SlideShare a Scribd company logo
1 of 111
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG MINH PHƯƠNG
THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG MINH PHƯƠNG
THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Thị Thanh Thủy
Hà Nội – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đặng Minh Phương
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia
Hà Nội, đến nay em đã hoàn thành luận văn Thạc sỹ, đạt kết quả khả quan theo
các mục tiêu nghiên cứu đã đề ra.
Qua đây, em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô Khoa Luật –
Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhiệt tình truyền thụ những kiến thức bổ ích, tạo
điều kiện giúp em hoàn thành tốt chương trình Thạc sỹ. Đặc biệt, em xin trân
trọng cảm ơn GVC,TS. Phan Thị Thanh Thủy, người đã rất tận tâm hướng dẫn
em thực hiện đề tài nghiên cứu, đã truyền tải những kiến thức chuyên sâu và
chia sẻ những kinh nghiệm thực tế hữu ích liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2014
Học viên
Đặng Minh Phương
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục tài liệu viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI...................................................................................6
1.1. Khái quát về Hội đồng trọng tài thương mại.....................................................6
1.1.1. Khái niệm và sự hình thành của Hội đồng trọng tài thương mại ..................6
1.1.1.1. Sự hình thành của Hội đồng trọng tài quy chế.................................................8
1.1.1.2. Sự hình thành của Hội đồng trọng tài vụ việc..................................................9
1.1.2. Những đặc điểm của Hội đồng trọng tài thương mại.....................................11
1.1.3. Chức năng của Hội đồng trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp.12
1.2. Khái quát về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại .......................14
1.2.1. Khái niệm thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại ...........................14
1.2.2. Phân biệt thẩm quyền của Hội đồng trọng tài và thẩm quyền của Tòa án.....17
1.2.2.1. Giống nhau ...................................................................................................17
1.2.2.2. Khác nhau.....................................................................................................18
1.3. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài theo luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài
thương mại................................................................................................................23
Chương 2 CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THẨM QUYỀN
CỦA HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH 33
2.1. Các quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại giai đoạn
trước Luật Trọng tài thương mại năm 2010 ..........................................................33
2.1.1. Giai đoạn trước khi có Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003................33
2.1.2. Giai đoạn từ năm 2003 đến trước năm 2010 ..................................................38
2.2. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo Luật trọng tài thương
mại năm 2010...........................................................................................................43
2.2.1. Quy định về thành lập Hội đồng trọng tài ......................................................43
2.2.1.1. Thành lập Hội đồng trọng tài quy chế...........................................................43
2.2.1.2. Thành lập trọng tài vụ việc............................................................................48
2.2.2. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong công tác chuẩn bị xét xử .............51
2.2.2.1. Thẩm quyền xem xét sự tồn tại, hiệu lực, tính khả thi của thỏa thuận trọng tài
và thẩm quyền của Hội đồng trọng tài .......................................................................51
2.2.2.2. Thẩm quyền trong việc xác minh sự việc và thu thập chứng cứ .....................54
2.2.2.3. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong việc áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời…………………………………………………………………………...57
2.2.3. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong phiên họp giải quyết tranh chấp..61
2.2.3.1. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài về triệu tập người làm chứng ................61
2.2.3.2. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài khi đương sự vắng mặt trong phiên họp 62
2.2.3.3. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong việc thương lượng và giải quyết
tranh chấp .................................................................................................................64
2.2.4. Thẩm quyền ra phán quyết của Hội đồng trọng tài........................................66
2.3. Những vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật về thẩm quyền của
Hội đồng trọng tài thương mại................................................................................70
2.4. Thực tiễn việc thực thi các quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài
thương mại...............................................................................................................77
Chương 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN CỦA
HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI............................................................86
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài
thương mại...............................................................................................................86
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng
trọng tài thương mại................................................................................................88
3.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại................................88
3.3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài..........91
3.3. Các giải pháp nâng cao uy tín và nhu cầu áp dụng trọng tài trong giải quyết
tranh chấp thương mại............................................................................................94
KẾT LUẬN ..............................................................................................................99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................101
DANH MỤC TÀI LIỆU VIẾT TẮT
Công ước New York 1958 Công ước New York năm 1958 của
Liên Hợp Quốc về Công nhận và thi
hành quyết định trọng tài nước ngoài
Luật mẫu UNCITRAL Luật Mẫu về trọng tài thương mại
quốc tế của Uỷ ban Liên Hợp quốc về
luật thương mại quốc tế UNCITRAL
thông qua ngày 21 tháng 6 năm 1985
Luật TTTM 2010 Luật Trọng tài thương mại số
54/2010/QH12 được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày
17 tháng 6 năm 2010
Pháp lệnh TTTM 2003 Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc
hội số 08/2003/PL-UBTVQH11 ngày
25 tháng 02 năm 2003 về Trọng tài
thương mại
Hội đồng TTTM Hội đồng trọng tài thương mại
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trọng tài thương mại là cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án
thuận lợi cho các bên, đặc biệt là các bên tham gia các hoạt động thương mại,
đầu tư. Trong giao dịch dân sự thường ngày, nhất là các giao dịch kinh tế
thương mại, việc phát sinh tranh chấp là không thể tránh khỏi và giải quyết
các tranh chấp phát sinh một cách nhanh chóng, hiệu quả, công bằng là góp
phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư, tạo sự yên tâm cho
các bên ngay từ khi mới hình thành quan hệ và cả khi có phát sinh tranh chấp.
Tuy nhiên trên thực tế, trọng tài tại Việt Nam rất ít được sử dụng để
giải quyết các tranh chấp đầu tư và thương mại; các hợp đồng với các bên
nước ngoài nhất là hợp đồng có giá trị lớn hầu như không lựa chọn trọng tài
tại Việt Nam để giải quyết tranh chấp. Các tranh chấp ở Việt Nam hiện nay
vẫn chủ yếu được giải quyết thông qua hệ thống Tòa án hoặc trọng tài nước
ngoài.
Nguyên nhân xuất phát từ việc hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành
về trọng tài thương mại vẫn còn những bất cập, làm cho hệ thống trọng tài
chưa thực sự trở thành phương thức hấp dẫn và hiệu quả để các bên lựa chọn
giải quyết các tranh chấp liên quan. Một trong những bất cập đó là vấn đề thủ
tục tố tụng trọng tài còn nhiều bất cập trong đó có quy định về thẩm quyền
của Hội đồng TTTM. Các quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài còn
nhiều bất cập làm cho tính linh hoạt, ưu thế của phương thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài không phát huy được hoàn toàn. Điều này dẫn đến vấn đề
thẩm quyền của Hội đồng trọng tài chưa thực sự mạnh, chưa phân định rõ
thẩm quyền trong quá trình giải quyết; nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng
trọng tài còn chưa được quy định cụ thể dẫn đến các chủ thể có tranh chấp
phát sinh được giải quyết bằng trọng tài thương mại chưa thực sự tin tưởng sử
dụng trọng tài thương mại như là phương thức giải quyết tranh chấp hàng đầu.
2
Trong những năm vừa qua, nền kinh tế thế giới và Việt Nam có những
chuyển biến mang tính tiêu cực, tình hình khủng hoảng kinh tế đang còn diễn
ra, chính vì vậy các giao dịch thương mại, kinh tế phát sinh nhiều tranh chấp
xảy ra. Trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện cuối cùng
các bước để hoàn tất các cam kết đã ký khi tham gia Tổ chức thương mại thế
giới (WTO), việc hoàn thiện các quy định về trọng tài thương mại của Việt
Nam trong đó có quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài là một vấn
đề mang tính cấp thiết.
Xuất phát từ lý do này, tác giả đã chọn vấn đề “Thẩm quyền của Hội
đồng trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam” làm đề
tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu các vấn đề về trọng tài
thương mại với tư cách là bài bình luận, bài báo khoa học hoặc các luận văn,
luận án. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và
thỏa đáng về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong thủ tục tố tụng trọng tài
thương mại. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, Luật TTTM 2010 đã được
Quốc hội thông qua và đi vào thực hiện thay thế cho Pháp lệnh TTTM 2003
bị đánh giá là còn nhiều điểm chưa hợp lý, chưa hấp dẫn các doanh nghiệp
tìm đến con đường giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, một phương thức tỏ
ra có ưu thế hơn hẳn Tòa án được thừa nhận ở hầu hết các nước trên thế giới.
Ở cấp độ luận văn thạc sỹ có thể kể đến các công trình như Vũ Thanh
Minh với luận văn “Pháp luật Việt Nam về thủ tục tố tụng của trọng tài
thương mại” năm 2011 tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Tác giả
Nguyễn Thị Thu Thủy với đề tài “Pháp luật về trọng tài thương mại ở nước
ta hiện nay” năm 2003 tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội...
Ở cấp độ bài báo khoa học có thể kể đến các tác phẩm như: Tác giả
Nguyễn Vũ Hoàng với bài viết “Luật áp dụng trong lĩnh vực trọng tài thương
mại quốc tế” đăng trên Tạp chí Luật học Số đặc san về giải quyết tranh chấp
3
thương mại quốc tế năm 2012; Tác giả Trần Quỳnh Anh với bài viết “Một số
vướng mắc và hướng hoàn thiện Luật trọng tài thương mại” đăng trên Tạp chí
Luật học số 7/2012...
Trong đó, thẩm quyền của Hội đồng TTTM theo pháp luật hiện hành là
một trong những vấn đề cần phải bàn tới nhiều nhất nhưng lại hoàn toàn thiếu
vắng các công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Do vậy, tác giả mạnh
dạn nghiên cứu vấn đề này, đồng thời so sánh với pháp luật một số quốc gia
trên thế giới đề làm rõ sự khác biệt về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài
trong pháp luật trọng tài thương mại của Việt Nam so với pháp luật trọng tài
thương mại một số nước trên thế giới.
3. Mục đích của luận văn
Luận văn nghiên cứu với mục đích làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về
trọng tài thương mại và thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong thủ tục tố
tụng trọng tài. Luận văn phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về
thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong tương quan so sánh với những quy
định trước đây về trọng tài thương mại của Việt Nam và quy định về trọng tài
thương mại của luật các quốc gia trên thế giới.
Từ những sự phân tích trên, luận văn tiến hành chỉ ra những vướng
mắc, bất cập trong quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục tố tụng trọng
tài nói chung và thẩm quyền của Hội đồng trọng tài nói riêng. Qua đó, luận
văn đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục tố tụng
trọng tài và thẩm quyền của Hội đồng trọng tài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn hướng đến hai đối tượng nghiên cứu chính. Đối tượng thứ
nhất là các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền Hội đồng TTTM
ở Việt Nam mà đặc biệt là các quy định tại Luật TTTM 2010. Đối tượng thứ
hai mà tác giả hướng đến đó là thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật
về thẩm quyền Hội đồng TTTM tại Việt Nam.
4
Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung
Trong phạm vi nghiên cứu của một luận văn cao học, nội dung nghiên
cứu của đề tài tiếp cận vấn đề thẩm quyền của Hội đồng TTTM trên hai
phương diện lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định về thẩm
quyền của Hội đồng trọng tài và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp
luật về thẩm quyền Hội đồng TTTM, tác giả đưa ra những đánh giá khách
quan và đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng TTTM tại Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
- Về mặt thời gian
Khi nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng như đánh giá thực tiễn, luận
văn lấy mốc nghiên cứu từ năm 2010 – năm Luật TTTM 2010 được ban
hành cho đến nay. Nội dung luận văn cũng có sự đề cập và phân tích đối
với các quy định pháp luật trước năm 2010 về vấn đề thẩm quyền trọng tài,
đặc biệt là các quy định trong Pháp lệnh về Trọng tài thương mại năm
2003. Khi đề xuất giải pháp, luận văn nêu ra những kiến nghị, đề xuất thực
hiện trong thời gian 5 – 10 năm tới.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để tiếp cận vấn đề nghiên cứu đề tài tác giả dựa trên cơ sở phương
pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề phát triển kinh tế, tìm ra
các phương hướng giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại. Ngoài ra,
còn sử dụng các thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch
sử pháp luật, lý luận về nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật.
Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận làm sáng tỏ vấn đề
như: phương pháp lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê,… Đồng
thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước
5
và những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.
6. Đóng góp của đề tài
Trong luận văn, tác giả nghiên cứu một cách tổng thể và có hệ thống cơ
sở lý luận về thẩm quyền của Hội đồng TTTM, phân tích các quy định của
pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng TTTM ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở
những phân tích, đánh giá này, kết hợp tham khảo quy định của một số nước
trên thế giới về thẩm quyền của Hội đồng TTTM, luận văn chỉ ra một số bất
cập còn tồn tại trong cơ chế áp dụng thẩm quyền của Hội đồng trọng tài để
qua đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao khả
năng áp dụng trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại.
Với kết quả như trên, luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu
phục vụ việc học tập và giảng dạy, cũng như tham khảo để hoàn thiện các quy
định của pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng TTTM.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thẩm quyền của Hội đồng trọng
tài thương mại.
Chương 2: Các quy định của pháp luật Việt nam về thẩm quyền của
Hội đồng trọng tài thương mại và thực tiễn thi hành.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Hội
đồng trọng tài thương mại.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA
HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về Hội đồng trọng tài thương mại
1.1.1. Khái niệm và sự hình thành của Hội đồng trọng tài thương mại
Trong khoa học pháp lý, trọng tài được nghiên cứu dưới nhiều bình
diện khác nhau và do đó hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về trọng tài.
Theo cuốn “Từ điển kinh tế thị trường từ A đến Z”: “Trọng tài là một cách
giải quyết bất đồng trong quan hệ công nghiệp mà không cần đưa ra pháp
luật hay đình công” [43]. Hoặc trong cuốn sách Trọng tài thương mại quốc tế
của UNCITRAL: “Trọng tài là những tranh chấp hay bất đồng được đưa ra
cho một hoặc nhiều người được xem là công tâm, không thiên lệch quyết định
và quyết định này có tính ràng buộc đối với hai bên” [21].
Theo Hội đồng trọng tài Mỹ (AAA): “Trọng tài là cách thức giải quyết
tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan
xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc
các bên tranh chấp phải thi hành” [9].
Tại Việt Nam, theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật trọng tà7i thương
mại năm 2010 “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp
do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật trọng tài
thương mại” [29].
Mặc dù có khá nhiều định nghĩa khác nhau về trọng tài, song nhìn
chung hiện nay trọng tài thương mại được nhìn nhận dưới góc độ:
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất tài phán phi
nhà nước (phi chính phủ) do các đương sự thỏa thuận lựa chọn để giải quyết
các tranh chấp thương mại. Trọng tài chính là bên trung gian thứ ba được các
7
bên tranh chấp chọn ra để giúp các bên giải quyết những xung đột, bất đồng
giữa họ trên cơ sở đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên. Phương thức
trọng tài bắt nguồn từ sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở tự nguyện. Để đưa
tranh chấp ra trọng tài giải quyết, các bên phải có thỏa thuận trọng tài. Giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài khá giống với phương pháp giải quyết tranh
chấp bằng hòa giải. Cả hai phương thức này đều có sự xuất hiện của người
thứ ba. Tuy nhiên, trong hình thức hòa giải, vai trò của người thứ ba chỉ mang
tính hỗ trợ, giúp đỡ các bên thỏa thuận với nhau. Còn trong phương thức
trọng tài, sau khi xem xét sự việc, trọng tài có thể đưa ra phán quyết có giá trị
cưỡng chế thi hành đối với các bên.
Trọng tài thương mại bao gồm hai hình thức là trọng tài vụ việc (Ad-
hoc) và trọng tài thường trực (trọng tài quy chế - Regular) với những phương
thức thành lập ra Hội đồng trọng tài khác nhau.
Trọng tài ad - hoc là thể loại trọng tài được các bên thành lập ra chỉ để
giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể, sau khi vụ tranh chấp đã được giải quyết
xong thì trọng tài ad - hoc tự giải thể. Do đó, trọng tài ad - hoc còn được gọi
là trọng tài vụ việc, trọng tài đặc biệt, trọng tài đặc nhiệm... Hình thức trọng
tài này có đặc điểm là không có trụ sở cố định như trọng tài thường trực,
không lệ thuộc vào bất kỳ quy tắc xét xử nào. Trong các vụ tranh chấp sử
dụng trọng tài ad - hoc, thì các bên thường thống nhất có một trọng tài viên.
Trọng tài thường trực là trọng tài có tổ chức được thành lập để hoạt
