SlideShare a Scribd company logo
1 of 101
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRỊNH THỊ THU HIỀN
SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI VIỆT NAM VÀ
SINGAPORE
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Lê Mai Thanh
Hà Nội – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Trịnh Thị Thu Hiền
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT KÝ HIỆU NỘI DUNG TỪ VIẾT TẮT
1. FTAC : Hội đồng Trọng tài Ngoại thương
2. HĐTT : Hội đồng trọng tài
3. IAA : Đạo luật trọng tài quốc tế
4. LTM : Luật thương mại
5. MAC : Hội đồng Trọng tài Hàng hải
6. SIAC : Singapore International Arbitral Centre
(Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore)
7. TTTM : Trọng tài thương mại
8. TTTT : Trung tâm trọng tài
9. TTV : Trọng tài viên
10. VIAC : Vietnam International Arbitral Centre
(Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam)
DANH MỤC CÁC BẢNG
SỐ HIỆU
BẢNG
TÊN BẢNG TRANG
2.1. Tranh chấp VIAC đã giải quyết từ năm 2006 đến năm 2013 40
2.2. Tranh chấp SIAC đã giải quyết từ năm 2006 đến năm 2013 45
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT............................................................................
DANH MỤC CÁC BẢNG ..........................................................................................
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ..........................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ..............................................................................................3
3. Mục đích và Nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................................4
4. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................5
6. Những điểm mới của luận văn ................................................................................5
7. Kết cấu của luận văn ...............................................................................................5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ TRUNG
TÂM TRỌNG TÀI....................................................................................................7
1.1. Khái quát về trọng tài thương mại .......................................................................7
1.1.1. Khái niệm và vai trò của trọng tài thương mại.................................................7
1.1.3. Trung tâm trọng tài thương mại theo Phá p luật Việt Nam và Singapore .......17
1.2. Tổ chức và hoạt động của các Trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore......24
1.2.1. Khái lược về Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) và Trung tâm
trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC)..........................................................................24
1.2.2. Căn cứ thành lập và chấm dứt hoạt động của trung tâm trọng tài.................27
1.2.3. Mục tiêu nhiệm vụ và quyền hạn của Trung tâm trọng tài .............................28
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1........................................................................................30
CHƢƠNG 2: SO SÁNH THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRUNG TÂM
TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VIỆT NAM (VIAC) VÀ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI
QUỐC TẾ SINGAPORE (SIAC) ..........................................................................32
2.1. So sánh căn cứ thành lập và hoạt động của hai trung tâm trọng tài thương mại32
2.1.1. Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC)...............................................32
2.1.2. Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) ..............................................36
2.1.3. Kinh nghiệm cho Việt Nam..............................................................................38
2.2. So sánh thực trạng pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp tại hai Trung
tâm trọng tài ..............................................................................................................39
2.2.1. Thực trạng về thẩm quyền giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài Quốc
tế Việt Nam ................................................................................................................39
2.2.2. Thực trạng về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trung tâm trọng tài
Quốc tế Singapore.....................................................................................................44
2.2.3. Kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam............................................................46
2.3. Thực trạng áp dụng quy tắc tố tụng giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài
Quốc tế Việt Nam và Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore ..................................47
2.3.1. Thực trạng áp dụng quy tắc tố tụng tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam
(VIAC) .......................................................................................................................48
2.3.2. Thực trạng áp dụng quy tắc tố tụng tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore
(SIAC) .......................................................................................................................55
2.3.3. Kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam............................................................68
2.4. Đánh giá hiệu lực quyết định trọng tài của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt
Nam (VIAC) và Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) .............................70
2.4.1. Hiệu lực quyết định trọng tài của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam......70
2.4.2. Hiệu lực quyết định trọng tài của Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore....74
2.4.3. Kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam............................................................76
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2........................................................................................77
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ KIỆN TOÀN CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI TẠI VIAC.................................................78
3.1. Hoàn thiện Pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam........................................78
3.1.1. Luật trọng tài...................................................................................................78
3.1.2. Giải pháp đối với pháp luật liên quan ............................................................82
3.2. Kiện toàn cơ chế nhằm nâng cao vai trò của trung tâm trọng tài Việt Nam ......83
3.2.1. Kiện toàn cơ chế Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) ...................83
3.2.2. Tăng cường phối hợp giữa trọng tài và các cơ quan liên quan nhằm phát huy
vai trò trọng tài tại Việt Nam ....................................................................................84
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3........................................................................................89
KẾT LUẬN ..............................................................................................................90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................91
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra ngày càng
sâu sắc mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài. Các quan hệ kinh tế quốc tế
trở nên sôi động hơn bao giờ hết và có tác động to lớn đến sự phát triển của các
quốc gia trên thế giới. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường trong xu
hướng hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện cho các quan hệ thương mại phát
triển, đồng thời các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ này tăng nhanh chóng với
tính chất ngày càng phức tạp. Mặc dù tranh chấp không phải là điều mong muốn
của các thương nhân và họ đã rất cẩn trọng trong việc áp dụng các biện pháp nhằm
loại bỏ tranh chấp, song các bên không thể khẳng định rằng sẽ không có bất kỳ
tranh chấp nào xảy ra trong các thương vụ mà họ tham gia. Vì vậy, điều quan trọng
mà các thương nhân cần nhìn nhận trước đó là phương pháp nào cần thực hiện nếu
có tranh chấp phát sinh. Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, các hình thức
giải quyết tranh chấp phổ biến đang được sử dụng bao gồm: thương lượng, hòa giải,
tòa án, trọng tài. Thực tế đã đặt ra nhu cầu hoàn thiện các phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Trên thế giới, phương thức trọng tài giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt
động thương mại đã trở nên thông dụng. Tại Việt Nam, phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài cũng được chú trọng. Từ những năm 1960, Hội đồng
Trọng tài Ngoại thương và Hội đồng Trọng tài Hàng hải Việt Nam bên cạnh Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã đi vào hoạt động. Để kiện toàn căn cứ
giải quyết tranh chấp kinh tế bằng trọng tài nói riêng, và hoàn thiện hệ thống giải
quyết tranh chấp nói chung, ngày 25/02/2003, Pháp lệnh Trọng tài thương mại đã
được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành, có hiệu lực từ ngày 01/7/2003. Pháp
lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 đáp ứng điều kiện kinh tế - xã hội thời điểm
đó, cũng như tương thích với pháp luật quốc tế, các điều ước mà Việt Nam tham
gia. Nhằm hoàn thiện hơn pháp luật về trọng tài thương mại, ngày 17 tháng 6 năm
2010, Quốc hội đã ban hành Luật Trọng tài thương mại 2010, bắt đầu có hiệu lực từ
2
ngày 1 tháng 1 năm 2011. Luật Trọng tài thương mại 2010 tiếp tục giải quyết những
vấn đề chưa được ghi nhận thấu đáo trong Pháp lệnh: phạm vi thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của trọng tài, vấn đề lựa chọn quy tắc tố tụng trọng tài trong giải
quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài, vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài,...
Luật Trọng tài thương mại 2010 đã khắc phục được những hạn chế của Pháp
lệnh Trọng tài thương mại năm 2003; là căn cứ đảm bảo áp dụng hiệu quả các quy
tắc tố tụng trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại. Tuy nhiên, hình thức
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài thương mại Việt Nam
vẫn chưa được các cá nhân, tổ chức áp dụng nhiều trên thực tế. Nguyên nhân xuất
phát từ khung pháp luật và cơ chế hoạt động của các trung tâm trọng tài tại Việt
Nam gây sự thiếu tin tưởng cho các cá nhân, doanh nghiệp. So với các hình thức
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thông dụng trên thế giới, cơ cấu tổ
chức và hoạt động của các trung tâm trọng tài chuyên nghiệp hơn, do đó, các cá
nhân và doanh nghiệp tin tưởng sử dụng hình thức giải quyết tranh chấp này hơn.
Để phát huy hiệu quả hình thức giải quyết tranh chấp tại trọng tài trong điều
kiện gia tăng xung đột quyền lợi của các chủ thể khi tham gia kinh tế thị trường
cũng như trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; cần có những nghiên cứu tương
quan so sánh với pháp luật trọng tài các nước để từ đó rút ra các bài h ọc kinh
nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng hình thức trọng tài tại Việt Nam. Hiện nay,
Singapore là một quốc gia có nền kinh tế phát triển tương đối nhanh (là một trong
bốn con rồng của C hâu Á ). Với một nước có nền kinh tế phát triển như vâ ̣y , các
tranh chấp liên quan đến hoa ̣t động thương ma ̣i là một điều không tránh khỏi .
Singapore là nước đầu tiên trong khu vực áp dụng trọng tài quốc tế để giải quyết các
tranh chấp thương ma ̣i và đa ̣t được nhiều hiê ̣u quả từ viê ̣c áp dụng này . Từ những
kết quả mà Singapore đã đạt được chúng ta có thể tìm ra được những bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện cơ chế về trung tâm trọng tài tại
Việt Nam.
Từ những phân tích trên, tác giả đã chọn đề tài: “So sánh pháp luật về trung
tâm trọng tài Việt Nam và Singapore” làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình.
3
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề trọng tài có thể nói không phải là vấn đề hoàn toàn mới ở Việt Nam.
Xung quanh vấn đề này đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học do các nhà
khoa học pháp lý của Việt Nam thực hiện. Nhất là trong những năm trở lại đây, khi
xây dựng pháp luật trọng tài thương mại đang đặt ra một yêu cầu cấp thiết thì vấn
đề này càng được quan tâm, nghiên cứu nhiều hơn. Các công trình nghiên cứu đề tài
này được thực hiện dưới nhiều hình thức và những góc độ khác nhau.
Một số luận văn thạc sỹ đã nghiên cứu liên quan đến vấn đề trọng tài như:
luận văn thạc sỹ “Tác động của những quy định mới trong Luật trọng tài thương
mại tới hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài ở Việt Nam” của
Nguyễn Thị Thanh Huyền năm 2012; luận văn thạc sỹ “Pháp luật về thi hành phán
quyết của trọng tài thương mại ở Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
của Nguyễn Mạnh Cường năm 2012; luận văn thạc sỹ “Biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong tố tụng trọng tài thương mại – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của
Đặng Thị Minh Ngọc năm 2013; luận văn thạc sỹ “Những nguyên tắc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại” của Nguyễn Thị Hiển năm 2013.
Ngoài ra, còn có những bài viết đăng trên tạp chí nghiên cứu về trọng tài dưới
nhiều khía cạnh khác nhau như PGS.TS Phạm Hữu Nghị có bài “Về cơ chế giải
quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” đăng trên báo đời sống
pháp luật số ra ngày 23/8/2010; LS Trần Hữu Huỳnh có bài “Pháp luật trọng tài
thương mại những thử thách phía trước” đăng trên báo Tiền Phong số ra ngày
20/7/2011.
Mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề trọng tài
thương mại, nhưng chủ yếu là những công trình nghiên cứu xem xét một vài khía
cạnh liên quan đến trọng tài hoặc pháp luật về trọng tài Việt Nam nói chung mà
chưa có công trình nghiên cứu so sánh pháp luật về trung tâm trọng tài như một
thiết chế giải quyết tranh chấp từ kinh nghiệm của các nước có trung tâm trọng tài
hoạt động hiệu quả như Singapore. Vì vậy, có thể nói đây là công trình nghiên cứu
so sánh một cách đầy đủ và toàn diện các vấn đề về pháp luật trung tâm trọng tài.
4
3. Mục đích và Nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
và thực tiễn áp dụng của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam và Singapore
cũng như tổ chức và hoạt động của thiết chế trọng tài, từ đó tìm ra những bài học và
khả năng ứng dụng tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hình thức giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài.
Để đạt được mục đích này, luận văn đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Nhận diện cách tiếp cận, mục tiêu, nguyên tắc và các tiêu chí xây dựng
pháp luật trọng tài Việt Nam và Singapore; trên cơ sở đó phân tích, so sánh
nhằm rút ra những kinh nghiệm hữu ích hoàn thiện pháp luật trọng tài thương
mại Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn cũng chú ý phân tích tính tương thích với
Luật mẫu về trọng tài thương mại làm căn cứ cho quá trình hoàn thiện thiết chế
trọng tài tại Việt Nam.
- Phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của Trung tâm trọng tài
Singapore; so sánh với Trung tâm trọng tài quốc tế bên cạnh Phòng thương mại và
công nghiệp Việt Nam (VIAC) cũng như thực tế giải quyết tranh chấp của các trung
tâm trọng tài, từ đó rút ra kinh nghiệm kiện toàn cơ cấu hoạt động Trung tâm trọng
tài của Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại
Việt Nam và kiện toàn cơ chế trung tâm trọng tài giải quyết tranh chấp như Trung
tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC).
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào việc so sánh Luật trọng
tài thương mại Singapore hiện hành với thiết chế trọng tài trung tâm là Trung
tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) và pháp luật Trọng tài thương mại hiện
hành của Việt Nam với thiết chế trọng tài trung tâm là Trung tâm trọng tài
Quốc tế Việt Nam (VIAC).
5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề nêu trên, tác giả đã vận dụng phương pháp luận
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác- Lênin; quán triệt quan điểm, chủ trương của
Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, về đảm bảo quyền tự do kinh doanh, về việc hoàn thiện hệ thống các cơ quan
tài phán kinh tế.
Với mục đích của đề tài là So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài của Việt
Nam với pháp luật về trung tâm trọng tài thương mại Singapore trên cơ sở các tiêu
chí cụ thể theo pháp luật trọng tài thương mại của Việt Nam và Singapore. Đối với
yêu cầu của đề tài như trên, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp trong quá
trình nghiên cứu như sau: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp khái quát hóa để làm rõ nội
dung đề tài.
6. Những điểm mới của luận văn
Kết quả nghiên cứu đề tài cho thấy những đóng góp mới của luận văn tập
trung vào một số vấn đề sau đây:
Về mặt lý luận, luận văn đã nghiên cứu cách tiếp cận và thể chế hóa các quy
định pháp luật về trọng tài thương mại Singapore – một trong quốc gia có tổ chức
trọng tài được đánh giá hoạt động hiệu quả nhất hiện nay để từ đó xác định những
điểm tương đồng, khác biệt và rút ra kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
vấn đề này.
Về mặt thực tiễn, luận văn cũng nghiên cứu thực trạng giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại tại hai trung tâm trọng tài lớn ở Việt Nam và Singapore. Từ
việc so sánh thực trạng này, đưa ra những đánh giá “đời sống xã hội” của các quy
định pháp luật về trọng tài và đề xuất kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động của
trọng tài tại Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
thiết kế bố cục gồm 3 chương như sau:
6
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về trọng tài thương mại và trung tâm trọng tài
Chƣơng 2. So sánh thực trạng pháp luật về Trung tâm trọng tài quốc tế Việt
Nam (VIAC) và Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore (SIAC)
Chƣơng 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam và
kiện toàn cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại VIAC.
7
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ
TRUNG TÂM TRỌNG TÀI
1.1. Khái quát về trọng tài thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm và vai trò của trọng tài thương mại
1.1.1.1. Khái niệm Trọng tài thương mại
Trọng tài, xét về mặt ngữ nghĩa, được hiểu là tài phán trung lập, ở đây chỉ
người thứ ba được cử ra làm trung gian để phân xử sự bất đồng giữa hai bên. Với ý
nghĩa này, trọng tài đã xuất hiện từ lâu, có vai trò giải quyết tranh chấp phát sinh
theo yêu cầu của các bên.
Khi thương mại phát triển thì tranh chấp xảy ra là điều không thể tránh khỏi
và các thương gia thường cố gắng tìm ra mọi phương pháp thích hợp để giải quyết
những tranh chấp đó. Trường hợp các bên không thể tự giải quyết được với nhau, vụ
việc sẽ được đưa đến một bên thứ ba trung lập, người thứ ba này thường là người có
kinh nghiệm để giải quyết. Trong thời kì đầu, việc giải quyết của người thứ ba chỉ
dừng lại ở việc tìm hiểu nội dung vụ việc, giải thích các vấn đề mà các bên đang
quan tâm và đưa ra ý kiến để họ tham khảo. Về sau này, xuất phát từ nhu cầu giải
quyết tranh chấp phải dứt điểm, nhanh chóng nên các bên thỏa thuận rằng quyết
định của bên thứ ba giải quyết tranh chấp là quyết định cuối cùng. Đó là tiền thân
