thành hơn về mặt cơ thể, nhưng nhận thức vẫn còn hạn chế. Thứ hai, về đặc điểm tâm lý. NCTN đã bắt đầu hình thành sự “tự ý thức ” về mình, các em thường đặt ra câu hỏi: mình đang làm gì? Mình như thế nào? Những ai quan tâm đến mình?...quá trình này diễn ra dần dần với những diễn biến tâm lý phức tạp, dễ xúc động, chợt vui, chợt buồn, tình cảm bồng bột, hoạt động thần kinh không cân bằng, do đó khiến các em không tự kiềm chế được bản thân khi gặp tình huống bất ngờ. Các nhà tâm lý học đã nói nhiều về sự đa dạng, phức tạp trong tình cảm, tâm lý của các em. Lúc này trẻ mang đầy tính năng động, mang nhiều mơ ước và khát vọng nói chung song có nhiều em gái mang trong mình tâm lý trầm tư, u uất, khép mình vào thế giới nội tâm trong khi đó nhiều ban trai tỏ thái độ ngang bướng, thậm chí phá phách, muốn khẳng định mình. Do vậy, có thể nói rằng , độ tuổi chưa thành niên là giai đoạn có nhiều biến động nhất trong sự hình thành các giá trị đạo đức, lối sống và nhân cách của mỗi người. “Tuổi vị thành niên là thời gắn liền với các xung đột và xáo trộn tâm trạng. Những suy
  • 21. 13 nghĩ, cảm xúc của NCTN thường dao động giữa tính kiêu ngạo và tính tự ti, giữa sự điềm tĩnh và sự nóng nảy, giữa niềm hạnh phúc và nỗi đau buồn” [18, tr.7- 8]. Do có thể tự ý thức về bản thân mình, các em đôi khi có những thái độ khó chịu với sự thay đổi về tâm sinh lý. Các em biết những việc nào thì được phép làm, những việc nào không nhưng đôi khi vẫn làm theo cách của mình với những lý do rất riêng. Do đó, khi mắc lỗi, thay vì nhìn nhận thẳng vào vấn đề, một số em lại cố che giấu, cử chỉ bên ngoài thiếu tự nhiên, các em muốn bộc lộ cá tính, tự khẳng định mình, muốn nhanh chóng được trở thành người lớn và cố gắng đối xử như người lớn, song nhận thức về xã hội, đạo đức, đặc biệt là pháp luật còn nhiều hạn chế. Từ sự thay đổi về thể chất và tinh thần dẫn đến việc biến đổi mạnh mẽ trong hành vi ở nhóm tuổi chưa thành niên. Rất nhiều hành vi của nhóm tuổi chưa thành niên luôn khó hiểu và không lường trước được đối với những thế hệ khác đặc biệt là người lớn tuổi. Các em hành động một cách bột phát mà không cần cân nhắc, tính toán chín chắn. Các em đã biết nhìn nhận về bản thân và mong muốn tạo cho mình uy tín, sự mến phục trong con mắt bạn bè, đặc biệt là bạn khác giới. Trẻ chưa thành niên có thể là những người vị tha, độ lượng, có thể hy sinh thân mình để làm những điều tốt đẹp nhưng cũng có thể ngay sau đó lại bị lôi kéo vào những hành vi xấu mà không nhận biết được. Các em cũng dễ bị lây nhiễm vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, trộm cắp, đánh nhau khi ở vào tuổi này mà đến khi trưởng thành đã không thể dễ dàng từ bỏ những tệ nạn đó. NCTN cần có sự quan tâm, chăm sóc của cha mẹ bởi những khó khăn, rắc rối về mặt tâm sinh lý là không tránh khỏi. Cha mẹ phải là người hiểu rõ điều đó và cần có sự quan tâm đúng mức, sao cho các em vẫn phát huy được tính độc lập của mình nhưng cũng không tách rời sự quản lý cần thiết và chặt chẽ của cha mẹ. Phần lớn NCTN sống phụ thuộc vào gia đình, trong mối quan hệ với gia đình, cụ thể là đối với cha mẹ, sự hiểu biết tâm sinh lý đối với NCTN là rất quan trọng. Tuy nhiên, sự hiểu biết này mới dừng lại ở những thay đổi bên ngoài, còn những thay đổi tâm sinh lý bên trong cha mẹ ít quan tâm hơn. Do đó, khi ý thức của NCTN lệch lạc dẫn đến vi phạm pháp luật, cha mẹ lại nghĩ nguyên nhân chính do bản thân chúng gây ra, rất nhiều trong số các em bị cha mẹ bỏ mặc và không quan
  • 22. 14 tâm. Khi thiếu vắng tình cảm của cha mẹ, NCTN còn tìm sự an ủi ở họ hàng, gia đình và bạn bè, tuy nhiên điều đó không thể thay thế bằng tình cảm thân yêu của cha mẹ, khi đó các em nhanh chóng tìm đến sự giải tỏa tâm lý bằng những hành động nông nổi, bồng bột. NCTN VPPL là những người có hành vi vi phạm các quy định của pháp luật ở các mức độ khác nhau từ vi phạm hành chính cho đến vi phạm pháp luật hình sự. Tuy nhiên, khi NCTN từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi mà phạm tội quy định trong Bộ luật hình sự thì họ chỉ chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng theo điều 12 Bộ luật hình sự 1999. NCTN VPPL thường có những đặc điểm tâm lý về nhận thức và tính cách như sau: Lệch lạc trong nhận thức về hành vi vi phạm như: Nói giảm nhẹ hành vi vi phạm của mình để người nghe có thể chấp nhận được; Chối bỏ trách nhiệm về hành vi của mình; Có niềm tin sở hữu khi cho rằng mình có quyền đối với tài sản của người khác; Cho rằng mình có quyền gây tổn thương cho người khác; Đổ lỗi cho nạn nhân. Đặc điểm tính tiêu cực ở người chưa thành niên vi phạm pháp luật như: Không vâng lời, bướng bỉnh, có xu hướng chống đối các biện pháp giáo dục; Vô kỷ luật, dối trá, xấc xược, hung tính, dễ manh động; Lười biếng thiếu quyết tâm, thiếu trách nhiệm đối với bản thân và người khác; A dua, bắt chước; Thất vọng ở bản thân; Có xu hướng xung đột nội tâm và mâu thuẫn trong hành vi; Thiếu kiềm chế, xúc cảm thất thường;... Khi NCTN bị người thân bỏ rơi, thiếu nâng đỡ tinh thần hoặc bị bạo lực, chửi rủa, xỉ vả và xúc phạm liên tục, hoặc thường xuyên sống trong lo sợ, căng thẳng,...họ dễ bị tổn thương tâm lý. Đôi khi để giải tỏa trạng thái tâm lý tiêu cực trong gia đình, họ có những phản ứng chống trả quyết liệt như: bỏ học; bỏ nhà đi lang thang; sử dụng các chất kích thích; hoặc gây ra những hành vi rối loạn xã hội như gây hấn với người khác, phá hoại tài sản, trộm cắp; thậm chí tự hủy hoại bản thân mình như tự hành xác, tự tử.
