SlideShare a Scribd company logo
1 of 135
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THỊ DIỆP
BIÖN PH¸P B¶O LÜNH
TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN VĂN DŨNG
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Hoàng Thị Diệp
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẢO LĨNH
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM........................ 9
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố
tụng hình sự Việt Nam....................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam....... 9
1.1.2. Khái niệm biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam .... 12
1.1.3. Ý nghĩa của biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam...... 18
1.2. Phân biệt biện pháp bảo lĩnh với các biện pháp ngăn chặn
khác thay thế biện pháp tạm giam trong Luật tố tụng hình
sự Việt Nam....................................................................................... 21
1.2.1. Cấm đi khỏi nơi cư trú ....................................................................... 22
1.2.2. Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm ........................................ 23
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của Luật tố tụng hình sự Việt
Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban
hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp bảo lĩnh.......... 25
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám đến trước khi pháp điển
hóa lần thứ nhất - Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988........ 25
1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm
1988 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ hai – Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 ............................................................................... 31
Chương 2: BIỆN PHÁP BẢO LĨNH TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VIỆT NAM NĂM 2003 VÀ BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI .......................................................38
2.1. Biện pháp bảo lĩnh trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
năm 2003 ........................................................................................... 38
2.1.1. Căn cứ và đối tượng áp dụng biện pháp bảo lĩnh .............................. 38
2.1.2. Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp bảo lĩnh .......................... 43
2.1.3. Chủ thể bảo lĩnh và trách nhiệm pháp lý của các chủ thế.................. 45
2.1.4. Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp bảo lĩnh........................................... 47
2.2. Biện pháp bảo lĩnh trong Bộ luật tố tụng hình sự một số
nước trên thế giới ............................................................................. 47
2.2.1. Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Đức............................... 48
2.2.2. Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga .............................................. 52
2.2.3. Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa .................... 56
2.2.4. Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản....................................................... 59
Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẢO LĨNH
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ CÁC KIẾN
NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG.................................. 67
3.1. Thực trạng áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự
Việt Nam............................................................................................ 67
3.1.1. Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự............. 67
3.1.2. Một số tồn tại, hạn chế của việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh
trong Luật tố tụng hình sự.................................................................. 78
3.2. Các kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bảo lĩnh
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam .............................................. 92
3.2.1. Kiến nghị về việc sửa đổi, bổ sung nội dung một số quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp bảo lĩnh .................. 92
3.2.2. Nâng cao nhận thức, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ
trong cơ quan tiến hành tố tụng, đảm bảo thực hiện đúng các quy
định áp dụng biện pháp ngăn chặn................................................... 110
3.2.3. Nâng cao ý thức pháp luật của quần chúng nhân dân là điều kiện
để đảm bảo quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn.................. 112
KẾT LUẬN.................................................................................................. 113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 116
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. BLTTHS
2. BPNC
: Bộ luật tố tụng hình sự
: Biện pháp ngăn chặn
3. TAND : Tòa án nhân dân
4. TANDTC
5. THTT
6. TTHS
: Tòa án nhân dân tối cao
: Tiến hành tố tụng
: Tố tụng hình sự
7. VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
8. VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Số người bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại các Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trên toàn quốc từ
năm 2008 đến năm 2013 69
Bảng 2.2: Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tại Thành phố Hà Nội 71
Bảng 2.3: Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tại quận Hoàng Mai 72
Bảng 2.4: Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tại quận Cầu Giấy 73
Bảng 2.5: Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tại huyện Từ Liêm (cũ) 73
1
MỞ ĐẦ U
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự (TTHS), các
biện pháp ngăn chặn (BPNC) chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ các
BPNC là công cụ hữu hiệu giúp cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) ngăn chặn
kịp thời những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp
tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc
điều tra, truy tố, xét xử cũng như để đảm bảo thi hành án. Pháp luật TTHS
Việt Nam quy định BPNC gồm có: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi
cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Bắt, tạm giữ, tạm
giam là những biện pháp mang tính cưỡng chế rất nghiêm khắc, có tính tước
đoạt tự do của bị can, bị cáo.
Thực tiễn tổng kết các BPNC ở nước ta trong những năm qua cho thấy các
biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam được áp dụng phổ biến trong các vụ án hình sự.
Theo phân tích của Vụ 4 – Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), năm
2013 các cơ quan chức năng bắt, tạm giữ về hình sự 39.175 trường hợp (tăng
0,76% so với năm 2012), đã giải quyết 38.109 trường hợp, trong đó, xử lý
hình sự 36.861 người tương đương tỷ lệ 96,73% (tăng 0,73% so với cùng kỳ
năm 2012). Tổng số người bị tạm giam năm 2012 là 95.304 người, nhưng năm
2013 còn 94.228 người (giảm 1,13%), trong đó xử lý hình sự 47.708 người với
tỷ lệ là 50,53% (giảm 2,16% so với cùng kỳ năm 2012). Áp dụng các biện pháp
tạm giữ, tạm giam là cần thiết, tuy nhiên, nếu như các cơ quan tiến hành tố tụng
lạm dụng việc tạm giữ, tạm giam không những làm ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích chính đáng của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận, mà còn làm
giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Nhà nước nếu như để lọt
người phạm tội ngoài vòng pháp luật.
2
Điều 20 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam quy định:
1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra
tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào
khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của TAND, quyết định
hoặc phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc
bắt, giam, giữ người do luật định [36].
Quy định này của Hiến pháp đã đ ảm bảo công dân không bị áp dụng
BPNC một cách tùy tiện. Trong nhiều trường hợp, nếu Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án xét thấy không cần thiết phải áp dụng các biện pháp mạnh trên
thì phải thay đổi ngay BPNC khác có tính ít nghiêm khắc hơn, như thế thể
hiện sự tự tin trong nhận thức, dám nghĩ, dám làm của người THTT, vừa tạo
dựng được niềm tin của nhân dân đối với chủ trương, chính sách pháp luật
của Đảng và Nhà nước.
Mặt khác , tinh thần của Nghi ̣quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiê ̣m vụtro ̣ng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới ;
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/04/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiê ̣n hê ̣thống pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam đến năm2010, đi ̣nh hướng đến
năm 2020; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cả i cách tư pháp năm 2020 chỉ rõ nô ̣i dung “Xác định rõ căn cứ
tạm giam; hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội
phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng các biện
pháp tạm giam…”[5] lại càng thể hiện rõ hơn quyết tâm của Đảng và Nhà nước
ta trong việc hạn chế áp dụng các BPNC có tính nghiêm khắc nói chung và
hạn chế, thay thế áp dụng biện pháp tạm giam nói riêng, nhằm bảo đảm yêu
3
cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm gắn với việc bảo vệ quyền con người,
quyền tự do, dân chủ của công dân.
Cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm được xem là các biện pháp có tính ít nghiêm khắc và được các cơ quan
THTT áp dụng để thay thế biện pháp tạm giữ, tạm giam khi các cơ quan này
xét thấy không cần thiết phải tạm giữ, tạm giam nhưng vẫn cần thiết phải
ngăn chặn, phòng ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội. Trong các biện pháp
này thì bảo lĩnh là một biện pháp đảm bảo mục đích trên. Tuy được sử dụng
để thay thế biện pháp tạm giam nhưng khi áp dụng biện pháp bảo lĩnh, các bị
can, bị cáo không bị tước đoạt tự do, không bị hạn chế các quyền công dân
miễn sao việc thực hiện các quyền này không gây trở ngại cho hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử.
Mặc dù là một biện pháp ưu việt được quy định từ BLTTHS năm 1988,
song thực tiễn áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các cơ quan bảo vệ pháp luật
và Tòa án trong nhiều năm qua cho thấy, chế định bảo lĩnh ít được các cơ
quan THTT sử dụng bởi còn thiếu nhiều quy pha ̣m hư ớng dẫn cụ thể cần làm
sáng tỏ xung quanh chế định này như : Căn cứ áp dụng vẫn còn mơ hồ, thiếu
quy định cụ thể về tiêu chuẩn của cá nhân, tổ chức nhận bảo lĩnh; Nhiều
trường hợp người nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo bỏ trốn, gây khó khăn cho
việc giải quyết vụ án nhưng chưa có biện pháp xử lý trách nhiệm của họ…
Tình hình trên xảy ra là do nhiều nguyên nhân , bao gồm yếu tố khách
quan và yếu tố chủ quan, vì vậy cần phải nghiên cứu, tìm hiểu và làm sáng tỏ
các vướng mắc còn tồn tại của biện pháp bảo lĩnh để từ đó làm rõ hơn về mặt
khoa học pháp lý cũng như về mặt thực tiễn áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đáp
ứng được yêu cầu , nhiệm vụ trong tình hình mới , hướng tới sửa đổi, bổ sung
và hoàn thiện pháp luật TTHS Viê ̣t Nam.
4
Vì lẽ đó , tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Biê ̣n phá p bảo lĩnh
trong Luật tố tụng hình sự Viê ̣t Nam " – một vấn đề mang tính cấp bách ,
thiết thực không những về mă ̣t lý luâ ̣n mà cả về mă ̣t thực tiễn trong giai đoa ̣n
xây dựng Nhà nước pháp quyền hiê ̣n nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Các BPNC trong Luật TTHS giữ một vị trí, vai trò quan trọng trong
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Việc áp dụng đúng các BPNC có
ảnh hưởng rất lớn đến quyền của người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Vì thế,
nhận thức đúng, áp dụng đúng các BPNC là cần thiết. Do đó đã có nhiều bài
viết về các BPNC được đề cập đến ở các mức độ khác nhau, những khía ca ̣nh
khác nhau.
Ở cấp độ luận văn thạc sĩ , có các đề tài của các tác giả : Nguyễn Văn
Điệp, Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại
học Luật Hà Nội, 1996; Lê Thanh Bình, Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2010; v.v…
Ở cấp độ luận án tiến sĩ, có các đề tài của một số tác giả: Nguyễn Văn
Điệp, Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt
Nam – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội,
2005; Nguyễn Trọng Phúc, Chế định các biện pháp ngăn chặn theo Luật tố tụng
hình sự Việt Nam, Hà Nội, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2010; v.v…
Bên ca ̣nh đó , về giáo trình , sách chuyên khảo , bình luận có các công
trình sau: PGS. TS Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên) (2014), Giáo trình Luật tố
tụng hình sự Việt Nam , Nxb Đa ̣i ho ̣c Quốc gia , Hà Nội; Ths. Phạm Thanh
Bình và TS .Nguyễn Vạn Nguyên có công trình Những điều cần biết về bắt
người, tạm giữ, tạm giam... đúng pháp luật, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1993; TS. Nguyễn Vạn Nguyên có công trình Các biện pháp ngăn và những
vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 1995;
5
Ths. Nguyễn Mai Bộ có công trình Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; Phạm Thanh Bình, Một số
vấn đề chung quanh việc tạm giữ, tạm giam, Nxb. Đồng Nai, 1997; v.v…
Ngoài ra một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có đề
câ ̣p đến các biện pháp ngăn chặn như: Ths.Phạm Thanh Bình, Bắt - Biện pháp
ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật Số
3/1998; Nguyễn Văn Dũng, Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự và
những bất cập, Tạp chí Dân chủ pháp luật, Số 12/2002; TS. Trần Quang Tiệp,
Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, Tạp chí
Kiểm sát. VKSND tối cao, Số 7/2005; TS. Trần Quang Tiệp, Một số vấn đề
về biện pháp bảo lĩnh quy định trong BLTTHS năm 2003, Tạp chí Kiểm sát.
VKSND tối cao, Số 15/2006; TS.Phạm Mạnh Hùng, Hoàn thiện các quy định
về các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS theo yêu cầu cải cách tư pháp ,
Tạp chí Kiểm sát. VKSND tối cao. Số 21/2007; Nguyễn Đình Bình, Một số ý
kiến về việc hoàn thiện các quy định về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự, Tạp chí Kiểm sát. VKSND tối cao. Số 5/2008; TS. Trịnh Tiến Việt,
Pháp luật về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh và hướng sửa đổi, bổ sung, Tạp chí
nghiên cứ u lâ ̣p pháp . Văn phòng Quốc hô ̣i , Số 02/2010; Nguyễn Ngọc Ánh,
Một số vướng mắc bất cập khi áp dụng điều 92 BLTTHS, Tạp chí TAND.
TAND tối cao, Số 8/2012; Phùng Văn Tài, Những vướng mắc trong việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của BLTTHS và kiến nghị sửa
đổi, bổ sung, Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Viện Nhà nước và Pháp luật, Số
8/2012; Vũ Gia Lâm, Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn, Tạp chí Luật học. Trường Đại học
Luật Hà Nội, Số 9/2012; v.v…
Qua nghiên cứu tác giả nhận thấy, hầu hết các công trình nghiên cứu
đề cập đến các BPNC có ý nghĩa là các biện pháp nói chung. Vì nhiều lý do
6
khác nhau, chỉ có một công trình nghiên cứu thật chuyện sâu về biện pháp
bảo lĩnh. Để có nhận thức đúng hơn về biện pháp này trong mối liên hệ với
các BPNC khác. Như vâ ̣y, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho
phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài “Biện pháp bảo lĩnh trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan , cấp thiết, vừ a có tính lý luâ ̣n ,
vừ a có tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn muốn làm rõ những vấn đề lý luận về biện pháp bảo lĩnh
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, phân tích các khía cạnh của BLTTHS
Việt Nam hiện hành và BLTTHS của một số nước trên thế giới quy định về
biện pháp bảo lĩnh, đồng thời nghiên cứu tình hình áp dụng biện pháp này
trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, làm sáng tỏ những bất cập hạn chế,
để đưa ra những kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bảo lĩnh
trong Luật tố tụng hình sự ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứ u nêu trên, luâ ̣n văn có những nhiệm vụchủ yếu sau:
- Dựa trên cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả trong
nước về biê ̣n pháp ngăn chă ̣n , luâ ̣n văn nghiên cứ u, làm rõ những vấn đề lý
luận về biê ̣n pháp bảo lĩnh.
- Phân tích, đánh giá các quy định của BLTTHS hiê ̣n hành liên quan
đến biê ̣n pháp bảo lĩnh trong Luật TTHS.
- Nghiên cứ u, đánh giá thực tiễn áp dụng biê ̣n pháp ngăn chă ̣n bảo lĩnh
trong luâ ̣t TTHS ở nước ta.
- Tìm ra những bất cập hạn chế để đưa ra những kiến nghị và giải pháp
hoàn thiện về pháp luật biện pháp bảo lĩnh trong luật TTHS Việt Nam.
7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận về biê ̣n pháp bảo lĩnh trong luâ ̣t
TTHS Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành,
quy định của một số nước trên thế giới và thực tiễn áp dụng để đưa ra những
kiến nghị, nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng
hình sự ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án được giới hạn trên các vấn đề cơ bản sau:
- Cơ sở lý luận về biê ̣n pháp bảo lĩnh trong luâ ̣t TTHS Việt Nam
- Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến biê ̣n pháp bảo lĩnh
trong luâ ̣t TTHS Việt Nam.
- Về thực trạng áp dụng quy đi ̣nh của pháp luâ ̣t tố tụng hình sự hiê ̣n
hành về biê ̣n pháp bảo lĩnh.
- Các quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiê ̣n các quy đi ̣nh của pháp luâ ̣t
tố tụng hình sự hiê ̣n hành về biê ̣n pháp bảo lĩnh.
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
- Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật.
Luâ ̣n văn được thực hiện trên cơ sở quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết
của Đảng, các văn bản pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước về các BPNC.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể và đặc thù của khoa h ọc xã hội như phương pháp phân
tích và t ổng hợp; phương pháp đối chiếu ; phương pháp diễn di ̣ch ; phương
pháp quy nạp ; phương pháp thống kê , điều tra xã h ội học để tổng h ợp các
tri thứ c khoa học và luâ ̣n chứ ng các vấn đề tương ứ ng được nghiên cứ u
trong luâ ̣n văn .
8
6. Những đóng góp của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
- Luận văn đã góp phần làm rõ thêm nhiều vấn đề lý luận về biê ̣n pháp
bảo lĩnh trong Luâ ̣t TTHS Viê ̣t Nam.
- Luận văn đã tìm hiểu, phân tích các quy định của một số nước trên thế
giới về biện pháp bảo lĩnh, để từ đó kế thừa có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp
của các nước nhằm tiếp tục phát triển các quy định của pháp luật trong nước
về chế định này.
6.2. Về mặt thực tiễn
- Luận văn đã phân tích có hệ thống các quy định của BLTTHS và đánh
giá đầy đủ, toàn diện thực tiễn áp dụng biê ̣n pháp bảo lĩnh trong Luâ ̣t TTHS
Việt Nam, từ đó tìm ra được những hạn chế bất cập về biê ̣n pháp bảo lĩnh
trong luâ ̣t TTHS và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế.
- Luận văn đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao các
quy định của pháp luật TTHS Việt Nam và tăng cường biê ̣n pháp bảo lĩnh