của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại ngày nay [14].
Hiện nay, TTTM đã trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp phổ
biến và được các nhà kinh doanh ưa chuộng, nhất là ở các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển. TTTM ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong việc
giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại nhờ các ưu thế xuất
phát từ bản chất của trọng tài.
Trong khoa học pháp lý, trọng tài được nghiên cứu dưới những góc độ khác
nhau nhưng chủ yếu dưới hai phương diện sau đây:
Thứ nhất, trọng tài là một phương thức để giải quyết tranh chấp:
8
Theo hiệp hội trọng tài tại Hoa Kỳ: “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh
chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số người khách quan xem
xét, giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng có giá trị bắt buộc các bên
tranh chấp phải thi hành” [25].
Theo giáo sư Philipe Fouchard:“Trọng tài là một phương thức giải quyết
tranh chấp, theo đó các bên thỏa thuận giao cho một cá nhân (Trọng tài viên) thẩm
quyền giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau” [6, tr17].
Cùng quan điểm coi trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp, cuốn
“Đạo đức và kĩ năng hành nghề của Luật sư trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” đã định nghĩa về trọng tài như sau:“Trọng tài là phương
thức giải quyết tranh chấp, theo đó, hai hoặc nhiều bên đưa vụ tranh chấp của họ
ra trước bên thứ ba trung lập để chủ thể này tiến hành giải quyết tranh chấp theo
những thủ tục đặc trưng của quá trình đó” [8, tr10].
Giáo trình Luật kinh tế trường đại học Luật Hà Nội đưa ra định nghĩa:“Trọng
tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên với tư
cách là bên thứ ba độc lập, nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra một phán
quyết trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên tranh chấp và có hiệu lực bắt buộc đối
với mỗi bên” [36, tr55].
Luật Mẫu UNCITRAL quy định: “Trọng tài nghĩa là mọi hình thức trọng tài
có hoặc không có sự giám sát của một tổ chức thường trực”.
Pháp lệnh TTTM năm 2003 quy định tại Điều 2:“Trọng tài là phương thức
giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa
thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục do Pháp lệnh quy định”.
Thứ hai, trọng tài là một thiết chế để giải quyết tranh chấp:
Xuất phát từ quan điểm coi trọng tài là một thiết chế tài phán, “Giáo trình Tư
pháp quốc tế của Liên Xô (cũ) có viết: Trọng tài bao gồm những cá nhân được các
bên lựa chọn để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các vụ việc dân sự của họ”
[34, tr384].
9
Theo giáo trình “Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại” của Trường Đại
học Ngoại thương: “Trọng tài thương mại là cơ quan trung gian được các bên
đương sự giao tranh chấp cho để xét xử” [37, tr79].
Ngoài ra, từ điển luật học Anh – Mỹ của Black đã đưa ra khái niệm về trọng
tài dưới góc độ tố tụng, theo đó, trọng tài được nhìn nhận như một quá trình: “Trọng
tài là một quá trình giải quyết tranh chấp do các bên tự nguyện lựa chọn, trong đó
bên thứ ba trung lập (Trọng tài viên) sau khi nghe các bên trình bày, sẽ ra quyết
định có tính chất bắt buộc đối với các bên trong tranh chấp ấy” [38, tr105].
Qua các định nghĩa về trọng tài nêu trên, có thể thấy rằng: Quan điểm coi
trọng tài là một thiết chế để giải quyết tranh chấp gần như thiên về mặt hình
thức nhiều hơn, nhìn nhận sự tồn tại thực tế của tổ chức trọng tài dưới dạng các
Trung tâm Trọng tài - cơ quan tài phán độc lập, tồn tại song song với Tòa án.
Quan điểm coi trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp thiên về mặt bản
chất nhiều hơn, khái quát các đặc trưng của trọng tài khác với các hình thức
giải quyết tranh chấp khác.
Các định nghĩa về trọng tài nêu trên đều có cơ sở lý luận và thực tiễn, chỉ
khác nhau ở mức độ khái quát và góc độ xem xét. Tất cả đều có điểm chung là
Trọng tài chính là công cụ để giải quyết tranh chấp theo thủ tục đặc trưng của nó: do
các bên thỏa thuận, vai trò trung lập, đưa ra quyết định bắt buộc các bên phải thực
hiện… Những đặc trưng này thể hiện bản chất của trọng tài là một phương thức tài
phán tư, kết hợp được hai mặt thỏa thuận và tài phán.
Theo tác giả, để có thể đưa ra một định nghĩa chung nhất về trọng tài, cần có
một cái nhìn tổng quát với sự đánh giá mang tính lịch sử:
- Về mặt thời gian, quan điểm định nghĩa trọng tài thiên về hình thức chủ yếu
tồn tại ở giai đoạn khi trọng tài chưa thực sự phát triển. Cụ thể, ý kiến coi “Trọng tài
bao gồm những cá nhân được các bên lựa chọn để giải quyết các tranh chấp phát
sinh từ các vụ việc dân sự của họ” được nêu ra từ năm 1984; ý kiến cho rằng
“Trọng tài thương mại là cơ quan trung gian được các bên đương sự giao tranh
10
chấp cho để xét xử” nêu trong giáo trình “Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối
ngoại” của trường đại học Ngoại thương xuất bản từ những năm 1994.
Từ điển luật học Black định nghĩa trọng tài cũng có sự thay đổi theo hướng
trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp.
+ Edition 6 (1990): “Trọng tài là quá trình giải quyết tranh chấp do các bên
tự nguyện lựa chọn, trong đó bên thứ ba trung lập (Trọng tài viên) sau khi nghe các
bên trình bày, sẽ ra quyết định có tính chất bắt buộc đối với các bên trong tranh
chấp ấy” [40, tr 105].
+ Edition 2 (2001): “Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp có
sự tham gia của một hay nhiều bên thứ ba trung lập được chọn bởi các bên tranh
chấp và quyết định của họ có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên” [41, tr41].
Thời gian sau này, các định nghĩa trọng tài đều thiên về mặt bản chất, khẳng
định trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp.
+ Xét về nội hàm của khái niệm thì quan điểm coi trọng tài là một thiết chế
chưa bao quát được đặc trưng riêng của trọng tài khác với các hình thức giải quyết
tranh chấp khác như thương lượng, hòa giải, tố tụng tư pháp… Mặt khác, việc coi
trọng tài là một thiết chế chỉ đúng nghĩa về mặt pháp lý; nếu xét về mặt tổ chức -
coi trọng tài là một cơ quan tồn tại hiện hữu có phần thiếu chính xác. Bởi lẽ, Ban
thường trực của các TTTT gồm Chính phủ, Phó chủ tịch, các nhân viên giúp việc
không thực hiện chức năng của trọng tài. Khi các bên trong tranh chấp giao quyền
lực cho trọng tài là giao quyền giải quyết tranh chấp cho TTV/HĐTT chứ không
phải giao quyền lực cho TTTT. Các TTV/HĐTT không phải là nhân viên của TTTT,
mà họ chỉ thực hiện những công việc giải quyết tranh chấp khi được các bên yêu
cầu và khi giải quyết xong thì họ hết nhiệm vụ với các bên. Khác với Tòa án là cơ
quan được Nhà nước thành lập để thực hiện quyền lực tư pháp của nhà nước; khi
các bên tranh chấp khởi kiện ra Tòa án, họ không có quyền lựa chọn để giao quyền
lực cho Thẩm phán, việc phân công Thẩm phán thuộc thẩm quyền của Chánh án.
Với lập luận trên, có thể thấy rằng coi trọng tài là phương thức giải quyết
tranh chấp với những đặc trưng riêng của nó là phù hợp nhất.
11
Trong lịch sử, khi kinh tế thị trường với những quy luật cơ bản như quy luật
giá trị, quy luật cạnh tranh… thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động
kinh tế nói chung và thương mại nói riêng, thì trọng tài chủ yếu được sử dụng trong
giải quyết các tranh chấp thương mại. Trong lĩnh vực này, nó tỏ ra phù hợp và ưu
thế hơn so với những cách giải quyết khác. Phạm vi các vụ tranh chấp được giải
quyết bằng phương thức TTTM rộng hay hẹp phụ thuộc vào các quy định trong
pháp luật của mỗi quốc gia, trong đó quan điểm về thương mại có ảnh hưởng rất
quan trọng.
Trên thế giới pháp luật của hầu hết các nước đều quan niệm “thương mại”
theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các hoạt động của thương nhân liên quan đến các
mối quan hệ có bản chất thương mại.
Bộ luật thương mại Thái Lan cũng có phạm vi điều chỉnh khá rộng, bao gồm
mua bán hàng hóa, thuê tài sản, thuê mua tài sản, tín dụng, thế chấp, đại diện, môi
giới, bảo hiểm, công ty, hợp danh…[7].
Trong phần chú thích của Điều 1 Luật Mẫu về TTTM Quốc tế năm 1985 của
UNCITRAL có ghi rõ:
Khái niệm thương nhân cần phải được giải thích theo nghĩa rộng, bao gồm tất
cả các vấn đề phát sinh từ tất cả các quan hệ có bản chất thương mại, dù có hay
không có hợp đồng. Quan hệ có bản chất thương mại bao hàm nhưng không chỉ giới
hạn với các giao dịch sau đây: Bất kỳ giao dịch buôn bán nào nhằm cung cấp, trao
đổi hàng hóa hay dịch vụ, hợp đồng phân phối, đại diện thương mại hay đại lý, các
công việc sản xuất, thuê máy móc thiết bị, xây dựng, tư vấn thiết kế cơ khí, li –
xăng, đầu tư, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các hợp đồng khai thác hoặc chuyển
nhượng, liên doanh và các hình thức khác của hợp tác công nghiệp hoặc kinh
doanh, vận tải hàng hóa hoặc hành khách bằng đường không, đường biển, đường sắt
hoặc đường bộ.
Trong khi đó, Luật thương mại năm 1997 của Việt Nam quy định khái niệm
thương mại với nội hàm rất hẹp, chỉ gồm những hành vi do thương nhân tiến hành
liên quan đến hàng hóa và dịch vụ mua bán hàng hóa. Khoản 2 Điều 5 Luật thương
12
mại 1997 quy định: “Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi
thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc
nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội”. Khái niệm “thương mại” rất bất cập
này dẫn đến nhiều hành vi có bản chất thương mại đã không được coi là hành vi
thương mại, xét riêng về sự liên quan đến TTTM thì rõ ràng đã thu hẹp thẩm quyền
của TTTM ở Việt Nam.
Khắc phục hạn chế nêu trên, Pháp lệnh TTTM được ban hành năm 2003 đã
đưa ra một khái niệm mới là khái niệm “hoạt động thương mại” và quy định TTTM
có quyền giải quyết mọi tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Khái
niệm hoạt động thương mại trong pháp lệnh TTTM được hiểu theo một nghĩa rất
rộng, bao gồm hầu như các lĩnh vực hoạt động của thương nhân, từ sản xuất đến lưu
thông, phân phối, từ sản xuất hàng hóa đến cung ứng dịch vụ, từ hoạt động kinh
doanh thông thường đến hoạt động kinh doanh có tính chất đặc thù. Theo quy định
tại Khoản 3 Điều 2 pháp lệnh này thì “ Hoạt động thương mại là việc thực hiện một
hay nhều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán
hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện; đại lý thương mại; ký gửi; thuê,
cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li- xăng; đầu tư; tài chính, ngân
hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường
hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo
quy định của pháp luật”. Về cơ bản, có thể nói, thuật ngữ “hoạt động thương mại”
trong Pháp lệnh TTTM năm 2003 của Nhà nước ta có nội hàm tương tự như khái
niệm thương mại trong luật Mẫu UNCITRAL về TTTM và khái niệm “kinh doanh”
trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 (Khoản 2 Điều 4).
Được ban hành trong điều kiện nhà nước ta đang đẩy nhanh tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế, Luật Thương mại năm 2005 đã định nghĩa “hoạt động thương
mại” với nội hàm như khái niệm nêu trên trong pháp lệnh TTTM, nhưng nội dung
gọn hơn và thể hiện rõ hơn bản chất của thương mại: “Hoạt động thương mại là
13
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ,
đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
Như vậy, có thể nói khái niệm hoạt động thương mại được quy định trong
Pháp lệnh TTTM và Luật Thương mại năm 2005 đã tiếp cận được với pháp luật
quốc tế và pháp luật của các nước trên thế giới, cho phép mở rộng phạm vi các hoạt
động thương mại.
Khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 có quy định: “Trọng tài
thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được
tiến hành theo quy định của Luật này”. Có thể nhận thấy, quy định của Luật Trọng
tài thương mại còn khá chung chung. Để có được cách hiểu đầy đủ nhất về trọng tài
thương mại ta có thể đưa ra định nghĩa trọng tài thương mại như sau:
Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp, theo đó các
bên thỏa thuận đưa vụ việc ra trước một bên thứ ba trung lập để xem xét và ra phán
quyết, bên thứ ba này có thể là một trọng tài viên hoặc một hội đồng trọng tài; phán
quyết của bên thứ ba có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên.
1.1.1.2. Vai trò của trọng t ài thương mại trong giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại
Cùng với sự chuyển mình mạnh mẽ của nước ta từ hình thức kinh tế tập
trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các hoạt động
thương mại giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau cũng như sự giao thương
với các doanh nghiệp nước ngoài ngày càng phát triển. Đặc biệt là khi Nhà nước ta
đang dần dần hoàn thiện một hành lang pháp lý vững chắc, giúp bảo vệ quyền lợi và
lợi ích của các doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động kinh doanh, thương mại. Đi
kèm với những bước tiến đó là những nảy sinh trong tranh chấp thương mại giữa
các bên ngày càng nhiều về số lượng và rắc rối trong cách giải quyết tranh chấp.
Điều này đã đặt lên vai những người làm luật một trọng trách nặng nề, đặc biệt là
những người cầm cân nảy mực, đảm bảo sự công bằng cho các bên trước pháp luật.
Bên cạnh hệ thống Tòa án thì Trọng tài là một biện pháp giải quyết tranh chấp tồn
tại từ rất lâu, và ở Việt Nam thì Trọng tài đã từng được thừa nhận vào cuối thế kỷ
14
thứ XIX [7]. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì trọng tài đã chuyển từ một tổ
chức cơ quan hành chính nhà nước có chức năng giải quyết sang một tổ chức có
chức năng tài phán. Đặc biệt là sự ra đời của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm
2003, và mới đây nhất là Luật Trọng tài thương mại 2010 đã đánh một dấu mốc
quan trọng trong lịch sử phát triển của pháp luật Trọng tài Việt Nam.
Thực tế khi các tranh chấp phát sinh trong các hoạt động thương mại, các
bên có thể thương lượng, hòa giải với nhau để giải quyết vụ việc. Trong trường hợp
các bên không thể tự hòa giải được thì có thể đưa đến cơ quan Trọng tài hoặc Tòa
án. Trong khi đó, trên thực tế có nhiều tranh chấp xảy ra mang yếu tố nước ngoài.
Tuy nhiên, thường các bên e ngại Thẩm phán sẽ ưu ái cho đương sự nước họ hơn.
Còn nếu tiến hành tố tụng ở một nước thứ ba thì thủ tục không hề đơn giản, mặt
khác các bên có thể bỡ ngỡ trước những quy tắc, thủ tục và trình tự tố tụng của quốc
gia thứ ba đó. Ngoài ra, thủ tục tố tụng dù thực hiện ở cơ quan Tòa án nào cũng đòi
hỏi những thủ tục phức tạp, mất nhiều thời gian và tiền bạc. Do đó, trên thực tế,
Trọng tài đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp thương
mại, đặc biệt là các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài. Cụ thể là:
Thứ nhất, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài rất tôn trọng ý chí của
các bên đương sự. Các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên, chọn thủ tục trọng tài
nhằm giải quyết có hiệu quả nhất tranh chấp mà có thể hạn chế được tổn thất về mặt
thời gian cũng như tài chính. Việc giải quyết tranh chấp có thể được tiến hành bởi
một trọng tài viên hay HĐTT tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên.
Thứ hai, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tuy tuân theo ý chí của
các bên nhưng vẫn có sự ràng buộc về mặt pháp lý. Điều đó giúp cho cơ chế giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài hữu hiệu hơn biện pháp hòa giải hay thương lượng.
Nếu như hòa giải hay thương lượng chỉ mang tính khuyến nghị chứ không mang
tính ràng buộc về mặt pháp lý đối với các bên tranh chấp thì quyết định của Trọng
tài mang hiệu lực pháp luật nên các bên có nghĩa vụ thi hành.
Thứ ba, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài linh hoạt hơn Tòa án.
Trong cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các trọng tài viên được các bên
15
lựa chọn có quyền xem xét và ra quyết định một cách hoàn toàn độc lập trên cơ sở
những chứng cứ, tài liệu mà các bên cung cấp hoặc có được bằng con đường khác
như: tự điều tra xem xét; giám định viên và nhân chứng cung cấp thông tin trên cơ
sở quy định của pháp luật. Chính điều này dễ làm ta liên tưởng đến tố tụng tại Tòa
án. Tuy nhiên, về bản chất quyền lực của Tòa án và Trọng tài khác hẳn nhau. Nếu
như Tòa án đại diện cho quyền lực của Nhà nước thì Trọng tài đại diện cho ý chí
của các bên đương sự. Do đó, khi yêu cầu sự can thiệp của Trọng tài các bên có thể
tự do lựa chọn Trọng tài viên hay các cơ quan trọng tài để giải quyết. Nhưng trong
tố tụng tại Tòa án, các bên không có quyền lựa chọn Tòa giải quyết cũng như lựa
chọn Thẩm phán.
Thứ tư, tố tụng Trọng tài thường nhanh chóng hơn so với tố tụng tại Tòa án.
Đặc điểm của tố tụng Trọng tài là chỉ xét xử một lần và phán quyết có giá trị chung
thẩm, chỉ trong một số trường hợp đặc biệt Tòa án mới xem xét lại quyết định của
Trọng tài. Đối với các tranh chấp thương mại thì sự nhanh gọn của hình thức giải
quyết này là một trong những ưu thế mà các bên ưu tiên lựa chọn.
Thứ năm, Trọng tài có thể xét xử không công khai nếu như các bên đương sự
yêu cầu. Nhờ vậy mà có thể giữ được các bí mật chi tiết, số liệu, thông tin cụ thể mà
các bên tranh chấp không muốn công khai… giúp tránh được những hậu quả khôn
lường và thiệt hại sau này khi các bên kết thúc tranh chấp.
Với những đặc điểm và vai trò như vậy, giải quyết tranh chấp bằng biện
pháp trọng tài đã đáp ứng được yêu cầu giải quyết tranh chấp dân sự nói chung
và thương mại nói riêng đối với các tranh chấp có yếu tố nước ngoài và trong
quan hệ quốc tế. Có thể nói đây là phương thức giải quyết tranh chấp có tính
khả thi và phổ biến nhất.
1.1.2. Pháp luật Việt Nam và Singapore về trọng tài thương mại
1.1.2.1. Pháp luật Việt Nam về trọng tài thương mại
Hiện nay, cơ sở pháp lý chủ yếu cho hoạt động Trọng tài thương mại ở Việt
Nam được xây dựng bởi các quy định trong các văn bản sau đây:
16
- Luật Trọng tài thương mại Việt Nam được Quốc hội nước CHXHCN Việt
Nam thông qua ngày 17/6/2010 tại kỳ họp thứ 7, khóa XII, được công bố ngày
29/06/2010 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2011.
- Bộ luật Tố tụng Dân sự được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 15/06/2004
có hiệu lực ngày 01/01/2005 (Phần thứ năm: Chương XXV thủ tục giải quyết các
việc dân sự liên quan đến hoạt động Trọng tài thương mại Việt Nam; Phần thứ sáu:
Chương XXI thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết
định của Trọng tài nước ngoài).
- Luật Thương mại 2005 được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 14/06/2005
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2006 quy định việc giải quyết tranh chấp với
hình thức Trọng tài tại Điều 17.
- Luật Thi hành án dân sự năm 2008, trong đó có quy định về tổ chức là thủ
tục thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam và Quyết định của Trọng tài thương mại Việt Nam.
- Đối với thiết chế VIAC, áp dụng Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm
trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC).
- Công ước New York 1958 về Công nhận và Thi hành các quyết định trọng
tài nước ngoài, mà Việt Nam là 1 trong 120 thành viên gia nhập ngày 12/9/2005 với
nội dung cơ bản được luật hóa tại Bộ luật Tố tụng dân sự 2004.
1.1.2.2. Pháp luật Singapore về trọng tài thương mại
Hiện nay, hoạt động của Trọng tài thương mại Singapore chủ yếu dựa vào các
quy định pháp luật sau đây làm nền tảng:
- Luật trọng tài năm 1970 (sửa đổi, bổ sung năm 1980);
- Đạo luật Trọng tài Quốc tế (“IAA”), thông qua năm 1994. Đạo luật này
đã được sửa đổi một số lần mà gần nhất là năm 2009. IAA được thiết kế gồm ba
phần: Phần I là điều khoản chung; Phần II chứa các quy định về thủ tục trọng