  • 23. 15 NCTN vi phạm pháp luật là một hiện tượng xã hội vô cùng phức tạp và nguyên nhân của hiện tượng này cũng vô cùng đa dạng. Nhìn từ góc độ bản thân người NCTN thì mỗi người lại có những hành động vi phạm pháp luật dưới sự chi phối của những ý thức xã hội khác nhau. Những ý thức xã hội khác nhau ấy là những phản ứng của NCTN trước những biến động xã hội khi tác động vào bộ não của họ. NCTN có sự phát triển và thay đổi sinh lý khá nhanh chóng, nhưng lại có sự phát triển tâm lí và nhận thức xã hội tương đối chậm. Lúc này, gia đình, nhà trường, bạn bè và môi trường khách quan bên ngoài sẽ có tác động hai chiều đến sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức của họ. Nếu sự tác động là tích cực, phù hợp thì sự phát triển tâm lý, ý thức của NCTN sẽ theo hướng tích cực. Ngược lại, nếu sự tác động là tiêu cực, chưa phù hợp thì sự phát triển tâm lý, ý thức của NCTN sẽ theo hướng tiêu cực, và đây chính là mầm mống hình thành ý thức phạm tội của họ. Nghiên cứu này chủ yếu xem xét những ảnh hưởng từ môi trường bên ngoài dẫn đến tâm lý phạm tội của NCTN bao gồm: gia đình, nhà trường, xã hội và pháp luật. Do vậy, NCTN là giai đoạn phát triển đặc biệt quan trọng trong cả cuộc đời con người, mỗi người ở độ tuổi này thường có những thay đổi rõ nét về tâm sinh lý và hành vi. Hiểu được những đặc điểm mang tính đặc thù này là chìa khóa mở ra cánh cửa thành công cho công tác giáo dục NCTN. Nếu ở độ tuổi này NCTN có những hành vi vi phạm pháp luật, hình thành thế giới quan, nhân sinh quan không phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội thì rất có thể đến lứa tuổi trưởng thành họ sẽ là đại diện cho những thành phần bất kham trong xã hội. NCTN vẫn đang ở trong giai đoạn hình thành để đi đến tương đối ổn định về nhân sinh quan và thế giới quan vì thế mà những hành vi và quan điểm giá trị của họ có thể uốn nắn được. Đứng từ góc độ tâm lý học và sinh lý học có thể nhận thấy thanh thiếu niên về tâm lý vẫn chưa ổn định, về sinh lý vẫn chưa phát triển hoàn thiện. Sự mất cân bằng giữa phát triển sinh lý và nhận thức xã hội có ảnh hưởng quan trọng đến đặc điểm tâm lý, tình cảm, hành vi của NCTN trong giai đoạn này. Hệ thống thần kinh của các em vẫn ở trong trạng thái chưa ổn định. Nhận thức, tình cảm và ý chí của các em vẫn đang có những sự biến đổi mạnh mẽ, điều này khiến
  • 24. 16 cho các em khó kiểm soát tình cảm và hành vi của mình, các em thường dùng tình cảm nhất thời để giải quyết mọi việc, đồng thời cũng dễ bị ảnh hưởng của môi trường bên ngoài tác động. Điều kiện sống, sinh hoạt và học tập của NCTN đều đa phần phụ thuộc vào người lớn và sự bảo trợ của xã hội. Các em không có thu nhập ổn định, khả năng tự lập còn kém, sức chịu đựng tâm lý cũng còn kém cùng với đó là cảm xúc, tình cảm cũng chưa ổn định, đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thanh thiếu niên thường có tính dựa dẫm, mà chính sự dựa dẫm và phụ thuộc này khiến cho thanh thiếu niên trở thành những người dễ gặp phải những nguy cơ không tốt trong cuộc sống và cũng dễ bị tổn thương. Nếu không nhận được tình cảm từ gia đình, sự dạy dỗ từ thầy cô, sự yêu mến từ bạn bè và sự quan tâm từ xã hội thì các em khó có được tương lai tốt đẹp. Những hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội, sự mất công bằng trong giáo dục gia đình và nhà trường,… đều là những nhân tố có thể trở thành nguyên nhân dẫn đến việc NCTN đi theo những con đường xấu. NCTN nói riêng và bộ phận thanh thiếu niên nói chung chính là những chủ nhân tương lai của xã hội giúp duy trì và ổn định sự phát triển bền vững của xã hội. Đồng thời cũng chính bởi thanh thiếu niên là đại diện cho tương lai nên bản thân các em cũng có những quan điểm, suy nghĩ, việc làm không giống với chúng ta. Ở các em có những quan niệm mới, thói quen mới, tri thức mới, kỹ thuật mới mà người trưởng thành cho rằng khó chấp nhận và khó thực hiện được trong cuộc sống thì các em lại dễ dàng chấp nhận và dễ dàng theo đuổi. Các em dám bước qua những quan niệm truyền thống để tạo dựng cho thế hệ mình những nấc thang mới, xét trên khía cạnh này thì sự dũng cảm của thanh thiếu niên được đánh giá là cao hơn người trưởng thành. Nếu không có sự bứt phá trong tư duy và hành động của NCTN thì xã hội của chúng ta trong tương lai sẽ không thể phát triển hơn xã hội hiện tại. Nhưng trong thực tế những điều mới mẻ của NCTN lại dễ bị người lớn phủ nhận và bác bỏ, người lớn hay những người đang làm chủ cuộc sống hiện tại luôn mong muốn NCTN sẽ trưởng thành trong sự quản lý và bao bọc của họ, cũng như làm theo những điều mà họ đã đề ra, chấp hành những luật lệ mà họ đưa ra. Khi đứng trước những rào cản này một bộ phận NCTN trở nên cô độc, những hành động