động một cách thường xuyên, có trụ sở, điều lệ và có quy tắc xét xử riêng.
Trọng tài thường trực giống trọng tài ad - hoc ở khả năng lựa chọn trọng tài
viên nhưng lại có hạn chế hơn là chỉ được lựa chọn trong số các trọng tài viên
của trung tâm trọng tài - mà số lượng các trọng tài viên trong danh sách này
thường rất hạn chế. Ban trọng tài có thể là một trọng tài viên duy nhất được
chọn trong số trọng tài viên của trung tâm trọng tài hoặc có thể là ba trọng tài
(mỗi bên chọn ra một trọng tài viên và hai người này sẽ chọn một trọng tài
8
thứ ba làm chủ tịch Hội đồng trọng tài). Trọng tài thường trực có quy tắc tố
tụng được quy định chặt chẽ, được công bố công khai. Các bên đương sự
buộc phải tuân theo các quy chế xét xử của từng trung tâm trọng tài, bất luận
là những quy định phức tạp và bất hợp lý như thế nào. Tuy nhiên, trên thực tế,
điều này rất hãn hữu. Bởi các trung tâm trọng tài muốn tồn tại, bên cạnh chất
lượng trọng tài viên thì quy chế tố tụng của từng trung tâm trọng tài phải rất
linh hoạt, có khả năng đáp ứng đòi hỏi các nhà kinh doanh trong giải quyết
tranh chấp, có như vậy mới thu hút được được khách hàng. Lợi thế lớn nhất
của trọng tài thường trực là có sẵn các bộ quy tắc tố tụng trọng tài. Các bên
đương sự chỉ cần thoả thuận áp dụng các bộ quy tắc này là đủ, không cần mất
công tạo lập ra các bộ quy tắc mới. Điều này rất thuận lợi cho các nhà doanh
nghiệp. Nếu họ không muốn có mạo hiểm cho mình thì họ chọn trọng tài
thường trực với bộ quy tắc có sẵn. Các tổ chức trọng tài thường trực đều độc
lập và không có quan hệ gì với nhau trong việc giải quyết các tranh chấp kinh
tế, không phụ thuộc vào nhau về đều bình đẳng trước sự lựa chọn của các bên
tranh chấp. Việc lựa chọn tổ chức trọng tài cũng như trọng tài viên hoàn toàn
phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên tranh chấp.
Như vậy, Hội đồng trọng tài cũng cần được tìm hiểu dưới các khía cạnh
khác nhau về quy chế và quy trình thành lập.
1.1.1.1. Sự hình thành của Hội đồng trọng tài quy chế
Luật TTTM 2010 đã đưa ra định nghĩa pháp lý về trọng tài quy chế để
thay cho khái niệm “Hội đồng trọng tài được thành lập tại Trung tâm trọng
tài” do Pháp lệnh TTTM 2003 quy định. Theo đó, trọng tài quy chế là hình
thức trọng tài được tiến hành tại trung tâm trọng tài và theo quy tắc tố tụng
của trung tâm trọng tài.
Luật TTTM 2010 cho phép các trung tâm trọng tài được ban hành quy
tắc tố tụng trọng tài phù hợp với đặc thù của mỗi trung tâm để tăng thêm tính
hấp dẫn đối với các bên tranh chấp. Chỉ khi các bên không có thỏa thuận hoặc
9
quy tắc tố tụng trọng tài của trung tâm trọng tài không có quy định khác, lúc
đó Luật mới đưa ra quy định hướng dẫn. Cuối cùng, Luật TTTM 2010 còn
cho phép tổ chức trọng tài nước ngoài được mở chi nhánh, văn phòng đại diện
tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên.
Theo quy định của Luật TTTM 2010, Trọng tài thường trực là hình
thức trọng tài được tổ chức chặt chẽ, có bộ máy, trụ sở làm việc thường
xuyên, có danh sách trọng tài viên hoạt động theo điều lệ và quy chế tố tụng
riêng. Hầu hết các tổ chức trọng tài lớn, có uy tín trên thế giới đều được thành
lập theo mô hình này dưới những tên gọi như trung tâm trọng tài, ủy ban
trọng tài, viện trọng tài, hội đồng trọng tài quốc gia và quốc tế... nhưng chủ
yếu và phổ biến được tổ chức dưới dạng các trung tâm trọng tài. Về bản chất,
Hội đồng trọng tài quy chế được thành lập ra do sự lựa chọn của các bên tranh
chấp trong danh sách Trọng tài viên là thành viên của trung tâm trọng tài (về
vấn đề này thì việc thành lập Hội đồng trọng tài quy chế khác với thành lập
Hội đồng trọng tài vụ việc). Theo đó, các bên tranh chấp sẽ lựa chọn trong số
Trọng tài viên những người sẽ là thành viên của Hội đồng trọng tài giải quyết
vụ việc tranh chấp này. Hội đồng trọng tài quy chế sẽ sử dụng quy tắc tố tụng
thống nhất của trung tâm trọng tài để giải quyết vụ việc. Và Hội đồng trọng
tài này cũng chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp mà họ được các bên
đương sự lựa chọn mà thôi.
1.1.1.2. Sự hình thành của Hội đồng trọng tài vụ việc
Đối với hình thức trọng tài vụ việc thì Luật TTTM 2010 có những quy
định khác về việc thành lập ra Hội đồng trọng tài vụ việc. Trọng tài vụ việc là
hình thức trọng tài được các bên thành lập ra chỉ để giải quyết một vụ tranh
chấp cụ thể, sau khi vụ tranh chấp đã được giải quyết xong thì trọng tài vụ
việc tự giải thể. Hình thức trọng tài này có đặc điểm là không có trụ sở cố
định như trọng tài thường trực, không lệ thuộc vào bất kỳ quy tắc xét xử nào.
10
Trong các vụ tranh chấp sử dụng trọng tài vụ việc, thì các bên thường thống
nhất có một trọng tài viên. Như vậy, có thể hiểu, sự hình thành của Hội đồng
TTTM do các bên giải quyết tranh chấp tự thỏa thuận với nhau, nếu không có
sự thỏa thuận thì việc thành lập Hội đồng trọng tài sẽ tuân theo trình tự, thủ
tục do Luật TTTM 2010 quy định, Hội đồng trọng tài là cơ quan tiến hành xét
xử vụ việc tranh chấp thương mại do các bên thỏa thuận.
Theo Luật TTTM 2010 thì trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do
các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết vụ việc và sẽ chấm dứt
tồn tại khi giải quyết xong vụ việc đó. Như vậy, việc thành lập ra Hội đồng
trọng tài vụ việc cũng là để thực hiện việc giải quyết một vụ việc cụ thể bởi
các thành viên của Hội đồng trọng tài do các bên thành lập ra. Hội đồng trọng
tài vụ việc sẽ không có một quy tắc tố tụng trọng tài từ trước, do đó khi được
thành lập, Hội đồng trọng tài vụ việc sẽ giải quyết luôn các vấn đề về quy tắc
tố tụng. Như vậy, ta có thể thấy, khi xảy ra tranh chấp về kinh doanh thương
mại, các bên sẽ thỏa thuận thành lập ra Hội đồng trọng tài vụ việc để giải
quyết, nếu bên bị đơn mà hết thời hạn không lựa chọn Trọng tài viên thì
nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa án để lựa chọn Trọng tài viên (Điều 41,
Luật TTTM 2010). Điều đó đồng nghĩa với việc, trong trường hợp các bên sử
dụng trọng tài vụ việc là phương thức giải quyết tranh chấp thì khái niệm này
tương đồng với khái niệm Hội đồng trọng tài vụ việc.
Theo quy định tại Điều 2 của Luật mẫu UNCITRAL, thì "Trọng tài" là
bất cứ hình thức trọng tài được hoặc không được quản lý bởi một tổ chức
trọng tài thường trực. Còn Hội đồng trọng tài được định nghĩa là "Hội đồng
trọng tài" là trọng tài viên duy nhất hoặc các trọng tài viên.
Như vậy, từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm về Hội đồng
trọng tài như sau: Hội đồng TTTM là cơ quan giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại do các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn và được quy
định trong Luật TTTM 2010. Hội đồng trọng tài bao gồm một hoặc nhiều
11
trọng tài viên được hình thành theo sự thỏa thuận của các bên hoặc theo
quy định của pháp luật.
1.1.2. Những đặc điểm của Hội đồng trọng tài thương mại
Thứ nhất, Hội đồng trọng tài là một cơ quan giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại theo quy định của Luật TTTM 2010. Đây là một hình thức
giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba - một trọng tài viên duy nhất
hoặc Hội đồng trọng tài. Trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn
trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp sẽ hoàn toàn độc lập với các bên, đưa ra
phán quyết có tính bắt buộc bảo vệ quyền lợi các bên.
Thứ hai, Hội đồng trọng tài là một loại hình hoạt động mang tính chất
phi nhà nước, có thể hoạt động dưới một tổ chức trọng tài chung thống nhất
bằng quy chế hoạt động riêng hoặc có thể hoạt động mang tính chất vụ việc.
Tuy nhiên, dù dưới hình thức nào thì Hội đồng trọng tài cũng hoạt động trên
cơ sở sự thỏa thuận của các bên trong tranh chấp mà không phải là hoạt động
theo tư cách sử dụng quyền lực nhà nước. Chính vì vậy, Hội đồng trọng tài
hoạt động dưới một thiết chế dân chủ trong giải quyết tranh chấp thương mại;
trọng tài không chỉ góp phần tạo ra một đời sống dân chủ và tự do trong tư
pháp, mà hơn thế nữa, trọng tài là người chia sẻ nhiệm vụ với nhà nước trong
việc xóa bỏ các bất đồng trong xă hội, thể hiện cụ thể ở việc giải quyết các
tranh chấp thương mại.
Thứ ba, Hội đồng trọng tài hoạt động theo quy chế giải quyết tranh
chấp thông qua một thủ tục tố tụng chặt chẽ. Thủ tục này được quy định
trong Luật TTTM 2010 cũng như thể hiện cụ thể trong quy chế hoạt động
của từng trung tâm trọng tài. Tính chật hoạt động theo quy chế theo trình tự
tố tụng của Hội đồng trọng tài đảm bảo cho phán quyết của Hội đồng trọng
tài mang tính pháp lý và được bảo đảm thực hiện. Giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài, các trọng tài viên và các bên đương sự phải tuân thủ đúng
12
trình tự tố tụng mà pháp luật trọng tài, Điều lệ và Quy tắc tố tụng của tổ
chức trọng tài đó quy định.
Thứ tư, kết quả của việc giải quyết tranh chấp do Hội đồng trọng tài
thực hiện là phán quyết do trọng tài tuyên đối với các đương sự của vụ tranh
chấp. Phán quyết của trọng tài vừa là sự kết hợp của yếu tố thỏa thuận (các
đương sự có thể thỏa thuận về nội dung tranh chấp, cách thức giải quyết tranh
chấp, luật áp dụng đối với vụ tranh chấp) vừa là sự kết hợp của yếu tố tài
phán (có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên).
Cụ thể, thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và không thể có phán
quyết trọng tài thoát ly những yếu tố đã thỏa thuận. Bởi vậy, về nguyên tắc,
thẩm quyền của trọng tài không bị giới hạn bởi pháp luật; các đương sự có thể
lựa chọn bất kỳ lúc nào, bất kỳ trọng tài vụ việc hoặc trọng tài quy chế nào
trên thế giới để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, một khi đã được thỏa thuận
thì phán quyết của trọng tài có tính chất tài phán và bắt buộc các bên phải
tuân thủ.
Thứ năm, Hội đồng trọng tài được thành lập và hoạt động dưới hai
dạng là trọng tài vụ việc và trọng tài quy chế. Cả hai loại hội đồng này đều có
thẩm quyền như nhau trong giải quyết tranh chấp thương mại. Tính chất thỏa
thuận được thể hiện cả trong việc các bên đương sự có quyền lựa chọn và
thành lập ra HĐTT. Theo đó, HĐTT do các bên thỏa thuận lựa chọn có thể
bao gồm một hoặc nhiều Trọng tài viên.
1.1.3. Chức năng của Hội đồng trọng tài thương mại trong giải quyết
tranh chấp
Theo quy định của Luật TTTM năm 2010 thì trọng tài thương mại là
phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành
theo trình tự, thủ tục do luật trọng tài thương mại quy định. Như vậy, theo quy
định của pháp luật thì Hội đồng trọng tài có chức năng giải quyết các tranh
chấp kinh doanh thương mại phát sinh.
13
Trọng tài là một thiết chế dân chủ, mang tính lựa chọn cao trong giải
quyết tranh chấp thương mại. Theo quy định của Luật TTTM 2010 thì trọng tài
thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và
được tiến hành theo quy định của Luật này (khoản 1 Điều 3). Hội đồng trọng
tài không có thẩm quyền đương nhiên mà chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp khi mà các bên có quyền lợi liên quan chỉ định, thẩm quyền của trọng tài
được xác lập trên cơ sở của thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài là thỏa
thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát sinh
hoặc đã phát sinh (khoản 2 Điều 3). Điều 16 Luật TTTM 2010 cũng quy định
về hình thức của thỏa thuận trọng tài, có thể được xác lập dưới hình thức điều
khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng.
Chức năng của Hội đồng TTTM được thể hiện ở chỗ Hội đồng TTTM
được thành lập là để giải quyết các tranh chấp thương mại. Nhưng tranh chấp
thương mại cũng chỉ có thể thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương
mại nếu các bên có tranh chấp có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài
này có hiệu lực. Như vậy, một tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của
trọng tài thương mại khi có hai điều kiện: Thứ nhất, tranh chấp được gửi đến
trọng tài thương mại phải là tranh chấp thương mại; Thứ hai, giữa các bên có
tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài có hiệu lực.
Trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, Hội đồng trọng tài phải xem
xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài; thỏa thuận trọng tài có thể thực hiện
được hay không và xem xét thẩm quyền của mình. Trong trường hợp vụ việc
thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì Hội đồng trọng tài tiến hành giải
quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật. Trường hợp không thuộc thẩm
quyền giải quyết của mình, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc xác định định rõ
thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì Hội đồng trọng tài quyết
định đình chỉ việc giải quyết và thông báo ngay cho các bên biết.
14
Khác với thẩm quyền của Tòa án, thẩm quyền của trọng tài chỉ là thẩm
quyền theo vụ việc, nếu được các bên có tranh chấp lựa chọn đích danh. Các
nguyên tắc phân định thẩm quyền theo lãnh thổ, theo trụ sở hoặc chỗ ở của bị
đơn và theo sự thỏa thuận của nguyên đơn không được áp dụng trong tố tụng
trọng tài.
Khi các bên đã thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng trọng
tài, họ trao cho Hội đồng trọng tài thẩm quyền giải quyết tranh chấp và phủ
định thẩm quyền xét xử đó của Tòa án trừ khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu
hoặc các bên hủy bỏ thỏa thuận trọng tài.
1.2. Khái quát về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại
1.2.1. Khái niệm thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại
Để tìm hiểu về khái niệm thẩm quyền của Hội đồng TTTM, cần đi tìm
hiểu khái niệm “thẩm quyền” trong từ điển tiếng Việt. Theo Từ điển Tiếng
việt của Trung tâm từ điển học thì “thẩm quyền” được hiểu là quyền xem xét
để ra kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật; tư cách, quyền hạn về
mặt chuyên môn được thừa nhận để có ý kiến có tính chất quyết định về vấn
đề nào đó [33, tr.1145].
Như vậy, có thể hiểu thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại
là quyền để xem xét và đưa ra kết luận và định đoạt về vụ việc tranh chấp
thương mại khi các bên có tranh chấp đồng ý trao quyền cho Hội đồng trọng
tài bằng thỏa thuận trọng tài theo trình tự, thủ tục do pháp luật về trọng tài
thương mại quy định.
Từ khái niệm trên ta có thể thấy thẩm quyền của Hội đồng TTTM có
những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài không mang tính chất
đương nhiên mà thẩm quyền do sự thỏa thuận lựa chọn của các bên trong
tranh chấp. Khoản 1 Điều 5 Luật TTTM 2010 quy định rõ tranh chấp được
giải quyết bằng trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Như vậy, thỏa
thuận giữa các bên tranh chấp là điều kiện tiên quyết để làm phát sinh thẩm
15
quyền của Hội đồng trọng tài. Quy định này khác với tố tụng Tòa án, theo đó
khi xảy ra tranh chấp thì bất kỳ bên nào cũng có quyền yêu cầu Tòa án xem
xét giải quyết mà không cần được bên kia đồng ý vì thẩm quyền của Tòa án là
đương nhiên. Nhưng với trọng tài thì không phải như vậy, nếu các bên không
có thỏa thuận giải quyết bằng trọng tài thì trọng tài tuyệt nhiên không có thẩm
quyền gì. Tuy nhiên, cũng cần chú ý là một khi các bên đã đồng ý giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thì Tòa án không còn thẩm quyền nữa và phải từ
chối thụ lý vụ án khi một bên khởi kiện tại tòa, trừ trường hợp thỏa thuận
trọng tài vô hiệu hoặc không thể thực hiện được (Điều 6 Luật TTTM 2010).
Thứ hai, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài có phạm vi điều chỉnh nhất
định đó là giải quyết các tranh chấp thuộc thẩm quyền của trọng tài thương
mại. Theo Điều 2 Luật TTTM 2010, phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của Hội đồng trọng tài bao gồm: Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ
hoạt động thương mại; Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một
bên có hoạt động thương mại; Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy
định được giải quyết bằng trọng tài. Theo đó, chỉ cần ít nhất một bên có hoạt
động thương mại lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp thì đây sẽ là điều
kiện quan trọng để phát sinh thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, trọng tài
không phải là phương thức giải quyết tranh chấp chỉ dành riêng cho giới
thương nhân.
Thứ ba, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài mang tính chất phi nhà
nước. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận
trao cho. Thẩm quyền này không mang tính chất đương nhiên và không mang
tính quyền lực nhà nước. Đặc điểm này quyết định các trình tự, thủ tục liên
quan đến việc thành lập ra Hội đồng trọng tài, phương thức giải quyết tranh
chấp của Hội đồng trọng tài, số lượng thành viên Hội đồng... Tính chất phi
nhà nước của thẩm quyền của Hội đồng trọng tài cũng liên quan đến vấn đề
các phán quyết của Hội đồng trọng tài ban hành và vấn đề mối quan hệ giữa
16
Tòa án và trọng tài thương mại được quy định trong các văn bản về trọng tài
thương mại.
Ở Việt Nam hiện nay, có hai cơ quan tài phán để giải quyết tranh chấp
về kinh doanh thương mại đó là: hệ thống Tòa án nhân dân và hệ thống Trọng
tài thương mại. Toà án và trọng tài thương mại là các phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại bổ sung lẫn nhau. Theo quy định tại Điều 6 Luật
TTTM 2010 thì nếu các bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài mà một bên
khởi kiện Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận
trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được. Tuy
nhiên, trên thực tế hoạt động của các Trung tâm Trọng tài thương mại cần có
sự phối hợp của Toà án. So với Pháp lệnh TTTM 2003, Luật TTTM 2010 đã
có những sửa đổi và bổ sung thêm đối với cac quy định đối với sự hỗ trợ của
Tòa án đối với hoạt động của trọng tài [12, tr.23].
Thứ tư, thẩm quyền Hội đồng trọng tài trong giải quyết tranh chấp thể
hiện ở chỗ Hội đồng trọng tài là một thiết chế giải quyết tranh chấp được
thành lập và hoạt động theo một trình tự thủ tục chặt chẽ do pháp luật về
trọng tài thương mại quy định. Như chúng ta đã biết, để giải quyết được các
tranh chấp nói chung và tranh chấp thương mại nói riêng, cần phải có một
quy định về trình tự thủ tục hết sức chặt chẽ, điều này đảm bảo cho phán
quyết của cơ quan tài phán đó sẽ được đảm bảo thực hiện trên thực tế. Như
vậy, Hội đồng trọng tài là có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thông qua
một thủ tục tố tụng chặt chẽ. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các trọng
tài viên và các bên đương sự phải tuân thủ đúng trình tự tố tụng mà pháp
luật trọng tài, điều lệ và quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài đó quy định
nếu chọn trọng tài quy chế để giải quyết tranh chấp.
Thứ năm, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài được thể hiện cụ thể
dưới hai hình thức trọng tài là: trọng tài vụ việc và trọng tài quy chế. Với
tính chất là hình thức giải quyết tranh chấp xuất phát từ sự thỏa thuận của
17
các bên trong tranh chấp do đó, việc tôn trọng tối đa sự thỏa thuận này dẫn
đến việc cần phải có hai hình thức lựa chọn loại hình giải quyết tranh chấp
do các bên lựa chọn.
Thứ sáu, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài còn thể hiện ở việc phán
quyết do Hội đồng trọng tại ban hành mang tính chất chung thẩm. Theo đó,
phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm và không thể kháng cáo trước bất
kỳ cơ quan, tổ chức nào (trừ trường hợp rất đặc biệt liên quan đến hủy phán
