SlideShare a Scribd company logo
1 of 122
Download to read offline
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHAN BÁ BẢY
NGUY£N T¾C THÈM PH¸N
Vµ HéI THÈM XÐT Xö §éC LËP Vµ CHØ TU¢N THEO PH¸P LUËT
THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHAN BÁ BẢY
NGUY£N T¾C THÈM PH¸N
Vµ HéI THÈM XÐT Xö §éC LËP Vµ CHØ TU¢N THEO PH¸P LUËT
THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUÂN
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn chƣa từng đƣợc ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Phan Bá Bảy
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC THẨM
PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN
THEO PHÁP LUẬT THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM.................................................................................................7
1.1. Khái niệm nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật.......................................................... 7
1.2. Nội dung nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật........................................................ 13
1.2.1. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập ............................................ 14
1.2.2. Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật ............. 21
1.2.3. Mối quan hệ giữa độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt
động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm ......................................... 25
1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật........................................................ 28
1.4. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật trong mối liên hệ với các nguyên tắc
khác trong luật tố tụng hình sự...................................................... 30
1.4.1. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật trong mối liên hệ với nguyên tắc bảo đảm sự vô
tƣ của những ngƣời tiến hành hoặc ngƣời tham gia tố tụng ............. 30
1.4.2. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật trong mối liên hệ với nguyên tắc suy đoán vô tội ..... 32
1.4.3. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật trong mối liên hệ với nguyên tắc xác định sự thật
của vụ án............................................................................................ 33
1.4.4. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật trong mối liên hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trƣớc Toà án ............................................................................... 34
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 35
Chương 2: NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ
ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT THEO QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI
ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK.....................................................................36
2.1. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật theo quy định pháp luật ............................... 36
2.2. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ...... 47
2.2.1. Tình hình xét xử trong những năm gần đây (2009 – 2014) .............. 47
2.2.2. Những hạn chế trong việc tuân thủ nguyên tắc Thẩm phán và
Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật tại Đắk Lắk...... 48
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc tuân thủ nguyên tắc
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật tại Đắk Lắk ................................................................................. 61
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 74
Chương 3: NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM
XÉTXỬ ĐỘCLẬP VÀCHỈTUÂNTHEO PHÁPLUẬT......................75
3.1. Những yêu cầu cải cách tư pháp về nguyên tắc Thẩm phán,
Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .................... 75
3.2. Những giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật........................................................................................... 83
3.2.1. Triển khai thực hiện Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa
án nhân dân năm 2014....................................................................... 83
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về đảm bảo hiệu quả áp
dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật ............................................................................ 89
3.2.3. Nâng cao trình độ chuyên môn của Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân để đảm bảo hiệu quả nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.......................................... 96
3.2.4. Giải pháp trau dồi đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán và Hội thẩm.. 100
3.2.5. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân.................................... 102
3.2.6. Các giải pháp khác .......................................................................... 104
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3.............................................................................. 107
KẾT LUẬN.................................................................................................. 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 111
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự
HĐXX: Hội đồng xét xử
PLHS: Pháp luật hình sự
TAND: Tòa án nhân dân
TTHS: Tố tụng hình sự
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Số vụ án hình sự đƣợc thụ lý và số bị cáo 47
Bảng 2.2: Số lƣợng vụ án hình sự đƣợc giải quyết 47
Bảng 2.3: Số lƣợng bị cáo đƣợc đƣa ra xét xử 47
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Xét xử là hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án, trong hệ thống cơ quan
Nhà nƣớc thì chỉ có Tòa án có quyền xét xử và quyết định một ngƣời có tội hay
không có tội. Việc xét xử của Tòa án phải dựa trên cơ sở pháp luật mới đảm bảo
tính khách quan, vô tƣ không bị phụ thuộc bởi bất kỳ tác động khách quan hay chủ
quan của cơ quan, tổ chức nào.
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật là một trong những nguyên tắc cơ bản để Tòa án thực hiện nhiệm vụ xét xử.
Thẩm phán và Hội thẩm có quyền đƣa ra phán quyết dựa trên cơ sở quy định của
pháp luật để giải quyết vụ án một cách khách quan chính xác mà không phải phụ
thuộc vào bất cứ một tác động nào khác. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật là một nguyên tắc hiến định, có lịch sử hình thành và phát
triển lâu dài. Nó đã đƣợc quy định từ Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959,
Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013; Các luật tổ
chức TAND năm 1960, 1981, 1992, 2002, 2014 và tại Điều 16 BLTTHS. Mặc dù
đã đƣợc quy định trong Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật khác nhƣng trên thực
tế việc áp dụng nguyên tắc này vẫn còn nhiều bất cập, chƣa thực sự đem lại hiệu
quả thiết thực trong quá trình Tòa án xét xử các vụ án hình sự. Để đáp ứng yêu cầu
đổi mới trong hoạt động xét xử, Đảng và Nhà nƣớc ta rất quan tâm và ban hành
nhiều chính sách, pháp luật, đề ra phƣơng hƣớng, mục tiêu và quy định cụ thể về
hoạt động xét xử của Tòa án. Cụ thể: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tƣ pháp trong thời
gian tới đã xác định:
Khi xét xử, các Tòa án phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình
đẳng trƣớc pháp luật, thực sự dân chủ khách quan; Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Việc phán quyết của Tòa án phải
căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét
đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của ngƣời bào
chữa, của bị cáo, nguyên đơn, bị đơn [3].
2
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lƣợc cải
cách tƣ pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ:
Hoạt động tƣ pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử đƣợc tiến
hành có hiệu quả và hiệu lực cao và đề ra yêu cầu: Đổi mới việc tổ chức
phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của
ngƣời tiến hành tố tụng và ngƣời tham gia tố tụng theo hƣớng bảo đảm
tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lƣợng tranh tụng tại
phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tƣ pháp [4].
Với lý do nêu trên, trƣớc yêu cầu của Đảng, Nhà nƣớc và thực tiễn trong việc
xét xử của Tòa án đảm bảo tính khách quan, độc lập, đúng pháp luật, tác giả luận
văn nhận thấy cần phải nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề về
lý luận và thực tiễn áp dụng đối với nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Để có điều kiện nghiên cứu, phân tích sâu và đƣa ra những yêu cầu, giải
pháp nhằm hoàn thiện về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật, tác giả luận văn chọn đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và
Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo luật TTHS Việt Nam
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk) làm đề tài nghiên cứu luận
văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật với tƣ cách là một nguyên tắc Hiến định, có thời gian tồn tại lâu dài trong suốt
thời gian 69 năm (từ Hiến pháp năm 1946). Từ đó đến nay, ở trong nƣớc đã có khá
nhiều nghiên cứu về nguyên tắc này nhƣ:
1. Nguyễn Thanh Sơn (1991), “Độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân”. Tạp chí Tòa án nhân dân.
2. Trần Ba (1996), “Nguyên tắc Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Luận văn thạc sỹ luật học.
3. Hoàng Thị Sơn (1996), Tìm hiểu nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” Tạp chí Luật học
3
4. Nguyễn Văn Hiện (1999), “Vấn đề giới hạn xét xử của TAND”, Tạp chí TAND.
5. Trần Văn Độ (2003), “Đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND”, Tạp chí
dân chủ và pháp luật.
6. GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, “Những bảo đảm cho nguyên tắc Tòa án
độc lập xét xử có hiệu lực thực tế”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp (2007).
7. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, “Một số yếu tố ảnh hưởng đến nguyên tắc
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Tạp
chí Nhà nƣớc và pháp luật số 2/2009.
8. TS.Nguyễn Đức Mai (2008), Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS
hiện hành nhằm nâng cao chất lƣợng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm, Tạp chí Luật
học số 7/2008.
9. Từ Thị Hải Dƣơng (2009), Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội.
10.TS. Nguyễn Văn Tuân, “Bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán trong hoạt
động xét xử”, Tạp chí dân chủ và pháp luật số chuyên đề tháng 01/2011.
11.Lƣu Tiến Dũng (2011), Những vấn đề về độc lập xét xử trong quá trình
xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện khoa
học xã hội, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
12.Lâm Thị Thanh Nhàn (2014), Hoàn thiện pháp luật về quy định nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán nhằm nâng cao chất lượng xét xử vụ án hình sự trước
yêu cầu cải cách tư pháp, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.
Trên cơ sở tiếp thu tổng hợp những công trình nghiên cứu khoa học, các đề
tài và các bài viết cùng với sự nghiên cứu, tìm hiểu của mình, tác giả luận văn đi sâu
vào phân tích nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật theo Luật TTHS Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tế địa bàn tỉnh Đắk
Lắk) để thấy rằng việc áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt nam trên thực tế vẫn còn có nhiều
bất cập, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu đổi mới của Đảng và Nhà nƣớc về hoạt động
xét xử của Tòa án theo tinh thần cải cách tƣ pháp hiện nay mà Đảng và Nhà nƣớc đã
4
nêu rõ trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị. Từ đó đƣa ra những yêu cầu, giải pháp
phù hợp để góp phần xây dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật theo luật TTHS Việt nam đƣợc thực hiện, áp dụng thống
nhất có hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài này cũng nhằm mục đích
khẳng định đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta trong quá trình cải cách
tƣ pháp là đúng đắn, kịp thời và cần phải thống nhất thực hiện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài luận văn có mục đích phân tích làm sáng tỏ về mặt lý luận đối với
nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
theo Luật TTHS Việt nam và việc áp dụng nguyên tắc này vào thực tiễn trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó đƣa ra những yêu cầu, giải pháp nhằm hoàn thiện
nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
theo Luật TTHS Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ khái niệm, nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán và Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt nam.
- Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng
nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo
Luật TTHS Việt nam trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Từ đó đƣa ra một số yêu cầu, giải pháp nhằm hoàn thiện về mặt lý luận và thực tiễn
áp dụng đối với nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật theo Luật TTHS Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn áp dụng
nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo
Luật TTHS Việt Nam trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong hoạt động xét xử của Tòa án.
5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có phạm vi nghiên cứu về
những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đối với nguyên
tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật
TTHS Việt Nam trong hoạt động xét xử của Tòa án.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc
đối với hoạt động xét xử của Tòa án và cụ thể là tính độc lập xét xử của Thẩm
phán và Hội thẩm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận
của triết học Mác – Lênin mà cụ thể là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
đồng thời sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu khoa học nhƣ: Phân tích, tổng
hợp, logic biện chứng, hệ thống.
6. Những điểm mới về khoa học của luận văn
- Về mặt lý luận:
Luận văn làm rõ đƣợc khái niệm, nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật
TTHS Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn:
Luận văn đi sâu phân tích một cách toàn diện, có hệ thống về các quy định
của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt Nam trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk, trong hoạt động xét xử của Tòa án. Trên cơ sở đó đề ra một số yêu
cầu, giải pháp nhằm hoàn thiện về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng đối với nguyên
tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật
TTHS Việt Nam, góp phần vào quá trình cải cách tƣ pháp trong thời gian tới mà
Đảng và Nhà nƣớc ta đang đặt ra.
6
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa về lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, có tính hệ
thống và toàn diện về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật theo Luật TTHS Việt Nam. Đề tài luận văn làm sáng tỏ vai trò quan
trọng của độc lập xét xử và tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm để từ
đó có thể đánh giá đƣợc thực trạng của các cơ sở hiến định và pháp luật về độc lập
xét xử nhìn từ góc độ tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nƣớc và thực tiễn thi hành
các quy định đó.
- Ý nghĩa về thực tiễn: Từ kết quả nghiên cứu của luận văn để các cơ quan
ban ngành, cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng và đặc biệt là Thẩm
phán và Hội thẩm xác định đúng đắn, thống nhất khi áp dụng nguyên tắc Thẩm
phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt
Nam. Từ đó, đƣa ra những yêu cầu, giải pháp nhằm hoàn thiện những điểm còn bất
cập khi áp dụng nguyên tắc này. Ngoài ra, luận văn còn có thể làm tài liệu tham
khảo trong công tác giảng dạy và nghiên cứu đối với môn học Luật TTHS và kết
quả nghiên cứu này cũng có thể đƣợc vận dụng trong công tác lập pháp sửa đổi, bổ
sung BLTTHS và thực tiễn áp dụng BLTTHS đối với nguyên tắc Thẩm phán và Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo luật TTHS Việt Nam.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm có 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề chung về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt Nam.
Chương 2: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật theo quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng
tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Những yêu cầu và giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng
nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN
VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật
Nguyên tắc “khi xét xử Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
đƣợc qui định trong các bản Hiến pháp của Việt Nam kể từ Hiến pháp 1946.
Lịch sử phát triển của Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trải qua nhiều
giai đoạn với 5 bản Hiến pháp đƣợc ban hành tại những thời điểm lịch sử khác
nhau. Nguyên tắc này khẳng định trong hoạt động xét xử, Thẩm phán không phụ
thuộc vào bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào khi đƣa ra các nhận định đánh giá và
phán quyết của mình về vụ án. Mọi cá nhân, tổ chức không đƣợc can thiệp vào
các hoạt động xét xử của Tòa án.
Ở Việt Nam, tổ chức bộ máy Nhà nƣớc hiện nay theo nguyên tắc quyền lực
Nhà nƣớc là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Tòa án là cơ quan thực hiện hoạt động
tƣ pháp - hoạt động nhân danh công lý và dựa vào công lý thì Tòa án phải xét xử
nhƣ một ngƣời đứng giữa, trung lập, không phụ thuộc vào bên nào, chỉ xét xử độc
lập và tuân theo pháp luật thì Tòa án mới tồn tại đúng với bản chất của mình là một
cơ quan bảo vệ công lý. Mặt khác, nguyên tắc này hình thành còn xuất phát từ chế
độ dân chủ nhân dân ở nƣớc ta. Việc xét xử của Tòa án có Hội thẩm nhân dân tham
gia đã đƣợc hiến pháp và pháp luật quy định, đó là một trong những nguyên tắc thể
hiện rõ tƣ tƣởng “Nhà nước của dân, do dân và vì dân” và chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Pháp luật giao trọng trách cho Hội thẩm nhân dân thay mặt nhân dân
tham gia xét xử, giám sát, chế ƣớc, hạn chế tiêu cực trong hoạt động của Tòa án,
bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Giúp cho việc xét xử của Tòa án
đƣợc rõ ràng, chính xác, phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng đƣợc nguyện
vọng chính đáng của nhân dân.
8
Nguyên tắc này khẳng định trong hoạt động xét xử, Thẩm phán không phụ
thuộc vào bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào khi đƣa ra các nhận định đánh giá và phán