  • 25. 17 bộc phát mang tính tiêu cực chính là những ví dụ điển hình cho việc chống lại những quy tắc gò bó. Do vậy, giúp cho thế hệ trẻ của chúng ta có cơ hội phát triển đúng đắn mà vẫn đảm bảo phát huy được những tư duy mới mẻ của trẻ cần kết hợp giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật, để cung cấp cho NTCN những kiến thức về đạo đức và pháp luật, những chuẩn giá trị về đạo đức, chuẩn giá trị về pháp luật nhằm ngăn chặn những hành vi lệch lạc của trẻ. 1.1.2. Mối liên hệ giữa pháp luật và đạo đức Điều chỉnh hành vi con người, xã hội có nhiều công cụ khác nhau, trong đó, pháp luật và đạo đức là công cụ quan trọng bậc nhất. Bên cạnh những ưu thế vốn có, cả pháp luật và đạo đức đều có những hạn chế nhất định. Song pháp luật và đạo đức có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại, bổ sung cho nhau. Do vậy, để quản lý xã hội có hiệu quả, cần phải có sự kết hợp giữa pháp luật và đạo đức. Để tìm hiểu mối liên hệ giữa đạo đức và pháp luật trước hết chúng ta cần tìm hiểu đạo đức, pháp luật và vai trò của đạo đức và pháp luật trong đời sống xã hội. *Đạo đức Đạo đức là khái niệm có lịch sử lâu đời ở phương Đông lẫn phương Tây. Nếu như ở phương Tây, đạo đức có gốc từ thuật ngữ dùng để chỉ tập quán, lề thói, những phương thức ứng xử được xã hội công nhận thì phương Đông, chữ “đạo đức” bắt nguồn từ “đạo” nghĩa là quy luật, con đường sống của con người và “đức” là biểu hiện của đạo, là nhân đức, là tình nghĩa con người. Đạo đức ghép lại là quy luật sống của con người theo nhân nghĩa, luân lý, là nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà con người phải tuân theo. Đạo đức là nguyên tắc của cả cộng đồng. Cá nhân tuân theo những nguyên tắc ấy là hoàn toàn tự nguyện, tự giác. Đây là một đặc trưng của đạo đức và là sức mạnh của đạo đức khác hẳn với các quy tắc tôn giáo hay những quy phạm pháp luật"[17,tr.5]. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, “đạo đức là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [17, tr.8].
  • 26. 18 Theo đó đạo đức chính là công cụ để con người tự giác điều chỉnh mối quan hệ giữa người với người sao cho tránh khỏi những xung đột về lợi ích giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, bao gồm hệ thống những quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu của xã hội. Nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội. Như vậy đạo đức là cái tốt ở bên trong nhưng được đánh giá bằng biểu hiện ra bên ngoài. Đạo đức bên trong chi phối hành vi và lời nói bên ngoài. Một người có đạo đức thì những hành vi và lời nói bên ngoài họ luôn tử tế với mọi người, họ vị tha, chân thành, luôn quan tâm đến người khác nhưng bản thân mình luôn khiêm tốn, kín đáo, giản dị. Có thể thấy rằng đạo đức xuất hiện như là một nhu cầu tất yếu khách quan của lịch sử xã hội loài người. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức bao giờ cũng bị chi phối bởi điều kiện kinh tế xã hội, lịch sử. Còn với tư cách là hành vi của con người thì đạo đức luôn mang tính tự nguyện, tự giác, không chịu sự cưỡng ép và những chuẩn mực của đạo đức luôn khiến người ta thấy mình phải có bổn phận phải làm theo những chuẩn mực đó. Và hơn nữa những chuẩn mực đạo đức luôn phải phù hợp với mối tương quan giữa lợi ích chung của xã hội và lợi ích riêng của cá nhân trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng đạo đức còn được xem xét dưới tư cách một hệ thống những giá trị, hệ thống cấu thành nhân cách của cá nhân. Những phẩm chất như lòng nhân ái, tình yêu đất nước,... không chỉ bộc lộ qua ý thức của cá nhân mà chủ yếu được đánh giá qua hành động của cá nhân đó. Tóm lại, có thể khái niệm đạo đức như sau: Đạo đức một hệ thống những nguyên tắc, giá trị, chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi con người mang tính tự nguyện, tự giác trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội theo hướng giảm bớt và loại trừ những cái ác, cái tác hại đến con người.
  • 27. 19 Giáo dục đạo đức: GDĐĐ là hoạt động có tổ chức, có mục đích, có tính định hướng nhằm tác động lên các đối tượng giáo dục nhằm điều chỉnh hành vi con người mang tính tự nguyện, tự giác trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội theo hướng giảm bớt và loại trừ những cái ác, cái tác hại đến con người. Có thể khẳng định rằng đạo đức có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội. Nó là phương thức điều chỉnh hành vi con người theo hướng giảm bớt và loại trừ cái ác, cái có hại cho con người nên đạo đức không thể thiếu đối với sự tồn tại xã hội. Bởi lẽ, con người trong đời sống xã hội luôn cần có những nguyên tắc quy định hành vi để tránh những xung đột về lợi ích giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội. Đạo đức cũng được hiểu là một mặt của nhân cách, là tập hợp những phẩm chất đạo đức hay những giá trị đạo đức do cá nhân đó lĩnh hội và rèn luyện trong quá trình hoạt động sống, quá trình hình thành nhân cách của mình. Có thể nói , đạo đức là nền tảng của nhân cách con người. GDĐĐ có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách, lối sống. Đạo đức là những chuẩn mực để con người rèn luyện, tu dưỡng nhân cách; là những quan điểm, quan niệm, tư tưởng về đạo lý làm người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa” [32, tr.485]. Nhờ có đạo đức, mỗi người tự xác định được vị trí, vai trò của mình trong xã hội để từ đó có những hành vi, xử sự cho phù hợp với những chuẩn mực chung của xã hội, đảm bảo hài hòa lợi ích cá nhân trong mối quan hệ với lợi ích của cộng đồng. Đạo đức điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội từ giản đơn đến phức tạp, nhạy cảm, từ hẹp đến rộng, từ biểu hiện bằng hành vi cho đến những suy nghĩ, tư tưởng lẩn khuất bên trong mỗi người… Đây là những quan hệ xã hội mà pháp luật và các công cụ khác khó có thể can thiệp, thậm chí nhiều khi sự can thiệp của pháp luật chỉ đem đến kết quả ngược lại. GDĐĐ còn ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển tài năng. Tài năng của con người muốn phát triển phải dựa trên sự phát triển của nhân cách đạo đức. Không có được những phẩm chất, giá trị đạo đức làm nền tảng, tài năng sẽ rất khó phát triển hoặc phát triển một cách méo mó, lệch lạc, thậm chí còn có thể trở thành tội ác, phản đạo đức.
  • 28. 20 Khi mỗi người có được nhân cách đạo đức tốt, lối ứng xử đúng mực do GDĐĐ mang lại, thì đó là cơ sở cho tài năng phát triển. Một người có lòng yêu nước thiết tha, có lý tưởng, ước mơ, hoài bão lớn, sống hòa mình với mọi người, họ sẽ là người cần cù trong học tập, nghiên cứu khoa học, hăng hái trong lao động, nhiệt tình trong công tác, có nhiều đóng góp cho xã hội. GDĐĐ còn có vai trò quan trọng trong trường hợp pháp luật chưa hoàn thiện, còn nhiều chỗ trống. Bởi vì, nhờ có đạo đức, người ta sẽ biết kiềm chế, không lợi dụng khe hở của pháp luật để thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật hoặc hành vi tuy chưa phải là trái pháp luật (vì chưa có luật điều chỉnh) nhưng không phù hợp với những chuẩn mực đạo đức. *Pháp luật Khác với đạo đức, pháp luật cũng thuộc hình thái ý thức xã hội song pháp luật chỉ xuất hiện khi có những chủ thể quyền lực chính trị nhà nước.Pháp luật chỉ ra đời khi xã hội có giai cấp và nhà nước. Pháp luật là hệ thống chuẩn mực điều chỉnh hành vi con người, quy định trật tự xã hội nhưng pháp luật được ban hành bởi một nhà nước nhất định. Pháp luật mang tính cưỡng chế và được đảm bảo thi hành bởi nhà nước tạo ra nó. Như vậy: “pháp luật là hệ thống những quy tắc xử xự do nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và nhu cầu tồn tại xã hội, có tính bắt buộc chung và được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội”[50, tr.27]. Xã hội đi vào trật tự và phát triển là nhờ có pháp luật. Bởi vậy, pháp luật là công cụ để nhà nước quản lý xã hội một cách hiệu quả nhất. Ở nhà nước pháp quyền, vai trò của pháp luật trong xã hội được thể hiện rõ ràng nhất. Nhà nước pháp quyền đề cao tính tối thượng của pháp luật. Đây là nhà nước dân chủ và là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Bản chất của giáo dục pháp luật là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục thông qua các hình thức, phương pháp khác nhau tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống, thường xuyên nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm và niềm tin phù hợp với các đòi hỏi của quy định PL hiện hành. Vì vậy, giáo dục PL không phải là sự tác động đơn giản,
  • 29. 21 nhất thời mà là hoạt động có tổ chức với cấu trúc đồng bộ bao gồm chủ thể, khách thể, nguyên tắc, mục đích... Giáo dục PL là một hoạt động giáo dục vừa có tính chất khoa học (với tư cách là một nội dung khoa học), vừa có tính chất xã hội – nhân văn ( với tư cách là hoạt động gắn bó, gần gũi với chủ thể). Giáo dục PL là một nội dung của hoạt động sống của con người trong quá trình phát triển. Do vậy, việc hình thành những giá trị PL cho NCTN là nhu cầu tất yếu, là điều kiện bắt buộc của xã hội đối với cá thể khi họ gia nhập vào chỉnh thể xã hội. Như vậy, có thể hiểu: GDPL là hoạt động có tổ chức, có mục đích, có tính định hướng nhằm tác động lên các đối tượng giáo dục nhằm làm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật và hành vi xử sự phù hợp với pháp luật hiện hành. Biện pháp GDPL là cách thức cụ thể mà chủ thể giáo dục tác động đến đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ ý thức, thái độ, hành vi pháp luật đúng đắn, tạo ra nếp sống, thói quen – hành vi chấp hành pháp luật từ những yêu cầu cụ thể đến những nội dung các luật trong một thể chế, đích cuối cùng là hình thành một nhân cách có văn hóa pháp luật trong xã hội văn minh. GDPL góp phần hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng tri thức pháp luật của công dân. Tri thức pháp luật có vai trò quan trọng đối với việc hình thành tình cảm, lòng tin và thái độ đúng đắn đối với pháp luật. Tri thức pháp luật giúp con người đánh giá, kiểm tra, đối chiếu hành vi với các chuẩn mực pháp luật. Mục đích này đặc biệt quan trọng trong điều kiện nước ta hiện nay, khi hiểu biết pháp luật của công dân còn thấp, nhận thức về quyền và nghĩa vụ của công dân chưa đầy đủ. Đây cũng là yêu cầu của việc hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội bằng pháp luật, xây dựng một xã hội văn minh, công bằng, dân chủ, bình đẳng, kỷ cương và trật tự. Để phát huy vai trò của pháp luật trên thực tế, tạo lập mối quan hệ hài hòa giữa nhà nước và công dân, quyền dân chủ và tự do của công dân được tôn trọng và thực thi, bộ máy nhà nước được tổ chức và vận hành có hiệu quả thì điều kiện tiên quyết là phải có sự hiện diện của pháp luật ở mọi nơi; văn hóa pháp lý của công dân được nâng cao, nghĩa là phải tiến hành GDPL. GDPL là cầu nối quan trọng để đưa pháp luật vào đời sống bởi nếu pháp luật được ban hành dù tốt đến đâu chăng nữa
  • 30. 22 nhưng nếu không được triển khai thực hiện tới mọi người dân thông qua GDPL thì không thể phát huy được hiệu lực, hiệu quả. Nếu pháp luật là phương tiện chủ yếu nhà nước sử dụng để quản lý xã hội, phương tiện để công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì GDPL có vai trò quan trọng trong việc trợ giúp các cơ quan, cán bộ công chức và mọi công dân biết cách sử dụng đúng đắn pháp luật trong công việc cũng như trong cuộc sống hằng ngày. GDPL làm cho mỗi người ý thức sâu sắc quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình. Cùng với giáo dục chính trị, tư tưởng, GDĐĐ, GDPL tạo ra những khả năng và nhân tố thuận lợi cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thông qua việc củng cố ở những người làm công tác quản lý, ở mọi công dân những phẩm chất tích cực trong ý thức cũng như hành vi pháp lý, tạo ra ở họ khả năng phản ứng và không đồng tình, không tiếp nhận các hành vi tiêu cực, chống đối pháp luật. Vì vậy, trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền thì GDPL càng có ý nghĩa quan trọng. Đối với thế hệ trẻ, nhất là đối với NCTN, GDPL được tiến hành sớm sẽ giúp họ có những nhận thức cơ bản về pháp luật, nâng cao khả năng tư duy pháp lý, tránh được hành động bột phát, gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. GDPL cho NCTN là biện pháp tích cực để phòng ngừa, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật ở người chưa thành niên. GDPL được tiến hành thường xuyên sẽ làm cho chủ thể có ý thức pháp luật cao trong hành động và có suy nghĩ chín chắn hơn trước khi hành động. GDPL hình thành niềm tin vào đối tượng GDPL, bởi lẽ, việc thực thi PL một cách nghiêm chỉnh không chỉ phụ thuộc vào sự đe dọa, cưỡng chế mà còn phụ thuộc vào sự giáo dục, phụ thuộc vào sự nhận thức vị trí, vai trò của PL trong đời sống xã hội, từ đó tạo ra ý thức, động cơ đúng đắn trong thực hiện PL và đấu tranh với những hành vi vi phạm PL. GDPL cung cấp cho mọi người dân trong xã hội biết quyền và nghĩa vụ của mình, từ việc tuân thủ đến việc nghiêm chỉnh chấp hành các quy định PL, về những việc PL quy định được phép làm và những việc PL không cho phép làm hoặc nghiêm cấm, về cách thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. GDPL chính
  • 31. 23 là sự hỗ trợ tích cực đối với NCTN để họ nhận thức và điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với PL. * Mối liên hệ giữa pháp luật và đạo đức Về lý luận cũng như thực tiễn, GDPL, GDĐĐ luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Điều đó được quy định khách quan bởi mối quan hệ hữu cơ giữa pháp luật và đạo đức. Trước khi nhà nước và pháp luật ra đời, xã hội đã được điều chỉnh bằng các quy phạm đạo đức. Khi pháp luật trở thành phương tiện chủ yếu để nhà nước quản lý xã hội, thì đạo đức vẫn giữ một vai trò quan trọng và không thể thiếu trong điều chỉnh hành vi con người. Chỉ với sự đảm bảo bằng quyền lực nhà nước thôi thì pháp luật khó đi vào cuộc sống. Trước tiên không phải là cưỡng chế mà chính đạo đức và các quy phạm xã hội khác giúp cho pháp luật không chỉ được thực hiện một cách nghiêm chỉnh mà còn được thực hiện một cách tự giác, tự nguyện. Nhưng pháp luật không chỉ dựa vào đạo đức để đi vào đời sống xã hội, pháp luật còn là một trong những phương tiện để nhà nước đưa các quan điểm, quan niệm đạo đức của giai cấp thống trị thành các quy phạm đạo đức chính thống trong xã hội - tức chuyển hóa các quy phạm đạo đức thành quy phạm pháp luật. Các quy phạm pháp luật tiến bộ đều có sự phù hợp với đạo đức. Pháp luật càng phù hợp với đạo đức thì hiệu quả điều chỉnh càng cao. Pháp luật tiến bộ luôn hướng con người đấu tranh chống lại cái ác, vươn tới cái thiện. Nói cách khác, pháp luật tiến bộ là hiện thân của đạo đức, bảo vệ đạo đức. Có thể nói, pháp luật là phương tiện không thể thiếu được cho sự tồn tại bình thường của xã hội nói chung và đạo đức nói riêng. Pháp luật là một trong những biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức và biến nó thành thói quen. Chuẩn mực càng khó khẳng định bao nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng bấy nhiêu. Vì vậy, không thể buông lỏng pháp luật nếu như việc này chưa được chuẩn bị bằng sự tiến bộ đạo đức của xã hội [14, tr.177]. Cả pháp luật và đạo đức đều góp phần bảo vệ các giá trị chân, thiện, mỹ, đều liên quan đến hành vi và đụng chạm đến lợi ích của con người và xã hội. Pháp luật buộc người ta hành động bằng áp lực từ bên ngoài, còn đạo đức buộc người ta hành động bằng
  • 32. 24 áp lực nội tâm, tức bằng lương tâm, sự giác ngộ và thôi thúc từ bên trong. “Có pháp luật điều chỉnh mà không có đạo đức, không có lương tâm thì sẽ bất chấp pháp luật, xuyên tạc luật, lợi dụng luật”[40, tr.6-7]. Hành vi con người chỉ đạt hiệu quả cao và bền vững nếu nó phù hợp với động cơ nội tại bên trong. Sự khác biệt nhưng lại thống nhất này là cơ sở để pháp luật và đạo đức bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Chính mối quan hệ này giải thích vì sao trong quản lý xã hội nói chung, trong giáo dục nói riêng phải kết hợp chặt chẽ giữa GDPL với GDĐĐ. Văn kiện Đại hội VIII đã khẳng định: “Tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức” [9, tr.45]. GDPL tạo ra khả năng thiết lập những nguyên tắc đạo đức, củng cố tình cảm, nghĩa vụ đạo đức cho mỗi người. GDĐĐ sẽ hình thành ở công dân sự tôn trọng sâu sắc đối với pháp luật. Đạo đức là tiền đề cần thiết, quan trọng cho việc hình thành nhân cách con người. Nếu chỉ chú trọng pháp luật, không chú ý đạo đức thì các hiện tượng vi phạm đạo đức sẽ diễn ra. Bởi lẽ, người ta có thể thực hiện đúng pháp luật, nhưng vẫn có thể vi phạm về mặt đạo đức. Mặt khác, bản thân pháp luật sẽ không có tác dụng nếu không có “gốc” đạo đức và tuân thủ pháp luật là một giá trị đạo đức cơ bản, hàng đầu của mọi công dân. Như vậy, giữa pháp luật và đạo đức có sự thống nhất về mục tiêu, sự hỗ trợ, tác động đồng thuận, từ đó nâng cao được hiệu quả giáo dục chung, làm cho việc thực hiện pháp luật trở nên tự giác, tức là đáp ứng những yêu cầu của các chuẩn mực đạo đức. Sự thống nhất đó đòi hỏi sự tác động tổng hợp của cả hai dạng giáo dục này để bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau nhằm hình thành hành vi không những hợp pháp mà còn hợp đạo đức. “Cho dù xã hội có phát triển đến đâu, cũng không thể đạt đến sự xóa nhòa đường biên, ranh giới giữa đạo đức và pháp luật” [38, tr.6]. GDPL, GDĐĐ đều hướng con người đến việc thực hiện những hành vi phù hợp với các chuẩn mực đã được xã hội thừa nhận trên cơ sở những tri thức được lĩnh hội và tình cảm, niềm tin hình thành trong mỗi cá nhân. Tuy nhiên, GDPL sẽ có hiệu quả hơn rất nhiều nếu nó được tiến hành trong một môi trường xã hội lành mạnh, với những con người trọng đạo lý, tình nghĩa. Ngược lại, GDĐĐ cũng sẽ có
  • 33. 25 hiệu quả hơn nếu nó được tiến hành trong một tổ chức có trật tự, kỷ cương, với những con người có ý thức về các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý, có sự hiểu biết về pháp luật. Kết hợp được giữa GDPL, GDĐĐ do vậy sẽ nâng cao hơn rất nhiều hiệu quả giáo dục chung đối với con người. Ở đây, sự kết hợp giữa GDPL, GDĐĐ được hiểu là toàn bộ hoạt động thực tiễn được tiến hành theo nội dung, hình thức, phương pháp và theo một cơ chế nhất định nhằm phát huy vai trò và trách nhiệm của các chủ thể trong tác động hình thành ý thức pháp luật, nhân cách đạo đức, hành vi, xử sự của con người, đáp ứng cao nhất yêu cầu của nhà nước và đòi hỏi của xã hội. Kết hợp GDPL, GDĐĐ là hoạt động được tiến hành thường xuyên, liên tục và lâu dài. “Hiệu quả của mỗi loại hình giáo dục này chỉ có thể đạt được nếu biết lồng ghép kết hợp cả hai” [42, tr.31]. Pháp luật và đạo đức không phải ngẫu nhiên có được mà hình thành trên cơ sở đòi hỏi và nhu cầu của cuộc sống. Các chuẩn mực pháp luật, đạo đức không phải là cố định, bất biến vì bên cạnh những chuẩn mực tồn tại lâu dài, ổn định, vẫn có nhiều chuẩn mực biến đổi do tác động của điều kiện kinh tế, xã hội. Trong khi đó, hoạt động của con người từ môi trường gia đình đến môi trường xã hội đều chịu sự tác động của hai loại quy phạm có tính phổ biến này. Do đó, nếu không có sự kết hợp GDPL, GDĐĐ một cách thường xuyên, lâu dài thì việc thiếu hiểu biết, thiếu ý thức dễ dẫn con người đến những hành vi lệch chuẩn. Sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật được tiến hành theo nội dung và hình thức, phương pháp và theo một cơ chế nhất định nhằm phát huy vai trò và trách nhiệm của các chủ thể trong tác động hình thành ý thức pháp luật, nhân cách đạo đức, hành vi, xử sự của con người, đáp ứng yêu cầu của chuẩn mực đạo đức, pháp luật và xã hội. Kết hợp GDPL, GDĐĐ diễn ra từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng. Ở phạm vi hẹp là giáo dục gia đình, thông qua ứng xử, lối sống, tấm gương của cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình. Ở phạm vi rộng là những tác động giáo dục trong mỗi cơ quan, tổ chức, rộng hơn là tác động giáo dục của toàn xã hội. Sự tác động đó có đặc trưng là luôn có mối liên hệ và sự hỗ trợ, thống nhất với nhau. Nếu tác động giáo dục từ các loại hình giáo dục ấy mâu thuẫn với nhau thì có thể dẫn đến triệt tiêu tính tích cực của chủ thể vốn đã được hình thành từ trước đó. Điều này lý giải
  • 34. 26 tại sao phần lớn NCTN vi phạm pháp luật có nguyên nhân từ gia đình (cha mẹ vi phạm pháp luật) trong khi ở trường các em được giáo dục toàn những điều hay lẽ phải. Tuy nhiên, cũng không loại trừ trường hợp tác động tích cực của những quan hệ ngoài phạm vi gia đình đã loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của quan hệ gia đình trước đó. Nhưng, để đạt được hiệu quả kết hợp GDPL, GDĐĐ đòi hỏi phải có sự thống nhất, hỗ trợ lẫn nhau giữa các môi trường. Tác động của đạo đức đến pháp luật Một là, đạo đức tác động đến việc hình thành các quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật. Nội dung các quy phạm pháp luật chịu ảnh hưởng của các quan niệm, quan điểm đạo đức xã hội. Tuy nhiên, không phải mọi quy định trong hệ thống pháp luật đều chịu ảnh hưởng bởi đạo đức. Khi đạo đức xã hội thay đổi, các quy định của pháp luật cũng thay đổi theo, nhưng, đạo đức xã hội thường khá ổn định, ít biến đổi, bởi vậy, những quy phạm pháp luật ghi nhận, phản ánh đạo đức xã hội vì thế cũng thường ổn định tương đối. Đạo đức là cơ sở của pháp luật: đạo đức về cơ bản phải phù hợp với đạo đức, đạo đức là nguồn gốc của pháp luật, nhiều quy phạm pháp luật chính là luật hóa các quy tắc đạo đức. Khi cộng đồng thừa nhận một quan điểm, quan niệm đạo đức nào đó, nó trở thành giá trị tinh thần, trở thành chuẩn mực hành vi của mọi người trong cộng đồng. Những quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức đó dần trở thành phong tục, tập quán, thói quen trong cách ứng xử hàng ngày của con người. Chính vì vậy, pháp luật do nhà nước ban hành phải phù hợp với đạo đức xã hội. Khi đó, pháp luật không chỉ được đảm bảo bằng các biện pháp nhà nước mà còn được đảm bảo bằng dư luận xã hội. Ngược lại, nếu pháp luật không phù hợp với đạo đức xã hội tức là pháp luật trái với nguyên lý tự nhiên, trái với yêu cầu của cuộc sống, với ý nguyện chung của cộng đồng thì trong trường hợp này, chẳng những sự tự nguyện, tự giác thực hiện chúng sẽ mất đi, mà thay vào đó, người ta còn tìm cách chống đối và vi phạm. Trong một nền đạo đức xã hội, dễ dàng nhận thấy những giá trị đạo đức truyền thống được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đây là bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc. Truyền thống trong đó có các truyền thống đạo đức chính là cơ sở,