quyết trọng tài). Đặc điểm này giúp trọng tài có điều kiện thuận lợi trong việc
giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các tranh chấp thương mại. Điều này cũng
cho thấy sự khác biệt về thẩm quyền của trọng tài thương mại và thẩm quyền
của Tòa án. Trong trường hợp xét xử vụ án của Tòa án, sau khi đã ban hành
bản án sơ thẩm thì bản án đó chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà còn có thời
gian để các bên kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, với tính chất của trọng tài,
cần một phương thức giải quyết tranh chấp nhanh, gọn đáp ứng được yêu cầu
và lợi ích của các bên trong giải quyết tranh chấp nên quyết định, phán quyết
của Hội đồng TTTM có giá trị chung thẩm luôn mà không bị xem xét lại ở
một cấp xét xử khác.
1.2.2. Phân biệt thẩm quyền của Hội đồng trọng tài và thẩm quyền của
Tòa án
1.2.2.1. Giống nhau
Thứ nhất, về phạm vi và đối tượng. Theo quy định của pháp luật
thương mại Việt Nam, "tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do
việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động
thương mại" (điều 238 Luật Thương mại 2005). Như vậy, tranh chấp thương
mại là những xung đột, bất đồng của chủ thể tiến hành hoạt động thương mại
được thể hiện trên cơ sở các hợp đồng đã được xác lập giữa các bên. Tranh
chấp thương mại phát sinh có thể là do một bên nào đó hoặc các bên ký kết
hợp đồng không thực hiện đúng hợp đồng hay không thực hiện hợp đồng.
18
Trong rất nhiều phương thức giải quyết tranh chấp thương mại, nổi bật lên là
phương thức giải quyết bằng trọng tài thương mại và phương thức giải quyết
bằng Tòa án.
Theo quy định của Luật TTTM năm 2010 thì trọng tài thương mại có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương
mại; tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động
thương mại và tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải
quyết bằng Trọng tài. Như vậy, trọng tài có thẩm quyền giải quyết đối với các
tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại. Tương tự như vậy, theo quy
định tại Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 Tòa án có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Như vậy, có thể thấy phạm vi và đối tượng thuộc thẩm quyền giải quyết của
trọng tài thương mại và Tòa án có tính chất tương đồng với nhau. Thể hiện ở
chỗ cả Tòa án và trọng tài thương mại đều có thẩm quyền giải quyết đối với
các tranh chấp thương mại phát sinh từ hoạt động kinh doanh của các chủ thể.
Thứ hai, về tính bắt buộc của phán quyết. Trong trường hợp các bên
lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại hay bằng Tòa án
một khi phán quyết của Hội đồng trọng tài hoặc phán quyết của Hội đồng xét
xử đã được ban hành thì sẽ có giá trị bắt buộc thi hành. Điều này nhằm đảm
bảo tính chất cưỡng chế của phán quyết, từ đó các bên mới lựa chọn một
trong hai phương thức giải quyết tranh chấp thương mại này.
1.2.2.2. Khác nhau
Thứ nhất, thẩm quyền của Tòa án là thẩm quyền đương nhiên trong
việc giải quyết tranh chấp mà không cần các bên thỏa thuận trong hợp đồng
như thỏa thuận trọng tài. Nếu các bên có tranh chấp thương mại thì bên bị vi
phạm có quyền sử dụng quyền khởi kiện dân sự của mình để thực hiện việc
khởi kiện ra Tòa án mà không cần bất kỳ nào sự cảnh báo, sự thỏa thuận hay
19
đồng ý của bên đối phương. Hình thức này mang tính chất đóng thể hiện thẩm
quyền tài phán đương nhiên của Tòa án.
Trong khi đó, hình thức giải quyết bằng trọng tài thương mại, và thẩm
quyền của Hội đồng TTTM do các bên tranh chấp thỏa thuận với nhau và lựa
chọn cơ quan giải quyết tranh chấp là trọng tài thương mại. Theo đó, khi soạn
thảo hợp đồng các bên có quyền thỏa thuận về điều khoản trọng tài trong hợp
đồng và đồng ý trao cho trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng này. Thẩm quyền này tạo cho các bên đương sự linh hoạt
trong việc lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp là trọng tài mà không mang
tính chất đóng như Tòa án.
Thứ hai, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài mang tính chất phi nhà
nước. Hội đồng trọng tài là một tổ chức tư nhân, độc lập với nhà nước và có
chức năng giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn và trao cho.
Nguồn kinh phí của trọng tài chính là tiền lệ phí trọng tài do các bên tham gia
tranh chấp trả cho.Trọng tài là một loại hình tổ chức phi chính phủ (tổ chức
xã hội nghề nghiệp), hoạt động theo pháp luật và quy chế trọng tài. Trọng tài
là một thiết chế dân chủ trong giải quyết tranh chấp thương mại; trọng tài
không chỉ góp phần tạo ra một đời sống dân chủ và tự do trong tư pháp, mà
hơn thế nữa, trọng tài là người chia sẻ nhiệm vụ với nhà nước trong việc xóa
bỏ các bất đồng trong xă hội, thể hiện cụ thể ở việc giải quyết các tranh chấp
thương mại. Tính chất phi nhà nước của Hội đồng trọng tài cũng là một ưu
điểm của trọng tài so với Tòa án quyết định tính độc lập của trọng tài trong
hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại của trọng tài.
Trái lại, Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tranh chấp bằng
cách sử dụng quyền lực nhà nước. Đó là quyền lực tư pháp trong hệ thống các
hệ thống quyền lực nhà nước. Toà án là cơ quan nhân danh nhà nước để giải
quyết tranh chấp, do đó phản quyết của toà án được đảm bảo thi hành bằng
sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Cơ quan thi hành án là một cơ quan
20
chuyên trách và có đầy đủ bộ máy, phương tiện để thi hành các bản án đã có
hiệu lực pháp luật. Đăc điểm này được có thể coi là yếu tố hấp dẫn nhất khiến
các bên tranh chấp thường tìm đến phương thức giải quyết tranh chấp tại toà
án. Tính chất nhà nước trong hoạt động giải quyết tranh chấp của Tòa án có
những ưu điểm và hạn chế nhất định.
Như vậy, giữa Tòa án và trọng tài có sự khác biệt rất rõ về tính chất
pháp lý của mỗi loại cơ quan này. Tòa án là một cơ quan nhà nước nằm trong
hệ thống cơ quan tư pháp. Trong quá trình tố tụng, Tòa án nhân danh Nhà
nước để xem xét, xử lý vi phạm pháp luật nhằm duy trì trật tự công cộng và
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh. Trong khi đó,
các trung tâm trọng tài đều tồn tại với tư cách là một tổ chức phi chính phủ,
một tổ chức mang tính chất xã hội – nghề nghiệp. Tính phi chính phủ của
trọng tài thương mại thể hiện ở chỗ, các trung tâm trọng tài không do Nhà
nước quyết định thành lập mà do các trọng tài viên thỏa thuận xin phép Nhà
nước để được thành lập, các trung tâm trọng tài thương mại không nằm trong
cơ cấu thiết chế nào của bộ máy Nhà nước và cũng không phải là một cơ quan
xét xử của Nhà nước mà là một tổ chức xã hội nghề nghiệp. Trọng tài được
thành lập nhằm cung cấp cho các nhà kinh doanh một cơ chế giải quyết tranh
chấp kinh doanh nhanh chóng, đơn giản, thuận tiện phù hợp với tâm lý của
nhà doanh nghiệp. Chính sự khác biệt cơ bản này giữa Tòa án và trọng tài đã
quyết định sự các sự khác biệt khác trong thủ tục tố tụng Tòa án và tố tụng
trọng tài, ví dụ như tính chất, mục đích, trình tự, thủ tục,…
Thứ ba, về quyền lựa chọn Hội đồng trọng tài. Theo quy định của Luật
TTTM 2010 cũng nhưng Luật mẫu UNCITRAL thì một đặc trưng trong giải
quyết tranh chấp bằng TTTM chính là việc các bên tham gia tranh chấp được
thỏa thuận lựa chọn Hội đồng trọng tài. Theo đó, Hội đồng trọng tài trong
trường hợp là 3 người thì bên khởi kiện sẽ chọn một trọng tài viên, bên bị
kiện sẽ chọn một trọng tài viên, còn lại do Chủ tịch trung tâm trọng tài lựa
21
chọn. Ngược lại, trong trường hợp vụ việc được đưa ra xét xử bởi Tòa án thì
Hội đồng xét xử sẽ được Chánh án Tòa án lựa chọn và phân công nhiệm vụ
bằng quyết định và như vậy, các bên sẽ không có quyền lựa chọn người có
thẩm quyền xét xử vụ việc của mình.
Thứ tư, về thủ tục tố tụng. Thủ tục tố tụng Tòa án áp dụng cho các
tranh chấp trong thương mại do Tòa án thực hiện được dựa trên nền tảng thủ
tục tố tụng dân sự cùng với một số quy định đặc thù cho phù hợp với hoạt
động kinh doanh, chẳng hạn như: về Hội đồng xét xử, về thời gian của các
trình tự tố tụng. Thủ tục tố tụng của Tòa án bắt buộc phải tuân theo quy định
của pháp luật tố tụng dân sự cho nên đặc trưng của tố tụng Tòa án là các quy
tắc thủ tục nghiêm ngặt, thường khá cứng nhắc. Trong khi đó, tố tụng trọng
tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố thỏa thuận và tài phán. Cụ thể, thỏa thuận làm
tiền đề cho phán quyết và không thể có phán quyết thoát ly những yếu tố đã
được thỏa thuận. Thủ tục tố tụng trọng tài mang tính linh hoạt cao. Các bên
tùy ý tổ chức tố tụng bằng cách dẫn chiếu quy tắc tố tụng trọng tài sẵn có
hoặc soạn thảo quy tắc riêng.
Thứ năm, thẩm quyền ban hành phán quyết của trọng tài cũng như Tòa
án. Theo quy định của Luật TTTM 2010 và theo thông lệ quốc tế phán quyết
của Hội đồng trọng tài được thể hiện ở đặc trưng phán quyết đã được ban
hành mang tính chất chung thẩm mà không bị xem xét lại ở cấp độ phúc
thẩm. Đối với Tòa án thì phán quyết của Hội đồng xét xử ban hành thì sẽ
không có hiệu lực pháp luật ngay mà có thể được xem xét lại bằng thủ tục xét
xử phúc thẩm. Phán quyết của Hội đồng trọng tại mang tính chất chung thẩm
bởi xuất phát từ đặc điểm của hình thức giải quyết tranh chấp này là hình thức
giải quyết nhằm đáp ứng nhu cầu nhanh, và phù hợp với thực tế tranh chấp
thương mại của các bên. Chính vì vậy không cần phải xem xét nhiều lần đối
với các phán quyết này bởi lẽ điều đó sẽ dẫn đến tính chất cấp thiết của hoạt
động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể bị xâm phạm. Trong khi đó, phán
22
quyết của Tòa án nhằm đảm bảo tính chính xác, tính khắc phục những sai sót
trong phán quyết của Hội đồng xét xử.
Thứ sáu, sự khác biệt về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài so với
thẩm quyền của Hội đồng xét xử ở vấn đề thành lập và hoạt động của các Hội
đồng này. Hội đồng trọng tài được thành lập do sự thỏa thuận của các bên trao
cho quyền trong quá trình thực hiện thẩm quyền tài phán, số lượng trọng tài
viên có thể linh hoạt do các bên thỏa thuận với nhau. Theo quy định của Luật
TTTM 2010 thành phần Hội đồng trọng tài có thể bao gồm một hoặc nhiều
Trọng tài viên theo sự thỏa thuận của các bên. Trường hợp các bên không có
thoả thuận về số lượng Trọng tài viên thì Hội đồng trọng tài bao gồm ba
Trọng tài viên. Về thẩm quyền và thành viên của Hội đồng xét xử của Tòa án
lại do Luật tố tụng dân sự quy định và có quy định mang tính chất đóng về
vấn đề này. Theo đó, số lượng thành viên Hội đồng xét xử là 3 người (1 thẩm
phán và 2 hội thẩm) hoặc 5 người (2 thẩm phán và 3 hội thẩm)...
Trên đây là những điểm khác biệt cơ bản giữa thẩm quyền của Hội
đồng trọng tài và thẩm quyền của Tòa án. Nhìn từ một khía cạnh khác, có thể
thấy rằng, một sự lựa chọn chủ yếu thay thế cho Trọng tài là đưa vụ tranh
chấp ra trước Tòa án. Thực ra nếu các bên mong muốn một tranh chấp được
giải quyết theo một cách thức có tính ràng buộc, họ nên đưa vụ tranh chấp ra
trước Tòa án, hơn là tới một Hội đồng trọng tài có thẩm quyền riêng. Vậy tại
sao các bên trong một vụ tranh chấp thương mại quốc tế lại chọn đưa ra trọng
tài thay vì đưa ra Tòa án và tại sao trọng tài được thành lập khắp nơi trên thế
giới như là một phương thức hữu hiệu giải quyết các tranh chấp thương mại
quốc tế? Có hai lý do chủ yếu: Thứ nhất, trọng tài tạo cho các bên cơ hội lựa
chọn một diễn đàn trung lập và một Hội đồng trọng tài trung lập; Thứ hai,
trọng tài nếu đi đến cùng sẽ dẫn đến một phán quyết có hiệu lực thi hành đối
với bên thua kiên không chỉ ở nơi phán quyết trọng tài được tuyên mà cả ở
23
trên bình diện quốc tế, theo các quy định của các điều ước quốc tế như Công
ước New York 1958 (UNCITRAL).
1.3. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài theo luật mẫu của UNCITRAL
về trọng tài thương mại
Trên nền tảng của Công ước New York 1958, Uỷ ban Luật Thương mại
quốc tế của Liên Hiệp quốc (UN Commission on International Trade Law:
UNCITRAL) mong muốn phán quyết của một toà án trọng tài, dù hoạt động
trọng tài đó tiến hành ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, đều được các quốc gia
thành viên Liên Hiệp quốc chấp nhận một cách toàn vẹn.
Xuất phát từ ý chí đó, UNCITRAL đưa ra một khuôn mẫu về hoạt động
trọng tài thương mại có thể áp dụng cho mọi quốc gia dưới hình thức một Bộ
luật mẫu (Model Law) về trọng tài thương mại có tính cách khuyến nghị các
quốc gia trên thế giới áp dụng để san bằng mọi sự khác biệt về luật trọng tài
thương mại nhưng vẫn hướng đến một sự cân bằng thoả đáng về quyền và
nghĩa vụ giữa các bên tranh chấp, duy trì sự tôn trọng uy quyền quốc gia
Năm 1985, UNCITRAL đưa ra bản dự thảo Luật Mẫu về Trọng tài
Thương mại quốc tế (UNCITRAL Model Law 1985). Bản dự thảo Luật mẫu
1985 tìm kiếm một sự cân bằng thoả đáng về quyền và nghĩa vụ giữa ý chí
của các bên tranh chấp cũng như các nguyên tắc mà họ tự nguyện chấp hành.
Mặc khác, Luật mẫu 1985 cũng duy trì sự tôn trọng quyền của quốc gia nơi
tiến hành giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài và cả quốc gia nơi phán quyết
được thi hành.
Với chủ trương như vậy, Luật mẫu UNCITRAL 1985 là một bộ luật
khung bao gồm những điều khoản gợi ý và những nguyên tắc pháp lý mang
tính thoả thuận tôn trọng vai trò của Luật pháp quốc gia tương ứng với hoạt
động trọng tài thương mại quốc tế.
Bởi Luật Mẫu không có tính cách ràng buộc thi hành đối với các quốc
gia đây chỉ là một Bản thoả thuận nguyên tắc mà Tổ chức Liên Hiệp Quốc
24
bảo trợ. Điều này cho ta hiểu Luật Mẫu là một hình thức Thoả ước lập pháp
tính cách khuyến nghị áp dụng. Tinh thần của Luật mẫu UNCITRAL được
thể hiện ở một số nguyên tắc mang tính chất định chế sau:
Sự độc lập của hoạt động trọng tài: Điều 5 của Luật mẫu UNCITRAL
minh định: “Những vấn đề chi phối bởi Luật này, không một Toà án nào được
can thiệp ngoại trừ Toà án đã được luật này cho phép”.
Luật mẫu UNCITRAL yêu cầu hệ thống toà án tư pháp của các quốc
gia phải từ chối thụ lý vụ tranh chấp nếu đã và sẽ có một Thoả ước Trọng tài
giữa các bên tranh chấp, hoặc phải thông báo cho các bên tranh chấp biết
được tinh thần của Luật mẫu UNCITRAL về sự từ chối thụ lý của Toà án.
Toà án tư pháp chỉ can thiệp trong trường hợp một thoả ước trọng tài bị vô
hiệu tuyệt đối (tức là trường hợp một thoả ước trọng tài vi phạm những quy
định về nội dung và vi phạm những quy định về hình thức; hoặc không có khả
năng thi hành.
Thẩm quyền hạn chế của Toà án tư pháp quốc gia sở tại: Luật mẫu
UNCITRAL cho phép các toà án tư pháp quốc gia hoặc các cơ quan có thẩm
quyền theo pháp chế của nước sở tại có thể can thiệp vào hoạt động trọng tài
với mục đích hỗ trợ và giám sát quá trình tiến hành tố tụng trọng tài ở một
mức độ hạn chế tối đa trong những trường hợp đặc biệt.
Chẳng hạn, Toà án chỉ có thể chỉ định Trọng tài viên khi các bên tranh
chấp không thống nhất về việc chọn trọng tài viên, hoặc quyết định việc
khước từ quyền xét xử của một trọng tài viên (còn gọi là hồi tỵ - challenge)
cũng như quyết định về việc khước từ quyền xét xử của toàn bộ Hội đồng
trọng tài [22]. Toà án tư pháp cũng có thể hỗ trợ bằng cách thực hiện những
biện pháp bảo vệ tạm thời hoặc thu thập chứng cứ.
Đặc biệt, Toà án chỉ có thể có thẩm quyền rất hạn chế trong việc ra
tuyên bố huỷ bỏ một phán quyết trọng tài theo đơn yêu cầu của một bên tranh
chấp với điều kiện: phù hợp với quy định của Luật mẫu UNCITRAL; và, phù
25
hợp với Công ước New York năm 1958. Toà án cũng có thể từ chối việc thừa
nhận một phán quyết trọng tài hoặc không cho thi hành một phán quyết trọng
tài với những điều kiện tương tự vừa kể trên [22].
Về thẩm quyền của trọng tài thương mại theo quy định của Luật mẫu
UNCITRAL về trọng tài thương mại thì Trọng tài ‟là bất cứ hình thức trọng
tài được hoặc không được quản lý bởi một tổ chức trọng tài thường trực; ‟Hội
đồng trọng tài” là trọng tài viên duy nhất hoặc các trọng tài viên.
Việc thành lập Hội đồng trọng tài do các bên tự thỏa thuận với nhau, và
số lượng thành viên Hội đồng trọng tài do các bên tự do quyết định về số
lượng còn nếu không tự quyết định thì số lượng trọng tài viên sẽ là 3 người.
Quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài được quy định trong
Luật mẫu UNCITRAL. Tại quy định của Điều 16 của Luật mẫu, theo đó:
Thứ nhất, Hội đồng trọng tài có thể quy định về thẩm quyền xét xử của
chính mình, kể cả những ý kiến phản đối về sự tồn tại hoặc giá trị pháp lý của
thoả thuận trọng tài. Vì mục đích này, điều khoản trọng tài trở tạo nên một
phần của hợp đồng được coi là thoả thuận độc lập với các điều khoản khác
của hợp đồng. Quyết định của Hội đồng trọng tài về hợp đồng bị vô hiệu
không làm cho điều khoản trọng tài bị vô hiệu theo. Cách thức quy định như
trên cho thấy thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong trường hợp giải quyết
tranh chấp thương mại.
Quy định trên cũng tương tự như pháp luật một số quốc gia trên thế
giới về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Một nguyên tắc căn bản trong luật
trọng tài các nước trên thế giới là Hội đồng trọng tài có thể tự quyết định
thẩm quyền của mình (competence-competence). Điều này có nghĩa là nếu
một bên có khiếu nại về việc vụ tranh chấp hoặc một khía cạnh nào đó trong
vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài hoặc thỏa
thuận trọng tài vô hiệu, việc này trước hết sẽ do Hội đồng trọng tài quyết
định. Một số nước như Pháp, Thụy Sĩ, Ấn độ quy định rằng quyết định của
26
Hội đồng trọng tài trong việc này là chung thẩm và các bên không được
quyền kháng cáo lên Tòa án. Tuy nhiên luật một số nước khác như Đức, kể cả
Luật mẫu UNCITRAL lại quy định các bên được quyền kháng cáo vấn đề này
lên Tòa án và Tòa án mới là cơ quan cuối cùng quyết định thẩm quyền của
Hội đồng trọng tài.
Thứ hai, Ðơn yêu cầu về việc Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền
sẽ phải đưa ra không muộn hơn với việc nộp bản biện hộ. Một bên không thể
ngăn cản việc đưa ra đơn yêu cầu như vậy chỉ vì anh ta đã được chỉ định làm
trọng tài viên hoặc tham gia việc chỉ định trọng tài viên. Ðơn yêu cầu về việc
Hội đồng trọng tài vượt quá thẩm quyền phải được đưa ra ngay khi nhận thấy
sự kiện được cho là vượt quá thẩm quyền của hôi đồng trọng tài nảy sinh
trong quá trình tố tụng trọng tài. Trong cả hai trường hợp này, Hội đồng trọng
tài có thể chấp nhận đơn yêu cầu sau nếu Hội đồng xét thấy sự trì hoãn này là
hợp lý.
Thứ ba, Hội đồng trọng tài có thể quyết định về đơn yêu cầu được nêu
ra ở khoản 2 của Điều 16 như là vấn đề mở đầu hoặc giải quyết tại phán quyết
về nội dung tranh chấp. Nếu Hội đồng trọng tài giải quyết như là một vấn đề
mở đầu là Hội đồng có thẩm quyền xét xử, thì trong vòng 30 ngày sau khi
nhận được thông báo về quyết định này, bất kỳ bên nào cũng có thể đề nghị
toà án được xác định tại Điều 6 quyết định vấn đề này, quyết định này không
bị kháng án; trong khi yêu cầu đó đang chờ giải quyết thì Hội đồng trọng tài
vẫn có thể tiếp tục tiến hành quá trình tố tụng và đưa ra phán quyết.
Thứ tư, quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong việc đưa
ra phán quyết. Hội đồng trọng tài quyết định tranh chấp theo pháp luật do các
bên lựa chọn và phù hợp với nội dung tranh chấp. Trừ khi các bên thoả thuận
rõ ràng về việc lựa chọn pháp luật, việc lựa chọn phát luật hoặc hệ thống pháp
luật của một nước nhất định cần phải được giải thích theo hướng dẫn chiếu
trực tiếp tới pháp luật nội dung của quốc gia đó và không dẫn chiếu đến
27
nguyên tắc xung đột luật của nước này. Nếu các bên không lựa chọn được,
Hội đồng trọng tài sẽ áp dụng luật dựa trên nguyên tắc xung đột luật mà Hội
đồng trọng tài cho là thích hợp. Hội đồng trọng tài quyết định trên nguyên tắc
công bằng hoặc tính hợp lý chỉ khi các bên có sự ủy quyền một cách rõ ràng;
Trong mọi trường hợp, Hội đồng trọng tài quyết định dựa vào các điều khoản
của hợp đồng và tính đến tập quán thương mại phù hợp với giao dịch đó.
Trong tố tụng trọng tài gồm nhiều trọng tài viên, nếu các bên không có
thoả thuận nào khác, quyết định của Hội đồng trọng tài được đưa ra theo
nguyên tắc đa số của các thành viên trong Hội đồng. Tuy nhiên, nếu được các
bên và các thành viên khác của Hội đồng trọng tài ủy quyền, các vấn đề về tố
tụng do trọng tài viên chủ toạ quyết định.
Quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong Luật mẫu
UNCITRAL ta thấy ưu điểm của các quy định này ở các điểm sau:
Luật mẫu UNCITRAL đã có ưu điểm là cho phép bên tranh chấp được
toàn quyền lựa chọn pháp luật để áp dụng vào quá trình giải quyết tranh chấp.
Theo Luật mẫu UNCITRAL thì các bên được quyền tự do lựa chọn luật để áp
dụng cho việc giải quyết tranh chấp; luật để áp dụng có thể bao gồm cả luật
của nước ngoài (khoản 1 và khoản 2, Điều 28 Luật mẫu UNCITRAL). Điều
này cũng tương tự như pháp luật một số nước trên thế giới về việc cho phép
các bên lựa chọn luật để giải quyết tranh chấp, ví dụ: Điều 28 Luật Trọng tài
Cộng hòa Liên bang Nga cũng có quy định: "Hội đồng trọng tài sẽ giải quyết
tranh chấp theo quy định pháp luật do các bên lựa chọn để giải quyết tranh
chấp". Việc cho phép các bên tranh chấp được tự do lựa chọn pháp luật để áp
dụng vào việc giải quyết tranh chấp của mình cũng được ghi nhận tại Điều 32
Luật Trọng tài Singapore, Điều 28 Luật Trọng tài Canada [17] ...
Một quy định mang tính chất tiến bộ khác của Luật mẫu về trọng tài
thương mại của UNCITRAL đó là quy định về thẩm quyền của Hội đồng
28
trọng tài được quy định về thẩm quyền xét xử của chính mình. Theo Điều 16
của Luật mẫu quy định:
‟Hội đồng trọng tài có thể quy định về thẩm quyền xét xử của chính mình, kể
cả những ý kiến phản đối về sự tồn tại hoặc giá trị pháp lý của thoả thuận
trọng tài. Vì mục đích này, điều khoản trọng tài trở tạo nên một phần của
hợp đồng được coi là thoả thuận độc lập với các điều khoản khác của hợp
đồng. Quyết định của Hội đồng trọng tài về hợp đồng bị vô hiệu không làm
cho điều khoản trọng tài bị vô hiệu theo.” [19]
Quy định này góp phần quan trọng vào việc nâng cao tính độc lập, chủ
động của Hội đồng trọng tài trong quá trình giải quyết vụ việc tranh chấp.
Đồng thời cho thấy một giải pháp rất linh hoạt về quy trình tố tụng trọng tài
do Luật mẫu UNCITRAL đưa ra đối với các bên.
Nghiên cứu quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài một số
nước có thể thấy các vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, về thành viên của Hội đồng TTTM, được các nước quy định
rất chặt chẽ nhằm đảm bảo cho hoạt động của trọng tài thương mại trong quá
trình giải quyết tranh chấp. Theo đó, Hội đồng trọng tài bao gồm các trọng tài
viên. Vì thế dường như một điều quan trong là trước hết cần phải quy định
những ai có thể làm trọng tài viên. Tuy nhiên, trên thực tế, rất ít các nước quy
định về tư cách, trình độ, bằng cấp hoặc các tiêu chuẩn khác của trọng tài
viên. Luật mẫu UNCITRAL không hề có quy định này. Luật của Anh cũng
không có. Luật của Pháp chỉ quy định chung là chỉ những người có đủ quyền
công dân mới được làm trọng tài viên [17]. Điều này phản ánh việc luật pháp
các nước hoàn toàn để cho các bên đương sự có toàn quyền chọn trọng tài
viên các bên thấy thích hợp, bất kể quốc tịch, bằng cấp, trình độ, v.v. Miễn là
các bên thấy tin tưởng là người đó có thể làm một trọng tài viên tốt và công
minh. Điều này xuất phát từ lịch sử của ngành trọng tài là các bên muốn giải
quyết tranh chấp thông qua một bên thứ ba một cách hiệu quả nhất, nhanh
chóng nhất. Quốc tịch, trình độ, bằng cấp, chuyên môn của người thứ ba này
29
tùy thuộc vào từng vụ việc và khó có thể quy định cứng nhắc. Vì thế, luật
pháp các nước ít quy định về tiêu chuẩn trọng tài viên và việc chọn trọng tài
viên là hoàn toàn do các bên quyết định. (Cần phân biệt việc này với việc các
trung tâm trọng tài quy định hoặc bản thân các bên đương sự có thể thỏa
thuận các tiêu chuẩn riêng cho trọng tài viên của họ để bảo đảm uy tín, chất
lượng v.v. Nhưng đó là việc riêng của từng trung tâm và của các bên, không
phải là quy định bắt buộc của pháp luật).
Bên cạnh đó, một số nước như Trung Quốc có quy định cụ thể về tiêu
chuẩn trọng tài viên, ví dụ phải có bằng luật hoặc đã có kinh nghiệm thâm
niên trong các ngành kinh tế, thương mại v.v [17]. Tuy nhiên, ít có nước nào
khác quy định cụ thể như vậy.
Về vấn đề số lượng trọng tài viên trong Hội đồng trọng tài. Một Hội
đồng trọng tài có thể bao gồm một thành viên, hai thành viên, ba thành viên
hoặc nhiều hơn nữa, hoàn toàn do các bên thỏa thuận. Luật mẫu UNCITRAL
và luật một số nước như Đức, đưa ra con số mặc định là ba, áp dụng trong
trường hợp các bên không có thỏa thuận [17]. Một số nước như Anh lại quy
định con số mặc định là một [17]. Ngoài ra, luật của Anh còn quy định thêm
rằng trong trường hợp các bên thỏa thuận là có 2 trọng tài viên, thì trừ khi các
bên có thỏa thuận khác, cần phải chỉ định thêm một người làm chủ tịch.
Về phương thức chỉ định trọng tài viên. Về vấn đề này luật các nước
đều khá thống nhất. Về căn bản, các bên được quyền thỏa thuận phương
thức lựa chọn trọng tài viên. Thông thường, với một Hội đồng trọng tài gồm
3 thành viên, mỗi bên sẽ chỉ định một trọng tài viên và hai trọng tài viên đó
sẽ chỉ định người thứ ba làm chủ tịch Hội đồng trọng tài. Trong trường hợp
các bên không lựa chọn trọng tài viên hoặc hai trọng tài viên do hai bên lựa
chọn không thỏa thuận được chủ tịch Hội đồng trọng tài thì quyền chỉ định
sẽ thuộc về một bên thứ ba thường do các bên thỏa thuận trước (thường là
một trung tâm trọng tài, đặc biệt là khi tiến hành tố tụng trọng tài tại trung
30
tâm đó) hoặc nếu không có thỏa thuận thì việc chỉ định sẽ do Tòa án có thẩm
quyền của nước sở tại thực hiện [17].
Ngoài ra, luật của một số nước có thể tạo cơ chế thuận lợi hơn cho
một bên khi bên kia không hợp tác trong việc chỉ định trọng tài viên. Theo
Luật Trọng tài của Anh, nếu các bên đã thỏa thuận trước là Hội đồng trọng
tài sẽ bao gồm 3 thành viên và một bên không chịu chỉ định trọng tài viên
của mình, bên kia có thể đề nghị chỉ định trọng tài viên của mình là trọng tài
viên duy nhất. Phán quyết của trọng tài viên duy nhất này sẽ có hiệu lực như
thể các bên đã thỏa thuận Hội đồng trọng tài chỉ bao gồm một trọng tài viên
duy nhất mà thôi [17].
Về vấn đề bãi miễn trọng tài viên. Luật trọng tài các nước thường quy
định rằng trọng tài viên sau khi được chỉ định thì sẽ phải cung cấp các thông
tin về các khả năng khiến cho trọng tài viên có thể không vô tư khách quan
trong việc xét xử tranh chấp [17]. Nếu một bên không đồng ý với việc chỉ
định một trọng tài viên (thường là do bên kia chỉ định) trên cơ sở trọng tài
viên đó không vô tư khách quan hoặc có thể trên cơ sở trọng tài viên đó
không thỏa mãn yêu cầu về trình độ, bằng cấp, chuyên môn do các bên đã
thỏa thuận, luật trọng tài các nước thường quy định một thủ tục cho bên đó có
thể yêu cầu bãi miễn trọng tài viên đó. Nguyên tắc căn bản vẫn là tôn trọng sự
thỏa thuận của các bên. Nếu một bên phản đối việc chỉ định trọng tài viên của
bên kia và bên kia đồng ý với việc đó, thì trọng tài viên đó sẽ bị bãi miễn.
Ngoài ra, trọng tài viên đó cũng có thể tự nguyện rút lui nếu đồng ý với lý do
của bên phản đối. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận và trọng tài
viên không đồng ý rút lui, bên phản đối trọng tài viên có thể yêu cầu Hội
đồng trọng tài hoặc sau đó là Tòa án xem xét vấn đề này. Quyết định của Tòa
án sẽ là chung thẩm [17].
Thứ hai, về thẩm quyền của Hội đồng TTTM theo pháp luật một số
quốc gia được quy định tương đối linh hoạt.
31
Về vấn đề quyền của Hội đồng trọng tài tự quyết thẩm quyền của mình.
Một nguyên tắc căn bản trong luật trọng tài các nước trên thế giới là Hội đồng
trọng tài có thể tự quyết định thẩm quyền của mình (competence-
competence). Điều này có nghĩa là nếu một bên có khiếu nại về việc vụ tranh
chấp hoặc một khía cạnh nào đó trong vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền
của Hội đồng trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu, việc này trước hết sẽ
do Hội đồng trọng tài quyết định.
Một số nước như Pháp, Thụy Sĩ, Ấn độ quy định rằng quyết định của
Hội đồng trọng tài trong việc này là chung thẩm và các bên không được
quyền kháng cáo lên Tòa án [17]. Tuy nhiên luật một số nước khác như Đức,
kể cả Luật mẫu UNCITRAL lại quy định các bên được quyền kháng cáo vấn
đề này lên Tòa án và Tòa án mới là cơ quan cuối cùng quyết định thẩm quyền
của Hội đồng trọng tài [17].
Về quyền của Hội đồng trọng tài áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời. Luật trọng tài của các nước thường cho phép Hội đồng trọng tài có
quyền, theo yêu cầu của một bên, quyết định việc áp dụng một số biện pháp
khẩn cấp tạm thời đối với các bên nhằm bảo toàn chứng cứ, tài sản phục vụ
việc giải quyết tranh chấp và thi hành phán quyết sau này.
Một biện pháp tạm thời là bất kỳ một biện pháp lâm thời nào, cho dù
dưới hình thức một quyết định hay dưới một hình thức khác, bằng cách, vào
bất kỳ thời điểm nào trước khi ra một quyết định trọng tài mà tranh chấp
được giải quyết cuối cùng, Hội đồng trọng tài buộc một bên phải: Duy trì
hoặc khôi phục tình trạng hiện tại cho tới khi ra phán quyết về tranh chấp;
Thực hiện hành vi mà sẽ ngăn chặn, hoặc không thực hiện hành vi mà có thể
gây ra, thiệt hại ngay hoặc sẽ xảy ra cho tố tụng trọng tài; Thực hiện biện
pháp bảo quản tài sản để một quyết định trọng tài sau đó có thể được thực
hiện; hoặc Bảo quản chứng cứ mà có thể liên quan và cần thiết cho việc giải
quyết tranh chấp.
32
Quy định này tương tự như quy định trong Luật Trọng tài một số quốc
gia trên thế giới. Có thể kể đến như Luật trọng tài của các nước thường cho
phép Hội đồng trọng tài có quyền, theo yêu cầu của một bên, quyết định việc
áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các bên nhằm bảo toàn
chứng cứ, tài sản phục vụ việc giải quyết tranh chấp và thi hành phán quyết
sau này.
Cụ thể, trong Luật mẫu UNCITRAL, Hội đồng trọng tài có thẩm quyền
yêu cầu một bên bảo toàn hiện trạng tranh chấp, không tẩu tán tài sản, giữ
nguyên chứng cứ v.v. Tuy nhiên, bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời cũng phải chứng minh được với Hội đồng trọng tài rằng việc áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời là cần thiết và bên yêu cầu này cũng có thể phải
đưa ra các bảo đảm ký quỹ để bảo đảm bên bị áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời sẽ không bị thiệt hại [17]. Song song với việc Hội đồng trọng tài có
thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Tòa án có thẩm quyền của
nước sở tại cũng có thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo
yêu cầu của một bên.
33
Chương 2
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THẨM
QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
2.1. Các quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại giai
đoạn trước Luật Trọng tài thương mại năm 2010
2.1.1. Giai đoạn trước khi có Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003
Về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trước năm 2003 có thể được
chia thành hai giai đoạn nhỏ. Giai đoạn trước năm 1994 trở về trước và giai
đoạn từ 1994 đến năm 2003.
- Giai đoạn trước năm 1994. Thẩm quyền của Hội đồng TTTM được
thể hiện thông qua các cơ quan trọng tài kinh tế và trọng tài phi nhà nước
được thành lập từ năm 1960. Cơ quan trọng tài đầu tiên ở Việt Nam là hệ
thống trọng tài nhà nước được thành lập theo nghị định số 04/TTg ngày
1/4/1960 của Thủ tướng nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Một nghị định
khác ban hành ngày 14/1/1960 quy định về nguyên tắc hoạt động của trọng tài
nhà nước là thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp kinh tế vừa thực hiện
công tác quản lý nhà nước đối với công tác hợp đồng kinh tế. Từ hai chức
năng đó ta có thể thấy, trọng tài kinh tế nhà nước vừa là cơ quan xét xử, vừa
là cơ quan quản lý nhà nước. Là cơ quan quản lý nhà nước đương nhiên trọng
tài kinh tế nhà nước phải thi hành mệnh lệnh của nhà nước và bản thân trọng
tài kinh tế nhà nước cũng có quyền ra mệnh lệnh hành chính đối với các đối
tượng có liên quan nằm trong phạm vi điều chỉnh của pháp lệnh hợp đồng
kinh tế. Chính xuất phát từ địa vị pháp lý đặc biệt như vậy mà trong thủ tục
xét xử tranh chấp hợp đồng kinh tế và thủ tục xử lý vi phạm pháp luật hợp
đồng kinh tế của trọng tài kinh tế là sự đan xen giữa tố tụng tư pháp với thủ
tục hành chính.
34
Trọng tài kinh tế nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân cấp quản
lý hành chính: ở mỗi cấp quản lý hành chính đều thành lập cơ quan trọng tài
kinh tế. Hệ thống tổ chức gồm trọng tài kinh tế nhà nước, trọng tài kinh tế
tỉnh, thành phố; trọng tài kinh tế huyện, quận và cấp tương đương. Trọng tài
kinh tế nhà nước chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Hội đồng bộ trưởng, trọng tài
kinh tế các cấp chịu sự lãnh đạo của ủy ban nhân dân cùng cấp đồng thời chịu
sự chỉ đạo giám sát của trọng tài kinh tế cấp trên. Trọng tài kinh tế nhà nước ở
cấp trung ương gồm có chủ tịch, một hoặc hai phó chủ tịch và các trọng tài
viên. Chủ tịch trọng tài kinh tế nhà nước do chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay
là Thủ tướng chính phủ) bổ nhiệm và miễn nhiệm. Các phó chủ tịch và các
trọng tài viên cũng do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng bổ nhiệm trên cơ sở được
Chủ tịch trọng tài kinh tế Nhà nước giới thiệu. Các cơ quan trọng tài kinh tế
cấp dưới cũng có cơ cấu tương tự như vậy. Trọng tài viên có nhiệm vụ giải
quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm pháp luật hợp đồng kinh tế.
Các bên tranh chấp hoàn toàn không có vai trò gì trong việc chỉ định trọng tài
viên để xét xử vụ việc bởi vì việc đó thuộc quyền hạn của Chủ tịch trọng tài
kinh tế có liên quan. Đây là điểm khác biệt rất cơ bản của trọng tài nhà nước
so với trọng tài phi chính phủ (các bên tranh chấp có quyền tự do hoàn toàn
định đoạt các vấn đề trọng tài trong đó có quyền chỉ định trọng tài viên).
Trọng tài nhà nước là các viên chức nhà nước và họ hưởng lương của nhà
nước. Còn đối với trọng tài phi chính phủ thì các bên tranh chấp có nghĩa vụ
phải trả thù lao cho hoạt động của các trọng tài viên. Khi xét xử, các trọng tài
viên của cơ quan trọng nhà nước hoạt động thay mặt nhà nước chứ không
phải chỉ với tư cách là người phân giải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và
yêu cầu của các bên. Chính vì vậy mà theo điều 10 của pháp lệnh trọng tài
kinh tế, tiêu chuẩn mà trọng tài viên cần có trước tiên là "phẩm chất chính trị,
liêm khiết công minh", rồi sau đó mới là "có kiến thức pháp lý và quản lý
kinh tế cần thiết". Với quy định như vậy, việc giải quyết tranh chấp khó có thể
công bằng và có hiệu quả.
35
Điều 2 Pháp lệnh trọng tài kinh tế của Hội đồng Nhà nước ban hành
ngày 10/01/1990 quy định nhiệm vụ và quyền hạn của trọng tài kinh tế nhà
nước như sau: Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế; Kiểm tra, kết luận và
xử lý các hợp đồng kinh tế trái pháp luật; Tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện
pháp luật hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế; Bồi dưỡng nghiệp vụ công tác
hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế.
Cùng một lúc, trọng tài kinh tế nhà nước vừa thực hiện chức năng quản
lý các doanh nghiệp nhà nước, vừa giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với
nhau. Do đó, dù với tư cách là một tổ chức trọng tài hay với tư cách là một cơ
quan hành chính. Trọng tài kinh tế nhà nước khó có thể hoạt động hiệu quả vì
nó phải đảm đương cùng một lúc hai trách nhiệm.
Nói tóm lại, trọng tài kinh tế nhà nước là một hình thức pha trộn của
trọng tài và cơ quan hành chính vì nó không hẳn là trọng tài như ở các nước
và cũng không hẳn là toà án. Một tổ chức trọng tài như vậy chỉ có thể phù hợp
với nền kinh tế tập trung mệnh lệnh [8].
Đối với trọng tài phi nhà nước, tồn tại hai mô hình khác nhau. Mô hình
thứ nhất ra đời từ năm 1963 bằng Nghị định số 59/CP ngày 30/4/1963 của
Hội đồng Chính phủ về việc thành lập Hội đồng Trọng tài ngoại thương. Tiếp
sau đó, ngày 05/10/1964, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 153/CP
về việc thành lập Hội đồng Trọng tài hàng hải. Đến ngày 28/4/1993, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 204/TTg về việc thành lập Trung
tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở hợp nhất Hội đồng Trọng tài ngoại thương
và Hội đồng Trọng tài thương mại hàng hải. Mô hình trọng tài thứ hai là các
trung tâm trọng tài kinh tế được thành lập theo Nghị định số 116/CP ngày
05/09/1994 của Chính phủ. Có 05 trung tâm trọng tài được thành lập theo
Nghị định này (02 Trung tâm tại thành phố Hà Nội, 01 Trung tâm tại thành
36
phố Hồ Chí Minh, 01 Trung tâm tại Cần Thơ và 01 Trung tâm tại Bắc Giang)
[7, tr.30-35].
- Giai đoạn từ sau năm 1993 đến năm 2003. Từ năm 1986 nhà nước
Việt Nam chủ trương chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang
một nền kinh tế nhiều thành phần vận thành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bước ngoặt đó đã dẫn đến
một loạt cải cách trong nền kinh tế. Trong đó đáng chú ý là chủ trương bình
đẳng giữa các thành phần trong nền kinh tế, khuyến khích và phát triển kinh
tế tư nhân; phát triển đầu tư trong nước và khuyến khích đầu tư nước ngoài,
phát triển đa dạng hoá các quan hệ kinh tế quốc tế... Như vậy, bên cạnh số
lượng lớn các doanh nghiệp nhà nước, số lượng các công ty doanh nghiệp tư
nhân cũng ngày một gia tăng. Vấn đề đặt ra là phải cải tạo được một môi
trường dân chủ và công bằng cho tất cả các thành phần trong nền kinh tế.
Điều đó không chỉ có nghĩa là cần phải có một cơ chế pháp lý thích hợp để
bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp tư nhân cũng như các doanh
nghiệp nhà nước. Ngoài ra, với chính sách mở cửa khuyến khích đầu tư nước
ngoài, thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là các nước
phương tây cũng làm đa dạng hoá các mối quan hệ thương mại.
Do những bất cập trong cơ chế của mình, cùng với những thay đổi của
đời sống kinh tế xã hội, hiện nay trọng tài kinh tế nhà nước không còn tồn tại
nữa. Sau khi trọng tài kinh tế nhà nước bị giải thể năm 1994, theo nghị định
116 - CP của chính phủ, các trung tâm trọng tài kinh tế đã và sẽ được thành
lập. Tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế do Điều lệ quyết định. Mặc dù
mang tính chất là các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các trung tâm trọng tài kinh
tế vẫn chịu sự quản lý trực tiếp của nhà nước về vấn đề xét đơn xin thành lập
trung tâm, chỉ định Hội đồng tuyển chọn trọng tài viên, cấp và thu hồi thẻ
trọng tài viên... Việt Nam trong giai đoạn này có một số trung tâm trọng tài
kinh tế hoạt động, tiêu biểu như: Trung tâm trọng tài kinh tế Bắc Giang (tỉnh
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật
Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật

More Related Content

What's hot

Đề tài: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tòa án từ thực tiễn...
Đề tài: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tòa án từ thực tiễn...Đề tài: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tòa án từ thực tiễn...
Đề tài: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tòa án từ thực tiễn...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng phương t...
Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng phương t...Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng phương t...
Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng phương t...nataliej4
 

What's hot (20)

Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài vụ việc
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài vụ việcLuận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài vụ việc
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài vụ việc
 
Luận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đ
Luận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đLuận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đ
Luận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đ
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tòa án từ thực tiễn...
Đề tài: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tòa án từ thực tiễn...Đề tài: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tòa án từ thực tiễn...
Đề tài: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tòa án từ thực tiễn...
 
Luận văn: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại
Luận văn: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mạiLuận văn: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại
Luận văn: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại
 
Đề tài: Hoàn thiện chế định hòa giải trong luật tố tụng dân sự, HOT
Đề tài: Hoàn thiện chế định hòa giải trong luật tố tụng dân sự, HOTĐề tài: Hoàn thiện chế định hòa giải trong luật tố tụng dân sự, HOT
Đề tài: Hoàn thiện chế định hòa giải trong luật tố tụng dân sự, HOT
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh doanh bất động sản
Luận văn: Giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh doanh bất động sảnLuận văn: Giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh doanh bất động sản
Luận văn: Giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh doanh bất động sản
 
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
 
Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng phương t...
Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng phương t...Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng phương t...
Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại bằng phương t...
 
Luận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOTĐề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
 
Luận văn: Quy định về thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HOT
Luận văn: Quy định về thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HOTLuận văn: Quy định về thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HOT
Luận văn: Quy định về thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HOT
 
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Tòa Án, Điểm Cao
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Tòa Án, Điểm CaoLiệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Tòa Án, Điểm Cao
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Tòa Án, Điểm Cao
 
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóaLuận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo luật
Luận văn: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo luậtLuận văn: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo luật
Luận văn: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo luật
 
Luận văn: Pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, 9đ
Luận văn: Hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, 9đLuận văn: Hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, 9đ
Luận văn: Hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, 9đ
 
Hợp đồng chuyển nhượng dự án trong kinh doanh bất động sản
Hợp đồng chuyển nhượng dự án trong kinh doanh bất động sảnHợp đồng chuyển nhượng dự án trong kinh doanh bất động sản
Hợp đồng chuyển nhượng dự án trong kinh doanh bất động sản
 
Đề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAY
Đề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAYĐề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAY
Đề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAY
 
Luận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam, HOT
 

Similar to Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật

Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam ...
Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam ...Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam ...
Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam ...anh hieu
 
Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam ...
Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam ...Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam ...
Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam ...anh hieu
 
Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam...
 Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam... Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam...
Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam...hieu anh
 
Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở ...
Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở ...Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở ...
Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở ...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
[123doc] - phap-luat-ve-thi-hanh-phan-quyet-cua-trong-tai-thuong-mai-viet-nam...
[123doc] - phap-luat-ve-thi-hanh-phan-quyet-cua-trong-tai-thuong-mai-viet-nam...[123doc] - phap-luat-ve-thi-hanh-phan-quyet-cua-trong-tai-thuong-mai-viet-nam...
[123doc] - phap-luat-ve-thi-hanh-phan-quyet-cua-trong-tai-thuong-mai-viet-nam...huynhminhquan
 
luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...
luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...
luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...huynhminhquan
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Vai trò của tòa án đối với hoạt động tố tụng trọng tài thương mại ở việt nam ...
Vai trò của tòa án đối với hoạt động tố tụng trọng tài thương mại ở việt nam ...Vai trò của tòa án đối với hoạt động tố tụng trọng tài thương mại ở việt nam ...
Vai trò của tòa án đối với hoạt động tố tụng trọng tài thương mại ở việt nam ...luanvantrust
 

Similar to Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật (20)

Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại, HAY
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại, HAYLuận văn: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại, HAY
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại, HAY
 
Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam ...
Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam ...Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam ...
Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam ...
 
Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam ...
Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam ...Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam ...
Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam ...
 
Pháp Luật Hòa Giải Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại, HAY.doc
Pháp Luật Hòa Giải Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại, HAY.docPháp Luật Hòa Giải Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại, HAY.doc
Pháp Luật Hòa Giải Tranh Chấp Kinh Doanh Thương Mại, HAY.doc
 
Đề tài: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại, HAY
Đề tài: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại, HAYĐề tài: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại, HAY
Đề tài: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại, HAY
 
Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam...
 Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam... Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam...
Vai trò của Tòa án đối với hoạt động tố tụng Trọng tài thương mại ở Việt Nam...
 
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và SingaporeĐề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
Đề tài: So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore
 
Luận văn: Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HAYLuận văn: Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HAY
 
Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở ...
Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở ...Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở ...
Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ở ...
 
Đề tài: Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
Đề tài: Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giảiĐề tài: Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
Đề tài: Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
 
Luận văn: Cơ chế thi hành quyết định của trọng tài thương mại
Luận văn: Cơ chế thi hành quyết định của trọng tài thương mạiLuận văn: Cơ chế thi hành quyết định của trọng tài thương mại
Luận văn: Cơ chế thi hành quyết định của trọng tài thương mại
 
[123doc] - phap-luat-ve-thi-hanh-phan-quyet-cua-trong-tai-thuong-mai-viet-nam...
[123doc] - phap-luat-ve-thi-hanh-phan-quyet-cua-trong-tai-thuong-mai-viet-nam...[123doc] - phap-luat-ve-thi-hanh-phan-quyet-cua-trong-tai-thuong-mai-viet-nam...
[123doc] - phap-luat-ve-thi-hanh-phan-quyet-cua-trong-tai-thuong-mai-viet-nam...
 
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấpLuận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp
 
Đề tài: Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành hình phạt tù, HAY
Đề tài: Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành hình phạt tù, HAYĐề tài: Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành hình phạt tù, HAY
Đề tài: Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành hình phạt tù, HAY
 
luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...
luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...
luan-van-thac-si-thu-tuc-cong-nhan-va-cho-thi-hanh-tai-viet-nam-phan-quyet-cu...
 
Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài thương mại
Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài thương mạiCông nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài thương mại
Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài thương mại
 
Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự, HAY
Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự, HAYĐịa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự, HAY
Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự, HAY
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...
 
Quy định về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam, Anh, Hoa Kỳ và Uncitral
Quy định về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam, Anh, Hoa Kỳ và UncitralQuy định về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam, Anh, Hoa Kỳ và Uncitral
Quy định về thỏa thuận trọng tài ở Việt Nam, Anh, Hoa Kỳ và Uncitral
 
Vai trò của tòa án đối với hoạt động tố tụng trọng tài thương mại ở việt nam ...
Vai trò của tòa án đối với hoạt động tố tụng trọng tài thương mại ở việt nam ...Vai trò của tòa án đối với hoạt động tố tụng trọng tài thương mại ở việt nam ...
Vai trò của tòa án đối với hoạt động tố tụng trọng tài thương mại ở việt nam ...
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (19)

SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 

Đề tài: Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo luật

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG MINH PHƯƠNG THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG MINH PHƯƠNG THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Thị Thanh Thủy Hà Nội – 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đặng Minh Phương
  • 4. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập và nghiên cứu tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, đến nay em đã hoàn thành luận văn Thạc sỹ, đạt kết quả khả quan theo các mục tiêu nghiên cứu đã đề ra. Qua đây, em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhiệt tình truyền thụ những kiến thức bổ ích, tạo điều kiện giúp em hoàn thành tốt chương trình Thạc sỹ. Đặc biệt, em xin trân trọng cảm ơn GVC,TS. Phan Thị Thanh Thủy, người đã rất tận tâm hướng dẫn em thực hiện đề tài nghiên cứu, đã truyền tải những kiến thức chuyên sâu và chia sẻ những kinh nghiệm thực tế hữu ích liên quan đến đề tài nghiên cứu. Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2014 Học viên Đặng Minh Phương
  • 5. MỤC LỤC Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục tài liệu viết tắt MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI...................................................................................6 1.1. Khái quát về Hội đồng trọng tài thương mại.....................................................6 1.1.1. Khái niệm và sự hình thành của Hội đồng trọng tài thương mại ..................6 1.1.1.1. Sự hình thành của Hội đồng trọng tài quy chế.................................................8 1.1.1.2. Sự hình thành của Hội đồng trọng tài vụ việc..................................................9 1.1.2. Những đặc điểm của Hội đồng trọng tài thương mại.....................................11 1.1.3. Chức năng của Hội đồng trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp.12 1.2. Khái quát về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại .......................14 1.2.1. Khái niệm thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại ...........................14 1.2.2. Phân biệt thẩm quyền của Hội đồng trọng tài và thẩm quyền của Tòa án.....17 1.2.2.1. Giống nhau ...................................................................................................17 1.2.2.2. Khác nhau.....................................................................................................18 1.3. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài theo luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại................................................................................................................23 Chương 2 CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH 33 2.1. Các quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại giai đoạn trước Luật Trọng tài thương mại năm 2010 ..........................................................33 2.1.1. Giai đoạn trước khi có Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003................33 2.1.2. Giai đoạn từ năm 2003 đến trước năm 2010 ..................................................38 2.2. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo Luật trọng tài thương mại năm 2010...........................................................................................................43 2.2.1. Quy định về thành lập Hội đồng trọng tài ......................................................43 2.2.1.1. Thành lập Hội đồng trọng tài quy chế...........................................................43 2.2.1.2. Thành lập trọng tài vụ việc............................................................................48
  • 6. 2.2.2. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong công tác chuẩn bị xét xử .............51 2.2.2.1. Thẩm quyền xem xét sự tồn tại, hiệu lực, tính khả thi của thỏa thuận trọng tài và thẩm quyền của Hội đồng trọng tài .......................................................................51 2.2.2.2. Thẩm quyền trong việc xác minh sự việc và thu thập chứng cứ .....................54 2.2.2.3. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời…………………………………………………………………………...57 2.2.3. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong phiên họp giải quyết tranh chấp..61 2.2.3.1. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài về triệu tập người làm chứng ................61 2.2.3.2. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài khi đương sự vắng mặt trong phiên họp 62 2.2.3.3. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong việc thương lượng và giải quyết tranh chấp .................................................................................................................64 2.2.4. Thẩm quyền ra phán quyết của Hội đồng trọng tài........................................66 2.3. Những vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại................................................................................70 2.4. Thực tiễn việc thực thi các quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại...............................................................................................................77 Chương 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI............................................................86 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại...............................................................................................................86 3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại................................................................................................88 3.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại................................88 3.3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài..........91 3.3. Các giải pháp nâng cao uy tín và nhu cầu áp dụng trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại............................................................................................94 KẾT LUẬN ..............................................................................................................99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................101
  • 7. DANH MỤC TÀI LIỆU VIẾT TẮT Công ước New York 1958 Công ước New York năm 1958 của Liên Hợp Quốc về Công nhận và thi hành quyết định trọng tài nước ngoài Luật mẫu UNCITRAL Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của Uỷ ban Liên Hợp quốc về luật thương mại quốc tế UNCITRAL thông qua ngày 21 tháng 6 năm 1985 Luật TTTM 2010 Luật Trọng tài thương mại số 54/2010/QH12 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010 Pháp lệnh TTTM 2003 Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 08/2003/PL-UBTVQH11 ngày 25 tháng 02 năm 2003 về Trọng tài thương mại Hội đồng TTTM Hội đồng trọng tài thương mại
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trọng tài thương mại là cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án thuận lợi cho các bên, đặc biệt là các bên tham gia các hoạt động thương mại, đầu tư. Trong giao dịch dân sự thường ngày, nhất là các giao dịch kinh tế thương mại, việc phát sinh tranh chấp là không thể tránh khỏi và giải quyết các tranh chấp phát sinh một cách nhanh chóng, hiệu quả, công bằng là góp phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư, tạo sự yên tâm cho các bên ngay từ khi mới hình thành quan hệ và cả khi có phát sinh tranh chấp. Tuy nhiên trên thực tế, trọng tài tại Việt Nam rất ít được sử dụng để giải quyết các tranh chấp đầu tư và thương mại; các hợp đồng với các bên nước ngoài nhất là hợp đồng có giá trị lớn hầu như không lựa chọn trọng tài tại Việt Nam để giải quyết tranh chấp. Các tranh chấp ở Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu được giải quyết thông qua hệ thống Tòa án hoặc trọng tài nước ngoài. Nguyên nhân xuất phát từ việc hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành về trọng tài thương mại vẫn còn những bất cập, làm cho hệ thống trọng tài chưa thực sự trở thành phương thức hấp dẫn và hiệu quả để các bên lựa chọn giải quyết các tranh chấp liên quan. Một trong những bất cập đó là vấn đề thủ tục tố tụng trọng tài còn nhiều bất cập trong đó có quy định về thẩm quyền của Hội đồng TTTM. Các quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài còn nhiều bất cập làm cho tính linh hoạt, ưu thế của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài không phát huy được hoàn toàn. Điều này dẫn đến vấn đề thẩm quyền của Hội đồng trọng tài chưa thực sự mạnh, chưa phân định rõ thẩm quyền trong quá trình giải quyết; nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng trọng tài còn chưa được quy định cụ thể dẫn đến các chủ thể có tranh chấp phát sinh được giải quyết bằng trọng tài thương mại chưa thực sự tin tưởng sử dụng trọng tài thương mại như là phương thức giải quyết tranh chấp hàng đầu.
  • 9. 2 Trong những năm vừa qua, nền kinh tế thế giới và Việt Nam có những chuyển biến mang tính tiêu cực, tình hình khủng hoảng kinh tế đang còn diễn ra, chính vì vậy các giao dịch thương mại, kinh tế phát sinh nhiều tranh chấp xảy ra. Trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện cuối cùng các bước để hoàn tất các cam kết đã ký khi tham gia Tổ chức thương mại thế giới (WTO), việc hoàn thiện các quy định về trọng tài thương mại của Việt Nam trong đó có quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài là một vấn đề mang tính cấp thiết. Xuất phát từ lý do này, tác giả đã chọn vấn đề “Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu các vấn đề về trọng tài thương mại với tư cách là bài bình luận, bài báo khoa học hoặc các luận văn, luận án. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và thỏa đáng về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong thủ tục tố tụng trọng tài thương mại. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, Luật TTTM 2010 đã được Quốc hội thông qua và đi vào thực hiện thay thế cho Pháp lệnh TTTM 2003 bị đánh giá là còn nhiều điểm chưa hợp lý, chưa hấp dẫn các doanh nghiệp tìm đến con đường giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, một phương thức tỏ ra có ưu thế hơn hẳn Tòa án được thừa nhận ở hầu hết các nước trên thế giới. Ở cấp độ luận văn thạc sỹ có thể kể đến các công trình như Vũ Thanh Minh với luận văn “Pháp luật Việt Nam về thủ tục tố tụng của trọng tài thương mại” năm 2011 tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy với đề tài “Pháp luật về trọng tài thương mại ở nước ta hiện nay” năm 2003 tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội... Ở cấp độ bài báo khoa học có thể kể đến các tác phẩm như: Tác giả Nguyễn Vũ Hoàng với bài viết “Luật áp dụng trong lĩnh vực trọng tài thương mại quốc tế” đăng trên Tạp chí Luật học Số đặc san về giải quyết tranh chấp
  • 10. 3 thương mại quốc tế năm 2012; Tác giả Trần Quỳnh Anh với bài viết “Một số vướng mắc và hướng hoàn thiện Luật trọng tài thương mại” đăng trên Tạp chí Luật học số 7/2012... Trong đó, thẩm quyền của Hội đồng TTTM theo pháp luật hiện hành là một trong những vấn đề cần phải bàn tới nhiều nhất nhưng lại hoàn toàn thiếu vắng các công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Do vậy, tác giả mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này, đồng thời so sánh với pháp luật một số quốc gia trên thế giới đề làm rõ sự khác biệt về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong pháp luật trọng tài thương mại của Việt Nam so với pháp luật trọng tài thương mại một số nước trên thế giới. 3. Mục đích của luận văn Luận văn nghiên cứu với mục đích làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về trọng tài thương mại và thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong thủ tục tố tụng trọng tài. Luận văn phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong tương quan so sánh với những quy định trước đây về trọng tài thương mại của Việt Nam và quy định về trọng tài thương mại của luật các quốc gia trên thế giới. Từ những sự phân tích trên, luận văn tiến hành chỉ ra những vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục tố tụng trọng tài nói chung và thẩm quyền của Hội đồng trọng tài nói riêng. Qua đó, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục tố tụng trọng tài và thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu Luận văn hướng đến hai đối tượng nghiên cứu chính. Đối tượng thứ nhất là các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền Hội đồng TTTM ở Việt Nam mà đặc biệt là các quy định tại Luật TTTM 2010. Đối tượng thứ hai mà tác giả hướng đến đó là thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền Hội đồng TTTM tại Việt Nam.
  • 11. 4 Phạm vi nghiên cứu - Về mặt nội dung Trong phạm vi nghiên cứu của một luận văn cao học, nội dung nghiên cứu của đề tài tiếp cận vấn đề thẩm quyền của Hội đồng TTTM trên hai phương diện lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền Hội đồng TTTM, tác giả đưa ra những đánh giá khách quan và đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng TTTM tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - Về mặt thời gian Khi nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng như đánh giá thực tiễn, luận văn lấy mốc nghiên cứu từ năm 2010 – năm Luật TTTM 2010 được ban hành cho đến nay. Nội dung luận văn cũng có sự đề cập và phân tích đối với các quy định pháp luật trước năm 2010 về vấn đề thẩm quyền trọng tài, đặc biệt là các quy định trong Pháp lệnh về Trọng tài thương mại năm 2003. Khi đề xuất giải pháp, luận văn nêu ra những kiến nghị, đề xuất thực hiện trong thời gian 5 – 10 năm tới. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Để tiếp cận vấn đề nghiên cứu đề tài tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề phát triển kinh tế, tìm ra các phương hướng giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại. Ngoài ra, còn sử dụng các thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật. Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận làm sáng tỏ vấn đề như: phương pháp lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê,… Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước
  • 12. 5 và những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 6. Đóng góp của đề tài Trong luận văn, tác giả nghiên cứu một cách tổng thể và có hệ thống cơ sở lý luận về thẩm quyền của Hội đồng TTTM, phân tích các quy định của pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng TTTM ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở những phân tích, đánh giá này, kết hợp tham khảo quy định của một số nước trên thế giới về thẩm quyền của Hội đồng TTTM, luận văn chỉ ra một số bất cập còn tồn tại trong cơ chế áp dụng thẩm quyền của Hội đồng trọng tài để qua đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao khả năng áp dụng trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại. Với kết quả như trên, luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu phục vụ việc học tập và giảng dạy, cũng như tham khảo để hoàn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng TTTM. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương với kết cấu như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại. Chương 2: Các quy định của pháp luật Việt nam về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại và thực tiễn thi hành. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại.
  • 13. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 1.1. Khái quát về Hội đồng trọng tài thương mại 1.1.1. Khái niệm và sự hình thành của Hội đồng trọng tài thương mại Trong khoa học pháp lý, trọng tài được nghiên cứu dưới nhiều bình diện khác nhau và do đó hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về trọng tài. Theo cuốn “Từ điển kinh tế thị trường từ A đến Z”: “Trọng tài là một cách giải quyết bất đồng trong quan hệ công nghiệp mà không cần đưa ra pháp luật hay đình công” [43]. Hoặc trong cuốn sách Trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL: “Trọng tài là những tranh chấp hay bất đồng được đưa ra cho một hoặc nhiều người được xem là công tâm, không thiên lệch quyết định và quyết định này có tính ràng buộc đối với hai bên” [21]. Theo Hội đồng trọng tài Mỹ (AAA): “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải thi hành” [9]. Tại Việt Nam, theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật trọng tà7i thương mại năm 2010 “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật trọng tài thương mại” [29]. Mặc dù có khá nhiều định nghĩa khác nhau về trọng tài, song nhìn chung hiện nay trọng tài thương mại được nhìn nhận dưới góc độ: Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất tài phán phi nhà nước (phi chính phủ) do các đương sự thỏa thuận lựa chọn để giải quyết các tranh chấp thương mại. Trọng tài chính là bên trung gian thứ ba được các
  • 14. 7 bên tranh chấp chọn ra để giúp các bên giải quyết những xung đột, bất đồng giữa họ trên cơ sở đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên. Phương thức trọng tài bắt nguồn từ sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở tự nguyện. Để đưa tranh chấp ra trọng tài giải quyết, các bên phải có thỏa thuận trọng tài. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài khá giống với phương pháp giải quyết tranh chấp bằng hòa giải. Cả hai phương thức này đều có sự xuất hiện của người thứ ba. Tuy nhiên, trong hình thức hòa giải, vai trò của người thứ ba chỉ mang tính hỗ trợ, giúp đỡ các bên thỏa thuận với nhau. Còn trong phương thức trọng tài, sau khi xem xét sự việc, trọng tài có thể đưa ra phán quyết có giá trị cưỡng chế thi hành đối với các bên. Trọng tài thương mại bao gồm hai hình thức là trọng tài vụ việc (Ad- hoc) và trọng tài thường trực (trọng tài quy chế - Regular) với những phương thức thành lập ra Hội đồng trọng tài khác nhau. Trọng tài ad - hoc là thể loại trọng tài được các bên thành lập ra chỉ để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể, sau khi vụ tranh chấp đã được giải quyết xong thì trọng tài ad - hoc tự giải thể. Do đó, trọng tài ad - hoc còn được gọi là trọng tài vụ việc, trọng tài đặc biệt, trọng tài đặc nhiệm... Hình thức trọng tài này có đặc điểm là không có trụ sở cố định như trọng tài thường trực, không lệ thuộc vào bất kỳ quy tắc xét xử nào. Trong các vụ tranh chấp sử dụng trọng tài ad - hoc, thì các bên thường thống nhất có một trọng tài viên. Trọng tài thường trực là trọng tài có tổ chức được thành lập để hoạt động một cách thường xuyên, có trụ sở, điều lệ và có quy tắc xét xử riêng. Trọng tài thường trực giống trọng tài ad - hoc ở khả năng lựa chọn trọng tài viên nhưng lại có hạn chế hơn là chỉ được lựa chọn trong số các trọng tài viên của trung tâm trọng tài - mà số lượng các trọng tài viên trong danh sách này thường rất hạn chế. Ban trọng tài có thể là một trọng tài viên duy nhất được chọn trong số trọng tài viên của trung tâm trọng tài hoặc có thể là ba trọng tài (mỗi bên chọn ra một trọng tài viên và hai người này sẽ chọn một trọng tài
  • 15. 8 thứ ba làm chủ tịch Hội đồng trọng tài). Trọng tài thường trực có quy tắc tố tụng được quy định chặt chẽ, được công bố công khai. Các bên đương sự buộc phải tuân theo các quy chế xét xử của từng trung tâm trọng tài, bất luận là những quy định phức tạp và bất hợp lý như thế nào. Tuy nhiên, trên thực tế, điều này rất hãn hữu. Bởi các trung tâm trọng tài muốn tồn tại, bên cạnh chất lượng trọng tài viên thì quy chế tố tụng của từng trung tâm trọng tài phải rất linh hoạt, có khả năng đáp ứng đòi hỏi các nhà kinh doanh trong giải quyết tranh chấp, có như vậy mới thu hút được được khách hàng. Lợi thế lớn nhất của trọng tài thường trực là có sẵn các bộ quy tắc tố tụng trọng tài. Các bên đương sự chỉ cần thoả thuận áp dụng các bộ quy tắc này là đủ, không cần mất công tạo lập ra các bộ quy tắc mới. Điều này rất thuận lợi cho các nhà doanh nghiệp. Nếu họ không muốn có mạo hiểm cho mình thì họ chọn trọng tài thường trực với bộ quy tắc có sẵn. Các tổ chức trọng tài thường trực đều độc lập và không có quan hệ gì với nhau trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, không phụ thuộc vào nhau về đều bình đẳng trước sự lựa chọn của các bên tranh chấp. Việc lựa chọn tổ chức trọng tài cũng như trọng tài viên hoàn toàn phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên tranh chấp. Như vậy, Hội đồng trọng tài cũng cần được tìm hiểu dưới các khía cạnh khác nhau về quy chế và quy trình thành lập. 1.1.1.1. Sự hình thành của Hội đồng trọng tài quy chế Luật TTTM 2010 đã đưa ra định nghĩa pháp lý về trọng tài quy chế để thay cho khái niệm “Hội đồng trọng tài được thành lập tại Trung tâm trọng tài” do Pháp lệnh TTTM 2003 quy định. Theo đó, trọng tài quy chế là hình thức trọng tài được tiến hành tại trung tâm trọng tài và theo quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài. Luật TTTM 2010 cho phép các trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố tụng trọng tài phù hợp với đặc thù của mỗi trung tâm để tăng thêm tính hấp dẫn đối với các bên tranh chấp. Chỉ khi các bên không có thỏa thuận hoặc
  • 16. 9 quy tắc tố tụng trọng tài của trung tâm trọng tài không có quy định khác, lúc đó Luật mới đưa ra quy định hướng dẫn. Cuối cùng, Luật TTTM 2010 còn cho phép tổ chức trọng tài nước ngoài được mở chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Theo quy định của Luật TTTM 2010, Trọng tài thường trực là hình thức trọng tài được tổ chức chặt chẽ, có bộ máy, trụ sở làm việc thường xuyên, có danh sách trọng tài viên hoạt động theo điều lệ và quy chế tố tụng riêng. Hầu hết các tổ chức trọng tài lớn, có uy tín trên thế giới đều được thành lập theo mô hình này dưới những tên gọi như trung tâm trọng tài, ủy ban trọng tài, viện trọng tài, hội đồng trọng tài quốc gia và quốc tế... nhưng chủ yếu và phổ biến được tổ chức dưới dạng các trung tâm trọng tài. Về bản chất, Hội đồng trọng tài quy chế được thành lập ra do sự lựa chọn của các bên tranh chấp trong danh sách Trọng tài viên là thành viên của trung tâm trọng tài (về vấn đề này thì việc thành lập Hội đồng trọng tài quy chế khác với thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc). Theo đó, các bên tranh chấp sẽ lựa chọn trong số Trọng tài viên những người sẽ là thành viên của Hội đồng trọng tài giải quyết vụ việc tranh chấp này. Hội đồng trọng tài quy chế sẽ sử dụng quy tắc tố tụng thống nhất của trung tâm trọng tài để giải quyết vụ việc. Và Hội đồng trọng tài này cũng chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp mà họ được các bên đương sự lựa chọn mà thôi. 1.1.1.2. Sự hình thành của Hội đồng trọng tài vụ việc Đối với hình thức trọng tài vụ việc thì Luật TTTM 2010 có những quy định khác về việc thành lập ra Hội đồng trọng tài vụ việc. Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài được các bên thành lập ra chỉ để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể, sau khi vụ tranh chấp đã được giải quyết xong thì trọng tài vụ việc tự giải thể. Hình thức trọng tài này có đặc điểm là không có trụ sở cố định như trọng tài thường trực, không lệ thuộc vào bất kỳ quy tắc xét xử nào.
  • 17. 10 Trong các vụ tranh chấp sử dụng trọng tài vụ việc, thì các bên thường thống nhất có một trọng tài viên. Như vậy, có thể hiểu, sự hình thành của Hội đồng TTTM do các bên giải quyết tranh chấp tự thỏa thuận với nhau, nếu không có sự thỏa thuận thì việc thành lập Hội đồng trọng tài sẽ tuân theo trình tự, thủ tục do Luật TTTM 2010 quy định, Hội đồng trọng tài là cơ quan tiến hành xét xử vụ việc tranh chấp thương mại do các bên thỏa thuận. Theo Luật TTTM 2010 thì trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết vụ việc và sẽ chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ việc đó. Như vậy, việc thành lập ra Hội đồng trọng tài vụ việc cũng là để thực hiện việc giải quyết một vụ việc cụ thể bởi các thành viên của Hội đồng trọng tài do các bên thành lập ra. Hội đồng trọng tài vụ việc sẽ không có một quy tắc tố tụng trọng tài từ trước, do đó khi được thành lập, Hội đồng trọng tài vụ việc sẽ giải quyết luôn các vấn đề về quy tắc tố tụng. Như vậy, ta có thể thấy, khi xảy ra tranh chấp về kinh doanh thương mại, các bên sẽ thỏa thuận thành lập ra Hội đồng trọng tài vụ việc để giải quyết, nếu bên bị đơn mà hết thời hạn không lựa chọn Trọng tài viên thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa án để lựa chọn Trọng tài viên (Điều 41, Luật TTTM 2010). Điều đó đồng nghĩa với việc, trong trường hợp các bên sử dụng trọng tài vụ việc là phương thức giải quyết tranh chấp thì khái niệm này tương đồng với khái niệm Hội đồng trọng tài vụ việc. Theo quy định tại Điều 2 của Luật mẫu UNCITRAL, thì "Trọng tài" là bất cứ hình thức trọng tài được hoặc không được quản lý bởi một tổ chức trọng tài thường trực. Còn Hội đồng trọng tài được định nghĩa là "Hội đồng trọng tài" là trọng tài viên duy nhất hoặc các trọng tài viên. Như vậy, từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm về Hội đồng trọng tài như sau: Hội đồng TTTM là cơ quan giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại do các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn và được quy định trong Luật TTTM 2010. Hội đồng trọng tài bao gồm một hoặc nhiều