tài quốc tế, trong đó Luật Mẫu UNCITRAL được ghi nhận là một phần pháp
luật Singapore ngoại trừ Chương VIII của Luật Mẫu về công nhận và cho thi
17
hành phán quyết trọng tài; Sở dĩ như vậy vì Phần III của IAA ghi nhận Công
ước New York về vấn đề này.
- Luật Mẫu UNCITRAL về Trọng tài Thương mại Quốc tế năm 1985.
- Đối với thiết chế SIAC, áp dụng Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm
trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC).
- Công ước New York 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng
tài nước ngoài.
1.1.3. Trung tâm trọng tài thương mại theo Phá p luật Viê ̣t Nam và Singapore
1.1.3.1 Thẩm quyền
Về cơ bản, pháp luật về trọng tài của các nước trên thế giới đều quy định cho
trọng tài có một quyền năng rất rộng. Trọng tài có thể giải quyết tất cả các loại tranh
chấp phát sinh từ những quan hệ được thiết lập trên cơ sở bình đẳng và thoả thuận
của các bên.
Trọng tài thương mại được thành lập là để giải quyết các tranh chấp thương
mại. Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử nếu giữa các bên tồn tại một thỏa thuận
chọn Trọng tài để giải quyết tranh chấp, đó phải là một thỏa thuận trọng tài cụ thể,
rõ ràng và theo đúng quy định của Pháp luật và Quy tắc tố tụng Trọng tài.
Khác với thẩm quyền của Tòa án, thẩm quyền của trọng tài chỉ là thẩm quyền
vụ việc, nếu được các bên có “vụ việc” lựa chọn đích danh. Các nguyên tắc phân
định thẩm quyền theo lãnh thổ, theo trụ sở hoặc chỗ ở của bị đơn và theo sự thỏa
thuận của nguyên đơn không được áp dụng trong tố tụng trọng tài. Thẩm quyền của
trọng tài không được phân định theo lãnh thổ, vì các bên có tranh chấp có quyền
thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một tổ chức trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho
họ, không phụ thuộc vào nơi ở cũng như trụ sở của nguyên đơn hay bị đơn, cũng
không phân định theo cấp xét xử, vì chỉ có một cấp trọng tài và lại càng không phân
định theo sự lựa chọn của nguyên đơn, vì trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết nếu
các bên có thỏa thuận trọng tài.
Khi các bên đã có thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng con đường
trọng tài, tức là họ đã trao đổi cho hội đồng trọng tài thẩm quyền giải quyết tranh
18
chấp và phủ nhận thẩm quyền xét xử đó của tòa án, trừ khi thỏa thuận trọng tài vô
hiệu hoặc các bên hủy thỏa thuận trọng tài.
Như vậy, trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp nào
được pháp luật quy định là tranh chấp thương mại và các tranh chấp khác được
pháp luật quy định và các bên có thỏa thuận trọng tài. Nếu thiếu một trong hai điều
kiện trên, vụ việc sẽ không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại.
Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định trọng tài có thẩm
quyền giải quyết các loại tranh chấp sau đây:
(i). Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại;
(ii). Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động
thương mại;
(iii). Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết
bằng trọng tài.
Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 quy định cụ thể các loại “hoạt
động thương mại” theo hình thức liệt kê, Luật Trọng tài thương mại năm 2010
không hề có quy định nào giải thích khái niệm “hoạt động thương mại” mà khái
niệm hoạt động thương mại khi vận dụng luật, ta phải căn cứ vào quy định pháp luật
có quan hệ gần nhất là Luật Thương mại năm 2005, Khoản 1 Điều 3 của luật này
quy định “hoạt động thương mại” gồm các “hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Như vậy, có thể thấy phạm vi của hoạt động
thương mại rất rộng.
So với Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, phạm vi thẩm quyền của
trọng tài theo quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010 đã được mở rộng đáng
kể, phạm vi giải quyết tranh chấp của trọng tài không chỉ giới hạn là các tranh chấp
liên quan đến lĩnh vực thương mại theo quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương
mại năm 2003 mà còn hướng đến các tranh chấp không kể phát sinh từ nghĩa vụ
hợp đồng hay nghĩa vụ ngoài hợp đồng. Tất nhiên là loại trừ các tranh chấp liên
quan đến quyền nhân thân, tranh chấp liên quan đến hôn nhân, gia đình và thừa kế
19
theo quy định của pháp luật dân sự và hôn nhân gia đình; liên quan đến phá sản theo
quy định của pháp luật về phá sản; tranh chấp liên quan đến vi phạm quy định của
pháp luật cạnh tranh; các tranh chấp về đất đai, lao động.
Bên cạnh đó, yếu tố chủ thể cũng được mở rộng hơn, theo đó “các bên”
không phân biệt tổ chức hoặc cá nhân đều có thể lựa chọn trọng tài để giải quyết
tranh chấp, Luật Trọng tài thương mại 2010 đã khắc phục được những bất cập của
Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 vốn chỉ cho phép trọng tài giải quyết tranh
chấp trong đó chủ thể phải là “tổ chức kinh doanh” và “cá nhân kinh doanh” khiến
các bên tranh chấp và trung tâm trọng tài gặp nhiều khó khăn, vướng mắc về chủ
thể là “cá nhân kinh doanh”. Đây là chủ thể gây nhiều tranh cãi vì pháp lệnh cũng
như các văn bản hướng dẫn thi hành không xác định rõ thế nào là cá nhân kinh
doanh. Cá nhân kinh doanh là bất kỳ cá nhân nào bỏ vốn đầu từ kinh doanh hay là
cá nhân có đăng ký kinh doanh. Vậy thì cá nhân kinh doanh theo cách hiểu của
Nghị định 25/2004/NĐ-CP là gì? Về chủ thể là “tổ chức kinh doanh”. Tổ chức kinh
doanh theo quy định của pháp luật là các Doanh nghiệp, hợp tác xã nhưng trên thực
tế có rất nhiều tổ chức không đăng ký kinh doanh, không thực hiện hoạt động kinh
doanh như ban quản lý dự án, cơ quan hành chính sự nghiệp tham gia đấu thầu hoặc
giao kết các hợp đồng, kể cả các hợp đồng mua sắm chính phủ… Khi phát sinh
tranh chấp các trung tâm trọng tài của Việt Nam phải từ chối giải quyết vì các chủ
thể này không phải là tổ chức kinh doanh.
Vậy, rõ ràng việc mở rộng thẩm quyền cho trọng tài thương mại là rất cần
thiết, từ đó sẽ giúp giảm gánh nặng xét xử hơn cho tòa án và tạo điều kiện hơn nữa
cho xét xử trọng tài tại Việt Nam. Hơn nữa, quy định về mở rộng thẩm quyền của
trọng tài thương mại là phù hợp với xu thế chung của pháp luật các nước về trọng
tài và luật mẫu về Trọng tài của UNCITRAL.
Song, xuất pháp từ góc độ bảo vệ người tiêu dùng, Luật TTTM năm 2010
cũng ý thức được rằng việc đưa ra quy định này có thể bị lạm dụng trong quan hệ
tranh chấp giữa một bên là các doanh nghiệp thường có thế lực, tiền bạc, có nhiều
ảnh hưởng với một bên là người tiêu dùng yếu thế hơn. Khi đó, việc đưa ra giải
20
quyết tại trọng tài có thể gây bất lợi cho người tiêu dùng vì bản thân họ rất khó khăn
khi phải chứng minh các lỗi của nhà cung cấp. Hơn nữa người tiêu dùng thường bị
đặt vào vị thế có nhiều nguy cơ bị lạm dụng bởi các điều khoản và điều kiện trong
hợp đồng in sẵn của bên bán hàng hoặc bên cung ứng dịch vụ, do vậy mà việc giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài có thể chỉ là ý muốn của một phía các doanh nghiệp.
Vì vậy, pháp luật quy định: “Đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa,
dịch vụ và người tiêu dùng, mặc dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong
các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa
thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án
để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện
tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận”(Điều 17 LTTTM năm 2010).
Trong trường hợp này, Luật TTTM năm 2010 cho phép người tiêu dùng lựa chọn
phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài hoặc Tòa án để bảo đảm quyền
lợi nhỏ bé của họ.
Đối với các tranh chấp có yếu tố nước ngoài tại khoản 4 Điều 3 Luật TTTM
năm 2010 đã quy định: “Tranh chấp có yếu tố nước ngoài là tranh chấp phát sinh
trong quan hệ thương mại, quan hệ pháp luật khác có yếu tố nước ngoài được quy
định tại Bộ luật dân sự”.
Để từ đó tương thích với BLDS 2005 và khắc phục những tồn tại của Pháp
lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 vì Pháp lệnh chưa tương đồng với BLDS 2005
và mới chỉ quan tâm đến yếu tố quốc tịch của chủ thể mà chưa quan tâm đến các
yếu tố khác như nơi cư trú, nơi có quan hệ mật thiết với chủ thể hoặc hợp đồng.
Trong quy định pháp luật của thế giới thì những yếu tố này cũng có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng chứ không chỉ có yếu tố quốc tịch của chủ thể.
Khác với quy định của Luật Trọng tài thương mại Việt Nam, Luật Trọng
tài Singapore không có điều khoản cụ thể quy định về thẩm quyền của trọng tài
thương mại và dẫn chiếu đến quy định của Luật Mẫu về trọng tài thương mại. Ở
các nước áp dụng hai hệ thống chế định riêng biệt cho trọng tài quốc tế (có yếu
tố nước ngoài) và trọng tài nội địa (không có yếu tố nước ngoài) như các nước
21
Singapore, Hong Kong, Úc,… thì việc xác định đạo luật nào áp dụng cho hoạt
động trọng tài nào là rất cần thiết, vì mỗi loại chế định trọng tài sẽ có các quy
định khác nhau. Tại các nước này, luật về trọng tài quốc tế áp dụng đối với các
hoạt động trọng tài có yếu tố nước ngoài và luật trọng tài trong nước áp dụng đối
với các hoạt động trọng tài còn lại.
Theo đó, thẩm quyền của trọng tài thương mại phát sinh khi hai bên có thỏa
thuận trọng tài. Cụ thể, Luật Trọng tài Singapore quy định về thỏa thuận trọng tài
như sau:
Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài: Thỏa thuận trọng tài sẽ không bị chấm
dứt vì một bên của thỏa thuận chết; khi một bên của thỏa thuận chết, thỏa thuận
sẽ được thực hiện bởi người được quyền kế tục của người đã chết, cũng theo
đó, thẩm quyền của trọng tài viên sẽ không bị hủy bỏ khi một bên đã chỉ định
trọng tài viên đó đã chết.
Trong trường hợp phá sản: Điều khoản về thỏa thuận trọng tài tiếp tục được
thực hiện trong trường hợp bị phá sản, người được nhượng quyền chính thức sẽ tiếp
tục thực hiện thỏa thuận này.
Trong trường hợp đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên trong thỏa thuận
trọng tài hoặc một người khiếu kiện theo mệnh lệnh của bên đó bắt đầu thủ tục tố
tụng chống lại bên kia về một sự việc đã được thỏa thuận đưa ra trọng tài giải quyết
thì bên còn lại có thể nộp đơn ra tòa án yêu cầu dừng tố tụng vào bất kỳ thời điểm
nào sau khi tham gia và trước khi gửi các bản trình bày hoặc tiến hành các bước
khác trong thủ tục tố tụng. Toà án hay một thẩm phán của toà có thể ra lệnh dừng tố
tụng nếu thấy không có đủ lý do tại sao vấn đề không được xem xét theo như thoả
thuận trọng tài, và tại thời điểm bắt đầu quá trình tố tụng, bên đưa đơn đề nghị đã và
vẫn sẵn sàng và thiện chí làm tất cả mọi việc cần thiết để tiến hành thủ tục trọng tài
một cách hợp thức.
1.1.3.2. Hiệu lực của quyết định trọng tài thương mại
Ở hầu hết các quốc gia, pháp luật trọng tài đều quy định phán quyết trọng tài
có giá trị chung thẩm bởi hai lý do:
22
Thứ nhất, TTTT là một loại hình tổ chức xã hội- nghề nghiệp, với đặc điểm
thủ tục tố tụng xét xử một cấp, các TTTT độc lập với nhau, không có sự phân cấp
cũng như phân vùng xét xử.
Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài là kết quả của sự thỏa
thuận giữa các bên. Cho nên trọng tài nhân danh ý chí tối cao của các bên đương sự.
Do đó, các bên phải có nghĩa vụ tôn trọng kết quả của chính sự thống nhất ý chí đó.
Các bên không có quyền kháng cáo mà phải thức hiện phán quyết ngay.
Điều 32 bản quy tắc trọng tài UNCITRAL có quy định: “Quyết định Trọng
tài phải làm bằng văn bản và là quyết định cuối cùng ràng buộc đối với các bên.
Các bên có trách nhiệm thực hiện ngay quyết định trọng tài”. Phù hợp với thông lệ
quốc tế, pháp luật Việt Nam cũng có quy định như: “Quyết định này là quyết định
chung thẩm không thể kháng cáo tại bất cứ Tòa án hay tổ chức nào khác” hay
“Quyết định giải quyết tranh chấp của trung tâm trọng tài kinh tế có hiệu lực thi
hành không thể bị kháng cáo”. Các quy định nêu trên xét về mặt tinh thần có nghĩa
là: một khi trọng tài đã ra quyết định thì quyết định đó bất di bất dịch, chỉ được
phép chỉnh lý những vấn đề về tính toán, ghi chép (nếu có).
Tuy nhiên, để một phán quyết trọng tài đạt được hiệu lực chung thẩm như
trên, phán quyết trọng tài phải là kết quả của một quá trình xét xử công minh, vô tư
và phải được tuyên bố theo đúng thủ tục ra quyết định trọng tài mà pháp luật quy
định. Thông thường các quyết định đó là:
- Phán quyết phải tôn trọng nguyên tắc đa số. Trong trường hợp có nhiều
trọng tài viên, bất kì một quyết định nào được coi là quyết định cuối cùng giải quyết
vấn đề giữa các bên phải được đa số trọng tài viên thông qua.
- Quyết định phải được lập thành văn bản và được các trọng tài viên ký tên.
- Nội dung của quyết định phải rõ ràng, đầy đủ. Một quyết định trọng tài phải
có lý do trừ khi các bên nhất trí miễn nêu lý do.
Mặc dù không có điều khoản nào quy định các căn cứ phản đối quyết định
trọng tài do sai sót của Hội đồng xét xử trong việc áp dụng luật. Tuy nhiên, các bên
23
có thể kiện tới Tòa và yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định của Trọng tài trong những
trường hợp sau:
- Thỏa thuận trọng tài do một bên không có đủ năng lực pháp lý lập ra hoặc
căn cứ vào pháp luật áp dụng thì thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
- Trường hợp các bên đương sự của vụ kiện không được thông báo về quá
trình trọng tài.
- Quyết định của trọng tài vượt quá khuôn khổ được ghi nhận trong thỏa
thuận trọng tài.
- Thành phần của hội đồng xét xử hoặc thủ tục xét xử trọng tài không tuân
thủ thỏa thuận trọng tài.
- Quyết định của Trọng tài ngược với lĩnh vực chung của quốc gia.
Nhìn chung, các quy tắc trọng tài ban hành đều tìm cách làm cho phán
quyết trọng tài là quyết định cuối cùng. Điều này làm cho phán quyết trọng tài
mang tính chung thẩm, tạo điều kiện giải quyết tranh chấp một cách nhanh
chóng. Các trường hợp hủy phán quyết của trọng tài do có sai sót liên quan đến
thủ tục tố tụng là rất hiếm khi xảy ra. Do đó, giá trị chung thẩm của phán quyết
trọng tài hầu như được bảo đảm.
Xem xét hiệu lực của quyết định trọng tài Việt Nam và quyết định trọng tài
của Singapore có thể nhận thấy quyết định của cả hai cơ quan trọng tài này đều
mang giá trị chung thẩm. Tức là nó có giá trị bắt buộc và duy nhất, kể từ khi ra
quyết định nó có hiệu lực thực hiện, buộc các bên đương sự phải tuân theo và khiến
các bên không thể chống lại hay kháng cáo. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam vẫn cho
phép Tòa án có thể xem xét lại đối với quyết định của trọng tài trong khi pháp luật
của Singapore thì không như vậy. Mặt khác, pháp luật Việt Nam hiện nay tuy có
quy định quyết định trọng tài là quyết định có giá trị chung thẩm song lại không có
cơ chế cưỡng chế để đảm bảo việc thực thi quyết định này. Do đó, có nhiều ý kiến
cho rằng việc Tòa án có thể xem xét lại cũng như không có cơ chế cưỡng chế thi
hành quyết định trọng tài nên đương sự không chấp nhận phán quyết của Trọng tài
có thể làm đơn khởi kiện đến Tòa kinh tế theo thủ tục giải quyết các vụ án sẽ làm
24
mất đi giá trị chung thẩm của quyết định trọng tài. Tác giả cho rằng, nhận định trên
là hợp lý. Việc Tòa án thực hiện việc xem xét lại quyết định của Trọng tài chỉ nên
xem xét lại về phần hình thức chứ không nên xem xét phần nội dung quyết định của
Trọng tài và thay đổi nội dung quyết định này. Tức là, Tòa án chỉ xem xét về vấn đề
trình tự, thủ tục đã đúng với thẩm quyền giải quyết của Trọng tài hay chưa chứ
không nên thực hiện việc xem xét nội dung cũng như cách giải quyết quyền lợi của
các bên như thế nào.
1.2. Tổ chức và hoạt động của các Trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
1.2.1. Khái lược về Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) và Trung tâm
trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC)
1.2.1.1. Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam - VIAC (Vietnam International
Arbitration Centre)
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam là một tổ chức phi Chính phủ được
thành lập bên cạnh phòng Thương mại và Công nghiệp (TM & CN) Việt Nam theo
Quyết định số 204/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 28/4/1993 trên cơ sở hợp
nhất Hội đồng trọng tài Ngoại thương và Hội đồng trọng tài Hàng Hải.
Khác với Hội đồng trọng tài Ngoại thương và Hội đồng trọng tài Hàng Hải,
TTTT quốc tế Việt Nam có quan hệ khá rộng rãi với các hiệp hội, tổ chức kinh tế
trên thế giới, đẩy mạnh một bước trong hợp tác quốc tế. Đặc biệt TTTT quốc tế Việt
Nam còn thiết lập quan hệ được với một số luật sư hàng đầu về lĩnh vực trọng tài
trên thế giới.
Sự phát triển trên đã đem lại một thế giới mới cho TTTT quốc tế Việt Nam có
thêm kiến thức và kinh nghiệm trong thực tế từ các tổ chức trọng tài Quốc tế khác
nhằm tạo khả năng cho Trung tâm trong việc giải quyết những tranh chấp ngày một
phức tạp khi nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển mạnh.
Mô hình tổ chức của VIAC gồm Ban điều hành, Ban thư ký, Hội đồng khoa
học pháp lý, Ban Xúc tiến – Đào tạo và các đơn vị trực thuộc khác. Ban điều hành
gồm Chủ tịch và các Phó Chủ tịch là người đại diện theo pháp luật của VIAC, chịu
trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của VIAC. Các Phó Chủ tịch là người giúp Chủ
25
tịch điều hành theo sự phân công của Chủ tịch. Ban Thư ký thực hiện các công việc
hành chính để hỗ trợ việc giải quyết tranh chấp. Ban Thư ký gồm Tổng thư ký, các
Phó Tổng thư ký và các Thư ký do Chủ tịch VIAC chỉ định. Hội đồng khoa học
pháp lý do Chủ tịch VIAC ra quyết định thành lập, có nhiệm vụ tổ chức nghiên cứu,
tổng kết, đánh giá thực tiễn giải quyết tranh chấp tại VIAC; góp ý kiến xây dựng
chính sách, pháp luật khi được đề nghị hoặc có yêu cầu [31].
Các trọng tài viên của Trung tâm do Uỷ ban thường trực của Phòng TM &
CN Việt Nam lựa chọn, họ là những người có kiến thức và kinh nghiệm trong các
lĩnh vực pháp luật, ngoại thương, đầu tư, tài chính, ngân hàng, vận tải, bảo hiểm...
Các trọng tài viên cũng có nhiệm kỳ 4 năm, và sau đó cũng có thể được bầu lại. Các
trọng tài viên nước ngoài cũng có thể được chọn vào là trọng tài viên của trung tâm.
Hiện nay Trung tâm đã có 139 trọng tài viên trong đó có 16 trọng tài viên là người
nước ngoài thuộc nhiều quốc gia khác nhau như: Singapore, Malaysia, Trung Quốc,
Nhật, Hàn Quốc, Đức, Pháp, Mỹ, Anh. Đây là những chuyên gia có uy tín và kinh
nghiệm trên nhiều lĩnh vực khác nhau [31].
TTTT Quốc tế Việt Nam là một tổ chức phi Chính phủ hoạt động với những
nhiệm vụ chính là tiến hành hoà giải các tranh chấp thuộc thẩm quyền theo quy chế
riêng của Trung tâm. Song, TTTT Quốc tế Việt Nam - một tổ chức tập hợp những
chuyên gia hàng đầu về kinh tế và thương mại Quốc tế của Việt Nam đã không
dừng lại ở đây, mà đã tham gia tích cực vào nhiều hoạt động khác. Mục đích là dần
nâng cao chất lượng xét xử, đóng góp vào việc cải thiện môi trường pháp luật và
hành lang pháp lý của nước ta, hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia
vào kinh doanh Quốc tế…. Để thực hiện mục đích đó, TTTT quốc tế Việt Nam đã
và đang tham gia vào những hoạt động sau: hoạt động góp ý xây dựng chính sách
và pháp luật, hoạt động hợp tác với các tổ chức trong nước và Quốc tế, hoạt động
tuyên truyền, phổ biến thông tin pháp lý, hoạt động giải quyết tranh chấp của TTTT
Quốc tế Việt Nam.
26
1.2.1.2. Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore - SIAC (The Singapore International
Arbitration)
Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore là tổ chức trọng tài phi chính phủ
được thành lập năm 1990 và bắt đầu đi vào hoạt động ngày 1/7/1991.
SIAC có chức năng cung cấp những điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết
tranh chấp trong thương mại quốc tế và trong nước bằng trọng tài, khuyến khích
giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp ngoài Tòa án, tạo môi trường hoạt động
cho các trọng tài theo luật và thực tiễn hoạt động của trọng tài quốc tế.
SIAC là một trong các tổ chức trọng tài có uy tín hàng đầu trong khu vực. Tổ
chức của SIAC bao gồm: Chánh Tòa, các Phó Chánh Tòa, Tổng Thư ký, Hội đồng
trọng tài và các Trọng tài viên.
Các tranh chấp thuộc thẩm quyền của SIAC là các tranh chấp về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế, vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, bảo hiểm, ngân
hàng, đầu tư, thanh toán quốc tế…
SIAC có hai danh sách trọng tài viên: Danh sách trọng tài viên khu vực và
danh sách trọng tài viên quốc tế. Cả hai danh sách này đều có chức năng như nhau.
Danh sách trọng tài khu vực gồm những trọng tài viên ngoài khu vực này. Ủy ban
trọng tài có thể có một hoặc ba trọng tài viên được chọn ra từ danh sách trọng tài.
Các trọng tài viên sẽ được chủ tịch trung tâm lựa chọn nếu các bên không tự lựa
chọn được. Các trọng tài viên sẽ tiến hành xét xử một cách độc lập, vô tư. Bất cứ
dấu hiệu nào về tính trung thực cũng như sự thiên vị đều bị khước từ. Nếu trong quá
trình trọng tài có trọng tài viên nào bị chết, về hưu hoặc có hành vi sai trái thì trọng
tài viên đó sẽ bị thay thế bởi một trọng tài viên khác.
Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore trong những năm qua đã hoạt động rất
hiệu quả và đã được biết đến ở nhiều nước trên thế giới. Trung tâm ngày càng đẩy
mạnh hoạt động nâng cao chất lượng để thu hút các thương nhân xảy ra tranh chấp
đến với mình.
27
1.2.2. Căn cứ thành lập và chấm dứt hoạt động của trung tâm trọng tài
1.2.2.1. Căn cứ thành lập và chấm dứt hoạt động của Trung tâm trọng tài Việt Nam
- Căn cứ thành lập: Theo quy định của Luật TTTM năm 2010 của Việt Nam,
trung tâm trọng tài được thành lập khi có ít nhất năm sáng lập viên là công dân Việt
Nam có đủ điều kiện là Trọng tài viên có đề nghị thành lập và được Bộ trưởng Bộ
Tư pháp cấp Giấy phép thành lập. Sau khi Trung tâm trọng tài đã hoàn tất thủ tục
đăng ký hoạt động với cơ quan có thẩm quyền thì Trung tâm trọng tài được cấp
Giấy đăng ký hoạt động và có tư cách pháp nhân, có đầy đủ căn cứ để hoạt động.
- Chấm dứt hoạt động: Hoạt động của Trung tâm trọng tài chấm dứt trong các
trường hợp sau: theo quy định tại điều lệ của Trung tâm trọng tài; bị thu hồi Giấy
phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động khi: trung tâm trọng tài có hành vi vi phạm
đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà tái phạm, trung tâm trọng tài không tiến hành
bất kỳ hoạt động nào ghi trong Điều lệ, Giấy phép thành lập trong vòng 05 năm liên
tục kể từ ngày được cấp Giấy đăng ký hoạt động; Trong thời hạn 30 ngày, kể từ
ngày nhận được Giấy phép thành lập, Trung tâm trọng tài không tiến hành đăng ký
hoạt động tại Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Trung tâm
trọng tài đặt trụ sở; Trung tâm trọng tài không sửa đổi, bổ sung điều lệ, quy tắc tố
tụng trọng tài cho phù hợp với Luật Trọng tài thương mại trong thời hạn 12 tháng kể
từ ngày Luật Trọng tài thương mại có hiệu lực.
1.2.2.2. Căn cứ thành lập và chấm dứt hoạt động của Trung tâm trọng tài
Singapore
Singapore là một trung tâm khu vực và tài chính, phục vụ như là một cửa ngõ
giữa Đông và Tây và nơi các trụ sở khu vực của nhiều tập đoàn đa quốc gia,
Singapore cũng là một trung tâm quan trọng trọng tài trong khu vực. Sự phát triển
của danh tiếng và ảnh hưởng của nó đã được hỗ trợ bởi việc thành lập Trung tâm
Trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) vào tháng 7 năm 1991 và việc ban hành Luật
Trọng tài Quốc tế (Cap 143A) ("AIA") vào năm 1994 kết hợp với các UNCITRAL
Luật mẫu về Trọng tài thương mại .
28
Pháp luật Singapore không có quy định về căn cứ thành lập và chấp dứt hoạt
động của trung tâm trọng tài rõ ràng như Việt Nam. Chúng ta sẽ đi sâu về vấn đề
này trong trong Chương II của bài này.
1.2.3. Mục tiêu nhiệm vụ và quyền hạn của Trung tâm trọng tài
1.2.3.1. Mục tiêu, nhiệm vụ, quyền hạn của Trung tâm trọng tài
Ở các nước, trung tâm trọng tài được lập ra để giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong thương mại và nhiều lĩnh vực khác. Nhưng đối với một tranh
chấp cụ thể thì TTTT không có thẩm quyền đương nhiên. TTTT chỉ có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp khi các bên chuyển tranh chấp cho TTTT xét xử
chứ TTTT không tự mình đem tranh chấp ra xét xử (trừ trường hợp Trọng tài
kinh tế ở Việt Nam nay đã chấm dứt hoạt động). Thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của TTTT đối với các tranh chấp cụ thể có thể được quy định trong hợp
đồng, trong một văn bản thỏa thuận riêng về trọng tài giữa các bên, hoặc trong
pháp luật hoặc các điều ước quốc tế có liên quan.
Trọng tài thương mại được thành lập để giải quyết các tranh chấp thương
mại. Những tranh chấp thương mại cũng chỉ có thể thuộc thẩm quyền giải quyết của
trọng tài thương mại nếu các bên có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài này
có hiệu lực.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật Singapore và thông lệ quốc
tế nói chung, một tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương
mại nếu các bên thuộc một trong các trường hợp cụ thể sau đây:
Thứ nhất, tranh chấp giữa các bên phát sinh phải là tranh chấp từ hoạt động
thương mại;
Thứ hai, tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có
hoạt động thương mại;
Thứ ba, tranh chấp khác giữa các bên mà theo quy định được giải quyết bằng
trọng tài thương mại.
Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên cam kết đưa ra TTTT để giải
quyết tất cả hoặc một số loại tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau về một quan hệ
29
pháp luật nhất định, theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng. Thỏa thuận trọng tài có
thể tồn tại dưới dạng một điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc một văn bản
thỏa thuận riêng.
1.2.3.2. Quy tắc tố tụng trọng tài
TTTT hoạt động theo trình tự thủ tục dựa trên quy định pháp luật và Quy tắc
tố tụng của TTTT.
Tố tụng trọng tài, hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là trình tự, thủ tục giải quyết
tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài. Vậy có thể hiểu quy tắc tố tụng
trọng tài là các quy tắc trong trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng hình thức
trọng tài. Việc áp dụng quy tắc tố tụng trọng tài ở mỗi quốc gia là khác nhau, song
tựu chung lại quy tắc tố tụng được áp dụng để giải quyết các vụ tranh chấp tại Trung
tâm trọng tài thương mại. Quy tắc tố tụng của một trung tâm trọng tài chỉ được áp
dụng khi các bên có thỏa thuận lựa chọn Trung tâm trọng tài hoặc chỉ định lựa chọn
quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài để giải quyết các vụ tranh chấp của mình.
Mặt khác, khi áp dụng quy tắc tố tụng của trọng tài để giải quyết các vụ việc của
đương sự thì đương sự không thực hiện thỏa thuận chọn quy tắc tố tụng trọng tài
khác. Tức là, trong mỗi vụ việc đương sự chỉ được áp dụng một quy tắc tố tụng
trọng tài duy nhất để đảm bảo tính thống nhất trong quá trình tố tụng.
Quy tắc tố tụng của VIAC được xây dựng trên cơ sở Luật Trọng tài thương
mại Việt Nam năm 2010. Quy tắc tố tụng mới nhất của Trung tâm trọng tài Quốc tế
Việt Nam (VIAC) có hiệu lực từ ngày 01/01/2012, bao gồm 35 điều khoản và quy
định về các nội dung cơ bản sau: Về khởi kiện, thụ lý, bản tự bảo vệ và quyền kiện
lại của bị đơn; Thành lập hội đồng trọng tài; Nghiên cứu hồ sơ, xác minh sự việc;
Lựa chọn địa điểm, ngôn ngữ trọng tài và pháp luật áp dụng; Áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời; Phiên họp trọng tài; Quyết định trọng tài; Lệ phí trọng tài và các
chi phí khác.
Quy tắc tố tụng của VIAC được áp dụng để giải quyết các vụ tranh chấp tại
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam. Như vậy, khi các bên có thỏa thuận đưa vụ
30
tranh chấp ra giải quyết tại VIAC thì sẽ phải tuân theo Quy tắc tố tụng của VIAC để
giải quyết tranh chấp.
Quy tắc tố tụng của SIAC được xây dựng dựa trên cơ sở Luật mẫu
UNCITRAL và quy tắc tố tụng của Tòa án trọng tài quốc tế Luân Đôn. Các thay đổi
so với hai quy tắc trên là theo chiều hướng rút ngắn giai đoạn trên giấy tờ của quá
trình trọng tài và quy định thời gian cho ủy ban trọng tài ra phán quyết.
Quy tắc tố tụng mới nhất của Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC)
có hiệu lực từ ngày 01/4/2013 bao gồm 37 điều khoản và 02 phụ lục, quy định về
các nội dung cơ bản sau: phạm vi áp dụng; Số lượng và chỉ định Trọng tài viên;
Phiên họp giải quyết tranh chấp; Địa điểm, ngôn ngữ trọng tài; Thẩm quyền của Hội
đồng trọng tài; Biện pháp khẩn cấp tạm thời; Phán quyết trọng tài; Phí và đặt cọc;
Bảo mật; Phụ lục quyết định về trọng tài viên khẩn cấp và các quy định riêng cho
quy tắc trọng tài trong nước.
Quy tắc tố tụng của SIAC được áp dụng trong trường hợp các bên thỏa thuận
đưa các vụ tranh chấp ra trọng tài tại SIAC, khi đó, các bên được xem như đã đồng
ý tố tụng trọng tài sẽ được điều hành và tiến hành theo Quy tắc này. Tuy nhiên,
trong trường hợp một trong các quy định của Quy tắc này xung đột với một quy
định bắt buộc của pháp luật hiện hành về trọng tài mà các bên không được vi phạm,
thì quy định đó sẽ được lấy làm căn cứ.
Các bên có thể tự thỏa thuận về địa điểm trọng tài, ngôn ngữ trọng tài và
người đại diện của các bên.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Có thể nhận thấy rằng, Trọng tài thương mại là một hình thức giải quyết tranh
chấp mang tính xã hội quan trọng cần được phát triển. Trong bối cảnh Việt Nam hội
nhập kinh tế, nhu cầu giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế ngày càng trở
nên cần thiết. Để đảm bảo được quá trình kinh doanh lành mạnh cũng như sự công
bằng trong kinh doanh, pháp luật Việt Nam đã và đang xây dựng cơ chế thực thi
31
pháp luật tối ưu đặc biệt là việc thành lập các trung tâm trọng tài để giải quyết các
tranh chấp như Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) với các chức năng
nhiệm vụ quyền hạn chuyên biệt. Mô hình thiết chế của Trung tâm trọng tài Quốc tế
Việt Nam (VIAC) được tổ chức tương tự như mô hình thiết chế Trung tâm trọng tài
Quốc tế Singapore (SIAC) hoạt động theo pháp luật trọng tài thương mại của
Singapore. Về cơ bản, các thiết chế này được thành lập đều với mục đích là giải
quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại trong nước và quốc tế. Các Trung tâm
trọng tài đều trang bị cho mình những nền tảng pháp lý cơ bản (về pháp luật trọng
tài, quy tắc tố tụng) để quy định nhiệm vụ, quyền hạn cũng như thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của Trung tâm trọng tài và có một đội ngũ trọng tài viên với trình
độ chuyên môn, năng lực cao nhằm đáp ứng được nhu cầu giải quyết tranh chấp của
các bên. Chương 2 sẽ đi sâu phân tích, so sánh để làm rõ hơn thực trạng giải quyết
tranh chấp tại hai Trung tâm trọng tài VIAC và SIAC.
32
CHƢƠNG 2
SO SÁNH THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ
TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VIỆT NAM (VIAC) VÀ
TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ SINGAPORE (SIAC)
2.1. So sánh căn cứ thành lập và hoạt động của hai trung tâm trọng tài thƣơng
mại
2.1.1. Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC)
Trong thời kì hội nhập kinh tế như hiện nay, sự năng động của thị trường kéo
theo sự thành lập một số lượng không nhỏ các doanh nghiệp, từ doanh nghiệp
lớn đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ khiến cho sức cạnh tranh của thị trường
tăng nhanh. Ngoài ra, với xu thế hội nhập, các doanh nghiệp của Việt Nam
không chỉ giao tiếp với nhau mà còn giao tiếp với các doanh nghiệp ngoài
nước. Vì mục đích lợi nhuận, việc các bên xảy ra tranh chấp là điều dễ dàng
xảy ra. Để góp phần giải quyết những tranh chấp này phù hợp với yêu cầu,
nguyện vọng của các bên đương sự, đồng thời tạo niềm tin, định hướng cho các
doanh nghiệp Việt Nam yên tâm phát triển bền vững. Chính vì lý do này mà các
Trung tâm trọng tài Việt Nam được thành lập.
2.1.1.1. Quá trình hoạt động và căn cứ thành lập
Trước những năm 1993, các tranh chấp thương mại ở Việt Nam được giải
quyết ở hai tổ chức trọng tài là Hội đồng trọng tài Ngoại thương và Hội đồng trọng
tài Hàng hải. Hai tổ chức này tồn tại độc lập với nhau và chính là tiền thân của
Trung tâm trọng tài quốc tế của Việt Nam hiện nay.
Hội đồng Trọng tài Ngoại thương (FTAC): Là tổ chức phi chính phủ được
thành lập bên cạnh Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam theo Quyết định số
59/CP ra ngày 30/4/1963 của Hội đồng Chính phủ. FTAC gồm 15 ủy viên được chỉ
định với nhiệm kì 3 năm. Thẩm quyền của FTAC chỉ hạn chế đối với các giao dịch
ngoại thương. Theo đó, tổ chức này không có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
về hợp đồng dân sự và kinh tế trong nước.
33
Quyết định trọng tài được các bên tự nguyện thi hành trong thời hạn ấn định.
Trong trường hợp quyết định trọng tài không được thi hành trong thời hạn ấn định
thì một trong hai bên có quyền yêu cầu sự can thiệp của Tòa án.
Hội đồng Trọng tài Hàng hải (MAC): Được thành lập ngày 5/10/1964 theo
Quyết định số 153- CP của Chính phủ Việt Nam. MAC là tổ chức phi chính phủ bên
cạnh Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Nhìn chung, MAC có điều lệ và
quy tắc trọng tài tương tự FTAC.
Thẩm quyền của MAC bị hạn chế trong lĩnh vực vận tải biển khi có một
trong các bên đương sự là tổ chức nước ngoài. MAC không có thẩm quyền đối với
các tranh chấp liên quan đến hợp đồng dân sự hoặc kinh tế do các cá nhân hoặc tổ
chức Việt Nam kí kết kể cả các tranh chấp về đầu tư.
Cho đến những năm sau 1986, khi nước ta bước vào giai đoạn cải cách bằng
chính sách đổi mới kinh tế thì đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cũng như giao dịch
giữa Việt Nam và nước ngoài đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa, tranh chấp
ngoại thương ngày càng diễn ra phức tạp hơn. Đến lúc này FTAC và MAC bắt đầu
gặp phải những khó khăn lớn.
Với mục đích cải tổ lại hoạt động và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
giữa các tổ chức kinh tế Việt Nam và nước ngoài. Ngày 28/4/1993 Thủ tướng Chính
phủ ra quyết định 204/ TTg cho phép thành lập Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt
Nam. Theo đó, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam được thành lập trên cơ sở
hợp nhất FTAC và MAC.
Theo Quyết định số 204/TTg nêu trên, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt
Nam là tổ chức phi chính phủ bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam, có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ
kinh tế quốc tế như hợp đồng ngoại thương, các hợp đồng đầu tư, du lịch, vận
tải và bảo hiểm quốc tế, chuyển giao công nghệ, tín dụng và thanh toán quốc
tế… Bằng quyết định số 114/TTg ngày 16/2/1996. Thủ tướng Chính phủ cho
phép Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam giải quyết các tranh chấp kinh tế
34
ngay cả khi nó không có yếu tố nước ngoài nếu các bên tranh chấp thỏa thuận
đưa tranh chấp ra giải quyết tại trung tâm này.
2.1.1.2. Mục tiêu, nguyên tắc thành lập
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VIAC) có mục tiêu là thúc đẩy sự phát triển của phương thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài hoặc các phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại khác theo quy định của pháp luật. VIAC mong muốn tạo ra cơ chế giải quyết
tranh chấp khách quan, công bằng, thuận lợi, hiệu quả và đáng tin cậy.
VIAC được đánh giá là một tổ chức trọng tài có uy tín của Việt Nam, được
cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài tín nhiệm và lựa chọn để giải
quyết tranh chấp.
Với phương châm hoạt động được nêu ra là “Thân thiện – Minh Bạch – Hiệu
quả”, Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam hoạt động dựa trên các nguyên tắc
chung theo quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010, đó là:
Thứ nhất, trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa
thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội: Trọng tài là hình thức giải
quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận. Vì vậy mọi thỏa thuận giữa các bên về tố
tụng trọng tài sẽ được bên thứ ba, trong đó có trọng tài viên thừa nhận. Theo đó,
trọng tài viên phải tôn trọng về lựa chọn trọng tài của các bên, về các vấn đề liên
quan đến trọng tài như địa điểm, thời gian, và thủ tục trọng tài. Trong trường hợp
các bên đã thỏa thuận thì trọng tài không áp đặt ý chí của mình và từ chối thực hiện
yêu cầu của các bên trừ khi yêu cầu đó vi phạm pháp luật, điều cấm, đạo đức xã hội.
Thứ hai, trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định
của pháp luật: Một hội đồng trọng tài có thể gồm một hoặc ba trọng tài viên. Một
trọng tài viên có thể do một bên chỉ định hoặc các bên thống nhất lựa chọn. Trong
bất cứ trường hợp nào thì trọng tài viên cũng phải độc lập, khách quan. Trọng tài
viên là người đứng ở giữa phân giải để đi đến một phán quyết công bằng, do đó
không được để mình bị ảnh hưởng bởi một bên tranh chấp (cho dù bên đó là bên đã
chỉ định mình) hoặc bất kỳ bên thứ ba nào khác. Mặt khác, khi xét xử, trọng tài viên
35
phải đánh giá tình tiết vụ việc, chứng cứ, và luận điểm của các bên một cách đầy đủ,
khách quan, vô tư, tránh những nhận định chủ quan, cảm tính, vô căn cứ. Ðể đảm
bảo hiệu lực của tố tụng trọng tài, trọng tài viên cũng phải tuân thủ đầy đủ các quy
định pháp luật có liên quan trong quá trình xét xử cũng như khi ra phán quyết. Nếu
phán quyết của trọng tài vi phạm pháp luật thì có thể bị hủy.
Thứ ba, các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng
trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình: Nguyên tắc bình đẳng trong tố tụng là một nguyên tắc có tính nền tảng. Khi
giải quyết tranh chấp, bên nguyên đơn và bên bị đơn đều có quyền lợi và trách
nhiệm ngang nhau, không bên nào được ưu tiên và cũng không bên nào bị phân biệt
đối xử hơn bên nào. Nhưng nói như thế không có nghĩa là quyền và nghĩa vụ của
các bên là giống hệt nhau. Chẳng hạn nguyên đơn có nghĩa vụ lập đơn kiện trong
khi bị đơn lại có quyền lập bản tự bảo vệ. Hội đồng trọng tài phải tạo điều kiện và
không được ngăn cản các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Để làm được
điều đó, hội đồng phải kịp thời thông báo cho các bên về quyền, nghĩa vụ của họ và
cách thức thực hiện những quyền và nghĩa vụ đó.
Thứ tư, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được tiến hành không công khai,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác: Đây là một điểm phân biệt đáng chú ý
giữa trọng tài và Tòa án. Trong khi tố tụng Tòa án và bản án của tòa về nguyên tắc
được công khai thì tố tụng trọng tài và bản án trọng tài lại ngược lại. Ngoại trừ
chính các bên tham gia tranh chấp và hội động trọng tài cùng những bên liên quan
được các bên đồng ý thì không một ai khác được tham gia vào quá trình xét xử
trọng tài. Bên cạnh đó, mỗi bên và hội đồng trọng tài cũng không được tiết lộ bất kỳ
thông tin gì về tranh chấp và quá trình xét xử trọng tài ra ngoài mà không được sự
đồng ý của bên còn lại. Phán quyết trọng tài là bảo mật và được giữ kín, không tiết
lộ cho công chúng nếu các bên không có thỏa thuận khác.
Thứ năm, phán quyết trọng tài là chung thẩm: Một điểm khác biệt nữa giữa
trọng tài và Tòa án là phán quyết trọng tài sẽ không bị xem xét lại. Nói cách khác,
trong tố tụng trọng tài không có các thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm như
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore

More Related Content

What's hot

PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM >>TẢI FREE ZALO 09...
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM >>TẢI FREE ZALO 09...PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM >>TẢI FREE ZALO 09...
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM >>TẢI FREE ZALO 09...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Pháp luật về tố tụng cạnh tranh đối với các hành vi cạnh tranh khôn...
Luận văn: Pháp luật về tố tụng cạnh tranh đối với các hành vi cạnh tranh khôn...Luận văn: Pháp luật về tố tụng cạnh tranh đối với các hành vi cạnh tranh khôn...
Luận văn: Pháp luật về tố tụng cạnh tranh đối với các hành vi cạnh tranh khôn...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 

What's hot (20)

Tòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tế
Tòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tếTòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tế
Tòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tế
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đLuận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
 
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOT
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOTLuận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOT
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOT
 
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM >>TẢI FREE ZALO 09...
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM >>TẢI FREE ZALO 09...PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM >>TẢI FREE ZALO 09...
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM >>TẢI FREE ZALO 09...
 
Đề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAY
Đề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAYĐề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAY
Đề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAY
 
Đề tài: Quy chế pháp lý của các đảo theo Công ước luật biển, HOT
Đề tài: Quy chế pháp lý của các đảo theo Công ước luật biển, HOTĐề tài: Quy chế pháp lý của các đảo theo Công ước luật biển, HOT
Đề tài: Quy chế pháp lý của các đảo theo Công ước luật biển, HOT
 
Luận văn: Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, HAY
Luận văn: Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, HAYLuận văn: Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, HAY
Luận văn: Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đ
Luận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đLuận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đ
Luận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đ
 
Luận văn: Kết hôn giữa những người song tính và chuyển giới, HOT
Luận văn: Kết hôn giữa những người song tính và chuyển giới, HOTLuận văn: Kết hôn giữa những người song tính và chuyển giới, HOT
Luận văn: Kết hôn giữa những người song tính và chuyển giới, HOT
 
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhânLuận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
Luận án: Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOTĐề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về tố tụng cạnh tranh đối với các hành vi cạnh tranh khôn...
Luận văn: Pháp luật về tố tụng cạnh tranh đối với các hành vi cạnh tranh khôn...Luận văn: Pháp luật về tố tụng cạnh tranh đối với các hành vi cạnh tranh khôn...
Luận văn: Pháp luật về tố tụng cạnh tranh đối với các hành vi cạnh tranh khôn...
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp trên biển bằng Luật biển, HOT
Luận văn: Giải quyết tranh chấp trên biển bằng Luật biển, HOTLuận văn: Giải quyết tranh chấp trên biển bằng Luật biển, HOT
Luận văn: Giải quyết tranh chấp trên biển bằng Luật biển, HOT
 
Đề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOT
Đề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOTĐề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOT
Đề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOT
 
Luận văn: Giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế hiện nay, HAY
Luận văn: Giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế hiện nay, HAYLuận văn: Giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế hiện nay, HAY
Luận văn: Giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế hiện nay, HAY
 
Trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa
Trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóaTrường hợp bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa
Trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng mua bán hàng hóa
 
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thểLuận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
 
Giải quyết tranh chấp quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, HOT
Giải quyết tranh chấp quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, HOTGiải quyết tranh chấp quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, HOT
Giải quyết tranh chấp quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, HOT
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biểnLuận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển
 
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
 

Similar to Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore

luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...
luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...
luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...huynhminhquan
 
Pháp luật về thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam hiện nay
Pháp luật về thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam hiện nayPháp luật về thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam hiện nay
Pháp luật về thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam hiện nayDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Hợp đồng thương mại dịch vụ và giải quyết tranh chấp về hợp đồng thương mại d...
Hợp đồng thương mại dịch vụ và giải quyết tranh chấp về hợp đồng thương mại d...Hợp đồng thương mại dịch vụ và giải quyết tranh chấp về hợp đồng thương mại d...
Hợp đồng thương mại dịch vụ và giải quyết tranh chấp về hợp đồng thương mại d...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở ...
Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở ...Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở ...
Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở ...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Similar to Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore (20)

Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luậtĐề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
 
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại, HAY
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại, HAYLuận văn: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại, HAY
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại, HAY
 
luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...
luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...
luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...
 
Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài thương mại
Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài thương mạiCông nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài thương mại
Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài thương mại
 
Đề tài: Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
Đề tài: Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giảiĐề tài: Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
Đề tài: Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
 
Pháp Luật Hòa Giải Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại, HAY.doc
Pháp Luật Hòa Giải Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại, HAY.docPháp Luật Hòa Giải Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại, HAY.doc
Pháp Luật Hòa Giải Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại, HAY.doc
 
Luận án: Phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam, HAY
Luận án: Phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam, HAYLuận án: Phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam, HAY
Luận án: Phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam, HAY
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài, HOTĐề tài: Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài, HOT
 
Pháp luật về thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam hiện nay
Pháp luật về thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam hiện nayPháp luật về thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam hiện nay
Pháp luật về thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam hiện nay
 
Luận văn: Quy chế pháp lý đối với trọng tài viên tại Việt Nam, HOT
Luận văn: Quy chế pháp lý đối với trọng tài viên tại Việt Nam, HOTLuận văn: Quy chế pháp lý đối với trọng tài viên tại Việt Nam, HOT
Luận văn: Quy chế pháp lý đối với trọng tài viên tại Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Cơ chế thi hành quyết định của trọng tài thương mại
Luận văn: Cơ chế thi hành quyết định của trọng tài thương mạiLuận văn: Cơ chế thi hành quyết định của trọng tài thương mại
Luận văn: Cơ chế thi hành quyết định của trọng tài thương mại
 
Đề tài: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại, HAY
Đề tài: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại, HAYĐề tài: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại, HAY
Đề tài: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại, HAY
 
Vai trò của doanh nghiệp Việt Nam trong giải quyết tranh chấp WTO
Vai trò của doanh nghiệp Việt Nam trong giải quyết tranh chấp WTOVai trò của doanh nghiệp Việt Nam trong giải quyết tranh chấp WTO
Vai trò của doanh nghiệp Việt Nam trong giải quyết tranh chấp WTO
 
Luận văn: Thi hành bản án, quyết định trong kinh doanh thương mại
Luận văn: Thi hành bản án, quyết định trong kinh doanh thương mạiLuận văn: Thi hành bản án, quyết định trong kinh doanh thương mại
Luận văn: Thi hành bản án, quyết định trong kinh doanh thương mại
 
Hợp đồng thương mại dịch vụ và giải quyết tranh chấp về hợp đồng thương mại d...
Hợp đồng thương mại dịch vụ và giải quyết tranh chấp về hợp đồng thương mại d...Hợp đồng thương mại dịch vụ và giải quyết tranh chấp về hợp đồng thương mại d...
Hợp đồng thương mại dịch vụ và giải quyết tranh chấp về hợp đồng thương mại d...
 
Đề tài: Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành hình phạt tù, HAY
Đề tài: Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành hình phạt tù, HAYĐề tài: Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành hình phạt tù, HAY
Đề tài: Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành hình phạt tù, HAY
 
Luận văn: Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HAYLuận văn: Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HAY
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...
 
Luận văn: Pháp luật về Bán hàng đa cấp tại Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về Bán hàng đa cấp tại Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về Bán hàng đa cấp tại Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về Bán hàng đa cấp tại Việt Nam, HOT
 
Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở ...
Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở ...Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở ...
Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở ...
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxNGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxsongtoan982017
 
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh AnPhân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh Anlamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1mskellyworkmail
 
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆTCHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆTlamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdfTiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdfchimloncamsungdinhti
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Quản lý dạy học phân hóa môn Toán tại các trường trung học cơ sở huyện Tam D...
Quản lý dạy học phân hóa môn Toán tại các trường trung học cơ sở huyện Tam D...Quản lý dạy học phân hóa môn Toán tại các trường trung học cơ sở huyện Tam D...
Quản lý dạy học phân hóa môn Toán tại các trường trung học cơ sở huyện Tam D...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptxsongtoan982017
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 

Recently uploaded (20)

NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxNGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
 
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh AnPhân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
 
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆTCHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
 
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌCLuận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
 
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
 
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdfTiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
 
Quản lý dạy học phân hóa môn Toán tại các trường trung học cơ sở huyện Tam D...
Quản lý dạy học phân hóa môn Toán tại các trường trung học cơ sở huyện Tam D...Quản lý dạy học phân hóa môn Toán tại các trường trung học cơ sở huyện Tam D...
Quản lý dạy học phân hóa môn Toán tại các trường trung học cơ sở huyện Tam D...
 
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
 

Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH THỊ THU HIỀN SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI VIỆT NAM VÀ SINGAPORE Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Lê Mai Thanh Hà Nội – 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Trịnh Thị Thu Hiền
  • 3. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT KÝ HIỆU NỘI DUNG TỪ VIẾT TẮT 1. FTAC : Hội đồng Trọng tài Ngoại thương 2. HĐTT : Hội đồng trọng tài 3. IAA : Đạo luật trọng tài quốc tế 4. LTM : Luật thương mại 5. MAC : Hội đồng Trọng tài Hàng hải 6. SIAC : Singapore International Arbitral Centre (Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore) 7. TTTM : Trọng tài thương mại 8. TTTT : Trung tâm trọng tài 9. TTV : Trọng tài viên 10. VIAC : Vietnam International Arbitral Centre (Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam)
  • 4. DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ HIỆU BẢNG TÊN BẢNG TRANG 2.1. Tranh chấp VIAC đã giải quyết từ năm 2006 đến năm 2013 40 2.2. Tranh chấp SIAC đã giải quyết từ năm 2006 đến năm 2013 45
  • 5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT............................................................................ DANH MỤC CÁC BẢNG .......................................................................................... LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của đề tài ..........................................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu ..............................................................................................3 3. Mục đích và Nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................................4 4. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................................4 5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................5 6. Những điểm mới của luận văn ................................................................................5 7. Kết cấu của luận văn ...............................................................................................5 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI....................................................................................................7 1.1. Khái quát về trọng tài thương mại .......................................................................7 1.1.1. Khái niệm và vai trò của trọng tài thương mại.................................................7 1.1.3. Trung tâm trọng tài thương mại theo Phá p luật Việt Nam và Singapore .......17 1.2. Tổ chức và hoạt động của các Trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore......24 1.2.1. Khái lược về Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) và Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC)..........................................................................24 1.2.2. Căn cứ thành lập và chấm dứt hoạt động của trung tâm trọng tài.................27 1.2.3. Mục tiêu nhiệm vụ và quyền hạn của Trung tâm trọng tài .............................28 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1........................................................................................30 CHƢƠNG 2: SO SÁNH THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VIỆT NAM (VIAC) VÀ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ SINGAPORE (SIAC) ..........................................................................32 2.1. So sánh căn cứ thành lập và hoạt động của hai trung tâm trọng tài thương mại32 2.1.1. Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC)...............................................32
  • 6. 2.1.2. Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) ..............................................36 2.1.3. Kinh nghiệm cho Việt Nam..............................................................................38 2.2. So sánh thực trạng pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp tại hai Trung tâm trọng tài ..............................................................................................................39 2.2.1. Thực trạng về thẩm quyền giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam ................................................................................................................39 2.2.2. Thực trạng về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore.....................................................................................................44 2.2.3. Kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam............................................................46 2.3. Thực trạng áp dụng quy tắc tố tụng giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam và Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore ..................................47 2.3.1. Thực trạng áp dụng quy tắc tố tụng tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) .......................................................................................................................48 2.3.2. Thực trạng áp dụng quy tắc tố tụng tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) .......................................................................................................................55 2.3.3. Kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam............................................................68 2.4. Đánh giá hiệu lực quyết định trọng tài của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) và Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) .............................70 2.4.1. Hiệu lực quyết định trọng tài của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam......70 2.4.2. Hiệu lực quyết định trọng tài của Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore....74 2.4.3. Kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam............................................................76 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2........................................................................................77 CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ KIỆN TOÀN CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI TẠI VIAC.................................................78 3.1. Hoàn thiện Pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam........................................78 3.1.1. Luật trọng tài...................................................................................................78 3.1.2. Giải pháp đối với pháp luật liên quan ............................................................82 3.2. Kiện toàn cơ chế nhằm nâng cao vai trò của trung tâm trọng tài Việt Nam ......83
  • 7. 3.2.1. Kiện toàn cơ chế Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) ...................83 3.2.2. Tăng cường phối hợp giữa trọng tài và các cơ quan liên quan nhằm phát huy vai trò trọng tài tại Việt Nam ....................................................................................84 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3........................................................................................89 KẾT LUẬN ..............................................................................................................90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................91
  • 8. 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra ngày càng sâu sắc mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài. Các quan hệ kinh tế quốc tế trở nên sôi động hơn bao giờ hết và có tác động to lớn đến sự phát triển của các quốc gia trên thế giới. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện cho các quan hệ thương mại phát triển, đồng thời các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ này tăng nhanh chóng với tính chất ngày càng phức tạp. Mặc dù tranh chấp không phải là điều mong muốn của các thương nhân và họ đã rất cẩn trọng trong việc áp dụng các biện pháp nhằm loại bỏ tranh chấp, song các bên không thể khẳng định rằng sẽ không có bất kỳ tranh chấp nào xảy ra trong các thương vụ mà họ tham gia. Vì vậy, điều quan trọng mà các thương nhân cần nhìn nhận trước đó là phương pháp nào cần thực hiện nếu có tranh chấp phát sinh. Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, các hình thức giải quyết tranh chấp phổ biến đang được sử dụng bao gồm: thương lượng, hòa giải, tòa án, trọng tài. Thực tế đã đặt ra nhu cầu hoàn thiện các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế. Trên thế giới, phương thức trọng tài giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại đã trở nên thông dụng. Tại Việt Nam, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng được chú trọng. Từ những năm 1960, Hội đồng Trọng tài Ngoại thương và Hội đồng Trọng tài Hàng hải Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã đi vào hoạt động. Để kiện toàn căn cứ giải quyết tranh chấp kinh tế bằng trọng tài nói riêng, và hoàn thiện hệ thống giải quyết tranh chấp nói chung, ngày 25/02/2003, Pháp lệnh Trọng tài thương mại đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành, có hiệu lực từ ngày 01/7/2003. Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 đáp ứng điều kiện kinh tế - xã hội thời điểm đó, cũng như tương thích với pháp luật quốc tế, các điều ước mà Việt Nam tham gia. Nhằm hoàn thiện hơn pháp luật về trọng tài thương mại, ngày 17 tháng 6 năm 2010, Quốc hội đã ban hành Luật Trọng tài thương mại 2010, bắt đầu có hiệu lực từ
  • 9. 2 ngày 1 tháng 1 năm 2011. Luật Trọng tài thương mại 2010 tiếp tục giải quyết những vấn đề chưa được ghi nhận thấu đáo trong Pháp lệnh: phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài, vấn đề lựa chọn quy tắc tố tụng trọng tài trong giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài, vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài,... Luật Trọng tài thương mại 2010 đã khắc phục được những hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003; là căn cứ đảm bảo áp dụng hiệu quả các quy tắc tố tụng trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại. Tuy nhiên, hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài thương mại Việt Nam vẫn chưa được các cá nhân, tổ chức áp dụng nhiều trên thực tế. Nguyên nhân xuất phát từ khung pháp luật và cơ chế hoạt động của các trung tâm trọng tài tại Việt Nam gây sự thiếu tin tưởng cho các cá nhân, doanh nghiệp. So với các hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thông dụng trên thế giới, cơ cấu tổ chức và hoạt động của các trung tâm trọng tài chuyên nghiệp hơn, do đó, các cá nhân và doanh nghiệp tin tưởng sử dụng hình thức giải quyết tranh chấp này hơn. Để phát huy hiệu quả hình thức giải quyết tranh chấp tại trọng tài trong điều kiện gia tăng xung đột quyền lợi của các chủ thể khi tham gia kinh tế thị trường cũng như trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; cần có những nghiên cứu tương quan so sánh với pháp luật trọng tài các nước để từ đó rút ra các bài h ọc kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng hình thức trọng tài tại Việt Nam. Hiện nay, Singapore là một quốc gia có nền kinh tế phát triển tương đối nhanh (là một trong bốn con rồng của C hâu Á ). Với một nước có nền kinh tế phát triển như vâ ̣y , các tranh chấp liên quan đến hoa ̣t động thương ma ̣i là một điều không tránh khỏi . Singapore là nước đầu tiên trong khu vực áp dụng trọng tài quốc tế để giải quyết các tranh chấp thương ma ̣i và đa ̣t được nhiều hiê ̣u quả từ viê ̣c áp dụng này . Từ những kết quả mà Singapore đã đạt được chúng ta có thể tìm ra được những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện cơ chế về trung tâm trọng tài tại Việt Nam. Từ những phân tích trên, tác giả đã chọn đề tài: “So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore” làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình.
  • 10. 3 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề trọng tài có thể nói không phải là vấn đề hoàn toàn mới ở Việt Nam. Xung quanh vấn đề này đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học do các nhà khoa học pháp lý của Việt Nam thực hiện. Nhất là trong những năm trở lại đây, khi xây dựng pháp luật trọng tài thương mại đang đặt ra một yêu cầu cấp thiết thì vấn đề này càng được quan tâm, nghiên cứu nhiều hơn. Các công trình nghiên cứu đề tài này được thực hiện dưới nhiều hình thức và những góc độ khác nhau. Một số luận văn thạc sỹ đã nghiên cứu liên quan đến vấn đề trọng tài như: luận văn thạc sỹ “Tác động của những quy định mới trong Luật trọng tài thương mại tới hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài ở Việt Nam” của Nguyễn Thị Thanh Huyền năm 2012; luận văn thạc sỹ “Pháp luật về thi hành phán quyết của trọng tài thương mại ở Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Mạnh Cường năm 2012; luận văn thạc sỹ “Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài thương mại – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Đặng Thị Minh Ngọc năm 2013; luận văn thạc sỹ “Những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại” của Nguyễn Thị Hiển năm 2013. Ngoài ra, còn có những bài viết đăng trên tạp chí nghiên cứu về trọng tài dưới nhiều khía cạnh khác nhau như PGS.TS Phạm Hữu Nghị có bài “Về cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” đăng trên báo đời sống pháp luật số ra ngày 23/8/2010; LS Trần Hữu Huỳnh có bài “Pháp luật trọng tài thương mại những thử thách phía trước” đăng trên báo Tiền Phong số ra ngày 20/7/2011. Mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề trọng tài thương mại, nhưng chủ yếu là những công trình nghiên cứu xem xét một vài khía cạnh liên quan đến trọng tài hoặc pháp luật về trọng tài Việt Nam nói chung mà chưa có công trình nghiên cứu so sánh pháp luật về trung tâm trọng tài như một thiết chế giải quyết tranh chấp từ kinh nghiệm của các nước có trung tâm trọng tài hoạt động hiệu quả như Singapore. Vì vậy, có thể nói đây là công trình nghiên cứu so sánh một cách đầy đủ và toàn diện các vấn đề về pháp luật trung tâm trọng tài.
  • 11. 4 3. Mục đích và Nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài này nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam và Singapore cũng như tổ chức và hoạt động của thiết chế trọng tài, từ đó tìm ra những bài học và khả năng ứng dụng tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài. Để đạt được mục đích này, luận văn đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu như sau: - Nhận diện cách tiếp cận, mục tiêu, nguyên tắc và các tiêu chí xây dựng pháp luật trọng tài Việt Nam và Singapore; trên cơ sở đó phân tích, so sánh nhằm rút ra những kinh nghiệm hữu ích hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn cũng chú ý phân tích tính tương thích với Luật mẫu về trọng tài thương mại làm căn cứ cho quá trình hoàn thiện thiết chế trọng tài tại Việt Nam. - Phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của Trung tâm trọng tài Singapore; so sánh với Trung tâm trọng tài quốc tế bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VIAC) cũng như thực tế giải quyết tranh chấp của các trung tâm trọng tài, từ đó rút ra kinh nghiệm kiện toàn cơ cấu hoạt động Trung tâm trọng tài của Việt Nam. - Đề xuất các giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam và kiện toàn cơ chế trung tâm trọng tài giải quyết tranh chấp như Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC). 4. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào việc so sánh Luật trọng tài thương mại Singapore hiện hành với thiết chế trọng tài trung tâm là Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) và pháp luật Trọng tài thương mại hiện hành của Việt Nam với thiết chế trọng tài trung tâm là Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC).
  • 12. 5 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để giải quyết những vấn đề nêu trên, tác giả đã vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác- Lênin; quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về đảm bảo quyền tự do kinh doanh, về việc hoàn thiện hệ thống các cơ quan tài phán kinh tế. Với mục đích của đề tài là So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài của Việt Nam với pháp luật về trung tâm trọng tài thương mại Singapore trên cơ sở các tiêu chí cụ thể theo pháp luật trọng tài thương mại của Việt Nam và Singapore. Đối với yêu cầu của đề tài như trên, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp trong quá trình nghiên cứu như sau: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp khái quát hóa để làm rõ nội dung đề tài. 6. Những điểm mới của luận văn Kết quả nghiên cứu đề tài cho thấy những đóng góp mới của luận văn tập trung vào một số vấn đề sau đây: Về mặt lý luận, luận văn đã nghiên cứu cách tiếp cận và thể chế hóa các quy định pháp luật về trọng tài thương mại Singapore – một trong quốc gia có tổ chức trọng tài được đánh giá hoạt động hiệu quả nhất hiện nay để từ đó xác định những điểm tương đồng, khác biệt và rút ra kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Về mặt thực tiễn, luận văn cũng nghiên cứu thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại hai trung tâm trọng tài lớn ở Việt Nam và Singapore. Từ việc so sánh thực trạng này, đưa ra những đánh giá “đời sống xã hội” của các quy định pháp luật về trọng tài và đề xuất kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động của trọng tài tại Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được thiết kế bố cục gồm 3 chương như sau:
  • 13. 6 Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về trọng tài thương mại và trung tâm trọng tài Chƣơng 2. So sánh thực trạng pháp luật về Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) và Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore (SIAC) Chƣơng 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam và kiện toàn cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại VIAC.
  • 14. 7 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI 1.1. Khái quát về trọng tài thƣơng mại 1.1.1. Khái niệm và vai trò của trọng tài thương mại 1.1.1.1. Khái niệm Trọng tài thương mại Trọng tài, xét về mặt ngữ nghĩa, được hiểu là tài phán trung lập, ở đây chỉ người thứ ba được cử ra làm trung gian để phân xử sự bất đồng giữa hai bên. Với ý nghĩa này, trọng tài đã xuất hiện từ lâu, có vai trò giải quyết tranh chấp phát sinh theo yêu cầu của các bên. Khi thương mại phát triển thì tranh chấp xảy ra là điều không thể tránh khỏi và các thương gia thường cố gắng tìm ra mọi phương pháp thích hợp để giải quyết những tranh chấp đó. Trường hợp các bên không thể tự giải quyết được với nhau, vụ việc sẽ được đưa đến một bên thứ ba trung lập, người thứ ba này thường là người có kinh nghiệm để giải quyết. Trong thời kì đầu, việc giải quyết của người thứ ba chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu nội dung vụ việc, giải thích các vấn đề mà các bên đang quan tâm và đưa ra ý kiến để họ tham khảo. Về sau này, xuất phát từ nhu cầu giải quyết tranh chấp phải dứt điểm, nhanh chóng nên các bên thỏa thuận rằng quyết định của bên thứ ba giải quyết tranh chấp là quyết định cuối cùng. Đó là tiền thân của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại ngày nay [14]. Hiện nay, TTTM đã trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến và được các nhà kinh doanh ưa chuộng, nhất là ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. TTTM ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại nhờ các ưu thế xuất phát từ bản chất của trọng tài. Trong khoa học pháp lý, trọng tài được nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau nhưng chủ yếu dưới hai phương diện sau đây: Thứ nhất, trọng tài là một phương thức để giải quyết tranh chấp:
  • 15. 8 Theo hiệp hội trọng tài tại Hoa Kỳ: “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số người khách quan xem xét, giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải thi hành” [25]. Theo giáo sư Philipe Fouchard:“Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp, theo đó các bên thỏa thuận giao cho một cá nhân (Trọng tài viên) thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau” [6, tr17]. Cùng quan điểm coi trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp, cuốn “Đạo đức và kĩ năng hành nghề của Luật sư trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đã định nghĩa về trọng tài như sau:“Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp, theo đó, hai hoặc nhiều bên đưa vụ tranh chấp của họ ra trước bên thứ ba trung lập để chủ thể này tiến hành giải quyết tranh chấp theo những thủ tục đặc trưng của quá trình đó” [8, tr10]. Giáo trình Luật kinh tế trường đại học Luật Hà Nội đưa ra định nghĩa:“Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập, nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra một phán quyết trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên tranh chấp và có hiệu lực bắt buộc đối với mỗi bên” [36, tr55]. Luật Mẫu UNCITRAL quy định: “Trọng tài nghĩa là mọi hình thức trọng tài có hoặc không có sự giám sát của một tổ chức thường trực”. Pháp lệnh TTTM năm 2003 quy định tại Điều 2:“Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục do Pháp lệnh quy định”. Thứ hai, trọng tài là một thiết chế để giải quyết tranh chấp: Xuất phát từ quan điểm coi trọng tài là một thiết chế tài phán, “Giáo trình Tư pháp quốc tế của Liên Xô (cũ) có viết: Trọng tài bao gồm những cá nhân được các bên lựa chọn để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các vụ việc dân sự của họ” [34, tr384].
  • 16. 9 Theo giáo trình “Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại” của Trường Đại học Ngoại thương: “Trọng tài thương mại là cơ quan trung gian được các bên đương sự giao tranh chấp cho để xét xử” [37, tr79]. Ngoài ra, từ điển luật học Anh – Mỹ của Black đã đưa ra khái niệm về trọng tài dưới góc độ tố tụng, theo đó, trọng tài được nhìn nhận như một quá trình: “Trọng tài là một quá trình giải quyết tranh chấp do các bên tự nguyện lựa chọn, trong đó bên thứ ba trung lập (Trọng tài viên) sau khi nghe các bên trình bày, sẽ ra quyết định có tính chất bắt buộc đối với các bên trong tranh chấp ấy” [38, tr105]. Qua các định nghĩa về trọng tài nêu trên, có thể thấy rằng: Quan điểm coi trọng tài là một thiết chế để giải quyết tranh chấp gần như thiên về mặt hình thức nhiều hơn, nhìn nhận sự tồn tại thực tế của tổ chức trọng tài dưới dạng các Trung tâm Trọng tài - cơ quan tài phán độc lập, tồn tại song song với Tòa án. Quan điểm coi trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp thiên về mặt bản chất nhiều hơn, khái quát các đặc trưng của trọng tài khác với các hình thức giải quyết tranh chấp khác. Các định nghĩa về trọng tài nêu trên đều có cơ sở lý luận và thực tiễn, chỉ khác nhau ở mức độ khái quát và góc độ xem xét. Tất cả đều có điểm chung là Trọng tài chính là công cụ để giải quyết tranh chấp theo thủ tục đặc trưng của nó: do các bên thỏa thuận, vai trò trung lập, đưa ra quyết định bắt buộc các bên phải thực hiện… Những đặc trưng này thể hiện bản chất của trọng tài là một phương thức tài phán tư, kết hợp được hai mặt thỏa thuận và tài phán. Theo tác giả, để có thể đưa ra một định nghĩa chung nhất về trọng tài, cần có một cái nhìn tổng quát với sự đánh giá mang tính lịch sử: - Về mặt thời gian, quan điểm định nghĩa trọng tài thiên về hình thức chủ yếu tồn tại ở giai đoạn khi trọng tài chưa thực sự phát triển. Cụ thể, ý kiến coi “Trọng tài bao gồm những cá nhân được các bên lựa chọn để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các vụ việc dân sự của họ” được nêu ra từ năm 1984; ý kiến cho rằng “Trọng tài thương mại là cơ quan trung gian được các bên đương sự giao tranh
  • 17. 10 chấp cho để xét xử” nêu trong giáo trình “Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại” của trường đại học Ngoại thương xuất bản từ những năm 1994. Từ điển luật học Black định nghĩa trọng tài cũng có sự thay đổi theo hướng trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp. + Edition 6 (1990): “Trọng tài là quá trình giải quyết tranh chấp do các bên tự nguyện lựa chọn, trong đó bên thứ ba trung lập (Trọng tài viên) sau khi nghe các bên trình bày, sẽ ra quyết định có tính chất bắt buộc đối với các bên trong tranh chấp ấy” [40, tr 105]. + Edition 2 (2001): “Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của một hay nhiều bên thứ ba trung lập được chọn bởi các bên tranh chấp và quyết định của họ có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên” [41, tr41]. Thời gian sau này, các định nghĩa trọng tài đều thiên về mặt bản chất, khẳng định trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp. + Xét về nội hàm của khái niệm thì quan điểm coi trọng tài là một thiết chế chưa bao quát được đặc trưng riêng của trọng tài khác với các hình thức giải quyết tranh chấp khác như thương lượng, hòa giải, tố tụng tư pháp… Mặt khác, việc coi trọng tài là một thiết chế chỉ đúng nghĩa về mặt pháp lý; nếu xét về mặt tổ chức - coi trọng tài là một cơ quan tồn tại hiện hữu có phần thiếu chính xác. Bởi lẽ, Ban thường trực của các TTTT gồm Chính phủ, Phó chủ tịch, các nhân viên giúp việc không thực hiện chức năng của trọng tài. Khi các bên trong tranh chấp giao quyền lực cho trọng tài là giao quyền giải quyết tranh chấp cho TTV/HĐTT chứ không phải giao quyền lực cho TTTT. Các TTV/HĐTT không phải là nhân viên của TTTT, mà họ chỉ thực hiện những công việc giải quyết tranh chấp khi được các bên yêu cầu và khi giải quyết xong thì họ hết nhiệm vụ với các bên. Khác với Tòa án là cơ quan được Nhà nước thành lập để thực hiện quyền lực tư pháp của nhà nước; khi các bên tranh chấp khởi kiện ra Tòa án, họ không có quyền lựa chọn để giao quyền lực cho Thẩm phán, việc phân công Thẩm phán thuộc thẩm quyền của Chánh án. Với lập luận trên, có thể thấy rằng coi trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp với những đặc trưng riêng của nó là phù hợp nhất.
  • 18. 11 Trong lịch sử, khi kinh tế thị trường với những quy luật cơ bản như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh… thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế nói chung và thương mại nói riêng, thì trọng tài chủ yếu được sử dụng trong giải quyết các tranh chấp thương mại. Trong lĩnh vực này, nó tỏ ra phù hợp và ưu thế hơn so với những cách giải quyết khác. Phạm vi các vụ tranh chấp được giải quyết bằng phương thức TTTM rộng hay hẹp phụ thuộc vào các quy định trong pháp luật của mỗi quốc gia, trong đó quan điểm về thương mại có ảnh hưởng rất quan trọng. Trên thế giới pháp luật của hầu hết các nước đều quan niệm “thương mại” theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các hoạt động của thương nhân liên quan đến các mối quan hệ có bản chất thương mại. Bộ luật thương mại Thái Lan cũng có phạm vi điều chỉnh khá rộng, bao gồm mua bán hàng hóa, thuê tài sản, thuê mua tài sản, tín dụng, thế chấp, đại diện, môi giới, bảo hiểm, công ty, hợp danh…[7]. Trong phần chú thích của Điều 1 Luật Mẫu về TTTM Quốc tế năm 1985 của UNCITRAL có ghi rõ: Khái niệm thương nhân cần phải được giải thích theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các vấn đề phát sinh từ tất cả các quan hệ có bản chất thương mại, dù có hay không có hợp đồng. Quan hệ có bản chất thương mại bao hàm nhưng không chỉ giới hạn với các giao dịch sau đây: Bất kỳ giao dịch buôn bán nào nhằm cung cấp, trao đổi hàng hóa hay dịch vụ, hợp đồng phân phối, đại diện thương mại hay đại lý, các công việc sản xuất, thuê máy móc thiết bị, xây dựng, tư vấn thiết kế cơ khí, li – xăng, đầu tư, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các hợp đồng khai thác hoặc chuyển nhượng, liên doanh và các hình thức khác của hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh, vận tải hàng hóa hoặc hành khách bằng đường không, đường biển, đường sắt hoặc đường bộ. Trong khi đó, Luật thương mại năm 1997 của Việt Nam quy định khái niệm thương mại với nội hàm rất hẹp, chỉ gồm những hành vi do thương nhân tiến hành liên quan đến hàng hóa và dịch vụ mua bán hàng hóa. Khoản 2 Điều 5 Luật thương
  • 19. 12 mại 1997 quy định: “Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội”. Khái niệm “thương mại” rất bất cập này dẫn đến nhiều hành vi có bản chất thương mại đã không được coi là hành vi thương mại, xét riêng về sự liên quan đến TTTM thì rõ ràng đã thu hẹp thẩm quyền của TTTM ở Việt Nam. Khắc phục hạn chế nêu trên, Pháp lệnh TTTM được ban hành năm 2003 đã đưa ra một khái niệm mới là khái niệm “hoạt động thương mại” và quy định TTTM có quyền giải quyết mọi tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Khái niệm hoạt động thương mại trong pháp lệnh TTTM được hiểu theo một nghĩa rất rộng, bao gồm hầu như các lĩnh vực hoạt động của thương nhân, từ sản xuất đến lưu thông, phân phối, từ sản xuất hàng hóa đến cung ứng dịch vụ, từ hoạt động kinh doanh thông thường đến hoạt động kinh doanh có tính chất đặc thù. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 2 pháp lệnh này thì “ Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện; đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li- xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật”. Về cơ bản, có thể nói, thuật ngữ “hoạt động thương mại” trong Pháp lệnh TTTM năm 2003 của Nhà nước ta có nội hàm tương tự như khái niệm thương mại trong luật Mẫu UNCITRAL về TTTM và khái niệm “kinh doanh” trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 (Khoản 2 Điều 4). Được ban hành trong điều kiện nhà nước ta đang đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luật Thương mại năm 2005 đã định nghĩa “hoạt động thương mại” với nội hàm như khái niệm nêu trên trong pháp lệnh TTTM, nhưng nội dung gọn hơn và thể hiện rõ hơn bản chất của thương mại: “Hoạt động thương mại là
  • 20. 13 hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Như vậy, có thể nói khái niệm hoạt động thương mại được quy định trong Pháp lệnh TTTM và Luật Thương mại năm 2005 đã tiếp cận được với pháp luật quốc tế và pháp luật của các nước trên thế giới, cho phép mở rộng phạm vi các hoạt động thương mại. Khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 có quy định: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này”. Có thể nhận thấy, quy định của Luật Trọng tài thương mại còn khá chung chung. Để có được cách hiểu đầy đủ nhất về trọng tài thương mại ta có thể đưa ra định nghĩa trọng tài thương mại như sau: Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp, theo đó các bên thỏa thuận đưa vụ việc ra trước một bên thứ ba trung lập để xem xét và ra phán quyết, bên thứ ba này có thể là một trọng tài viên hoặc một hội đồng trọng tài; phán quyết của bên thứ ba có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên. 1.1.1.2. Vai trò của trọng t ài thương mại trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại Cùng với sự chuyển mình mạnh mẽ của nước ta từ hình thức kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các hoạt động thương mại giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau cũng như sự giao thương với các doanh nghiệp nước ngoài ngày càng phát triển. Đặc biệt là khi Nhà nước ta đang dần dần hoàn thiện một hành lang pháp lý vững chắc, giúp bảo vệ quyền lợi và lợi ích của các doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động kinh doanh, thương mại. Đi kèm với những bước tiến đó là những nảy sinh trong tranh chấp thương mại giữa các bên ngày càng nhiều về số lượng và rắc rối trong cách giải quyết tranh chấp. Điều này đã đặt lên vai những người làm luật một trọng trách nặng nề, đặc biệt là những người cầm cân nảy mực, đảm bảo sự công bằng cho các bên trước pháp luật. Bên cạnh hệ thống Tòa án thì Trọng tài là một biện pháp giải quyết tranh chấp tồn tại từ rất lâu, và ở Việt Nam thì Trọng tài đã từng được thừa nhận vào cuối thế kỷ
  • 21. 14 thứ XIX [7]. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì trọng tài đã chuyển từ một tổ chức cơ quan hành chính nhà nước có chức năng giải quyết sang một tổ chức có chức năng tài phán. Đặc biệt là sự ra đời của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, và mới đây nhất là Luật Trọng tài thương mại 2010 đã đánh một dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của pháp luật Trọng tài Việt Nam. Thực tế khi các tranh chấp phát sinh trong các hoạt động thương mại, các bên có thể thương lượng, hòa giải với nhau để giải quyết vụ việc. Trong trường hợp các bên không thể tự hòa giải được thì có thể đưa đến cơ quan Trọng tài hoặc Tòa án. Trong khi đó, trên thực tế có nhiều tranh chấp xảy ra mang yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, thường các bên e ngại Thẩm phán sẽ ưu ái cho đương sự nước họ hơn. Còn nếu tiến hành tố tụng ở một nước thứ ba thì thủ tục không hề đơn giản, mặt khác các bên có thể bỡ ngỡ trước những quy tắc, thủ tục và trình tự tố tụng của quốc gia thứ ba đó. Ngoài ra, thủ tục tố tụng dù thực hiện ở cơ quan Tòa án nào cũng đòi hỏi những thủ tục phức tạp, mất nhiều thời gian và tiền bạc. Do đó, trên thực tế, Trọng tài đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp thương mại, đặc biệt là các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài. Cụ thể là: Thứ nhất, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài rất tôn trọng ý chí của các bên đương sự. Các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên, chọn thủ tục trọng tài nhằm giải quyết có hiệu quả nhất tranh chấp mà có thể hạn chế được tổn thất về mặt thời gian cũng như tài chính. Việc giải quyết tranh chấp có thể được tiến hành bởi một trọng tài viên hay HĐTT tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên. Thứ hai, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tuy tuân theo ý chí của các bên nhưng vẫn có sự ràng buộc về mặt pháp lý. Điều đó giúp cho cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hữu hiệu hơn biện pháp hòa giải hay thương lượng. Nếu như hòa giải hay thương lượng chỉ mang tính khuyến nghị chứ không mang tính ràng buộc về mặt pháp lý đối với các bên tranh chấp thì quyết định của Trọng tài mang hiệu lực pháp luật nên các bên có nghĩa vụ thi hành. Thứ ba, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài linh hoạt hơn Tòa án. Trong cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các trọng tài viên được các bên
  • 22. 15 lựa chọn có quyền xem xét và ra quyết định một cách hoàn toàn độc lập trên cơ sở những chứng cứ, tài liệu mà các bên cung cấp hoặc có được bằng con đường khác như: tự điều tra xem xét; giám định viên và nhân chứng cung cấp thông tin trên cơ sở quy định của pháp luật. Chính điều này dễ làm ta liên tưởng đến tố tụng tại Tòa án. Tuy nhiên, về bản chất quyền lực của Tòa án và Trọng tài khác hẳn nhau. Nếu như Tòa án đại diện cho quyền lực của Nhà nước thì Trọng tài đại diện cho ý chí của các bên đương sự. Do đó, khi yêu cầu sự can thiệp của Trọng tài các bên có thể tự do lựa chọn Trọng tài viên hay các cơ quan trọng tài để giải quyết. Nhưng trong tố tụng tại Tòa án, các bên không có quyền lựa chọn Tòa giải quyết cũng như lựa chọn Thẩm phán. Thứ tư, tố tụng Trọng tài thường nhanh chóng hơn so với tố tụng tại Tòa án. Đặc điểm của tố tụng Trọng tài là chỉ xét xử một lần và phán quyết có giá trị chung thẩm, chỉ trong một số trường hợp đặc biệt Tòa án mới xem xét lại quyết định của Trọng tài. Đối với các tranh chấp thương mại thì sự nhanh gọn của hình thức giải quyết này là một trong những ưu thế mà các bên ưu tiên lựa chọn. Thứ năm, Trọng tài có thể xét xử không công khai nếu như các bên đương sự yêu cầu. Nhờ vậy mà có thể giữ được các bí mật chi tiết, số liệu, thông tin cụ thể mà các bên tranh chấp không muốn công khai… giúp tránh được những hậu quả khôn lường và thiệt hại sau này khi các bên kết thúc tranh chấp. Với những đặc điểm và vai trò như vậy, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp trọng tài đã đáp ứng được yêu cầu giải quyết tranh chấp dân sự nói chung và thương mại nói riêng đối với các tranh chấp có yếu tố nước ngoài và trong quan hệ quốc tế. Có thể nói đây là phương thức giải quyết tranh chấp có tính khả thi và phổ biến nhất. 1.1.2. Pháp luật Việt Nam và Singapore về trọng tài thương mại 1.1.2.1. Pháp luật Việt Nam về trọng tài thương mại Hiện nay, cơ sở pháp lý chủ yếu cho hoạt động Trọng tài thương mại ở Việt Nam được xây dựng bởi các quy định trong các văn bản sau đây:
  • 23. 16 - Luật Trọng tài thương mại Việt Nam được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 17/6/2010 tại kỳ họp thứ 7, khóa XII, được công bố ngày 29/06/2010 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2011. - Bộ luật Tố tụng Dân sự được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 15/06/2004 có hiệu lực ngày 01/01/2005 (Phần thứ năm: Chương XXV thủ tục giải quyết các việc dân sự liên quan đến hoạt động Trọng tài thương mại Việt Nam; Phần thứ sáu: Chương XXI thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài). - Luật Thương mại 2005 được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 14/06/2005 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2006 quy định việc giải quyết tranh chấp với hình thức Trọng tài tại Điều 17. - Luật Thi hành án dân sự năm 2008, trong đó có quy định về tổ chức là thủ tục thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam và Quyết định của Trọng tài thương mại Việt Nam. - Đối với thiết chế VIAC, áp dụng Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC). - Công ước New York 1958 về Công nhận và Thi hành các quyết định trọng tài nước ngoài, mà Việt Nam là 1 trong 120 thành viên gia nhập ngày 12/9/2005 với nội dung cơ bản được luật hóa tại Bộ luật Tố tụng dân sự 2004. 1.1.2.2. Pháp luật Singapore về trọng tài thương mại Hiện nay, hoạt động của Trọng tài thương mại Singapore chủ yếu dựa vào các quy định pháp luật sau đây làm nền tảng: - Luật trọng tài năm 1970 (sửa đổi, bổ sung năm 1980); - Đạo luật Trọng tài Quốc tế (“IAA”), thông qua năm 1994. Đạo luật này đã được sửa đổi một số lần mà gần nhất là năm 2009. IAA được thiết kế gồm ba phần: Phần I là điều khoản chung; Phần II chứa các quy định về thủ tục trọng tài quốc tế, trong đó Luật Mẫu UNCITRAL được ghi nhận là một phần pháp luật Singapore ngoại trừ Chương VIII của Luật Mẫu về công nhận và cho thi
  • 24. 17 hành phán quyết trọng tài; Sở dĩ như vậy vì Phần III của IAA ghi nhận Công ước New York về vấn đề này. - Luật Mẫu UNCITRAL về Trọng tài Thương mại Quốc tế năm 1985. - Đối với thiết chế SIAC, áp dụng Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC). - Công ước New York 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài. 1.1.3. Trung tâm trọng tài thương mại theo Phá p luật Viê ̣t Nam và Singapore 1.1.3.1 Thẩm quyền Về cơ bản, pháp luật về trọng tài của các nước trên thế giới đều quy định cho trọng tài có một quyền năng rất rộng. Trọng tài có thể giải quyết tất cả các loại tranh chấp phát sinh từ những quan hệ được thiết lập trên cơ sở bình đẳng và thoả thuận của các bên. Trọng tài thương mại được thành lập là để giải quyết các tranh chấp thương mại. Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử nếu giữa các bên tồn tại một thỏa thuận chọn Trọng tài để giải quyết tranh chấp, đó phải là một thỏa thuận trọng tài cụ thể, rõ ràng và theo đúng quy định của Pháp luật và Quy tắc tố tụng Trọng tài. Khác với thẩm quyền của Tòa án, thẩm quyền của trọng tài chỉ là thẩm quyền vụ việc, nếu được các bên có “vụ việc” lựa chọn đích danh. Các nguyên tắc phân định thẩm quyền theo lãnh thổ, theo trụ sở hoặc chỗ ở của bị đơn và theo sự thỏa thuận của nguyên đơn không được áp dụng trong tố tụng trọng tài. Thẩm quyền của trọng tài không được phân định theo lãnh thổ, vì các bên có tranh chấp có quyền thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một tổ chức trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho họ, không phụ thuộc vào nơi ở cũng như trụ sở của nguyên đơn hay bị đơn, cũng không phân định theo cấp xét xử, vì chỉ có một cấp trọng tài và lại càng không phân định theo sự lựa chọn của nguyên đơn, vì trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết nếu các bên có thỏa thuận trọng tài. Khi các bên đã có thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng con đường trọng tài, tức là họ đã trao đổi cho hội đồng trọng tài thẩm quyền giải quyết tranh
  • 25. 18 chấp và phủ nhận thẩm quyền xét xử đó của tòa án, trừ khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc các bên hủy thỏa thuận trọng tài. Như vậy, trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp nào được pháp luật quy định là tranh chấp thương mại và các tranh chấp khác được pháp luật quy định và các bên có thỏa thuận trọng tài. Nếu thiếu một trong hai điều kiện trên, vụ việc sẽ không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại. Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định trọng tài có thẩm quyền giải quyết các loại tranh chấp sau đây: (i). Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (ii). Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; (iii). Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 quy định cụ thể các loại “hoạt động thương mại” theo hình thức liệt kê, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 không hề có quy định nào giải thích khái niệm “hoạt động thương mại” mà khái niệm hoạt động thương mại khi vận dụng luật, ta phải căn cứ vào quy định pháp luật có quan hệ gần nhất là Luật Thương mại năm 2005, Khoản 1 Điều 3 của luật này quy định “hoạt động thương mại” gồm các “hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Như vậy, có thể thấy phạm vi của hoạt động thương mại rất rộng. So với Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, phạm vi thẩm quyền của trọng tài theo quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010 đã được mở rộng đáng kể, phạm vi giải quyết tranh chấp của trọng tài không chỉ giới hạn là các tranh chấp liên quan đến lĩnh vực thương mại theo quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 mà còn hướng đến các tranh chấp không kể phát sinh từ nghĩa vụ hợp đồng hay nghĩa vụ ngoài hợp đồng. Tất nhiên là loại trừ các tranh chấp liên quan đến quyền nhân thân, tranh chấp liên quan đến hôn nhân, gia đình và thừa kế
  • 26. 19 theo quy định của pháp luật dân sự và hôn nhân gia đình; liên quan đến phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản; tranh chấp liên quan đến vi phạm quy định của pháp luật cạnh tranh; các tranh chấp về đất đai, lao động. Bên cạnh đó, yếu tố chủ thể cũng được mở rộng hơn, theo đó “các bên” không phân biệt tổ chức hoặc cá nhân đều có thể lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp, Luật Trọng tài thương mại 2010 đã khắc phục được những bất cập của Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 vốn chỉ cho phép trọng tài giải quyết tranh chấp trong đó chủ thể phải là “tổ chức kinh doanh” và “cá nhân kinh doanh” khiến các bên tranh chấp và trung tâm trọng tài gặp nhiều khó khăn, vướng mắc về chủ thể là “cá nhân kinh doanh”. Đây là chủ thể gây nhiều tranh cãi vì pháp lệnh cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành không xác định rõ thế nào là cá nhân kinh doanh. Cá nhân kinh doanh là bất kỳ cá nhân nào bỏ vốn đầu từ kinh doanh hay là cá nhân có đăng ký kinh doanh. Vậy thì cá nhân kinh doanh theo cách hiểu của Nghị định 25/2004/NĐ-CP là gì? Về chủ thể là “tổ chức kinh doanh”. Tổ chức kinh doanh theo quy định của pháp luật là các Doanh nghiệp, hợp tác xã nhưng trên thực tế có rất nhiều tổ chức không đăng ký kinh doanh, không thực hiện hoạt động kinh doanh như ban quản lý dự án, cơ quan hành chính sự nghiệp tham gia đấu thầu hoặc giao kết các hợp đồng, kể cả các hợp đồng mua sắm chính phủ… Khi phát sinh tranh chấp các trung tâm trọng tài của Việt Nam phải từ chối giải quyết vì các chủ thể này không phải là tổ chức kinh doanh. Vậy, rõ ràng việc mở rộng thẩm quyền cho trọng tài thương mại là rất cần thiết, từ đó sẽ giúp giảm gánh nặng xét xử hơn cho tòa án và tạo điều kiện hơn nữa cho xét xử trọng tài tại Việt Nam. Hơn nữa, quy định về mở rộng thẩm quyền của trọng tài thương mại là phù hợp với xu thế chung của pháp luật các nước về trọng tài và luật mẫu về Trọng tài của UNCITRAL. Song, xuất pháp từ góc độ bảo vệ người tiêu dùng, Luật TTTM năm 2010 cũng ý thức được rằng việc đưa ra quy định này có thể bị lạm dụng trong quan hệ tranh chấp giữa một bên là các doanh nghiệp thường có thế lực, tiền bạc, có nhiều ảnh hưởng với một bên là người tiêu dùng yếu thế hơn. Khi đó, việc đưa ra giải
  • 27. 20 quyết tại trọng tài có thể gây bất lợi cho người tiêu dùng vì bản thân họ rất khó khăn khi phải chứng minh các lỗi của nhà cung cấp. Hơn nữa người tiêu dùng thường bị đặt vào vị thế có nhiều nguy cơ bị lạm dụng bởi các điều khoản và điều kiện trong hợp đồng in sẵn của bên bán hàng hoặc bên cung ứng dịch vụ, do vậy mà việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có thể chỉ là ý muốn của một phía các doanh nghiệp. Vì vậy, pháp luật quy định: “Đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, mặc dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận”(Điều 17 LTTTM năm 2010). Trong trường hợp này, Luật TTTM năm 2010 cho phép người tiêu dùng lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài hoặc Tòa án để bảo đảm quyền lợi nhỏ bé của họ. Đối với các tranh chấp có yếu tố nước ngoài tại khoản 4 Điều 3 Luật TTTM năm 2010 đã quy định: “Tranh chấp có yếu tố nước ngoài là tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại, quan hệ pháp luật khác có yếu tố nước ngoài được quy định tại Bộ luật dân sự”. Để từ đó tương thích với BLDS 2005 và khắc phục những tồn tại của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 vì Pháp lệnh chưa tương đồng với BLDS 2005 và mới chỉ quan tâm đến yếu tố quốc tịch của chủ thể mà chưa quan tâm đến các yếu tố khác như nơi cư trú, nơi có quan hệ mật thiết với chủ thể hoặc hợp đồng. Trong quy định pháp luật của thế giới thì những yếu tố này cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng chứ không chỉ có yếu tố quốc tịch của chủ thể. Khác với quy định của Luật Trọng tài thương mại Việt Nam, Luật Trọng tài Singapore không có điều khoản cụ thể quy định về thẩm quyền của trọng tài thương mại và dẫn chiếu đến quy định của Luật Mẫu về trọng tài thương mại. Ở các nước áp dụng hai hệ thống chế định riêng biệt cho trọng tài quốc tế (có yếu tố nước ngoài) và trọng tài nội địa (không có yếu tố nước ngoài) như các nước
  • 28. 21 Singapore, Hong Kong, Úc,… thì việc xác định đạo luật nào áp dụng cho hoạt động trọng tài nào là rất cần thiết, vì mỗi loại chế định trọng tài sẽ có các quy định khác nhau. Tại các nước này, luật về trọng tài quốc tế áp dụng đối với các hoạt động trọng tài có yếu tố nước ngoài và luật trọng tài trong nước áp dụng đối với các hoạt động trọng tài còn lại. Theo đó, thẩm quyền của trọng tài thương mại phát sinh khi hai bên có thỏa thuận trọng tài. Cụ thể, Luật Trọng tài Singapore quy định về thỏa thuận trọng tài như sau: Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài: Thỏa thuận trọng tài sẽ không bị chấm dứt vì một bên của thỏa thuận chết; khi một bên của thỏa thuận chết, thỏa thuận sẽ được thực hiện bởi người được quyền kế tục của người đã chết, cũng theo đó, thẩm quyền của trọng tài viên sẽ không bị hủy bỏ khi một bên đã chỉ định trọng tài viên đó đã chết. Trong trường hợp phá sản: Điều khoản về thỏa thuận trọng tài tiếp tục được thực hiện trong trường hợp bị phá sản, người được nhượng quyền chính thức sẽ tiếp tục thực hiện thỏa thuận này. Trong trường hợp đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên trong thỏa thuận trọng tài hoặc một người khiếu kiện theo mệnh lệnh của bên đó bắt đầu thủ tục tố tụng chống lại bên kia về một sự việc đã được thỏa thuận đưa ra trọng tài giải quyết thì bên còn lại có thể nộp đơn ra tòa án yêu cầu dừng tố tụng vào bất kỳ thời điểm nào sau khi tham gia và trước khi gửi các bản trình bày hoặc tiến hành các bước khác trong thủ tục tố tụng. Toà án hay một thẩm phán của toà có thể ra lệnh dừng tố tụng nếu thấy không có đủ lý do tại sao vấn đề không được xem xét theo như thoả thuận trọng tài, và tại thời điểm bắt đầu quá trình tố tụng, bên đưa đơn đề nghị đã và vẫn sẵn sàng và thiện chí làm tất cả mọi việc cần thiết để tiến hành thủ tục trọng tài một cách hợp thức. 1.1.3.2. Hiệu lực của quyết định trọng tài thương mại Ở hầu hết các quốc gia, pháp luật trọng tài đều quy định phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm bởi hai lý do:
  • 29. 22 Thứ nhất, TTTT là một loại hình tổ chức xã hội- nghề nghiệp, với đặc điểm thủ tục tố tụng xét xử một cấp, các TTTT độc lập với nhau, không có sự phân cấp cũng như phân vùng xét xử. Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài là kết quả của sự thỏa thuận giữa các bên. Cho nên trọng tài nhân danh ý chí tối cao của các bên đương sự. Do đó, các bên phải có nghĩa vụ tôn trọng kết quả của chính sự thống nhất ý chí đó. Các bên không có quyền kháng cáo mà phải thức hiện phán quyết ngay. Điều 32 bản quy tắc trọng tài UNCITRAL có quy định: “Quyết định Trọng tài phải làm bằng văn bản và là quyết định cuối cùng ràng buộc đối với các bên. Các bên có trách nhiệm thực hiện ngay quyết định trọng tài”. Phù hợp với thông lệ quốc tế, pháp luật Việt Nam cũng có quy định như: “Quyết định này là quyết định chung thẩm không thể kháng cáo tại bất cứ Tòa án hay tổ chức nào khác” hay “Quyết định giải quyết tranh chấp của trung tâm trọng tài kinh tế có hiệu lực thi hành không thể bị kháng cáo”. Các quy định nêu trên xét về mặt tinh thần có nghĩa là: một khi trọng tài đã ra quyết định thì quyết định đó bất di bất dịch, chỉ được phép chỉnh lý những vấn đề về tính toán, ghi chép (nếu có). Tuy nhiên, để một phán quyết trọng tài đạt được hiệu lực chung thẩm như trên, phán quyết trọng tài phải là kết quả của một quá trình xét xử công minh, vô tư và phải được tuyên bố theo đúng thủ tục ra quyết định trọng tài mà pháp luật quy định. Thông thường các quyết định đó là: - Phán quyết phải tôn trọng nguyên tắc đa số. Trong trường hợp có nhiều trọng tài viên, bất kì một quyết định nào được coi là quyết định cuối cùng giải quyết vấn đề giữa các bên phải được đa số trọng tài viên thông qua. - Quyết định phải được lập thành văn bản và được các trọng tài viên ký tên. - Nội dung của quyết định phải rõ ràng, đầy đủ. Một quyết định trọng tài phải có lý do trừ khi các bên nhất trí miễn nêu lý do. Mặc dù không có điều khoản nào quy định các căn cứ phản đối quyết định trọng tài do sai sót của Hội đồng xét xử trong việc áp dụng luật. Tuy nhiên, các bên
  • 30. 23 có thể kiện tới Tòa và yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định của Trọng tài trong những trường hợp sau: - Thỏa thuận trọng tài do một bên không có đủ năng lực pháp lý lập ra hoặc căn cứ vào pháp luật áp dụng thì thỏa thuận trọng tài vô hiệu. - Trường hợp các bên đương sự của vụ kiện không được thông báo về quá trình trọng tài. - Quyết định của trọng tài vượt quá khuôn khổ được ghi nhận trong thỏa thuận trọng tài. - Thành phần của hội đồng xét xử hoặc thủ tục xét xử trọng tài không tuân thủ thỏa thuận trọng tài. - Quyết định của Trọng tài ngược với lĩnh vực chung của quốc gia. Nhìn chung, các quy tắc trọng tài ban hành đều tìm cách làm cho phán quyết trọng tài là quyết định cuối cùng. Điều này làm cho phán quyết trọng tài mang tính chung thẩm, tạo điều kiện giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng. Các trường hợp hủy phán quyết của trọng tài do có sai sót liên quan đến thủ tục tố tụng là rất hiếm khi xảy ra. Do đó, giá trị chung thẩm của phán quyết trọng tài hầu như được bảo đảm. Xem xét hiệu lực của quyết định trọng tài Việt Nam và quyết định trọng tài của Singapore có thể nhận thấy quyết định của cả hai cơ quan trọng tài này đều mang giá trị chung thẩm. Tức là nó có giá trị bắt buộc và duy nhất, kể từ khi ra quyết định nó có hiệu lực thực hiện, buộc các bên đương sự phải tuân theo và khiến các bên không thể chống lại hay kháng cáo. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam vẫn cho phép Tòa án có thể xem xét lại đối với quyết định của trọng tài trong khi pháp luật của Singapore thì không như vậy. Mặt khác, pháp luật Việt Nam hiện nay tuy có quy định quyết định trọng tài là quyết định có giá trị chung thẩm song lại không có cơ chế cưỡng chế để đảm bảo việc thực thi quyết định này. Do đó, có nhiều ý kiến cho rằng việc Tòa án có thể xem xét lại cũng như không có cơ chế cưỡng chế thi hành quyết định trọng tài nên đương sự không chấp nhận phán quyết của Trọng tài có thể làm đơn khởi kiện đến Tòa kinh tế theo thủ tục giải quyết các vụ án sẽ làm
  • 31. 24 mất đi giá trị chung thẩm của quyết định trọng tài. Tác giả cho rằng, nhận định trên là hợp lý. Việc Tòa án thực hiện việc xem xét lại quyết định của Trọng tài chỉ nên xem xét lại về phần hình thức chứ không nên xem xét phần nội dung quyết định của Trọng tài và thay đổi nội dung quyết định này. Tức là, Tòa án chỉ xem xét về vấn đề trình tự, thủ tục đã đúng với thẩm quyền giải quyết của Trọng tài hay chưa chứ không nên thực hiện việc xem xét nội dung cũng như cách giải quyết quyền lợi của các bên như thế nào. 1.2. Tổ chức và hoạt động của các Trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore 1.2.1. Khái lược về Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) và Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) 1.2.1.1. Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam - VIAC (Vietnam International Arbitration Centre) Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam là một tổ chức phi Chính phủ được thành lập bên cạnh phòng Thương mại và Công nghiệp (TM & CN) Việt Nam theo Quyết định số 204/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 28/4/1993 trên cơ sở hợp nhất Hội đồng trọng tài Ngoại thương và Hội đồng trọng tài Hàng Hải. Khác với Hội đồng trọng tài Ngoại thương và Hội đồng trọng tài Hàng Hải, TTTT quốc tế Việt Nam có quan hệ khá rộng rãi với các hiệp hội, tổ chức kinh tế trên thế giới, đẩy mạnh một bước trong hợp tác quốc tế. Đặc biệt TTTT quốc tế Việt Nam còn thiết lập quan hệ được với một số luật sư hàng đầu về lĩnh vực trọng tài trên thế giới. Sự phát triển trên đã đem lại một thế giới mới cho TTTT quốc tế Việt Nam có thêm kiến thức và kinh nghiệm trong thực tế từ các tổ chức trọng tài Quốc tế khác nhằm tạo khả năng cho Trung tâm trong việc giải quyết những tranh chấp ngày một phức tạp khi nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển mạnh. Mô hình tổ chức của VIAC gồm Ban điều hành, Ban thư ký, Hội đồng khoa học pháp lý, Ban Xúc tiến – Đào tạo và các đơn vị trực thuộc khác. Ban điều hành gồm Chủ tịch và các Phó Chủ tịch là người đại diện theo pháp luật của VIAC, chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của VIAC. Các Phó Chủ tịch là người giúp Chủ
  • 32. 25 tịch điều hành theo sự phân công của Chủ tịch. Ban Thư ký thực hiện các công việc hành chính để hỗ trợ việc giải quyết tranh chấp. Ban Thư ký gồm Tổng thư ký, các Phó Tổng thư ký và các Thư ký do Chủ tịch VIAC chỉ định. Hội đồng khoa học pháp lý do Chủ tịch VIAC ra quyết định thành lập, có nhiệm vụ tổ chức nghiên cứu, tổng kết, đánh giá thực tiễn giải quyết tranh chấp tại VIAC; góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật khi được đề nghị hoặc có yêu cầu [31]. Các trọng tài viên của Trung tâm do Uỷ ban thường trực của Phòng TM & CN Việt Nam lựa chọn, họ là những người có kiến thức và kinh nghiệm trong các lĩnh vực pháp luật, ngoại thương, đầu tư, tài chính, ngân hàng, vận tải, bảo hiểm... Các trọng tài viên cũng có nhiệm kỳ 4 năm, và sau đó cũng có thể được bầu lại. Các trọng tài viên nước ngoài cũng có thể được chọn vào là trọng tài viên của trung tâm. Hiện nay Trung tâm đã có 139 trọng tài viên trong đó có 16 trọng tài viên là người nước ngoài thuộc nhiều quốc gia khác nhau như: Singapore, Malaysia, Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc, Đức, Pháp, Mỹ, Anh. Đây là những chuyên gia có uy tín và kinh nghiệm trên nhiều lĩnh vực khác nhau [31]. TTTT Quốc tế Việt Nam là một tổ chức phi Chính phủ hoạt động với những nhiệm vụ chính là tiến hành hoà giải các tranh chấp thuộc thẩm quyền theo quy chế riêng của Trung tâm. Song, TTTT Quốc tế Việt Nam - một tổ chức tập hợp những chuyên gia hàng đầu về kinh tế và thương mại Quốc tế của Việt Nam đã không dừng lại ở đây, mà đã tham gia tích cực vào nhiều hoạt động khác. Mục đích là dần nâng cao chất lượng xét xử, đóng góp vào việc cải thiện môi trường pháp luật và hành lang pháp lý của nước ta, hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào kinh doanh Quốc tế…. Để thực hiện mục đích đó, TTTT quốc tế Việt Nam đã và đang tham gia vào những hoạt động sau: hoạt động góp ý xây dựng chính sách và pháp luật, hoạt động hợp tác với các tổ chức trong nước và Quốc tế, hoạt động tuyên truyền, phổ biến thông tin pháp lý, hoạt động giải quyết tranh chấp của TTTT Quốc tế Việt Nam.
  • 33. 26 1.2.1.2. Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore - SIAC (The Singapore International Arbitration) Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore là tổ chức trọng tài phi chính phủ được thành lập năm 1990 và bắt đầu đi vào hoạt động ngày 1/7/1991. SIAC có chức năng cung cấp những điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế và trong nước bằng trọng tài, khuyến khích giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp ngoài Tòa án, tạo môi trường hoạt động cho các trọng tài theo luật và thực tiễn hoạt động của trọng tài quốc tế. SIAC là một trong các tổ chức trọng tài có uy tín hàng đầu trong khu vực. Tổ chức của SIAC bao gồm: Chánh Tòa, các Phó Chánh Tòa, Tổng Thư ký, Hội đồng trọng tài và các Trọng tài viên. Các tranh chấp thuộc thẩm quyền của SIAC là các tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, bảo hiểm, ngân hàng, đầu tư, thanh toán quốc tế… SIAC có hai danh sách trọng tài viên: Danh sách trọng tài viên khu vực và danh sách trọng tài viên quốc tế. Cả hai danh sách này đều có chức năng như nhau. Danh sách trọng tài khu vực gồm những trọng tài viên ngoài khu vực này. Ủy ban trọng tài có thể có một hoặc ba trọng tài viên được chọn ra từ danh sách trọng tài. Các trọng tài viên sẽ được chủ tịch trung tâm lựa chọn nếu các bên không tự lựa chọn được. Các trọng tài viên sẽ tiến hành xét xử một cách độc lập, vô tư. Bất cứ dấu hiệu nào về tính trung thực cũng như sự thiên vị đều bị khước từ. Nếu trong quá trình trọng tài có trọng tài viên nào bị chết, về hưu hoặc có hành vi sai trái thì trọng tài viên đó sẽ bị thay thế bởi một trọng tài viên khác. Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore trong những năm qua đã hoạt động rất hiệu quả và đã được biết đến ở nhiều nước trên thế giới. Trung tâm ngày càng đẩy mạnh hoạt động nâng cao chất lượng để thu hút các thương nhân xảy ra tranh chấp đến với mình.
  • 34. 27 1.2.2. Căn cứ thành lập và chấm dứt hoạt động của trung tâm trọng tài 1.2.2.1. Căn cứ thành lập và chấm dứt hoạt động của Trung tâm trọng tài Việt Nam - Căn cứ thành lập: Theo quy định của Luật TTTM năm 2010 của Việt Nam, trung tâm trọng tài được thành lập khi có ít nhất năm sáng lập viên là công dân Việt Nam có đủ điều kiện là Trọng tài viên có đề nghị thành lập và được Bộ trưởng Bộ Tư pháp cấp Giấy phép thành lập. Sau khi Trung tâm trọng tài đã hoàn tất thủ tục đăng ký hoạt động với cơ quan có thẩm quyền thì Trung tâm trọng tài được cấp Giấy đăng ký hoạt động và có tư cách pháp nhân, có đầy đủ căn cứ để hoạt động. - Chấm dứt hoạt động: Hoạt động của Trung tâm trọng tài chấm dứt trong các trường hợp sau: theo quy định tại điều lệ của Trung tâm trọng tài; bị thu hồi Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động khi: trung tâm trọng tài có hành vi vi phạm đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà tái phạm, trung tâm trọng tài không tiến hành bất kỳ hoạt động nào ghi trong Điều lệ, Giấy phép thành lập trong vòng 05 năm liên tục kể từ ngày được cấp Giấy đăng ký hoạt động; Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được Giấy phép thành lập, Trung tâm trọng tài không tiến hành đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Trung tâm trọng tài đặt trụ sở; Trung tâm trọng tài không sửa đổi, bổ sung điều lệ, quy tắc tố tụng trọng tài cho phù hợp với Luật Trọng tài thương mại trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày Luật Trọng tài thương mại có hiệu lực. 1.2.2.2. Căn cứ thành lập và chấm dứt hoạt động của Trung tâm trọng tài Singapore Singapore là một trung tâm khu vực và tài chính, phục vụ như là một cửa ngõ giữa Đông và Tây và nơi các trụ sở khu vực của nhiều tập đoàn đa quốc gia, Singapore cũng là một trung tâm quan trọng trọng tài trong khu vực. Sự phát triển của danh tiếng và ảnh hưởng của nó đã được hỗ trợ bởi việc thành lập Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) vào tháng 7 năm 1991 và việc ban hành Luật Trọng tài Quốc tế (Cap 143A) ("AIA") vào năm 1994 kết hợp với các UNCITRAL Luật mẫu về Trọng tài thương mại .
  • 35. 28 Pháp luật Singapore không có quy định về căn cứ thành lập và chấp dứt hoạt động của trung tâm trọng tài rõ ràng như Việt Nam. Chúng ta sẽ đi sâu về vấn đề này trong trong Chương II của bài này. 1.2.3. Mục tiêu nhiệm vụ và quyền hạn của Trung tâm trọng tài 1.2.3.1. Mục tiêu, nhiệm vụ, quyền hạn của Trung tâm trọng tài Ở các nước, trung tâm trọng tài được lập ra để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thương mại và nhiều lĩnh vực khác. Nhưng đối với một tranh chấp cụ thể thì TTTT không có thẩm quyền đương nhiên. TTTT chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi các bên chuyển tranh chấp cho TTTT xét xử chứ TTTT không tự mình đem tranh chấp ra xét xử (trừ trường hợp Trọng tài kinh tế ở Việt Nam nay đã chấm dứt hoạt động). Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TTTT đối với các tranh chấp cụ thể có thể được quy định trong hợp đồng, trong một văn bản thỏa thuận riêng về trọng tài giữa các bên, hoặc trong pháp luật hoặc các điều ước quốc tế có liên quan. Trọng tài thương mại được thành lập để giải quyết các tranh chấp thương mại. Những tranh chấp thương mại cũng chỉ có thể thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại nếu các bên có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài này có hiệu lực. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật Singapore và thông lệ quốc tế nói chung, một tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại nếu các bên thuộc một trong các trường hợp cụ thể sau đây: Thứ nhất, tranh chấp giữa các bên phát sinh phải là tranh chấp từ hoạt động thương mại; Thứ hai, tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có hoạt động thương mại; Thứ ba, tranh chấp khác giữa các bên mà theo quy định được giải quyết bằng trọng tài thương mại. Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên cam kết đưa ra TTTT để giải quyết tất cả hoặc một số loại tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau về một quan hệ
  • 36. 29 pháp luật nhất định, theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng. Thỏa thuận trọng tài có thể tồn tại dưới dạng một điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc một văn bản thỏa thuận riêng. 1.2.3.2. Quy tắc tố tụng trọng tài TTTT hoạt động theo trình tự thủ tục dựa trên quy định pháp luật và Quy tắc tố tụng của TTTT. Tố tụng trọng tài, hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài. Vậy có thể hiểu quy tắc tố tụng trọng tài là các quy tắc trong trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng hình thức trọng tài. Việc áp dụng quy tắc tố tụng trọng tài ở mỗi quốc gia là khác nhau, song tựu chung lại quy tắc tố tụng được áp dụng để giải quyết các vụ tranh chấp tại Trung tâm trọng tài thương mại. Quy tắc tố tụng của một trung tâm trọng tài chỉ được áp dụng khi các bên có thỏa thuận lựa chọn Trung tâm trọng tài hoặc chỉ định lựa chọn quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài để giải quyết các vụ tranh chấp của mình. Mặt khác, khi áp dụng quy tắc tố tụng của trọng tài để giải quyết các vụ việc của đương sự thì đương sự không thực hiện thỏa thuận chọn quy tắc tố tụng trọng tài khác. Tức là, trong mỗi vụ việc đương sự chỉ được áp dụng một quy tắc tố tụng trọng tài duy nhất để đảm bảo tính thống nhất trong quá trình tố tụng. Quy tắc tố tụng của VIAC được xây dựng trên cơ sở Luật Trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010. Quy tắc tố tụng mới nhất của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) có hiệu lực từ ngày 01/01/2012, bao gồm 35 điều khoản và quy định về các nội dung cơ bản sau: Về khởi kiện, thụ lý, bản tự bảo vệ và quyền kiện lại của bị đơn; Thành lập hội đồng trọng tài; Nghiên cứu hồ sơ, xác minh sự việc; Lựa chọn địa điểm, ngôn ngữ trọng tài và pháp luật áp dụng; Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Phiên họp trọng tài; Quyết định trọng tài; Lệ phí trọng tài và các chi phí khác. Quy tắc tố tụng của VIAC được áp dụng để giải quyết các vụ tranh chấp tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam. Như vậy, khi các bên có thỏa thuận đưa vụ
  • 37. 30 tranh chấp ra giải quyết tại VIAC thì sẽ phải tuân theo Quy tắc tố tụng của VIAC để giải quyết tranh chấp. Quy tắc tố tụng của SIAC được xây dựng dựa trên cơ sở Luật mẫu UNCITRAL và quy tắc tố tụng của Tòa án trọng tài quốc tế Luân Đôn. Các thay đổi so với hai quy tắc trên là theo chiều hướng rút ngắn giai đoạn trên giấy tờ của quá trình trọng tài và quy định thời gian cho ủy ban trọng tài ra phán quyết. Quy tắc tố tụng mới nhất của Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) có hiệu lực từ ngày 01/4/2013 bao gồm 37 điều khoản và 02 phụ lục, quy định về các nội dung cơ bản sau: phạm vi áp dụng; Số lượng và chỉ định Trọng tài viên; Phiên họp giải quyết tranh chấp; Địa điểm, ngôn ngữ trọng tài; Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; Biện pháp khẩn cấp tạm thời; Phán quyết trọng tài; Phí và đặt cọc; Bảo mật; Phụ lục quyết định về trọng tài viên khẩn cấp và các quy định riêng cho quy tắc trọng tài trong nước. Quy tắc tố tụng của SIAC được áp dụng trong trường hợp các bên thỏa thuận đưa các vụ tranh chấp ra trọng tài tại SIAC, khi đó, các bên được xem như đã đồng ý tố tụng trọng tài sẽ được điều hành và tiến hành theo Quy tắc này. Tuy nhiên, trong trường hợp một trong các quy định của Quy tắc này xung đột với một quy định bắt buộc của pháp luật hiện hành về trọng tài mà các bên không được vi phạm, thì quy định đó sẽ được lấy làm căn cứ. Các bên có thể tự thỏa thuận về địa điểm trọng tài, ngôn ngữ trọng tài và người đại diện của các bên. KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Có thể nhận thấy rằng, Trọng tài thương mại là một hình thức giải quyết tranh chấp mang tính xã hội quan trọng cần được phát triển. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế, nhu cầu giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế ngày càng trở nên cần thiết. Để đảm bảo được quá trình kinh doanh lành mạnh cũng như sự công bằng trong kinh doanh, pháp luật Việt Nam đã và đang xây dựng cơ chế thực thi
  • 38. 31 pháp luật tối ưu đặc biệt là việc thành lập các trung tâm trọng tài để giải quyết các tranh chấp như Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) với các chức năng nhiệm vụ quyền hạn chuyên biệt. Mô hình thiết chế của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) được tổ chức tương tự như mô hình thiết chế Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) hoạt động theo pháp luật trọng tài thương mại của Singapore. Về cơ bản, các thiết chế này được thành lập đều với mục đích là giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại trong nước và quốc tế. Các Trung tâm trọng tài đều trang bị cho mình những nền tảng pháp lý cơ bản (về pháp luật trọng tài, quy tắc tố tụng) để quy định nhiệm vụ, quyền hạn cũng như thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trung tâm trọng tài và có một đội ngũ trọng tài viên với trình độ chuyên môn, năng lực cao nhằm đáp ứng được nhu cầu giải quyết tranh chấp của các bên. Chương 2 sẽ đi sâu phân tích, so sánh để làm rõ hơn thực trạng giải quyết tranh chấp tại hai Trung tâm trọng tài VIAC và SIAC.
  • 39. 32 CHƢƠNG 2 SO SÁNH THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VIỆT NAM (VIAC) VÀ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ SINGAPORE (SIAC) 2.1. So sánh căn cứ thành lập và hoạt động của hai trung tâm trọng tài thƣơng mại 2.1.1. Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) Trong thời kì hội nhập kinh tế như hiện nay, sự năng động của thị trường kéo theo sự thành lập một số lượng không nhỏ các doanh nghiệp, từ doanh nghiệp lớn đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ khiến cho sức cạnh tranh của thị trường tăng nhanh. Ngoài ra, với xu thế hội nhập, các doanh nghiệp của Việt Nam không chỉ giao tiếp với nhau mà còn giao tiếp với các doanh nghiệp ngoài nước. Vì mục đích lợi nhuận, việc các bên xảy ra tranh chấp là điều dễ dàng xảy ra. Để góp phần giải quyết những tranh chấp này phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng của các bên đương sự, đồng thời tạo niềm tin, định hướng cho các doanh nghiệp Việt Nam yên tâm phát triển bền vững. Chính vì lý do này mà các Trung tâm trọng tài Việt Nam được thành lập. 2.1.1.1. Quá trình hoạt động và căn cứ thành lập Trước những năm 1993, các tranh chấp thương mại ở Việt Nam được giải quyết ở hai tổ chức trọng tài là Hội đồng trọng tài Ngoại thương và Hội đồng trọng tài Hàng hải. Hai tổ chức này tồn tại độc lập với nhau và chính là tiền thân của Trung tâm trọng tài quốc tế của Việt Nam hiện nay. Hội đồng Trọng tài Ngoại thương (FTAC): Là tổ chức phi chính phủ được thành lập bên cạnh Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam theo Quyết định số 59/CP ra ngày 30/4/1963 của Hội đồng Chính phủ. FTAC gồm 15 ủy viên được chỉ định với nhiệm kì 3 năm. Thẩm quyền của FTAC chỉ hạn chế đối với các giao dịch ngoại thương. Theo đó, tổ chức này không có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về hợp đồng dân sự và kinh tế trong nước.
  • 40. 33 Quyết định trọng tài được các bên tự nguyện thi hành trong thời hạn ấn định. Trong trường hợp quyết định trọng tài không được thi hành trong thời hạn ấn định thì một trong hai bên có quyền yêu cầu sự can thiệp của Tòa án. Hội đồng Trọng tài Hàng hải (MAC): Được thành lập ngày 5/10/1964 theo Quyết định số 153- CP của Chính phủ Việt Nam. MAC là tổ chức phi chính phủ bên cạnh Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Nhìn chung, MAC có điều lệ và quy tắc trọng tài tương tự FTAC. Thẩm quyền của MAC bị hạn chế trong lĩnh vực vận tải biển khi có một trong các bên đương sự là tổ chức nước ngoài. MAC không có thẩm quyền đối với các tranh chấp liên quan đến hợp đồng dân sự hoặc kinh tế do các cá nhân hoặc tổ chức Việt Nam kí kết kể cả các tranh chấp về đầu tư. Cho đến những năm sau 1986, khi nước ta bước vào giai đoạn cải cách bằng chính sách đổi mới kinh tế thì đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cũng như giao dịch giữa Việt Nam và nước ngoài đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa, tranh chấp ngoại thương ngày càng diễn ra phức tạp hơn. Đến lúc này FTAC và MAC bắt đầu gặp phải những khó khăn lớn. Với mục đích cải tổ lại hoạt động và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp giữa các tổ chức kinh tế Việt Nam và nước ngoài. Ngày 28/4/1993 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định 204/ TTg cho phép thành lập Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam. Theo đó, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam được thành lập trên cơ sở hợp nhất FTAC và MAC. Theo Quyết định số 204/TTg nêu trên, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam là tổ chức phi chính phủ bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh tế quốc tế như hợp đồng ngoại thương, các hợp đồng đầu tư, du lịch, vận tải và bảo hiểm quốc tế, chuyển giao công nghệ, tín dụng và thanh toán quốc tế… Bằng quyết định số 114/TTg ngày 16/2/1996. Thủ tướng Chính phủ cho phép Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam giải quyết các tranh chấp kinh tế
  • 41. 34 ngay cả khi nó không có yếu tố nước ngoài nếu các bên tranh chấp thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết tại trung tâm này. 2.1.1.2. Mục tiêu, nguyên tắc thành lập Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VIAC) có mục tiêu là thúc đẩy sự phát triển của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hoặc các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại khác theo quy định của pháp luật. VIAC mong muốn tạo ra cơ chế giải quyết tranh chấp khách quan, công bằng, thuận lợi, hiệu quả và đáng tin cậy. VIAC được đánh giá là một tổ chức trọng tài có uy tín của Việt Nam, được cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài tín nhiệm và lựa chọn để giải quyết tranh chấp. Với phương châm hoạt động được nêu ra là “Thân thiện – Minh Bạch – Hiệu quả”, Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam hoạt động dựa trên các nguyên tắc chung theo quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010, đó là: Thứ nhất, trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội: Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận. Vì vậy mọi thỏa thuận giữa các bên về tố tụng trọng tài sẽ được bên thứ ba, trong đó có trọng tài viên thừa nhận. Theo đó, trọng tài viên phải tôn trọng về lựa chọn trọng tài của các bên, về các vấn đề liên quan đến trọng tài như địa điểm, thời gian, và thủ tục trọng tài. Trong trường hợp các bên đã thỏa thuận thì trọng tài không áp đặt ý chí của mình và từ chối thực hiện yêu cầu của các bên trừ khi yêu cầu đó vi phạm pháp luật, điều cấm, đạo đức xã hội. Thứ hai, trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật: Một hội đồng trọng tài có thể gồm một hoặc ba trọng tài viên. Một trọng tài viên có thể do một bên chỉ định hoặc các bên thống nhất lựa chọn. Trong bất cứ trường hợp nào thì trọng tài viên cũng phải độc lập, khách quan. Trọng tài viên là người đứng ở giữa phân giải để đi đến một phán quyết công bằng, do đó không được để mình bị ảnh hưởng bởi một bên tranh chấp (cho dù bên đó là bên đã chỉ định mình) hoặc bất kỳ bên thứ ba nào khác. Mặt khác, khi xét xử, trọng tài viên
  • 42. 35 phải đánh giá tình tiết vụ việc, chứng cứ, và luận điểm của các bên một cách đầy đủ, khách quan, vô tư, tránh những nhận định chủ quan, cảm tính, vô căn cứ. Ðể đảm bảo hiệu lực của tố tụng trọng tài, trọng tài viên cũng phải tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật có liên quan trong quá trình xét xử cũng như khi ra phán quyết. Nếu phán quyết của trọng tài vi phạm pháp luật thì có thể bị hủy. Thứ ba, các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình: Nguyên tắc bình đẳng trong tố tụng là một nguyên tắc có tính nền tảng. Khi giải quyết tranh chấp, bên nguyên đơn và bên bị đơn đều có quyền lợi và trách nhiệm ngang nhau, không bên nào được ưu tiên và cũng không bên nào bị phân biệt đối xử hơn bên nào. Nhưng nói như thế không có nghĩa là quyền và nghĩa vụ của các bên là giống hệt nhau. Chẳng hạn nguyên đơn có nghĩa vụ lập đơn kiện trong khi bị đơn lại có quyền lập bản tự bảo vệ. Hội đồng trọng tài phải tạo điều kiện và không được ngăn cản các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Để làm được điều đó, hội đồng phải kịp thời thông báo cho các bên về quyền, nghĩa vụ của họ và cách thức thực hiện những quyền và nghĩa vụ đó. Thứ tư, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác: Đây là một điểm phân biệt đáng chú ý giữa trọng tài và Tòa án. Trong khi tố tụng Tòa án và bản án của tòa về nguyên tắc được công khai thì tố tụng trọng tài và bản án trọng tài lại ngược lại. Ngoại trừ chính các bên tham gia tranh chấp và hội động trọng tài cùng những bên liên quan được các bên đồng ý thì không một ai khác được tham gia vào quá trình xét xử trọng tài. Bên cạnh đó, mỗi bên và hội đồng trọng tài cũng không được tiết lộ bất kỳ thông tin gì về tranh chấp và quá trình xét xử trọng tài ra ngoài mà không được sự đồng ý của bên còn lại. Phán quyết trọng tài là bảo mật và được giữ kín, không tiết lộ cho công chúng nếu các bên không có thỏa thuận khác. Thứ năm, phán quyết trọng tài là chung thẩm: Một điểm khác biệt nữa giữa trọng tài và Tòa án là phán quyết trọng tài sẽ không bị xem xét lại. Nói cách khác, trong tố tụng trọng tài không có các thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm như