Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Đề tài: Địa vị pháp lý của người chưa thành niên theo luật, HOT
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ THỊ PHƢƠNG THANH
HOµN THIÖN §ÞA VÞ PH¸P Lý
CñA BÞ CAN, BÞ C¸O Lµ NG¦êI CH¦A THµNH NI£N
TRONG Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ THỊ PHƢƠNG THANH
HOµN THIÖN §ÞA VÞ PH¸P Lý
CñA BÞ CAN, BÞ C¸O Lµ NG¦êI CH¦A THµNH NI£N
TRONG Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN VĂN ĐỘ
HÀ NỘI - 2015
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Vũ Thị Phƣơng Thanh
4. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN ................ 10
1.1. Khái niệm bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong tố
tụng hình sự....................................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên...................................................... 10
1.1.2. Khái niệm bị can là người chưa thành niên ....................................... 14
1.1.3. Khái niệm bị cáo là người chưa thành niên ....................................... 15
1.2. Khái niệm, cơ sở và ý nghĩa của việc quy định địa vị pháp lý
của bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong tố tụng hình
sự Việt Nam ....................................................................................... 16
1.2.1. Khái niệm địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành
niên trong tố tụng hình sự .................................................................. 16
1.2.2. Cơ sở của việc quy định địa vị pháp lý của người chưa thành
niên trong tố tụng hình sự .................................................................. 18
1.2.3. Ý nghĩa của việc quy định địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là
người chưa thành niên trong tố tụng hình sự ..................................... 24
1.3. Địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên
trong tố tụng hình sự một số nƣớc trên thế giới............................ 25
1.3.1. Trong tư pháp hình sự của Nhật Bản ................................................. 25
1.3.2. Trong tư pháp hình sự của Pháp......................................................... 29
1.3.3. Trong tố tụng hình sự của tiểu bang Victoria, Australia.................... 31
5. Chƣơng 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ
NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN ...................................................... 33
2.1. Khái quát lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về địa
vị pháp lý của bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trƣớc
khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.......................... 33
2.1.1. Quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên trước Cách mạng tháng 8-1945........................................ 33
2.1.2. Quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên giai đoạn 1945 - 1988....................................................... 37
2.1.3. Quy định về địa vị pháp lý bị can, bị cáo là của người chưa
thành niên trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988........................... 43
2.2. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về địa vị pháp
lý của bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên .............................. 46
2.2.1. Địa vị pháp lý của bị can là người chưa thành niên........................... 46
2.2.2. Địa vị pháp lý của bị cáo là người chưa thành niên........................... 59
Chƣơng 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ CAN, BỊ
CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN.......................................... 78
3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về địa vị
pháp lý của bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên..................... 78
3.1.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị
cáo là người chưa thành niên ............................................................. 78
3.1.2. Những bất cập, vướng mắc trong áp dụng những quy định của pháp
luật về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên............ 86
3.2. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên.............. 95
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị
pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên.......................... 95
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về địa vị pháp lý
của bị can, bị cáo là người chưa thành niên....................................... 98
KẾT LUẬN.................................................................................................. 110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 113
6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT: Cơ quan điều tra
CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng
NBC: Người bào chữa
NCTN: Người chưa thành niên
NTGTT: Người tham gia tố tụng
NTHTT: Người tiến hành tố tụng
QBC: Quyền bào chữa
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
VAHS: Vụ án hình sự
VKS: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
7. DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Số hiệu bảng,
biểu đồ
Tên bảng, biểu đồ Trang
Bảng 3.1: Số lượng vụ án phải giải quyết và số bị cáo là người
chưa thành niên qua các năm 2009-2013 79
Bảng 3.2: Đặc điểm nhân thân của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên 80
Biểu đồ 3.1: Biểu đồ số lượng vụ án phải giải quyết và số bị cáo là
người chưa thành niên trong giai đoạn 2009-2013 79
Biểu đồ 3.2: Biểu đồ hình phạt áp dụng đối với bị cáo là người chưa
thành niên 81
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến thế hệ trẻ, đặc biệt là
lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng. Trong di chúc của Người viết “Thiếu niên, nhi
đồng là người chủ tương lai của đất nước”. Vì vậy “bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau là điều rất quan trọng và cần thiết”. “Trẻ em hôm nay, thế
giới ngày mai”, “trẻ em là hạnh phúc gia đình, tương lai của đất nước”. Ngay
trong Lời mở đầu của Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em đã chỉ rõ:
“Do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc
đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra
đời” [25]. Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em qui định:
Trong tất cả những hành động liên quan đến trẻ em, dù do
hành động liên quan đến trẻ em, dù do các cơ quan phúc lợi xã hội
công cộng hay tư nhân, Toà án, các nhà chức trách hành chính hay
cơ quan lập pháp tiến hành thì lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối
quan tâm hàng đầu [25, Điều 3].
Bảo vệ trẻ em chính là bảo vệ sự phát triển trong tương lai của quốc
gia. Nhận thức được tầm quan trọng này, trong những năm qua, Đảng và Nhà
nước Việt Nam đã có nhiều hoạt động thiết thực nhằm thúc đẩy việc bảo vệ
trẻ em và người chưa thành niên. Việt Nam là quốc gia thứ 2 trên thế giới ký
Công ước bảo vệ quyền trẻ em. Khi lựa chọn trở thành quốc gia thành viên
của một Công ước quốc tế có tốc độ phê chuẩn nhanh nhất và rộng rãi nhất
trong lịch sử, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đồng ý thực hiện “tất cả các
biện pháp lập pháp, hành chính, và các biện pháp phù hợp khác để thực hiện
những quyền được ghi nhận trong... Công ước” [25, Điều 4]. Việt Nam cũng
đã xây dựng được một hệ thống pháp luật khá đầy đủ tạo những căn cứ pháp
9. 2
lý quan trọng cho các cơ quan bảo vệ pháp luật bảo vệ trẻ em nói chung và
người chưa thành niên trong các vụ án hình sự nói riêng.
Các quốc gia trên thế giới đều thống nhất rằng mọi người đều được
quyền đối xử bình đẳng và chung sống với nhau trong hòa bình và tự do. Tất
cả trẻ em cũng đều có các quyền như vậy và Công ước của Liên hợp quốc về
Quyền trẻ em đã ra đời nhằm mục đích công nhận và bảo vệ các quyền
chuyên biệt của trẻ em. Công ước coi trẻ vị thành niên là một cá nhân toàn
diện, có đầy đủ địa vị pháp lý, tuy nhiên một trong những quyền quan trọng
mà các em dễ bị xâm phạm nhất đó là “quyền được bảo vệ khỏi những khó
khăn trong suốt quá trình tư pháp”. Có nghĩa là các em có quyền được bảo
vệ khỏi mọi hình thức xâm phạm và ngược đãi từ thời điểm hành vi phạm
pháp bị phát hiện cho đến suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử hành vi
đó. Các thủ tục, các kỹ năng tố tụng đặc biệt hết sức quan trọng để bảo đảm
rằng sự tiếp xúc với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
thì các em được đối xử một cách công bằng, hướng dẫn để chịu trách nhiệm
đối với hành vi của mình và hơn thế nữa, được tạo một cơ hội tránh mắc
phải sai phạm trong tương lai để lớn lên thành những người có trách nhiệm.
Thực tiễn tố tụng hình sự Việt Nam những năm qua cho thấy, kể từ khi
Nghị quyết của Bộ chính trị số 08/NQ-TW và Nghị quyết của Bộ chính trị số
49/NQ-TW được ban hành, vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị
can, bị cáo là người vị thành niên được coi trọng rất nhiều so với trước đây và
ngày một đảm bảo hơn. Tuy nhiên, công tác tư pháp vẫn còn bộc lộ nhiều hạn
chế như đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu, trình độ nghiệp vụ
và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, vấn đề bảo đảm bị can,
bị cáo là của người chưa thành niên còn hạn chế, sai sót. Vẫn còn tình trạng
oan, sai trong điều tra, truy tố và xét xử. Nhất là đối với bị can, bị cáo là
người chưa thành niên trong hoàn cảnh tội phạm do người chưa thành thực
10. 3
hiện ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp. Pháp luật tố tụng hình sự đã
quy định thủ tục giải quyết những vụ án do người chưa thành niên thực hiện
tương đối đầy đủ, tuy nhiên trong thực tiễn vận dụng do chưa được quan tâm
nên vẫn còn nhiều hạn chế, chưa bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của
họ, còn bộc lộ nhiều thiếu sót, dẫn đến việc giải quyết những vụ án này không
đạt hiệu quả.
Do đó, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam hiện hành về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
và thực tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra giải pháp hoàn
thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những
quy định đó không chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà
còn là lý do luận chứng cho sự cần thiết để chúng tôi lựa chọn đề tài “Hoàn
thiện địa vị pháp lý của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt
Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Do người chưa thành niên là một chủ thể quan đặc biệt và quan trọng
trong quan hệ pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, nên ở trong và ngoài nước
đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau,
những khía cạnh, phương diện khác nhau về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo
là người chưa thành niên.
Vấn đề người chưa thành niên phạm tội đã được nhiều chuyên gia ở
nước ngoài nghiên cứu như: Gilbert H.F.Mumford và T.J. Se, The Act for the
Establishment of and Procedure for juvenile and Family Court B.E 2534”, “A
guide to juvenile court law”; N.I.Vetrop, Phòng ngừa vi phạm pháp luật
trong thanh niên, A.I. Đôgôva, Những khía cạnh tâm lý - xã hội về tình trạng
phạm tội của người chưa thành niên; v.v...