  • 18. 11 trọng tài viên được hình thành theo sự thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật. 1.1.2. Những đặc điểm của Hội đồng trọng tài thương mại Thứ nhất, Hội đồng trọng tài là một cơ quan giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo quy định của Luật TTTM 2010. Đây là một hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba - một trọng tài viên duy nhất hoặc Hội đồng trọng tài. Trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp sẽ hoàn toàn độc lập với các bên, đưa ra phán quyết có tính bắt buộc bảo vệ quyền lợi các bên. Thứ hai, Hội đồng trọng tài là một loại hình hoạt động mang tính chất phi nhà nước, có thể hoạt động dưới một tổ chức trọng tài chung thống nhất bằng quy chế hoạt động riêng hoặc có thể hoạt động mang tính chất vụ việc. Tuy nhiên, dù dưới hình thức nào thì Hội đồng trọng tài cũng hoạt động trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên trong tranh chấp mà không phải là hoạt động theo tư cách sử dụng quyền lực nhà nước. Chính vì vậy, Hội đồng trọng tài hoạt động dưới một thiết chế dân chủ trong giải quyết tranh chấp thương mại; trọng tài không chỉ góp phần tạo ra một đời sống dân chủ và tự do trong tư pháp, mà hơn thế nữa, trọng tài là người chia sẻ nhiệm vụ với nhà nước trong việc xóa bỏ các bất đồng trong xă hội, thể hiện cụ thể ở việc giải quyết các tranh chấp thương mại. Thứ ba, Hội đồng trọng tài hoạt động theo quy chế giải quyết tranh chấp thông qua một thủ tục tố tụng chặt chẽ. Thủ tục này được quy định trong Luật TTTM 2010 cũng như thể hiện cụ thể trong quy chế hoạt động của từng trung tâm trọng tài. Tính chật hoạt động theo quy chế theo trình tự tố tụng của Hội đồng trọng tài đảm bảo cho phán quyết của Hội đồng trọng tài mang tính pháp lý và được bảo đảm thực hiện. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các trọng tài viên và các bên đương sự phải tuân thủ đúng
  • 19. 12 trình tự tố tụng mà pháp luật trọng tài, Điều lệ và Quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài đó quy định. Thứ tư, kết quả của việc giải quyết tranh chấp do Hội đồng trọng tài thực hiện là phán quyết do trọng tài tuyên đối với các đương sự của vụ tranh chấp. Phán quyết của trọng tài vừa là sự kết hợp của yếu tố thỏa thuận (các đương sự có thể thỏa thuận về nội dung tranh chấp, cách thức giải quyết tranh chấp, luật áp dụng đối với vụ tranh chấp) vừa là sự kết hợp của yếu tố tài phán (có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên). Cụ thể, thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và không thể có phán quyết trọng tài thoát ly những yếu tố đã thỏa thuận. Bởi vậy, về nguyên tắc, thẩm quyền của trọng tài không bị giới hạn bởi pháp luật; các đương sự có thể lựa chọn bất kỳ lúc nào, bất kỳ trọng tài vụ việc hoặc trọng tài quy chế nào trên thế giới để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, một khi đã được thỏa thuận thì phán quyết của trọng tài có tính chất tài phán và bắt buộc các bên phải tuân thủ. Thứ năm, Hội đồng trọng tài được thành lập và hoạt động dưới hai dạng là trọng tài vụ việc và trọng tài quy chế. Cả hai loại hội đồng này đều có thẩm quyền như nhau trong giải quyết tranh chấp thương mại. Tính chất thỏa thuận được thể hiện cả trong việc các bên đương sự có quyền lựa chọn và thành lập ra HĐTT. Theo đó, HĐTT do các bên thỏa thuận lựa chọn có thể bao gồm một hoặc nhiều Trọng tài viên. 1.1.3. Chức năng của Hội đồng trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp Theo quy định của Luật TTTM năm 2010 thì trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục do luật trọng tài thương mại quy định. Như vậy, theo quy định của pháp luật thì Hội đồng trọng tài có chức năng giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại phát sinh.
  • 20. 13 Trọng tài là một thiết chế dân chủ, mang tính lựa chọn cao trong giải quyết tranh chấp thương mại. Theo quy định của Luật TTTM 2010 thì trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này (khoản 1 Điều 3). Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền đương nhiên mà chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi mà các bên có quyền lợi liên quan chỉ định, thẩm quyền của trọng tài được xác lập trên cơ sở của thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh (khoản 2 Điều 3). Điều 16 Luật TTTM 2010 cũng quy định về hình thức của thỏa thuận trọng tài, có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng. Chức năng của Hội đồng TTTM được thể hiện ở chỗ Hội đồng TTTM được thành lập là để giải quyết các tranh chấp thương mại. Nhưng tranh chấp thương mại cũng chỉ có thể thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại nếu các bên có tranh chấp có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài này có hiệu lực. Như vậy, một tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại khi có hai điều kiện: Thứ nhất, tranh chấp được gửi đến trọng tài thương mại phải là tranh chấp thương mại; Thứ hai, giữa các bên có tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, Hội đồng trọng tài phải xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài; thỏa thuận trọng tài có thể thực hiện được hay không và xem xét thẩm quyền của mình. Trong trường hợp vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì Hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật. Trường hợp không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc xác định định rõ thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì Hội đồng trọng tài quyết định đình chỉ việc giải quyết và thông báo ngay cho các bên biết.
  • 21. 14 Khác với thẩm quyền của Tòa án, thẩm quyền của trọng tài chỉ là thẩm quyền theo vụ việc, nếu được các bên có tranh chấp lựa chọn đích danh. Các nguyên tắc phân định thẩm quyền theo lãnh thổ, theo trụ sở hoặc chỗ ở của bị đơn và theo sự thỏa thuận của nguyên đơn không được áp dụng trong tố tụng trọng tài. Khi các bên đã thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài, họ trao cho Hội đồng trọng tài thẩm quyền giải quyết tranh chấp và phủ định thẩm quyền xét xử đó của Tòa án trừ khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc các bên hủy bỏ thỏa thuận trọng tài. 1.2. Khái quát về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại 1.2.1. Khái niệm thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại Để tìm hiểu về khái niệm thẩm quyền của Hội đồng TTTM, cần đi tìm hiểu khái niệm “thẩm quyền” trong từ điển tiếng Việt. Theo Từ điển Tiếng việt của Trung tâm từ điển học thì “thẩm quyền” được hiểu là quyền xem xét để ra kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật; tư cách, quyền hạn về mặt chuyên môn được thừa nhận để có ý kiến có tính chất quyết định về vấn đề nào đó [33, tr.1145]. Như vậy, có thể hiểu thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại là quyền để xem xét và đưa ra kết luận và định đoạt về vụ việc tranh chấp thương mại khi các bên có tranh chấp đồng ý trao quyền cho Hội đồng trọng tài bằng thỏa thuận trọng tài theo trình tự, thủ tục do pháp luật về trọng tài thương mại quy định. Từ khái niệm trên ta có thể thấy thẩm quyền của Hội đồng TTTM có những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài không mang tính chất đương nhiên mà thẩm quyền do sự thỏa thuận lựa chọn của các bên trong tranh chấp. Khoản 1 Điều 5 Luật TTTM 2010 quy định rõ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Như vậy, thỏa thuận giữa các bên tranh chấp là điều kiện tiên quyết để làm phát sinh thẩm
  • 22. 15 quyền của Hội đồng trọng tài. Quy định này khác với tố tụng Tòa án, theo đó khi xảy ra tranh chấp thì bất kỳ bên nào cũng có quyền yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết mà không cần được bên kia đồng ý vì thẩm quyền của Tòa án là đương nhiên. Nhưng với trọng tài thì không phải như vậy, nếu các bên không có thỏa thuận giải quyết bằng trọng tài thì trọng tài tuyệt nhiên không có thẩm quyền gì. Tuy nhiên, cũng cần chú ý là một khi các bên đã đồng ý giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì Tòa án không còn thẩm quyền nữa và phải từ chối thụ lý vụ án khi một bên khởi kiện tại tòa, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc không thể thực hiện được (Điều 6 Luật TTTM 2010). Thứ hai, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài có phạm vi điều chỉnh nhất định đó là giải quyết các tranh chấp thuộc thẩm quyền của trọng tài thương mại. Theo Điều 2 Luật TTTM 2010, phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài bao gồm: Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. Theo đó, chỉ cần ít nhất một bên có hoạt động thương mại lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp thì đây sẽ là điều kiện quan trọng để phát sinh thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, trọng tài không phải là phương thức giải quyết tranh chấp chỉ dành riêng cho giới thương nhân. Thứ ba, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài mang tính chất phi nhà nước. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận trao cho. Thẩm quyền này không mang tính chất đương nhiên và không mang tính quyền lực nhà nước. Đặc điểm này quyết định các trình tự, thủ tục liên quan đến việc thành lập ra Hội đồng trọng tài, phương thức giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài, số lượng thành viên Hội đồng... Tính chất phi nhà nước của thẩm quyền của Hội đồng trọng tài cũng liên quan đến vấn đề các phán quyết của Hội đồng trọng tài ban hành và vấn đề mối quan hệ giữa
  • 23. 16 Tòa án và trọng tài thương mại được quy định trong các văn bản về trọng tài thương mại. Ở Việt Nam hiện nay, có hai cơ quan tài phán để giải quyết tranh chấp về kinh doanh thương mại đó là: hệ thống Tòa án nhân dân và hệ thống Trọng tài thương mại. Toà án và trọng tài thương mại là các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bổ sung lẫn nhau. Theo quy định tại Điều 6 Luật TTTM 2010 thì nếu các bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài mà một bên khởi kiện Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động của các Trung tâm Trọng tài thương mại cần có sự phối hợp của Toà án. So với Pháp lệnh TTTM 2003, Luật TTTM 2010 đã có những sửa đổi và bổ sung thêm đối với cac quy định đối với sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài [12, tr.23]. Thứ tư, thẩm quyền Hội đồng trọng tài trong giải quyết tranh chấp thể hiện ở chỗ Hội đồng trọng tài là một thiết chế giải quyết tranh chấp được thành lập và hoạt động theo một trình tự thủ tục chặt chẽ do pháp luật về trọng tài thương mại quy định. Như chúng ta đã biết, để giải quyết được các tranh chấp nói chung và tranh chấp thương mại nói riêng, cần phải có một quy định về trình tự thủ tục hết sức chặt chẽ, điều này đảm bảo cho phán quyết của cơ quan tài phán đó sẽ được đảm bảo thực hiện trên thực tế. Như vậy, Hội đồng trọng tài là có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thông qua một thủ tục tố tụng chặt chẽ. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các trọng tài viên và các bên đương sự phải tuân thủ đúng trình tự tố tụng mà pháp luật trọng tài, điều lệ và quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài đó quy định nếu chọn trọng tài quy chế để giải quyết tranh chấp. Thứ năm, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài được thể hiện cụ thể dưới hai hình thức trọng tài là: trọng tài vụ việc và trọng tài quy chế. Với tính chất là hình thức giải quyết tranh chấp xuất phát từ sự thỏa thuận của
  • 24. 17 các bên trong tranh chấp do đó, việc tôn trọng tối đa sự thỏa thuận này dẫn đến việc cần phải có hai hình thức lựa chọn loại hình giải quyết tranh chấp do các bên lựa chọn. Thứ sáu, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài còn thể hiện ở việc phán quyết do Hội đồng trọng tại ban hành mang tính chất chung thẩm. Theo đó, phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm và không thể kháng cáo trước bất kỳ cơ quan, tổ chức nào (trừ trường hợp rất đặc biệt liên quan đến hủy phán quyết trọng tài). Đặc điểm này giúp trọng tài có điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các tranh chấp thương mại. Điều này cũng cho thấy sự khác biệt về thẩm quyền của trọng tài thương mại và thẩm quyền của Tòa án. Trong trường hợp xét xử vụ án của Tòa án, sau khi đã ban hành bản án sơ thẩm thì bản án đó chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà còn có thời gian để các bên kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, với tính chất của trọng tài, cần một phương thức giải quyết tranh chấp nhanh, gọn đáp ứng được yêu cầu và lợi ích của các bên trong giải quyết tranh chấp nên quyết định, phán quyết của Hội đồng TTTM có giá trị chung thẩm luôn mà không bị xem xét lại ở một cấp xét xử khác. 1.2.2. Phân biệt thẩm quyền của Hội đồng trọng tài và thẩm quyền của Tòa án 1.2.2.1. Giống nhau Thứ nhất, về phạm vi và đối tượng. Theo quy định của pháp luật thương mại Việt Nam, "tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại" (điều 238 Luật Thương mại 2005). Như vậy, tranh chấp thương mại là những xung đột, bất đồng của chủ thể tiến hành hoạt động thương mại được thể hiện trên cơ sở các hợp đồng đã được xác lập giữa các bên. Tranh chấp thương mại phát sinh có thể là do một bên nào đó hoặc các bên ký kết hợp đồng không thực hiện đúng hợp đồng hay không thực hiện hợp đồng.
  • 25. 18 Trong rất nhiều phương thức giải quyết tranh chấp thương mại, nổi bật lên là phương thức giải quyết bằng trọng tài thương mại và phương thức giải quyết bằng Tòa án. Theo quy định của Luật TTTM năm 2010 thì trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại và tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài. Như vậy, trọng tài có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại. Tương tự như vậy, theo quy định tại Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Như vậy, có thể thấy phạm vi và đối tượng thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại và Tòa án có tính chất tương đồng với nhau. Thể hiện ở chỗ cả Tòa án và trọng tài thương mại đều có thẩm quyền giải quyết đối với các tranh chấp thương mại phát sinh từ hoạt động kinh doanh của các chủ thể. Thứ hai, về tính bắt buộc của phán quyết. Trong trường hợp các bên lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại hay bằng Tòa án một khi phán quyết của Hội đồng trọng tài hoặc phán quyết của Hội đồng xét xử đã được ban hành thì sẽ có giá trị bắt buộc thi hành. Điều này nhằm đảm bảo tính chất cưỡng chế của phán quyết, từ đó các bên mới lựa chọn một trong hai phương thức giải quyết tranh chấp thương mại này. 1.2.2.2. Khác nhau Thứ nhất, thẩm quyền của Tòa án là thẩm quyền đương nhiên trong việc giải quyết tranh chấp mà không cần các bên thỏa thuận trong hợp đồng như thỏa thuận trọng tài. Nếu các bên có tranh chấp thương mại thì bên bị vi phạm có quyền sử dụng quyền khởi kiện dân sự của mình để thực hiện việc khởi kiện ra Tòa án mà không cần bất kỳ nào sự cảnh báo, sự thỏa thuận hay
  • 26. 19 đồng ý của bên đối phương. Hình thức này mang tính chất đóng thể hiện thẩm quyền tài phán đương nhiên của Tòa án. Trong khi đó, hình thức giải quyết bằng trọng tài thương mại, và thẩm quyền của Hội đồng TTTM do các bên tranh chấp thỏa thuận với nhau và lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp là trọng tài thương mại. Theo đó, khi soạn thảo hợp đồng các bên có quyền thỏa thuận về điều khoản trọng tài trong hợp đồng và đồng ý trao cho trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này. Thẩm quyền này tạo cho các bên đương sự linh hoạt trong việc lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp là trọng tài mà không mang tính chất đóng như Tòa án. Thứ hai, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài mang tính chất phi nhà nước. Hội đồng trọng tài là một tổ chức tư nhân, độc lập với nhà nước và có chức năng giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn và trao cho. Nguồn kinh phí của trọng tài chính là tiền lệ phí trọng tài do các bên tham gia tranh chấp trả cho.Trọng tài là một loại hình tổ chức phi chính phủ (tổ chức xã hội nghề nghiệp), hoạt động theo pháp luật và quy chế trọng tài. Trọng tài là một thiết chế dân chủ trong giải quyết tranh chấp thương mại; trọng tài không chỉ góp phần tạo ra một đời sống dân chủ và tự do trong tư pháp, mà hơn thế nữa, trọng tài là người chia sẻ nhiệm vụ với nhà nước trong việc xóa bỏ các bất đồng trong xă hội, thể hiện cụ thể ở việc giải quyết các tranh chấp thương mại. Tính chất phi nhà nước của Hội đồng trọng tài cũng là một ưu điểm của trọng tài so với Tòa án quyết định tính độc lập của trọng tài trong hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại của trọng tài. Trái lại, Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tranh chấp bằng cách sử dụng quyền lực nhà nước. Đó là quyền lực tư pháp trong hệ thống các hệ thống quyền lực nhà nước. Toà án là cơ quan nhân danh nhà nước để giải quyết tranh chấp, do đó phản quyết của toà án được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Cơ quan thi hành án là một cơ quan
  • 27. 20 chuyên trách và có đầy đủ bộ máy, phương tiện để thi hành các bản án đã có hiệu lực pháp luật. Đăc điểm này được có thể coi là yếu tố hấp dẫn nhất khiến các bên tranh chấp thường tìm đến phương thức giải quyết tranh chấp tại toà án. Tính chất nhà nước trong hoạt động giải quyết tranh chấp của Tòa án có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Như vậy, giữa Tòa án và trọng tài có sự khác biệt rất rõ về tính chất pháp lý của mỗi loại cơ quan này. Tòa án là một cơ quan nhà nước nằm trong hệ thống cơ quan tư pháp. Trong quá trình tố tụng, Tòa án nhân danh Nhà nước để xem xét, xử lý vi phạm pháp luật nhằm duy trì trật tự công cộng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh. Trong khi đó, các trung tâm trọng tài đều tồn tại với tư cách là một tổ chức phi chính phủ, một tổ chức mang tính chất xã hội – nghề nghiệp. Tính phi chính phủ của trọng tài thương mại thể hiện ở chỗ, các trung tâm trọng tài không do Nhà nước quyết định thành lập mà do các trọng tài viên thỏa thuận xin phép Nhà nước để được thành lập, các trung tâm trọng tài thương mại không nằm trong cơ cấu thiết chế nào của bộ máy Nhà nước và cũng không phải là một cơ quan xét xử của Nhà nước mà là một tổ chức xã hội nghề nghiệp. Trọng tài được thành lập nhằm cung cấp cho các nhà kinh doanh một cơ chế giải quyết tranh chấp kinh doanh nhanh chóng, đơn giản, thuận tiện phù hợp với tâm lý của nhà doanh nghiệp. Chính sự khác biệt cơ bản này giữa Tòa án và trọng tài đã quyết định sự các sự khác biệt khác trong thủ tục tố tụng Tòa án và tố tụng trọng tài, ví dụ như tính chất, mục đích, trình tự, thủ tục,… Thứ ba, về quyền lựa chọn Hội đồng trọng tài. Theo quy định của Luật TTTM 2010 cũng nhưng Luật mẫu UNCITRAL thì một đặc trưng trong giải quyết tranh chấp bằng TTTM chính là việc các bên tham gia tranh chấp được thỏa thuận lựa chọn Hội đồng trọng tài. Theo đó, Hội đồng trọng tài trong trường hợp là 3 người thì bên khởi kiện sẽ chọn một trọng tài viên, bên bị kiện sẽ chọn một trọng tài viên, còn lại do Chủ tịch trung tâm trọng tài lựa
  • 28. 21 chọn. Ngược lại, trong trường hợp vụ việc được đưa ra xét xử bởi Tòa án thì Hội đồng xét xử sẽ được Chánh án Tòa án lựa chọn và phân công nhiệm vụ bằng quyết định và như vậy, các bên sẽ không có quyền lựa chọn người có thẩm quyền xét xử vụ việc của mình. Thứ tư, về thủ tục tố tụng. Thủ tục tố tụng Tòa án áp dụng cho các tranh chấp trong thương mại do Tòa án thực hiện được dựa trên nền tảng thủ tục tố tụng dân sự cùng với một số quy định đặc thù cho phù hợp với hoạt động kinh doanh, chẳng hạn như: về Hội đồng xét xử, về thời gian của các trình tự tố tụng. Thủ tục tố tụng của Tòa án bắt buộc phải tuân theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự cho nên đặc trưng của tố tụng Tòa án là các quy tắc thủ tục nghiêm ngặt, thường khá cứng nhắc. Trong khi đó, tố tụng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố thỏa thuận và tài phán. Cụ thể, thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và không thể có phán quyết thoát ly những yếu tố đã được thỏa thuận. Thủ tục tố tụng trọng tài mang tính linh hoạt cao. Các bên tùy ý tổ chức tố tụng bằng cách dẫn chiếu quy tắc tố tụng trọng tài sẵn có hoặc soạn thảo quy tắc riêng. Thứ năm, thẩm quyền ban hành phán quyết của trọng tài cũng như Tòa án. Theo quy định của Luật TTTM 2010 và theo thông lệ quốc tế phán quyết của Hội đồng trọng tài được thể hiện ở đặc trưng phán quyết đã được ban hành mang tính chất chung thẩm mà không bị xem xét lại ở cấp độ phúc thẩm. Đối với Tòa án thì phán quyết của Hội đồng xét xử ban hành thì sẽ không có hiệu lực pháp luật ngay mà có thể được xem xét lại bằng thủ tục xét xử phúc thẩm. Phán quyết của Hội đồng trọng tại mang tính chất chung thẩm bởi xuất phát từ đặc điểm của hình thức giải quyết tranh chấp này là hình thức giải quyết nhằm đáp ứng nhu cầu nhanh, và phù hợp với thực tế tranh chấp thương mại của các bên. Chính vì vậy không cần phải xem xét nhiều lần đối với các phán quyết này bởi lẽ điều đó sẽ dẫn đến tính chất cấp thiết của hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể bị xâm phạm. Trong khi đó, phán
  • 29. 22 quyết của Tòa án nhằm đảm bảo tính chính xác, tính khắc phục những sai sót trong phán quyết của Hội đồng xét xử. Thứ sáu, sự khác biệt về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài so với thẩm quyền của Hội đồng xét xử ở vấn đề thành lập và hoạt động của các Hội đồng này. Hội đồng trọng tài được thành lập do sự thỏa thuận của các bên trao cho quyền trong quá trình thực hiện thẩm quyền tài phán, số lượng trọng tài viên có thể linh hoạt do các bên thỏa thuận với nhau. Theo quy định của Luật TTTM 2010 thành phần Hội đồng trọng tài có thể bao gồm một hoặc nhiều Trọng tài viên theo sự thỏa thuận của các bên. Trường hợp các bên không có thoả thuận về số lượng Trọng tài viên thì Hội đồng trọng tài bao gồm ba Trọng tài viên. Về thẩm quyền và thành viên của Hội đồng xét xử của Tòa án lại do Luật tố tụng dân sự quy định và có quy định mang tính chất đóng về vấn đề này. Theo đó, số lượng thành viên Hội đồng xét xử là 3 người (1 thẩm phán và 2 hội thẩm) hoặc 5 người (2 thẩm phán và 3 hội thẩm)... Trên đây là những điểm khác biệt cơ bản giữa thẩm quyền của Hội đồng trọng tài và thẩm quyền của Tòa án. Nhìn từ một khía cạnh khác, có thể thấy rằng, một sự lựa chọn chủ yếu thay thế cho Trọng tài là đưa vụ tranh chấp ra trước Tòa án. Thực ra nếu các bên mong muốn một tranh chấp được giải quyết theo một cách thức có tính ràng buộc, họ nên đưa vụ tranh chấp ra trước Tòa án, hơn là tới một Hội đồng trọng tài có thẩm quyền riêng. Vậy tại sao các bên trong một vụ tranh chấp thương mại quốc tế lại chọn đưa ra trọng tài thay vì đưa ra Tòa án và tại sao trọng tài được thành lập khắp nơi trên thế giới như là một phương thức hữu hiệu giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế? Có hai lý do chủ yếu: Thứ nhất, trọng tài tạo cho các bên cơ hội lựa chọn một diễn đàn trung lập và một Hội đồng trọng tài trung lập; Thứ hai, trọng tài nếu đi đến cùng sẽ dẫn đến một phán quyết có hiệu lực thi hành đối với bên thua kiên không chỉ ở nơi phán quyết trọng tài được tuyên mà cả ở
  • 30. 23 trên bình diện quốc tế, theo các quy định của các điều ước quốc tế như Công ước New York 1958 (UNCITRAL). 1.3. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài theo luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại Trên nền tảng của Công ước New York 1958, Uỷ ban Luật Thương mại quốc tế của Liên Hiệp quốc (UN Commission on International Trade Law: UNCITRAL) mong muốn phán quyết của một toà án trọng tài, dù hoạt động trọng tài đó tiến hành ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, đều được các quốc gia thành viên Liên Hiệp quốc chấp nhận một cách toàn vẹn. Xuất phát từ ý chí đó, UNCITRAL đưa ra một khuôn mẫu về hoạt động trọng tài thương mại có thể áp dụng cho mọi quốc gia dưới hình thức một Bộ luật mẫu (Model Law) về trọng tài thương mại có tính cách khuyến nghị các quốc gia trên thế giới áp dụng để san bằng mọi sự khác biệt về luật trọng tài thương mại nhưng vẫn hướng đến một sự cân bằng thoả đáng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên tranh chấp, duy trì sự tôn trọng uy quyền quốc gia Năm 1985, UNCITRAL đưa ra bản dự thảo Luật Mẫu về Trọng tài Thương mại quốc tế (UNCITRAL Model Law 1985). Bản dự thảo Luật mẫu 1985 tìm kiếm một sự cân bằng thoả đáng về quyền và nghĩa vụ giữa ý chí của các bên tranh chấp cũng như các nguyên tắc mà họ tự nguyện chấp hành. Mặc khác, Luật mẫu 1985 cũng duy trì sự tôn trọng quyền của quốc gia nơi tiến hành giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài và cả quốc gia nơi phán quyết được thi hành. Với chủ trương như vậy, Luật mẫu UNCITRAL 1985 là một bộ luật khung bao gồm những điều khoản gợi ý và những nguyên tắc pháp lý mang tính thoả thuận tôn trọng vai trò của Luật pháp quốc gia tương ứng với hoạt động trọng tài thương mại quốc tế. Bởi Luật Mẫu không có tính cách ràng buộc thi hành đối với các quốc gia đây chỉ là một Bản thoả thuận nguyên tắc mà Tổ chức Liên Hiệp Quốc
  • 31. 24 bảo trợ. Điều này cho ta hiểu Luật Mẫu là một hình thức Thoả ước lập pháp tính cách khuyến nghị áp dụng. Tinh thần của Luật mẫu UNCITRAL được thể hiện ở một số nguyên tắc mang tính chất định chế sau: Sự độc lập của hoạt động trọng tài: Điều 5 của Luật mẫu UNCITRAL minh định: “Những vấn đề chi phối bởi Luật này, không một Toà án nào được can thiệp ngoại trừ Toà án đã được luật này cho phép”. Luật mẫu UNCITRAL yêu cầu hệ thống toà án tư pháp của các quốc gia phải từ chối thụ lý vụ tranh chấp nếu đã và sẽ có một Thoả ước Trọng tài giữa các bên tranh chấp, hoặc phải thông báo cho các bên tranh chấp biết được tinh thần của Luật mẫu UNCITRAL về sự từ chối thụ lý của Toà án. Toà án tư pháp chỉ can thiệp trong trường hợp một thoả ước trọng tài bị vô hiệu tuyệt đối (tức là trường hợp một thoả ước trọng tài vi phạm những quy định về nội dung và vi phạm những quy định về hình thức; hoặc không có khả năng thi hành. Thẩm quyền hạn chế của Toà án tư pháp quốc gia sở tại: Luật mẫu UNCITRAL cho phép các toà án tư pháp quốc gia hoặc các cơ quan có thẩm quyền theo pháp chế của nước sở tại có thể can thiệp vào hoạt động trọng tài với mục đích hỗ trợ và giám sát quá trình tiến hành tố tụng trọng tài ở một mức độ hạn chế tối đa trong những trường hợp đặc biệt. Chẳng hạn, Toà án chỉ có thể chỉ định Trọng tài viên khi các bên tranh chấp không thống nhất về việc chọn trọng tài viên, hoặc quyết định việc khước từ quyền xét xử của một trọng tài viên (còn gọi là hồi tỵ - challenge) cũng như quyết định về việc khước từ quyền xét xử của toàn bộ Hội đồng trọng tài [22]. Toà án tư pháp cũng có thể hỗ trợ bằng cách thực hiện những biện pháp bảo vệ tạm thời hoặc thu thập chứng cứ. Đặc biệt, Toà án chỉ có thể có thẩm quyền rất hạn chế trong việc ra tuyên bố huỷ bỏ một phán quyết trọng tài theo đơn yêu cầu của một bên tranh chấp với điều kiện: phù hợp với quy định của Luật mẫu UNCITRAL; và, phù
  • 32. 25 hợp với Công ước New York năm 1958. Toà án cũng có thể từ chối việc thừa nhận một phán quyết trọng tài hoặc không cho thi hành một phán quyết trọng tài với những điều kiện tương tự vừa kể trên [22]. Về thẩm quyền của trọng tài thương mại theo quy định của Luật mẫu UNCITRAL về trọng tài thương mại thì Trọng tài ‟là bất cứ hình thức trọng tài được hoặc không được quản lý bởi một tổ chức trọng tài thường trực; ‟Hội đồng trọng tài” là trọng tài viên duy nhất hoặc các trọng tài viên. Việc thành lập Hội đồng trọng tài do các bên tự thỏa thuận với nhau, và số lượng thành viên Hội đồng trọng tài do các bên tự do quyết định về số lượng còn nếu không tự quyết định thì số lượng trọng tài viên sẽ là 3 người. Quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài được quy định trong Luật mẫu UNCITRAL. Tại quy định của Điều 16 của Luật mẫu, theo đó: Thứ nhất, Hội đồng trọng tài có thể quy định về thẩm quyền xét xử của chính mình, kể cả những ý kiến phản đối về sự tồn tại hoặc giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài. Vì mục đích này, điều khoản trọng tài trở tạo nên một phần của hợp đồng được coi là thoả thuận độc lập với các điều khoản khác của hợp đồng. Quyết định của Hội đồng trọng tài về hợp đồng bị vô hiệu không làm cho điều khoản trọng tài bị vô hiệu theo. Cách thức quy định như trên cho thấy thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong trường hợp giải quyết tranh chấp thương mại. Quy định trên cũng tương tự như pháp luật một số quốc gia trên thế giới về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Một nguyên tắc căn bản trong luật trọng tài các nước trên thế giới là Hội đồng trọng tài có thể tự quyết định thẩm quyền của mình (competence-competence). Điều này có nghĩa là nếu một bên có khiếu nại về việc vụ tranh chấp hoặc một khía cạnh nào đó trong vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu, việc này trước hết sẽ do Hội đồng trọng tài quyết định. Một số nước như Pháp, Thụy Sĩ, Ấn độ quy định rằng quyết định của
  • 33. 26 Hội đồng trọng tài trong việc này là chung thẩm và các bên không được quyền kháng cáo lên Tòa án. Tuy nhiên luật một số nước khác như Đức, kể cả Luật mẫu UNCITRAL lại quy định các bên được quyền kháng cáo vấn đề này lên Tòa án và Tòa án mới là cơ quan cuối cùng quyết định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Thứ hai, Ðơn yêu cầu về việc Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền sẽ phải đưa ra không muộn hơn với việc nộp bản biện hộ. Một bên không thể ngăn cản việc đưa ra đơn yêu cầu như vậy chỉ vì anh ta đã được chỉ định làm trọng tài viên hoặc tham gia việc chỉ định trọng tài viên. Ðơn yêu cầu về việc Hội đồng trọng tài vượt quá thẩm quyền phải được đưa ra ngay khi nhận thấy sự kiện được cho là vượt quá thẩm quyền của hôi đồng trọng tài nảy sinh trong quá trình tố tụng trọng tài. Trong cả hai trường hợp này, Hội đồng trọng tài có thể chấp nhận đơn yêu cầu sau nếu Hội đồng xét thấy sự trì hoãn này là hợp lý. Thứ ba, Hội đồng trọng tài có thể quyết định về đơn yêu cầu được nêu ra ở khoản 2 của Điều 16 như là vấn đề mở đầu hoặc giải quyết tại phán quyết về nội dung tranh chấp. Nếu Hội đồng trọng tài giải quyết như là một vấn đề mở đầu là Hội đồng có thẩm quyền xét xử, thì trong vòng 30 ngày sau khi nhận được thông báo về quyết định này, bất kỳ bên nào cũng có thể đề nghị toà án được xác định tại Điều 6 quyết định vấn đề này, quyết định này không bị kháng án; trong khi yêu cầu đó đang chờ giải quyết thì Hội đồng trọng tài vẫn có thể tiếp tục tiến hành quá trình tố tụng và đưa ra phán quyết. Thứ tư, quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong việc đưa ra phán quyết. Hội đồng trọng tài quyết định tranh chấp theo pháp luật do các bên lựa chọn và phù hợp với nội dung tranh chấp. Trừ khi các bên thoả thuận rõ ràng về việc lựa chọn pháp luật, việc lựa chọn phát luật hoặc hệ thống pháp luật của một nước nhất định cần phải được giải thích theo hướng dẫn chiếu trực tiếp tới pháp luật nội dung của quốc gia đó và không dẫn chiếu đến
  • 34. 27 nguyên tắc xung đột luật của nước này. Nếu các bên không lựa chọn được, Hội đồng trọng tài sẽ áp dụng luật dựa trên nguyên tắc xung đột luật mà Hội đồng trọng tài cho là thích hợp. Hội đồng trọng tài quyết định trên nguyên tắc công bằng hoặc tính hợp lý chỉ khi các bên có sự ủy quyền một cách rõ ràng; Trong mọi trường hợp, Hội đồng trọng tài quyết định dựa vào các điều khoản của hợp đồng và tính đến tập quán thương mại phù hợp với giao dịch đó. Trong tố tụng trọng tài gồm nhiều trọng tài viên, nếu các bên không có thoả thuận nào khác, quyết định của Hội đồng trọng tài được đưa ra theo nguyên tắc đa số của các thành viên trong Hội đồng. Tuy nhiên, nếu được các bên và các thành viên khác của Hội đồng trọng tài ủy quyền, các vấn đề về tố tụng do trọng tài viên chủ toạ quyết định. Quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong Luật mẫu UNCITRAL ta thấy ưu điểm của các quy định này ở các điểm sau: Luật mẫu UNCITRAL đã có ưu điểm là cho phép bên tranh chấp được toàn quyền lựa chọn pháp luật để áp dụng vào quá trình giải quyết tranh chấp. Theo Luật mẫu UNCITRAL thì các bên được quyền tự do lựa chọn luật để áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp; luật để áp dụng có thể bao gồm cả luật của nước ngoài (khoản 1 và khoản 2, Điều 28 Luật mẫu UNCITRAL). Điều này cũng tương tự như pháp luật một số nước trên thế giới về việc cho phép các bên lựa chọn luật để giải quyết tranh chấp, ví dụ: Điều 28 Luật Trọng tài Cộng hòa Liên bang Nga cũng có quy định: "Hội đồng trọng tài sẽ giải quyết tranh chấp theo quy định pháp luật do các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp". Việc cho phép các bên tranh chấp được tự do lựa chọn pháp luật để áp dụng vào việc giải quyết tranh chấp của mình cũng được ghi nhận tại Điều 32 Luật Trọng tài Singapore, Điều 28 Luật Trọng tài Canada [17] ... Một quy định mang tính chất tiến bộ khác của Luật mẫu về trọng tài thương mại của UNCITRAL đó là quy định về thẩm quyền của Hội đồng
  • 35. 28 trọng tài được quy định về thẩm quyền xét xử của chính mình. Theo Điều 16 của Luật mẫu quy định: ‟Hội đồng trọng tài có thể quy định về thẩm quyền xét xử của chính mình, kể cả những ý kiến phản đối về sự tồn tại hoặc giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài. Vì mục đích này, điều khoản trọng tài trở tạo nên một phần của hợp đồng được coi là thoả thuận độc lập với các điều khoản khác của hợp đồng. Quyết định của Hội đồng trọng tài về hợp đồng bị vô hiệu không làm cho điều khoản trọng tài bị vô hiệu theo.” [19] Quy định này góp phần quan trọng vào việc nâng cao tính độc lập, chủ động của Hội đồng trọng tài trong quá trình giải quyết vụ việc tranh chấp. Đồng thời cho thấy một giải pháp rất linh hoạt về quy trình tố tụng trọng tài do Luật mẫu UNCITRAL đưa ra đối với các bên. Nghiên cứu quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài một số nước có thể thấy các vấn đề chủ yếu sau: Thứ nhất, về thành viên của Hội đồng TTTM, được các nước quy định rất chặt chẽ nhằm đảm bảo cho hoạt động của trọng tài thương mại trong quá trình giải quyết tranh chấp. Theo đó, Hội đồng trọng tài bao gồm các trọng tài viên. Vì thế dường như một điều quan trong là trước hết cần phải quy định những ai có thể làm trọng tài viên. Tuy nhiên, trên thực tế, rất ít các nước quy định về tư cách, trình độ, bằng cấp hoặc các tiêu chuẩn khác của trọng tài viên. Luật mẫu UNCITRAL không hề có quy định này. Luật của Anh cũng không có. Luật của Pháp chỉ quy định chung là chỉ những người có đủ quyền công dân mới được làm trọng tài viên [17]. Điều này phản ánh việc luật pháp các nước hoàn toàn để cho các bên đương sự có toàn quyền chọn trọng tài viên các bên thấy thích hợp, bất kể quốc tịch, bằng cấp, trình độ, v.v. Miễn là các bên thấy tin tưởng là người đó có thể làm một trọng tài viên tốt và công minh. Điều này xuất phát từ lịch sử của ngành trọng tài là các bên muốn giải quyết tranh chấp thông qua một bên thứ ba một cách hiệu quả nhất, nhanh chóng nhất. Quốc tịch, trình độ, bằng cấp, chuyên môn của người thứ ba này
  • 36. 29 tùy thuộc vào từng vụ việc và khó có thể quy định cứng nhắc. Vì thế, luật pháp các nước ít quy định về tiêu chuẩn trọng tài viên và việc chọn trọng tài viên là hoàn toàn do các bên quyết định. (Cần phân biệt việc này với việc các trung tâm trọng tài quy định hoặc bản thân các bên đương sự có thể thỏa thuận các tiêu chuẩn riêng cho trọng tài viên của họ để bảo đảm uy tín, chất lượng v.v. Nhưng đó là việc riêng của từng trung tâm và của các bên, không phải là quy định bắt buộc của pháp luật). Bên cạnh đó, một số nước như Trung Quốc có quy định cụ thể về tiêu chuẩn trọng tài viên, ví dụ phải có bằng luật hoặc đã có kinh nghiệm thâm niên trong các ngành kinh tế, thương mại v.v [17]. Tuy nhiên, ít có nước nào khác quy định cụ thể như vậy. Về vấn đề số lượng trọng tài viên trong Hội đồng trọng tài. Một Hội đồng trọng tài có thể bao gồm một thành viên, hai thành viên, ba thành viên hoặc nhiều hơn nữa, hoàn toàn do các bên thỏa thuận. Luật mẫu UNCITRAL và luật một số nước như Đức, đưa ra con số mặc định là ba, áp dụng trong trường hợp các bên không có thỏa thuận [17]. Một số nước như Anh lại quy định con số mặc định là một [17]. Ngoài ra, luật của Anh còn quy định thêm rằng trong trường hợp các bên thỏa thuận là có 2 trọng tài viên, thì trừ khi các bên có thỏa thuận khác, cần phải chỉ định thêm một người làm chủ tịch. Về phương thức chỉ định trọng tài viên. Về vấn đề này luật các nước đều khá thống nhất. Về căn bản, các bên được quyền thỏa thuận phương thức lựa chọn trọng tài viên. Thông thường, với một Hội đồng trọng tài gồm 3 thành viên, mỗi bên sẽ chỉ định một trọng tài viên và hai trọng tài viên đó sẽ chỉ định người thứ ba làm chủ tịch Hội đồng trọng tài. Trong trường hợp các bên không lựa chọn trọng tài viên hoặc hai trọng tài viên do hai bên lựa chọn không thỏa thuận được chủ tịch Hội đồng trọng tài thì quyền chỉ định sẽ thuộc về một bên thứ ba thường do các bên thỏa thuận trước (thường là một trung tâm trọng tài, đặc biệt là khi tiến hành tố tụng trọng tài tại trung
  • 37. 30 tâm đó) hoặc nếu không có thỏa thuận thì việc chỉ định sẽ do Tòa án có thẩm quyền của nước sở tại thực hiện [17]. Ngoài ra, luật của một số nước có thể tạo cơ chế thuận lợi hơn cho một bên khi bên kia không hợp tác trong việc chỉ định trọng tài viên. Theo Luật Trọng tài của Anh, nếu các bên đã thỏa thuận trước là Hội đồng trọng tài sẽ bao gồm 3 thành viên và một bên không chịu chỉ định trọng tài viên của mình, bên kia có thể đề nghị chỉ định trọng tài viên của mình là trọng tài viên duy nhất. Phán quyết của trọng tài viên duy nhất này sẽ có hiệu lực như thể các bên đã thỏa thuận Hội đồng trọng tài chỉ bao gồm một trọng tài viên duy nhất mà thôi [17]. Về vấn đề bãi miễn trọng tài viên. Luật trọng tài các nước thường quy định rằng trọng tài viên sau khi được chỉ định thì sẽ phải cung cấp các thông tin về các khả năng khiến cho trọng tài viên có thể không vô tư khách quan trong việc xét xử tranh chấp [17]. Nếu một bên không đồng ý với việc chỉ định một trọng tài viên (thường là do bên kia chỉ định) trên cơ sở trọng tài viên đó không vô tư khách quan hoặc có thể trên cơ sở trọng tài viên đó không thỏa mãn yêu cầu về trình độ, bằng cấp, chuyên môn do các bên đã thỏa thuận, luật trọng tài các nước thường quy định một thủ tục cho bên đó có thể yêu cầu bãi miễn trọng tài viên đó. Nguyên tắc căn bản vẫn là tôn trọng sự thỏa thuận của các bên. Nếu một bên phản đối việc chỉ định trọng tài viên của bên kia và bên kia đồng ý với việc đó, thì trọng tài viên đó sẽ bị bãi miễn. Ngoài ra, trọng tài viên đó cũng có thể tự nguyện rút lui nếu đồng ý với lý do của bên phản đối. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận và trọng tài viên không đồng ý rút lui, bên phản đối trọng tài viên có thể yêu cầu Hội đồng trọng tài hoặc sau đó là Tòa án xem xét vấn đề này. Quyết định của Tòa án sẽ là chung thẩm [17]. Thứ hai, về thẩm quyền của Hội đồng TTTM theo pháp luật một số quốc gia được quy định tương đối linh hoạt.
  • 38. 31 Về vấn đề quyền của Hội đồng trọng tài tự quyết thẩm quyền của mình. Một nguyên tắc căn bản trong luật trọng tài các nước trên thế giới là Hội đồng trọng tài có thể tự quyết định thẩm quyền của mình (competence- competence). Điều này có nghĩa là nếu một bên có khiếu nại về việc vụ tranh chấp hoặc một khía cạnh nào đó trong vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu, việc này trước hết sẽ do Hội đồng trọng tài quyết định. Một số nước như Pháp, Thụy Sĩ, Ấn độ quy định rằng quyết định của Hội đồng trọng tài trong việc này là chung thẩm và các bên không được quyền kháng cáo lên Tòa án [17]. Tuy nhiên luật một số nước khác như Đức, kể cả Luật mẫu UNCITRAL lại quy định các bên được quyền kháng cáo vấn đề này lên Tòa án và Tòa án mới là cơ quan cuối cùng quyết định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài [17]. Về quyền của Hội đồng trọng tài áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Luật trọng tài của các nước thường cho phép Hội đồng trọng tài có quyền, theo yêu cầu của một bên, quyết định việc áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các bên nhằm bảo toàn chứng cứ, tài sản phục vụ việc giải quyết tranh chấp và thi hành phán quyết sau này. Một biện pháp tạm thời là bất kỳ một biện pháp lâm thời nào, cho dù dưới hình thức một quyết định hay dưới một hình thức khác, bằng cách, vào bất kỳ thời điểm nào trước khi ra một quyết định trọng tài mà tranh chấp được giải quyết cuối cùng, Hội đồng trọng tài buộc một bên phải: Duy trì hoặc khôi phục tình trạng hiện tại cho tới khi ra phán quyết về tranh chấp; Thực hiện hành vi mà sẽ ngăn chặn, hoặc không thực hiện hành vi mà có thể gây ra, thiệt hại ngay hoặc sẽ xảy ra cho tố tụng trọng tài; Thực hiện biện pháp bảo quản tài sản để một quyết định trọng tài sau đó có thể được thực hiện; hoặc Bảo quản chứng cứ mà có thể liên quan và cần thiết cho việc giải quyết tranh chấp.
  • 39. 32 Quy định này tương tự như quy định trong Luật Trọng tài một số quốc gia trên thế giới. Có thể kể đến như Luật trọng tài của các nước thường cho phép Hội đồng trọng tài có quyền, theo yêu cầu của một bên, quyết định việc áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các bên nhằm bảo toàn chứng cứ, tài sản phục vụ việc giải quyết tranh chấp và thi hành phán quyết sau này. Cụ thể, trong Luật mẫu UNCITRAL, Hội đồng trọng tài có thẩm quyền yêu cầu một bên bảo toàn hiện trạng tranh chấp, không tẩu tán tài sản, giữ nguyên chứng cứ v.v. Tuy nhiên, bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng phải chứng minh được với Hội đồng trọng tài rằng việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là cần thiết và bên yêu cầu này cũng có thể phải đưa ra các bảo đảm ký quỹ để bảo đảm bên bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ không bị thiệt hại [17]. Song song với việc Hội đồng trọng tài có thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Tòa án có thẩm quyền của nước sở tại cũng có thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của một bên.
  • 40. 33 Chương 2 CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THẨM QUYỀN CỦA HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH 2.1. Các quy định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thương mại giai đoạn trước Luật Trọng tài thương mại năm 2010 2.1.1. Giai đoạn trước khi có Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 Về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trước năm 2003 có thể được chia thành hai giai đoạn nhỏ. Giai đoạn trước năm 1994 trở về trước và giai đoạn từ 1994 đến năm 2003. - Giai đoạn trước năm 1994. Thẩm quyền của Hội đồng TTTM được thể hiện thông qua các cơ quan trọng tài kinh tế và trọng tài phi nhà nước được thành lập từ năm 1960. Cơ quan trọng tài đầu tiên ở Việt Nam là hệ thống trọng tài nhà nước được thành lập theo nghị định số 04/TTg ngày 1/4/1960 của Thủ tướng nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Một nghị định khác ban hành ngày 14/1/1960 quy định về nguyên tắc hoạt động của trọng tài nhà nước là thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp kinh tế vừa thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với công tác hợp đồng kinh tế. Từ hai chức năng đó ta có thể thấy, trọng tài kinh tế nhà nước vừa là cơ quan xét xử, vừa là cơ quan quản lý nhà nước. Là cơ quan quản lý nhà nước đương nhiên trọng tài kinh tế nhà nước phải thi hành mệnh lệnh của nhà nước và bản thân trọng tài kinh tế nhà nước cũng có quyền ra mệnh lệnh hành chính đối với các đối tượng có liên quan nằm trong phạm vi điều chỉnh của pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Chính xuất phát từ địa vị pháp lý đặc biệt như vậy mà trong thủ tục xét xử tranh chấp hợp đồng kinh tế và thủ tục xử lý vi phạm pháp luật hợp đồng kinh tế của trọng tài kinh tế là sự đan xen giữa tố tụng tư pháp với thủ tục hành chính.
  • 41. 34 Trọng tài kinh tế nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân cấp quản lý hành chính: ở mỗi cấp quản lý hành chính đều thành lập cơ quan trọng tài kinh tế. Hệ thống tổ chức gồm trọng tài kinh tế nhà nước, trọng tài kinh tế tỉnh, thành phố; trọng tài kinh tế huyện, quận và cấp tương đương. Trọng tài kinh tế nhà nước chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Hội đồng bộ trưởng, trọng tài kinh tế các cấp chịu sự lãnh đạo của ủy ban nhân dân cùng cấp đồng thời chịu sự chỉ đạo giám sát của trọng tài kinh tế cấp trên. Trọng tài kinh tế nhà nước ở cấp trung ương gồm có chủ tịch, một hoặc hai phó chủ tịch và các trọng tài viên. Chủ tịch trọng tài kinh tế nhà nước do chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng chính phủ) bổ nhiệm và miễn nhiệm. Các phó chủ tịch và các trọng tài viên cũng do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng bổ nhiệm trên cơ sở được Chủ tịch trọng tài kinh tế Nhà nước giới thiệu. Các cơ quan trọng tài kinh tế cấp dưới cũng có cơ cấu tương tự như vậy. Trọng tài viên có nhiệm vụ giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm pháp luật hợp đồng kinh tế. Các bên tranh chấp hoàn toàn không có vai trò gì trong việc chỉ định trọng tài viên để xét xử vụ việc bởi vì việc đó thuộc quyền hạn của Chủ tịch trọng tài kinh tế có liên quan. Đây là điểm khác biệt rất cơ bản của trọng tài nhà nước so với trọng tài phi chính phủ (các bên tranh chấp có quyền tự do hoàn toàn định đoạt các vấn đề trọng tài trong đó có quyền chỉ định trọng tài viên). Trọng tài nhà nước là các viên chức nhà nước và họ hưởng lương của nhà nước. Còn đối với trọng tài phi chính phủ thì các bên tranh chấp có nghĩa vụ phải trả thù lao cho hoạt động của các trọng tài viên. Khi xét xử, các trọng tài viên của cơ quan trọng nhà nước hoạt động thay mặt nhà nước chứ không phải chỉ với tư cách là người phân giải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và yêu cầu của các bên. Chính vì vậy mà theo điều 10 của pháp lệnh trọng tài kinh tế, tiêu chuẩn mà trọng tài viên cần có trước tiên là "phẩm chất chính trị, liêm khiết công minh", rồi sau đó mới là "có kiến thức pháp lý và quản lý kinh tế cần thiết". Với quy định như vậy, việc giải quyết tranh chấp khó có thể công bằng và có hiệu quả.
  • 42. 35 Điều 2 Pháp lệnh trọng tài kinh tế của Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 10/01/1990 quy định nhiệm vụ và quyền hạn của trọng tài kinh tế nhà nước như sau: Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế; Kiểm tra, kết luận và xử lý các hợp đồng kinh tế trái pháp luật; Tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện pháp luật hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế; Bồi dưỡng nghiệp vụ công tác hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế. Cùng một lúc, trọng tài kinh tế nhà nước vừa thực hiện chức năng quản lý các doanh nghiệp nhà nước, vừa giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau. Do đó, dù với tư cách là một tổ chức trọng tài hay với tư cách là một cơ quan hành chính. Trọng tài kinh tế nhà nước khó có thể hoạt động hiệu quả vì nó phải đảm đương cùng một lúc hai trách nhiệm. Nói tóm lại, trọng tài kinh tế nhà nước là một hình thức pha trộn của trọng tài và cơ quan hành chính vì nó không hẳn là trọng tài như ở các nước và cũng không hẳn là toà án. Một tổ chức trọng tài như vậy chỉ có thể phù hợp với nền kinh tế tập trung mệnh lệnh [8]. Đối với trọng tài phi nhà nước, tồn tại hai mô hình khác nhau. Mô hình thứ nhất ra đời từ năm 1963 bằng Nghị định số 59/CP ngày 30/4/1963 của Hội đồng Chính phủ về việc thành lập Hội đồng Trọng tài ngoại thương. Tiếp sau đó, ngày 05/10/1964, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 153/CP về việc thành lập Hội đồng Trọng tài hàng hải. Đến ngày 28/4/1993, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 204/TTg về việc thành lập Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở hợp nhất Hội đồng Trọng tài ngoại thương và Hội đồng Trọng tài thương mại hàng hải. Mô hình trọng tài thứ hai là các trung tâm trọng tài kinh tế được thành lập theo Nghị định số 116/CP ngày 05/09/1994 của Chính phủ. Có 05 trung tâm trọng tài được thành lập theo Nghị định này (02 Trung tâm tại thành phố Hà Nội, 01 Trung tâm tại thành
  • 43. 36 phố Hồ Chí Minh, 01 Trung tâm tại Cần Thơ và 01 Trung tâm tại Bắc Giang) [7, tr.30-35]. - Giai đoạn từ sau năm 1993 đến năm 2003. Từ năm 1986 nhà nước Việt Nam chủ trương chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang một nền kinh tế nhiều thành phần vận thành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bước ngoặt đó đã dẫn đến một loạt cải cách trong nền kinh tế. Trong đó đáng chú ý là chủ trương bình đẳng giữa các thành phần trong nền kinh tế, khuyến khích và phát triển kinh tế tư nhân; phát triển đầu tư trong nước và khuyến khích đầu tư nước ngoài, phát triển đa dạng hoá các quan hệ kinh tế quốc tế... Như vậy, bên cạnh số lượng lớn các doanh nghiệp nhà nước, số lượng các công ty doanh nghiệp tư nhân cũng ngày một gia tăng. Vấn đề đặt ra là phải cải tạo được một môi trường dân chủ và công bằng cho tất cả các thành phần trong nền kinh tế. Điều đó không chỉ có nghĩa là cần phải có một cơ chế pháp lý thích hợp để bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp tư nhân cũng như các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra, với chính sách mở cửa khuyến khích đầu tư nước ngoài, thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là các nước phương tây cũng làm đa dạng hoá các mối quan hệ thương mại. Do những bất cập trong cơ chế của mình, cùng với những thay đổi của đời sống kinh tế xã hội, hiện nay trọng tài kinh tế nhà nước không còn tồn tại nữa. Sau khi trọng tài kinh tế nhà nước bị giải thể năm 1994, theo nghị định 116 - CP của chính phủ, các trung tâm trọng tài kinh tế đã và sẽ được thành lập. Tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế do Điều lệ quyết định. Mặc dù mang tính chất là các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các trung tâm trọng tài kinh tế vẫn chịu sự quản lý trực tiếp của nhà nước về vấn đề xét đơn xin thành lập trung tâm, chỉ định Hội đồng tuyển chọn trọng tài viên, cấp và thu hồi thẻ trọng tài viên... Việt Nam trong giai đoạn này có một số trung tâm trọng tài kinh tế hoạt động, tiêu biểu như: Trung tâm trọng tài kinh tế Bắc Giang (tỉnh