trong Luâ ̣t TTHS Viê ̣t Nam.
- Kết quả nghiên cứ u của luâ ̣n văn còn phục vụ cho viê ̣c trang bi ̣những
kiến thứ c chuyên sâu cho các cán bô ̣đang công tác ta ̣i các Cơ quan đi ều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụán
hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luâ ̣t.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục từ ngữ viết tắt, danh mục tài
liệu tham khảo. Nội dung của luận văn kết cấu gồm 3 chương, như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về biện pháp bảo lĩnh trong
Luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Biện pháp bảo lĩnh trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
năm 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới.
Chương 3: Thực trạng áp dụng biện pháp bảo lĩnh và các kiến nghị
nâng cao hiệu quả áp dụng trong tố tụng hình sự.
9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẢO LĨNH
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố
tụng hình sự Việt Nam
Biện pháp bảo lĩnh là một trong sáu BPNC được pháp luật TTHS Việt
Nam quy định. Do đó, muốn hiểu rõ bản chất pháp lý của biện pháp bảo lĩnh cần
phải nghiên cứu biện pháp này trong mối liên hệ có tính hệ thống với các BPNC.
1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Biện pháp cưỡng chế của Luật TTHS là những biện pháp được thực
hiện bởi cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng nhất định áp dụng theo một
trình tự, thủ tục được pháp luật TTHS quy định, tác động lên tư tưởng, hành
vi người tham gia tố tụng, buộc họ phải thực hiện những nghĩa vụ của mình
nhằm bảo đảm cho việc tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử [35; 54].
Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế TTHS, BPNC được xem như một
chế định pháp lý quan trọng, bởi việc áp dụng các BPNC có ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền lợi của cá nhân người bị áp dụng, nhất là quyền nhân thân và
quyền tự do cá nhân. Các BPNC không ngoài mục đích nào khác là tạo điều
kiện thuận lợi để cơ quan THTT xác định sự thật khách quan của vụ án,
phòng ngừa và kịp thời ngăn chặn các hành vi nguy hiểm cho xã hội chuẩn bị
thực hiện, đang thực hiện hoặc đã thực hiện. Tuy nhiên, còn nhiều quan điểm
khác nhau xung quanh khái niệm BPNC, cần được làm sáng tỏ;
Theo Điều 79 BLTTHS Việt Nam 2003, mặc dù không đưa ra một khái
niệm cụ thể về BPNC, tuy nhiên cũng đã quy định một số nội dung trọng
điểm áp dụng các BPNC:
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ
10
bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc
sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố
tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật
này có thể áp dụng một trong những BPNC sau đây: Bắt, tạm giữ,
tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có
giá trị để bảo đảm [34].
Theo giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà
Nội cho rằng: “BPNC là biện pháp cưỡng chế trong TTHS áp dụng đối với bị
can, bị cáo, người phạm tội quả tang và người cần phải bắt trong trường hợp
khẩn cấp, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm của họ, ngăn chặn người đó gây
khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn” [9].
Theo giáo trình Luật TTHS Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội đưa
ra khái niệm:
BPNC là biện pháp cưỡng chế trong TTHS được áp dụng với
bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với người chưa bị khởi tố
(trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn
chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ
tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây cản trở
cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự [53].
Nhìn chung, các quan điểm khoa học trên đã chỉ ra những yếu tố cần có
của một BPNC đó là: xác định thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp dụng, căn
cứ áp dụng, mục đích áp dụng, được quy định trong BLTTHS. Các BPNC là
quy phạm có tính chất lựa chọn, không phải tất cả các đối tượng đều bị áp
dụng BPNC mà chỉ trong những trường hợp pháp luật quy định. BPNC thể
hiện sự tác động từ phía cơ quan THTT đối với bị can, bị cáo, người bị kết án,
đối với người chưa bị khởi tố trong trường hợp bắt khẩn cấp hoặc phạm tội
11
quả tang. Cần phải hiểu rõ các BPNC không có tính chất trừng phạt, mà chỉ là
phương tiện đảm bảo cho việc làm rõ trách nhiệm hình sự và trong thực tế
hoàn toàn có khả năng một người phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng không
bị áp dụng BPNC. Do đó, khái niệm BPNC cần mang tính khoa học, logic,
phân định rõ ràng về thẩm quyền áp dụng, căn cứ áp dụng, đối tượng áp dụng
và mục đích áp dụng:
Biện pháp ngăn chặn là một trong những biện pháp cưỡng chế tố tụng
hình sự được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự, do người có thẩm quyền
ở các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo, người phạm tội
quả tang hoặc người bị nghi là phạm tội, nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi
phạm tội, ngăn chặn việc bị can, bị cáo cản trở, gây khó khăn cho việc điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án cũng như ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội.
Qua những phân tích trên cho thấy, so với biện pháp cưỡng chế TTHS
thì BPNC có nội dung và phạm vi hẹp hơn. Trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự, các cơ quan THTT được áp dụng nhiều biện pháp cưỡng chế. Ngoài
BPNC, biện pháp cưỡng chế còn có các biện pháp thu thập chứng cứ (khám
xét người, khám xét chỗ ở, địa điểm nơi làm việc, khám nghiệm hiện trường,
xem xét dấu vết trên thân thể…) và các biện pháp bảo đảm cho các hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án (kê biên tài sản, áp giải các bị can, bị cáo,
người bị kết án, dẫn giải người làm chứng...) [54]. Những nhóm biện pháp này
cùng song song tồn tại và hỗ trợ lẫn nhau, đều phải giải quyết những nhiệm vụ
khác nhau. Đối tượng áp dụng của biện pháp cưỡng chế rộng hơn BPNC, đó là
người phạm tội quả tang hoặc người bị nghi là phạm tội, bị can, bị cáo, người
làm chứng,… So với các biện pháp cưỡng chế khác trong TTHS thì BPNC có
tính nghiêm khắc hơn, nên các cơ quan THTT cũng cần cân nhắc thận trọng
khi áp dụng, tránh gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của công dân. Mục đích
áp dụng của BPNC là kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa người
12
phạm tội, bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật và tạo điều kiện để các cơ
quan THTT giải quyết vụ án như không để người phạm tội tiêu hủy chứng cứ,
xóa dấu vết, không để người phạm tội và người làm chứng thông cung... Mục
đích của biện pháp cưỡng chế bao quát hơn đó là ngoài những mục đích trên
biện pháp cưỡng chế còn có mục đích răn đe, đảm bảo cho hoạt động thu thập
chứng cứ của cơ quan có thẩm quyền được thuận lợi để tìm ra chứng cứ xác
thực, kịp thời góp phần cho việc chứng minh vụ án đạt kết quả tốt, đảm bảo
cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử diễn ra thuận lợi.
1.1.2. Khái niệm biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Biện pháp bảo lĩnh đã được quy định từ lâu, nhưng cho đến nay vẫn
còn nhiều cách hiểu khác nhau xung quanh khái niệm bảo lĩnh, có thể chỉ ra
một số quan điểm sau:
Theo BLTTHS năm 2003, quy định tại Điều 92: “Bảo lĩnh là biện pháp
ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh” [34].
Quan điểm này đã làm rõ căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh đó là căn
cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân
thân của bị can, bị cáo, đây là hai căn cứ quan trọng, là cơ sở pháp lý mà các
cơ quan THTT dựa vào đó để áp dụng. Còn điều kiện áp dụng như thế nào thì
chưa được đặt ra.
Theo Giáo trình Luật TTHS Việt Nam – Khoa Luật – Đại học Quốc gia
Hà Nội cho rằng:
Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự thay thế
cho biện pháp tạm giam, được các cơ quan tiến hành tố tụng áp
dụng đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức làm giấy
13
cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở
điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu
tập của các cơ quan tiến hành tố tụng [9].
Đồng quan điểm này Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, trường Đại học
Luật Hà Nội đưa ra khái niệm: “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị
cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp
tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập” [53].
Các quan điểm này đã làm rõ thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo
lĩnh, đối tượng áp dụng, chủ thể nhận bảo lĩnh, thủ tục bảo lĩnh, mục đích
áp dụng biện pháp này nhưng lại thiếu sót khi chưa đưa ra căn cứ áp dụng
biện pháp bảo lĩnh.
Quan điểm của GS. TS Võ Khánh Vinh cho rằng:
Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn được quy định trong
BLTTHS do người có thẩm quyền áp dụng để thay thế biện pháp
tạm giam đối với bị can, bị cáo. Bảo lĩnh là BPNC ít nghiêm khắc
hơn tạm giữ, tạm giam, được áp dụng trong trường hợp không cần
thiết phải tạm giam, nhưng thấy cần ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp
tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu
tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án [57].
Bên cạnh việc làm sáng tỏ về thẩm quyền áp dụng, đối tượng bị áp
dụng, tác giả đã chỉ rõ hơn điều kiện và mục đích áp dụng biện pháp bảo lĩnh
mà không phải quan điểm nào cũng nêu ra là “được áp dụng trong trường hợp
không cần thiết phải tạm giam, nhưng thấy cần ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp
tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án”. Tuy nhiên, căn cứ áp dụng
BPNC là gì thì chưa được tác giả đề cập.
14
Quan điểm của TS Trần Quang Tiệp cho rằng:
Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn được các cơ quan tiến hành
tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo có nhân thân, lai lịch rõ ràng,
để thay thế biện pháp tạm giam nhằm bảo đảm không để bị can, bị
cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử và bảo
đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành
tố tụng khi cần [41].
Quan điểm trên về cơ bản đã nêu được thẩm quyền áp dụng biện pháp
bảo lĩnh thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; đối tượng bị áp
dụng là bị can, bị cáo; mục đích áp dụng là “không để bị can, bị cáo tiếp tục
phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo sự có mặt của họ
theo giấy triệu tập của các cơ quan THTT” nhưng lại chưa cụ thể căn cứ áp
dụng biện pháp bảo lĩnh. Bởi, nếu chỉ căn cứ vào tình tiết “nhân thân, lai lịch
bị can, bị cáo” thì xem ra là chưa đầy đủ, chưa khách quan. Xem xét về mặt
nhân thân chỉ là một yếu tố cần để làm cơ sở pháp lý chứ chưa phải là yếu tố
đủ để cơ quan có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Bên
cạnh việc xem xét căn cứ nhân thân bị can, bị cáo, còn cần phải xem xét tới
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị can, bị
cáo đã gây ra cũng như xét tới khả năng bỏ trốn hoặc cản trở của họ.
Nhìn chung, các quan điểm đều ghi nhận bảo lĩnh với tư cách là một
BPNC, thay thế biện pháp tạm giam. Mặc dù là một biện pháp thay thế,
nhưng biện pháp bảo lĩnh có tính chất ít nghiêm khắc hơn so với tạm giam, nó
không làm hạn chế quyền tự do đi lại của bị can, bị cáo, không tách họ ra khỏi
cộng đồng. Tuy nhiên, các quan điểm trên vẫn chưa thể hiện đầy đủ các đặc
điểm vốn có của một BPNC như:
- Các quan điểm nêu trên hầu như thiếu xót căn cứ áp dụng biện pháp
bảo lĩnh. Căn cứ áp dụng BPNC tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các
15
BPNC. Nguyên tắc pháp chế trong TTHS cho thấy, mọi hoạt động tố tụng,
người THTT và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của
BLTTHS. Vì thế, việc đặt ra căn cứ áp dụng BPNC cũng cần được quy định
trong BLTTHS để đảm bảo tính hợp pháp và tính có căn cứ.
- Các quan điểm nêu rằng cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp
bảo lĩnh là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, điều này là chưa chính
xác, bởi tất cả các cơ quan tiến hành hoạt động tố tụng đều thực hiện những
nhiệm vụ cụ thể đã được pháp luật quy định thông qua các chủ thể có thẩm
quyền, chứ bản thân các cơ quan thì khó mà thực hiện được.
Qua việc phân tích và tổng hợp các quan điểm về biện pháp bảo lĩnh,
có thể đưa ra một định nghĩa khoa học, đầy đủ về khái niệm bảo lĩnh như sau:
Bảo lĩnh là một trong những biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng
hình sự do cơ quan hoặc người có thẩm quyền ở các cơ quan tiến hành tố
tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy
định để thay thế biện pháp tạm giam, nhằm bảo đảm không để bị can, bị cáo
tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử đồng thời bảo đảm sự
có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan THTT.
Hiểu biết về biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, sẽ tránh được
tình trạng nhầm lẫn với biện pháp bảo đảm bảo lãnh trong dân sự. Việc làm
sáng tỏ hai biện pháp bảo lĩnh và bảo lãnh sẽ hạn chế những hiểu lầm trong
việc sử dụng thuật ngữ pháp lý và trong việc nhận biết bản chất pháp lý của
chúng. Như đã trình bày ở trên, biện pháp bảo lĩnh được quy định trong Luật
TTHS, do chủ thể có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo, khi có đủ căn
cứ và điều kiện do pháp luật quy định nhằm bảo đảm không để bị can, bị cáo
cản trở điều tra, truy tố, xét xử… Còn biện pháp bảo lãnh được điều chỉnh bởi
pháp luật dân sự, được hiểu là việc người thứ ba cam kết với người có quyền
sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho người có nghĩa vụ nếu đến thời hạn mà người
16
đó không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện. Bảo lãnh nhằm bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong giao kết hợp đồng. Căn cứ áp dụng biện
pháp bảo lãnh có thể do các bên tự thỏa thuận. Đối tượng của bảo lãnh được
ghi nhận là thực hiện một công việc hoặc vật, tiền, tài sản có giá trị thì đối
tượng của bảo lĩnh là bị can, bị cáo. Biện pháp bảo lãnh thể hiện mối quan hệ
xã hội bình đẳng, trên cơ sở tự nguyện của 3 bên, người bảo lãnh, người nhận
bảo lãnh và người được bảo lãnh. Các mối quan hệ trong biện pháp bảo lĩnh
tuy có 3 bên nhưng trong đó lại thể hiện quan hệ mang tính quyền uy – phục
tùng giữa Nhà nước và bị can, bị cáo. Vì thế, trách nhiệm của các bên trong
mối quan hệ ấy cũng khác nhau. Bảo lãnh trong dân sự cho phép các bên có
thể thực hiện quyền thay cho nhau hoặc thỏa thuận lại, còn biện pháp bảo lĩnh
không như vậy, các quyền và nghĩa vụ được phân định rõ ràng, mang tính cá
thể hóa trách nhiệm hình sự.
Từ khái niệm và những nhận định trên, có thể chỉ ra một số đặc điểm
cơ bản của biện pháp bảo lĩnh như sau:
Thứ nhất, bảo lĩnh là một trong những BPNC trong Luật TTHS. Điều
này được ghi nhận qua những quy định trong BLTTHS năm 2003 về những
BPNC bao gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh,
đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Cùng với những biện pháp này,
BLTTHS hiện hành đã có quy định cụ thể và chi tiết tại chương VI về thẩm
quyền áp dụng, căn cứ áp dụng, thủ tục áp dụng đối với mỗi loại biện pháp.
Biện pháp bảo lĩnh được chủ thể của cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối
với bị can, bị cáo trong những trường hợp cần thiết nhằm bảo đảm cho các
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được thuận lợi, góp phần quan trọng
nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ
các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn
bản pháp luật khác.
17
Thứ hai, bảo lĩnh là một BPNC có tính ít nghiêm khắc. Nói như vậy là
xét trong mối tương quan giữa biện pháp tạm giam và biện pháp bảo lĩnh. Đây
cũng là đặc điểm thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta đối với một số loại
tội phạm, với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là ít
nghiêm trọng hoặc phạm tội lần đầu và có nhân thân tốt… thì những bị can, bị
cáo có thể được áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Người được bảo lĩnh không bị
hạn chế các quyền công dân khác như những bị can, bị cáo bị tạm giữ, tạm
giam nếu họ không gây trở ngại, khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét
xử của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Điều này cũng tránh cho họ
phải chịu áp lực tạm giam chung với tội phạm chuyên nghiệp.
Thứ ba, bảo lĩnh là một BPNC được áp dụng để thay thế biện pháp tạm
giam. Biện pháp bảo lĩnh chỉ được đặt ra khi bị can, bị cáo có quyết định tạm
giam hoặc đang bị tạm giam. Trong trường hợp cơ quan THTT xét thấy
không cần thiết phải tạm giam thì bị can, bị cáo có thể được thay thế bằng
biện pháp bảo lĩnh. Đặc điểm này thể hiện bản chất pháp lý của biện pháp bảo
lĩnh cũng như quán triệt tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp năm 2020 với nô ̣i dung “Xá c
đi ̣nh rõ căn cứ tạm giam ; hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với
một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng ngườ i có thẩm quyền quyết đi ̣nh việc
áp dụng các biện pháp tạm giam…” [5].
Thứ tư, đối tượng bị áp dụng biện pháp bảo lĩnh chỉ có thể là bị can,
bị cáo. Bị can là người bị khởi tố về mặt hình sự, bị cáo là người đã bị Tòa
án quyết định đưa ra xét xử. Những người chưa bị khởi tố về hình sự hoặc
người chưa bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử thì không phải là đối tượng
áp dụng biện pháp này [56; 57].
Thứ năm, để áp dụng biện pháp bảo lĩnh, chủ thể THTT phải dựa vào
các căn cứ và điều kiện nhất định. Căn cứ áp dụng BPNC chính là cơ sở pháp
18
lý của việc áp dụng BPNC. Nếu không có căn cứ do pháp luật quy định thì
người có thẩm quyền không được áp dụng BPNC. Căn cứ áp dụng biện pháp
bảo lĩnh ngoài những căn cứ được quy định chung theo Điều 79 BLTTHS thì
còn theo quy định cụ thể tại Điều 92 BLTTHS. Căn cứ vào tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và dựa vào nhân thân của bị can,
bị cáo, điều kiện là dựa vào việc phải có cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức nhận
bảo lĩnh, nhận giám sát và giáo dục bị can, bị cáo và bảo đảm sự có mặt đúng
thời gian, địa điểm theo giấy triệu tập của cơ quan THTT.
Thứ sáu, biện pháp bảo lĩnh phải được tiến hành bởi người có thẩm
quyền ở các cơ quan THTT và theo một trình tự luật định. Cơ quan THTT là
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, chủ thể THTT là những người được
quy định tại Khoản 1 Điều 80 BLTTHS năm 2003, thẩm phán được phân
công chủ tọa phiên tòa có quyền cho bảo lĩnh khi có đủ những căn cứ do pháp
luật quy định. Khi đáp ứng các căn cứ trên và có người nhận bảo lĩnh, chủ thể
có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đề nghị người nhận bảo
lĩnh cam đoan về nghĩa vụ bảo lĩnh của mình.
Thứ bảy, mục đích của biện pháp bảo lĩnh là nhằm bảo đảm không để
bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử đồng thời
bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan THTT. Quyết
định áp dụng biện pháp bảo lĩnh có nghĩa là việc đưa bị can, bị cáo trở về với