quyết của mình về vụ án. Mọi cá nhân, tổ chức không đƣợc can thiệp vào các hoạt
động xét xử của Tòa án.
Theo từ điển Tiếng Việt, “nguyên tắc” với nghĩa chung nhất đƣợc hiểu là
“điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loại việc làm”[56]. Nhƣ
vậy, nguyên tắc là điều không thể thiếu trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của
con ngƣời, đảm bảo cho những hoạt động đó đi đúng hƣớng và đạt hiệu quả cao.
Hiện nay đang có những quan niệm khác nhau về nguyên tắc cơ bản của
Luật TTHS, nhƣ định nghĩa, tiêu chí, cách phân loại cũng nhƣ xác định giá trị các
nguyên tắc cơ bản trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên quan niệm
chung nguyên tắc của TTHS là “những tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động
TTHS hoặc đối với một loại hoạt động nhất định”[57]; “là những quan điểm, tư
tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ các chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật
cụ thể về TTHS” [43]; hoặc đó là “những phương châm, định hướng chi phối toàn
bộ hoạt động TTHS và được các văn bản pháp luật TTHS ghi nhận” [43].
Tuy nhiên, những quan niệm trên đây đều nhấn mạnh tính chỉ đạo của các
nguyên tắc mà chƣa nhấn mạnh một tính chất khác của nguyên tắc – đó là tính đòi
hỏi khách quan là yêu cầu khách quan đảm bảo cho hoạt động TTHS đạt đƣợc mục
đích, đƣợc phản ánh trong pháp luật, trở thành những bảo đảm pháp lý. Nếu không
nhấn mạnh tính đòi hỏi khách quan này của nguyên tắc thì việc xây dựng pháp luật
TTHS không thể đảm bảo tính khoa học và những đổi mới sẽ ít nhiều dễ bị tùy tiện,
chủ quan, duy ý chí.
Các quan điểm đƣợc thừa nhận rộng rãi cho rằng nguyên tắc cơ bản của luật
TTHS bao gồm: Thứ nhất, đây là những quan điểm, tƣ tƣởng chỉ đạo xuyên suốt toàn
bộ các chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thể về TTHS; Thứ hai, nguyên
tắc TTHS đƣợc phản ánh trên ba lĩnh vực: trong luật thực định, trong việc giải thích,
trong thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật TTHS trừu tƣợng; Thứ ba, các nguyên
tắc này luôn đƣợc các nhà làm luật ghi nhận trong các quy phạm pháp luật [5].
9
Giáo trình luật TTHS Việt Nam của Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội đã
đƣa ra các đặc điểm của nguyên tắc cơ bản của luật TTHS. Thứ nhất, các nguyên tắc
cơ bản của luật TTHS là những tƣ tƣởng, định hƣớng của hoạt động TTHS; Thứ hai,
các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS chi phối toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án hoặc chi phối một số giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án
hình sự; Thứ ba, các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS đƣợc ghi nhận trong các văn
bản pháp luật của Nhà nƣớc nhƣ Hiến pháp, Bộ luật TTHS…; Thứ tư, các nguyên tắc
cơ bản của luật TTHS phản ảnh những nguyên lý cơ bản nhất trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự; Thứ năm, luật TTHS có các nhóm nguyên tắc cơ bản sau: các
nguyên tắc đảm bảo pháp chế XHCN trong hoạt động TTHS; các nguyên tắc đảm
bảo tính dân chủ trong hoạt động TTHS; các nguyên tắc đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân. Trên cơ sở các đặc trƣng này, giáo trình đã đƣa ra định nghĩa
về các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS: “Nguyên tắc cơ bản của luật TTHS là
những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của hoạt
động TTHS trong quá trình xây dựng và áp dụng luật tố tụng hình sự”[13].
Trong quá trình xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án
hình sự những nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS cần đƣợc quán triệt và thực hiện
nghiêm chỉnh mà đặc trƣng nhất đó là nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Những nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS nói
chung và nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật” nói riêng thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nƣớc ta là đảm bảo mọi
tội phạm đều đƣợc phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp
luật, không bỏ lọt tội phạm và làm oan ngƣời vô tội. Theo tinh thần và nội dung của
chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 của Đảng ta, cần phải có sự nhận thức rõ
hơn vị trí, vai trò của Toà án trong bộ máy Nhà nƣớc và những nguyên tắc hoạt động
cơ bản của Toà án, trong đó có nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật”. Để làm rõ nội dung nguyên tắc này trƣớc những yêu cầu
của cải cách tƣ pháp, trƣớc hết cần xuất phát từ vị trí xã hội và những giá trị xã hội
của Toà án - với tƣ cách là cơ quan đƣợc Nhà nƣớc trao quyền, nhân danh Nhà nƣớc
10
thực hiện quyền tƣ pháp. Có thể thấy, sự thừa nhận về mặt pháp lý đối với độc lập tƣ
pháp cần đảm bảo triệt để các yếu tố: thứ nhất, Tòa án phải đƣợc trao thẩm quyền
giải quyết mọi vấn đề mang tính chất tƣ pháp; thứ hai, Tòa án phải là cơ quan duy
nhất có quyền quyết định trong việc xác định vụ việc đang yêu cầu giải quyết có
thuộc thẩm quyền xét xử của mình hay không, dựa trên các quy định pháp luật về
TTHS; thứ ba, quyết định cuối cùng Tòa án đƣa ra không phải chịu bất kì sự chi phối
hoặc áp đặt về mặt ý chí của bất kỳ cơ quan quyền lực nào [8].
Là cơ quan trong hệ thống tƣ pháp, Tòa án có những đặc thù so với các cơ
quan khác trong hệ thống này, đó là:
- Tòa án, ngƣời đại diện của quyền lực tƣ pháp khác với cơ quan lập pháp và
hành pháp ở chỗ không giải quyết các vấn đề ở tầm vĩ mô, không hoạch định chính
sách kinh tế - xã hội mà có chức năng giải quyết các vấn đề rất cụ thể, từng tình
huống, từng sự kiện cụ thể trong đời sống xã hội. Vì vậy, cách thức tổ chức và hoạt
động khác với cơ quan lập pháp và hành pháp. Nói cách khác, so với hai cơ quan
nói trên, Tòa án "thụ động" hơn, phải "chờ" có việc thì mới xét xử. Toà án chủ yếu
đóng vai trò là một bộ máy “quyền lực” chứ không sản sinh ra “công lực” mới, nó
thực hiện việc áp dụng pháp luật, đƣa việc thực hiện quyền lực tƣ pháp vào cuộc
sống. Bởi vì thông qua quyền lực tƣ pháp mà pháp luật tác động đến những quan hệ
xã hội. Đây không phải là phƣơng tiện duy nhất nhƣng là phƣơng tiện chủ yếu trong
việc giải quyết các trƣờng hợp xung đột giữa các quan hệ pháp luật.
- Những ngƣời làm công tác xét xử phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
pháp lý rất cao, đủ khả năng để giải quyết các vấn đề rất phức tạp nhƣ xác định tội
phạm, ngƣời phạm tội và áp dụng hình phạt, phán quyết các tranh chấp, các sự kiện
liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
- Lao động xét xử là lao động sáng tạo trong áp dụng pháp luật, đòi hỏi tƣ
duy ở trình độ cao của ngƣời Thẩm phán. Họ phải tiếp cận với một hệ thống đồ sộ
các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, kể cả pháp luật của các quốc gia khác
khi có liên quan và cả pháp luật quốc tế.
- Lao động xét xử luôn luôn bị giới hạn bởi những quy định khắt khe của
pháp luật tố tụng về chứng cứ, về thời hạn, về độ chính xác của bản án, quyết định.
11
- Việc xét xử phải tuân theo các nguyên tắc Hiến định cũng nhƣ nguyên tắc
tố tụng. Các Tòa án về nguyên lý không tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống
nhất mà tổ chức thành từng cấp, độc lập với nhau khi xét xử. Trong số các nguyên
tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Toà án thì nguyên tắc Thẩm phán và Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật chiếm vị trí đặc biệt và là nguyên tắc
rất đặc trƣng.
Trong Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vị trí, vai trò của Toà án lại
càng đƣợc khẳng định. Vì Toà án chính là cơ quan thực thi quyền tƣ pháp trong bộ
máy Nhà nƣớc và việc thực thi quyền này lại ảnh hƣởng trực tiếp tới mục tiêu và
các giá trị của công cuộc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam; Toà án là nơi
thể hiện sâu sắc nhất bản chất của Nhà nƣớc và nền công lý của chế độ, đồng thời
thể hiện chất lƣợng hoạt động và uy tín của cả hệ thống tƣ pháp trong Nhà nƣớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa [24].
Theo nghĩa rộng, xét xử là sự tổng hợp một chuỗi hoạt động của Tòa án kể
từ thời điểm thụ lý vụ án cho đến khi ra bản án hoặc quyết định nhằm giải quyết vụ
án. Nhƣ vậy xét xử là xem xét và giải quyết vụ án.
Theo nghĩa hẹp thì xét xử là hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm tại phiên
tòa mà kết quả là ra bản án hoặc quyết định để giải quyết vụ án. “Độc lập xét xử là
một nguyên tắc có tính đặc thù, chỉ có thể được áp dụng đối với Thẩm phán và Hội
thẩm trong khi xét xử” [44].
Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nghĩa là phải tự mình đƣa ra kết luật giải
quyết vấn đề trên cơ sở quy định của pháp luật mà không phụ thuộc vào bất cứ yếu
tố nào khác. Đó là những tƣ tƣởng chủ đạo, định hƣớng trở thành xử sự bắt buộc
chung đối với Thẩm phán và Hội thẩm khi đƣợc phân công xét xử vụ án. Theo Từ
điển Tiếng Việt thì “xét xử” là “xem xét và xử các vụ án” và “độc lập” là tự mình
tồn tại, hoạt động, không nƣơng tựa hoặc phụ thuộc vào ai. Nhƣ vậy, độc lập xét xử
là xem xét các vụ án không phụ thuộc và nƣơng tựa vào ai [56]. Nguyên tắc Thẩm
phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những
nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam; là những tƣ tƣởng chủ đạo xuyên
12
suốt toàn bộ hoạt động xây dựng, thực thi, kiểm soát pháp luật tố tụng hình sự; trở
thành xử sự bắt buộc chung đối với Thẩm phán và Hội thẩm khi đƣợc phân công xét
xử vụ án; là hƣớng tới mục đích giải quyết vụ án khách quan, dân chủ đảm bảo
công bằng, công lý trong giải quyết vụ án hình sự. Dù là Nhà nƣớc tƣ sản hay Nhà
nƣớc xã hội chủ nghĩa thì vấn đề độc lập xét xử của Tòa án cũng đều đƣợc thừa
nhận nhƣ một nguyên tắc cơ bản trong Hiến pháp và pháp luật.
Khái niệm “khi xét xử” phải đƣợc hiểu là bao gồm tất cả các giai đoạn mà
Thẩm phán thực hiện chức năng tố tụng và ra các quyết định thuộc thẩm quyền tố
tụng nhƣ quyết định về thụ lý hồ sơ, về triệu tập nhân chứng, thu thập chứng cứ….
Bởi kết quả của các hoạt động là tiền đề để thực hiện các hoạt động tố tụng khác
đƣợc thực hiện tại phiên tòa, nhƣ vậy cần phải đảm bảo các giai đoạn đƣợc thực
hiện khách quan và độc lập. Theo tác giả luận văn, độc lập xét xử phải đƣợc hiểu
với nghĩa là khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm phải có chính kiến, quan điểm của
mình trong việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, mức hình phạt và giải quyết
các vấn đề khác dựa trên quy định của pháp luật, đảm bảo việc xét xử công bằng,
khách quan. Hay nói cách khác là Thẩm phán và Hội thẩm cần phải độc lập đƣa ra
các quyết định của mình “khi xét xử bất kỳ vụ án gì, ở bất cứ cấp xét xử nào và tại
bất cứ giai đoạn xét xử nào”[20].
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam; là những tƣ
tƣởng chủ đạo xuyên suốt toàn bộ hoạt động xây dựng, thực thi, kiểm soát pháp luật
tố tụng hình sự; trở thành xử sự bắt buộc chung đối với Thẩm phán và Hội thẩm khi
đƣợc phân công xét xử vụ án; là hƣớng tới mục đích giải quyết vụ án khách quan, dân
chủ đảm bảo công bằng, công lý trong giải quyết vụ án hình sự. Từ sự phân tích và
thừa nhận những quan điểm của những ngƣời nghiên cứu trƣớc đó về khái niệm
nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, tác
giả luận văn đƣa ra khái niệm về nguyên tắc này nhƣ sau: Với vị trí là một trong
những nguyên tắc cơ bản của luật TTHS, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đòi hỏi trong hoạt động xét xử Thẩm phán và Hội
13
thẩm phải sáng suốt tự mình đưa ra quyết định để giải quyết vụ án, không lệ thuộc
vào bất cứ yếu tố nào khác. Hoạt động xét xử phải đảm bảo đúng pháp luật về trình
tự thủ tục cũng như các quyết định đưa ra phải chính xác, có căn cứ pháp lý. Không
một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào được phép can thiệp vào hoạt động xét xử.
1.2. Nội dung nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật
Điều 130 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” [34]. Tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp
năm 2013 tiếp tục khẳng định mạnh mẽ hơn “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào
việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” [40]. Khái niệm độc lập xét xử theo quy
định của Hiến pháp Việt Nam có thể hiểu là việc xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền
của Tòa án không phụ thuộc vào bất kỳ ai ngoài những ngƣời có thẩm quyền xét xử.
Bản chất chế định Hội thẩm nhân dân là sự thể hiện tƣ tƣởng “lấy dân làm
gốc”, bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử
của Tòa án. Hội thẩm bằng sự tham gia của mình vào HĐXX để thực hiện quyền tƣ
pháp, đồng thời thông qua đó để nhân dân tham gia một cách có hiệu quả vào công
tác quản lý Nhà nƣớc nói chung và hoạt động của Tòa án nói riêng. Luật Tổ chức
TAND năm 2002, tại Điều 5 quy định: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Tại khoản 1 Điều 9 Luật Tổ chức TAND tiếp tục
quy định mạnh mẽ hơn “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm
phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào”. Nghĩa là khi tham gia xét xử một vụ án
cụ thể, Hội thẩm nhân dân phải nghiên cứu và nắm vững hồ sơ, thu thập thông tin
và quá trình diễn biến tại phiên tòa, độc lập suy xét, chí công vô tƣ, không vì nể
hoặc vì áp lực của bất cứ cá nhân hoặc tổ chức nào. Thẩm phán và Hội thẩm đƣa ra
phán quyết trên cơ sở quy định của pháp luật để giải quyết vụ án một cách khách
quan, chính xác [11].
Hội thẩm có địa vị pháp lý và vai trò rất quan trọng trong công tác xét xử bởi
14
chiếm đa số thành viên trong HĐXX và ngang quyền với Thẩm phán khi đƣa ra các
phán quyết về vụ án. Khi xét xử, nếu ý kiến biểu quyết của các Hội thẩm giống
nhau nhƣng khác ý kiến của Thẩm phán thì quyết định của HĐXX phải theo ý kiến
của các Hội thẩm. Thẩm phán chỉ có quyền bảo lƣu ý kiến và đề nghị Tòa án cấp
trên xem xét. Bản án, quyết định của HĐXX chứa đựng trách nhiệm không chỉ của
cá nhân Thẩm phán mà cả trách nhiệm của xã hội.
Để tìm hiểu rõ hơn về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật, cần xem xét lần lƣợt nội dung cụ thể sau:
1.2.1. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện
quyền tƣ pháp.
Độc lập xét xử đƣợc xuất hiện từ tƣ tƣởng phân chia quyền lực nhà nƣớc
thành quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tƣ pháp của Montesquieu. Ông cho
rằng “không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không được tách khỏi quyền lập pháp
và quyền hành pháp” [26], độc lập xét xử là một thuộc tính không thể thiếu trong
bất kỳ quốc gia nào. Quyền tƣ pháp thực hiện sự phán quyết về những vấn đề mang
tính tƣ pháp, thông thƣờng và chủ yếu là do Tòa án thực hiện.
Độc lập xét xử bao gồm các thành tố cơ bản sau: Độc lập của quyền tƣ pháp,
độc lập của thiết chế thực hiện quyền tƣ pháp, độc lập của những ngƣời thực hiện
quyền lực tƣ pháp. Hay nói một cách khác, độc lập của quyền tƣ pháp với các quyền
lực Nhà nƣớc khác, độc lập của cơ quan Tòa án với các cơ quan quyền lực khác
cũng nhƣ giữa các cơ quan Tòa án với nhau, độc lập của Thẩm phán. Xuất phát từ
bản chất của hoạt động tƣ pháp mà Tòa án là trung tâm của việc thực hiện và xét xử
là hoạt động trọng tâm, đòi hỏi việc xét xử phải bảo đảm tính độc lập. Chính vì vậy,
nguyên tắc độc lập xét xử đƣợc coi là tiền đề, nền tảng của hoạt động tƣ pháp trong
Nhà nƣớc pháp quyền, bảo đảm quan trọng cho việc xét xử đƣợc bình đẳng, dân
chủ, khách quan. Theo tác giả luận văn, nếu lấy chủ thể của hoạt động xét xử để
nghiên cứu thì sự độc lập đƣợc biểu hiện trên hai khía cạnh, đó là: Độc lập với các
yếu tố khách quan và độc lập với các yếu tố chủ quan.
15
Thứ nhất: Độc lập với các yếu tố khách quan.
- Độc lập với sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng.
Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định:
Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tƣ tƣởng, là lực lƣợng lãnh đạo Nhà nƣớc và xã
hội [40, Điều 4].
Vai trò lãnh đạo của Đảng thông qua các nghị quyết, Đảng lãnh đạo về chủ
trƣơng và đƣờng lối đối với hoạt động xét xử là cần thiết, nhằm góp phần nâng cao chất
lƣợng và hiệu quả của hoạt động xét xử, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của xã hội. Đảng chỉ
đạo hoặc cho ý kiến về nguyên tắc chung trên cơ sở quy định của pháp luật trong việc
giải quyết, xử lý tội phạm liên quan đến cán bộ, đảng viên, các vụ án nghiêm trọng,
phức tạp về chính trị, kinh tế, xã hội, các vụ án tham nhũng có liên quan đến cán bộ
thuộc diện quản lý của các cấp ủy đảng, các vụ án có liên quan đến quan hệ đối
ngoại… và trực tiếp quản lý công tác cán bộ, trong đó có việc xem xét, quyết định nhân
sự cán bộ lãnh đạo và Thẩm phán Tòa án các cấp. Ở Việt Nam, quyền lực Nhà nƣớc
tập trung và không phân lập nên Quốc hội và Tòa án chỉ là hai bộ phận của hệ thống cơ
quan Nhà nƣớc, không có sự phân quyền nhƣ một số nƣớc khác.
Trong hoạt động của mình Tòa án phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng,
nhƣng Nhà nƣớc ta là Nhà nƣớc pháp quyền hoạt động theo nguyên tắc pháp chế và
mọi hoạt động của Đảng, kể cả hoạt động lãnh đạo, cũng phải nằm trong khuôn khổ
pháp luật. Vì lẽ đó, trong hoạt động xét xử, Tòa án chỉ căn cứ vào pháp luật và làm
đúng theo các quy định của pháp luật; nghĩa là, Tòa án luôn độc lập với các cơ quan
khác. Nghị quyết 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tƣ pháp
trong thời gian tới đã chỉ rõ:
Đảng lãnh đạo các cơ quan tƣ pháp chặt chẽ về chính trị, tổ chức
và cán bộ, đảm bảo hoạt động tƣ pháp theo đúng quan điểm của Đảng,
16
pháp luật Nhà nƣớc. Tiếp tục hoàn thiện nội dung và phƣơng thức lãnh
đạo của Đảng đối với công tác tƣ pháp, khắc phục tình trạng cấp ủy
buông lỏng lãnh đạo hoặc cấp ủy viên can thiệp không đúng lúc vào hoạt
động tƣ pháp [3].
Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị ngày 02/06/2005 về chiến lƣợc cải
cách tƣ pháp đến năm 2020 tiếp tục nhấn mạnh đến sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ
quan tƣ pháp, trong đó xác định:
... Xây dựng và thực hiện cơ chế lãnh đạo của cấp ủy Đảng trong
việc chỉ đạo giải quyết những vụ việc quan trọng, phức tạp; Cơ chế phối
hợp làm việc giữa tổ chức Đảng với các cơ quan tƣ pháp và các ban
ngành liên quan theo hƣớng cấp ủy định kỳ nghe báo cáo và cho ý kiến
định hƣớng về công tác tƣ pháp…[4].
Giữa tổ chức Đảng và Thẩm phán còn có mối quan hệ giữa đảng viên và tổ
chức Đảng qua thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán. Theo chế độ Đảng lãnh đạo Nhà nƣớc,
trong đó có cơ quan, đơn vị, vị trí cấp ủy đảng trong việc tuyển chọn bổ nhiệm
Thẩm phán rõ ràng sẽ ảnh hƣởng đến độc lập của Thẩm phán khi có sự tác động từ
cấp ủy đảng. Về Hội thẩm, đây là những ngƣời đƣợc Hội đồng nhân dân cùng cấp