  • 35. 27 động lực để phát triển. Ở khía cạnh khác, truyền thống nói chung, truyền thống đạo đức nói riêng đã ăn sâu vào trong tiềm thức của con người, đã trở thành thói quen trong ứng xử của một cộng đồng người, không dễ gì có thể thay đổi được. Khi pháp luật phù hợp với đạo lý, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chẳng những nó được thực hiện nghiêm chỉnh trong cuộc sống mà nó còn góp phần to lớn trong việc giữ gìn và phát huy truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc. Hai là, đạo đức tác động đến việc thực hiện pháp luật của các chủ thể trong đời sống. Khi pháp luật được xây dựng phù hợp với các quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức xã hội, nó sẽ được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, bởi lẽ hành vi thực hiện pháp luật hoàn toàn phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của đạo đức xã hội. Ngược lại, nếu pháp luật trái với đạo đức xã hội, nó sẽ bị xã hội tẩy chay, vì thế rất khó có thể đi vào đời sống. Do vậy, việc người dân không thực hiện những qui định pháp luật đó là điều dễ hiểu. Ba là, ý thức đạo đức cá nhân có tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện pháp luật. Có thể nói, pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh hay không một phần luận xã hội có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy các chủ thể thực hiện pháp luật. Con người ngay từ khi mới sinh ra đã được giáo hoá các quan điểm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức. Mỗi con người, trước khi đạt đến độ tuổi để có thể thực hiện một cách đầy đủ các quyền, nghĩa vụ công dân theo qui định của pháp luật thì họ đã là con, là em, là học trò... họ có nghĩa vụ, bổn phận tuân thủ các qui tắc, chuẩn mực đạo đức như phải làm người tốt, sống trung thực, khiêm tốn, đúng mực, lễ phép, ăn ngay, ở lành, làm điều thiện... Thông qua sự giáo dục trong gia đình, nhà trường, thông qua môi trường sống, thông qua sự tự ý thức của chủ thể, các quan niệm, quan điểm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức trong xã hội trở thành phẩm chất đạo đức của mỗi cá nhân, hình thành cách đối nhân xử thế, thành nếp nghĩ, lối sống của họ trong đời sống xã hội. Người có ý thức đạo đức cao trong mọi trường hợp đều nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật. Bốn là, nếu đạo đức trong xã hội được coi trọng, các thành viên trong xã hội đều coi trọng các giá trị, chuẩn mực đạo đức... thì việc thực hiện pháp luật sẽ nghiêm chỉnh hơn. Ngược lại, nếu đạo đức xã hội bị xuống cấp, các giá trị đạo đức xã hội bị xem nhẹ, việc giáo dục đạo đức bị lơi lỏng, coi thường, dẫn đến ý thức đạo
  • 36. 28 đức của các chủ thể không cao thì việc thực hiện pháp luật sẽ không nghiêm chỉnh, vi phạm pháp luật sẽ gia tăng. Một khi cái thiện không được coi trọng, cái ác sẽ càng có cơ hội để tồn tại. Vì vậy, có thể nói, đạo đức xã hội bị thoái hoá, xuống cấp là một trong những nguyên nhân làm cho vi phạm pháp luật gia tăng, cả về số lượng và tính chất nguy hiểm, trong đó không loại trừ những hành vi man rợ, "phi nhân tính". Chính vì thế, cùng với việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải tăng cường giáo dục đạo đức. Đạo đức giúp việc thực hiện pháp luật triệt để và hiệu quả hơn. Những người có đạo đức thường ít khi vi phạm pháp luật, họ tuân thủ pháp luật với sự tự giác cao. Vì vậy sự tuân thủ pháp luật được xem là chuẩn mực đạo đức. Còn những người xấu thì có thể sẵn sàng vi phạm pháp luật hay lách luật mặc dù họ hiểu biết pháp luật. Có thể nói chính đạo đức của chủ thể thực hiện pháp luật sẽ quy định việc người đó có tuân theo pháp luật một các tự giác hay không. Đạo đức làm tăng tính nhân văn, nhân đạo của pháp luật. Pháp luật bao hàm yếu tố đạo đức sẽ giúp tăng cường hiệu quả của pháp luật. Vì vậy pháp luật phải luôn bảo vệ con người và vì con người. Khi mọi người nhận thức được ý nghĩa của đạo đức trong pháp luật thì họ thực hiện pháp luật một cách tự giác. Vì vậy, có thể khẳng định: “bản chất đích thực của mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức suy cho cùng đó là vấn đề mang tính nguyên tắc: đạo đức là cơ sở của pháp luật” [42, tr. 3-6]. Đạo đức có thể bổ sung cho pháp luật, đạo đức có thể điều chỉnh cả lĩnh vực mà pháp luật chưa điều chỉnh đến hoặc không điều chỉnh được. Chẳng hạn trong quan hệ bạn bè, quan hệ đồng nghiệp không thể bắt buộc bằng các quy phạm pháp luật nhưng đạo đức lại điều chỉnh hiệu quả. Đạo đức lạc hậu có thể tác động tiêu cực tới việc thực hiện pháp luật tiến bộ của con người. Ví như nguyên tắc đạo đức lạc hậu trọng nam khinh nữ có thể cản trở việc thực thi pháp luật về bình đẳng giới trong xã hội hiện tại. *Tác động của pháp luật đến đạo đức Một là, pháp luật giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức của dân tộc, ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức. Pháp luật không chỉ làm cho các quan niệm, quan điểm, chuẩn mực đạo đức trở nên phổ biến trong toàn xã hội, mà quan
  • 37. 29 trọng hơn, nó đảm bảo cho đạo đức được thực hiện nghiêm chỉnh hơn, đồng thời nó góp phần quan trọng trong việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá trị của chúng. Pháp luật bảo vệ, củng cố và nâng cao hiệu quả việc thực hiện những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội. Khi các chuẩn mực đạo đức được luật hóa, chúng được củng cố và bảo vệ lâu dài trong xã hội. Bên cạnh đó, pháp luật còn tạo môi trường pháp lý để bảo vệ những nhân cách đạo đức của những người tốt trong xã hội. Pháp luật giúp những chuẩn mực đạo đức mới được hình thành trong cuộc sống. Ví dụ: những chuẩn mực đạo đức mới như chuẩn mực “bình đẳng nam nữ” khi được luật hóa trong luật về bình đẳng giới có thể được củng cố và hoàn thiện trong xã hội hiện đại. Việc phát hiện và ủng hộ những chuẩn mực đạo đức mới tiến bộ luôn là biểu hiện của tiến bộ xã hội. Tùy trường hợp mà pháp luật có qui định các thành viên trong xã hội được làm gì, không được làm gì, phải làm gì, phải làm như thế nào sao cho phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội. Chẳng hạn, điều 7, Luật tổ chức Tòa án Việt Nam năm 2002 qui định: “Tòa án xét xử công khai, trừ trường hợp cần xét xử kín để giữ gìn bí mật của nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ” [45, Điều 7]. Trường hợp khác, pháp luật lại qui định nghiêm cấm các hành vi trái đạo đức xã hội. Tuy nhiên, như đã đề cập, đạo đức xã hội thường không được ghi nhận một cách chính thức trong những văn bản chuyên biệt, vì vậy, quan niệm về hành vi không trái đạo đức xã hội là vấn đề không đơn giản. Điều này đòi hỏi nhà chức trách không những phải có ý thức giữ gìn, bảo vệ các giá trị đạo đức xã hội mà còn cần phải có một tri thức đạo đức. Hai là, một mặt, pháp luật qui định các biện pháp tuyên truyền, vận động các thành viên trong xã hội không thực hiện những hành vi theo các quan niệm, quan điểm đạo đức cũ, lạc hậu. Mặt khác, pháp luật nghiêm cấm những hành vi đó, qui định các biện pháp chế tài nghiêm khắc đối với các chủ thể thực hiện những hành vi đó. Đồng thời, pháp luật khuyến khích, bắt buộc các thành viên trong xã hội thực hiện những hành vi phù hợp với các chuẩn mực đạo đức mới. Các quan điểm, quan niệm về pháp luật vì thế cũng trở thành các quan niệm, tư tưởng đạo đức, “đạo đức được đảm bảo trước hết nhờ vào những yếu tố kích thích nội tâm của con người - sức mạnh từ bên trong, từ
  • 38. 30 lương tâm, từ những thói quen xử sự và từ sức mạnh bên ngoài - dư luận xã hội” [39, tr.17]. Như vậy rõ ràng pháp luật đã góp phần làm hình thành những quan niệm đạo đức mới. Bằng việc nghiêm trị các hành vi theo đạo đức cũ, bắt buộc thực hiện những hành vi theo đạo đức mới, pháp luật góp phần khẳng định quan điểm đạo đức mới, làm cho nó tồn tại một cách chắc chắn trong đời sống xã hội. “Có pháp luật điều chỉnh mà không có đạo đức, không có lương tâm thì sẽ bất chấp pháp luật, xuyên tạc luật, lợi dụng luật” [40, tr.6 -7]. Trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của chúng ta từ trước đến nay, từ Hiến pháp đến các Bộ luật và Luật đều có những quy phạm pháp luật ghi nhận các giá trị, chuẩn mực đạo đức truyền thống. Trong các luật chuyên ngành như Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Luật hôn nhân gia đình ... đều cho thấy rất nhiều chuẩn mực đạo đức được ghi nhận thành những quy phạm pháp luật. Chẳng hạn: Trong Luật hôn nhân gia đình tại điều 2 quy định các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân gia đình điển hình tại khoản 2: Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội;con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà; các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau [44, Điều 2] hay tại khoản 1,3 điều 35: Con có bổn phận yêu quý, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình; Nghiêm cấm con có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm cha mẹ [44, Điều 35 ] hoặc khoản 2 điều 47: Cháu có bổn phận kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại [44, Điều 47], điều 48: Anh, chị, em thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có nghĩa vụ và quyền đùm bọc, nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện chăm nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con [44, Điều 48]. Còn trong Bộ luật hình sự quy định các tội chứa mại dâm, tội hiếp dâm, tội loạn luân, tội sản xuất, buôn bán hàng giả, tội đào ngũ,... nếu ai vi phạm các điều nói trên đều có chế tài hình sự kèm theo để xử lý.
  • 39. 31 Như vậy pháp luật là những quy phạm pháp luật hiện hữu do nhà nước ban hành còn đạo đức không thể hiện ra bên ngoài nhưng được thể hiện thông qua hành vi của con người. Đạo đức của mỗi người có được thông qua nhân cách của người đó. Đạo đức không những thể hiện qua những quy phạm pháp luật mà còn chứa đựng trong các quy phạm xã hội khác như quy phạm tôn giáo, các quy tắc trong cách ứng xử giữa người với người... Trong mỗi người luôn tồn tại đạo đức và ý thức pháp luật. Đạo đức mỗi người được hình thành qua trải nghiệm trong cuộc sống, qua những tấm gương hay câu chuyện kể về đạo đức gây xúc động lòng người về lòng dũng cảm, tính thật thà, lòng hiếu thảo, thương người..., thông qua việc thấm nhuần những quy phạm tôn giáo, hiểu về tôn giáo, về văn hóa của dân tộc mình. Còn ý thức pháp luật của mỗi người có được thông qua việc học tập, tìm hiểu các quy phạm pháp luật và còn phải thông qua thái độ, tình cảm tôn trọng pháp luật, tình cảm đạo đức ... Sự tuân thủ pháp luật giúp định hướng hành vi con người theo những yêu cầu từ phía xã hội. Điều này giúp hạn chế những xung đột trong quan hệ giữa người và người. Vì thế tuân theo pháp luật đã trở thành chuẩn mực đạo đức trong xã hội, đặc biệt trong xã hội hiện đại. Tuy nhiên, pháp luật cũng có thể tác động tiêu cực đến đạo đức khi việc tuân theo pháp luật hay thực thi pháp luật một cách cứng nhắc, bỏ qua yêu cầu về đạo đức thì có thể dẫn đến độc đoán, độc tài, vô tình, vô nghĩa. Điều này thể hiện rõ ở pháp luật mang tính bản chất của giai cấp bóc lột thống trị khi giai cấp bóc lột muốn sử dụng pháp luật làm công cụ để bóc lột, đàn áp giai cấp bị trị, những người lao động nghèo khổ trong xã hội. Chính vì sự khác biệt nhưng thống nhất giữa đạo đức và pháp luật tạo tiền đề cho sự tác động qua lại, ảnh hưởng và bổ sung lẫn nhau như đã nêu và do đó cần phải có sự kết hợp hài hòa cả hai trong hoạt động giáo dục. Sự kết hợp đồng thời cả giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật đối với thế hệ trẻ nhất là lứa tuổi chưa thành niên hiện nay là một biện pháp thực sự cần thiết. Tóm lại, đạo đức và pháp luật khác nhau ở hình thức biểu hiện, tính chất và phương pháp điều chỉnh. Pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các cá nhân, giữa