Ở Việt Nam, khoa học luật hình sự và tố tụng hình sự là một trong
11. 4
những ngành khoa học pháp lý phát triển nhất so với các ngành khoa học
pháp lý khác, do đó, xét riêng về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên, cho thấy có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau:
Ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các đề tài của các tác giả: Lê Minh
Thắng, Bảo đảm quyền của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt
Nam; Nguyễn Xuân Thủy, Phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm của người
chưa thành niên trong điều kiện ngày nay ở Việt Nam; Đặng Thanh Nga, Đặc
điểm tâm lý của người chưa thành niên có hành vi phạm tội; Đỗ Thị Phượng,
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành
niên trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam”; Nguyễn Huy Hoàn, Bảo đảm
quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay; v.v...
Cấp độ luận văn thạc sĩ có các đề tài: Đỗ Thị Phượng, Thủ tục xét xử vụ
án hình sự mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự
Việt Nam; Chu Mạnh Hùng, Cơ chế pháp lý bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam;
Nguyễn Ngọc Thương, Thủ tục tố tụng hình sự đối với những vụ án do người
chưa thành niên thực hiện - Lý luận và thực tiễn; Nguyễn Thu Huyền, Thủ tục
xét xử những vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên: Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn”. v.v...
Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công
trình sau: GS.TSKH. Lê Cảm, Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề
cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2005; Lê Cảm và Nguyễn Ngọc Chí (Đồng chủ biên) Cải cách tư pháp ở
Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội, 2004, v.v...
Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có đề
cập đến quyền của người chưa thành niên như Lê Cảm - Đỗ Thị Phượng, “Tư
pháp hình sự đối với người chưa thành niên: Những khía cạnh pháp lý hình
12. 5
sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh luật học”, Tòa án nhân dân 2004;
Đỗ Thị Phượng, “Bàn về khái niệm và cơ sở áp dụng thủ tục đối với người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học, 2004; Trần Hưng Bình, Bảo vệ
quyền con người của người chưa thành niên bị buộc tội trong tố tụng hình sự,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 1/2013;
Nguyễn Thanh Trúc, Biện pháp miễn chấp hành có điều kiện thời hạn còn lại
của hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số 20/2008; Đoàn Tấn Minh, Cần sửa đổi, bổ
sung một số quy định về người chưa thành niên phạm tội trong bộ luật hình
sự năm 1999, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số 10/2009;
Lê Minh Thắng, Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội -
nhìn từ phương diện tội phạm học và trách nhiệm xã hội, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, Bộ Tư pháp. Số 12/2011; Phạm Văn Hùng, Hệ thống điều tra thân
thiện với người chưa thành niên, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng
Quốc hội, Số 20/2008; Nguyễn Thị Thu Quỳ, Trịnh Thắng Quyết, Hoàn thiện
chế định miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên trong giai
đoạn truy tố, Tạp chí Kiểm sát. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Số 4/2013;
Đỗ Thuý Vân, Hoàn thiện pháp luật về xử lý chuyển hướng đối với người
chưa thành niên vi phạm pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,Văn phòng
Quốc hội, Số 20/2008; Nguyễn Thị Lộc, Một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự có người bị hại là người chưa thành niên, Tạp chí Kiểm sát. Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Số 15/2013; Vũ Thị Thu Quyên, Quyền của người
chưa thành niên phạm tội trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, Số 5/2012 v.v...
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy khoa học luật
13. 6
TTHS Việt Nam chưa có công trình nào đề cập một cách có hệ thống, đồng
bộ và toàn diện về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
đặc biệt là ở cấp độ luận văn thạc sĩ đúng như tên gọi của đề tài “Hoàn thiện
địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
hình sự Việt Nam”. Do vậy trong luận văn này, chúng tôi nghiên cứu về
quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo là người chưa thành niên theo quy định
của pháp luật Việt Nam và thực tiễn việc thực hiện quyền và nghĩa vụ này
trong quá trình tố tụng để nêu ra được những vướng mắc, bất cập, hạn chế, từ
đó đưa ra một số giải pháp nhằm đảm bảo và hoàn thiện địa vị pháp lý của bị
can, bị cáo là người chưa thành niên trong quá tình tố tụng hình sự đặc biệt
với vai trò là người phạm tội.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS
Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo
là người chưa thành niên dưới khía cạnh lập pháp tố tụng hình sự và áp dụng
chúng trong thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện
các quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
trong pháp luật về TTHS của Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp
đảm bảo địa vị pháp lý này trong thực tiễn áp dụng.
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu
được đặt ra là:
- Từ cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả trong và
ngoài nước về về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên,
luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về địa vị pháp lý của bị
can, bị cáo là người chưa thành niên như: Căn cứ xác định người chưa thành
niên phạm tội trong TTHS Việt Nam; Khái niệm, cơ sở và ý nghĩa của việc
quy định địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố
tụng hình sự Việt Nam;
14. 7
- Khái quát sự phát triển của những quy định địa vị pháp lý của bị can,
bị cáo là người chưa thành niên trong lịch sử pháp luật TTHS của nước ta từ
thời phong kiến đến nay;
- Nghiên cứu các quy định cụ thể về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là
người chưa thành niên trong Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành của Việt Nam,
từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định địa vị pháp lý của
bị can, bị cáo là người chưa thành niên, đồng thời phân tích làm rõ những tồn
tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân cơ bản của nó;
- Từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định
về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
hình sự Việt Nam, cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng của
địa vị pháp lý này trong thực tiễn.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh địa vị
pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tư pháp hình sự Việt
Nam, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá tình hình đảm bảo quyền và nghĩa
vụ của người chưa thành niên phạm tội trong thực tiễn xét xử của Tòa án các
cấp và những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải
pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả việc đảm bảo địa vị pháp
lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong thực tiễn.
Luận văn cũng có tham khảo những bài học kinh nghiệm lập pháp một
số nước trong khi quá trình nghiên cứu đề tài.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn việc thực hiện địa vị pháp
lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong 5 năm (2009-2013).
4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
15. 8
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-
NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật TTHS như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn
dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để
tổng hợp các tri thức khoa học luật TTHS và luận chứng các vấn đề tương
ứng được nghiên cứu trong luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện
lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở
cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là
người chưa thành niên. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về địa vị pháp
lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên;
- Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành
và phát triển của quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên trong TTHS từ thời phong kiến cho đến nay;
- Nghiên cứu, đánh giá trên cơ sở so sánh với quy định của pháp luật quốc
tế và một số quốc gia về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành
niên, từ đó rút ra nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn chế trong thực tiễn;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao
hiệu quả áp dụng về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
16. 9
trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay
ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành TTHS tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của
luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các
cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách
quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là
người chưa thành niên.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về địa vị
pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật và giải pháp nhằm hoàn thiện
các quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên.
17. 10
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN
Người chưa thành niên phạm tội là một hiện tượng, một thực tế tồn tại
ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia đều giải quyết vấn đề người
chưa thành niên phạm tội theo những mức độ, cách thức khác nhau tuỳ thuộc
vào những điều kiện, tập quán, pháp luật của mỗi nước.Thuật ngữ người chưa
thành niên được dùng phổ biến trong các ngành khoa học khác nhau như:
Luật học, Xã hội học, Tâm lý học, Giáo dục học… Dưới các góc độ nghiên
cứu khác nhau, mỗi ngành khoa học tự đặt ra cho mình những nhiệm vụ
nghiên cứu khác nhau nhằm đạt được những mục đích khác nhau liên quan
đến người chưa thành niên.
Trong TTHS hình sự, khái niệm người chưa thành niên được các nhà
lập pháp hình sự sử dụng với hai tư cách, hoặc là đối tượng tác động của tội
phạm hoặc là chủ thể của tội phạm.
Nghiên cứu về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành
niên thì khái niệm người chưa thành niên được đề cập với tư cách là chủ thể
của tội phạm.
1.1. Khái niệm bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong tố tụng
hình sự
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên
Người chưa thành niên là người đang trong quá trình phát triển và hoàn
thiện về thể chất, tâm sinh lý, nhân cách sống. Người ở độ tuổi này chưa phát
triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần, nhân cách; có sự hạn chế
về kinh nghiệm sống, kiến thức pháp luật, dễ bị tác động, chi phối bởi điều
kiện sống; chưa thể nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của
18. 11
hành vi mà mình thực hiện, khả năng tự kiềm chế chưa tốt. Khái niệm người
chưa thành niên được sử dụng rộng rãi trong các ngành khoa học khác nhau
như tâm lý học, giáo dục học, xã hội học, luật học. Tuy nhiên, tùy theo các
góc độ, lĩnh vực mà khái niệm này được hiểu khác nhau. Theo nhà tâm lý học
G.Stanley Hall, thời kỳ chưa thành niên là thời kỳ quá độ tuổi trẻ em chuyển
lên người lớn và là thời kỳ gắn liền với những xung đột, xáo trộn tâm trạng,
nó cũng được quan niệm đồng nghĩa với tuổi đang lớn hoặc đang trưởng
thành [22]. Quá trình phát triển của một đứa trẻ từ khi sinh ra đến khi trưởng
thành được các nhà khoa học phân chia thành các giai đoạn khác nhau, trong
đó có giai đoạn chưa thành niên, nhưng việc xác định cụ thể thời điểm bắt đầu,
kết thúc tuổi chưa thành niên còn có nhiều ý kiến khác nhau (tuổi chưa thành
niên từ 14 -17 tuổi; 11 - 15 tuổi; 12 - 15 tuổi; hoặc nam là từ 14 - 16 tuổi, nữ là
từ 11 - 13 tuổi; hoặc nam từ 12- 17 tuổi, nữ là từ 12 - 15 tuổi) [16, tr.17].