bầu theo sự giới thiệu của Ủy ban mặt trận Tổ quốc cùng cấp và Hội đồng nhân dân
cùng cấp bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án TAND cùng
cấp sau khi thống nhất với Ủy ban mặt trận Tổ quốc cùng cấp.
- Độc lập với các cơ quan Nhà nƣớc khác.
Các cơ quan quản lý không đƣợc can thiệp vào việc xét xử của Tòa án vì
công tác xét xử đã đƣợc Nhà nƣớc giao cho Tòa án, sự ràng buộc của Tòa án với
các cơ quan quản lý là sự ràng buộc về quản lý hành chính nhà nƣớc. Sự độc lập
này đƣợc xác định đƣơng nhiên theo nguyên tắc chung tổ chức cơ quan nhà nƣớc,
bảo đảm cho các cơ quan nhà nƣớc trong hoạt động thực hiện chức năng của mình
có sự độc lập tƣơng đối, có thể gọi là độc lập về nghiệp vụ. Mà HĐXX lại đƣợc cử
theo từng vụ án cụ thể, hoạt động có tính độc lập quyết định các vấn đề của vụ án,
lại càng không thể phụ thuộc vào các cơ quan quản lý về mặt xét xử vụ án.
17
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đều là công cụ của Nhà nƣớc, bảo vệ
lợi ích của Nhà nƣớc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và bảo vệ quyền lợi của ngƣời
lao động. Tuy nhiên mỗi cơ quan đều có chức năng nhiệm vụ riêng khi tham gia vào
quá trình tố tụng. Tại phiên tòa Kiểm sát viên đƣa ra chính kiến của mình nhƣng
không buộc HĐXX phải thực hiện theo. Tòa án không lệ thuộc vào ý kiến của Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát. Nếu qua phiên tòa xét thấy cần phải xử lý khác với ý
kiến của các cơ quan trên thì HĐXX phải căn cứ vào pháp luật để xử lý.
Khoản 1 Điều 17 Luật tổ chức TAND năm 2002 quy định: “Tòa án nhân dân
tối cao quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về tổ chức có sự phối hợp chặt chẽ
với Hội đồng nhân dân địa phương” [37]. Luật tổ chức TAND năm 2014, tại khoản
1 Điều 18 quy định “Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân về tổ
chức”. Việc quy định trên là để các cơ quan tƣ pháp quản lý Tòa án về mặt tổ chức
chứ không có quyền can thiệp vào hoạt động xét xử, làm mất đi tính độc lập của
Thẩm phán và Hội thẩm.
- Sự độc lập của Tòa án với yêu cầu của bị can, bị cáo, ngƣời bào chữa và
những ngƣời tham gia tố tụng khác.
Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm không chỉ độc lập với các cơ quan nhà
nƣớc mà còn độc lập với yêu cầu của bị cáo và những ngƣời tham gia tố tụng khác,
độc lập với ngƣời bào chữa. Phán quyết của Tòa án bao giờ cũng làm xuất hiện
những nhóm mâu thuẫn về lợi ích, đó là mâu thuẫn lợi ích giữa bị cáo và ngƣời bị
hại, giữa nguyên đơn dân sự và bị đơn dân sự…Ai cũng có nhu cầu kết quả xét xử
phải đƣa lại quyền lợi tối ƣu nhất cho họ hoặc chỉ ít ra cũng tƣớc bỏ tối thiểu quyền
và lợi ích của họ. Sau phán quyết của Tòa án có rất nhiều bình luận từ dƣ luận quần
chúng nhân dân, từ cơ quan báo chí, rằng xử đúng, xử sai, công bằng hay không
công bằng, nặng hay nhẹ. Đặc biệt là đối với các vụ án bị cấp trên hủy xử lại và
những vụ án xử lƣu động. Những vấn đề này đều tác động khá mạnh đến tâm lý của
Thẩm phán và Hội thẩm khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Xử theo đúng pháp luật hay
là xử theo dƣ luận, báo chí, hay xử vì lợi ích của ngƣời bị hại? Xử đúng chƣa chắc
dƣ luận đã đồng tình, lại có thể không theo yêu cầu của một số ngƣời tham gia tố
18
tụng. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập với yêu cầu của ngƣời tham gia tố
tụng, với báo chí, với dƣ luận nghĩa là việc xét xử chỉ dựa trên những chứng cứ,
những quy định của pháp luật, không phụ thuộc vào yêu cầu của những ngƣời nói
trên. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc không ai đƣợc phép tác động đến việc xét
xử của Thẩm phán và Hội thẩm.
Thứ hai: Độc lập với các yếu tố chủ quan.
- Sự độc lập giữa các cấp xét xử trong hệ thống Tòa án, độc lập trong một
Tòa án.
Sự hƣớng dẫn công tác xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dƣới
là hết sức cần thiết, bảo đảm cho việc áp dụng thống nhất pháp luật, đƣờng lối
xét xử chung trong phạm vi cả nƣớc. Tuy nhiên, Tòa án cấp trên không quyết
định trƣớc là Tòa án cấp dƣới phải xét xử một vụ án nhƣ thế nào mà Tòa án cấp
trên chỉ hƣớng dẫn Tòa án cấp dƣới về áp dụng thống nhất pháp luật, đƣờng lối
xét xử. Nếu có vụ án nào đó Tòa án cấp dƣới tranh thủ ý kiến của Tòa án cấp
trên, thì cũng chỉ là trao đổi ý kiến về nghiệp vụ những văn bản pháp luật cần áp
dụng, để Tòa án cấp dƣới giải quyết vụ án cho đúng pháp luật, chứ không đặt ý
kiến cụ thể về việc giải quyết vụ án đó.
Theo quy định tại Điều 2, Luật tổ chức TAND năm 2002 thì hệ thống cơ quan
xét xử của Nhà nƣớc ta đƣợc tổ chức theo một hệ thống ngành dọc từ Trung ƣơng tới
địa phƣơng, bao gồm: TAND tối cao; TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng;
TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Tòa án quân sự và các Tòa án khác
do luật định. Theo quy định tại Điều 3 Luật tổ chức TAND năm 2014 thì có thêm các
TAND cấp cao. Trong hệ thống đó TAND tối cao là cơ quan xét xử cao nhất. Tuy
nhiên tính “cao nhất” ở đây không đồng nghĩa với sự chỉ huy tuyệt đối. Trong tất cả
các quy định về tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án không có bất kỳ một quy
định nào về chỉ huy và phục tùng trong hoạt động nghiệp vụ giữa Tòa án cấp trên và
Tòa án cấp dƣới. Tính “cao nhất” của TAND tối cao trong hệ thống cơ quan xét xử của
nƣớc ta thể hiện ở chỗ “ Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án
khác, trừ trường hợp do luật định” [40, Điều 104].
19
Pháp luật đã quy định khi hủy bản án để xét xử sơ thẩm lại, tuy nhiên Tòa án
cấp phúc thẩm không đƣợc quy định trƣớc những chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm
cần phải chấp nhận hoặc bác bỏ cũng nhƣ không quyết định trƣớc về điều khoản
BLTTHS và hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm sẽ phải áp dụng nhƣng việc “Tòa án
cấp trên” hủy án “Tòa cấp dưới” cũng ảnh hƣởng đến tính độc lập của Thẩm phán
và Hội thẩm. Chính vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm phải có chính kiến, quan điểm
của mình trong việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, mức hình phạt và giải
quyết các vấn đề khác dựa trên quy định của pháp luật, đảm bảo việc xét xử công
bằng, khách quan. Khi án bị hủy để xét xử sơ thẩm lại, HĐXX cũng phải xem xét
lại nguyên nhân mà Tòa án cấp trên hủy, xem xét toàn diện các chứng cứ, thông tin
có phù hợp với thực tế khách quan hay không để xét xử lại đúng pháp luật, không
phụ thuộc vào kết quả bị hủy. Nếu cấp trên hủy đúng cần xem xét để xử lại cho
chính xác; Nếu cấp trên hủy sai thì phải bảo vệ chính kiến, quan điểm của HĐXX,
miễn xóa bản án, quyết định phải có căn cứ và hợp pháp.
Độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm cũng có nghĩa là Hội đồng xét
xử hoàn toàn độc lập với Tòa án của mình, nhƣng Thẩm phán cũng đƣợc xin ý kiến
hƣớng dẫn của Tòa án mình nhƣ mối quan hệ Tòa án cấp dƣới với Tòa án cấp trên.
- Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập với nhau trong HĐXX.
HĐXX gồm Thẩm phán và Hội thẩm, thành phần cụ thể tùy vào tính chất
của từng vụ án cụ thể và cũng tùy thuộc vào từng cấp xét xử. Nhƣ thành phần của
HĐXX sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm hoặc hai Thẩm phán và ba
Hội thẩm (Điều 185 BLTTHS); Thành phần HĐXX phúc thẩm gồm ba Thẩm phán
và trong trƣờng hợp cần thiết có thể có thêm hai Hội thẩm (Điều 244 BLTTHS).
Với mỗi vụ án, các Thẩm phán và Hội thẩm cùng nhau làm việc và gắn kết
với nhau tạo thành một thể thống nhất là HĐXX. Và các thành viên của HĐXX
phối hợp với nhau để tạo ra một “sản phẩm” chung đó là bản án hoặc quyết định
trên cơ sở biểu quyết theo đa số. Mặt khác, giữa Thẩm phán và Hội thẩm có sự khác
biệt về trình độ nhận thức. Vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm có suy nghĩ và nhận
định độc lập với nhau trong quá trình xét xử vụ án. Từng thành viên HĐXX bằng
20
khả năng của bản thân cảm nhận về vụ án và căn cứ theo quy định của pháp luật để
đƣa ra ý kiến của mình về vụ án. Kết quả xem xét của HĐXX đƣợc lấy theo ý kiến
đa số của thành viên. Nhƣ vậy, tại phòng nghị án từng thành viên của HĐXX có
quyền độc lập suy nghĩ đánh giá sự việc theo quy định của pháp luật và theo quan
điểm nhận định của mỗi ngƣời không phụ thuộc vào bất cứ một định kiến nào,
không phụ thuộc vào ý kiến của các thành viên khác. Từ quyết định độc lập của
từng thành viên để đi đến quyết định của tập thể, từ đó làm cho phán quyết của
HĐXX đƣợc khách quan.
Nhƣ vậy, rõ ràng là mỗi cá nhân Thẩm phán và Hội thẩm đều phải có chính
kiến riêng của mình, dù đó là ý kiến thiểu số hay đa số đều đƣợc ghi nhận. Quy định
này góp phần khuyến khích sự độc lập của mỗi thành viên HĐXX. Thêm vào đó,
Thẩm phán và Hội thẩm phải chịu trách nhiệm cá nhân về những quyết định của
riêng mình. Chính trách nhiệm cá nhân này càng thực sự là một đảm bảo cho Thẩm
phán và Hội thẩm mạnh dạn có những quyết định độc lập, không phải lệ thuộc vào
ý kiến của đa số những ngƣời khác cho dù bản án hoặc quyết định cuối cùng là theo
ý kiến của đa số.
- Độc lập trong việc đƣa ra quyết định dựa trên những chứng cứ và quy định
của pháp luật để kết luận về vụ án
Bản án, quyết định của Tòa án đƣa ra dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá các
thông tin đã đƣợc cơ quan điều tra thu thập. Chính vì vậy, các thông tin ban đầu
(nhất là kết luận điều tra và cáo trạng truy tố) có ảnh hƣởng nhất định đến nhận thức
của HĐXX. Thẩm phán và Hội thẩm căn cứ vào các tình tiết của vụ án, các chứng
cứ đã đƣợc xem xét tại phiên tòa thông qua điều tra trực tiếp nghe tranh luận của
các bên, đồng thời căn cứ vào các quy định của pháp luật để đƣa ra phán quyết,
không phụ thuộc vào ý kiến của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát về việc xác định có
tội hay không và hình phạt cần áp dụng mà Thẩm phán và Hội thẩm phải tự mình
nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án, xem xét những chứng cứ tại phiên tòa để có kết
luận về từng vấn đề một cách khách quan. Thẩm phán và Hội thẩm không thể ra
ngay quyết định hay bản án xác định bị cáo có tội hay không có tội, hoặc dựa theo
21
chứng cứ và những tình tiết đã đƣợc Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát sử dụng để
chứng minh tội phạm và ngƣời phạm tội, mà Thẩm phán và Hội thẩm phải tiến hành
mở phiên tòa để xét xử. Thông qua xét xử để điều tra, xác định các tài liệu, chứng
cứ của vụ án, thể hiện quan điểm của Thẩm phán và Hội thẩm mà không phụ thuộc
kết luận điều tra ban đầu của Cơ quan điều tra, ý kiến của Viện kiểm sát hay bất cứ
một tác động nào khác. Nhƣ vậy:
Thẩm phán và Hội thẩm phải trực tiếp xem xét các chứng cứ của
vụ án chứ không phải chỉ căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hay
các chứng cứ mà Viện kiểm sát đã đƣa ra trong bản cáo trạng. Bản án
của Tòa chỉ căn cứ vào những chứng cứ đã xem xét tại phiên tòa, đối
chiếu với những quy định của pháp luật để xử lý vụ án và có quyền kết
luận khác với ý kiến của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát [42]
1.2.2. Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà
phải độc lập trong khuôn khổ pháp luật. Sự tôn trọng và thƣợng tôn pháp luật của
mọi chủ thể nhƣ là một yêu cầu quan trọng của Nhà nƣớc pháp quyền, không ai, chủ
thể nào có thể đứng trên pháp luật, việc tuân theo pháp luật là quyền và cũng là
nghĩa vụ của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử. Pháp luật trao cho họ quyền, họ
cần phải sử dụng đầy đủ quyền đó, chỗ dựa quan trọng nhất của họ khi xét xử là
pháp luật [2]. Pháp luật là nền tảng, là thƣớc đo cho mọi hoạt động của các chủ thể
trong xã hội không loại trừ một ai, bởi vì pháp luật trở thành các quy tắc chuẩn
vững chắc hơn tất cả các quy định xã hội khác.
Quan điểm về xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN của Đảng ta đã
chính thức đƣợc thể chế hoá tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 “Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” [40]. Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa đòi hỏi ở Toà án các yếu tố, chuẩn mực nhƣ sự công minh, công bằng, dân
chủ, hiệu quả, hiệu lực, trong đó thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử là cơ sở nền
tảng thực hiện các đòi hỏi này. Độc lập xét xử đƣợc xem nhƣ một điều kiện bảo
22
đảm sự vận hành bình thƣờng của Toà án, cho một trình tự tƣ pháp công bằng
trong Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử phải dựa vào các quy định của pháp luật
để giải quyết vụ án, chứ không đƣợc áp đặt ý chí chủ quan của mình. Điều này đòi
hỏi và có tính chất bắt buộc đối với Thẩm phán và Hội thẩm. Thẩm phán và Hội
thẩm không một bƣớc xa rời pháp luật, không có bất kì sự lẩn tránh nào đối với
pháp luật, không tha thứ cho bất kì hành vi vi phạm pháp luật nào [1].
Tố tụng hình sự là quá trình giải quyết vụ án hình sự là hoạt động của các cơ
quan tiến hành TTHS, ngƣời tiến hành TTHS, ngƣời tham gia TTHS, của các cơ
quan khác và các tổ chức cá nhân có liên quan. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm
chỉ tuân theo pháp luật đƣợc đảm bảo trong hoạt động xét xử, nhằm hạn chế tối đa
oan sai, tiêu cực. Muốn xét xử đúng ngƣời, đúng tội đòi hỏi các Thẩm phán và Hội
thẩm phải thật sự có năng lực, trình độ, hiểu biết pháp luật một cách chuyên sâu.
Trong đó tính sáng tạo là yêu cầu không thể thiếu, bởi vì pháp luật không bao giờ
có thể bao quát và dự liệu hết các tình huống của thực tiễn đời sống, nên ngƣời
Thẩm phán và Hội thẩm phải vận dụng pháp luật một cách có lý, có tình, phù hợp
với thực tế, không cứng nhắc. Tuy nhiên, muốn vận dụng sáng tạo thì lại phải nắm
rất vững pháp luật, nếu không thì trở thành làm đại, làm liều. Bên cạnh đó, Thẩm
phán và Hội thẩm phải thƣờng xuyên cập nhật kiến thức, nhất là những lĩnh vực
đang có nhiều thay đổi, không nắm đƣợc các kiến thức này, khi xét xử nhất định sẽ
gặp khó khăn, lúng túng. Cụ thể nhƣ, muốn áp dụng đúng các quy định của BLHS
buộc Thẩm phán và Hội thẩm phải có kiến thức về định tội danh, về quyết định hình
phạt… mặt khác phải nắm vững các quy định của phát luật về trình tự tố tụng.
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm cần phải nắm vững các quy định của
pháp luật TTHS. Có thể chia hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm thành
hai giai đoạn, thứ nhất là từ khi có quyết định đƣa vụ án ra xét xử đến ngày mở
phiên tòa và thứ hai là tại phiên tòa. Các giai đoạn TTHS phải có nội dung là thực
hiện các nhiệm vụ cụ thể trên cơ sở các quy định của pháp luật TTHS nhằm giải
quyết vụ án hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp
23
luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp
của công dân trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự.
Giai đoạn xét xử đƣợc bắt đầu từ khi Tòa án nhận đƣợc hồ sơ vụ án do Viện
kiểm sát chuyển sang. Quá trình xét xử đƣợc thực hiện theo nguyên tắc xét xử trực
tiếp bằng lời nói và liên tục, chỉ xét xử những bị cáo, những hành vi theo tội danh
mà viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã có quyết định đƣa ra xét xử. Ở giai đoạn này
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa làm các thủ tục cần thiết trƣớc khi xét hỏi nhƣ: kiểm
tra sự có mặt của những ngƣời tham gia tố tụng, giải thích quyền và nghĩa vụ của
những ngƣời tham gia tố tụng, giải quyết yêu cầu thay đổi ngƣời tiến hành tố tụng.
Khi nghị án, HĐXX cần nghiêm túc tuân thủ những quy định về thủ tục nghị
án, nội dung nghị án và việc biểu quyết. Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền
nghị án. Khi nghị án chỉ có thành viên HĐXX mới có quyền này. HĐXX phải lần
lƣợt thảo luận và biểu quyết từng vấn đề của vụ án; các thành viên của HĐXX đều
phải trình bày ý kiến của mình về các vấn đề của vụ án, Hội thẩm phát biểu trƣớc,
Thẩm phán phát biểu sau và là ngƣời biểu quyết sau cùng. Bản án, các quyết định
của HĐXX phải đƣợc đa số thành viên của HĐXX biểu quyết thông qua, ngƣời có ý
kiến thiểu số đƣợc bảo lƣu ý kiến trong hồ sơ; việc nghị án phải đƣợc lập thành biên
bản, bản án, các quyết định của HĐXX và biên bản nghị án phải đƣợc thông qua tại
phòng nghị án. Sau khi nghị án xong Thƣ ký Tòa án yêu cầu các bị cáo và ngƣời
tham gia tố tụng vào phòng xử án, sau đó Chủ tọa phiên tòa thay mặt HĐXX đọc
bản án, trong trƣờng hợp bản án dài thì các Thẩm phán, Hội thẩm thay nhau đọc.
Có thể nói, phiên tòa là giai đoạn trung tâm thể hiện đầy đủ nhất bản chất
quá trình tố tụng nói chung và xét xử nói riêng. Phiên tòa có sự tham gia đầy đủ của
các cơ quan tiến hành tố tụng, những ngƣời tiến hành tố tụng, những ngƣời tham gia
tố tụng với địa vị pháp lý đƣợc xác định. Thông qua phiên tòa, bằng thủ tục trực
tiếp, công khai, thông qua nghe ý kiến và đề xuất của các bên tham gia tố tụng, Tòa
án tiến hành xác định sự thật khách quan của vụ án và ra các phán quyết giải quyết
vụ án một cách đúng đắn, đầy đủ, khách quan và đúng pháp luật. Đây là giai đoạn
mà tính độc lập tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm đƣợc biểu hiện một
24
cách rõ ràng và tập trung nhất. Phiên tòa là nơi Tòa án bằng thủ tục công khai, toàn
diện thực hiện cuộc điều tra chính thức để xác định sự thật khách quan của vụ án.
Tòa án ra bản án, quyết định trên cơ sở các chứng cứ đƣợc thu thập và kiểm tra
công khai tại phiên tòa. Việc chứng minh đƣợc các chủ thể có quyền và lợi ích khác
nhau (bên buộc tội, bên bào chữa, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự) thực hiện một
cách bình đẳng, dân chủ tại phiên tòa khi xét hỏi cũng nhƣ tranh luận. Việc chứng
minh và từ đó xác định sự thật của vụ án đƣợc Tòa án thực hiện trên cơ sở chứng cứ
đƣợc thu thập, thẩm tra tại phiên tòa và cân nhắc, đánh giá của các bên tham gia tố
tụng khác nhau.
Hoạt động TTHS một hoạt động khá phức tạp đòi hỏi những ngƣời làm công
tác xét xử phải có kiến thức tổng hợp về pháp luật chứ không đơn thuần là chỉ nắm
vững các quy định của luật hình sự. HĐXX ngoài việc tuân theo các văn bản pháp
luật về hình sự và TTHS thì HĐXX cần phải tuân theo các văn bản của các ngành
luật khác có liên quan. Một số tội danh không đƣợc mô tả cụ thể trực tiếp tại điều
luật của BLHS mà hành vi cụ thể đƣợc quy định ở các luật, văn bản pháp luật
chuyên ngành nhƣ nhiều tội trong chƣơng “Các tội xâm phạm an toàn công cộng,
trật tự công cộng” các tội xâm phạm liên quan đến từng lĩnh vực cụ thể nhƣ y tế,
xây dựng… Hoặc trong trƣờng hợp giải quyết vụ án hình sự, cùng với việc quyết
định vấn đề tội danh, mức hình phạt, xử lý vật chứng, HĐXX còn phải giải quyết
phần dân sự trong vụ án hình sự, chủ yếu là việc giải quyết việc bồi thƣờng thiệt hại
ngoài hợp đồng. Yêu cầu giải quyết những vấn đề trên đòi hỏi HĐXX phải nắm rõ
những quy định của các văn bản pháp luật dân sự về căn cứ bồi thƣờng, mức bồi
thƣờng nguyên tắc bồi thƣờng...
Tuân theo pháp luật và độc lập xét xử đƣợc gắn liền với năng lực trình độ
nghiệp vụ chuyên môn của ngƣời Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân [2]. Tòa án là
cơ quan duy nhất có quyền quyết định bị cáo có tội hay không có tội. Vì thế, quyết
định của Tòa án phải là quyết định khách quan, chính xác và độc lập xét xử phải là
một nguyên tắc hoạt động của Tòa án. Khi xét xử vụ án hình sự, Thẩm phán và Hội
thẩm căn cứ vào các tình tiết của vụ án, các chứng cứ đã đƣợc thẩm tra công khai tại
25
phiên tòa và căn cứ vào quy định của pháp luật để xác định tội phạm cũng nhƣ hình
phạt đối với ngƣời phạm tội. Các thành viên HĐXX không đƣợc để cho bất cứ ai, vì
bất cứ lý do gì chi phối mà xử lý vụ án không đúng pháp luật. Khi xét xử, Thẩm
phán và Hội thẩm phải tự mình nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án, kết hợp với những
chứng cứ đã đƣợc thu thập và đánh giá, thẩm tra để đƣa ra kết luận riêng của mình
đối với từng vấn đề của vụ án mà không bị động, lệ thuộc vào quyết định, kết luận
của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát.
1.2.3. Mối quan hệ giữa độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt
động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì thế giới là một chỉnh
thể thống nhất, mọi sự vật hiện tƣợng đều tồn tại trong sự độc lập tƣơng đối, độc lập
trong mối liên hệ quy định lẫn nhau. Hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm
cũng vậy. Nó mang tính độc lập tƣơng đối, nghĩa là nó vẫn có mối quan hệ với hiện
tƣợng tố tụng khác, đó chính là sự tuân theo pháp luật. Độc lập là biểu hiện của tuân
theo pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập là một phần nội dung của
nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Thẩm
phán và Hội thẩm độc lập với nhau, độc lập với các yếu tố khác. Độc lập xét xử và
tuân theo pháp luật có mối quan hệ mật thiết với nhau không thể tách rời. Thẩm
phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử là đã tuân theo các quy định của pháp luật. Và
chỉ “tuân theo pháp luật” có thể coi là giới hạn cho sự độc lập của Thẩm phán và
Hội thẩm. Điều này có nghĩa là ngoài pháp luật họ không cần phải tuân theo một ai
khác, họ không chịu bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài. Độc lập trong xét xử
không những đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp, luật Tổ chức Tòa án mà nó còn đƣợc
quy định là nguyên tắc và cụ thế hóa trong các điều luật khác của BLTTHS. Nếu
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, không chịu bất cứ tác động nào thì phán
quyết của HĐXX mới có tính khách quan, vô tƣ, quyết định của HĐXX mới đảm
bảo đúng pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập chính là biểu hiện của
việc tuân theo pháp luật. Có thể nhận thấy “Độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật”
có mối quan hệ ràng buộc tác động lẫn nhau. Độc lập là điều kiện cần thiết để xét
26
xử để tuân theo pháp luật, tuân theo pháp luật cũng chính là cơ sở cần thiết để Thẩm
phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử [2].
“Tuân theo pháp luật” vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của Thẩm phán và Hội
thẩm, họ có quyền độc lập khi xét xử khi họ “tuân theo pháp luật”. Các cơ quan
nhà nƣớc, các tổ chức khác hay bất kì cá nhân nào đều phải tôn trọng quyền đó của
họ, không ai đƣợc quyền xâm phạm.
Tuân theo pháp luật là cơ sở để thể hiện tính độc lập trong xét xử. Tuân theo
nghĩa là nghe theo và làm theo. Xét theo khía cạnh thuần túy của tính độc lập, để có
thể tự mình đƣa ra phán quyết Thẩm phán và Hội thẩm phải có kiến thức pháp luật
và phải chấp hành quy định của pháp luật. Kiến thức pháp luật là những kiến thức
về khoa học luật hình sự và kiến thức về luật chuyên ngành. Tuân theo pháp luật là
làm theo những quy định của pháp luật, bao gồm cả PLHS và pháp luật TTHS cũng
nhƣ các luật chuyên ngành. Khi nắm chắc các kiến thức pháp luật, Thẩm phán và
Hội thẩm có điều kiện để thể hiện sự độc lập trong phán quyết của mình. Xét ở một
khía cạnh khác thì tuân theo pháp luật đã loại trừ các tác động khác đến hoạt động
xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm, bởi vậy mà Thẩm phán và Hội thẩm mới có
đƣợc sự độc lập.
Tuy Thẩm phán và Hội thẩm có quyền xét xử độc lập, nhƣng không có nghĩa
là họ đƣợc xét xử tùy tiện mà xét xử phải tuân theo quy định của pháp luật. Nếu
không tuân theo pháp luật thì sự độc lập này cũng chỉ là chủ quan duy ý chí, không
có cơ sở pháp lý nên các kết luận cũng bị coi là độc đoán, không khách quan, dễ gây
hậu quả khôn lƣờng. Độc lập mà không theo pháp luật thì độc lập trong xét xử sẽ
không còn ý nghĩa vì sự xét xử tùy tiện, độc đoán, không tránh khỏi sự chủ quan,
cảm tính khi đánh giá vấn đề.
Độc lập trong sự thống nhất với việc tuân theo pháp luật. Ở đây, độc lập
không có nghĩa thoát ly khỏi những quy định của pháp luật bởi tuân theo pháp luật
mà không có sự độc lập thì chỉ là sự tuân theo một cách hình thức không khách
quan. Độc lập nhƣng phải trên cơ sở những quy định của pháp luật. Mọi kết luận
của bản án, quyết định của Thẩm phán và Hội thẩm phải phù hợp với các tình tiết
27
khách quan của vụ án. Bản án phải xác định đúng ngƣời phạm tội, đúng hành vi
phạm tội, đúng những thiệt hại do tội phạm gây ra. Mỗi nhận định của bản án đều
phải dựa trên những chứng cứ và tình tiết xác thực đã đƣợc xem xét tại phiên tòa có
lập luận chặt chẽ, không dựa trên ý chí chủ quan, cảm tính cá nhân của mỗi thành
viên HĐXX. Có ý kiến cho rằng, chỉ cần quy định khi xét xử, Thẩm phán và Hội
thẩm chỉ tuân theo pháp luật vì nếu chỉ cần các thành viên của HĐXX tuân theo
pháp luật thì sẽ có kết luận chính xác. Chúng ta biết rằng, pháp luật là những quy
tắc xử sự, song pháp luật không thể chính xác nhƣ một phép tính toán học. Trong
các chế tài của các quy phạm pháp luật hình sự, ngoại trừ hình phạt tử hình, các loại
hình phạt tù có thời hạn, cải tạo không giam giữ, hoặc phạt tiền bao giờ cũng có quy
định một khoảng nhất định, chứ không quy định một mức cụ thể nào. Khả năng
nhận thức và các điều kiện nhận thức của các thành viên của HĐXX là khác nhau.
Thực tiễn xét xử cho thấy do các Hội thẩm thƣờng là những ngƣời không có trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ về xét xử nên khi tham gia vào quá trình xét xử, họ
thƣờng có tâm lý ỷ lại và phụ thuộc vào Thẩm phán chủ toạ phiên toà [25]. Nhƣ
vậy, nếu các thành viên không có sự độc lập sẽ dẫn đến việc xét xử theo sự áp đặt
của Thẩm phán, sự lệ thuộc của Hội thẩm, sự tác động của các yếu tố khác ngoài
HĐXX sẽ dẫn đến quyết định của bản án không chính xác và thiếu khách quan,
hoặc xét xử với hình phạt quá nặng, hay xét xử với hình phạt quá nhẹ.
Nhƣ vậy, độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật luôn có mối quan hệ gắn
bó, bổ sung cho nhau. Trong đó “độc lập” là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và
Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật; “chỉ tuân theo pháp luật” là cơ sở cần
thiết để Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử. Yếu tố độc lập và tuân theo
pháp luật không thể tách rời nhau. Độc lập nhƣng phải tuân theo pháp luật và tuân
theo pháp luật nhƣng phải đảm bảo sự độc lập, tránh tình trạng áp đặt. Chính vì mối
quan hệ này mà Thẩm phán và Hội thẩm phải tuân thủ cả hai nội dung “độc lập” và
“chỉ tuân theo pháp luật” nhƣ đã nêu. Nhƣ vậy, có thể nhận thấy “Độc lập và tuân
theo pháp luật là hai nội dung có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chỉ khi nào đảm
bảo Thẩm phán và Hội thẩm độc lập thì họ mới tuân theo pháp luật đƣợc và ngƣợc
28
lại. Thẩm phán và Hội thẩm độc lập mới nâng cao chất lƣợng xét xử, mới đảm bảo
trách nhiệm cá nhân, mới đúng với tính chất của hoạt động tƣ pháp, đảm bảo khách
quan đúng với diễn biến phiên tòa” [13].
1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
xác định vai trò, vị trí của cơ quan Tòa án trong hệ thống cơ quan nhà nƣớc nói chung
và cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng. Nguyên tắc này còn có ý nghĩa trong việc đảm
bảo công bằng xã hội. Mọi cá nhân dù ở địa vị xã hội nào, nếu vi phạm pháp luật đều
bị xét xử nhƣ nhau. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
là một trong các yếu tố để thực hiện công bằng xã hội, xây dựng một Nhà nƣớc pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa, một Nhà nƣớc của dân và vì dân. Nguyên tắc này có vị trí và
ý nghĩa quan trọng đối với lý luận cũng nhƣ thực tiễn áp dụng.
Thứ nhất, nguyên tắc này mang ý nghĩa đặc trưng của pháp luật TTHS.
Nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật” trong TTHS ngoài việc thể hiện nội dung một nguyên tắc đƣợc ghi nhận
trong hiến pháp, thì nó còn có những nét đặc thù. Bởi lẽ, pháp luật TTHS là một bộ
phận của hệ thống pháp luật nên nó cũng mang những đặc điểm chung của pháp
luật xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra là một bộ phận riêng biệt trong hệ thống pháp luật,
nên pháp luật TTHS cũng có đặc trƣng riêng, khác biệt so với các lĩnh vực pháp luật
khác nhƣ: pháp luật tố tụng hành chính, tố tụng dân sự. Nếu nhƣ với trong tố tụng
dân sự, nguyên tắc này mang tính chất tƣơng đối mềm dẻo. Khi hai đƣơng sự có lợi
ích hợp pháp bị xâm phạm quyền khởi kiện hoặc không khởi kiện để yêu cầu Tòa
án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi đƣơng sự khởi kiện thì mọi hành vi tố
tụng tiếp theo do đƣơng sự quyết định. Tòa án chỉ giải quyết những vấn đề đƣơng
sự yêu cầu còn vấn đề đƣơng sự không yêu cầu thì Tòa án không giải quyết. Mặc dù
Tòa án vẫn giữ vai trò chủ động xét xử song việc giải quyết vụ án dân sự trƣớc tiên
vẫn phụ thuộc vào sự định đoạt, thỏa thuận giữa các bên đƣơng sự. Do vậy, “độc
lập xét xử” không đƣợc áp dụng triệt để. Tố tụng hành chính xuất hiện khi các
29
quyền và lợi ích cơ bản của công dân, tổ chức bị xâm phạm mà “người” xâm phạm
là các cơ quan nhà nƣớc, là cơ quan đại diện cho “công quyền”, thay mặt Nhà nƣớc
trong việc ra các quyết định hay thực hiện các hành vi hành chính. Vì vậy, “người
bị kiện” bao giờ cũng là những những ngƣời có chức vụ quyền hạn, là ngƣời luôn có
vị trí “xứng tầm” với các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong TTHS, “độc lập xét xử”
mang tính chất tuyệt đối. Xét xử - hoạt động tố tụng của Tòa án đƣợc coi là hoạt
động trung tâm của toàn bộ hoạt động TTHS nên các nguyên tắc về xét xử đƣợc các
nhà làm luật quan tâm hơn cả, trong đó, trƣớc tiên và quan trọng nhất là “độc lập
xét xử”. Nhƣ vậy, sự độc lập trong xét xử trong TTHS là bắt buộc, nó thể hiện tính
chất cứng rắn triệt để theo đúng tinh thần pháp luật để đảm bảo mọi hành vi phạm
tội đƣợc phát hiện xử lý nghiêm minh và kịp thời.
Thứ hai, ý nghĩa chính trị xã hội.
Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền
tƣ pháp. Hoạt động xét xử của Tòa án là biểu hiện tập trung nhất của quyền lực tƣ
pháp. Kết quả xét xử thể hiện nền công lý, sự đối xử bình đẳng, công bằng trong tất cả
các mối quan hệ và cũng là thể hiện chất lƣợng hoạt động và uy tín của hệ thống tƣ
pháp. Xuất phát từ bản chất của hoạt động tƣ pháp mà Tòa án là trung tâm của việc
thực hiện và xét xử là hoạt động trọng tâm, đòi hỏi việc xét xử phải bảo đảm tính độc
lập. Chính vì vậy, nguyên tắc độc lập xét xử đƣợc coi là tiền đề nền tảng của hoạt động
tƣ pháp trong Nhà nƣớc pháp quyền, bảo đảm quan trọng cho việc xét xử đƣợc bình
đẳng, dân chủ, khách quan. Hoạt động xét xử không phải là hoạt động của một cá nhân
mà là hoạt động của một tập thể, không chỉ là hoạt động của “quan tòa” mà còn có sự
tham gia giám sát, tham gia xét xử của nhân dân thông qua những ngƣời đại diện của
họ, đó là Hội thẩm. Hội thẩm bằng sự tham gia của mình vào HĐXX mà thực hiện
quyền lực tƣ pháp, đồng thời thông qua đó thể hiện sự tham gia của nhân dân vào hoạt
động quản lý Nhà nƣớc nói chung, hoạt động của Tòa án nói riêng.
Thứ ba, về ý nghĩa pháp lý.
Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp, Luật tổ chức TAND, BLTTHS. Đây là cơ sở pháp
30
lý để Thẩm phán và Hội thẩm tiến hành hoạt động xét xử đƣợc khách quan, đúng
pháp luật, là cơ sở bảo đảm Hiến pháp và pháp luật đƣợc thực thi một cách nghiêm
túc bởi những ngƣời thi hành pháp luật và những ngƣời xét xử hành vi vi phạm
pháp luật. Đây là nguyên tắc xuyên suốt quá trình tổ chức và hoạt động tƣ pháp.
Tuân theo nguyên tắc này, một mặt, góp phần bảo đảm cho sự chính xác của điều
tra, truy tố, xét xử, tăng thêm lòng tin của quần chúng vào sự ngay thẳng, chí công,
vô tƣ của các cơ quan tƣ pháp; mặt khác, còn nhằm ngăn chặn sự tác động của cá
nhân hay của các tổ chức vào hoạt động tƣ pháp.
Thứ tư, về ý nghĩa đối với hoạt động thực tiễn.
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật mang tính khách quan, khoa học vì nguyên tắc này đƣợc xây dựng trên cơ sở
đúc kết kinh nghiệm của quá trình giải quyết vụ án hình sự và các kết quả nghiên
cứu của khoa học luật TTHS nên nguyên tắc này phản ánh sâu sắc quy luật phát
triển khách quan quá trình đấu tranh chống tội phạm và giải quyết vụ án hình sự.
Tuy nhiên, những quy luật khách quan đó đƣợc xây dựng thành những nguyên tắc
của luật TTHS thông qua những con ngƣời cụ thể, đó là sự nhận thức chủ quan đối
với các quy luật khách quan. Vì vậy, việc nhận thức đúng đắn các quy luật khách
quan của quá trình giải quyết vụ án hình sự để quy định thành nguyên tắc của Luật
TTHS có ý nghĩa hết sức quan trọng. Ngƣời ta có thể đƣa ra những nguyên tắc sai
khi không nhận thức đúng đắn các quy luật khách quan, trong trƣờng hợp này cần
có sự sửa đổi kịp thời nếu không sẽ làm giảm hiệu quả của việc giải quyết vụ án
hình sự. Nguyên tắc này loại trừ các sự tác động không cần thiết, thậm chí tiêu cực
của cơ quan, tổ chức khác đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm và
đảm bảo sự bình đẳng độc lập giữa các thành viên của HĐXX.
1.4. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật trong mối liên hệ với các nguyên tắc khác trong luật tố tụng hình sự
1.4.1. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật trong mối liên hệ với nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người
tiến hành hoặc người tham gia tố tụng
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
31
luật và nguyên tắc bảo đảm sự vô tƣ của những ngƣời tiến hành hoặc ngƣời tham
gia tố tụng là hai nguyên tắc có nội hàm gần gũi, gắn bó mật thiết với nhau. Độc
lập xét xử đƣợc thể hiện thông qua sự độc lập của Thẩm phán, ngƣời tiến hành tố
tụng trong mối quan hệ với những quyền lực khác, kể cả công quyền cũng nhƣ các
quyền lực thực tế (truyền thông, chuyên gia, các bên đƣơng sự). Nguyên tắc độc
lập xét xử liên quan trực tiếp đến địa vị của những ngƣời tiến hành tố tụng. Trong
khi đó, nguyên tắc vô tƣ lại liên quan nhiều hơn đến tổ chức và hoạt động nội bộ
của tòa, của các cơ quan tiến hành tố tụng, đến phẩm chất cá nhân của ngƣời tiến
hành tố tụng.
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật không hoàn toàn đồng nhất với nguyên tắc bảo đảm sự vô tƣ của những ngƣời
tiến hành tố tụng hoặc ngƣời tham gia TTHS. Sự khác nhau thể hiện ở chỗ: thứ
nhất, phạm vi chủ thể đƣợc áp dụng ở hai nguyên tắc là khác nhau. Thứ hai, nguyên
tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật cần phải dựa
trên nguyên tắc “bảo đảm sự vô tƣ của những ngƣời tiến hành tố tụng hoặc ngƣời
tham gia TTHS”, bởi có vô tƣ thì Thẩm phán và Hội thẩm mới độc lập xét xử. Một
bộ phận quan trọng của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật nằm trong các bảo đảm về sự vô tƣ của những ngƣời tiến hành
tố tụng hoặc ngƣời tham gia tố tụng nhƣ: tránh những can thiệp, ảnh hƣởng từ phía
cá nhân, cơ quan tổ chức bên ngoài vào hoạt động xét xử. Tuy nhiên, một bộ phận
cấu thành của nguyên tắc “Bảo đảm sự vô tƣ của những ngƣời tiến hành tố tụng
hoặc ngƣời tham gia tố tụng” lại có tính đặc thù so với nguyên tắc Thẩm phán và
Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Để thực sự vô tƣ thì ngƣời tiến
hành tố tụng phải không đƣợc có định kiến sẵn về vụ việc đang xét xử. Việc bảo
đảm cho độc lập xét xử không phải luôn đồng nghĩa với việc tránh đƣợc các định
kiến của ngƣời tiến hành tố tụng – những định kiến có khả năng làm cho kết quả tố
tụng hành chính trở nên sai lệch, kém khách quan. Để đảm bảo sự vô tƣ của những
ngƣời tham gia tố tụng thì theo quy định tại Điều 42 BLTTHS thì trong một số
trƣờng hợp ngƣời tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi.
32
Có thể thấy, mặc dù hƣớng đến mục tiêu chung là việc giải quyết vụ án một
cách khách quan, tuân theo các quy định của pháp luật nhƣng nguyên tắc Thẩm
phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và nguyên tắc “Bảo đảm
sự vô tƣ của những ngƣời tiến hành tố tụng hoặc ngƣời tham gia tố tụng” lại hƣớng
đến những mục tiêu khác nhau. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật đƣợc coi là tiền đề của nguyên tắc bảo đảm sự vô tƣ, bởi
lẽ ngƣời Thẩm phán và Hội thẩm chỉ có thể vô tƣ trên cơ sở độc lập. Ngƣợc lại, một
Thẩm phán độc lập hoàn toàn nhƣng cũng vẫn có khả năng thiếu vô tƣ trong một vụ
việc nhất định. Chính vì lẽ đó, hai khái niệm trên thƣờng đi liền với nhau [16].
Tại Điều 1 Hiến chƣơng thế giới của Thẩm phán đã quy định rõ: “Sự độc lập
của Thẩm phán là điều kiện tiên quyết để thực thi một nền công lý vô tư trong sự
thượng tôn của pháp luật. Chúng không thể bị tách rời. Mọi thiết chế, tổ chức, dù là
quốc tế hay quốc gia, đều phải tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ sự độc lập này” [17].
1.4.2. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật trong mối liên hệ với nguyên tắc suy đoán vô tội
Nguyên tắc suy đoán vô tội là một nguyên tắc về bảo đảm quyền con ngƣời.
Theo đó một ngƣời sẽ không bị coi là có tội nếu không bị kết án bởi một Tòa án hợp
pháp. Điều 11 Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc và Điều 14
Công ƣớc quốc tế về quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc năm 1966 đều có
quy định: “Bất kỳ người bị buộc tội nào đều có quyền suy đoán là không phạm tội
cho đến khi lỗi của người đó được xác định theo một trình tự do pháp luật quy định
bằng phiên tòa xét xử công khai của Tòa án với sự bảo đảm đầy đủ khả năng bào
chữa của người đó” [22].
Mặc dù pháp luật của Nhà nƣớc ta chƣa sử dụng thuật ngữ “nguyên tắc suy
đoán vô tội” trong các văn bản pháp luật, song Hiến pháp năm 2013 đã thừa nhận
nguyên tắc này. Điều 31 quy định:
Ngƣời bị buộc tội đƣợc coi là không có tội cho đến khi đƣợc
chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật. Ngƣời bị buộc tội phải đƣợc Tòa án xét xử kịp thời
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT

More Related Content

What's hot

Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Ủy thác thi hành án dân sự theo Pháp luậthi h tành án dân sự
Luận văn: Ủy thác thi hành án dân sự theo Pháp luậthi h tành án dân sựLuận văn: Ủy thác thi hành án dân sự theo Pháp luậthi h tành án dân sự
Luận văn: Ủy thác thi hành án dân sự theo Pháp luậthi h tành án dân sựDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

What's hot (20)

Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
 
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOTĐề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
 
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Ủy thác thi hành án dân sự theo Pháp luậthi h tành án dân sự
Luận văn: Ủy thác thi hành án dân sự theo Pháp luậthi h tành án dân sựLuận văn: Ủy thác thi hành án dân sự theo Pháp luậthi h tành án dân sự
Luận văn: Ủy thác thi hành án dân sự theo Pháp luậthi h tành án dân sự
 
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoàiThẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
 
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
 
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOTTội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 
Luận văn: Chế độ bầu cử ở nước ta - vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Chế độ bầu cử ở nước ta - vấn đề lý luận và thực tiễnLuận văn: Chế độ bầu cử ở nước ta - vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Chế độ bầu cử ở nước ta - vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận văn: Quản lý đối với các tổ chức hành nghề công chứng, HOT
Luận văn: Quản lý đối với các tổ chức hành nghề công chứng, HOTLuận văn: Quản lý đối với các tổ chức hành nghề công chứng, HOT
Luận văn: Quản lý đối với các tổ chức hành nghề công chứng, HOT
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 

Similar to Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT

Similar to Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT (20)

Luận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOTLuận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOT
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOTLuận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
 
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAYLuận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự, HAYLuận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sựLuận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
 
Đề tài: Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong cải cách tư pháp
Đề tài: Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong cải cách tư pháp Đề tài: Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong cải cách tư pháp
Đề tài: Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong cải cách tư pháp
 
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụngNgười tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
 
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAYĐề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sựLuận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOTLuận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
 
Luận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Luận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nướcLuận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Luận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
 
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nướcLuận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
 
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAYNguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng, HAY
 
Luận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOT
Luận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOTLuận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOT
Luận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOT
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 

Recently uploaded (19)

Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 

Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHAN BÁ BẢY NGUY£N T¾C THÈM PH¸N Vµ HéI THÈM XÐT Xö §éC LËP Vµ CHØ TU¢N THEO PH¸P LUËT THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHAN BÁ BẢY NGUY£N T¾C THÈM PH¸N Vµ HéI THÈM XÐT Xö §éC LËP Vµ CHØ TU¢N THEO PH¸P LUËT THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUÂN HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Phan Bá Bảy
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.................................................................................................7 1.1. Khái niệm nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.......................................................... 7 1.2. Nội dung nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật........................................................ 13 1.2.1. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập ............................................ 14 1.2.2. Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật ............. 21 1.2.3. Mối quan hệ giữa độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm ......................................... 25 1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật........................................................ 28 1.4. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong mối liên hệ với các nguyên tắc khác trong luật tố tụng hình sự...................................................... 30 1.4.1. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong mối liên hệ với nguyên tắc bảo đảm sự vô tƣ của những ngƣời tiến hành hoặc ngƣời tham gia tố tụng ............. 30
  • 5. 1.4.2. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong mối liên hệ với nguyên tắc suy đoán vô tội ..... 32 1.4.3. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong mối liên hệ với nguyên tắc xác định sự thật của vụ án............................................................................................ 33 1.4.4. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong mối liên hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc Toà án ............................................................................... 34 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 35 Chương 2: NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK.....................................................................36 2.1. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo quy định pháp luật ............................... 36 2.2. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ...... 47 2.2.1. Tình hình xét xử trong những năm gần đây (2009 – 2014) .............. 47 2.2.2. Những hạn chế trong việc tuân thủ nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật tại Đắk Lắk...... 48 2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc tuân thủ nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật tại Đắk Lắk ................................................................................. 61 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 74 Chương 3: NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉTXỬ ĐỘCLẬP VÀCHỈTUÂNTHEO PHÁPLUẬT......................75
  • 6. 3.1. Những yêu cầu cải cách tư pháp về nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật .................... 75 3.2. Những giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật........................................................................................... 83 3.2.1. Triển khai thực hiện Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014....................................................................... 83 3.2.2. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về đảm bảo hiệu quả áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ............................................................................ 89 3.2.3. Nâng cao trình độ chuyên môn của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân để đảm bảo hiệu quả nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.......................................... 96 3.2.4. Giải pháp trau dồi đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán và Hội thẩm.. 100 3.2.5. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân.................................... 102 3.2.6. Các giải pháp khác .......................................................................... 104 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3.............................................................................. 107 KẾT LUẬN.................................................................................................. 109 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 111
  • 7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự HĐXX: Hội đồng xét xử PLHS: Pháp luật hình sự TAND: Tòa án nhân dân TTHS: Tố tụng hình sự VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
  • 8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Số vụ án hình sự đƣợc thụ lý và số bị cáo 47 Bảng 2.2: Số lƣợng vụ án hình sự đƣợc giải quyết 47 Bảng 2.3: Số lƣợng bị cáo đƣợc đƣa ra xét xử 47
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Xét xử là hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án, trong hệ thống cơ quan Nhà nƣớc thì chỉ có Tòa án có quyền xét xử và quyết định một ngƣời có tội hay không có tội. Việc xét xử của Tòa án phải dựa trên cơ sở pháp luật mới đảm bảo tính khách quan, vô tƣ không bị phụ thuộc bởi bất kỳ tác động khách quan hay chủ quan của cơ quan, tổ chức nào. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản để Tòa án thực hiện nhiệm vụ xét xử. Thẩm phán và Hội thẩm có quyền đƣa ra phán quyết dựa trên cơ sở quy định của pháp luật để giải quyết vụ án một cách khách quan chính xác mà không phải phụ thuộc vào bất cứ một tác động nào khác. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một nguyên tắc hiến định, có lịch sử hình thành và phát triển lâu dài. Nó đã đƣợc quy định từ Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013; Các luật tổ chức TAND năm 1960, 1981, 1992, 2002, 2014 và tại Điều 16 BLTTHS. Mặc dù đã đƣợc quy định trong Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật khác nhƣng trên thực tế việc áp dụng nguyên tắc này vẫn còn nhiều bất cập, chƣa thực sự đem lại hiệu quả thiết thực trong quá trình Tòa án xét xử các vụ án hình sự. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong hoạt động xét xử, Đảng và Nhà nƣớc ta rất quan tâm và ban hành nhiều chính sách, pháp luật, đề ra phƣơng hƣớng, mục tiêu và quy định cụ thể về hoạt động xét xử của Tòa án. Cụ thể: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tƣ pháp trong thời gian tới đã xác định: Khi xét xử, các Tòa án phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trƣớc pháp luật, thực sự dân chủ khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của ngƣời bào chữa, của bị cáo, nguyên đơn, bị đơn [3].
  • 10. 2 Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: Hoạt động tƣ pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử đƣợc tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao và đề ra yêu cầu: Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của ngƣời tiến hành tố tụng và ngƣời tham gia tố tụng theo hƣớng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lƣợng tranh tụng tại phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tƣ pháp [4]. Với lý do nêu trên, trƣớc yêu cầu của Đảng, Nhà nƣớc và thực tiễn trong việc xét xử của Tòa án đảm bảo tính khách quan, độc lập, đúng pháp luật, tác giả luận văn nhận thấy cần phải nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề về lý luận và thực tiễn áp dụng đối với nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Để có điều kiện nghiên cứu, phân tích sâu và đƣa ra những yêu cầu, giải pháp nhằm hoàn thiện về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, tác giả luận văn chọn đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo luật TTHS Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk) làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật với tƣ cách là một nguyên tắc Hiến định, có thời gian tồn tại lâu dài trong suốt thời gian 69 năm (từ Hiến pháp năm 1946). Từ đó đến nay, ở trong nƣớc đã có khá nhiều nghiên cứu về nguyên tắc này nhƣ: 1. Nguyễn Thanh Sơn (1991), “Độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân”. Tạp chí Tòa án nhân dân. 2. Trần Ba (1996), “Nguyên tắc Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Luận văn thạc sỹ luật học. 3. Hoàng Thị Sơn (1996), Tìm hiểu nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” Tạp chí Luật học
  • 11. 3 4. Nguyễn Văn Hiện (1999), “Vấn đề giới hạn xét xử của TAND”, Tạp chí TAND. 5. Trần Văn Độ (2003), “Đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND”, Tạp chí dân chủ và pháp luật. 6. GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, “Những bảo đảm cho nguyên tắc Tòa án độc lập xét xử có hiệu lực thực tế”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp (2007). 7. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, “Một số yếu tố ảnh hưởng đến nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 2/2009. 8. TS.Nguyễn Đức Mai (2008), Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS hiện hành nhằm nâng cao chất lƣợng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm, Tạp chí Luật học số 7/2008. 9. Từ Thị Hải Dƣơng (2009), Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội. 10.TS. Nguyễn Văn Tuân, “Bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán trong hoạt động xét xử”, Tạp chí dân chủ và pháp luật số chuyên đề tháng 01/2011. 11.Lƣu Tiến Dũng (2011), Những vấn đề về độc lập xét xử trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội. 12.Lâm Thị Thanh Nhàn (2014), Hoàn thiện pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán nhằm nâng cao chất lượng xét xử vụ án hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội. Trên cơ sở tiếp thu tổng hợp những công trình nghiên cứu khoa học, các đề tài và các bài viết cùng với sự nghiên cứu, tìm hiểu của mình, tác giả luận văn đi sâu vào phân tích nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tế địa bàn tỉnh Đắk Lắk) để thấy rằng việc áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt nam trên thực tế vẫn còn có nhiều bất cập, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu đổi mới của Đảng và Nhà nƣớc về hoạt động xét xử của Tòa án theo tinh thần cải cách tƣ pháp hiện nay mà Đảng và Nhà nƣớc đã
  • 12. 4 nêu rõ trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị. Từ đó đƣa ra những yêu cầu, giải pháp phù hợp để góp phần xây dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo luật TTHS Việt nam đƣợc thực hiện, áp dụng thống nhất có hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài này cũng nhằm mục đích khẳng định đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta trong quá trình cải cách tƣ pháp là đúng đắn, kịp thời và cần phải thống nhất thực hiện. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài luận văn có mục đích phân tích làm sáng tỏ về mặt lý luận đối với nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt nam và việc áp dụng nguyên tắc này vào thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó đƣa ra những yêu cầu, giải pháp nhằm hoàn thiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ khái niệm, nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt nam. - Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt nam trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong hoạt động xét xử của Tòa án. Từ đó đƣa ra một số yêu cầu, giải pháp nhằm hoàn thiện về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng đối với nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài đi sâu nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt Nam trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong hoạt động xét xử của Tòa án.
  • 13. 5 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trên cơ sở mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có phạm vi nghiên cứu về những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đối với nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt Nam trong hoạt động xét xử của Tòa án. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc đối với hoạt động xét xử của Tòa án và cụ thể là tính độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của triết học Mác – Lênin mà cụ thể là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu khoa học nhƣ: Phân tích, tổng hợp, logic biện chứng, hệ thống. 6. Những điểm mới về khoa học của luận văn - Về mặt lý luận: Luận văn làm rõ đƣợc khái niệm, nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt Nam. - Về mặt thực tiễn: Luận văn đi sâu phân tích một cách toàn diện, có hệ thống về các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt Nam trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, trong hoạt động xét xử của Tòa án. Trên cơ sở đó đề ra một số yêu cầu, giải pháp nhằm hoàn thiện về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng đối với nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt Nam, góp phần vào quá trình cải cách tƣ pháp trong thời gian tới mà Đảng và Nhà nƣớc ta đang đặt ra.
  • 14. 6 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa về lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, có tính hệ thống và toàn diện về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt Nam. Đề tài luận văn làm sáng tỏ vai trò quan trọng của độc lập xét xử và tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm để từ đó có thể đánh giá đƣợc thực trạng của các cơ sở hiến định và pháp luật về độc lập xét xử nhìn từ góc độ tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nƣớc và thực tiễn thi hành các quy định đó. - Ý nghĩa về thực tiễn: Từ kết quả nghiên cứu của luận văn để các cơ quan ban ngành, cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng và đặc biệt là Thẩm phán và Hội thẩm xác định đúng đắn, thống nhất khi áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt Nam. Từ đó, đƣa ra những yêu cầu, giải pháp nhằm hoàn thiện những điểm còn bất cập khi áp dụng nguyên tắc này. Ngoài ra, luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy và nghiên cứu đối với môn học Luật TTHS và kết quả nghiên cứu này cũng có thể đƣợc vận dụng trong công tác lập pháp sửa đổi, bổ sung BLTTHS và thực tiễn áp dụng BLTTHS đối với nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo luật TTHS Việt Nam. 8. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có 3 chƣơng: Chương 1: Những vấn đề chung về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo Luật TTHS Việt Nam. Chương 2: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Chương 3: Những yêu cầu và giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
  • 15. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Nguyên tắc “khi xét xử Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” đƣợc qui định trong các bản Hiến pháp của Việt Nam kể từ Hiến pháp 1946. Lịch sử phát triển của Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn với 5 bản Hiến pháp đƣợc ban hành tại những thời điểm lịch sử khác nhau. Nguyên tắc này khẳng định trong hoạt động xét xử, Thẩm phán không phụ thuộc vào bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào khi đƣa ra các nhận định đánh giá và phán quyết của mình về vụ án. Mọi cá nhân, tổ chức không đƣợc can thiệp vào các hoạt động xét xử của Tòa án. Ở Việt Nam, tổ chức bộ máy Nhà nƣớc hiện nay theo nguyên tắc quyền lực Nhà nƣớc là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Tòa án là cơ quan thực hiện hoạt động tƣ pháp - hoạt động nhân danh công lý và dựa vào công lý thì Tòa án phải xét xử nhƣ một ngƣời đứng giữa, trung lập, không phụ thuộc vào bên nào, chỉ xét xử độc lập và tuân theo pháp luật thì Tòa án mới tồn tại đúng với bản chất của mình là một cơ quan bảo vệ công lý. Mặt khác, nguyên tắc này hình thành còn xuất phát từ chế độ dân chủ nhân dân ở nƣớc ta. Việc xét xử của Tòa án có Hội thẩm nhân dân tham gia đã đƣợc hiến pháp và pháp luật quy định, đó là một trong những nguyên tắc thể hiện rõ tƣ tƣởng “Nhà nước của dân, do dân và vì dân” và chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Pháp luật giao trọng trách cho Hội thẩm nhân dân thay mặt nhân dân tham gia xét xử, giám sát, chế ƣớc, hạn chế tiêu cực trong hoạt động của Tòa án, bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Giúp cho việc xét xử của Tòa án đƣợc rõ ràng, chính xác, phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng đƣợc nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
  • 16. 8 Nguyên tắc này khẳng định trong hoạt động xét xử, Thẩm phán không phụ thuộc vào bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào khi đƣa ra các nhận định đánh giá và phán quyết của mình về vụ án. Mọi cá nhân, tổ chức không đƣợc can thiệp vào các hoạt động xét xử của Tòa án. Theo từ điển Tiếng Việt, “nguyên tắc” với nghĩa chung nhất đƣợc hiểu là “điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loại việc làm”[56]. Nhƣ vậy, nguyên tắc là điều không thể thiếu trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con ngƣời, đảm bảo cho những hoạt động đó đi đúng hƣớng và đạt hiệu quả cao. Hiện nay đang có những quan niệm khác nhau về nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS, nhƣ định nghĩa, tiêu chí, cách phân loại cũng nhƣ xác định giá trị các nguyên tắc cơ bản trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên quan niệm chung nguyên tắc của TTHS là “những tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động TTHS hoặc đối với một loại hoạt động nhất định”[57]; “là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ các chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thể về TTHS” [43]; hoặc đó là “những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hoạt động TTHS và được các văn bản pháp luật TTHS ghi nhận” [43]. Tuy nhiên, những quan niệm trên đây đều nhấn mạnh tính chỉ đạo của các nguyên tắc mà chƣa nhấn mạnh một tính chất khác của nguyên tắc – đó là tính đòi hỏi khách quan là yêu cầu khách quan đảm bảo cho hoạt động TTHS đạt đƣợc mục đích, đƣợc phản ánh trong pháp luật, trở thành những bảo đảm pháp lý. Nếu không nhấn mạnh tính đòi hỏi khách quan này của nguyên tắc thì việc xây dựng pháp luật TTHS không thể đảm bảo tính khoa học và những đổi mới sẽ ít nhiều dễ bị tùy tiện, chủ quan, duy ý chí. Các quan điểm đƣợc thừa nhận rộng rãi cho rằng nguyên tắc cơ bản của luật TTHS bao gồm: Thứ nhất, đây là những quan điểm, tƣ tƣởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ các chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thể về TTHS; Thứ hai, nguyên tắc TTHS đƣợc phản ánh trên ba lĩnh vực: trong luật thực định, trong việc giải thích, trong thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật TTHS trừu tƣợng; Thứ ba, các nguyên tắc này luôn đƣợc các nhà làm luật ghi nhận trong các quy phạm pháp luật [5].
  • 17. 9 Giáo trình luật TTHS Việt Nam của Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội đã đƣa ra các đặc điểm của nguyên tắc cơ bản của luật TTHS. Thứ nhất, các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS là những tƣ tƣởng, định hƣớng của hoạt động TTHS; Thứ hai, các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS chi phối toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc chi phối một số giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án hình sự; Thứ ba, các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS đƣợc ghi nhận trong các văn bản pháp luật của Nhà nƣớc nhƣ Hiến pháp, Bộ luật TTHS…; Thứ tư, các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS phản ảnh những nguyên lý cơ bản nhất trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; Thứ năm, luật TTHS có các nhóm nguyên tắc cơ bản sau: các nguyên tắc đảm bảo pháp chế XHCN trong hoạt động TTHS; các nguyên tắc đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động TTHS; các nguyên tắc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trên cơ sở các đặc trƣng này, giáo trình đã đƣa ra định nghĩa về các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS: “Nguyên tắc cơ bản của luật TTHS là những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của hoạt động TTHS trong quá trình xây dựng và áp dụng luật tố tụng hình sự”[13]. Trong quá trình xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án hình sự những nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS cần đƣợc quán triệt và thực hiện nghiêm chỉnh mà đặc trƣng nhất đó là nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Những nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS nói chung và nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” nói riêng thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nƣớc ta là đảm bảo mọi tội phạm đều đƣợc phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và làm oan ngƣời vô tội. Theo tinh thần và nội dung của chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 của Đảng ta, cần phải có sự nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò của Toà án trong bộ máy Nhà nƣớc và những nguyên tắc hoạt động cơ bản của Toà án, trong đó có nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Để làm rõ nội dung nguyên tắc này trƣớc những yêu cầu của cải cách tƣ pháp, trƣớc hết cần xuất phát từ vị trí xã hội và những giá trị xã hội của Toà án - với tƣ cách là cơ quan đƣợc Nhà nƣớc trao quyền, nhân danh Nhà nƣớc
  • 18. 10 thực hiện quyền tƣ pháp. Có thể thấy, sự thừa nhận về mặt pháp lý đối với độc lập tƣ pháp cần đảm bảo triệt để các yếu tố: thứ nhất, Tòa án phải đƣợc trao thẩm quyền giải quyết mọi vấn đề mang tính chất tƣ pháp; thứ hai, Tòa án phải là cơ quan duy nhất có quyền quyết định trong việc xác định vụ việc đang yêu cầu giải quyết có thuộc thẩm quyền xét xử của mình hay không, dựa trên các quy định pháp luật về TTHS; thứ ba, quyết định cuối cùng Tòa án đƣa ra không phải chịu bất kì sự chi phối hoặc áp đặt về mặt ý chí của bất kỳ cơ quan quyền lực nào [8]. Là cơ quan trong hệ thống tƣ pháp, Tòa án có những đặc thù so với các cơ quan khác trong hệ thống này, đó là: - Tòa án, ngƣời đại diện của quyền lực tƣ pháp khác với cơ quan lập pháp và hành pháp ở chỗ không giải quyết các vấn đề ở tầm vĩ mô, không hoạch định chính sách kinh tế - xã hội mà có chức năng giải quyết các vấn đề rất cụ thể, từng tình huống, từng sự kiện cụ thể trong đời sống xã hội. Vì vậy, cách thức tổ chức và hoạt động khác với cơ quan lập pháp và hành pháp. Nói cách khác, so với hai cơ quan nói trên, Tòa án "thụ động" hơn, phải "chờ" có việc thì mới xét xử. Toà án chủ yếu đóng vai trò là một bộ máy “quyền lực” chứ không sản sinh ra “công lực” mới, nó thực hiện việc áp dụng pháp luật, đƣa việc thực hiện quyền lực tƣ pháp vào cuộc sống. Bởi vì thông qua quyền lực tƣ pháp mà pháp luật tác động đến những quan hệ xã hội. Đây không phải là phƣơng tiện duy nhất nhƣng là phƣơng tiện chủ yếu trong việc giải quyết các trƣờng hợp xung đột giữa các quan hệ pháp luật. - Những ngƣời làm công tác xét xử phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ pháp lý rất cao, đủ khả năng để giải quyết các vấn đề rất phức tạp nhƣ xác định tội phạm, ngƣời phạm tội và áp dụng hình phạt, phán quyết các tranh chấp, các sự kiện liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. - Lao động xét xử là lao động sáng tạo trong áp dụng pháp luật, đòi hỏi tƣ duy ở trình độ cao của ngƣời Thẩm phán. Họ phải tiếp cận với một hệ thống đồ sộ các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, kể cả pháp luật của các quốc gia khác khi có liên quan và cả pháp luật quốc tế. - Lao động xét xử luôn luôn bị giới hạn bởi những quy định khắt khe của pháp luật tố tụng về chứng cứ, về thời hạn, về độ chính xác của bản án, quyết định.
  • 19. 11 - Việc xét xử phải tuân theo các nguyên tắc Hiến định cũng nhƣ nguyên tắc tố tụng. Các Tòa án về nguyên lý không tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất mà tổ chức thành từng cấp, độc lập với nhau khi xét xử. Trong số các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Toà án thì nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật chiếm vị trí đặc biệt và là nguyên tắc rất đặc trƣng. Trong Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vị trí, vai trò của Toà án lại càng đƣợc khẳng định. Vì Toà án chính là cơ quan thực thi quyền tƣ pháp trong bộ máy Nhà nƣớc và việc thực thi quyền này lại ảnh hƣởng trực tiếp tới mục tiêu và các giá trị của công cuộc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam; Toà án là nơi thể hiện sâu sắc nhất bản chất của Nhà nƣớc và nền công lý của chế độ, đồng thời thể hiện chất lƣợng hoạt động và uy tín của cả hệ thống tƣ pháp trong Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa [24]. Theo nghĩa rộng, xét xử là sự tổng hợp một chuỗi hoạt động của Tòa án kể từ thời điểm thụ lý vụ án cho đến khi ra bản án hoặc quyết định nhằm giải quyết vụ án. Nhƣ vậy xét xử là xem xét và giải quyết vụ án. Theo nghĩa hẹp thì xét xử là hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm tại phiên tòa mà kết quả là ra bản án hoặc quyết định để giải quyết vụ án. “Độc lập xét xử là một nguyên tắc có tính đặc thù, chỉ có thể được áp dụng đối với Thẩm phán và Hội thẩm trong khi xét xử” [44]. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nghĩa là phải tự mình đƣa ra kết luật giải quyết vấn đề trên cơ sở quy định của pháp luật mà không phụ thuộc vào bất cứ yếu tố nào khác. Đó là những tƣ tƣởng chủ đạo, định hƣớng trở thành xử sự bắt buộc chung đối với Thẩm phán và Hội thẩm khi đƣợc phân công xét xử vụ án. Theo Từ điển Tiếng Việt thì “xét xử” là “xem xét và xử các vụ án” và “độc lập” là tự mình tồn tại, hoạt động, không nƣơng tựa hoặc phụ thuộc vào ai. Nhƣ vậy, độc lập xét xử là xem xét các vụ án không phụ thuộc và nƣơng tựa vào ai [56]. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam; là những tƣ tƣởng chủ đạo xuyên
  • 20. 12 suốt toàn bộ hoạt động xây dựng, thực thi, kiểm soát pháp luật tố tụng hình sự; trở thành xử sự bắt buộc chung đối với Thẩm phán và Hội thẩm khi đƣợc phân công xét xử vụ án; là hƣớng tới mục đích giải quyết vụ án khách quan, dân chủ đảm bảo công bằng, công lý trong giải quyết vụ án hình sự. Dù là Nhà nƣớc tƣ sản hay Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa thì vấn đề độc lập xét xử của Tòa án cũng đều đƣợc thừa nhận nhƣ một nguyên tắc cơ bản trong Hiến pháp và pháp luật. Khái niệm “khi xét xử” phải đƣợc hiểu là bao gồm tất cả các giai đoạn mà Thẩm phán thực hiện chức năng tố tụng và ra các quyết định thuộc thẩm quyền tố tụng nhƣ quyết định về thụ lý hồ sơ, về triệu tập nhân chứng, thu thập chứng cứ…. Bởi kết quả của các hoạt động là tiền đề để thực hiện các hoạt động tố tụng khác đƣợc thực hiện tại phiên tòa, nhƣ vậy cần phải đảm bảo các giai đoạn đƣợc thực hiện khách quan và độc lập. Theo tác giả luận văn, độc lập xét xử phải đƣợc hiểu với nghĩa là khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm phải có chính kiến, quan điểm của mình trong việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, mức hình phạt và giải quyết các vấn đề khác dựa trên quy định của pháp luật, đảm bảo việc xét xử công bằng, khách quan. Hay nói cách khác là Thẩm phán và Hội thẩm cần phải độc lập đƣa ra các quyết định của mình “khi xét xử bất kỳ vụ án gì, ở bất cứ cấp xét xử nào và tại bất cứ giai đoạn xét xử nào”[20]. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam; là những tƣ tƣởng chủ đạo xuyên suốt toàn bộ hoạt động xây dựng, thực thi, kiểm soát pháp luật tố tụng hình sự; trở thành xử sự bắt buộc chung đối với Thẩm phán và Hội thẩm khi đƣợc phân công xét xử vụ án; là hƣớng tới mục đích giải quyết vụ án khách quan, dân chủ đảm bảo công bằng, công lý trong giải quyết vụ án hình sự. Từ sự phân tích và thừa nhận những quan điểm của những ngƣời nghiên cứu trƣớc đó về khái niệm nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, tác giả luận văn đƣa ra khái niệm về nguyên tắc này nhƣ sau: Với vị trí là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật TTHS, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đòi hỏi trong hoạt động xét xử Thẩm phán và Hội
  • 21. 13 thẩm phải sáng suốt tự mình đưa ra quyết định để giải quyết vụ án, không lệ thuộc vào bất cứ yếu tố nào khác. Hoạt động xét xử phải đảm bảo đúng pháp luật về trình tự thủ tục cũng như các quyết định đưa ra phải chính xác, có căn cứ pháp lý. Không một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào được phép can thiệp vào hoạt động xét xử. 1.2. Nội dung nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Điều 130 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” [34]. Tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định mạnh mẽ hơn “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” [40]. Khái niệm độc lập xét xử theo quy định của Hiến pháp Việt Nam có thể hiểu là việc xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án không phụ thuộc vào bất kỳ ai ngoài những ngƣời có thẩm quyền xét xử. Bản chất chế định Hội thẩm nhân dân là sự thể hiện tƣ tƣởng “lấy dân làm gốc”, bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án. Hội thẩm bằng sự tham gia của mình vào HĐXX để thực hiện quyền tƣ pháp, đồng thời thông qua đó để nhân dân tham gia một cách có hiệu quả vào công tác quản lý Nhà nƣớc nói chung và hoạt động của Tòa án nói riêng. Luật Tổ chức TAND năm 2002, tại Điều 5 quy định: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Tại khoản 1 Điều 9 Luật Tổ chức TAND tiếp tục quy định mạnh mẽ hơn “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào”. Nghĩa là khi tham gia xét xử một vụ án cụ thể, Hội thẩm nhân dân phải nghiên cứu và nắm vững hồ sơ, thu thập thông tin và quá trình diễn biến tại phiên tòa, độc lập suy xét, chí công vô tƣ, không vì nể hoặc vì áp lực của bất cứ cá nhân hoặc tổ chức nào. Thẩm phán và Hội thẩm đƣa ra phán quyết trên cơ sở quy định của pháp luật để giải quyết vụ án một cách khách quan, chính xác [11]. Hội thẩm có địa vị pháp lý và vai trò rất quan trọng trong công tác xét xử bởi
  • 22. 14 chiếm đa số thành viên trong HĐXX và ngang quyền với Thẩm phán khi đƣa ra các phán quyết về vụ án. Khi xét xử, nếu ý kiến biểu quyết của các Hội thẩm giống nhau nhƣng khác ý kiến của Thẩm phán thì quyết định của HĐXX phải theo ý kiến của các Hội thẩm. Thẩm phán chỉ có quyền bảo lƣu ý kiến và đề nghị Tòa án cấp trên xem xét. Bản án, quyết định của HĐXX chứa đựng trách nhiệm không chỉ của cá nhân Thẩm phán mà cả trách nhiệm của xã hội. Để tìm hiểu rõ hơn về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, cần xem xét lần lƣợt nội dung cụ thể sau: 1.2.1. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tƣ pháp. Độc lập xét xử đƣợc xuất hiện từ tƣ tƣởng phân chia quyền lực nhà nƣớc thành quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tƣ pháp của Montesquieu. Ông cho rằng “không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không được tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp” [26], độc lập xét xử là một thuộc tính không thể thiếu trong bất kỳ quốc gia nào. Quyền tƣ pháp thực hiện sự phán quyết về những vấn đề mang tính tƣ pháp, thông thƣờng và chủ yếu là do Tòa án thực hiện. Độc lập xét xử bao gồm các thành tố cơ bản sau: Độc lập của quyền tƣ pháp, độc lập của thiết chế thực hiện quyền tƣ pháp, độc lập của những ngƣời thực hiện quyền lực tƣ pháp. Hay nói một cách khác, độc lập của quyền tƣ pháp với các quyền lực Nhà nƣớc khác, độc lập của cơ quan Tòa án với các cơ quan quyền lực khác cũng nhƣ giữa các cơ quan Tòa án với nhau, độc lập của Thẩm phán. Xuất phát từ bản chất của hoạt động tƣ pháp mà Tòa án là trung tâm của việc thực hiện và xét xử là hoạt động trọng tâm, đòi hỏi việc xét xử phải bảo đảm tính độc lập. Chính vì vậy, nguyên tắc độc lập xét xử đƣợc coi là tiền đề, nền tảng của hoạt động tƣ pháp trong Nhà nƣớc pháp quyền, bảo đảm quan trọng cho việc xét xử đƣợc bình đẳng, dân chủ, khách quan. Theo tác giả luận văn, nếu lấy chủ thể của hoạt động xét xử để nghiên cứu thì sự độc lập đƣợc biểu hiện trên hai khía cạnh, đó là: Độc lập với các yếu tố khách quan và độc lập với các yếu tố chủ quan.
  • 23. 15 Thứ nhất: Độc lập với các yếu tố khách quan. - Độc lập với sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định: Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tƣ tƣởng, là lực lƣợng lãnh đạo Nhà nƣớc và xã hội [40, Điều 4]. Vai trò lãnh đạo của Đảng thông qua các nghị quyết, Đảng lãnh đạo về chủ trƣơng và đƣờng lối đối với hoạt động xét xử là cần thiết, nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng và hiệu quả của hoạt động xét xử, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của xã hội. Đảng chỉ đạo hoặc cho ý kiến về nguyên tắc chung trên cơ sở quy định của pháp luật trong việc giải quyết, xử lý tội phạm liên quan đến cán bộ, đảng viên, các vụ án nghiêm trọng, phức tạp về chính trị, kinh tế, xã hội, các vụ án tham nhũng có liên quan đến cán bộ thuộc diện quản lý của các cấp ủy đảng, các vụ án có liên quan đến quan hệ đối ngoại… và trực tiếp quản lý công tác cán bộ, trong đó có việc xem xét, quyết định nhân sự cán bộ lãnh đạo và Thẩm phán Tòa án các cấp. Ở Việt Nam, quyền lực Nhà nƣớc tập trung và không phân lập nên Quốc hội và Tòa án chỉ là hai bộ phận của hệ thống cơ quan Nhà nƣớc, không có sự phân quyền nhƣ một số nƣớc khác. Trong hoạt động của mình Tòa án phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, nhƣng Nhà nƣớc ta là Nhà nƣớc pháp quyền hoạt động theo nguyên tắc pháp chế và mọi hoạt động của Đảng, kể cả hoạt động lãnh đạo, cũng phải nằm trong khuôn khổ pháp luật. Vì lẽ đó, trong hoạt động xét xử, Tòa án chỉ căn cứ vào pháp luật và làm đúng theo các quy định của pháp luật; nghĩa là, Tòa án luôn độc lập với các cơ quan khác. Nghị quyết 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tƣ pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ: Đảng lãnh đạo các cơ quan tƣ pháp chặt chẽ về chính trị, tổ chức và cán bộ, đảm bảo hoạt động tƣ pháp theo đúng quan điểm của Đảng,
  • 24. 16 pháp luật Nhà nƣớc. Tiếp tục hoàn thiện nội dung và phƣơng thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tƣ pháp, khắc phục tình trạng cấp ủy buông lỏng lãnh đạo hoặc cấp ủy viên can thiệp không đúng lúc vào hoạt động tƣ pháp [3]. Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị ngày 02/06/2005 về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 tiếp tục nhấn mạnh đến sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tƣ pháp, trong đó xác định: ... Xây dựng và thực hiện cơ chế lãnh đạo của cấp ủy Đảng trong việc chỉ đạo giải quyết những vụ việc quan trọng, phức tạp; Cơ chế phối hợp làm việc giữa tổ chức Đảng với các cơ quan tƣ pháp và các ban ngành liên quan theo hƣớng cấp ủy định kỳ nghe báo cáo và cho ý kiến định hƣớng về công tác tƣ pháp…[4]. Giữa tổ chức Đảng và Thẩm phán còn có mối quan hệ giữa đảng viên và tổ chức Đảng qua thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán. Theo chế độ Đảng lãnh đạo Nhà nƣớc, trong đó có cơ quan, đơn vị, vị trí cấp ủy đảng trong việc tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán rõ ràng sẽ ảnh hƣởng đến độc lập của Thẩm phán khi có sự tác động từ cấp ủy đảng. Về Hội thẩm, đây là những ngƣời đƣợc Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Ủy ban mặt trận Tổ quốc cùng cấp và Hội đồng nhân dân cùng cấp bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án TAND cùng cấp sau khi thống nhất với Ủy ban mặt trận Tổ quốc cùng cấp. - Độc lập với các cơ quan Nhà nƣớc khác. Các cơ quan quản lý không đƣợc can thiệp vào việc xét xử của Tòa án vì công tác xét xử đã đƣợc Nhà nƣớc giao cho Tòa án, sự ràng buộc của Tòa án với các cơ quan quản lý là sự ràng buộc về quản lý hành chính nhà nƣớc. Sự độc lập này đƣợc xác định đƣơng nhiên theo nguyên tắc chung tổ chức cơ quan nhà nƣớc, bảo đảm cho các cơ quan nhà nƣớc trong hoạt động thực hiện chức năng của mình có sự độc lập tƣơng đối, có thể gọi là độc lập về nghiệp vụ. Mà HĐXX lại đƣợc cử theo từng vụ án cụ thể, hoạt động có tính độc lập quyết định các vấn đề của vụ án, lại càng không thể phụ thuộc vào các cơ quan quản lý về mặt xét xử vụ án.
  • 25. 17 Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đều là công cụ của Nhà nƣớc, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và bảo vệ quyền lợi của ngƣời lao động. Tuy nhiên mỗi cơ quan đều có chức năng nhiệm vụ riêng khi tham gia vào quá trình tố tụng. Tại phiên tòa Kiểm sát viên đƣa ra chính kiến của mình nhƣng không buộc HĐXX phải thực hiện theo. Tòa án không lệ thuộc vào ý kiến của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Nếu qua phiên tòa xét thấy cần phải xử lý khác với ý kiến của các cơ quan trên thì HĐXX phải căn cứ vào pháp luật để xử lý. Khoản 1 Điều 17 Luật tổ chức TAND năm 2002 quy định: “Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về tổ chức có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân địa phương” [37]. Luật tổ chức TAND năm 2014, tại khoản 1 Điều 18 quy định “Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân về tổ chức”. Việc quy định trên là để các cơ quan tƣ pháp quản lý Tòa án về mặt tổ chức chứ không có quyền can thiệp vào hoạt động xét xử, làm mất đi tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm. - Sự độc lập của Tòa án với yêu cầu của bị can, bị cáo, ngƣời bào chữa và những ngƣời tham gia tố tụng khác. Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm không chỉ độc lập với các cơ quan nhà nƣớc mà còn độc lập với yêu cầu của bị cáo và những ngƣời tham gia tố tụng khác, độc lập với ngƣời bào chữa. Phán quyết của Tòa án bao giờ cũng làm xuất hiện những nhóm mâu thuẫn về lợi ích, đó là mâu thuẫn lợi ích giữa bị cáo và ngƣời bị hại, giữa nguyên đơn dân sự và bị đơn dân sự…Ai cũng có nhu cầu kết quả xét xử phải đƣa lại quyền lợi tối ƣu nhất cho họ hoặc chỉ ít ra cũng tƣớc bỏ tối thiểu quyền và lợi ích của họ. Sau phán quyết của Tòa án có rất nhiều bình luận từ dƣ luận quần chúng nhân dân, từ cơ quan báo chí, rằng xử đúng, xử sai, công bằng hay không công bằng, nặng hay nhẹ. Đặc biệt là đối với các vụ án bị cấp trên hủy xử lại và những vụ án xử lƣu động. Những vấn đề này đều tác động khá mạnh đến tâm lý của Thẩm phán và Hội thẩm khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Xử theo đúng pháp luật hay là xử theo dƣ luận, báo chí, hay xử vì lợi ích của ngƣời bị hại? Xử đúng chƣa chắc dƣ luận đã đồng tình, lại có thể không theo yêu cầu của một số ngƣời tham gia tố
  • 26. 18 tụng. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập với yêu cầu của ngƣời tham gia tố tụng, với báo chí, với dƣ luận nghĩa là việc xét xử chỉ dựa trên những chứng cứ, những quy định của pháp luật, không phụ thuộc vào yêu cầu của những ngƣời nói trên. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc không ai đƣợc phép tác động đến việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Thứ hai: Độc lập với các yếu tố chủ quan. - Sự độc lập giữa các cấp xét xử trong hệ thống Tòa án, độc lập trong một Tòa án. Sự hƣớng dẫn công tác xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dƣới là hết sức cần thiết, bảo đảm cho việc áp dụng thống nhất pháp luật, đƣờng lối xét xử chung trong phạm vi cả nƣớc. Tuy nhiên, Tòa án cấp trên không quyết định trƣớc là Tòa án cấp dƣới phải xét xử một vụ án nhƣ thế nào mà Tòa án cấp trên chỉ hƣớng dẫn Tòa án cấp dƣới về áp dụng thống nhất pháp luật, đƣờng lối xét xử. Nếu có vụ án nào đó Tòa án cấp dƣới tranh thủ ý kiến của Tòa án cấp trên, thì cũng chỉ là trao đổi ý kiến về nghiệp vụ những văn bản pháp luật cần áp dụng, để Tòa án cấp dƣới giải quyết vụ án cho đúng pháp luật, chứ không đặt ý kiến cụ thể về việc giải quyết vụ án đó. Theo quy định tại Điều 2, Luật tổ chức TAND năm 2002 thì hệ thống cơ quan xét xử của Nhà nƣớc ta đƣợc tổ chức theo một hệ thống ngành dọc từ Trung ƣơng tới địa phƣơng, bao gồm: TAND tối cao; TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng; TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định. Theo quy định tại Điều 3 Luật tổ chức TAND năm 2014 thì có thêm các TAND cấp cao. Trong hệ thống đó TAND tối cao là cơ quan xét xử cao nhất. Tuy nhiên tính “cao nhất” ở đây không đồng nghĩa với sự chỉ huy tuyệt đối. Trong tất cả các quy định về tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án không có bất kỳ một quy định nào về chỉ huy và phục tùng trong hoạt động nghiệp vụ giữa Tòa án cấp trên và Tòa án cấp dƣới. Tính “cao nhất” của TAND tối cao trong hệ thống cơ quan xét xử của nƣớc ta thể hiện ở chỗ “ Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác, trừ trường hợp do luật định” [40, Điều 104].
  • 27. 19 Pháp luật đã quy định khi hủy bản án để xét xử sơ thẩm lại, tuy nhiên Tòa án cấp phúc thẩm không đƣợc quy định trƣớc những chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm cần phải chấp nhận hoặc bác bỏ cũng nhƣ không quyết định trƣớc về điều khoản BLTTHS và hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm sẽ phải áp dụng nhƣng việc “Tòa án cấp trên” hủy án “Tòa cấp dưới” cũng ảnh hƣởng đến tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm. Chính vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm phải có chính kiến, quan điểm của mình trong việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, mức hình phạt và giải quyết các vấn đề khác dựa trên quy định của pháp luật, đảm bảo việc xét xử công bằng, khách quan. Khi án bị hủy để xét xử sơ thẩm lại, HĐXX cũng phải xem xét lại nguyên nhân mà Tòa án cấp trên hủy, xem xét toàn diện các chứng cứ, thông tin có phù hợp với thực tế khách quan hay không để xét xử lại đúng pháp luật, không phụ thuộc vào kết quả bị hủy. Nếu cấp trên hủy đúng cần xem xét để xử lại cho chính xác; Nếu cấp trên hủy sai thì phải bảo vệ chính kiến, quan điểm của HĐXX, miễn xóa bản án, quyết định phải có căn cứ và hợp pháp. Độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm cũng có nghĩa là Hội đồng xét xử hoàn toàn độc lập với Tòa án của mình, nhƣng Thẩm phán cũng đƣợc xin ý kiến hƣớng dẫn của Tòa án mình nhƣ mối quan hệ Tòa án cấp dƣới với Tòa án cấp trên. - Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập với nhau trong HĐXX. HĐXX gồm Thẩm phán và Hội thẩm, thành phần cụ thể tùy vào tính chất của từng vụ án cụ thể và cũng tùy thuộc vào từng cấp xét xử. Nhƣ thành phần của HĐXX sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm hoặc hai Thẩm phán và ba Hội thẩm (Điều 185 BLTTHS); Thành phần HĐXX phúc thẩm gồm ba Thẩm phán và trong trƣờng hợp cần thiết có thể có thêm hai Hội thẩm (Điều 244 BLTTHS). Với mỗi vụ án, các Thẩm phán và Hội thẩm cùng nhau làm việc và gắn kết với nhau tạo thành một thể thống nhất là HĐXX. Và các thành viên của HĐXX phối hợp với nhau để tạo ra một “sản phẩm” chung đó là bản án hoặc quyết định trên cơ sở biểu quyết theo đa số. Mặt khác, giữa Thẩm phán và Hội thẩm có sự khác biệt về trình độ nhận thức. Vì vậy, Thẩm phán và Hội thẩm có suy nghĩ và nhận định độc lập với nhau trong quá trình xét xử vụ án. Từng thành viên HĐXX bằng
  • 28. 20 khả năng của bản thân cảm nhận về vụ án và căn cứ theo quy định của pháp luật để đƣa ra ý kiến của mình về vụ án. Kết quả xem xét của HĐXX đƣợc lấy theo ý kiến đa số của thành viên. Nhƣ vậy, tại phòng nghị án từng thành viên của HĐXX có quyền độc lập suy nghĩ đánh giá sự việc theo quy định của pháp luật và theo quan điểm nhận định của mỗi ngƣời không phụ thuộc vào bất cứ một định kiến nào, không phụ thuộc vào ý kiến của các thành viên khác. Từ quyết định độc lập của từng thành viên để đi đến quyết định của tập thể, từ đó làm cho phán quyết của HĐXX đƣợc khách quan. Nhƣ vậy, rõ ràng là mỗi cá nhân Thẩm phán và Hội thẩm đều phải có chính kiến riêng của mình, dù đó là ý kiến thiểu số hay đa số đều đƣợc ghi nhận. Quy định này góp phần khuyến khích sự độc lập của mỗi thành viên HĐXX. Thêm vào đó, Thẩm phán và Hội thẩm phải chịu trách nhiệm cá nhân về những quyết định của riêng mình. Chính trách nhiệm cá nhân này càng thực sự là một đảm bảo cho Thẩm phán và Hội thẩm mạnh dạn có những quyết định độc lập, không phải lệ thuộc vào ý kiến của đa số những ngƣời khác cho dù bản án hoặc quyết định cuối cùng là theo ý kiến của đa số. - Độc lập trong việc đƣa ra quyết định dựa trên những chứng cứ và quy định của pháp luật để kết luận về vụ án Bản án, quyết định của Tòa án đƣa ra dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá các thông tin đã đƣợc cơ quan điều tra thu thập. Chính vì vậy, các thông tin ban đầu (nhất là kết luận điều tra và cáo trạng truy tố) có ảnh hƣởng nhất định đến nhận thức của HĐXX. Thẩm phán và Hội thẩm căn cứ vào các tình tiết của vụ án, các chứng cứ đã đƣợc xem xét tại phiên tòa thông qua điều tra trực tiếp nghe tranh luận của các bên, đồng thời căn cứ vào các quy định của pháp luật để đƣa ra phán quyết, không phụ thuộc vào ý kiến của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát về việc xác định có tội hay không và hình phạt cần áp dụng mà Thẩm phán và Hội thẩm phải tự mình nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án, xem xét những chứng cứ tại phiên tòa để có kết luận về từng vấn đề một cách khách quan. Thẩm phán và Hội thẩm không thể ra ngay quyết định hay bản án xác định bị cáo có tội hay không có tội, hoặc dựa theo
  • 29. 21 chứng cứ và những tình tiết đã đƣợc Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát sử dụng để chứng minh tội phạm và ngƣời phạm tội, mà Thẩm phán và Hội thẩm phải tiến hành mở phiên tòa để xét xử. Thông qua xét xử để điều tra, xác định các tài liệu, chứng cứ của vụ án, thể hiện quan điểm của Thẩm phán và Hội thẩm mà không phụ thuộc kết luận điều tra ban đầu của Cơ quan điều tra, ý kiến của Viện kiểm sát hay bất cứ một tác động nào khác. Nhƣ vậy: Thẩm phán và Hội thẩm phải trực tiếp xem xét các chứng cứ của vụ án chứ không phải chỉ căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hay các chứng cứ mà Viện kiểm sát đã đƣa ra trong bản cáo trạng. Bản án của Tòa chỉ căn cứ vào những chứng cứ đã xem xét tại phiên tòa, đối chiếu với những quy định của pháp luật để xử lý vụ án và có quyền kết luận khác với ý kiến của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát [42] 1.2.2. Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà phải độc lập trong khuôn khổ pháp luật. Sự tôn trọng và thƣợng tôn pháp luật của mọi chủ thể nhƣ là một yêu cầu quan trọng của Nhà nƣớc pháp quyền, không ai, chủ thể nào có thể đứng trên pháp luật, việc tuân theo pháp luật là quyền và cũng là nghĩa vụ của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử. Pháp luật trao cho họ quyền, họ cần phải sử dụng đầy đủ quyền đó, chỗ dựa quan trọng nhất của họ khi xét xử là pháp luật [2]. Pháp luật là nền tảng, là thƣớc đo cho mọi hoạt động của các chủ thể trong xã hội không loại trừ một ai, bởi vì pháp luật trở thành các quy tắc chuẩn vững chắc hơn tất cả các quy định xã hội khác. Quan điểm về xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN của Đảng ta đã chính thức đƣợc thể chế hoá tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” [40]. Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi ở Toà án các yếu tố, chuẩn mực nhƣ sự công minh, công bằng, dân chủ, hiệu quả, hiệu lực, trong đó thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử là cơ sở nền tảng thực hiện các đòi hỏi này. Độc lập xét xử đƣợc xem nhƣ một điều kiện bảo
  • 30. 22 đảm sự vận hành bình thƣờng của Toà án, cho một trình tự tƣ pháp công bằng trong Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử phải dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án, chứ không đƣợc áp đặt ý chí chủ quan của mình. Điều này đòi hỏi và có tính chất bắt buộc đối với Thẩm phán và Hội thẩm. Thẩm phán và Hội thẩm không một bƣớc xa rời pháp luật, không có bất kì sự lẩn tránh nào đối với pháp luật, không tha thứ cho bất kì hành vi vi phạm pháp luật nào [1]. Tố tụng hình sự là quá trình giải quyết vụ án hình sự là hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS, ngƣời tiến hành TTHS, ngƣời tham gia TTHS, của các cơ quan khác và các tổ chức cá nhân có liên quan. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật đƣợc đảm bảo trong hoạt động xét xử, nhằm hạn chế tối đa oan sai, tiêu cực. Muốn xét xử đúng ngƣời, đúng tội đòi hỏi các Thẩm phán và Hội thẩm phải thật sự có năng lực, trình độ, hiểu biết pháp luật một cách chuyên sâu. Trong đó tính sáng tạo là yêu cầu không thể thiếu, bởi vì pháp luật không bao giờ có thể bao quát và dự liệu hết các tình huống của thực tiễn đời sống, nên ngƣời Thẩm phán và Hội thẩm phải vận dụng pháp luật một cách có lý, có tình, phù hợp với thực tế, không cứng nhắc. Tuy nhiên, muốn vận dụng sáng tạo thì lại phải nắm rất vững pháp luật, nếu không thì trở thành làm đại, làm liều. Bên cạnh đó, Thẩm phán và Hội thẩm phải thƣờng xuyên cập nhật kiến thức, nhất là những lĩnh vực đang có nhiều thay đổi, không nắm đƣợc các kiến thức này, khi xét xử nhất định sẽ gặp khó khăn, lúng túng. Cụ thể nhƣ, muốn áp dụng đúng các quy định của BLHS buộc Thẩm phán và Hội thẩm phải có kiến thức về định tội danh, về quyết định hình phạt… mặt khác phải nắm vững các quy định của phát luật về trình tự tố tụng. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm cần phải nắm vững các quy định của pháp luật TTHS. Có thể chia hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm thành hai giai đoạn, thứ nhất là từ khi có quyết định đƣa vụ án ra xét xử đến ngày mở phiên tòa và thứ hai là tại phiên tòa. Các giai đoạn TTHS phải có nội dung là thực hiện các nhiệm vụ cụ thể trên cơ sở các quy định của pháp luật TTHS nhằm giải quyết vụ án hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp
  • 31. 23 luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của công dân trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự. Giai đoạn xét xử đƣợc bắt đầu từ khi Tòa án nhận đƣợc hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển sang. Quá trình xét xử đƣợc thực hiện theo nguyên tắc xét xử trực tiếp bằng lời nói và liên tục, chỉ xét xử những bị cáo, những hành vi theo tội danh mà viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã có quyết định đƣa ra xét xử. Ở giai đoạn này Thẩm phán chủ tọa phiên tòa làm các thủ tục cần thiết trƣớc khi xét hỏi nhƣ: kiểm tra sự có mặt của những ngƣời tham gia tố tụng, giải thích quyền và nghĩa vụ của những ngƣời tham gia tố tụng, giải quyết yêu cầu thay đổi ngƣời tiến hành tố tụng. Khi nghị án, HĐXX cần nghiêm túc tuân thủ những quy định về thủ tục nghị án, nội dung nghị án và việc biểu quyết. Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án. Khi nghị án chỉ có thành viên HĐXX mới có quyền này. HĐXX phải lần lƣợt thảo luận và biểu quyết từng vấn đề của vụ án; các thành viên của HĐXX đều phải trình bày ý kiến của mình về các vấn đề của vụ án, Hội thẩm phát biểu trƣớc, Thẩm phán phát biểu sau và là ngƣời biểu quyết sau cùng. Bản án, các quyết định của HĐXX phải đƣợc đa số thành viên của HĐXX biểu quyết thông qua, ngƣời có ý kiến thiểu số đƣợc bảo lƣu ý kiến trong hồ sơ; việc nghị án phải đƣợc lập thành biên bản, bản án, các quyết định của HĐXX và biên bản nghị án phải đƣợc thông qua tại phòng nghị án. Sau khi nghị án xong Thƣ ký Tòa án yêu cầu các bị cáo và ngƣời tham gia tố tụng vào phòng xử án, sau đó Chủ tọa phiên tòa thay mặt HĐXX đọc bản án, trong trƣờng hợp bản án dài thì các Thẩm phán, Hội thẩm thay nhau đọc. Có thể nói, phiên tòa là giai đoạn trung tâm thể hiện đầy đủ nhất bản chất quá trình tố tụng nói chung và xét xử nói riêng. Phiên tòa có sự tham gia đầy đủ của các cơ quan tiến hành tố tụng, những ngƣời tiến hành tố tụng, những ngƣời tham gia tố tụng với địa vị pháp lý đƣợc xác định. Thông qua phiên tòa, bằng thủ tục trực tiếp, công khai, thông qua nghe ý kiến và đề xuất của các bên tham gia tố tụng, Tòa án tiến hành xác định sự thật khách quan của vụ án và ra các phán quyết giải quyết vụ án một cách đúng đắn, đầy đủ, khách quan và đúng pháp luật. Đây là giai đoạn mà tính độc lập tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm đƣợc biểu hiện một
  • 32. 24 cách rõ ràng và tập trung nhất. Phiên tòa là nơi Tòa án bằng thủ tục công khai, toàn diện thực hiện cuộc điều tra chính thức để xác định sự thật khách quan của vụ án. Tòa án ra bản án, quyết định trên cơ sở các chứng cứ đƣợc thu thập và kiểm tra công khai tại phiên tòa. Việc chứng minh đƣợc các chủ thể có quyền và lợi ích khác nhau (bên buộc tội, bên bào chữa, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự) thực hiện một cách bình đẳng, dân chủ tại phiên tòa khi xét hỏi cũng nhƣ tranh luận. Việc chứng minh và từ đó xác định sự thật của vụ án đƣợc Tòa án thực hiện trên cơ sở chứng cứ đƣợc thu thập, thẩm tra tại phiên tòa và cân nhắc, đánh giá của các bên tham gia tố tụng khác nhau. Hoạt động TTHS một hoạt động khá phức tạp đòi hỏi những ngƣời làm công tác xét xử phải có kiến thức tổng hợp về pháp luật chứ không đơn thuần là chỉ nắm vững các quy định của luật hình sự. HĐXX ngoài việc tuân theo các văn bản pháp luật về hình sự và TTHS thì HĐXX cần phải tuân theo các văn bản của các ngành luật khác có liên quan. Một số tội danh không đƣợc mô tả cụ thể trực tiếp tại điều luật của BLHS mà hành vi cụ thể đƣợc quy định ở các luật, văn bản pháp luật chuyên ngành nhƣ nhiều tội trong chƣơng “Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng” các tội xâm phạm liên quan đến từng lĩnh vực cụ thể nhƣ y tế, xây dựng… Hoặc trong trƣờng hợp giải quyết vụ án hình sự, cùng với việc quyết định vấn đề tội danh, mức hình phạt, xử lý vật chứng, HĐXX còn phải giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự, chủ yếu là việc giải quyết việc bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng. Yêu cầu giải quyết những vấn đề trên đòi hỏi HĐXX phải nắm rõ những quy định của các văn bản pháp luật dân sự về căn cứ bồi thƣờng, mức bồi thƣờng nguyên tắc bồi thƣờng... Tuân theo pháp luật và độc lập xét xử đƣợc gắn liền với năng lực trình độ nghiệp vụ chuyên môn của ngƣời Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân [2]. Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền quyết định bị cáo có tội hay không có tội. Vì thế, quyết định của Tòa án phải là quyết định khách quan, chính xác và độc lập xét xử phải là một nguyên tắc hoạt động của Tòa án. Khi xét xử vụ án hình sự, Thẩm phán và Hội thẩm căn cứ vào các tình tiết của vụ án, các chứng cứ đã đƣợc thẩm tra công khai tại
  • 33. 25 phiên tòa và căn cứ vào quy định của pháp luật để xác định tội phạm cũng nhƣ hình phạt đối với ngƣời phạm tội. Các thành viên HĐXX không đƣợc để cho bất cứ ai, vì bất cứ lý do gì chi phối mà xử lý vụ án không đúng pháp luật. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm phải tự mình nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án, kết hợp với những chứng cứ đã đƣợc thu thập và đánh giá, thẩm tra để đƣa ra kết luận riêng của mình đối với từng vấn đề của vụ án mà không bị động, lệ thuộc vào quyết định, kết luận của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. 1.2.3. Mối quan hệ giữa độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì thế giới là một chỉnh thể thống nhất, mọi sự vật hiện tƣợng đều tồn tại trong sự độc lập tƣơng đối, độc lập trong mối liên hệ quy định lẫn nhau. Hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm cũng vậy. Nó mang tính độc lập tƣơng đối, nghĩa là nó vẫn có mối quan hệ với hiện tƣợng tố tụng khác, đó chính là sự tuân theo pháp luật. Độc lập là biểu hiện của tuân theo pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập là một phần nội dung của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với nhau, độc lập với các yếu tố khác. Độc lập xét xử và tuân theo pháp luật có mối quan hệ mật thiết với nhau không thể tách rời. Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử là đã tuân theo các quy định của pháp luật. Và chỉ “tuân theo pháp luật” có thể coi là giới hạn cho sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm. Điều này có nghĩa là ngoài pháp luật họ không cần phải tuân theo một ai khác, họ không chịu bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài. Độc lập trong xét xử không những đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp, luật Tổ chức Tòa án mà nó còn đƣợc quy định là nguyên tắc và cụ thế hóa trong các điều luật khác của BLTTHS. Nếu Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, không chịu bất cứ tác động nào thì phán quyết của HĐXX mới có tính khách quan, vô tƣ, quyết định của HĐXX mới đảm bảo đúng pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập chính là biểu hiện của việc tuân theo pháp luật. Có thể nhận thấy “Độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” có mối quan hệ ràng buộc tác động lẫn nhau. Độc lập là điều kiện cần thiết để xét
  • 34. 26 xử để tuân theo pháp luật, tuân theo pháp luật cũng chính là cơ sở cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử [2]. “Tuân theo pháp luật” vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của Thẩm phán và Hội thẩm, họ có quyền độc lập khi xét xử khi họ “tuân theo pháp luật”. Các cơ quan nhà nƣớc, các tổ chức khác hay bất kì cá nhân nào đều phải tôn trọng quyền đó của họ, không ai đƣợc quyền xâm phạm. Tuân theo pháp luật là cơ sở để thể hiện tính độc lập trong xét xử. Tuân theo nghĩa là nghe theo và làm theo. Xét theo khía cạnh thuần túy của tính độc lập, để có thể tự mình đƣa ra phán quyết Thẩm phán và Hội thẩm phải có kiến thức pháp luật và phải chấp hành quy định của pháp luật. Kiến thức pháp luật là những kiến thức về khoa học luật hình sự và kiến thức về luật chuyên ngành. Tuân theo pháp luật là làm theo những quy định của pháp luật, bao gồm cả PLHS và pháp luật TTHS cũng nhƣ các luật chuyên ngành. Khi nắm chắc các kiến thức pháp luật, Thẩm phán và Hội thẩm có điều kiện để thể hiện sự độc lập trong phán quyết của mình. Xét ở một khía cạnh khác thì tuân theo pháp luật đã loại trừ các tác động khác đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm, bởi vậy mà Thẩm phán và Hội thẩm mới có đƣợc sự độc lập. Tuy Thẩm phán và Hội thẩm có quyền xét xử độc lập, nhƣng không có nghĩa là họ đƣợc xét xử tùy tiện mà xét xử phải tuân theo quy định của pháp luật. Nếu không tuân theo pháp luật thì sự độc lập này cũng chỉ là chủ quan duy ý chí, không có cơ sở pháp lý nên các kết luận cũng bị coi là độc đoán, không khách quan, dễ gây hậu quả khôn lƣờng. Độc lập mà không theo pháp luật thì độc lập trong xét xử sẽ không còn ý nghĩa vì sự xét xử tùy tiện, độc đoán, không tránh khỏi sự chủ quan, cảm tính khi đánh giá vấn đề. Độc lập trong sự thống nhất với việc tuân theo pháp luật. Ở đây, độc lập không có nghĩa thoát ly khỏi những quy định của pháp luật bởi tuân theo pháp luật mà không có sự độc lập thì chỉ là sự tuân theo một cách hình thức không khách quan. Độc lập nhƣng phải trên cơ sở những quy định của pháp luật. Mọi kết luận của bản án, quyết định của Thẩm phán và Hội thẩm phải phù hợp với các tình tiết
  • 35. 27 khách quan của vụ án. Bản án phải xác định đúng ngƣời phạm tội, đúng hành vi phạm tội, đúng những thiệt hại do tội phạm gây ra. Mỗi nhận định của bản án đều phải dựa trên những chứng cứ và tình tiết xác thực đã đƣợc xem xét tại phiên tòa có lập luận chặt chẽ, không dựa trên ý chí chủ quan, cảm tính cá nhân của mỗi thành viên HĐXX. Có ý kiến cho rằng, chỉ cần quy định khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật vì nếu chỉ cần các thành viên của HĐXX tuân theo pháp luật thì sẽ có kết luận chính xác. Chúng ta biết rằng, pháp luật là những quy tắc xử sự, song pháp luật không thể chính xác nhƣ một phép tính toán học. Trong các chế tài của các quy phạm pháp luật hình sự, ngoại trừ hình phạt tử hình, các loại hình phạt tù có thời hạn, cải tạo không giam giữ, hoặc phạt tiền bao giờ cũng có quy định một khoảng nhất định, chứ không quy định một mức cụ thể nào. Khả năng nhận thức và các điều kiện nhận thức của các thành viên của HĐXX là khác nhau. Thực tiễn xét xử cho thấy do các Hội thẩm thƣờng là những ngƣời không có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về xét xử nên khi tham gia vào quá trình xét xử, họ thƣờng có tâm lý ỷ lại và phụ thuộc vào Thẩm phán chủ toạ phiên toà [25]. Nhƣ vậy, nếu các thành viên không có sự độc lập sẽ dẫn đến việc xét xử theo sự áp đặt của Thẩm phán, sự lệ thuộc của Hội thẩm, sự tác động của các yếu tố khác ngoài HĐXX sẽ dẫn đến quyết định của bản án không chính xác và thiếu khách quan, hoặc xét xử với hình phạt quá nặng, hay xét xử với hình phạt quá nhẹ. Nhƣ vậy, độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật luôn có mối quan hệ gắn bó, bổ sung cho nhau. Trong đó “độc lập” là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật; “chỉ tuân theo pháp luật” là cơ sở cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử. Yếu tố độc lập và tuân theo pháp luật không thể tách rời nhau. Độc lập nhƣng phải tuân theo pháp luật và tuân theo pháp luật nhƣng phải đảm bảo sự độc lập, tránh tình trạng áp đặt. Chính vì mối quan hệ này mà Thẩm phán và Hội thẩm phải tuân thủ cả hai nội dung “độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” nhƣ đã nêu. Nhƣ vậy, có thể nhận thấy “Độc lập và tuân theo pháp luật là hai nội dung có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chỉ khi nào đảm bảo Thẩm phán và Hội thẩm độc lập thì họ mới tuân theo pháp luật đƣợc và ngƣợc
  • 36. 28 lại. Thẩm phán và Hội thẩm độc lập mới nâng cao chất lƣợng xét xử, mới đảm bảo trách nhiệm cá nhân, mới đúng với tính chất của hoạt động tƣ pháp, đảm bảo khách quan đúng với diễn biến phiên tòa” [13]. 1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật xác định vai trò, vị trí của cơ quan Tòa án trong hệ thống cơ quan nhà nƣớc nói chung và cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng. Nguyên tắc này còn có ý nghĩa trong việc đảm bảo công bằng xã hội. Mọi cá nhân dù ở địa vị xã hội nào, nếu vi phạm pháp luật đều bị xét xử nhƣ nhau. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong các yếu tố để thực hiện công bằng xã hội, xây dựng một Nhà nƣớc pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, một Nhà nƣớc của dân và vì dân. Nguyên tắc này có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với lý luận cũng nhƣ thực tiễn áp dụng. Thứ nhất, nguyên tắc này mang ý nghĩa đặc trưng của pháp luật TTHS. Nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong TTHS ngoài việc thể hiện nội dung một nguyên tắc đƣợc ghi nhận trong hiến pháp, thì nó còn có những nét đặc thù. Bởi lẽ, pháp luật TTHS là một bộ phận của hệ thống pháp luật nên nó cũng mang những đặc điểm chung của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra là một bộ phận riêng biệt trong hệ thống pháp luật, nên pháp luật TTHS cũng có đặc trƣng riêng, khác biệt so với các lĩnh vực pháp luật khác nhƣ: pháp luật tố tụng hành chính, tố tụng dân sự. Nếu nhƣ với trong tố tụng dân sự, nguyên tắc này mang tính chất tƣơng đối mềm dẻo. Khi hai đƣơng sự có lợi ích hợp pháp bị xâm phạm quyền khởi kiện hoặc không khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi đƣơng sự khởi kiện thì mọi hành vi tố tụng tiếp theo do đƣơng sự quyết định. Tòa án chỉ giải quyết những vấn đề đƣơng sự yêu cầu còn vấn đề đƣơng sự không yêu cầu thì Tòa án không giải quyết. Mặc dù Tòa án vẫn giữ vai trò chủ động xét xử song việc giải quyết vụ án dân sự trƣớc tiên vẫn phụ thuộc vào sự định đoạt, thỏa thuận giữa các bên đƣơng sự. Do vậy, “độc lập xét xử” không đƣợc áp dụng triệt để. Tố tụng hành chính xuất hiện khi các
  • 37. 29 quyền và lợi ích cơ bản của công dân, tổ chức bị xâm phạm mà “người” xâm phạm là các cơ quan nhà nƣớc, là cơ quan đại diện cho “công quyền”, thay mặt Nhà nƣớc trong việc ra các quyết định hay thực hiện các hành vi hành chính. Vì vậy, “người bị kiện” bao giờ cũng là những những ngƣời có chức vụ quyền hạn, là ngƣời luôn có vị trí “xứng tầm” với các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong TTHS, “độc lập xét xử” mang tính chất tuyệt đối. Xét xử - hoạt động tố tụng của Tòa án đƣợc coi là hoạt động trung tâm của toàn bộ hoạt động TTHS nên các nguyên tắc về xét xử đƣợc các nhà làm luật quan tâm hơn cả, trong đó, trƣớc tiên và quan trọng nhất là “độc lập xét xử”. Nhƣ vậy, sự độc lập trong xét xử trong TTHS là bắt buộc, nó thể hiện tính chất cứng rắn triệt để theo đúng tinh thần pháp luật để đảm bảo mọi hành vi phạm tội đƣợc phát hiện xử lý nghiêm minh và kịp thời. Thứ hai, ý nghĩa chính trị xã hội. Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tƣ pháp. Hoạt động xét xử của Tòa án là biểu hiện tập trung nhất của quyền lực tƣ pháp. Kết quả xét xử thể hiện nền công lý, sự đối xử bình đẳng, công bằng trong tất cả các mối quan hệ và cũng là thể hiện chất lƣợng hoạt động và uy tín của hệ thống tƣ pháp. Xuất phát từ bản chất của hoạt động tƣ pháp mà Tòa án là trung tâm của việc thực hiện và xét xử là hoạt động trọng tâm, đòi hỏi việc xét xử phải bảo đảm tính độc lập. Chính vì vậy, nguyên tắc độc lập xét xử đƣợc coi là tiền đề nền tảng của hoạt động tƣ pháp trong Nhà nƣớc pháp quyền, bảo đảm quan trọng cho việc xét xử đƣợc bình đẳng, dân chủ, khách quan. Hoạt động xét xử không phải là hoạt động của một cá nhân mà là hoạt động của một tập thể, không chỉ là hoạt động của “quan tòa” mà còn có sự tham gia giám sát, tham gia xét xử của nhân dân thông qua những ngƣời đại diện của họ, đó là Hội thẩm. Hội thẩm bằng sự tham gia của mình vào HĐXX mà thực hiện quyền lực tƣ pháp, đồng thời thông qua đó thể hiện sự tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý Nhà nƣớc nói chung, hoạt động của Tòa án nói riêng. Thứ ba, về ý nghĩa pháp lý. Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp, Luật tổ chức TAND, BLTTHS. Đây là cơ sở pháp
  • 38. 30 lý để Thẩm phán và Hội thẩm tiến hành hoạt động xét xử đƣợc khách quan, đúng pháp luật, là cơ sở bảo đảm Hiến pháp và pháp luật đƣợc thực thi một cách nghiêm túc bởi những ngƣời thi hành pháp luật và những ngƣời xét xử hành vi vi phạm pháp luật. Đây là nguyên tắc xuyên suốt quá trình tổ chức và hoạt động tƣ pháp. Tuân theo nguyên tắc này, một mặt, góp phần bảo đảm cho sự chính xác của điều tra, truy tố, xét xử, tăng thêm lòng tin của quần chúng vào sự ngay thẳng, chí công, vô tƣ của các cơ quan tƣ pháp; mặt khác, còn nhằm ngăn chặn sự tác động của cá nhân hay của các tổ chức vào hoạt động tƣ pháp. Thứ tư, về ý nghĩa đối với hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật mang tính khách quan, khoa học vì nguyên tắc này đƣợc xây dựng trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm của quá trình giải quyết vụ án hình sự và các kết quả nghiên cứu của khoa học luật TTHS nên nguyên tắc này phản ánh sâu sắc quy luật phát triển khách quan quá trình đấu tranh chống tội phạm và giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, những quy luật khách quan đó đƣợc xây dựng thành những nguyên tắc của luật TTHS thông qua những con ngƣời cụ thể, đó là sự nhận thức chủ quan đối với các quy luật khách quan. Vì vậy, việc nhận thức đúng đắn các quy luật khách quan của quá trình giải quyết vụ án hình sự để quy định thành nguyên tắc của Luật TTHS có ý nghĩa hết sức quan trọng. Ngƣời ta có thể đƣa ra những nguyên tắc sai khi không nhận thức đúng đắn các quy luật khách quan, trong trƣờng hợp này cần có sự sửa đổi kịp thời nếu không sẽ làm giảm hiệu quả của việc giải quyết vụ án hình sự. Nguyên tắc này loại trừ các sự tác động không cần thiết, thậm chí tiêu cực của cơ quan, tổ chức khác đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm và đảm bảo sự bình đẳng độc lập giữa các thành viên của HĐXX. 1.4. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong mối liên hệ với các nguyên tắc khác trong luật tố tụng hình sự 1.4.1. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong mối liên hệ với nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc người tham gia tố tụng Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
  • 39. 31 luật và nguyên tắc bảo đảm sự vô tƣ của những ngƣời tiến hành hoặc ngƣời tham gia tố tụng là hai nguyên tắc có nội hàm gần gũi, gắn bó mật thiết với nhau. Độc lập xét xử đƣợc thể hiện thông qua sự độc lập của Thẩm phán, ngƣời tiến hành tố tụng trong mối quan hệ với những quyền lực khác, kể cả công quyền cũng nhƣ các quyền lực thực tế (truyền thông, chuyên gia, các bên đƣơng sự). Nguyên tắc độc lập xét xử liên quan trực tiếp đến địa vị của những ngƣời tiến hành tố tụng. Trong khi đó, nguyên tắc vô tƣ lại liên quan nhiều hơn đến tổ chức và hoạt động nội bộ của tòa, của các cơ quan tiến hành tố tụng, đến phẩm chất cá nhân của ngƣời tiến hành tố tụng. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật không hoàn toàn đồng nhất với nguyên tắc bảo đảm sự vô tƣ của những ngƣời tiến hành tố tụng hoặc ngƣời tham gia TTHS. Sự khác nhau thể hiện ở chỗ: thứ nhất, phạm vi chủ thể đƣợc áp dụng ở hai nguyên tắc là khác nhau. Thứ hai, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật cần phải dựa trên nguyên tắc “bảo đảm sự vô tƣ của những ngƣời tiến hành tố tụng hoặc ngƣời tham gia TTHS”, bởi có vô tƣ thì Thẩm phán và Hội thẩm mới độc lập xét xử. Một bộ phận quan trọng của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nằm trong các bảo đảm về sự vô tƣ của những ngƣời tiến hành tố tụng hoặc ngƣời tham gia tố tụng nhƣ: tránh những can thiệp, ảnh hƣởng từ phía cá nhân, cơ quan tổ chức bên ngoài vào hoạt động xét xử. Tuy nhiên, một bộ phận cấu thành của nguyên tắc “Bảo đảm sự vô tƣ của những ngƣời tiến hành tố tụng hoặc ngƣời tham gia tố tụng” lại có tính đặc thù so với nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Để thực sự vô tƣ thì ngƣời tiến hành tố tụng phải không đƣợc có định kiến sẵn về vụ việc đang xét xử. Việc bảo đảm cho độc lập xét xử không phải luôn đồng nghĩa với việc tránh đƣợc các định kiến của ngƣời tiến hành tố tụng – những định kiến có khả năng làm cho kết quả tố tụng hành chính trở nên sai lệch, kém khách quan. Để đảm bảo sự vô tƣ của những ngƣời tham gia tố tụng thì theo quy định tại Điều 42 BLTTHS thì trong một số trƣờng hợp ngƣời tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi.
  • 40. 32 Có thể thấy, mặc dù hƣớng đến mục tiêu chung là việc giải quyết vụ án một cách khách quan, tuân theo các quy định của pháp luật nhƣng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và nguyên tắc “Bảo đảm sự vô tƣ của những ngƣời tiến hành tố tụng hoặc ngƣời tham gia tố tụng” lại hƣớng đến những mục tiêu khác nhau. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đƣợc coi là tiền đề của nguyên tắc bảo đảm sự vô tƣ, bởi lẽ ngƣời Thẩm phán và Hội thẩm chỉ có thể vô tƣ trên cơ sở độc lập. Ngƣợc lại, một Thẩm phán độc lập hoàn toàn nhƣng cũng vẫn có khả năng thiếu vô tƣ trong một vụ việc nhất định. Chính vì lẽ đó, hai khái niệm trên thƣờng đi liền với nhau [16]. Tại Điều 1 Hiến chƣơng thế giới của Thẩm phán đã quy định rõ: “Sự độc lập của Thẩm phán là điều kiện tiên quyết để thực thi một nền công lý vô tư trong sự thượng tôn của pháp luật. Chúng không thể bị tách rời. Mọi thiết chế, tổ chức, dù là quốc tế hay quốc gia, đều phải tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ sự độc lập này” [17]. 1.4.2. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong mối liên hệ với nguyên tắc suy đoán vô tội Nguyên tắc suy đoán vô tội là một nguyên tắc về bảo đảm quyền con ngƣời. Theo đó một ngƣời sẽ không bị coi là có tội nếu không bị kết án bởi một Tòa án hợp pháp. Điều 11 Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc và Điều 14 Công ƣớc quốc tế về quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc năm 1966 đều có quy định: “Bất kỳ người bị buộc tội nào đều có quyền suy đoán là không phạm tội cho đến khi lỗi của người đó được xác định theo một trình tự do pháp luật quy định bằng phiên tòa xét xử công khai của Tòa án với sự bảo đảm đầy đủ khả năng bào chữa của người đó” [22]. Mặc dù pháp luật của Nhà nƣớc ta chƣa sử dụng thuật ngữ “nguyên tắc suy đoán vô tội” trong các văn bản pháp luật, song Hiến pháp năm 2013 đã thừa nhận nguyên tắc này. Điều 31 quy định: Ngƣời bị buộc tội đƣợc coi là không có tội cho đến khi đƣợc chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Ngƣời bị buộc tội phải đƣợc Tòa án xét xử kịp thời