xã hội, không để họ bị cách ly khỏi gia đình, xã hội, nhờ có sự giúp đỡ, giám
sát của gia đình sẽ tạo điều kiện cho họ hướng thiện, tái hòa nhập cộng đồng.
Đây là biện pháp có ý nghĩa nhất định trong TTHS thể hiện sự thu hút vai trò
của quần chúng nhân dân tham gia đấu tranh phòng và chống tội phạm.
1.1.3. Ý nghĩa của biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Biện pháp bảo lĩnh là một BPNC, vì vậy ngoài nó có ý nghĩa của các
BPNC. Ngoài ra, bảo lĩnh cũng cho thấy những nét riêng của một biện pháp
19
có tính ít nghiệm khắc, thể hiện chính sách pháp luật TTHS nhân đạo của
Nhà nước, thể hiện tính hiện đại trong giai đoạn phát triển của đất nước và
thể hiện tính ưu việt, vượt trội hơn các biện pháp khác hướng tới đề cao các
quyền con người.
1.1.3.1. Biện pháp bảo lĩnh thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật
TTHS Việt Nam
Các biện pháp như bắt, tạm giữ, tạm giam là những biện pháp có tính
chất nghiêm khắc chỉ đặt ra khi thật cần thiết, còn khi xét thấy không cần thiết
thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể thay đổi bằng biện pháp ít
nghiêm khắc hơn. Biện pháp bảo lĩnh là một trong ba biện pháp được
BLTTHS quy định, có tính chất ít nghiêm khắc và không hạn chế quyền công
dân miễn là việc thực hiện các quyền đó không gây trở ngại cho hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử.
Biện pháp bảo lĩnh lấy tư tưởng nhân đạo làm chính, coi giáo dục,
thuyết phục nhân cách trong con người là chủ yếu. Vì vậy, khi áp dụng biện
pháp bảo lĩnh, bị can, bị cáo được tại ngoại và trở về sinh sống bình thường.
Họ có thể là người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc đang trong thời kỳ
nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi
cư trú rõ ràng. Hoặc là bị can, bị cáo phạm tội lần đầu, hành vi đó thuộc
trường hợp ít nghiêm trọng, đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo.
1.1.3.2. Biện pháp bảo lĩnh hướng tới bảo vệ quyền tự do và dân chủ của
con người
Hướng tới các quyền tự do, dân chủ của con người là mục tiêu phấn
đấu của mọi quốc gia trên thế giới. Nhà nước cho phép cơ quan THTT sử
dụng các BPNC cần thiết, phù hợp với mục đích đề ra nhưng vẫn bảo đảm các
quyền cơ bản của công dân.
Tinh thần hiện đại của biện pháp bảo lĩnh phù hợp với nghị quyết số 49-
20
NQ/TW ngày 20/6/2005 của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 nêu rõ cần đổi mới biện pháp tạm giam, tiến tới hạn chế dần áp dụng
biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm. Đây là một chủ trường lớn của
Đảng và Nhà nước ta trong cải cách tạm giam nhằm bảo đảm yêu cầu đấu tranh,
phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự gắn liền với việc bảo vệ quyền
con người, quyền tự do, dân chủ của công dân.
Các quy định về biện pháp bảo lĩnh của pháp luật TTHS Việt Nam thể
hiện sự phù hợp với tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại quy định trong các
Điều 9, 10, 11, 12… của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
năm 1966 của Liên Hợp Quốc mà Việt Nam gia nhập năm 1982. Điều 10
Công ước quy định rằng các tù nhân trong hệ thống trại giam được đối xử
nhân đạo với sự tôn trọng nhân phẩm vốn có, nhằm mục đích chính là cải tạo
và đưa họ trở về xã hôi. Biện pháp bảo lĩnh đã tồn tại ở các nước tư bản tiến
bộ từ rất lâu và đã khẳng định vai trò, ý nghĩa của nó trong việc đảm bảo các
quyền cơ bản của công dân. Sự ra đời của biện pháp bảo lĩnh trong pháp luật
TTHS nước ta khẳng định đường lối đổi mới đúng đắn trong tư duy và trong
hành động của nhà làm luật. Qua đó thấy rằng, các quy định về bắt, tạm giữ,
tạm giam tuy đã được xây dựng từ lâu nhưng chỉ đặt ra khi cần thiết.
1.1.3.3. Biện pháp bảo lĩnh thể hiện sự ưu việt của pháp luật TTHS
trong việc giải quyết vụ án hình sự
Biện pháp bảo lĩnh không chỉ thể hiện tính cưỡng chế của Nhà nước đối
với hành vi xâm hại đến quyền, lợi ích cơ bản của công dân mà còn trở thành
phương tiện đắc lực bảo vệ các quyền đó khi chính nó có nguy cơ bị xâm hại
hoặc đang bị xâm hại. Mọi công dân căn cứ vào các quy định của pháp luật để
kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính đúng đắn của việc áp dụng các BPNC,
qua đó bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Áp dụng biện pháp bảo lĩnh là cơ quan THTT chung tay cùng với quần
21
chúng nhân dân tích cực giúp đỡ quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
được giải quyết nhanh chóng, đúng căn cứ, đúng pháp luật. Mặt khác, sự tham
gia của quần chúng nhân dân nhằm giám sát, kiểm tra hoạt động của các cơ
quan THTT, người THTT. Mọi trường hợp thực hiện không đúng các quy định
pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn đều bị phát hiện và khắc phục kịp
thời. Áp dụng biện pháp bảo lĩnh cũng là giảm chi phí về vật chất cho Nhà
nước mà vẫn đạt được hiệu quả và mục đích của các hoạt động tố tụng.
Tóm lại, bảo lĩnh thể hiện sự gắn kết chặt chẽ ba chủ thể trong hoạt
động TTHS: Thứ nhất: Cơ quan THTT có quyền quyết định cho áp dụng biện
pháp này; Thứ hai: Bị can, bị cáo là người bị áp dụng biện pháp này; Thứ ba:
Chủ thể đứng ra nhận bảo lĩnh có nghĩa vụ pháp lý từ khi có quyết định cho
bảo lĩnh. Sự ưu việt của biện pháp này là tạo điều kiện cho những người khác
trong cộng đồng phát huy trách nhiệm cá nhân tham gia vào quản lý, giáo dục
bị can, bị cáo.
Như vậy, những điều trên không những cho phép khẳng định ý nghĩa
xã hội – pháp lý, mà còn khẳng định ý nghĩa khoa học – thực tiễn quan trọng
của việc cần phải tiếp tục nghiên cứu về mặt lý luận chế định bảo lĩnh trong
khoa học Luật TTHS.
1.2. Phân biệt biện pháp bảo lĩnh với các biện pháp ngăn chặn
khác thay thế biện pháp tạm giam trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Thay thế BPNC là việc các cơ quan THTT áp dụng một biện pháp khác
thay cho biện pháp đang được áp dụng. Tạm giam được quy định tại Điều 88,
là một BPNC rất nghiêm khắc, tước đoạt quyền tự do đi lại của bị can, bị cáo.
Việc nhà làm luật quy định biện pháp khác thay thế tạm giam là hoàn toàn
hợp lý bởi không phải mọi đối tượng thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
đều bị áp dụng biện pháp tạm giam. Các biện pháp thay thế tạm giam trong
TTHS được các cơ quan THTT áp dụng bao gồm cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo
22
lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Phân biệt các biện pháp này
giúp làm sáng tỏ bản chất pháp lý của mỗi biện pháp, từ đó, các cơ quan
THTT có thể áp dụng linh hoạt hơn các biện pháp này sao cho phù hợp với
đối tượng áp dụng và tình hình vụ án.
1.2.1. Cấm đi khỏi nơi cư trú
Cấm đi khỏi nơi cư trú là một BPNC được quy định tại Điều 91
BLTTHS năm 2003. Biện pháp này tuy không được nhà làm luật quy định rõ
là biện pháp thay thế tạm giam nhưng trong thực tiễn nó được các cơ quan sử
dụng như một biện pháp thay thế tạm giam.
Có thể thấy, cả hai biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và bảo lĩnh đều là
BPNC ít nghiêm khắc. Do đó, đối tượng áp dụng thường là bị can, bị cáo đang
bị tạm giữ, tạm giam. Tuy pháp luật không quy định cụ thể căn cứ áp dụng biện
pháp cấm đi khỏi nơi cư trú nhưng thực tiễn áp dụng biện pháp này cho thấy
các bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp này thường là phạm tội lần đầu, tính
chất ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, thái độ thành khẩn khai báo.
Về mặt thẩm quyền áp dụng đều do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án (được quy định tại khoản 1 Điều 80 BLTTHS năm 2003, thẩm phán
được phân công chủ tọa phiên tòa) quyết định áp dụng.
Nếu như biện pháp bảo lĩnh không hạn chế các quyền công dân mà được
thực hiện tất cả các quyền này miễn sao việc thực hiện các quyền đó không gây
trở ngại cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì biện pháp cấm đi khỏi nơi cư
trú làm hạn chế quyền tự do đi lại của bị can, bị cáo. Bị can, bị cáo không được
tự ý rời khỏi nơi cư trú của mình. Đối với biện pháp bảo lĩnh, bị can, bị cáo bị
giám sát, theo dõi bởi các cá nhân hoặc tổ chức đứng ra nhận bảo lĩnh. Việc
nhận bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư
trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Họ phải cam đoan, chịu trách
nhiệm không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của họ
23
theo giấy triệu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Còn với biện pháp
cấm đi khỏi nơi cư trú, bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan không đi khỏi nơi
cư trú của mình và phải có mặt khi các cơ quan có thẩm quyền triệu tập. Trong
thời gian bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú bị can, bị cáo phải chịu
sự giám sát, quản lý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư
trú. Trong trường hợp bị can, bị cáo có lý do chính đáng phải tạm thời đi khỏi
nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi
người đó cư trú và phải có giấy phép của cơ quan đã áp dụng BPNC đó. Nếu bị
can, bị cáo vi phạm lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của cơ quan THTT thì sẽ bị áp
dụng BPNC khác nghiêm khắc hơn. Không có quy định trách nhiệm đối với
người giám sát như biện pháp bảo lĩnh.
1.2.2. Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là BPNC trong Luật TTHS
do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án căn cứ vào tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị can, bị cáo và khả năng tài
chính của bị can, bị cáo hoă ̣c của người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo
là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần, để bảo đảm sự
có mặt của họ theo giấy triệu tập.
Theo Thông tư số 17/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-
TANDTC ngày 14/11/2013 hướng dẫn về việc đă ̣t tiền để bảo đảm theo quy
định tại Điều 93 của BLTTHS đã quy định chi tiết về việc đặt tiền thì đối
tượng bị áp dụng biện pháp này là:
a) Bị can, bị cáo phạm tội lần đầu; có nơi cư trú rõ ràng; thành
khẩn khai báo, ăn năn hối cải; b) Bị can, bị cáo có khả năng về tài
chính để đặt bảo đảm theo quy định. Đối với bị can, bị cáo là người
chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần mà không có
hoặc không đủ tiền để đặt bảo đảm thì xem xét đến khả năng tài
24
chính của người đại diện hợp pháp của họ; c) Có căn cứ xác định,
sau khi được tại ngoại, bị can, bị cáo sẽ có mặt theo giấy triệu tập của
cơ quan THTT và không tiêu huỷ, che giấu chứng cứ hoặc có hành vi
khác cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử; d) Viê ̣c cho bi ̣can, bị cáo
tại ngoại không gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự; đ) Không thuộc
một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này [7].
Như vậy, bên cạnh các căn cứ để áp dụng giống biện pháp bảo lĩnh thì
biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm còn dựa vào căn cứ về
“tình trạng tài sản của bị can, bị cáo”. Để được áp dụng biện pháp này, bị
can, bị cáo phải đặt một số tiền hoặc tài sản nhất định theo quy định của pháp
luật. Thông tư này giải thích cụ thể hơn, tình trạng tài sản là khả năng tài
chính của bị can, bị cáo hoă ̣c của người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo
là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần. Tuy nhiên Thông
tư mới chỉ hướng dẫn chi tiết về đặt tiền để bảo đảm chứ chưa có quy định về
đặt tài sản có giá trị để bảo đảm. Đặt tài sản có giá trị để bảo đảm dường như
còn nhiều vấn đề phải bàn bạc, bởi tài sản bao gồm động sản và bất động sản.
Nếu tài sản là động sản thì không khó để quy đổi nhưng vấn đề nảy sinh là
bảo quản động sản như thế nào? Nếu tài sản là bất động sản thì sẽ kéo theo
nhiều thủ tục liên quan, kinh phí cho việc giám định giá trị tài sản, chưa kể là
tốn kém thời gian. Với khoảng thời gian dài thực hiện những việc ấy có thể áp
dụng biện pháp thay thế tạm giam khác.
Có thể thấy, nếu biện pháp bảo lĩnh dựa trên niềm tin, uy tín của cá
nhân, tổ chức nhận bảo lĩnh thì biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị dựa
vào nền tảng kinh tế, khả năng tài chính của bị can, bị cáo hoặc người đại diện
hợp pháp để bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo khi có lệnh triệu tập của Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Mặt khác, biện pháp đặt tiền để bảo đảm
theo Thông tư số 17/2013 được nới rộng cho cả tội phạm rất nghiêm trọng.
25
Cơ quan THTT quyết định mức tiền cụ thể mà bị can, bị cáo phải đặt để bảo
đảm, tiền được đặt để bảo đảm là tiền mặt Việt Nam đồng, nhưng không dưới:
“a) Hai mươi triệu đồng đối với tội phạm ít nghiêm trọng; b) Tám mươi triệu
đồng đối với tội phạm nghiêm trọng; c) Hai trăm triệu đồng đối với tội phạm
rất nghiêm trọng; Quyết định của CQĐT phải được VKS cùng cấp phê chuẩn
trước khi thi hành” [7]. Cơ quan THTT có thể quyết định mức tiền phải đặt
để bảo đảm thấp hơn nhưng không dưới một phần hai (1/2) mức tương ứng
quy định tại khoản 1 đối với một số trường hợp như: a) Bị can, bị cáo thuộc
hộ nghèo hoă ̣c có điều kiê ̣n kinh tế khó khăn; b) Bị can, bị cáo là thương binh,
bệnh binh, là người được tă ̣ng danh hiê ̣u Anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân, Anh hùng lao đô ̣ng…; c) Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người
có nhược điểm về tâm thần.
Biện pháp bảo lĩnh chưa có quy định cụ thể trách nhiệm áp dụng đối
với cá nhân hoặc tổ chức vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Còn biện pháp đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị quy định cơ quan THTT có quyền tịch thu, sung
quỹ Nhà nước số tiền hoặc tài sản mà họ đã đặt nếu vi phạm nghĩa vụ đã cam
đoan. Nếu bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ nghĩa vụ đã cam đoan thì cơ quan
THTT có nghĩa vụ trả lại cho họ số tiền hoặc tài sản đã đặt.
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của Luật tố tụng hình sự Việt
Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp bảo lĩnh
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám đến trước khi pháp
điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988
Quá trình hình thành và phát triển Luật TTHS gắn liền với sự ra đời và
phát triển của Nhà nước. Luật TTHS đã trở thành một bộ phận không thể
thiếu, hợp thành hệ thống pháp luật Việt Nam và nó chính là công cụ để Nhà
nước quản lý xã hội, góp phần ổn định trật tự xã hội, xây dựng, bảo vệ và phát
triển đất nước.
26
Từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời ngày 2/9/1945,
trong những ngày đầu sau khi giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta
đã phải bắt tay vào thực hiện nhiều nhiệm vụ, nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và
lớn mạnh của cách mạng. Đòi hỏi Nhà nước ta phải ban hành ngay một hệ
thống các văn bản pháp luật để kịp thời phục vụ cho công việc quản lý xã hội
lúc bấy giờ là điều khó khăn. Do đó, trong Sắc lệnh ngày 10/10/1945 quy định
các cơ quan Nhà nước tạm thời áp dụng một số luật lệ cũ không trái với
nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa. Tuy
nhiên, các luật lệ cũ về hình sự và TTHS của nhà nước phong kiến và thực
dân mang tính chất hà khắc và phi nhân đạo, không thể áp dụng trong giai
đoạn đi lên của đất nước. Vì thế, trước mắt việc cấp bách của nhà nước ta là
ban hành sớm các văn bản pháp luật hình sự và TTHS để phục vụ đắc lực cho
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân.
Với sự ra đời của Hiến pháp 1946 (thông qua tháng 11/1946), Luật
TTHS đã ra đời và tồn tại với tư cách là ngành luật độc lập. Các biện pháp
ngặn chặn đã manh nha và hình thành trong một vài văn bản quy phạm pháp
luật. Tuy nhiên, các BPNC trong giai đoạn này chưa được ghi nhận trong văn
bản pháp luật riêng, tại chương VI Hiến pháp mới chỉ ở mức độ khái quát
nhất như ghi nhận một số nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có sự tham gia
của hội thẩm nhân dân; nguyên tắc xét xử công khai; nguyên tắc bảo đảm
quyền bất khả xâm phạm thân thể của công dân…
Các quy định về bắt, giam, giữ được ghi nhận xen kẽ trong các văn bản
pháp luật khác như Sắc lệnh 131/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức Tòa án và
ngạch Thẩm phán, Sắc lệnh 131/SL ngày 7/11/1950 về cải cách bộ máy tư
pháp… trong đó đã bước đầu ghi nhận quy định về đối tượng áp dụng, thẩm
quyền áp dụng, thủ tục áp dụng BPNC.
27
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tình hình đất nước có nhiều chuyển
biến lớn, ta buộc Thực dân Pháp ký kết hiệp định Giơnevơ ngày 20/7/1954
công nhận chủ quyền, độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta.
Miền Bắc tiến vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước đòi hỏi cấp
thiết của công cuộc thống nhất đất nước, những sắc lệnh, sắc luật trước năm
1954 không còn phù hợp với nhu cầu chính trị, xã hội trong tình hình mới,
Quốc hội khóa 1 đã thông qua Luật Bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền
bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật và thư tín của nhân dân. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ký Sắc luật số 103/SL T005 ngày 20/5/1957 bảo đảm quyền tự
do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật và thư tín của
nhân dân. Sắc luật số 002 ngày 18/6/1957 quy định những trường hợp phạm
pháp quả tang, những trường hợp khẩn cấp và những trường hợp khám người
quả tang; Nghị định số 301/Ttg ngày 10/7/1957 của Thủ tướng Chính phủ quy
định chi tiết thi hành Sắc luật số 103 - SL/L005; Thông tư số 16-TATC ngày
27/9/1974 của Tòa án tối cao. Trong đó Sắc luật 002 và các văn bản sau quy
định chi tiết Sắc luật số 103/SL T005. Các BPNC được quy định trong các
văn bản trên chủ yếu là biện pháp bắt người, tạm giữ, tạm giam. Đáng chú ý
là tại Điều 5, Điều 6, Điều 8 Chương 3 của Sắc luật 103 - SL/L005, ngoài
biện pháp tạm giữ, tạm giam, nhà làm luật đã đề cập đến chế định tạm tha.
Các Điều luật quy định thầm quyền áp dụng chế định tạm tha thuộc về cơ
quan tư pháp huyện hoặc công an huyện, họ được quyền tạm giữ can phạm
trong thời hạn ba ngày để xét và hỏi cung, rồi phải quyết định tha hẳn, tạm
tha, hoặc giải lên TAND hoặc công an cấp trên; Trong trường hợp việc tạm
giam không cần thiết cho cuộc điều tra nữa, hoặc việc tạm tha không gây
nguy hiểm gì cho trật tự chung, thì cơ quan tư pháp hoặc Tòa án binh nào đã
ra lệnh tạm giam có thể tự mình, hoặc căn cứ vào đơn xin của can phạm, ra
lệnh tạm tha. Đối với trường hợp những can phạm già yếu, có bệnh nặng,
28
hoặc phụ nữ có thai nghén, hoặc phụ nữ đang thời kỳ cho con bú, thì có thể
cho tạm tha, và nếu cần sẽ giám thị tại chỗ ở. Đến Nghị định số 301/Ttg ngày
10/7/1957 thủ tục tạm tha, thẩm quyền tạm tha, đối tượng tạm tha đã được đề
cập cụ thể hơn.
Chế định tạm tha là một quy phạm pháp lý mới mẻ lúc bấy giờ. Tuy
còn nhiều thiếu sót nhưng với sự xuất hiện của chế định này cho phép khẳng
định rằng, Nhà nước ta thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội rất chú trọng
đến các quyền và lợi ích cơ bản của con người, đặc biệt là quyền tự do thẩn
thể của nhân dân. Pháp luật TTHS thời kỳ này thể hiện chính sách nhân đạo
không chỉ đối với những can phạm “không gây nguy hiểm” mà còn quan
tâm đến cả những can phạm già yếu, bệnh tật, đến những phụ nữ mang thai
hay đang chăm sóc con nhỏ. Đây là một chế định mang tính đột phá, là bàn
đạp cho quá trình hình thành nên các biện pháp mang tính tự do tạm hay tại
ngoại sau này.
 Pháp luật Việt Nam Cộng hòa (1955 - 1975)
Từ năm 1954, theo thỏa thuận của Hiệp đinh Geneve 1954, chính
quyền và các lực lượng quân sự của Quốc gia Việt Nam theo quân đội Pháp
tập kết vào miền Nam Việt Nam.
Năm 1955 thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Quốc trưởng, ông đã tổ
chức bầu Quốc hội Lập hiến cho Quốc gia Việt Nam. Quốc hội này ban hành
Hiến pháp đổi tên Quốc gia Việt Nam thành Việt Nam Cộng Hòa (1955 -
1975). Về danh nghĩa, tuyên bố chủ quyền trên toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam,
trên thực tế kiểm soát một phần lãnh thổ ở phía Nam, từ vĩ tuyến 17 trở vào.
Luật pháp Việt Nam Cộng hòa được xây dựng căn cứ theo Bộ Hoàng
Việt Hộ luật (1936 - 1939) do triều đình Huế ban hành ở Trung Kỳ cùng Bộ
Dân luật (1883) áp dụng ở Nam Kỳ. Hình luật thì có Bộ Hoàng Việt Hình luật
(1933), Tố tụng tu chính của Trung Kỳ (1935) và Hình luật Nam Kỳ Canh cải
29
(1912). BLTTHS được Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành qua sắc luật
số 027/TT-SLU ngày 20/12/1972.
Nghiên cứu Bộ luật này cho thấy, các BPNC đã có một bước phát triển
vượt bậc, bên cạnh việc quy định cụ thể về các biện pháp bắt, tạm giam, tạm
giữ. Luật pháp giai đoạn này đã đặt ra nhiều quy phạm liên quan đến vấn đề
tự do tạm trong quá trình chờ điều tra, truy tố, xét xử như biện pháp đặt tiền
bảo chứng. Đây là biện pháp phải nạp một khoản tiền bảo chứng mà dự thẩm
sẽ ấn định tổng số căn cứ theo khả năng tài chính của bị can. Bảo chứng có
thể nạp bằng tiền mặt, chỉ phiếu có chứng nhận hoặc chứng khoán do quốc
gia phát hành hay bảo đảm, và phải nạp tại ty trước bạ.
Trong bất cứ giai đoạn nào của vụ án, kể cả giai đoạn thượng tố, bị can
đều có thể xin tự do tạm. Một số Điều quy định về tự do tạm và bảo chứng
như khoản 11 Điều 131; Đoạn 2 Điều 138; Điều 141; Điều 142; Điều 143,
Điều 146; Điều 153; Điều 385...
Thẩm quyền cho tự do tạm: Cơ quan xét xử đã thụ lý có quyền quyết
định cho tự do tạm; Trong trường hợp có thượng tố và cho đến khi có phúc
quyết của Tối cao pháp viện, quyền cho tự do tạm thuộc cơ quan tài phán xét
xử sau cùng nội dung vụ án. Nếu phán quyết của tòa đại hình bị thượng tố,
phòng luận tội sẽ quyết định về đơn xin tự do tạm; Nếu có quyết định vô thẩm
và nói chung trong mọi trường hợp không có cơ quan tài phán nào thụ lý,
phòng luận tội sẽ xét các đơn xin tự do tạm. Công tố viện sẽ cho thi hành
ngay quyết định ban tự do tạm, khi được trình biên lai nạp tiền bảo chứng.
Về chủ thể đặt tiền bảo chứng: Về trọng tội hay khinh tội, bị can, người
phối ngẫu, cha mẹ hoặc con cái hay luật sư lúc nào cũng có thể xin dự thẩm
cho tự do tạm với điều kiện tuân theo những trách vụ dự liệu được quy định
trong Sắc luật.
Đối tượng được đặt tiền bảo chứng: Đối với khinh tội mà mức tối đa
hình phạt giam bằng hay quá hai (2) năm, bị can có thể được tự do tạm nếu
30
chưa có tiền án quá ba (3) tháng giam về các tội cố ý và có nghề nghiệp cùng
địa chỉ chắc chắn. Nữ bị can, về các tội tiểu hình, có nghề nghiệp và địa chỉ
chắc chắn, cũng có thể được tự do tạm, nếu có thai trên ba (3) tháng.
Bị can được tự do tạm phải cam kết trình diện mỗi khi được gọi cũng
như phải báo cho dự thẩm biết mỗi khi di chuyển. Sau khi được tự do tạm,
nếu bị can được đòi mà không đến, hoặc có những trường hợp mới hay hệ
trọng, khiến phải giam giữ bị can, dự thẩm hoặc cơ quan tài phán thụ lý vụ án
có thể hạ trát tống giam lại.
Điều thứ 146 quy định bị can bị kiểm soát tư pháp hoặc được tự do
tạm, tùy trường hợp có thể bị buộc đóng một số tiền bảo chứng. Trước khi
được tự do tạm, dù có tiền bảo chứng hay không, bị can đứng đơn cũng phải
tuyển định cư sở tại nơi Tòa án thụ lý nội vụ đặt trụ sở.
Như vậy, vấn đề tự do tạm theo quy định của BLTTHS Việt Nam Cộng
hòa đã cho thấy trình độ lập pháp vượt trội giai đoạn 1955 - 1975. Với việc
quy định tự do tạm, những người THTT căn cứ từng trường hợp, từng loại tội
mà buộc bị can phải đặt một khoản tiền bảo chứng. Những quy định mang
tính chất nhân đạo hơn cũng được thể hiện trong Sắc luật, đặc biệt là đối với
phụ nữ mang thai. Đây là những dấu hiệu, là nền tảng cơ bản của một số biện
pháp thay thế biện pháp tạm giam về sau đã được quy định trong BLTTHS
năm 1988 và BLTTHS năm 2003, nếu không phải đặt tiền mà được tự do tạm
thì có thể là biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, nếu phải đặt tiền thì
đó có thể là biện pháp đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm.
Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 đã đánh dấu quá trình kết thúc một
chặng đường dài đấu tranh dựng nước và giữ nước của toàn dân ta. Từ đó, hệ
thống pháp luật của cả hai miền Nam, Bắc đều được thống nhất, các quy phạm
pháp luật đặt ra đều có hiệu lực trên toàn phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Thời kỳ
này, Nhà nước ta đã ban hành nhiều quy phạm pháp luật, cụ thể là sắc lệnh số
31
02-SL76 ngày 15/3/1976 quy định việc tạm giữ, bắt giam, khám người, khám
nhà, khám đồ vật. Sau những quy định ghi nhận các quyền bất khả xâm phạm
về thân thể về việc bắt hoặc tạm giam người phải đúng người, đúng pháp luât,
các vụ án được đưa ra xem xét và xét xử một cách công bằng, chính xác, hạn
chế được tình trạng bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội của người bị tình nghi, các
bị can, bị cáo.
Nhà nước ta đã có những quy định về các BPNC từ lâu, mặc dù chưa
có quy định về biện pháp bảo lĩnh nhưng có các BPNC được áp dụng đều
nhằm hướng tới mục đích nhân đạo, mục tiêu đấu tranh, phòng chống tội
phạm. Điều đó cũng đưa ra những chỉ báo rằng khi xã hội ngày càng phát
triển thì pháp luật càng hướng tới chính sách nhân đạo xã hội chủ nghĩa, dự
báo về việc hình thành các BPNC khác mang tính chất nhân đạo, bảo vệ các
quyền tự do của con người.
1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
năm 1988 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ hai – Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003
Sau nhiều năm soạn thảo, ngày 28/6/1988 BLTTHS đầu tiên của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội khóa VIII kì họp thứ
3 thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/1989. BLTTHS năm 1988
đánh dấu bước phát triển của khoa học Luật TTHS, của ngành Luật TTHS và
kĩ thuật lập pháp TTHS ở nước ta. Lần đầu tiên các BPNC được quy định một
cách đầy đủ và có hệ thống tại Chương V Bộ luật, trong đó đã có quy định về
BPNC bảo lĩnh. Chương V từ Điều 61 đến Điều 77 BLTTHS đã quy định các
BPNC gồm: bắt người, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh,
đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Đây là lần đầu tiên biện pháp bảo lĩnh được quy định trong pháp luật
TTHS Việt Nam, cụ thể được quy định tại Điều 75 BLTTHS năm 1988:
32
1. Cá nhân hoặc tổ chức có thể nhận bảo lĩnh bị can, bị cáo.
Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan
không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của
bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo
lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến
việc nhận bảo lĩnh. Trong trường hợp cá nhân nhận bảo lĩnh thì ít
nhất phải có hai người.
2. Cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh phải chịu trách nhiệm
về vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan [33].
Biện pháp bảo lĩnh được quy định trong BLTTHS năm 1988 thể hiện
sự tiến bộ về kỹ thuật lập pháp trong việc bảo đảm quyền tự do thân thể của
con người, thể hiện tư tưởng nhân đạo, tư tưởng dân chủ hóa các hoạt động
TTHS của Đảng và Nhà nước ta
Người được bảo lĩnh không bị hạn chế các quyền công dân
nếu họ không gây trở ngại cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ
án, đồng thời còn thể hiện tính nhân đạo của pháp luật nước ta đối
với những người lần đầu phạm tội, thuộc trường hợp ít nghiêm
trọng, khai báo thành khẩn, bị ốm nặng… [12].
Tuy nhiên BLTTHS năm 1988 chưa đưa ra được một khái niệm rõ ràng
về biện pháp bảo lĩnh, bản chất của biện pháp này, thẩm quyền áp dụng cụ thể
đối với biện pháp bảo lĩnh cũng như không có quy định căn cứ áp dụng, điều
kiện về chủ thể nhận bảo lĩnh một cách cụ thể.
Căn cứ áp dụng BPNC bao gồm các căn cứ được quy định tại Điều 61
và các căn cứ được quy định tại các điều luật về các BPNC cụ thể. Theo quy
định tại Điều 61 BLTTHS năm 1988 thì để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc
khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy
33
tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, thì
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể áp dụng một trong những
BPNC: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc
tài sản có giá trị để bảo đảm. So với pháp luật TTHS trước đây, BLTTHS năm
1988 đã đưa ra nhiều điểm mới từ nội dung các chế định, quy định về trình tự,
thủ tục THTT. Trải qua thực tiễn áp dụng pháp luật, được sửa đổi, bổ sung
nhiều lần đến năm 2000, BLTTHS sửa đổi bổ sung đã quy định cụ thể hơn
thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp dụng, căn cứ áp dụng và mục đích áp dụng
đối với các BPNC.
BLTTHS năm 1988 ra đời tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho việc áp
dụng các BPNC trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng nói chung và
áp dụng biện pháp bảo lĩnh nói riêng. Tuy nhiên, câu chuyện áp dụng và thi
hành BLTTHS năm 1988 trong thực tiễn, tổng kết thực tiễn chưa được các
ngành chức năng tiến hành thời gian đó, đã bộc lộ rõ những hạn chế, khó khăn
nhất định trong việc áp dụng các quy định về BPNC nói chung và biện pháp
bảo lĩnh nói riêng.
Trong thời gian qua, tỉ lệ các vụ án hình sự trong đó có áp dụng
biện pháp bảo lĩnh hầu như không đáng kể. Theo các tác giả Nguyễn
Mai Bộ và Nguyễn Vạn Nguyên thì trong số 72 vụ án với 126 bị can,
bị cáo được nghiên cứu chỉ có 7 trường hợp được bảo lĩnh, chiếm tỉ lệ
5,5%, trong đó bảo lĩnh cá nhân chiếm 2,8% và nét đặc biệt của việc
áp dụng biện pháp này trong thực tiễn là bảo lĩnh hầu như chỉ được áp
dụng đối với bị can, bị cáo chưa thành niên [13].
 Những mặt đạt được của biện pháp bảo lĩnh trong BLTTHS năm 1988:
- Về mặt lập pháp:
Trên cơ sở kế thừa những kinh nghiệm lập pháp trước khi pháp điển hóa
lần thứ nhất, BLTTHS năm 1988 đã hệ thống hóa một cách đầy đủ các BPNC.
34
Sự xuất hiện một số BPNC mới, cụ thể là biện pháp bảo lĩnh đã cho thấy vai trò
sáng tạo pháp luật trong sự phát triển của PLTTHS Việt Nam. Nhà làm luật xây
dựng 1 chương các BPNC riêng biệt và có hệ thống đã tạo ra cơ sở pháp lý
thống nhất trong nhận thức và áp dụng các BPNC trên thực tế, đảm bảo hiệu
quả và mục đích của hoạt động tố tụng, góp phần vào công tác đấu tranh chống,
phòng ngừa tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân. Sự hiện diện của
biện pháp bảo lĩnh trong BLTTHS năm 1988 đã thể hiện cụ thể tư tưởng dân
chủ hóa các hoạt động TTHS của Đảng và Nhà nước ta.
- Về mặt lý luận:
Đây là lần đầu tiên BPNC bảo lĩnh được nhà làm luật quy định trong
BLTTHS năm 1988. Việc đưa ra các BPNC khác nhau đã giải quyết và làm
sáng tỏ nhiều khái niệm, phạm trù và luận điểm của Luật TTHS; từ những vấn
đề này, nó đã góp phần quan trọng trong việc hình thành và soạn thảo các tư
tưởng, quan điểm của khoa học Luật TTHS Việt Nam đối với nhiều quy phạm
và nhiều chế định Luật TTHS tương ứng mà sau này được nhà làm luật pháp
điển hóa và ghi nhận trong pháp luật TTHS quốc gia.
- Về mặt thực tiễn:
Biện pháp bảo lĩnh không chỉ góp phần giúp cho hoạt đông lập pháp và
hoạt động lý luận khẳng định tính quyết định và giá trị xã hội của các quy
phạm và các chế định PLTTHS. Thực tiễn áp dụng biện pháp giúp kiểm tra
được tính chính xác về mặt khoa học, tính khả thi và hiệu quả về mặt xã hội
của quy phạm PLTTHS tương ứng. Bảo lĩnh thu hút sự tham gia của đông đảo
quần chúng nhân dân, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan
THTT nhanh chóng xác định sự thật khách quan của vụ án và giảm thiểu chi
phí vật chất cho Nhà nước mà vẫn đạt được hiệu quả và mục đích của hoạt
động tố tụng.
 Những mặt còn tồn tại của biện pháp bảo lĩnh trong BLTTHS năm 1988:
Thực tiễn áp dụng pháp luật của BLTTHS năm 1988 cho thấy:
35
- Bị can, bị cáo đã bỏ trốn khi được bảo lĩnh, gây không ít khó khăn,
trở ngại, khi ra tranh tụng thì các cơ quan THTT và người THTT đổ lỗi cho
nhau, ảnh hưởng tới người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Từ đó đưa ra một câu hỏi cần làm sáng tỏ: Đối tượng nào có thể áp dụng biện
pháp bảo lĩnh? Nhiều vụ án bị quá hạn, thậm chí tạm đình chỉ điều tra bị can
cũng chỉ bởi những lý do này. Vậy trách nhiệm của các bên khi vi phạm nghĩa
vụ đã cam kết giải quyết như thế nào?
- Theo Điều 75 BLTTHS năm 1988, bảo lĩnh có thể được áp dụng đối
với tất cả các loại tội. Liệu như vậy có đảm bảo bị can, bị cáo không tiếp tục
phạm tội, không gây trở ngại cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với
nhóm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng?
- Các căn cứ áp dụng cụ thể đối với biện pháp này là gì? Liệu chỉ căn
cứ theo quy định chung tại Điều 61 BLTTHS đã đủ chưa vì mỗi một BPNC
lại có bản chất pháp lý khác nhau? Có cần quy định cụ thể điều kiện về người
được nhận bảo lĩnh cũng như thủ tục bảo lĩnh không?
Qua hơn 15 năm thi hành với ba lần sửa đổi, bổ sung, BLTTHS năm
1988 là một trong những căn cứ pháp lý quan trọng giúp Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án tiến hành các hoạt động một cách khách quan, toàn
diện. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận ý nghĩa thực tiễn, ý nghĩa lý luận
của biện pháp này đối với quá trình giải quyết vụ án hình sự. Những hạn chế
này đã dần được khắc phục, bổ sung trong các quy định về biện pháp bảo lĩnh
tại Điều 92 BLTTHS năm 2003, để biện pháp này đạt hiệu quả hơn, phát huy
tốt tác dụng tích cực của nó trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tóm lại, qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận về biện pháp bảo lĩnh
trong Luật TTHS, luận văn đã làm sáng tỏ:
- Khái niệm về biện pháp bảo lĩnh trong Luật TTHS. Biện pháp bảo
lĩnh mang đầy đủ những nét đặc trưng của BPNC, ngoài ra biện pháp bảo lĩnh
36
cũng có những đặc điểm riêng của một biện pháp thay thế tạm giam như tính
ít nghiêm khắc, không hạn chế quyền tự do đi lại của bị can, bị cáo, muốn áp
dụng biện pháp bảo lĩnh phải dựa trên những căn cứ, điều kiện do pháp luật
TTHS quy định. Biện pháp bảo lĩnh được áp dụng không ngoài mục đích tạo
điều kiện thuận lợi cho các cơ quan THTT tìm ra sự thật khách quan của vụ
án, đảm bảo các đối tượng không tiếp tục phạm tội, cản trở hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử. Luận văn giúp phân biệt biện pháp bảo lĩnh trong TTHS với
biện pháp bảo lãnh trong luật dân mang lại giá trị nhận thức đúng đắn hơn cho
các cơ quan THTT lẫn người dân.
- Khi được áp dụng biện pháp bảo lĩnh bị can, bị cáo được trở về với
gia đình, xã hội. Vì thế, bên cạnh ý nghĩa về mặt xã hội, biện pháp bảo lĩnh
còn thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật TTHS, hướng tới bảo vệ các
quyền tự do và dân chủ của con người, thể hiện sự ưu việt của pháp luật
TTHS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, thu hút sự tham gia của quần
chúng nhân dân trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.
- Luận văn làm rõ sự khác nhau giữa các biện pháp thay thế tạm giam:
cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Ba
biện pháp có rất nhiều nét tương đồng nhưng cũng có một số điểm khác nhau.
Nếu như biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú làm hạn chế nơi ở của bị can, bị cáo
thì biện pháp bảo lĩnh không hạn chế quyền đó. Nếu biện pháp đặt tiền hoặc
tài sản có giá trị để bảo đảm yêu cầu bị can, bị cáo muốn tại ngoại phải đặt
một khoản tiền hoặc đặt tài sản có giá trị thì biện pháp bảo lĩnh không yêu cầu
điều đó. Bảo lĩnh dựa trên sự tin tưởng, dựa trên trình độ pháp lý của cán bộ
THTT, dựa trên các căn cứ pháp luật thực định và căn cứ thực tế để áp dụng,
miễn sao bảo đảm được mục đích đặt ra.
- Luận văn đã nghiên cứu một cách chuyên sâu lịch sử lập pháp hình sự
của biện pháp bảo lĩnh trong TTHS. Từ năm 1945 đến trước khi có BLTTHS
37
năm 1988, mặc dù chưa có văn bản chính thức ghi nhận biện pháp bảo lĩnh
nhưng trong nhiều văn bản đã có hướng dẫn về vấn đề tạm tha, tự do tạm, bảo
chứng… Đến khi có BLTTHS năm 1988, biện pháp bảo lĩnh lần đầu được ghi
nhận đã đánh dấu một bước tiến bộ về kỹ thuật lập pháp hình sự ở nước ta.
Tuy nhiên, do biện pháp này vẫn còn nhiều vướng mắc chưa được giải thích
rõ ràng. Đến khi có BLTTHS năm 2003, biện pháp bảo lĩnh đã làm sáng tỏ
nhiều khía cạnh lập pháp hơn, biện pháp ngày càng khẳng định vị trí trong hệ
thống các biện pháp ngăn chặn. Và một lần nữa, thực tiễn kiểm chứng đã cho
thấy những tồn tại trong các quy định về biện pháp bảo lĩnh cần được điều
chỉnh, khắc phục để đạt hiệu quả hơn, phát huy được tác dụng của nó trong
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
38
Chương 2
BIỆN PHÁP BẢO LĨNH TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM NĂM 2003 VÀ BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
2.1. Biện pháp bảo lĩnh trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003
BLTTHS năm 2003 được Quốc hội khóa XI tại kì họp thứ tư thông qua
ngày 26/11/2003 đã đáp ứng được yêu cầu về đổi mới hoạt động của các cơ
quan tư pháp theo hướng tinh giản bộ máy, thống nhất đầu mối, nâng cao chất
lượng của các cơ quan THTT trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đáp ứng
yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Căn cứ
vào thực tiễn thi hành BLTTHS năm 1988 và quán triệt các chủ trương chính
sách lớn của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, cùng với việc thay đổi cấu
trúc các điều luật, BLTTHS năm 2003 đã đặt ra nhiều quy định chặt chẽ hơn
trong việc áp dụng các BPNC, đặc biệt là biện pháp bảo lĩnh.
Sau lần pháp điển hóa thứ nhất năm 1988, BLTTHS năm 2003 đã có
những bước phát triển vượt bậc. Thứ nhất, Bộ luật nêu lên bản chất pháp lý của
biện pháp bảo lĩnh là BPNC để thay thế biện pháp tạm giam; Thứ hai, Luật chỉ
ra các căn cứ áp dụng đối với biện pháp bảo lĩnh; Thứ ba là quy định chủ thể
bảo lĩnh và điều kiện về tiêu chuẩn của cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức nhận bảo
lĩnh; Thứ tư, Luật chỉ ra trách nhiệm mà các chủ thể nhận bảo lĩnh phải chịu
khi vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Cụ thể những quy định ấy như sau:
2.1.1. Căn cứ và đối tượng áp dụng biện pháp bảo lĩnh
2.1.1.1. Căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh
Quy định căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh nhằm tạo cơ sở pháp lý
cho việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Một căn cứ áp dụng BPNC phải có
tính thực tế hoặc có khả năng sẽ xảy ra chứ không phải là tưởng tượng hay
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY

More Related Content

What's hot

Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sựTé Lầu
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...OnTimeVitThu
 
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (20)

Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà NộiLuận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
 
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
 
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hônBáo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sự
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Phòng vệ chính đáng theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Phòng vệ chính đáng theo pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Phòng vệ chính đáng theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Phòng vệ chính đáng theo pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAYLuận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
 
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luậtLuận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
 
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩmLuận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
 
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
 
Luận văn: Xác định và phân chia di sản thừa kế theo luật, HAY
Luận văn: Xác định và phân chia di sản thừa kế theo luật, HAYLuận văn: Xác định và phân chia di sản thừa kế theo luật, HAY
Luận văn: Xác định và phân chia di sản thừa kế theo luật, HAY
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Đề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOT
Đề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOTĐề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOT
Đề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOT
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng khi ly hônLuận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng khi ly hôn
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 

Similar to Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY

BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdfBAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdfBlueSeaNguyen1
 
Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...
Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...
Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...Man_Ebook
 
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

Similar to Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY (20)

Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOTVai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAYLuận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong xét xử sơ thẩm, HAY
 
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng quy phạm về biện pháp tha miễn
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng quy phạm về biện pháp tha miễnĐề tài: Bảo vệ quyền con người bằng quy phạm về biện pháp tha miễn
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng quy phạm về biện pháp tha miễn
 
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdfBAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
BAI-NGHIEN-CUU-KHOA-HOC.pdf
 
Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...
Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...
Biện pháp tạm giam theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)...
 
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOTBiện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
 
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự doQuyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
 
Đề tài: Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo luật
Đề tài: Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo luậtĐề tài: Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo luật
Đề tài: Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo luật
 
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOTLuận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
 
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
 
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOTLuận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAYLuận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
 
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sựLuận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOTLuận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
 
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOTĐề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
 
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụngNgười tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
 
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAYĐề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Định tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOT
Định tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOTĐịnh tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOT
Định tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOT
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Doanh Nghiệp, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Doanh Nghiệp, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Doanh Nghiệp, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Doanh Nghiệp, Dễ Làm Điểm Cao
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 

Luận văn: Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THỊ DIỆP BIÖN PH¸P B¶O LÜNH TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN VĂN DŨNG HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Hoàng Thị Diệp
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẢO LĨNH TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM........................ 9 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam....................................................................... 9 1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam....... 9 1.1.2. Khái niệm biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam .... 12 1.1.3. Ý nghĩa của biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam...... 18 1.2. Phân biệt biện pháp bảo lĩnh với các biện pháp ngăn chặn khác thay thế biện pháp tạm giam trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam....................................................................................... 21 1.2.1. Cấm đi khỏi nơi cư trú ....................................................................... 22 1.2.2. Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm ........................................ 23 1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của Luật tố tụng hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp bảo lĩnh.......... 25 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám đến trước khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988........ 25 1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ hai – Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ............................................................................... 31
  • 4. Chương 2: BIỆN PHÁP BẢO LĨNH TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2003 VÀ BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI .......................................................38 2.1. Biện pháp bảo lĩnh trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 ........................................................................................... 38 2.1.1. Căn cứ và đối tượng áp dụng biện pháp bảo lĩnh .............................. 38 2.1.2. Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp bảo lĩnh .......................... 43 2.1.3. Chủ thể bảo lĩnh và trách nhiệm pháp lý của các chủ thế.................. 45 2.1.4. Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp bảo lĩnh........................................... 47 2.2. Biện pháp bảo lĩnh trong Bộ luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới ............................................................................. 47 2.2.1. Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa liên bang Đức............................... 48 2.2.2. Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga .............................................. 52 2.2.3. Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa .................... 56 2.2.4. Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản....................................................... 59 Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẢO LĨNH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ CÁC KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG.................................. 67 3.1. Thực trạng áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự Việt Nam............................................................................................ 67 3.1.1. Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự............. 67 3.1.2. Một số tồn tại, hạn chế của việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự.................................................................. 78 3.2. Các kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong luật tố tụng hình sự Việt Nam .............................................. 92 3.2.1. Kiến nghị về việc sửa đổi, bổ sung nội dung một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp bảo lĩnh .................. 92
  • 5. 3.2.2. Nâng cao nhận thức, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ trong cơ quan tiến hành tố tụng, đảm bảo thực hiện đúng các quy định áp dụng biện pháp ngăn chặn................................................... 110 3.2.3. Nâng cao ý thức pháp luật của quần chúng nhân dân là điều kiện để đảm bảo quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn.................. 112 KẾT LUẬN.................................................................................................. 113 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 116 PHỤ LỤC
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 1. BLTTHS 2. BPNC : Bộ luật tố tụng hình sự : Biện pháp ngăn chặn 3. TAND : Tòa án nhân dân 4. TANDTC 5. THTT 6. TTHS : Tòa án nhân dân tối cao : Tiến hành tố tụng : Tố tụng hình sự 7. VKSND : Viện kiểm sát nhân dân 8. VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  • 7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Số người bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trên toàn quốc từ năm 2008 đến năm 2013 69 Bảng 2.2: Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tại Thành phố Hà Nội 71 Bảng 2.3: Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tại quận Hoàng Mai 72 Bảng 2.4: Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tại quận Cầu Giấy 73 Bảng 2.5: Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tại huyện Từ Liêm (cũ) 73
  • 8. 1 MỞ ĐẦ U 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự (TTHS), các biện pháp ngăn chặn (BPNC) chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ các BPNC là công cụ hữu hiệu giúp cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) ngăn chặn kịp thời những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như để đảm bảo thi hành án. Pháp luật TTHS Việt Nam quy định BPNC gồm có: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Bắt, tạm giữ, tạm giam là những biện pháp mang tính cưỡng chế rất nghiêm khắc, có tính tước đoạt tự do của bị can, bị cáo. Thực tiễn tổng kết các BPNC ở nước ta trong những năm qua cho thấy các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam được áp dụng phổ biến trong các vụ án hình sự. Theo phân tích của Vụ 4 – Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), năm 2013 các cơ quan chức năng bắt, tạm giữ về hình sự 39.175 trường hợp (tăng 0,76% so với năm 2012), đã giải quyết 38.109 trường hợp, trong đó, xử lý hình sự 36.861 người tương đương tỷ lệ 96,73% (tăng 0,73% so với cùng kỳ năm 2012). Tổng số người bị tạm giam năm 2012 là 95.304 người, nhưng năm 2013 còn 94.228 người (giảm 1,13%), trong đó xử lý hình sự 47.708 người với tỷ lệ là 50,53% (giảm 2,16% so với cùng kỳ năm 2012). Áp dụng các biện pháp tạm giữ, tạm giam là cần thiết, tuy nhiên, nếu như các cơ quan tiến hành tố tụng lạm dụng việc tạm giữ, tạm giam không những làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận, mà còn làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Nhà nước nếu như để lọt người phạm tội ngoài vòng pháp luật.
  • 9. 2 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: 1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. 2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định [36]. Quy định này của Hiến pháp đã đ ảm bảo công dân không bị áp dụng BPNC một cách tùy tiện. Trong nhiều trường hợp, nếu Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án xét thấy không cần thiết phải áp dụng các biện pháp mạnh trên thì phải thay đổi ngay BPNC khác có tính ít nghiêm khắc hơn, như thế thể hiện sự tự tin trong nhận thức, dám nghĩ, dám làm của người THTT, vừa tạo dựng được niềm tin của nhân dân đối với chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Mặt khác , tinh thần của Nghi ̣quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiê ̣m vụtro ̣ng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới ; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/04/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiê ̣n hê ̣thống pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam đến năm2010, đi ̣nh hướng đến năm 2020; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cả i cách tư pháp năm 2020 chỉ rõ nô ̣i dung “Xác định rõ căn cứ tạm giam; hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng các biện pháp tạm giam…”[5] lại càng thể hiện rõ hơn quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc hạn chế áp dụng các BPNC có tính nghiêm khắc nói chung và hạn chế, thay thế áp dụng biện pháp tạm giam nói riêng, nhằm bảo đảm yêu
  • 10. 3 cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm gắn với việc bảo vệ quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân. Cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm được xem là các biện pháp có tính ít nghiêm khắc và được các cơ quan THTT áp dụng để thay thế biện pháp tạm giữ, tạm giam khi các cơ quan này xét thấy không cần thiết phải tạm giữ, tạm giam nhưng vẫn cần thiết phải ngăn chặn, phòng ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội. Trong các biện pháp này thì bảo lĩnh là một biện pháp đảm bảo mục đích trên. Tuy được sử dụng để thay thế biện pháp tạm giam nhưng khi áp dụng biện pháp bảo lĩnh, các bị can, bị cáo không bị tước đoạt tự do, không bị hạn chế các quyền công dân miễn sao việc thực hiện các quyền này không gây trở ngại cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Mặc dù là một biện pháp ưu việt được quy định từ BLTTHS năm 1988, song thực tiễn áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án trong nhiều năm qua cho thấy, chế định bảo lĩnh ít được các cơ quan THTT sử dụng bởi còn thiếu nhiều quy pha ̣m hư ớng dẫn cụ thể cần làm sáng tỏ xung quanh chế định này như : Căn cứ áp dụng vẫn còn mơ hồ, thiếu quy định cụ thể về tiêu chuẩn của cá nhân, tổ chức nhận bảo lĩnh; Nhiều trường hợp người nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo bỏ trốn, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án nhưng chưa có biện pháp xử lý trách nhiệm của họ… Tình hình trên xảy ra là do nhiều nguyên nhân , bao gồm yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan, vì vậy cần phải nghiên cứu, tìm hiểu và làm sáng tỏ các vướng mắc còn tồn tại của biện pháp bảo lĩnh để từ đó làm rõ hơn về mặt khoa học pháp lý cũng như về mặt thực tiễn áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đáp ứng được yêu cầu , nhiệm vụ trong tình hình mới , hướng tới sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật TTHS Viê ̣t Nam.
  • 11. 4 Vì lẽ đó , tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Biê ̣n phá p bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Viê ̣t Nam " – một vấn đề mang tính cấp bách , thiết thực không những về mă ̣t lý luâ ̣n mà cả về mă ̣t thực tiễn trong giai đoa ̣n xây dựng Nhà nước pháp quyền hiê ̣n nay. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Các BPNC trong Luật TTHS giữ một vị trí, vai trò quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Việc áp dụng đúng các BPNC có ảnh hưởng rất lớn đến quyền của người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Vì thế, nhận thức đúng, áp dụng đúng các BPNC là cần thiết. Do đó đã có nhiều bài viết về các BPNC được đề cập đến ở các mức độ khác nhau, những khía ca ̣nh khác nhau. Ở cấp độ luận văn thạc sĩ , có các đề tài của các tác giả : Nguyễn Văn Điệp, Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1996; Lê Thanh Bình, Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2010; v.v… Ở cấp độ luận án tiến sĩ, có các đề tài của một số tác giả: Nguyễn Văn Điệp, Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2005; Nguyễn Trọng Phúc, Chế định các biện pháp ngăn chặn theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Hà Nội, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2010; v.v… Bên ca ̣nh đó , về giáo trình , sách chuyên khảo , bình luận có các công trình sau: PGS. TS Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên) (2014), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam , Nxb Đa ̣i ho ̣c Quốc gia , Hà Nội; Ths. Phạm Thanh Bình và TS .Nguyễn Vạn Nguyên có công trình Những điều cần biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam... đúng pháp luật, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993; TS. Nguyễn Vạn Nguyên có công trình Các biện pháp ngăn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 1995;
  • 12. 5 Ths. Nguyễn Mai Bộ có công trình Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; Phạm Thanh Bình, Một số vấn đề chung quanh việc tạm giữ, tạm giam, Nxb. Đồng Nai, 1997; v.v… Ngoài ra một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có đề câ ̣p đến các biện pháp ngăn chặn như: Ths.Phạm Thanh Bình, Bắt - Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật Số 3/1998; Nguyễn Văn Dũng, Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự và những bất cập, Tạp chí Dân chủ pháp luật, Số 12/2002; TS. Trần Quang Tiệp, Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát. VKSND tối cao, Số 7/2005; TS. Trần Quang Tiệp, Một số vấn đề về biện pháp bảo lĩnh quy định trong BLTTHS năm 2003, Tạp chí Kiểm sát. VKSND tối cao, Số 15/2006; TS.Phạm Mạnh Hùng, Hoàn thiện các quy định về các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS theo yêu cầu cải cách tư pháp , Tạp chí Kiểm sát. VKSND tối cao. Số 21/2007; Nguyễn Đình Bình, Một số ý kiến về việc hoàn thiện các quy định về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát. VKSND tối cao. Số 5/2008; TS. Trịnh Tiến Việt, Pháp luật về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh và hướng sửa đổi, bổ sung, Tạp chí nghiên cứ u lâ ̣p pháp . Văn phòng Quốc hô ̣i , Số 02/2010; Nguyễn Ngọc Ánh, Một số vướng mắc bất cập khi áp dụng điều 92 BLTTHS, Tạp chí TAND. TAND tối cao, Số 8/2012; Phùng Văn Tài, Những vướng mắc trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của BLTTHS và kiến nghị sửa đổi, bổ sung, Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 8/2012; Vũ Gia Lâm, Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn, Tạp chí Luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 9/2012; v.v… Qua nghiên cứu tác giả nhận thấy, hầu hết các công trình nghiên cứu đề cập đến các BPNC có ý nghĩa là các biện pháp nói chung. Vì nhiều lý do
  • 13. 6 khác nhau, chỉ có một công trình nghiên cứu thật chuyện sâu về biện pháp bảo lĩnh. Để có nhận thức đúng hơn về biện pháp này trong mối liên hệ với các BPNC khác. Như vâ ̣y, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài “Biện pháp bảo lĩnh trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan , cấp thiết, vừ a có tính lý luâ ̣n , vừ a có tính thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn muốn làm rõ những vấn đề lý luận về biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, phân tích các khía cạnh của BLTTHS Việt Nam hiện hành và BLTTHS của một số nước trên thế giới quy định về biện pháp bảo lĩnh, đồng thời nghiên cứu tình hình áp dụng biện pháp này trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, làm sáng tỏ những bất cập hạn chế, để đưa ra những kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứ u nêu trên, luâ ̣n văn có những nhiệm vụchủ yếu sau: - Dựa trên cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả trong nước về biê ̣n pháp ngăn chă ̣n , luâ ̣n văn nghiên cứ u, làm rõ những vấn đề lý luận về biê ̣n pháp bảo lĩnh. - Phân tích, đánh giá các quy định của BLTTHS hiê ̣n hành liên quan đến biê ̣n pháp bảo lĩnh trong Luật TTHS. - Nghiên cứ u, đánh giá thực tiễn áp dụng biê ̣n pháp ngăn chă ̣n bảo lĩnh trong luâ ̣t TTHS ở nước ta. - Tìm ra những bất cập hạn chế để đưa ra những kiến nghị và giải pháp hoàn thiện về pháp luật biện pháp bảo lĩnh trong luật TTHS Việt Nam.
  • 14. 7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận về biê ̣n pháp bảo lĩnh trong luâ ̣t TTHS Việt Nam. - Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, quy định của một số nước trên thế giới và thực tiễn áp dụng để đưa ra những kiến nghị, nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự ở Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận án được giới hạn trên các vấn đề cơ bản sau: - Cơ sở lý luận về biê ̣n pháp bảo lĩnh trong luâ ̣t TTHS Việt Nam - Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến biê ̣n pháp bảo lĩnh trong luâ ̣t TTHS Việt Nam. - Về thực trạng áp dụng quy đi ̣nh của pháp luâ ̣t tố tụng hình sự hiê ̣n hành về biê ̣n pháp bảo lĩnh. - Các quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiê ̣n các quy đi ̣nh của pháp luâ ̣t tố tụng hình sự hiê ̣n hành về biê ̣n pháp bảo lĩnh. 5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật. Luâ ̣n văn được thực hiện trên cơ sở quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước về các BPNC. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể và đặc thù của khoa h ọc xã hội như phương pháp phân tích và t ổng hợp; phương pháp đối chiếu ; phương pháp diễn di ̣ch ; phương pháp quy nạp ; phương pháp thống kê , điều tra xã h ội học để tổng h ợp các tri thứ c khoa học và luâ ̣n chứ ng các vấn đề tương ứ ng được nghiên cứ u trong luâ ̣n văn .
  • 15. 8 6. Những đóng góp của luận văn 6.1. Về mặt lý luận - Luận văn đã góp phần làm rõ thêm nhiều vấn đề lý luận về biê ̣n pháp bảo lĩnh trong Luâ ̣t TTHS Viê ̣t Nam. - Luận văn đã tìm hiểu, phân tích các quy định của một số nước trên thế giới về biện pháp bảo lĩnh, để từ đó kế thừa có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp của các nước nhằm tiếp tục phát triển các quy định của pháp luật trong nước về chế định này. 6.2. Về mặt thực tiễn - Luận văn đã phân tích có hệ thống các quy định của BLTTHS và đánh giá đầy đủ, toàn diện thực tiễn áp dụng biê ̣n pháp bảo lĩnh trong Luâ ̣t TTHS Việt Nam, từ đó tìm ra được những hạn chế bất cập về biê ̣n pháp bảo lĩnh trong luâ ̣t TTHS và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế. - Luận văn đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam và tăng cường biê ̣n pháp bảo lĩnh trong Luâ ̣t TTHS Viê ̣t Nam. - Kết quả nghiên cứ u của luâ ̣n văn còn phục vụ cho viê ̣c trang bi ̣những kiến thứ c chuyên sâu cho các cán bô ̣đang công tác ta ̣i các Cơ quan đi ều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụán hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luâ ̣t. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục từ ngữ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung của luận văn kết cấu gồm 3 chương, như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 2: Biện pháp bảo lĩnh trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới. Chương 3: Thực trạng áp dụng biện pháp bảo lĩnh và các kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng trong tố tụng hình sự.
  • 16. 9 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẢO LĨNH TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam Biện pháp bảo lĩnh là một trong sáu BPNC được pháp luật TTHS Việt Nam quy định. Do đó, muốn hiểu rõ bản chất pháp lý của biện pháp bảo lĩnh cần phải nghiên cứu biện pháp này trong mối liên hệ có tính hệ thống với các BPNC. 1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam Biện pháp cưỡng chế của Luật TTHS là những biện pháp được thực hiện bởi cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng nhất định áp dụng theo một trình tự, thủ tục được pháp luật TTHS quy định, tác động lên tư tưởng, hành vi người tham gia tố tụng, buộc họ phải thực hiện những nghĩa vụ của mình nhằm bảo đảm cho việc tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử [35; 54]. Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế TTHS, BPNC được xem như một chế định pháp lý quan trọng, bởi việc áp dụng các BPNC có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của cá nhân người bị áp dụng, nhất là quyền nhân thân và quyền tự do cá nhân. Các BPNC không ngoài mục đích nào khác là tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan THTT xác định sự thật khách quan của vụ án, phòng ngừa và kịp thời ngăn chặn các hành vi nguy hiểm cho xã hội chuẩn bị thực hiện, đang thực hiện hoặc đã thực hiện. Tuy nhiên, còn nhiều quan điểm khác nhau xung quanh khái niệm BPNC, cần được làm sáng tỏ; Theo Điều 79 BLTTHS Việt Nam 2003, mặc dù không đưa ra một khái niệm cụ thể về BPNC, tuy nhiên cũng đã quy định một số nội dung trọng điểm áp dụng các BPNC: Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ
  • 17. 10 bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này có thể áp dụng một trong những BPNC sau đây: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [34]. Theo giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng: “BPNC là biện pháp cưỡng chế trong TTHS áp dụng đối với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang và người cần phải bắt trong trường hợp khẩn cấp, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm của họ, ngăn chặn người đó gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn” [9]. Theo giáo trình Luật TTHS Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm: BPNC là biện pháp cưỡng chế trong TTHS được áp dụng với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự [53]. Nhìn chung, các quan điểm khoa học trên đã chỉ ra những yếu tố cần có của một BPNC đó là: xác định thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp dụng, căn cứ áp dụng, mục đích áp dụng, được quy định trong BLTTHS. Các BPNC là quy phạm có tính chất lựa chọn, không phải tất cả các đối tượng đều bị áp dụng BPNC mà chỉ trong những trường hợp pháp luật quy định. BPNC thể hiện sự tác động từ phía cơ quan THTT đối với bị can, bị cáo, người bị kết án, đối với người chưa bị khởi tố trong trường hợp bắt khẩn cấp hoặc phạm tội
  • 18. 11 quả tang. Cần phải hiểu rõ các BPNC không có tính chất trừng phạt, mà chỉ là phương tiện đảm bảo cho việc làm rõ trách nhiệm hình sự và trong thực tế hoàn toàn có khả năng một người phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng không bị áp dụng BPNC. Do đó, khái niệm BPNC cần mang tính khoa học, logic, phân định rõ ràng về thẩm quyền áp dụng, căn cứ áp dụng, đối tượng áp dụng và mục đích áp dụng: Biện pháp ngăn chặn là một trong những biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự, do người có thẩm quyền ở các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang hoặc người bị nghi là phạm tội, nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội, ngăn chặn việc bị can, bị cáo cản trở, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án cũng như ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội. Qua những phân tích trên cho thấy, so với biện pháp cưỡng chế TTHS thì BPNC có nội dung và phạm vi hẹp hơn. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan THTT được áp dụng nhiều biện pháp cưỡng chế. Ngoài BPNC, biện pháp cưỡng chế còn có các biện pháp thu thập chứng cứ (khám xét người, khám xét chỗ ở, địa điểm nơi làm việc, khám nghiệm hiện trường, xem xét dấu vết trên thân thể…) và các biện pháp bảo đảm cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án (kê biên tài sản, áp giải các bị can, bị cáo, người bị kết án, dẫn giải người làm chứng...) [54]. Những nhóm biện pháp này cùng song song tồn tại và hỗ trợ lẫn nhau, đều phải giải quyết những nhiệm vụ khác nhau. Đối tượng áp dụng của biện pháp cưỡng chế rộng hơn BPNC, đó là người phạm tội quả tang hoặc người bị nghi là phạm tội, bị can, bị cáo, người làm chứng,… So với các biện pháp cưỡng chế khác trong TTHS thì BPNC có tính nghiêm khắc hơn, nên các cơ quan THTT cũng cần cân nhắc thận trọng khi áp dụng, tránh gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của công dân. Mục đích áp dụng của BPNC là kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa người
  • 19. 12 phạm tội, bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật và tạo điều kiện để các cơ quan THTT giải quyết vụ án như không để người phạm tội tiêu hủy chứng cứ, xóa dấu vết, không để người phạm tội và người làm chứng thông cung... Mục đích của biện pháp cưỡng chế bao quát hơn đó là ngoài những mục đích trên biện pháp cưỡng chế còn có mục đích răn đe, đảm bảo cho hoạt động thu thập chứng cứ của cơ quan có thẩm quyền được thuận lợi để tìm ra chứng cứ xác thực, kịp thời góp phần cho việc chứng minh vụ án đạt kết quả tốt, đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử diễn ra thuận lợi. 1.1.2. Khái niệm biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam Biện pháp bảo lĩnh đã được quy định từ lâu, nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau xung quanh khái niệm bảo lĩnh, có thể chỉ ra một số quan điểm sau: Theo BLTTHS năm 2003, quy định tại Điều 92: “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh” [34]. Quan điểm này đã làm rõ căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh đó là căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, đây là hai căn cứ quan trọng, là cơ sở pháp lý mà các cơ quan THTT dựa vào đó để áp dụng. Còn điều kiện áp dụng như thế nào thì chưa được đặt ra. Theo Giáo trình Luật TTHS Việt Nam – Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng: Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự thay thế cho biện pháp tạm giam, được các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức làm giấy
  • 20. 13 cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng [9]. Đồng quan điểm này Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm: “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập” [53]. Các quan điểm này đã làm rõ thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đối tượng áp dụng, chủ thể nhận bảo lĩnh, thủ tục bảo lĩnh, mục đích áp dụng biện pháp này nhưng lại thiếu sót khi chưa đưa ra căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Quan điểm của GS. TS Võ Khánh Vinh cho rằng: Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS do người có thẩm quyền áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo. Bảo lĩnh là BPNC ít nghiêm khắc hơn tạm giữ, tạm giam, được áp dụng trong trường hợp không cần thiết phải tạm giam, nhưng thấy cần ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án [57]. Bên cạnh việc làm sáng tỏ về thẩm quyền áp dụng, đối tượng bị áp dụng, tác giả đã chỉ rõ hơn điều kiện và mục đích áp dụng biện pháp bảo lĩnh mà không phải quan điểm nào cũng nêu ra là “được áp dụng trong trường hợp không cần thiết phải tạm giam, nhưng thấy cần ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án”. Tuy nhiên, căn cứ áp dụng BPNC là gì thì chưa được tác giả đề cập.
  • 21. 14 Quan điểm của TS Trần Quang Tiệp cho rằng: Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn được các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo có nhân thân, lai lịch rõ ràng, để thay thế biện pháp tạm giam nhằm bảo đảm không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng khi cần [41]. Quan điểm trên về cơ bản đã nêu được thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; đối tượng bị áp dụng là bị can, bị cáo; mục đích áp dụng là “không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan THTT” nhưng lại chưa cụ thể căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Bởi, nếu chỉ căn cứ vào tình tiết “nhân thân, lai lịch bị can, bị cáo” thì xem ra là chưa đầy đủ, chưa khách quan. Xem xét về mặt nhân thân chỉ là một yếu tố cần để làm cơ sở pháp lý chứ chưa phải là yếu tố đủ để cơ quan có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Bên cạnh việc xem xét căn cứ nhân thân bị can, bị cáo, còn cần phải xem xét tới tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị can, bị cáo đã gây ra cũng như xét tới khả năng bỏ trốn hoặc cản trở của họ. Nhìn chung, các quan điểm đều ghi nhận bảo lĩnh với tư cách là một BPNC, thay thế biện pháp tạm giam. Mặc dù là một biện pháp thay thế, nhưng biện pháp bảo lĩnh có tính chất ít nghiêm khắc hơn so với tạm giam, nó không làm hạn chế quyền tự do đi lại của bị can, bị cáo, không tách họ ra khỏi cộng đồng. Tuy nhiên, các quan điểm trên vẫn chưa thể hiện đầy đủ các đặc điểm vốn có của một BPNC như: - Các quan điểm nêu trên hầu như thiếu xót căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Căn cứ áp dụng BPNC tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các
  • 22. 15 BPNC. Nguyên tắc pháp chế trong TTHS cho thấy, mọi hoạt động tố tụng, người THTT và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của BLTTHS. Vì thế, việc đặt ra căn cứ áp dụng BPNC cũng cần được quy định trong BLTTHS để đảm bảo tính hợp pháp và tính có căn cứ. - Các quan điểm nêu rằng cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, điều này là chưa chính xác, bởi tất cả các cơ quan tiến hành hoạt động tố tụng đều thực hiện những nhiệm vụ cụ thể đã được pháp luật quy định thông qua các chủ thể có thẩm quyền, chứ bản thân các cơ quan thì khó mà thực hiện được. Qua việc phân tích và tổng hợp các quan điểm về biện pháp bảo lĩnh, có thể đưa ra một định nghĩa khoa học, đầy đủ về khái niệm bảo lĩnh như sau: Bảo lĩnh là một trong những biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự do cơ quan hoặc người có thẩm quyền ở các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định để thay thế biện pháp tạm giam, nhằm bảo đảm không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử đồng thời bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan THTT. Hiểu biết về biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, sẽ tránh được tình trạng nhầm lẫn với biện pháp bảo đảm bảo lãnh trong dân sự. Việc làm sáng tỏ hai biện pháp bảo lĩnh và bảo lãnh sẽ hạn chế những hiểu lầm trong việc sử dụng thuật ngữ pháp lý và trong việc nhận biết bản chất pháp lý của chúng. Như đã trình bày ở trên, biện pháp bảo lĩnh được quy định trong Luật TTHS, do chủ thể có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo, khi có đủ căn cứ và điều kiện do pháp luật quy định nhằm bảo đảm không để bị can, bị cáo cản trở điều tra, truy tố, xét xử… Còn biện pháp bảo lãnh được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự, được hiểu là việc người thứ ba cam kết với người có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho người có nghĩa vụ nếu đến thời hạn mà người
  • 23. 16 đó không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện. Bảo lãnh nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong giao kết hợp đồng. Căn cứ áp dụng biện pháp bảo lãnh có thể do các bên tự thỏa thuận. Đối tượng của bảo lãnh được ghi nhận là thực hiện một công việc hoặc vật, tiền, tài sản có giá trị thì đối tượng của bảo lĩnh là bị can, bị cáo. Biện pháp bảo lãnh thể hiện mối quan hệ xã hội bình đẳng, trên cơ sở tự nguyện của 3 bên, người bảo lãnh, người nhận bảo lãnh và người được bảo lãnh. Các mối quan hệ trong biện pháp bảo lĩnh tuy có 3 bên nhưng trong đó lại thể hiện quan hệ mang tính quyền uy – phục tùng giữa Nhà nước và bị can, bị cáo. Vì thế, trách nhiệm của các bên trong mối quan hệ ấy cũng khác nhau. Bảo lãnh trong dân sự cho phép các bên có thể thực hiện quyền thay cho nhau hoặc thỏa thuận lại, còn biện pháp bảo lĩnh không như vậy, các quyền và nghĩa vụ được phân định rõ ràng, mang tính cá thể hóa trách nhiệm hình sự. Từ khái niệm và những nhận định trên, có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của biện pháp bảo lĩnh như sau: Thứ nhất, bảo lĩnh là một trong những BPNC trong Luật TTHS. Điều này được ghi nhận qua những quy định trong BLTTHS năm 2003 về những BPNC bao gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Cùng với những biện pháp này, BLTTHS hiện hành đã có quy định cụ thể và chi tiết tại chương VI về thẩm quyền áp dụng, căn cứ áp dụng, thủ tục áp dụng đối với mỗi loại biện pháp. Biện pháp bảo lĩnh được chủ thể của cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp cần thiết nhằm bảo đảm cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được thuận lợi, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác.
  • 24. 17 Thứ hai, bảo lĩnh là một BPNC có tính ít nghiêm khắc. Nói như vậy là xét trong mối tương quan giữa biện pháp tạm giam và biện pháp bảo lĩnh. Đây cũng là đặc điểm thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta đối với một số loại tội phạm, với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là ít nghiêm trọng hoặc phạm tội lần đầu và có nhân thân tốt… thì những bị can, bị cáo có thể được áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Người được bảo lĩnh không bị hạn chế các quyền công dân khác như những bị can, bị cáo bị tạm giữ, tạm giam nếu họ không gây trở ngại, khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Điều này cũng tránh cho họ phải chịu áp lực tạm giam chung với tội phạm chuyên nghiệp. Thứ ba, bảo lĩnh là một BPNC được áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam. Biện pháp bảo lĩnh chỉ được đặt ra khi bị can, bị cáo có quyết định tạm giam hoặc đang bị tạm giam. Trong trường hợp cơ quan THTT xét thấy không cần thiết phải tạm giam thì bị can, bị cáo có thể được thay thế bằng biện pháp bảo lĩnh. Đặc điểm này thể hiện bản chất pháp lý của biện pháp bảo lĩnh cũng như quán triệt tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp năm 2020 với nô ̣i dung “Xá c đi ̣nh rõ căn cứ tạm giam ; hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng ngườ i có thẩm quyền quyết đi ̣nh việc áp dụng các biện pháp tạm giam…” [5]. Thứ tư, đối tượng bị áp dụng biện pháp bảo lĩnh chỉ có thể là bị can, bị cáo. Bị can là người bị khởi tố về mặt hình sự, bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Những người chưa bị khởi tố về hình sự hoặc người chưa bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử thì không phải là đối tượng áp dụng biện pháp này [56; 57]. Thứ năm, để áp dụng biện pháp bảo lĩnh, chủ thể THTT phải dựa vào các căn cứ và điều kiện nhất định. Căn cứ áp dụng BPNC chính là cơ sở pháp
  • 25. 18 lý của việc áp dụng BPNC. Nếu không có căn cứ do pháp luật quy định thì người có thẩm quyền không được áp dụng BPNC. Căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh ngoài những căn cứ được quy định chung theo Điều 79 BLTTHS thì còn theo quy định cụ thể tại Điều 92 BLTTHS. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và dựa vào nhân thân của bị can, bị cáo, điều kiện là dựa vào việc phải có cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh, nhận giám sát và giáo dục bị can, bị cáo và bảo đảm sự có mặt đúng thời gian, địa điểm theo giấy triệu tập của cơ quan THTT. Thứ sáu, biện pháp bảo lĩnh phải được tiến hành bởi người có thẩm quyền ở các cơ quan THTT và theo một trình tự luật định. Cơ quan THTT là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, chủ thể THTT là những người được quy định tại Khoản 1 Điều 80 BLTTHS năm 2003, thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có quyền cho bảo lĩnh khi có đủ những căn cứ do pháp luật quy định. Khi đáp ứng các căn cứ trên và có người nhận bảo lĩnh, chủ thể có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đề nghị người nhận bảo lĩnh cam đoan về nghĩa vụ bảo lĩnh của mình. Thứ bảy, mục đích của biện pháp bảo lĩnh là nhằm bảo đảm không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử đồng thời bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan THTT. Quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh có nghĩa là việc đưa bị can, bị cáo trở về với xã hội, không để họ bị cách ly khỏi gia đình, xã hội, nhờ có sự giúp đỡ, giám sát của gia đình sẽ tạo điều kiện cho họ hướng thiện, tái hòa nhập cộng đồng. Đây là biện pháp có ý nghĩa nhất định trong TTHS thể hiện sự thu hút vai trò của quần chúng nhân dân tham gia đấu tranh phòng và chống tội phạm. 1.1.3. Ý nghĩa của biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam Biện pháp bảo lĩnh là một BPNC, vì vậy ngoài nó có ý nghĩa của các BPNC. Ngoài ra, bảo lĩnh cũng cho thấy những nét riêng của một biện pháp
  • 26. 19 có tính ít nghiệm khắc, thể hiện chính sách pháp luật TTHS nhân đạo của Nhà nước, thể hiện tính hiện đại trong giai đoạn phát triển của đất nước và thể hiện tính ưu việt, vượt trội hơn các biện pháp khác hướng tới đề cao các quyền con người. 1.1.3.1. Biện pháp bảo lĩnh thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật TTHS Việt Nam Các biện pháp như bắt, tạm giữ, tạm giam là những biện pháp có tính chất nghiêm khắc chỉ đặt ra khi thật cần thiết, còn khi xét thấy không cần thiết thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể thay đổi bằng biện pháp ít nghiêm khắc hơn. Biện pháp bảo lĩnh là một trong ba biện pháp được BLTTHS quy định, có tính chất ít nghiêm khắc và không hạn chế quyền công dân miễn là việc thực hiện các quyền đó không gây trở ngại cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Biện pháp bảo lĩnh lấy tư tưởng nhân đạo làm chính, coi giáo dục, thuyết phục nhân cách trong con người là chủ yếu. Vì vậy, khi áp dụng biện pháp bảo lĩnh, bị can, bị cáo được tại ngoại và trở về sinh sống bình thường. Họ có thể là người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc đang trong thời kỳ nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ ràng. Hoặc là bị can, bị cáo phạm tội lần đầu, hành vi đó thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo. 1.1.3.2. Biện pháp bảo lĩnh hướng tới bảo vệ quyền tự do và dân chủ của con người Hướng tới các quyền tự do, dân chủ của con người là mục tiêu phấn đấu của mọi quốc gia trên thế giới. Nhà nước cho phép cơ quan THTT sử dụng các BPNC cần thiết, phù hợp với mục đích đề ra nhưng vẫn bảo đảm các quyền cơ bản của công dân. Tinh thần hiện đại của biện pháp bảo lĩnh phù hợp với nghị quyết số 49-
  • 27. 20 NQ/TW ngày 20/6/2005 của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ cần đổi mới biện pháp tạm giam, tiến tới hạn chế dần áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm. Đây là một chủ trường lớn của Đảng và Nhà nước ta trong cải cách tạm giam nhằm bảo đảm yêu cầu đấu tranh, phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự gắn liền với việc bảo vệ quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân. Các quy định về biện pháp bảo lĩnh của pháp luật TTHS Việt Nam thể hiện sự phù hợp với tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại quy định trong các Điều 9, 10, 11, 12… của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên Hợp Quốc mà Việt Nam gia nhập năm 1982. Điều 10 Công ước quy định rằng các tù nhân trong hệ thống trại giam được đối xử nhân đạo với sự tôn trọng nhân phẩm vốn có, nhằm mục đích chính là cải tạo và đưa họ trở về xã hôi. Biện pháp bảo lĩnh đã tồn tại ở các nước tư bản tiến bộ từ rất lâu và đã khẳng định vai trò, ý nghĩa của nó trong việc đảm bảo các quyền cơ bản của công dân. Sự ra đời của biện pháp bảo lĩnh trong pháp luật TTHS nước ta khẳng định đường lối đổi mới đúng đắn trong tư duy và trong hành động của nhà làm luật. Qua đó thấy rằng, các quy định về bắt, tạm giữ, tạm giam tuy đã được xây dựng từ lâu nhưng chỉ đặt ra khi cần thiết. 1.1.3.3. Biện pháp bảo lĩnh thể hiện sự ưu việt của pháp luật TTHS trong việc giải quyết vụ án hình sự Biện pháp bảo lĩnh không chỉ thể hiện tính cưỡng chế của Nhà nước đối với hành vi xâm hại đến quyền, lợi ích cơ bản của công dân mà còn trở thành phương tiện đắc lực bảo vệ các quyền đó khi chính nó có nguy cơ bị xâm hại hoặc đang bị xâm hại. Mọi công dân căn cứ vào các quy định của pháp luật để kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính đúng đắn của việc áp dụng các BPNC, qua đó bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Áp dụng biện pháp bảo lĩnh là cơ quan THTT chung tay cùng với quần
  • 28. 21 chúng nhân dân tích cực giúp đỡ quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được giải quyết nhanh chóng, đúng căn cứ, đúng pháp luật. Mặt khác, sự tham gia của quần chúng nhân dân nhằm giám sát, kiểm tra hoạt động của các cơ quan THTT, người THTT. Mọi trường hợp thực hiện không đúng các quy định pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn đều bị phát hiện và khắc phục kịp thời. Áp dụng biện pháp bảo lĩnh cũng là giảm chi phí về vật chất cho Nhà nước mà vẫn đạt được hiệu quả và mục đích của các hoạt động tố tụng. Tóm lại, bảo lĩnh thể hiện sự gắn kết chặt chẽ ba chủ thể trong hoạt động TTHS: Thứ nhất: Cơ quan THTT có quyền quyết định cho áp dụng biện pháp này; Thứ hai: Bị can, bị cáo là người bị áp dụng biện pháp này; Thứ ba: Chủ thể đứng ra nhận bảo lĩnh có nghĩa vụ pháp lý từ khi có quyết định cho bảo lĩnh. Sự ưu việt của biện pháp này là tạo điều kiện cho những người khác trong cộng đồng phát huy trách nhiệm cá nhân tham gia vào quản lý, giáo dục bị can, bị cáo. Như vậy, những điều trên không những cho phép khẳng định ý nghĩa xã hội – pháp lý, mà còn khẳng định ý nghĩa khoa học – thực tiễn quan trọng của việc cần phải tiếp tục nghiên cứu về mặt lý luận chế định bảo lĩnh trong khoa học Luật TTHS. 1.2. Phân biệt biện pháp bảo lĩnh với các biện pháp ngăn chặn khác thay thế biện pháp tạm giam trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam Thay thế BPNC là việc các cơ quan THTT áp dụng một biện pháp khác thay cho biện pháp đang được áp dụng. Tạm giam được quy định tại Điều 88, là một BPNC rất nghiêm khắc, tước đoạt quyền tự do đi lại của bị can, bị cáo. Việc nhà làm luật quy định biện pháp khác thay thế tạm giam là hoàn toàn hợp lý bởi không phải mọi đối tượng thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đều bị áp dụng biện pháp tạm giam. Các biện pháp thay thế tạm giam trong TTHS được các cơ quan THTT áp dụng bao gồm cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo
  • 29. 22 lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Phân biệt các biện pháp này giúp làm sáng tỏ bản chất pháp lý của mỗi biện pháp, từ đó, các cơ quan THTT có thể áp dụng linh hoạt hơn các biện pháp này sao cho phù hợp với đối tượng áp dụng và tình hình vụ án. 1.2.1. Cấm đi khỏi nơi cư trú Cấm đi khỏi nơi cư trú là một BPNC được quy định tại Điều 91 BLTTHS năm 2003. Biện pháp này tuy không được nhà làm luật quy định rõ là biện pháp thay thế tạm giam nhưng trong thực tiễn nó được các cơ quan sử dụng như một biện pháp thay thế tạm giam. Có thể thấy, cả hai biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và bảo lĩnh đều là BPNC ít nghiêm khắc. Do đó, đối tượng áp dụng thường là bị can, bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam. Tuy pháp luật không quy định cụ thể căn cứ áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú nhưng thực tiễn áp dụng biện pháp này cho thấy các bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp này thường là phạm tội lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, thái độ thành khẩn khai báo. Về mặt thẩm quyền áp dụng đều do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án (được quy định tại khoản 1 Điều 80 BLTTHS năm 2003, thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa) quyết định áp dụng. Nếu như biện pháp bảo lĩnh không hạn chế các quyền công dân mà được thực hiện tất cả các quyền này miễn sao việc thực hiện các quyền đó không gây trở ngại cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú làm hạn chế quyền tự do đi lại của bị can, bị cáo. Bị can, bị cáo không được tự ý rời khỏi nơi cư trú của mình. Đối với biện pháp bảo lĩnh, bị can, bị cáo bị giám sát, theo dõi bởi các cá nhân hoặc tổ chức đứng ra nhận bảo lĩnh. Việc nhận bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Họ phải cam đoan, chịu trách nhiệm không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của họ
  • 30. 23 theo giấy triệu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Còn với biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan không đi khỏi nơi cư trú của mình và phải có mặt khi các cơ quan có thẩm quyền triệu tập. Trong thời gian bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú bị can, bị cáo phải chịu sự giám sát, quản lý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú. Trong trường hợp bị can, bị cáo có lý do chính đáng phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú và phải có giấy phép của cơ quan đã áp dụng BPNC đó. Nếu bị can, bị cáo vi phạm lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của cơ quan THTT thì sẽ bị áp dụng BPNC khác nghiêm khắc hơn. Không có quy định trách nhiệm đối với người giám sát như biện pháp bảo lĩnh. 1.2.2. Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là BPNC trong Luật TTHS do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị can, bị cáo và khả năng tài chính của bị can, bị cáo hoă ̣c của người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần, để bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập. Theo Thông tư số 17/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC- TANDTC ngày 14/11/2013 hướng dẫn về việc đă ̣t tiền để bảo đảm theo quy định tại Điều 93 của BLTTHS đã quy định chi tiết về việc đặt tiền thì đối tượng bị áp dụng biện pháp này là: a) Bị can, bị cáo phạm tội lần đầu; có nơi cư trú rõ ràng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; b) Bị can, bị cáo có khả năng về tài chính để đặt bảo đảm theo quy định. Đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần mà không có hoặc không đủ tiền để đặt bảo đảm thì xem xét đến khả năng tài
  • 31. 24 chính của người đại diện hợp pháp của họ; c) Có căn cứ xác định, sau khi được tại ngoại, bị can, bị cáo sẽ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan THTT và không tiêu huỷ, che giấu chứng cứ hoặc có hành vi khác cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử; d) Viê ̣c cho bi ̣can, bị cáo tại ngoại không gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự; đ) Không thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này [7]. Như vậy, bên cạnh các căn cứ để áp dụng giống biện pháp bảo lĩnh thì biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm còn dựa vào căn cứ về “tình trạng tài sản của bị can, bị cáo”. Để được áp dụng biện pháp này, bị can, bị cáo phải đặt một số tiền hoặc tài sản nhất định theo quy định của pháp luật. Thông tư này giải thích cụ thể hơn, tình trạng tài sản là khả năng tài chính của bị can, bị cáo hoă ̣c của người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần. Tuy nhiên Thông tư mới chỉ hướng dẫn chi tiết về đặt tiền để bảo đảm chứ chưa có quy định về đặt tài sản có giá trị để bảo đảm. Đặt tài sản có giá trị để bảo đảm dường như còn nhiều vấn đề phải bàn bạc, bởi tài sản bao gồm động sản và bất động sản. Nếu tài sản là động sản thì không khó để quy đổi nhưng vấn đề nảy sinh là bảo quản động sản như thế nào? Nếu tài sản là bất động sản thì sẽ kéo theo nhiều thủ tục liên quan, kinh phí cho việc giám định giá trị tài sản, chưa kể là tốn kém thời gian. Với khoảng thời gian dài thực hiện những việc ấy có thể áp dụng biện pháp thay thế tạm giam khác. Có thể thấy, nếu biện pháp bảo lĩnh dựa trên niềm tin, uy tín của cá nhân, tổ chức nhận bảo lĩnh thì biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị dựa vào nền tảng kinh tế, khả năng tài chính của bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp để bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo khi có lệnh triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Mặt khác, biện pháp đặt tiền để bảo đảm theo Thông tư số 17/2013 được nới rộng cho cả tội phạm rất nghiêm trọng.
  • 32. 25 Cơ quan THTT quyết định mức tiền cụ thể mà bị can, bị cáo phải đặt để bảo đảm, tiền được đặt để bảo đảm là tiền mặt Việt Nam đồng, nhưng không dưới: “a) Hai mươi triệu đồng đối với tội phạm ít nghiêm trọng; b) Tám mươi triệu đồng đối với tội phạm nghiêm trọng; c) Hai trăm triệu đồng đối với tội phạm rất nghiêm trọng; Quyết định của CQĐT phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành” [7]. Cơ quan THTT có thể quyết định mức tiền phải đặt để bảo đảm thấp hơn nhưng không dưới một phần hai (1/2) mức tương ứng quy định tại khoản 1 đối với một số trường hợp như: a) Bị can, bị cáo thuộc hộ nghèo hoă ̣c có điều kiê ̣n kinh tế khó khăn; b) Bị can, bị cáo là thương binh, bệnh binh, là người được tă ̣ng danh hiê ̣u Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao đô ̣ng…; c) Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần. Biện pháp bảo lĩnh chưa có quy định cụ thể trách nhiệm áp dụng đối với cá nhân hoặc tổ chức vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Còn biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị quy định cơ quan THTT có quyền tịch thu, sung quỹ Nhà nước số tiền hoặc tài sản mà họ đã đặt nếu vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Nếu bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ nghĩa vụ đã cam đoan thì cơ quan THTT có nghĩa vụ trả lại cho họ số tiền hoặc tài sản đã đặt. 1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của Luật tố tụng hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp bảo lĩnh 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám đến trước khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 Quá trình hình thành và phát triển Luật TTHS gắn liền với sự ra đời và phát triển của Nhà nước. Luật TTHS đã trở thành một bộ phận không thể thiếu, hợp thành hệ thống pháp luật Việt Nam và nó chính là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, góp phần ổn định trật tự xã hội, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
  • 33. 26 Từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời ngày 2/9/1945, trong những ngày đầu sau khi giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã phải bắt tay vào thực hiện nhiều nhiệm vụ, nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và lớn mạnh của cách mạng. Đòi hỏi Nhà nước ta phải ban hành ngay một hệ thống các văn bản pháp luật để kịp thời phục vụ cho công việc quản lý xã hội lúc bấy giờ là điều khó khăn. Do đó, trong Sắc lệnh ngày 10/10/1945 quy định các cơ quan Nhà nước tạm thời áp dụng một số luật lệ cũ không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa. Tuy nhiên, các luật lệ cũ về hình sự và TTHS của nhà nước phong kiến và thực dân mang tính chất hà khắc và phi nhân đạo, không thể áp dụng trong giai đoạn đi lên của đất nước. Vì thế, trước mắt việc cấp bách của nhà nước ta là ban hành sớm các văn bản pháp luật hình sự và TTHS để phục vụ đắc lực cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Với sự ra đời của Hiến pháp 1946 (thông qua tháng 11/1946), Luật TTHS đã ra đời và tồn tại với tư cách là ngành luật độc lập. Các biện pháp ngặn chặn đã manh nha và hình thành trong một vài văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, các BPNC trong giai đoạn này chưa được ghi nhận trong văn bản pháp luật riêng, tại chương VI Hiến pháp mới chỉ ở mức độ khái quát nhất như ghi nhận một số nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có sự tham gia của hội thẩm nhân dân; nguyên tắc xét xử công khai; nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm thân thể của công dân… Các quy định về bắt, giam, giữ được ghi nhận xen kẽ trong các văn bản pháp luật khác như Sắc lệnh 131/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức Tòa án và ngạch Thẩm phán, Sắc lệnh 131/SL ngày 7/11/1950 về cải cách bộ máy tư pháp… trong đó đã bước đầu ghi nhận quy định về đối tượng áp dụng, thẩm quyền áp dụng, thủ tục áp dụng BPNC.
  • 34. 27 Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tình hình đất nước có nhiều chuyển biến lớn, ta buộc Thực dân Pháp ký kết hiệp định Giơnevơ ngày 20/7/1954 công nhận chủ quyền, độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta. Miền Bắc tiến vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước đòi hỏi cấp thiết của công cuộc thống nhất đất nước, những sắc lệnh, sắc luật trước năm 1954 không còn phù hợp với nhu cầu chính trị, xã hội trong tình hình mới, Quốc hội khóa 1 đã thông qua Luật Bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật và thư tín của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc luật số 103/SL T005 ngày 20/5/1957 bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật và thư tín của nhân dân. Sắc luật số 002 ngày 18/6/1957 quy định những trường hợp phạm pháp quả tang, những trường hợp khẩn cấp và những trường hợp khám người quả tang; Nghị định số 301/Ttg ngày 10/7/1957 của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết thi hành Sắc luật số 103 - SL/L005; Thông tư số 16-TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án tối cao. Trong đó Sắc luật 002 và các văn bản sau quy định chi tiết Sắc luật số 103/SL T005. Các BPNC được quy định trong các văn bản trên chủ yếu là biện pháp bắt người, tạm giữ, tạm giam. Đáng chú ý là tại Điều 5, Điều 6, Điều 8 Chương 3 của Sắc luật 103 - SL/L005, ngoài biện pháp tạm giữ, tạm giam, nhà làm luật đã đề cập đến chế định tạm tha. Các Điều luật quy định thầm quyền áp dụng chế định tạm tha thuộc về cơ quan tư pháp huyện hoặc công an huyện, họ được quyền tạm giữ can phạm trong thời hạn ba ngày để xét và hỏi cung, rồi phải quyết định tha hẳn, tạm tha, hoặc giải lên TAND hoặc công an cấp trên; Trong trường hợp việc tạm giam không cần thiết cho cuộc điều tra nữa, hoặc việc tạm tha không gây nguy hiểm gì cho trật tự chung, thì cơ quan tư pháp hoặc Tòa án binh nào đã ra lệnh tạm giam có thể tự mình, hoặc căn cứ vào đơn xin của can phạm, ra lệnh tạm tha. Đối với trường hợp những can phạm già yếu, có bệnh nặng,
  • 35. 28 hoặc phụ nữ có thai nghén, hoặc phụ nữ đang thời kỳ cho con bú, thì có thể cho tạm tha, và nếu cần sẽ giám thị tại chỗ ở. Đến Nghị định số 301/Ttg ngày 10/7/1957 thủ tục tạm tha, thẩm quyền tạm tha, đối tượng tạm tha đã được đề cập cụ thể hơn. Chế định tạm tha là một quy phạm pháp lý mới mẻ lúc bấy giờ. Tuy còn nhiều thiếu sót nhưng với sự xuất hiện của chế định này cho phép khẳng định rằng, Nhà nước ta thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội rất chú trọng đến các quyền và lợi ích cơ bản của con người, đặc biệt là quyền tự do thẩn thể của nhân dân. Pháp luật TTHS thời kỳ này thể hiện chính sách nhân đạo không chỉ đối với những can phạm “không gây nguy hiểm” mà còn quan tâm đến cả những can phạm già yếu, bệnh tật, đến những phụ nữ mang thai hay đang chăm sóc con nhỏ. Đây là một chế định mang tính đột phá, là bàn đạp cho quá trình hình thành nên các biện pháp mang tính tự do tạm hay tại ngoại sau này.  Pháp luật Việt Nam Cộng hòa (1955 - 1975) Từ năm 1954, theo thỏa thuận của Hiệp đinh Geneve 1954, chính quyền và các lực lượng quân sự của Quốc gia Việt Nam theo quân đội Pháp tập kết vào miền Nam Việt Nam. Năm 1955 thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Quốc trưởng, ông đã tổ chức bầu Quốc hội Lập hiến cho Quốc gia Việt Nam. Quốc hội này ban hành Hiến pháp đổi tên Quốc gia Việt Nam thành Việt Nam Cộng Hòa (1955 - 1975). Về danh nghĩa, tuyên bố chủ quyền trên toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, trên thực tế kiểm soát một phần lãnh thổ ở phía Nam, từ vĩ tuyến 17 trở vào. Luật pháp Việt Nam Cộng hòa được xây dựng căn cứ theo Bộ Hoàng Việt Hộ luật (1936 - 1939) do triều đình Huế ban hành ở Trung Kỳ cùng Bộ Dân luật (1883) áp dụng ở Nam Kỳ. Hình luật thì có Bộ Hoàng Việt Hình luật (1933), Tố tụng tu chính của Trung Kỳ (1935) và Hình luật Nam Kỳ Canh cải
  • 36. 29 (1912). BLTTHS được Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành qua sắc luật số 027/TT-SLU ngày 20/12/1972. Nghiên cứu Bộ luật này cho thấy, các BPNC đã có một bước phát triển vượt bậc, bên cạnh việc quy định cụ thể về các biện pháp bắt, tạm giam, tạm giữ. Luật pháp giai đoạn này đã đặt ra nhiều quy phạm liên quan đến vấn đề tự do tạm trong quá trình chờ điều tra, truy tố, xét xử như biện pháp đặt tiền bảo chứng. Đây là biện pháp phải nạp một khoản tiền bảo chứng mà dự thẩm sẽ ấn định tổng số căn cứ theo khả năng tài chính của bị can. Bảo chứng có thể nạp bằng tiền mặt, chỉ phiếu có chứng nhận hoặc chứng khoán do quốc gia phát hành hay bảo đảm, và phải nạp tại ty trước bạ. Trong bất cứ giai đoạn nào của vụ án, kể cả giai đoạn thượng tố, bị can đều có thể xin tự do tạm. Một số Điều quy định về tự do tạm và bảo chứng như khoản 11 Điều 131; Đoạn 2 Điều 138; Điều 141; Điều 142; Điều 143, Điều 146; Điều 153; Điều 385... Thẩm quyền cho tự do tạm: Cơ quan xét xử đã thụ lý có quyền quyết định cho tự do tạm; Trong trường hợp có thượng tố và cho đến khi có phúc quyết của Tối cao pháp viện, quyền cho tự do tạm thuộc cơ quan tài phán xét xử sau cùng nội dung vụ án. Nếu phán quyết của tòa đại hình bị thượng tố, phòng luận tội sẽ quyết định về đơn xin tự do tạm; Nếu có quyết định vô thẩm và nói chung trong mọi trường hợp không có cơ quan tài phán nào thụ lý, phòng luận tội sẽ xét các đơn xin tự do tạm. Công tố viện sẽ cho thi hành ngay quyết định ban tự do tạm, khi được trình biên lai nạp tiền bảo chứng. Về chủ thể đặt tiền bảo chứng: Về trọng tội hay khinh tội, bị can, người phối ngẫu, cha mẹ hoặc con cái hay luật sư lúc nào cũng có thể xin dự thẩm cho tự do tạm với điều kiện tuân theo những trách vụ dự liệu được quy định trong Sắc luật. Đối tượng được đặt tiền bảo chứng: Đối với khinh tội mà mức tối đa hình phạt giam bằng hay quá hai (2) năm, bị can có thể được tự do tạm nếu
  • 37. 30 chưa có tiền án quá ba (3) tháng giam về các tội cố ý và có nghề nghiệp cùng địa chỉ chắc chắn. Nữ bị can, về các tội tiểu hình, có nghề nghiệp và địa chỉ chắc chắn, cũng có thể được tự do tạm, nếu có thai trên ba (3) tháng. Bị can được tự do tạm phải cam kết trình diện mỗi khi được gọi cũng như phải báo cho dự thẩm biết mỗi khi di chuyển. Sau khi được tự do tạm, nếu bị can được đòi mà không đến, hoặc có những trường hợp mới hay hệ trọng, khiến phải giam giữ bị can, dự thẩm hoặc cơ quan tài phán thụ lý vụ án có thể hạ trát tống giam lại. Điều thứ 146 quy định bị can bị kiểm soát tư pháp hoặc được tự do tạm, tùy trường hợp có thể bị buộc đóng một số tiền bảo chứng. Trước khi được tự do tạm, dù có tiền bảo chứng hay không, bị can đứng đơn cũng phải tuyển định cư sở tại nơi Tòa án thụ lý nội vụ đặt trụ sở. Như vậy, vấn đề tự do tạm theo quy định của BLTTHS Việt Nam Cộng hòa đã cho thấy trình độ lập pháp vượt trội giai đoạn 1955 - 1975. Với việc quy định tự do tạm, những người THTT căn cứ từng trường hợp, từng loại tội mà buộc bị can phải đặt một khoản tiền bảo chứng. Những quy định mang tính chất nhân đạo hơn cũng được thể hiện trong Sắc luật, đặc biệt là đối với phụ nữ mang thai. Đây là những dấu hiệu, là nền tảng cơ bản của một số biện pháp thay thế biện pháp tạm giam về sau đã được quy định trong BLTTHS năm 1988 và BLTTHS năm 2003, nếu không phải đặt tiền mà được tự do tạm thì có thể là biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, nếu phải đặt tiền thì đó có thể là biện pháp đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm. Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 đã đánh dấu quá trình kết thúc một chặng đường dài đấu tranh dựng nước và giữ nước của toàn dân ta. Từ đó, hệ thống pháp luật của cả hai miền Nam, Bắc đều được thống nhất, các quy phạm pháp luật đặt ra đều có hiệu lực trên toàn phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Thời kỳ này, Nhà nước ta đã ban hành nhiều quy phạm pháp luật, cụ thể là sắc lệnh số
  • 38. 31 02-SL76 ngày 15/3/1976 quy định việc tạm giữ, bắt giam, khám người, khám nhà, khám đồ vật. Sau những quy định ghi nhận các quyền bất khả xâm phạm về thân thể về việc bắt hoặc tạm giam người phải đúng người, đúng pháp luât, các vụ án được đưa ra xem xét và xét xử một cách công bằng, chính xác, hạn chế được tình trạng bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội của người bị tình nghi, các bị can, bị cáo. Nhà nước ta đã có những quy định về các BPNC từ lâu, mặc dù chưa có quy định về biện pháp bảo lĩnh nhưng có các BPNC được áp dụng đều nhằm hướng tới mục đích nhân đạo, mục tiêu đấu tranh, phòng chống tội phạm. Điều đó cũng đưa ra những chỉ báo rằng khi xã hội ngày càng phát triển thì pháp luật càng hướng tới chính sách nhân đạo xã hội chủ nghĩa, dự báo về việc hình thành các BPNC khác mang tính chất nhân đạo, bảo vệ các quyền tự do của con người. 1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ hai – Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 Sau nhiều năm soạn thảo, ngày 28/6/1988 BLTTHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội khóa VIII kì họp thứ 3 thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/1989. BLTTHS năm 1988 đánh dấu bước phát triển của khoa học Luật TTHS, của ngành Luật TTHS và kĩ thuật lập pháp TTHS ở nước ta. Lần đầu tiên các BPNC được quy định một cách đầy đủ và có hệ thống tại Chương V Bộ luật, trong đó đã có quy định về BPNC bảo lĩnh. Chương V từ Điều 61 đến Điều 77 BLTTHS đã quy định các BPNC gồm: bắt người, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Đây là lần đầu tiên biện pháp bảo lĩnh được quy định trong pháp luật TTHS Việt Nam, cụ thể được quy định tại Điều 75 BLTTHS năm 1988:
  • 39. 32 1. Cá nhân hoặc tổ chức có thể nhận bảo lĩnh bị can, bị cáo. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh. Trong trường hợp cá nhân nhận bảo lĩnh thì ít nhất phải có hai người. 2. Cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh phải chịu trách nhiệm về vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan [33]. Biện pháp bảo lĩnh được quy định trong BLTTHS năm 1988 thể hiện sự tiến bộ về kỹ thuật lập pháp trong việc bảo đảm quyền tự do thân thể của con người, thể hiện tư tưởng nhân đạo, tư tưởng dân chủ hóa các hoạt động TTHS của Đảng và Nhà nước ta Người được bảo lĩnh không bị hạn chế các quyền công dân nếu họ không gây trở ngại cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án, đồng thời còn thể hiện tính nhân đạo của pháp luật nước ta đối với những người lần đầu phạm tội, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, khai báo thành khẩn, bị ốm nặng… [12]. Tuy nhiên BLTTHS năm 1988 chưa đưa ra được một khái niệm rõ ràng về biện pháp bảo lĩnh, bản chất của biện pháp này, thẩm quyền áp dụng cụ thể đối với biện pháp bảo lĩnh cũng như không có quy định căn cứ áp dụng, điều kiện về chủ thể nhận bảo lĩnh một cách cụ thể. Căn cứ áp dụng BPNC bao gồm các căn cứ được quy định tại Điều 61 và các căn cứ được quy định tại các điều luật về các BPNC cụ thể. Theo quy định tại Điều 61 BLTTHS năm 1988 thì để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy
  • 40. 33 tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể áp dụng một trong những BPNC: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. So với pháp luật TTHS trước đây, BLTTHS năm 1988 đã đưa ra nhiều điểm mới từ nội dung các chế định, quy định về trình tự, thủ tục THTT. Trải qua thực tiễn áp dụng pháp luật, được sửa đổi, bổ sung nhiều lần đến năm 2000, BLTTHS sửa đổi bổ sung đã quy định cụ thể hơn thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp dụng, căn cứ áp dụng và mục đích áp dụng đối với các BPNC. BLTTHS năm 1988 ra đời tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho việc áp dụng các BPNC trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng nói chung và áp dụng biện pháp bảo lĩnh nói riêng. Tuy nhiên, câu chuyện áp dụng và thi hành BLTTHS năm 1988 trong thực tiễn, tổng kết thực tiễn chưa được các ngành chức năng tiến hành thời gian đó, đã bộc lộ rõ những hạn chế, khó khăn nhất định trong việc áp dụng các quy định về BPNC nói chung và biện pháp bảo lĩnh nói riêng. Trong thời gian qua, tỉ lệ các vụ án hình sự trong đó có áp dụng biện pháp bảo lĩnh hầu như không đáng kể. Theo các tác giả Nguyễn Mai Bộ và Nguyễn Vạn Nguyên thì trong số 72 vụ án với 126 bị can, bị cáo được nghiên cứu chỉ có 7 trường hợp được bảo lĩnh, chiếm tỉ lệ 5,5%, trong đó bảo lĩnh cá nhân chiếm 2,8% và nét đặc biệt của việc áp dụng biện pháp này trong thực tiễn là bảo lĩnh hầu như chỉ được áp dụng đối với bị can, bị cáo chưa thành niên [13].  Những mặt đạt được của biện pháp bảo lĩnh trong BLTTHS năm 1988: - Về mặt lập pháp: Trên cơ sở kế thừa những kinh nghiệm lập pháp trước khi pháp điển hóa lần thứ nhất, BLTTHS năm 1988 đã hệ thống hóa một cách đầy đủ các BPNC.
  • 41. 34 Sự xuất hiện một số BPNC mới, cụ thể là biện pháp bảo lĩnh đã cho thấy vai trò sáng tạo pháp luật trong sự phát triển của PLTTHS Việt Nam. Nhà làm luật xây dựng 1 chương các BPNC riêng biệt và có hệ thống đã tạo ra cơ sở pháp lý thống nhất trong nhận thức và áp dụng các BPNC trên thực tế, đảm bảo hiệu quả và mục đích của hoạt động tố tụng, góp phần vào công tác đấu tranh chống, phòng ngừa tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân. Sự hiện diện của biện pháp bảo lĩnh trong BLTTHS năm 1988 đã thể hiện cụ thể tư tưởng dân chủ hóa các hoạt động TTHS của Đảng và Nhà nước ta. - Về mặt lý luận: Đây là lần đầu tiên BPNC bảo lĩnh được nhà làm luật quy định trong BLTTHS năm 1988. Việc đưa ra các BPNC khác nhau đã giải quyết và làm sáng tỏ nhiều khái niệm, phạm trù và luận điểm của Luật TTHS; từ những vấn đề này, nó đã góp phần quan trọng trong việc hình thành và soạn thảo các tư tưởng, quan điểm của khoa học Luật TTHS Việt Nam đối với nhiều quy phạm và nhiều chế định Luật TTHS tương ứng mà sau này được nhà làm luật pháp điển hóa và ghi nhận trong pháp luật TTHS quốc gia. - Về mặt thực tiễn: Biện pháp bảo lĩnh không chỉ góp phần giúp cho hoạt đông lập pháp và hoạt động lý luận khẳng định tính quyết định và giá trị xã hội của các quy phạm và các chế định PLTTHS. Thực tiễn áp dụng biện pháp giúp kiểm tra được tính chính xác về mặt khoa học, tính khả thi và hiệu quả về mặt xã hội của quy phạm PLTTHS tương ứng. Bảo lĩnh thu hút sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan THTT nhanh chóng xác định sự thật khách quan của vụ án và giảm thiểu chi phí vật chất cho Nhà nước mà vẫn đạt được hiệu quả và mục đích của hoạt động tố tụng.  Những mặt còn tồn tại của biện pháp bảo lĩnh trong BLTTHS năm 1988: Thực tiễn áp dụng pháp luật của BLTTHS năm 1988 cho thấy:
  • 42. 35 - Bị can, bị cáo đã bỏ trốn khi được bảo lĩnh, gây không ít khó khăn, trở ngại, khi ra tranh tụng thì các cơ quan THTT và người THTT đổ lỗi cho nhau, ảnh hưởng tới người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Từ đó đưa ra một câu hỏi cần làm sáng tỏ: Đối tượng nào có thể áp dụng biện pháp bảo lĩnh? Nhiều vụ án bị quá hạn, thậm chí tạm đình chỉ điều tra bị can cũng chỉ bởi những lý do này. Vậy trách nhiệm của các bên khi vi phạm nghĩa vụ đã cam kết giải quyết như thế nào? - Theo Điều 75 BLTTHS năm 1988, bảo lĩnh có thể được áp dụng đối với tất cả các loại tội. Liệu như vậy có đảm bảo bị can, bị cáo không tiếp tục phạm tội, không gây trở ngại cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với nhóm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng? - Các căn cứ áp dụng cụ thể đối với biện pháp này là gì? Liệu chỉ căn cứ theo quy định chung tại Điều 61 BLTTHS đã đủ chưa vì mỗi một BPNC lại có bản chất pháp lý khác nhau? Có cần quy định cụ thể điều kiện về người được nhận bảo lĩnh cũng như thủ tục bảo lĩnh không? Qua hơn 15 năm thi hành với ba lần sửa đổi, bổ sung, BLTTHS năm 1988 là một trong những căn cứ pháp lý quan trọng giúp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tiến hành các hoạt động một cách khách quan, toàn diện. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận ý nghĩa thực tiễn, ý nghĩa lý luận của biện pháp này đối với quá trình giải quyết vụ án hình sự. Những hạn chế này đã dần được khắc phục, bổ sung trong các quy định về biện pháp bảo lĩnh tại Điều 92 BLTTHS năm 2003, để biện pháp này đạt hiệu quả hơn, phát huy tốt tác dụng tích cực của nó trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tóm lại, qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận về biện pháp bảo lĩnh trong Luật TTHS, luận văn đã làm sáng tỏ: - Khái niệm về biện pháp bảo lĩnh trong Luật TTHS. Biện pháp bảo lĩnh mang đầy đủ những nét đặc trưng của BPNC, ngoài ra biện pháp bảo lĩnh
  • 43. 36 cũng có những đặc điểm riêng của một biện pháp thay thế tạm giam như tính ít nghiêm khắc, không hạn chế quyền tự do đi lại của bị can, bị cáo, muốn áp dụng biện pháp bảo lĩnh phải dựa trên những căn cứ, điều kiện do pháp luật TTHS quy định. Biện pháp bảo lĩnh được áp dụng không ngoài mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan THTT tìm ra sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo các đối tượng không tiếp tục phạm tội, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Luận văn giúp phân biệt biện pháp bảo lĩnh trong TTHS với biện pháp bảo lãnh trong luật dân mang lại giá trị nhận thức đúng đắn hơn cho các cơ quan THTT lẫn người dân. - Khi được áp dụng biện pháp bảo lĩnh bị can, bị cáo được trở về với gia đình, xã hội. Vì thế, bên cạnh ý nghĩa về mặt xã hội, biện pháp bảo lĩnh còn thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật TTHS, hướng tới bảo vệ các quyền tự do và dân chủ của con người, thể hiện sự ưu việt của pháp luật TTHS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, thu hút sự tham gia của quần chúng nhân dân trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. - Luận văn làm rõ sự khác nhau giữa các biện pháp thay thế tạm giam: cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Ba biện pháp có rất nhiều nét tương đồng nhưng cũng có một số điểm khác nhau. Nếu như biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú làm hạn chế nơi ở của bị can, bị cáo thì biện pháp bảo lĩnh không hạn chế quyền đó. Nếu biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm yêu cầu bị can, bị cáo muốn tại ngoại phải đặt một khoản tiền hoặc đặt tài sản có giá trị thì biện pháp bảo lĩnh không yêu cầu điều đó. Bảo lĩnh dựa trên sự tin tưởng, dựa trên trình độ pháp lý của cán bộ THTT, dựa trên các căn cứ pháp luật thực định và căn cứ thực tế để áp dụng, miễn sao bảo đảm được mục đích đặt ra. - Luận văn đã nghiên cứu một cách chuyên sâu lịch sử lập pháp hình sự của biện pháp bảo lĩnh trong TTHS. Từ năm 1945 đến trước khi có BLTTHS
  • 44. 37 năm 1988, mặc dù chưa có văn bản chính thức ghi nhận biện pháp bảo lĩnh nhưng trong nhiều văn bản đã có hướng dẫn về vấn đề tạm tha, tự do tạm, bảo chứng… Đến khi có BLTTHS năm 1988, biện pháp bảo lĩnh lần đầu được ghi nhận đã đánh dấu một bước tiến bộ về kỹ thuật lập pháp hình sự ở nước ta. Tuy nhiên, do biện pháp này vẫn còn nhiều vướng mắc chưa được giải thích rõ ràng. Đến khi có BLTTHS năm 2003, biện pháp bảo lĩnh đã làm sáng tỏ nhiều khía cạnh lập pháp hơn, biện pháp ngày càng khẳng định vị trí trong hệ thống các biện pháp ngăn chặn. Và một lần nữa, thực tiễn kiểm chứng đã cho thấy những tồn tại trong các quy định về biện pháp bảo lĩnh cần được điều chỉnh, khắc phục để đạt hiệu quả hơn, phát huy được tác dụng của nó trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
  • 45. 38 Chương 2 BIỆN PHÁP BẢO LĨNH TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2003 VÀ BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 2.1. Biện pháp bảo lĩnh trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 BLTTHS năm 2003 được Quốc hội khóa XI tại kì họp thứ tư thông qua ngày 26/11/2003 đã đáp ứng được yêu cầu về đổi mới hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng tinh giản bộ máy, thống nhất đầu mối, nâng cao chất lượng của các cơ quan THTT trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Căn cứ vào thực tiễn thi hành BLTTHS năm 1988 và quán triệt các chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, cùng với việc thay đổi cấu trúc các điều luật, BLTTHS năm 2003 đã đặt ra nhiều quy định chặt chẽ hơn trong việc áp dụng các BPNC, đặc biệt là biện pháp bảo lĩnh. Sau lần pháp điển hóa thứ nhất năm 1988, BLTTHS năm 2003 đã có những bước phát triển vượt bậc. Thứ nhất, Bộ luật nêu lên bản chất pháp lý của biện pháp bảo lĩnh là BPNC để thay thế biện pháp tạm giam; Thứ hai, Luật chỉ ra các căn cứ áp dụng đối với biện pháp bảo lĩnh; Thứ ba là quy định chủ thể bảo lĩnh và điều kiện về tiêu chuẩn của cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh; Thứ tư, Luật chỉ ra trách nhiệm mà các chủ thể nhận bảo lĩnh phải chịu khi vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Cụ thể những quy định ấy như sau: 2.1.1. Căn cứ và đối tượng áp dụng biện pháp bảo lĩnh 2.1.1.1. Căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh Quy định căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Một căn cứ áp dụng BPNC phải có tính thực tế hoặc có khả năng sẽ xảy ra chứ không phải là tưởng tượng hay