Hiện nay, luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam chưa đưa ra một
khái niệm cụ thể về người chưa thành niên. Trong nhiều văn bản pháp luật
quốc tế về người chưa thành niên và quyền trẻ em cũng như các văn bản pháp
luật Việt Nam như: Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành
niên, Công ước Quốc tế về quyền trẻ em năm 1999, Quy tắc Bắc Kinh năm
1985, Hướng dẫn Riat năm 1990, Bộ luật Dân sự năm 2005 (Điều 18), Luật
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004... đều chỉ quy định, định nghĩa
người chưa thành niên theo độ tuổi, cụ thể:
Công ước quốc tế về quyền trẻ em ghi nhận: “Trong phạm vi của công
ước này, Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp
dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [25]. Theo cách hiểu
thông thường, từ “Trẻ em” có nghĩa là người chưa thành niên. Theo điều này
Công ước đã ghi nhận, khái niệm người chưa thành niên được hiểu là mọi trẻ
em dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật quốc gia có quy định khác.
19. 12
Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về việc áp dụng pháp luật đối với
người chưa thành niên (còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh), được Đại hội đồng
LHQ thông qua ngày 29-11-1985 nêu rõ: "Người chưa thành niên là trẻ em
hay người ít tuổi tuỳ theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xét xử vì phạm
pháp theo một phương thức khác với việc xét xử người lớn" [24, số 2.2 mục a]
Quy tắc tối thiểu phổ biến của LHQ về bảo vệ người chưa thành niên bị tước
quyền tự do thông qua ngày 14-12-1990 quy định: "Người chưa thành niên là
người dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật xác định
và không được tước quyền tự do của người chưa thành niên" [27, số 2.1, mục a].
Như vậy, có thể thấy rằng, khi đưa ra khái niệm về trẻ em hay người
chưa thành niên, trong pháp luật quốc tế không dựa vào đặc điểm tâm - sinh
lý hay sự phát triển thể chất, tinh thần... mà trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua
việc xác định độ tuổi. Kể cả khái niệm trẻ em và khái niệm người chưa thành
niên đều giới hạn là dưới 18 tuổi, đồng thời đưa ra khả năng mở cho các quốc
gia tùy điều kiện kinh tế - xã hội, văn hoá, truyền thống của mình có thể quy
định độ tuổi đó sớm hơn.
Theo Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Người chưa thành niên là người
chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa
có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân” [73]. Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa
thành niên được xác định thống nhất trong Hiến Pháp năm 2013, Bộ luật Hình
sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật
Dân sự, và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp
luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy
định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng
lĩnh vực cụ thể. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, khái niệm người chưa thành
niên khác với khái niệm trẻ em. Theo Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em
năm 2004: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [42, Điều 1]. Bộ luật
20. 13
dân sự Việt Nam năm 2005 ghi nhận: “…Người chưa đủ mười tám tuổi là
người chưa thành niên” [43, Điều 18]. Bộ luật hình sự 1999 quy định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng” [39, Điều 12]. Bộ luật hình sự cũng quy định:
“Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu
trách nhiệm hình sự...” [39, Điều 68].
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự
phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng
giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó,
người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên.
Trong khoa học luật hình sự, có không nhiều các định nghĩa về NCTN,
với nội dung chủ yếu nhắc lại quy định của pháp luật và đưa ra khái niệm trên
cơ sở độ tuổi "người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi" hoặc tiếp cận ở
giác độ rất hẹp - NCTN phạm tội. Theo Theo GS.TSKH Lê Cảm và TS. Đỗ
Thị Phượng thì “Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do sự hạn chế bởi
các đặc điểm về tâm, sinh lý và đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm” [8, tr.20, 21, 22]. TS Trịnh
Tiến Việt định nghĩa như sau: "Người chưa thành niên là người chưa phát
triển đầy đủ về thể chất và tâm - sinh lí, chưa có khả năng nhận thức đầy đủ
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện" [76].
Từ những phân tích trên, ta có thể đưa ra khái niệm: Người chưa thành
niên trong tố tụng hình sự Việt Nam là người dưới mười tám tuổi chưa phát
triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa
vụ pháp lý như người đã thành niên.
21. 14
1.1.2. Khái niệm bị can là người chưa thành niên
Theo quy định tại khoản 1 Điều 49 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) thì
bị can là người đã bị khởi tố về hình sự. Thuật ngữ “bị can” đã được sử dụng
trong Sắc lệnh số 13 ngày 24-1-1946 về tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán
và trong nhiều văn bản pháp luật tố tụng hình sự khác nhưng vẫn chưa có một
khái niệm cụ thể về bị can. Sắc lệnh số 13 có một số quy định như:
Khi bắt người trong hai trường hợp kể trên, ban tư pháp phải
lập biên bản hỏi cung và giải bị can lên ngay Tòa án trên trong hạn 24
giờ là cùng [11, Điều 5]. Sau khi nghe các bị can, các người chứng,
cáo trạng của Chưởng lý, và sau cùng nghe lời cãi của các bị can, ông
Chánh án, hai Hội thẩm, hai Phụ thẩm nhân dân lui vào phòng nghị xử
để cùng quyết nghị về tất cả các vấn đề thuộc về tội vong, hình phạt,
trường hợp tăng tội và trường hợp giảm tội [11, Điều 41].
Ta có thể thấy, trong giai đoạn điều tra và cả giai đoạn xét xử thì người
bị buộc tội đều được gọi là bị can. Như vậy, vẫn chưa có một định nghĩa rõ
ràng phân biệt được rành mạch bị can và bị cáo trong thời kỳ này. Lần đầu
tiên chúng ta biết đến khái niệm bị can khi nó được quy định tại Điều 34
BLTTHS năm 1988. Theo đó, một người chỉ có thể bị khởi tố với tư cách bị
can trong vụ án hình sự khi có đủ căn cứ xác định người đó đã thực hiện hành
vi phạm tội.
Việc xác định một người có tư cách bị can từ khi nào là điều rất quan
trọng. Bởi vì, khi một người phát sinh tư cách bị can đồng nghĩa với việc
người đó sẽ có các quyền và nghĩa vụ của bị can. Người đó sẽ bị các
CQTHTT áp dụng các biện pháp tố tụng được phép tiến hành với bị can theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Theo quy định của pháp luật tố tụng
hình sự hiện hành thì bị can là người bị khởi tố về hình sự và tham gia tố tụng
từ khi có quyết định khởi tố bị can. Bị can sẽ tham gia vào các giai đoạn điều
22. 15
tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tư cách tố tụng của bị can
sẽ chấm dứt khi cơ quan điều tra đình chỉ điều tra, viện kiểm sát đình chỉ vụ
án, Tòa án đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đối với bị can hoặc
tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Khi một người bị khởi tố về hình sự
thì họ sẽ trở thành đối tượng bị buộc tội trong vụ án. Tuy vậy, điều đó không
có nghĩa xác định họ là người có tội. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc. Vì
theo quy định tại Điều 31 Hiến pháp 2013 và Điều 9 BLTTHS 2003 thì:
“Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [41, Điều 9]. Như vậy, bị can là người
chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi bị khởi tố về hình sự
và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can.
1.1.3. Khái niệm bị cáo là người chưa thành niên
Về khái niệm bị cáo, theo quy định tại BLTTHS 2003 thì: “bị cáo là
người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử” [41, Điều 50, Khoản 1]. Thuật
ngữ: “bị cáo” được sử dụng trong nhiều Sắc lệnh về tổ chức các cơ quan tư
pháp do Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ký từ năm 1945. Tuy
nhiên chỉ đến năm 1974, trong bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về
hình sự kèm theo Thông tư số 16/TATC ngày 27-9-1974 của TANDTC mới
đưa ra định nghĩa pháp lý về khái niệm bị cáo. Theo đó:
Bị cáo là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự trước Tòa án
nhân dân. Trong giai đoạn xét xử Tòa án nhân dân chỉ được đưa
một người ra xét xử với tư cách bị cáo nếu VKSND đã truy tố
người đó trước TAND, nếu VKSND không truy tố thì TAND
không được xét xử một người với tư cách là bị cáo trừ những người
mà TAND xét xử về những việc hình sự nhẹ [54].
Trong BLTTHS năm 1988 thì khái niệm bị cáo được quy định tại Điều
34 của bộ luật. Và hiện nay, khái niệm bị cáo được quy định tại Điều 50
23. 16
BLTTHS 2003. Kể từ thời điểm Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa
ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì bị can trở thành bị cáo. Như vậy, bị cáo
tham gia tố tụng kể từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi bản án
hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Và khái niệm bị cáo không
đồng nghĩa với khái niệm chủ thể của tội phạm. Là bị cáo, họ chưa bị coi là
người có tội, họ chỉ là người bị cáo buộc về một tội phạm nào đó theo Bộ luật
hình sự, nên họ phải được đối xử như đối với một người bình thường khác.
Họ chỉ trở thành người có tội nếu sau khi xét xử họ bị Tòa án ra bản án kết tội
và bản án đã có hiệu lực pháp luật. Cũng chính vì vậy mà BLTTHS quy định
quyền của bị cáo rất đầy đủ và cụ thể để họ tự bảo vệ hoặc nhờ người khác
bảo vệ cho mình trước lời cáo buộc của Viện kiểm sát tại phiên toà. Từ những
phân tích trên có thể hiểu “bị cáo là người chưa thành niên là người từ đủ 14
tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình
sự quy định là tội phạm và bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”.
1.2. Khái niệm, cơ sở và ý nghĩa của việc quy định địa vị pháp lý của bị
can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam
1.2.1. Khái niệm địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự
Theo từ điển luật học, địa vị pháp lý là vị trí của chủ thể pháp luật
trong mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định
của pháp luật. Địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật thể hiện thành tổng thể
các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn
khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình. Thông qua địa vị pháp
lý ta có thể phân biệt được chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác,
đồng thời cũng có thể xem xét vị trí, tầm quan trọng của chủ thể pháp luật
trong mối quan hệ pháp lý. Do vậy, việc nắm vững địa vị pháp lý của các
chủ thể trong quan hệ pháp luật có vai trò vô cùng quan trọng đối với mọi
24. 17
chủ thể. Đối với chủ thể có địa vị pháp lý thì sẽ giúp họ thực hiện tốt hơn
các quyền và nghĩa vụ của mình. Còn đối với các chủ thể khác việc nắm
vững địa vị pháp lý của chủ thể trong quan hệ pháp luật sẽ giúp họ không
xâm phạm đến quyền và nghĩa vụ của người khác. Trong tố tụng hình sự, thì
việc nắm vững địa vị pháp lý của các chủ thể càng có vai trò quan trọng hơn
hết. Bởi vì, khi giải quyết một vụ án hình sự phải trải qua rất nhiều giai đoạn
khác nhau. Và tại mỗi giai đoạn thì địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia
tố tụng cũng không giống nhau. Khi đó, việc nắm vững địa vị pháp lý của
các chủ thể này sẽ đảm bảo cho việc thực hiện đúng các thủ tục tố tụng, đảm
bảo cho việc xác định sự thật vụ án. Như vậy, có thể thấy việc nắm vững địa
vị pháp lý của các chủ thể đặc biệt là những người tiến hành tố tụng đối với
những người tham gia tố tụng có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết vụ án
hình sự, đảm bảo đúng người, đúng tội.
Trong tố tụng hình sự chưa có một khái niệm chính thức nào về địa vị
pháp lý của bị can. Nhưng dựa vào những điểm đã phân tích ở trên ta có thể
nhận thấy: Địa vị pháp lý của bị can là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của
người đã bị khởi tố về hình sự trong quá trình tham gia tố tụng hình sự. Khi
một người có địa vị pháp lý là bị can thì họ sẽ có các quyền và nghĩa vụ nhất
định theo quy định của pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của bị can được quy
định cụ thể tại Khoản 2 Điều 49 BLTTHS 2003. Cũng tương tự như bị can.
Từ trước tới nay chưa có một khái niệm cụ thể nào về địa vị pháp lý của bị
cáo. Và mỗi tác giả khi nghiên cứu về các quyền và nghĩa vụ của bị cáo thì tự
rút ra cho mình một khái niệm riêng. Từ những phân tích ở trên, chúng tôi xin
được đưa ra khái niệm như sau: Địa vị pháp lý của bị cáo chính là tổng thể
các quyền và nghĩa vụ của một người đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử
của Tòa án có thẩm quyền đến khi bản án kết tội hay quyết định của Tòa án
có hiệu lực pháp luật.
25. 18
Từ những phân tích về người chưa thành niên, địa vị pháp lý, bị can, bị
cáo ở trên, có thể đưa ra định nghĩa về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là
người chưa thành niên như sau: Địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên là tổng thể quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên trong quá trình tiến hành giải quyết các vụ án hình sự theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
1.2.2. Cơ sở của việc quy định địa vị pháp lý của người chưa thành
niên trong tố tụng hình sự
Cơ sở thứ nhất là bắt nguồn từ việc bảo đảm thực hiện quyền con
người. Khi lựa chọn định hướng phát triển theo xu hướng tiến bộ, các quốc
gia đều cố gắng phấn đấu vì hạnh phúc của con người, vì thế bảo vệ các
quyền của con người là một tất yếu khách quan. Quyền con người là thành
quả phát tr iển lâu dài của li ̣ch sử xã hô ̣i loài người . Khái niệm quyền con
người lần đầu tiên được tổ chức Liên Hợp Quốc chính thức thừa nhận vào
năm 1948 với sự kiện ra đời của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con
người. Trong đó, khẳng định:
Quyền con người là những quyền cơ bản, không thể tước bỏ mà
một người vốn được thừa hưởng đơn giản vì họ là con người [79].
Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng
bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc
sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và
tự do cơ bản của con người [78, tr.1].
Như vậy, quyền con người – dù được nhìn nhận dưới góc độ nào đều
được hiểu là những quyền tự nhiên cơ bản của con người, không thể bị tước
đoạt, chiếm giữ bởi bất cứ ai và bất cứ thế lực nào. Quyền con người bao gồm
những quyền không thể tước bỏ , do đó , bảo vệ quyền con người chính là
những bảo đảm pháp lý mang tính toàn cầu . Quyền con người đã được công
26. 19
nhận ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Quốc hội
khóa XIII thông qua Hiến pháp (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ VI (ngày 28-11-
2013) là một sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng bậc nhất của đất nước,
Hiến pháp (sửa đổi) có rất nhiều đổi mới và chính những đổi mới đó là cơ sở
hiến định quan trọng mở đường cho việc tiếp tục cải cách, đổi mới để đất
nước ta phát triển. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam sửa
đổi mang nhiều đổi mới quan trọng so với những bản Hiến pháp trước đây,
trong đó có vấn đề quyền con người. Đây cũng là một điểm nhấn quan trọng
khẳng định việc kế thừa, phát triển nhiều nội dung về nhân quyền từ các bản
Hiến pháp trước đó, đồng thời nhất quán những nội dung, tinh thần điều ước
quốc tế mà Việt Nam tham gia về quyền con người. Trách nhiệm của Nhà
nước và những đảm bảo của Nhà nước trong việc ghi nhận, tôn trọng, thực
hiện và bảo vệ quyền con người, quyền công dân được quy định đầy đủ trong
các điều luật. Hiến pháp mới ghi nhận “Quyền con người, quyền công dân về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” [45, Điều 14]. Hiến pháp là đạo luật
gốc, đạo luật cơ bản của nhà nước, do đó các văn bản quy phạm pháp luật nói
chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng được ban hành phải đảm bảo
thống nhất và không được trái với Hiến pháp. Pháp luật tố tụng hình sự của
bất kỳ quốc gia và hê ̣thống pháp lý nào cũng đều phải thực hiê ̣n cùng một lúc
hai nhiê ̣m vụ: vừ a phải xác đi ̣nh cho được sự thâ ̣t của vụán, đảm bảo để công
lý được thực thi, nhưng la ̣i vừ a phải làm thế nào để trên con đường đi tìm sự
thâ ̣t và công lý thì quyền của tất cả những người có liên quan đều phải được
tôn trọng, đảm bảo và bảo vê ̣ . Trọng tâm của nhiệm vụ bảo đảm quyền con
người trong tố tụng hình sự vẫn là viê ̣c bảo đảm quyền con người cho người
bị buộc tội : bị can, bị cáo, trong đó , đối tượng người chưa thành niên (nói
chung) và trẻ em (nói riêng) là những chủ thể đặc biệt , có những đă ̣c điểm
27. 20
riêng về tâm sinh lý và sự phát triển chưa đầy đủ , chưa biết cách tự bảo vê ̣
mình khi đứng trước những sự kiện pháp lý nên cần phải có những bảo đảm
pháp lý đầy đủ, cần thiết và đáp ứ ng phù hợp.
Cơ sở thứ hai là dựa trên việc bảo đảm sự công bằng, bình đẳng đối
với tất cả mọi người.
Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 (International
Covenant on Civil and Political Rights - ICCPR) ghi nhận:
Mọi người đều bình đẳng trước các tòa án và cơ quan tài
phán. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai
bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập
ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong
các vụ án hình sự, hoặc để xác định quyền và nghĩa vụ của người đó
trong các vụ kiện dân sự… [23, Điều 14, Khoản 1].
Tháng 10/2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình hành
động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012-2020, hướng tới thực hiện mục tiêu
tổng quát là xây dựng môi trường sống an toàn, thân thiện và lành mạnh để
thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền của trẻ em từng bước giảm khoảng
cách chênh lệch về điều kiện sống giữa các nhóm trẻ em và trẻ em giữa các
vùng, miền nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo cơ hội phát triển bình đẳng
cho mọi trẻ em [3]. Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử là nguyên
tắc nền tảng xuyên suốt các văn bản pháp luật Việt Nam, tạo tiền đề cho việc
đảm bảo và phát huy các quyền của người dân trên từng lĩnh vực cụ thể.
Trong pháp luật Việt Nam, quyền bình đẳng trước pháp luật là một quyền đã
được Hiến định [45, Điều 16]. Luật pháp quy định mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật chỉ có thông qua hoạt động xét xử, Tòa án mới ra phán quyết
một người có tội hay không có tội bằng một bản án không có ai bị coi là có tội
và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án có hiệu lực của Tòa án. Bình đẳng
28. 21
trước pháp luật còn là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của Bộ
luật tố tụng hình sự, “tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng,
tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị
xử lý theo pháp luật” [41, Điều 5]. Quyền bình đẳng trước pháp luật còn được
hiểu là quyền bình đẳng trong việc đưa ra các chứng cứ, đưa ra các yêu cầu
tranh luận trước tòa án và phải được tòa án tôn trọng, tạo điều kiện. Điều 19
BLTTHS quy định về bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án như sau: “Kiểm
sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp
của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong
việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ
trước Toà án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền
đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án”. Vì tính chất hoạt động của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là nhân danh nhà nước và
mang quyền lực nhà nước, nên trong quan hệ của họ với bị can, bị cáo thì đây
là quan hệ bất bình đẳng. Vì vậy, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị
can, bị cáo nói chung và với đối tượng bị can, bị cáo là người chưa thành niên
nói chung, giảm thiểu các nguy cơ xâm phạm bất hợp pháp là mối quan tâm
hàng đầu của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền con
người trong hoạt động tố tụng hình sự.
Việc quy định địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành
niên thể hiện các nguyên tắc của Hiến pháp và BLTTHS cũng như các văn
bản quy phạm pháp luật quốc tế như bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, không ai bị coi là có
tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo… Tuyên ngôn thế giới về
29. 22
nhân quyền năm 1948 quy định: “Mọi người nếu bị cáo buộc về hình sự, đều
có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo
pháp luật tại một phiên tòa xét xử công khai nơi người đó được bảo đảm
những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình” [17, Điều 11]. Quy định này
cũng được tái khẳng định và cụ thể hóa trong Công ước quốc tế về quyền dân
sự, chính trị năm 1966 “Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được
coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo
pháp luật” [23, Điều 14, khoản 2]. Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (sửa đổi
năm 2001) quy định: Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [38, Điều 72]. Bộ luật TTHS cũng quy định:
“Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” [41, Điều 9]. Hiến pháp năm 2013 đã
sửa đổi quy định này tại Điều 31: “Người bị buộc tội được coi là không có tội
cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [45, Điều 31]. Như vậy, ta có thể thấy quy
định này trong Hiến pháp năm 2013 rất phù hợp với quy định tại Điều 11
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và Điều 14 Công ước quốc tế
về quyền dân sự, chính trị năm 1966 đó là sử dụng cụm từ được coi là không
có tội, thay thế cho cụm từ không bị coi là có tội. Đồng thời, người bị buộc tội
phải được chứng minh theo trình tự luật định, các pháp Hiến pháp trước đây
không quy định nội dung này.
Cơ sở thứ ba là dựa trên bảo đảm giáo dục, ngăn ngừa tội phạm, nâng
cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động tố tụng hình sự.
Vấn đề trẻ em vi phạm pháp luật luôn được cộng đồng quốc tế quan tâm.
Trên bình diện quốc tế, Liên hợp quốc và nhiều quốc gia đang chuyển sang sửa
đổi pháp luật quốc gia dựa trên những tiêu chuẩn quốc tế về xử lý người chưa
thành niên vi phạm pháp luật theo hướng chung là khuyến khích nhiều hơn
30. 23
những cơ chế và chương trình xử lý theo hướng không giam giữ (hạn chế đến
mức thấp nhất việc áp dụng những chế tài mang tính chất giam giữ), thực hiện
các hoạt động phòng ngừa, các biện pháp và chương trình tái hoà nhập thành
công và áp dụng những trình tự xử lý đặc biệt phù hợp với lứa tuổi của các em.
Theo hướng dẫn Riyadh, phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên là
một bộ phận chính yếu của phòng ngừa tội phạm trong xã hội. Quan điểm chỉ
đạo toàn bộ vấn đề phòng ngừa người chưa thành niên phạm pháp là phải coi
trẻ em và phúc lợi của trẻ em là trung tâm của bất cứ một chương trình phòng
ngừa nào. Với cách hiểu rằng hành vi của trẻ em không phù hợp với các chuẩn
mực và giá trị xã hội chung thường chỉ là một phần của quá trình trưởng thành
và có xu hướng mất đi ở hầu hết mọi cá nhân khi trở thành người lớn, cho nên,
theo Hướng dẫn Riyadh: phòng ngừa người chưa thành niên phạm pháp là việc
giúp các em có nguy cơ vi phạm cao phát triển các thái độ không dẫn đến việc
phạm pháp thông qua sự thu hút các em tham gia vào các hoạt động hợp pháp,
hữu ích về mặt xã hội với một định hướng và cách nhìn nhân đạo đối với cuộc
sống. Để làm việc này thành công đòi hỏi những cố gắng của toàn xã hội thông
qua các chương trình cộng đồng nhằm đảm bảo sự phát triển hài hoà về nhân
cách của các em ngay từ tuổi thơ ấu.
Xét theo quan điểm trên thì mặc dù Công ước Quyền trẻ em không có
điều khoản riêng quy định trực tiếp việc phòng ngừa trẻ em phạm tội nhưng
qua các điều 5, 18, 19, 27, Công ước đã khẳng định trách nhiệm của cha, mẹ,
gia đình, người giám hộ, nhà trường và toàn cộng đồng trong việc hướng dẫn
chỉ bảo trẻ em phát triển theo cách phù hợp với nhịp phát triển và khả năng
của trẻ em. Từ khi tham gia Công ước quyền trẻ em đến nay, Nhà nước Việt
Nam đã cố gắng tới mức cao nhất để nội luật hóa những nguyên tắc của Công
ước quyền trẻ em vào hệ thống pháp luật quốc gia. Trong hệ thống các văn
bản đó, một bộ phận quan trọng thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng
31. 24
và Nhà nước Việt Nam về biện pháp giáo dục, xử lý và bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp của người chưa thành niên vi phạm pháp luật, tạo nên khung pháp
luật về tư pháp người chưa thành niên của Việt Nam.
1.2.3. Ý nghĩa của việc quy định địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là
người chưa thành niên trong tố tụng hình sự
Việc quy định địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
có ý nghĩa chính trị, xã hội, ý nghĩa pháp lý và ý nghĩa trên thực tiễn to lớn.
Thứ nhất, việc quy định địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên có ý nghĩa bảo đảm quyền con người, thể hiện tính nhân đạo sâu
sắc trong pháp luật của nhà nước. Việc quy định này cũng làm thu hẹp
khoảng cách giữa nước ta với các nước trên thế giới về nhân quyền, thể hiện
sự nội luật hóa các quy định của pháp luật quốc tế vào các quy định của pháp
luật Việt Nam.
Thứ hai, việc quy định địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự mang ý nghĩa pháp lý, tạo cơ sở cho hoạt
động tố tụng đúng pháp luật, đảm bảo tranh tụng nhanh chóng, khách quan,
xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Việc quy định địa vị pháp lý này
tạo sự đối xử công bằng cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên, tránh sự
lạm quyền, lạm dụng, quan liêu trong quá trình tố tụng.
Thứ ba, việc quy định địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc tránh sự xâm
hại từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần định hướng và chỉ đạo cho
những người thực thi pháp luật, tránh sai sót, vi phạm nhân quyền, đảm bảo
khách quan, thận trọng trong việc nhận thức vụ án hình sự một cách khoa học,
không làm người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Ngoài ra việc quy định địa vị
pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội có ý nghĩa trong
việc ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra.
32. 25
1.3. Địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên
trong tố tụng hình sự một số nƣớc trên thế giới
1.3.1. Trong tư pháp hình sự của Nhật Bản
Vấn đề người chưa thành niên phạm tội là một bức xúc xã hội không
chỉ ở Việt Nam mà còn ở các nước trên thể giới trong đó có Nhật Bản. Theo
quy định tại Điều 2 của Luật về người chưa thành niên số 168 ngày 15-7-1948
được sửa đổi qua các năm 1949, 1950, 1951, 1952, 1953, 1954, 1985, 1987,
1995, 1997, 1999, 2000 (sau đây gọi tắt là Luật về người chưa thành niên) thì
người chưa thành niên là người chưa đủ 20 tuổi. Mục đích của Luật người
chưa thành niên là không trừng phạt những người chưa thành niên phạm tội
mà "giúp đỡ cho họ phát triển tốt, tiến hành những biện pháp bảo vệ để thay
đổi tính cách của người chưa thành niên phạm tội và tạo ra một môi trường
giáo dục để điều chỉnh người chưa thành niên đã chót mắc phải sai lầm".
Về thẩm quyền xét xử các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành
niên, theo quy định tại Điều 6 của Luật về người chưa thành niên thì bất kỳ
người nào phát hiện ra hành vi của người chưa thành niên và thấy cần phải xét
xử người chưa thành niên đó tại Toà án gia đình thì thông báo cho Toà án gia
đình có thẩm quyền biết. Trong trường hợp cảnh sát hoặc người giám hộ cho
rằng việc xử lý người chưa thành niên theo quy định của Luật bảo vệ trẻ em
sẽ tốt hơn việc chuyển vụ án cho Toà án gia đình giải quyết thì có thể thông
báo việc này với Trung tâm giáo dục trẻ em. Theo quy định tại Điều 41 của
Luật về người chưa thành niên thì Toà án gia đình cũng tiếp nhận vụ án từ cơ
quan cảnh sát. Theo quy định tại điều này thì sau khi điều tra về người chưa
thành niên bị tình nghi phạm tội mà cảnh sát cho rằng người đó đã phạm một
tội có thể bị xử phạt tiền hoặc hình phạt nhẹ hơn thì phải chuyển vụ án cho
Toà án gia đình. Ngay cả khi không có cơ sở để cho rằng người chưa thành
niên thực hiện tội phạm mà cảnh sát thấy rằng cần thiết chuyển vụ án cho Toà
33. 26
án gia đình để xét xử theo thẩm quyền của mình thì vẫn có thể chuyển vụ án
cho Toà án gia đình. Trừ những vụ án quá nhẹ, thẩm phán tòa án gia đình khi
thụ lý vụ án thiếu niên đều chỉ thị cho điều tra viên tòa án gia đình tiến hành
điều tra về tính cách, thói quen, hành động hàng ngày, quá trình sinh trưởng
và môi trường của thiếu niên để làm rõ nguyên nhân phạm tội và những vấn
đề của thiếu niên (Điều 8).
Về quyền được điều tra trong môi trường thân thiện, Điều tra viên tiến
hành điều tra vụ án thì cần phải sử dụng những kiến thức về y học, tâm lý, sư
phạm, xã hội và các kỹ năng khác, đặc biệt là kết quả phân loại mà Cơ quan
phân loại người chưa thành niên cung cấp về hành vi, nghề nghiệp, tính tình
và môi trường xã hội xung quanh người chưa thành niên, của người giám hộ
của họ hoặc của những người khác có liên quan. Mục đích của việc điều tra là
làm rõ các vấn đề về tính cách, tiểu sử bản thân, gia đình và môi trường xã hội
xung quanh người chưa thành niên. Trừ những vụ án quá nhẹ, thẩm phán tòa
án gia đình khi thụ lý vụ án thiếu niên đều chỉ thị cho điều tra viên tòa án gia
đình tiến hành điều tra về tính cách, thói quen, hành động hàng ngày, quá
trình sinh trưởng và môi trường của thiếu niên để làm rõ nguyên nhân phạm
tội và những vấn đề của thiếu niên (Điều 8).
Về quyền được áp dụng các biện pháp bảo vệ, căn cứ vào kết quả xét
hỏi tại phiên điều tra, nếu Toà án gia đình xét thấy cần thiết thì có thể ra quyết
định áp dụng biện pháp bảo vệ đối với người chưa thành niên thì có thể áp
dụng một trong các biện pháp bảo vệ như đưa người chưa thành niên vào cơ
sở giám sát, đưa người chưa thành niên vào nhà dành cho trẻ sống một mình
hoặc cơ sở bảo hộ trẻ em, đưa người chưa thành niên vào cơ sở giáo dục
người chưa thành niên. Thời hạn đưa vào các cơ sở bảo vệ không quá 4 tuần.
Trong thời gian 4 tuần, Toà án phải hoàn tất những thủ tục cần thiết để đưa ra
xét xử. Ở Nhật Bản không có thủ tục riêng cho việc truy tố và xét xử người
34. 27
chưa thành niên. Theo Luật người chưa thành niên, thì công tố viên không có
quyền tham gia xét xử tại các Toà án gia đình. Tuy nhiên, Thẩm phán có thể
cho phép công tố viên tham dự và khi cần thiết có thể yêu cầu công tố viên
tiến hành điều tra thêm.
Về quyền có người đại diện, Luật người chưa thành niên của Nhật Bản
cho phép người chưa thành niên khi bị đưa ra xét xử tại Toà án gia đình được
có một hoặc hai người đại diện. Người đại diện không phải là luật sư bào
chữa như trong phiên toà xét xử người đã thành niên. Người đại diện này
không nhất thiết phải là luật sư, có thể là giáo viên hoặc người làm công tác
xã hội... Luật không quy định chi tiết các bước tiếp theo cần tiến hành như thế
nào mà chỉ đưa ra chung chung rằng Toà án gia đình phải tiến hành xét xử
trên cơ sở "chân tình, có lợi" cho người chưa thành niên và "cần có mọi cố
gắng để bảo vệ cho được những thuộc tính cao đẹp nhất của người chưa thành
niên và để cho người chưa thành niên có niềm tin" và việc xét xử cần tiến
hành công khai.
Về quyền được xét xử trong môi trường nhẹ nhàng, Phiên toà sẽ do một
Thẩm phán tiến hành nhưng không được tiến hành công khai và phải được tiến
hành trong một môi trường nhẹ nhàng không gây căng thẳng đối với người
chưa thành niên. Thẩm phán trên cơ sở kết quả điều tra sẽ xem xét có tiến hành
thẩm xét với thiếu niên đó hay không. Trong trường hợp không có xung đột về
sự việc, vụ việc đơn giản, khả năng tái phạm thấp chỉ cần tác động về mặt giáo
dục tiến hành khi điều tra là đủ, không cần tiến hành thẩm xét để đưa ra chỉ đạo
thì sẽ quyết định không bắt đầu thẩm xét và kết thúc thủ tục (Điều 19). Trường
hợp cần phải theo dõi thiếu niên để đưa ra quyết định xử lý cuối cùng thì thẩm
phán đặt ra thời hạn tương đối khoảng 3,4 tháng và quyết định kiểm tra theo
dõi. Trường hợp này có thể giao cho điều tra viên tòa án gia đình theo dõi
(Khoản 1, Điều 25). Trong thời gian kiểm tra theo dõi, thiếu niên được cho
35. 28
tham gia các hoạt động xã hội như hoạt động chăm sóc người già tại nhà dưỡng
lão, hoạt động dọn vệ sinh ở địa phương, tham dự các giờ học để nghe ý kiến
trực tiếp của người bị hại giúp các em tỉnh ngộ. Việc đưa các em vào các cơ sở
cải tạo hoặc giao cho cá nhân để ủy thác hướng dẫn (mục 3, khoản 2) trước đây
được tiến hành thường xuyên nhưng gần đây chỉ khoảng một vài phần trăm.
Khi mở thủ tục thẩm xét, thiếu niên và người giám hộ được triệu tập, tùy
trường hợp có thể có sự tham dự của luật sư là người đi kèm, giáo viên nhà
trường, người thuê lao động, nhân viên giám hộ. Ngoài ra trong một số vụ
nghiêm trọng có sự tranh chấp về tình tiết phạm tội, tòa án gia đình có thể xem
xét yêu cầu công tố viên có mặt. Tuy nhiên xét xử vụ việc thiếu niên không
công khai như xét xử hình sự nên những người không liên quan không được dự
phiên tòa. Việc xét xử được tiến hành một cách ôn hòa và cẩn trọng trong
không khí có sự nghiêm khắc để thiếu niên tự nhận ra lỗi lầm của mình. Thẩm
phán không chỉ nhắc nhở thiếu niên nhận ra lỗi lầm của mình mà còn nhắc nhở
người giám hộ nhận thức về trách nhiệm nuôi dưỡng của mình.
Về thi hành hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, theo quy
định tại Điều 56 của Luật về người chưa thành niên, thì nếu người chưa thành
niên bị xử phạt tù lao động hoặc tù giam, họ sẽ phải chấp hành hình phạt tại
một nhà tù được xây dựng để dành riêng cho người chưa thành niên hoặc một
phần riêng biệt của nhà tù thông thường.
Về quyền được giữ bí mật thông tin, đối với người chưa thành niên bị
Toà án gia đình xét xử hoặc người đã thành niên bị truy tố về tội đã phạm
khi còn chưa thành niên thì các thông tin về người phạm tội hoặc hình ảnh
có thể khiến người khác hiểu rằng họ là người phạm tội liên quan đến vụ án
hình sự đó như tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi ở, hình dáng v.v… sẽ không được
công khai trên bất kỳ báo hay tạp chí nào. Điều 61 quy đinh về việc cấm ghi
trên báo như sau:
36. 29
Đối với thiếu niên bị đưa ra xử lý tại tòa án gia đình hoặc
người bị truy tố về tội đã phạm khi còn thiếu niên, không được phép
đăng bài viết hoặc ảnh trên báo chí, hoặc các ấn phẩm khác để từ họ
tên, tuổi, nghề nghiệp, chỗ ở, khuôn mặt có thể suy đoán được
người đó chính là người trong vụ việc đó [30, Điều 61].
Về quyền kháng cáo của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, Điều
32 Luật người chưa thành niên quy định:
Thiếu niên, người đại diện theo pháp luật hoặc người đi kèm
có quyền kháng cáo trong thời hạn 2 tuần đối với quyết định xử lý
bảo hộ, nếu lý do kháng cáo là có vi phạm pháp luật ảnh hưởng đến
quyết định, có sự nhầm lẫn nghiêm trọng về tình tiết sự thật hoặc rõ
ràng có sự bất công trong xử lý. Tuy nhiên, người đi kèm không
được kháng cáo trái với ý chí mà người bảo hộ được lựa chọn đã
thể hiện rõ ràng [30, Điều 32].
1.3.2. Trong tư pháp hình sự của Pháp
Nói đến pháp luật về người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật
của Cộng hòa Pháp là nói đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự, tính công minh
trong hoạt động điều tra, xét xử, thi hành án hình sự của Thẩm phán vị thành
niên, tính chất đặc biệt của Tòa án vị thành niên và cuối cùng là các cơ quan
có tính chất trợ giúp tư pháp đối với người chưa thành niên. Khác với ở Việt
Nam, thẩm quyền điều tra vụ án hình sự phần lớn thuộc về cơ quan cảnh sát
điều tra, ở Cộng hòa Pháp, hoạt động điều tra về cơ bản thuộc thẩm quyền của
Thẩm phán điều tra. Pháp luật tố tụng hình sự của Công hòa pháp có sự
chuyên biệt hóa về các vụ án hình sự do người chưa thành niên phạm tội ở ba
khía cạnh: Trợ giúp tư pháp vị thành niên, Tòa án vị thành niên, Thẩm phán
vị thành niên và Tòa đại hình chuyên xét xử vụ án do người chưa thành niên
phạm tội thực hiện.
37. 30
Trong bộ luật tố tụng hình sự Công hòa Pháp, người chưa thành niên
phạm tội có những quyền sau:
Về tạm giữ người chưa thành niên phạm tội, đây là một “biện pháp
ngăn chặn” cho phép cảnh sát có quyền tạm giữ người phạm tội trong một
khoảng nhất định để thực hiện một số hoạt động điều tra trong giai đoạn đầu.
Đối với người chưa thành niên phạm tội, biện pháp này được áp dụng như
sau: Về nguyên tắc, biện pháp tạm giữ không được áp dụng đối với người
chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi 13. Tuy nhiên trong những trường hợp đặc
biệt như: có đủ điều kiện để khẳng định họ đang chuẩn bị thực hiện một trọng
tội hoặc khinh tội mà mức hình phạt ít nhất là năm năm tù giam; hoặc do yêu
cầu điều tra mà những người từ đủ 10 tuổi đến 16 tuổi có thể bị tạm giữ tại cơ
quan cảnh sát (officier de police judiciaire). Khi áp dụng biện pháp này, người
ra lệnh phải báo cáo trước và dưới sự kiểm tra giám sát của công tố viên hoặc
của Thẩm phán điều tra. Thời hạn tạm giữ không quá 12 giờ. Khi áp dụng
biện pháp này, cảnh sát tư pháp phải thông báo cho cha mẹ, người đại diện
của người bị tạm giữ biết trong thời gian sớm nhất.
Về quyền được thông báo “Công tố viên trưởng phải được thông báo
ngay khi bắt đầu việc tạm giữ người chưa thành niên chưa đủ 18 tuổi. Người
chưa thành niên phải được sự trợ giúp của đại diện pháp lý trừ khi điều này
là không thể thực hiện được”[30, Điều 78-3]. Vào lúc bắt đầu cuộc điều tra,
thẩm phán điều tra phải thông báo cho nạn nhân của tội phạm bị khởi tố là
người này có quyền thực hiện các quyền của bên dân sự, và cách thức có thể
thực hiện các quyền này. Nếu nạn nhân là người chưa thành niên, thông tin
này được đưa cho những người đại diện của họ [30, Điều 80-3].
Về quyền có người bào chữa, việc yêu cầu đoàn luật sư cử luật sư bảo
vệ cho người bị tạm giữ phải được thực hiện ngay khi biết được thông tin cha
mẹ hoặc người đỡ đầu cho người bị tạm giữ không mời luật sư. Ngay từ khi bị
38. 31
tạm giữ, người chưa thành niên bị tạm giữ có quyền được thông tin ngay lập
tức về việc mời luật sư và quyền yêu cầu được tiếp xúc với luật sư.
Về quyền được kiểm tra về tình tạng sức khỏe, đối với người chưa
thành niên bị tạm giữ có độ tuổi 16, công tố viên có quyền yêu cầu kiểm tra
về tình trạng sức khoẻ của người bị tạm giữ.
1.3.3. Trong tố tụng hình sự của tiểu bang Victoria, Australia
Những quy định về xử lý trẻ em phạm tội chủ yếu được quy định trong
Bộ luật về trẻ em và thanh niên 1989 (Vic). Bộ luật này tồn tại song song với
Bộ luật hình sự 1958 của Tiểu bang Victoria.
Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, theo Bộ luật về trẻ em và thanh niên
1989 (Vic) thì trẻ em từ 10 tuổi trở lên sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự. Cũng
theo bộ luật này, trẻ em được định nghĩa là những người từ đủ 10 tuổi đến
dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, Toà án dành cho trẻ em không xét xử những người từ
đủ 19 tuổi kể cả khi phạm tội người đó là trẻ em theo định nghĩa nói trên.
Về quyền được thông báo về tội phạm mà mình bị điều tra và quyền im
lặng, pháp luật tại Victoria quy định rằng trước khi tiến hành việc thẩm vấn,
người thẩm vấn phải thông báo cho người bị thẩm vấn về tội phạm mà người
đó bị tình nghi và đồng thời phải thông báo cho người bị thẩm vất biết rằng
họ có quyền im lặng và bất kỳ điều gì mà họ khai ra có thể được dùng làm
bằng chứng chống lại họ. Toà án cũng phán xét rằng khi cơ quan cảnh sát
thông báo cho người bị tình nghi về một tội phạm cụ thể thì lời nhận tội liên
quan đến tội phạm đó thì chỉ được dùng làm chứng cứ cho việc xét xử tội
phạm đó, không được dùng làm chứng cho việc xét xử tội phạm khác.
Về quyền có cha mẹ, người đại diện hợp pháp hoặc người khác khi
thẩm vấn, Điều 464E (1) quy định rằng một người dưới 18 tuổi đang bị giam
giữ thì việc thẩm vấn chỉ được tiến hành khi có mặt cha mẹ, hoặc người giám
hộ của người đó, nếu không có cha mẹ, người giám hộ thì phải có một người
độc lập khác và trước khi tiến hành thẩm vấn hoặc điều tra, nhân viên cảnh sát
39. 32
phải cho phép người dưới 18 tuổi đang bị giam giữ này liên lạc với cha mẹ,
người giám hộ hoặc một người độc lập khác và phải bảo đảm rằng việc liên
lạc này không bị nghe lén. Điều luật này đã được Toà án giải thích rằng việc
có mặt của người thân hoặc của người thứ ba độc lập là yêu cầu bắt buộc
trong các cuộc thẩm vấn trẻ em. Trong trường hợp cha mẹ, người thân không
thể tham dự, thì cơ quan cảnh sát phải mời một người thứ ba độc lập tham gia
Về quyền được xét xử theo thủ tục giản lược Toà án vị thành niên có
thẩm quyền xét xử giản lược tất cả các loại tội phạm nghiêm trọng trừ năm tội
là: giết người, giết người chưa đạt, vô ý làm chết người, gây hỏa hoạn dẫn đến
chết người và lái xe cẩu thả dẫn đến chết người.
Về nguyên tắc “Suy đoán trẻ em không có đủ năng lực hành vi thực
hiện tội phạm”, ngoài việc phải chứng minh yếu tố lỗi (mens rea) trong cấu
thành tội phạm, đối với các tội phạm được thực hiện bởi trẻ em và tại thời
điểm thực hiện tội phạm đứa trẻ trong độ tuổi từ đủ 10 đến dưới 14 tuổi thì
pháp luật buộc bên công tố có nghĩa vụ chứng minh ngược lại “Suy đoán trẻ
em không có đủ năng lực hành vi thực hiện tội phạm”. “Theo án lệ, trẻ em
dưới 14 tuổi được suy đoán là chưa đạt độ tuổi để nhận thức về những việc
mình làm. Nhưng suy đoán này có thể bị chứng minh ngược lại với chứng cứ
rõ ràng, có ngọn ngành về tội phạm của đứa trẻ… Nghĩa vụ chứng minh
ngược lại suy đoán trẻ em không có đủ năng lực hành vi thực hiện tội phạm
được áp dụng không chỉ ở Toà án vị thành niên mà ở tất cả các Toà án khác.
Như vậy, Toà án đã phân tích nguyên tắc “suy đoán trẻ em không có lỗi” với
xu hướng mở rộng yếu tố lỗi của tội phạm để bao hàm cả nguyên tắc này.
Cũng cần phải lưu ý rằng, việc xét xử với bồi thẩm đoàn thì viện công tố phải
đưa ra đủ chứng cứ để thuyết phục bồi thẩm đoàn, chứ không phải thẩm phán,
rằng đứa trẻ khi thực hiện hành vi phạm tội đã hiểu rằng hành vi đó là sai trái
nghiêm trọng. Chính bồi thẩm đoàn sẽ quyết định việc bị cáo có tội hay không
có tội dựa trên các chứng cứ được xuất trình tại toà.
40. 33
Chương 2
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ ĐỊA VỊ
PHÁP LÝ CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN
2.1. Khái quát lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về địa vị
pháp lý của bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trƣớc khi ban hành
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
Nghiên cứu một cách có hệ thống lịch sự pháp luật Việt Nam về địa vị
pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên sẽ giúp chúng ta có được
cách nhìn toàn diện và khái quát về quá trình phát triển của pháp luật Việt
Nam về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, qua đó
sẽ có cơ sở để có được sự đánh giá đúng đắn thực trạng của pháp luật tố tụng
hình sự hiện hành về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa thành
niên, từ đó đưa ra phương hướng hoàn thiện địa vị pháp lý này. Lịch sử lập
pháp nói chung và lịch sử lập pháp về người chưa thành niên phạm tội nói
riêng cũng được nghiên cứu dựa trên lịch sử dân tộc Việt Nam qua các thời
kỳ: thời kỳ trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, thời kỳ từ năm 1945-1988,
thời kỳ hiện nay. Mỗi một thời kỳ đều có những thành tựu lập pháp nhất định
cần được nghiên cứ làm rõ.
2.1.1. Quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên trước Cách mạng tháng 8-1945
Thế kỷ XV đánh dấu bước phát triển mới trong hoạt động lập pháp của
Nhà nước phong kiến Việt Nam, nó được coi là cái mốc hết sức quan trọng
trong lịch sử pháp quyền nước ta. Hệ thống pháp luật được bắt đầu từ thời vua
Lê Thái Tổ đến đời vua Lê Cung Hoành với đỉnh cao là những thành tựu lập
pháp dưới đời vua Lê Thánh Tông. Tuân theo những giáo lý cơ bản của Nho
giáo, Lê Thánh Tông cũng chủ trương đức trị, tức là lấy giáo lý đạo đức
hướng về mục đích trau dồi nhân cách làm phương tiện cải hóa, cai trị. Tuy
41. 34
nhiên, nhà vua cũng thấy được tầm quan trọng đặc biệt của pháp luật trong
việc trị nước, nên ông cũng chủ trương pháp huy những điểm mạnh của pháp
trị. kết quả là, tên tuổi của Lê Thánh Tông gắn liền với hàng loạt văn bản
pháp luật quan trọng được ban hành trong giai đoạn này như: Hồng Đức
Thiện chính thư, Thiên Nam dư hạ tập, Quốc Triều hình luật, còn thường gọi
là Bộ luật Hồng Đức hay Luật hình Triều lê, một chỗ dựa pháp lý quan trọng
bậc nhất để quản lý và ổn định đất nước thời trung đại. Bộ luật Hồng Đức
được lưu lại đến ngày nay bao gồm 13 chương với 722 điều.
Trong bộ luật Hồng Đức, nhà lập pháp triều Lê đã quy định việc áp
dụng hồi tố đối với người chưa thành niên phạm tội. Bộ luật Hồng Đức quy
định: “Người nào khi phạm tội chưa già cả, tàn tật đến khi già cả, tàn tật
mới phát hiện thì xử tội theo luật khi già cả, tàn tật và khi nhỏ mà phạm tội
đến khi lớn mới phát giác thì xử tội theo luật khi còn nhỏ” [47, Điều 17]. Có
thể nói với nguyên tắc hồi tố cho thấy các nhà lập pháp triều Lê đã rất quan
tâm đến thời điểm phạm tội sao cho việc xử lý người chưa thành niên phạm
tội theo hướng có lợi khi áp dụng luật.
Quốc Triều Hình Luật không quy định mức độ khoan hồng chung
cho các độ tuổi, mà qui định các mức độ khoan hồng khác nhau tuỳ theo độ
tuổi. Cụ thể:
Những người từ 15 tuổi trở xuống:
Theo các nhà lập pháp triều Lê, trẻ em ở độ tuổi từ 15 tuổi trở xuống thì
về mặt thể chất cũng như nhận thức xã hội chưa hoàn thiện. Vì vậy, những người
ở độ tuổi này chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi phạm vào nhóm tội thập ác
(mười tội ác). Đối với những trường hợp phạm từ tội lưu trở xuống thì được áp
dụng nguyên tắc chuộc tội bằng tiền. Bộ luật Hồng Đức còn nghiêm cấm áp
dụng hình thức tra khảo với người từ 15 tuổi trở xuống: “Những người đáng
được nghị xét giảm tội như 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống, người bị phế tật
42. 35
thì không được tra khảo họ, chỉ cần căn cứ lời khai của nhân chứng mà định
tội” [47, Điều 665]. Như vậy, theo Bộ luật Hồng Đức, việc xử lý những người
15 tuổi trở xuống phạm tội chủ yếu là nhằm giáo dục, qua đó giúp họ sửa
chữa sai lầm, phát triển lành mạnh chứ không nặng về trừng phạt.
Những người từ 10 tuổi trở xuống:
Những người ở độ tuổi này phải chịu trách nhiệm hình sự khi phạm vào
nhóm tội thập ác. Tuy nhiên, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ
phải được cân nhắc thận trọng và chỉ có nhà vua - người đứng đầu nhà nước
phong kiến mới có thẩm quyền trực tiếp xem xét, giải quyết vụ việc. Quy định
đặc biệt này của Bộ luật Hồng Đức thể hiện rõ nét sự quan tâm sâu sắc của
nhà nước phong kiến Hậu Lê đối với thiếu niên, nhi đồng.
Những người từ 7 tuổi trở xuống:
Là người chưa đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Quan điểm nhất
quán của các nhà làm luật thời kỳ này là khẳng định không buộc tội đới với
trẻ em dưới 7 tuổi ngay cả khi họ phạm vào tử tội. Tuy vậy, nhà lập pháp
cũng đã dự liệu những tình huống thực tế có thể xảy ra và thể hiện rõ thái độ
của nhà nước đối với nhóm người này.
Ngoài ra, Bộ Luật Hồng Đức còn quy định một số điều bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của trẻ em và người chưa thành niên. Điều 313 quy định:
Trẻ nhỏ mồ côi và phụ nữ tự bán mình làm người ở nếu không
người bảo lãnh thì kẻ mua và kẻ viết văn khế, kẻ làm chứng đều bị
xử roi, trượng theo luật (nữ bị đánh 50 roi, nam bị đánh 80 trượng)
đòi lại tiền trả cho kẻ mua, hủy bỏ văn khế. Kẻ cô độc, khốn cùng
từ 15 tuổi trở lên tự nguyện bán mình thì cho phép [47, Điều 313].
Kẻ nào trấn lột lấy quần áo và đồ vật của trẻ con... thì phải chịu tội
đồ và phải bồi thường gấp đôi [47, Điều 436].
Nếu ai bắt được trẻ con đi lạc thì phải báo quan làm bằng
43. 36
chứng thật, có ai đến nhận thì được lấy tiền nuôi dưỡng (mỗi tháng
5 tiền) trái luật không cho người ta nhận con thì xử tội nhẹ hơn tội
quyến rũ một bậc [47, Điều 604]. Trường hợp kẻ nào làm chuyện
ngược ngạo (lượm trẻ lạc về, không nuôi còn hành hạ) để đến nỗi
con người ta chết thì đánh 80 trượng, đền 5 quan tiền nhân mạng
cho cha mẹ đứa trẻ chết [47, Điều 605].
Có thể nói Bộ luật Hồng Đức hay Quốc triều hình luật là đỉnh cao
của thành tựu pháp luật Việt Nam so với các triều đại trước đó. Đánh giá
về giá trị của Bộ luật Hồng Đức, sách Lịch triều hiến chương loại chí của
Phan Huy Chú viết:
Đời vua Lê có ban hành Bộ Hồng Đức hình luật, các đời sau
vẫn theo Bộ luật ấy. Tuy có vài sự sửa đổi nhỏ trong lời văn, hay
trong cách xếp đặt loại mục tuỳ theo thời kỳ, song các điều khoản
căn bản vẫn không thay đổi. Bộ luật ấy đã được dùng làm quy củ để
cai trị trong nước và cải thiện lòng người [14].
Bộ luật Hồng Đức ra đời cách đây hơn 500 năm nhưng tư tưởng pháp
lý tiến bộ và tinh thần nhân văn cao cả của các nhà lập pháp triều Lê đối với
bị can, bị cáo là người chưa thành niên vẫn có giá trị to lớn, đáng trân trọng
và kế thừa trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam nói chung và trong việc hoàn thiện pháp luật hình sự nói riêng.
Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, có 3 BLTTHS khác nhau được
áp dụng tại Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Trong đó, theo Điều 20 và Điều 31
của BLTTHS tại Bắc kỳ đã phân loại NTGTT thành: bị can, bị cáo, người làm
chứng, người bị hại. Theo BLTTHS Bắc Kỳ:
Người bị nã, sau khi nã được trong vòng 24 giờ sẽ do quan
thẩm phán sơ cấp hoặc đệ nhị cấp quan nào đã tiếp nhận được thì
phải dương đường củ vấn (xét hỏi) và hiểu thị cho bị can biết về tội
44. 37
gì. Sự củ vấn ấy và tất cả sự củ vấn về sau phải làm biên bản. Biên
bản ấy phải tuyên đọc cho người bị can biết, người ấy sẽ cùng quan
thẩm phán đều ký tên. Nếu người ấy không ký tên hoặc không
muốn ký tên trong biên bản cũng phải nói đến [4, Điều 17].
Quy định này của pháp luật đã thể hiện sự công khai minh bạch của pháp
luật khi quy định cho phép bị can có quyền được biết mình bị buộc tội gì, được
nghe lại biên bản hỏi cung bị can. Ngoài ra bị can cũng có thể không ký tên vào
biên bản hỏi cung để xác nhận biên bản hỏi cung đó. Điều 42 quy định:
Phàm bị can còn tại ngoại và các người chứng mà quan
chánh phẩm xét nên hỏi chứng ở trước phiên tòa thì sẽ bị đòi gọi
chiếu như cách thức đã định ở điều thứ 20 [4, Điều 42]. Và Điều
43 quy định: ở trước phiên tòa, quan chánh thẩm phán tòa án tỉnh
phải thân hành củ vấn và đối chất với các người bị can.. [4, Điều
43] Điều 51 quy định:… người đương sự có quyền năng kháng cáo
là người bị can về tội vi cảnh hoặc bị can về khinh tội, trọng tội…
hoặc người đại biểu đúng phép hoặc người thừa kế của các người
ấy [4, Điều 51].
Như vậy, Bộ luật Bắc kỳ không quy định rõ khi nào người bị buộc tội
mang tư cách bị can, khi nào có tư cách bị cáo. Mà ngay trong giai đoạn xét
xử thì tư cách tố tụng của người bị buộc tội vẫn là bị can. Nhưng quy định
trên cũng thể hiện được quyền của người bị buộc tội đó là quyền tham gia
phiên tòa, được tiến hành tranh luận tại phiên tòa và được quyền kháng cáo.
2.1.2. Quy định về địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên giai đoạn 1945 - 1988
Từ khi cách mạng tháng 8 thành công đến trước khi ban hành Bộ luật
hình sự 1985 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 là thời kỳ nhà nước Việt
Nam dân chủ Cộng hòa mà sau này là nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa