SlideShare a Scribd company logo
1 of 110
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ THỊ PHƢỢNG
BIỆN PHÁP TƢ PHÁP: TRẢ LẠI TÀI SẢN,
SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ THỊ PHƢỢNG
BIỆN PHÁP TƢ PHÁP: TRẢ LẠI TÀI SẢN,
SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản
HÀ NỘI - 2014
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
Vò ThÞ Ph-îng
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP
"TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG
THIỆT HẠI" THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
7
1.1. cơ sở lý luận về biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa
hoặc bồi thường thiệt hại"
7
1.1.1. Quan niệm chung về các biện pháp tư pháp 7
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của biện pháp tư pháp "Trả lại tài
sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại"
12
1.2. Phân biệt biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại" với hình phạt tiền, hình phạt tịch thu tài sản
và với biện pháp tư pháp tịch thu tiền, vật trực tiếp liên quan
đến tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
17
1.2.1. Phân biệt biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại" với hình phạt tiền
17
1.2.2. Phân biệt biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại" với hình phạt tịch thu tài sản
20
1.2.3. Phân biệt biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại" với biện pháp tư pháp "Tịch thu vật, tiền trực
tiếp liên quan đến tội phạm"
22
5
1.3. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam quy định biện
pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại"
25
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
25
1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
27
1.4. Nghiên cứu so sánh biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa
chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong pháp luật hình sự Việt
Nam với biện pháp cưỡng chế hình sự tương đương trong luật
hình sự của Liên bang Nga và Cộng hòa dân chủ nhân dân
Trung Hoa
29
1.4.1. Luật hình sự Liên bang Nga 29
1.4.2. Luật hình sự nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa 32
Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP "TRẢ
LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI" TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI BÌNH
36
2.1. Những quy định về biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa
hoặc bồi thường thiệt hại" trong Bộ luật hình sự năm 1999
36
2.1.1. Những quy định chung 36
2.1.2. Quy định về "Trả lại tài sản" 44
2.1.3. Quy định về "Sửa chữa tài sản" 50
2.1.4. Quy định về "Bồi thường thiệt hại" 52
2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa
hoặc bồi thường thiệt hại" trên địa bàn tỉnh Thái Bình
65
2.2.1. Tình hình chung 65
2.2.2. Một số tồn tại, hạn chế trong áp dụng biện pháp "Trả lại tài sản,
sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trên địa bàn tỉnh Thái Bình
69
6
2.3. Những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế trong áp dụng biện pháp
tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại"
78
2.3.1. Nguyên nhân khách quan 79
2.3.2. Nguyên nhân chủ quan 79
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ
BIỆN PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI
THƢỜNG THIỆT HẠI" TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
81
3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả áp
dụng biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại"
81
3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về
biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại"
82
3.2.1. Hoàn thiện quy định tại Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999 82
3.2.2. Hoàn thiện một số quy định pháp luật hình sự có liên quan
đến áp dụng biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại"
86
3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp "Trả lại
tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong thực tiễn
91
3.3.1. Nâng cao năng lực, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và đạo
đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ tư pháp 91
3.3.2. Tăng cường hoạt động hướng dẫn bảo đảm thực hiện áp dụng
biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường
thường thiệt hại" đạt hiệu quả
93
3.3.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật 96
3.3.4. Tăng cường hợp tác quốc tế trong việc thu hồi tài sản bị chiếm
đoạt hoặc sử dụng trái phép
97
KẾT LUẬN 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS : Bộ luật dân sự
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
TNHS : Trách nhiệm hình sự
8
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
1.1 So sánh biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc
bồi thường thiệt hại" với hình phạt tiền
18
1.2 So sánh biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc
bồi thường thiệt hại" với hình phạt tịch thu tài sản
21
1.3 So sánh biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc
bồi thường thiệt hại" với biện pháp tịch thu vật, tiền trực
tiếp liên quan đến tội phạm
24
2.1 Thống kê xét xử các loại tội phạm của ngành Tòa án Thái
Bình từ năm 2009 đến năm 2013
66
2.2 Thống kê xét xử 3 nhóm tội phạm có khả năng áp dụng
cao biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại
68
3.1 Đề nghị sửa đổi khoản 2 Điều 41 BLHS và khoản 1 Điều 42 84
3.2 Đề nghị sửa đổi Điều 42 BLHS năm 1999 85
9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tình hình tội phạm ở nước ta thời gian qua ngày càng gia tăng không
chỉ về số lượng mà cả về các loại tội phạm, đặc biệt là các loại tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm
quyền sở hữu; các tội phạm về chức vụ cũng như các tội phạm kinh tế... Để
xử lý các tội phạm này các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng nhiều biện
pháp xử lý khác nhau, trong đó có việc áp dụng biện pháp tư pháp. Theo báo
cáo của Bộ Tư pháp năm 2012 "Thực tiễn 11 năm thi hành Bộ luật hình sự
cho thấy, các biện pháp tư pháp thường được áp dụng nhiều nhất là tịch thu
vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm (Điều 41); trả lại tài sản, sửa chữa
hoặc bồi thường thiệt hại (Điều 42)" [1].
Trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, biện pháp tư pháp "Trả lại tài
sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" không có ý nghĩa quyết định như
hình phạt nhưng trong giới hạn tác động của nó đã phát huy được vai trò tích
cực, là một bộ phận cấu thành không thể thiếu trong hệ thống các biện pháp
tác động của Nhà nước và xã hội đến tội phạm. Vai trò nổi bật của biện pháp
tư pháp này khi áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội là nhằm loại bỏ những điều kiện phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội trong
tương lai và khi áp dụng cùng hình phạt nó có vai trò hỗ trợ cho hình phạt.
Tuy nhiên, việc nhận thức cũng như áp dụng biện pháp "Trả lại tài sản,
sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" một cách chính xác, trên cơ sở đó đưa ra
phán quyết công bằng và thống nhất chung cho mọi trường hợp không phải là
việc dễ dàng, đơn giản đối với những người tiến hành tố tụng. Vì thế có nhiều
trường hợp đã dẫn đến tình trạng cơ quan tiến hành tố tụng lúng túng trong áp
dụng các điều luật có nội dung liên quan đến vấn đề xử lý tài sản là đối tượng
chiếm đoạt hoặc bị sử dụng trái phép, còn tồn tại việc xác định thiệt hại cũng
10
như đánh giá các chứng cứ liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại chưa triệt
để dẫn đến Tòa án đưa ra quyết định về việc bồi thường thiệt hại chưa thỏa đáng,
có trường hợp bồi thường thấp có trường hợp bồi thường cao;… Đây cũng là
một trong những lý do dẫn đến tình trạng áp dụng pháp luật không thống nhất
và tình trạng kháng cáo, kháng nghị, kéo dài thời gian giải quyết vụ án, ảnh
hưởng lợi ích của những người bị hại thậm chí của cả người phạm tội.
Bản chất của biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt
hại" mang tính dân sự và giải quyết trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự là
một trong những nguyên tắc quan trọng đã được quy định tại Điều 28 Bộ luật
tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003. Trong thời gian qua, các quy định của
pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp này đã có những sửa đổi, bổ sung để
phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Tuy nhiên trong
quá trình áp dụng cũng như nghiên cứu vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến, cách hiểu
và áp dụng khác nhau.
Việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
hiện hành và thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa
hoặc bồi thường thiệt hại" để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra những
giải pháp hoàn thiện nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định đó không chỉ
có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng
cho việc lựa chọn đề tài: Biện pháp tư pháp: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc
bồi thường thiệt hại theo Bộ luật hình sự năm 1999 làm luận văn thạc sĩ luật
học. Đây là một đề tài khá mới và phức tạp, tuy nhiên với phạm vi luận văn
thạc sĩ, tác giả chỉ nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến
biện pháp tư pháp này trên cơ sở nghiên cứu số liệu thực tiễn xét xử 5 năm
(2009 - 2013) địa bàn tỉnh Thái Bình.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ khi Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 có hiệu lực, các biện pháp
tư pháp cũng đã được một số tài liệu, bài viết tạp chí đề cập đến và cũng đã
được các nhà nghiên cứu chọn làm đề tài luận văn, luận án.
11
Trước tiên, phải kể đến là Giáo trình của một số cơ sở đào tạo Luật
trong nước, như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) của Khoa
Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007; Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam, Tập 1, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công
an nhân dân, 2010; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Học viện Tư pháp,
PGS.TS Nguyễn Văn Huyên (chủ biên), Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2011.
Thứ hai, ở cấp độ luận văn thạc sĩ thực hiện ở Trường Đại học Luật
Hà Nội có đề tài của Lê Thị Bích Lan, "Một số vấn đề trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm"; cấp độ đề tài luận
án tiến sĩ của Nguyễn Thanh Hồng, "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
vụ án tai nạn giao thông đường bộ".
Thứ ba, một số sách chuyên khảo như: Sách chuyên khảo sau đại học:
Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), của
GS.TSKH Lê Văn Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; "Những vấn đề
lý luận và thực tiễn về hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam",
PGS.TS Trịnh Quốc Toản, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2011;"Cơ sở lý
luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả của các biện pháp tư pháp và các hình
phạt không phải là tù và tử hình", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; "Tìm
hiểu hình phạt và các biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam: những
văn bản hướng dẫn thi hành hình phạt trong bộ luật hình sự 1999", Trần
Minh Hưởng, Nxb Lao động, Hà Nội, 2007; "Hoàn thiện các quy định chung
của phần chung Bộ luật hình sự trong yêu cầu mới của đất nước", TS. Trịnh
Tiến Việt, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012.
Thứ tư, một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành cũng đã đề cập
đến đối tượng nghiên cứu của luận văn này, như: "Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do hành vi xâm hại tính mạng, sức khỏe con người" của ThS. Đinh
Văn Quế (Tạp chí Tòa án, số 10/2004); "Quy định của Bộ luật hình sự và Bộ
luật tố tụng hình sự về việc trả lại tài sản cho chủ sở hữu và thực tiễn áp
12
dụng" của ThS. Nguyễn Văn Trượng (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2005);
"Thực trạng quy định của pháp luật hình sự về các biện pháp tư pháp" của
TS. Trương Quang Vinh (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 02/2010).
Tình hình nghiên cứu cho thấy, trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận về
vấn đề này, các nhà nghiên cứu luật học đã đề cập đến một mức độ nào đó về
biện pháp tư pháp. Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu riêng về biện
pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" mà chỉ đơn
lẻ nghiên cứu đề cập về vấn đề bồi thường thiệt hại.
Để việc đưa biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại" áp dụng vào thực tiễn được chính xác, cụ thể hơn đòi hỏi
vấn đề lý luận về loại biện pháp tư pháp này phải được nghiên cứu sâu hơn,
toàn diện, có hệ thống và chính thống hơn. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này
mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Xây dựng và hoàn thiện biện pháp tư pháp
này nói riêng và BLHS, BLTTHS nói chung là đáp ứng một trong những yêu
cầu của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận
về biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại"
cũng như thực tiễn pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật về biện pháp này
trên địa bàn tỉnh Thái Bình trong 5 năm từ năm 2009 đến năm 2013, luận văn
đề xuất những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình
sự về biện pháp tư pháp này và nâng cao hiệu quả áp dụng nó trong thực tiễn.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của biện pháp tư pháp
"Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại"như: khái niệm, đặc điểm,
13
vai trò của biện pháp tư pháp này; phân biệt biện pháp này với biện pháp tư
pháp "Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm" và với một số hình
phạt mang tính kinh tế.
- Nghiên cứu so sánh với pháp luật hình sự Liên bang Nga và Cộng
hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa.
- Phân tích làm sáng tỏ những quy định biện pháp tư pháp "Trả lại tài
sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong luật hình sự Việt Nam từ năm
1945 đến nay;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp này trên địa bàn tỉnh
Thái Bình từ năm 2009 đến năm 2013 để chỉ ra những tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân của nó.
- Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất một
số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện chế định biện pháp tư pháp "Trả lại
tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong pháp luật hình sự Việt Nam
và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về Nhà nước và
pháp luật, logic học, triết học, tội phạm học, luật hình sự, tố tụng hình sự.
Luận văn được hình thành dựa trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu
của các nhà khoa học và các tài liệu đã được công bố, dựa trên cơ sở nghiên
cứu các văn bản pháp luật của Nhà nước, các văn bản áp dụng pháp luật, bản
án, quyết định của Tòa án nhân dân, phân tích thực tiễn trên địa bàn tỉnh Thái
Bình đồng thời sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp logic lịch sử,
phân tích, thống kê và phương pháp tổng hợp để chọn lọc, trình bày nội dung
luận văn.
14
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận
và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn
thạc sĩ luật học về biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại" mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và
thực tiễn liên quan đến loại biện pháp tư pháp thường xuyên được áp dụng
trong thực tiễn của luật hình sự Việt Nam.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn có đề
xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định để nâng cao hiệu quả áp
dụng biện pháp tư pháp này trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
và cải cách tư pháp hiện nay.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu, đào tạo, các cơ quan bảo vệ pháp luật có thể dùng để rút kinh nghiệm
trong công tác điều tra, truy tố, xét xử.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dụng của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản,
sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" theo luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Những quy định về biện pháp tư pháp: "Trả lại tài sản, sửa
chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong Bộ luật hình sự năm 1999 và thực tiễn
áp dụng trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện các quy định về biện pháp
"Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong pháp luật hình sự
Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng.
15
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP
"TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI"
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN,
SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI"
1.1.1. Quan niệm chung về các biện pháp tƣ pháp
Nhà nước quản lý xã hội bằng nhiều phương tiện khác nhau trong đó
phương tiện hữu hiệu nhất là pháp luật, với mỗi loại vi phạm pháp luật có
những chế tài riêng để xử lý và đưa các quan hệ xã hội trở về trật tự cần phải
có. Khi cá nhân thực hiện tội phạm thì sẽ phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi
thông qua các chế tài hình sự được quy định trong BLHS hay nói cách khác
người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) do hành vi phạm tội
của mình. Hệ thống các dạng của TNHS gồm:
- Hệ thống hình phạt gồm:
+ Các hình phạt chính: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo không giam giữ;
Trục xuất; Tù có thời hạn; Tù chung thân; Tử hình.
+ Các hình phạt bổ sung: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm những công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số
quyền công dân; Tịch thu tài sản; Phạt tiền là hình phạt bổ sung; Trục xuất là
hình phạt bổ sung.
- Hệ thống các biện pháp tư pháp gồm:
+ Các biện pháp tư pháp chung như: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên
quan đến tội phạm; Trả lại tài sản, sửa chữa, bồi thường thiệt hại; Buộc công
khai xin lỗi; Bắt buộc chữa bệnh.
16
+ Các biện pháp tư pháp quy định riêng đối với người chưa thành niên
phạm tội: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Đưa vào trường giáo dưỡng.
Nghiên cứu luật hình sự nước ngoài cho thấy, ít có nước nào chỉ thiết
lập riêng hoặc là hệ thống các hình phạt hoặc là hệ thống các biện pháp cưỡng
chế hình sự khác trong luật hình sự, mà phần lớn các nước chấp nhận sự song
song tồn tại hai hệ thống các biện pháp cưỡng chế hình sự: Hình phạt và biện
pháp cưỡng chế hình sự khác. Tuy nhiên, biện pháp cưỡng chế hình sự khác ở
mỗi nước khác nhau có tên gọi khác nhau, chẳng hạn, BLHS của Cộng hòa
Liên bang Đức quy định từ Điều 61 đến Điều 72 về các biện pháp cải biến và
an toàn; luật hình sự của Cộng hòa Pháp và BLHS năm 1995 của Tây Ban
Nha đều gọi các biện pháp này với tên gọi là biện pháp an ninh. Chính quyền
Sài Gòn cũ đưa các biện pháp này vào Chương II BLHS năm 1972 với tên gọi
là các biện pháp phòng vệ. Còn BLHS năm 1999 của Việt Nam đặt tên các
biện pháp cưỡng chế hình sự này là các biện pháp tư pháp.
Trong luật hình sự Việt Nam, chế định hình phạt được BLHS năm
1999 ghi nhận đầy đủ từ khái niệm, mục đích đến các loại hình phạt cụ thể.
Trong khi đó, Pháp luật hình sự nước ta từ năm 1945 đến nay chưa có ghi
nhận khái niệm pháp lý cũng như mục đích của biện pháp tư pháp. Định nghĩa
biện pháp tư pháp đã được một số nhà hình sự học đề cập đến trong một số
công trình khoa học luật hình sự như các sách chuyên khảo và giáo trình của
các trường đại học chuyên ngành Luật. Chẳng hạn như:
Biện pháp tư pháp là những biện pháp cưỡng chế của Nhà
nước, được Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng với người phạm tội
cũng như người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi
mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình [46, tr. 186];
"Các biện pháp tư pháp là các biện pháp hình sự được Bộ luật hình sự
quy định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm
cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt" [47, tr. 249];
17
Biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế về hình sự của
Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt do pháp luật hình sự quy
định và được cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào
giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể áp dụng đối với người
phạm tội nhằm hạn chế quyền, tự do của người đó hoặc hỗ trợ hay
thay thế cho hình phạt [7, tr. 679].
Trong khoa học luật hình sự nước ngoài, biện pháp cưỡng chế hình sự
khác được hiểu là "Biện pháp tước hoặc hạn chế tự do hoặc quyền, hoặc là
biện pháp về tài sản, chủ yếu có mục đích ngăn ngừa việc thực hiện tội phạm
mới" hoặc là "những biện pháp cưỡng chế không có màu sắc luân lý, áp dụng
với các cá nhân nguy hiểm cho trật tự xã hội để phòng ngừa các tội phạm mà
tình trạng của họ có thể gây ra". Trong các định nghĩa khoa học về các biện
pháp cưỡng chế hình sự khác nêu trên, các học giả đã dựa trên bản chất, đặc
điểm và chức năng của các biện pháp này tuy nhiên chưa khái quát hết các
đặc điểm chủ yếu của loại biện pháp này như về chủ thể áp dụng, hiệu lực
pháp luật và hiệu lực thi hành của nó [40, tr. 87].
Trên cơ sở nghiên cứu phân tích, so sánh, tổng hợp các định nghĩa của
các nhà khoa học trong và ngoài nước, có thể chỉ ra năm đặc điểm cơ bản của
biện pháp tư pháp như sau:
Thứ nhất, biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế về hình sự của
Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt.
"Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước
nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội" [27, Điều 26]
do Tòa án quyết định, chính vì vậy khi bị áp dụng hình phạt sẽ để lại án tích
đối với người bị tuyên phạt trong khi đó hậu quả pháp lý đối với người bị áp
dụng biện pháp tư pháp không bị coi là có án tích. Mặt khác, tính ít nghiêm
khắc hơn hình phạt của biện pháp tư pháp còn thể hiện ở mục đích của hai
loại biện pháp cưỡng chế hình sự này. Nếu như hình phạt nhằm trừng trị
18
người phạm tội, có thể tước đoạt quyền, tự do thậm chí là tính mạng của
người bị kết án thì các biện pháp tư pháp chỉ có thể hạn chế một số quyền
nhân thân của người phạm tội thậm chí một số biện pháp tư pháp xét về mặt
xã hội còn mang lại lợi ích cho người phạm tội. Ví dụ: trường hợp áp dụng
biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng
điều khiển hành vi của mình; hoặc người phạm tội trước khi bị kết án hoặc
đang trong thời gian chấp hành hình phạt mà bị bệnh tới mức mất khả năng
nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình thì biện pháp tư pháp có ý nghĩa
nhân đạo giúp người này trở lại trạng thái của người bình thường.
Thứ hai, biện pháp tư pháp được áp dụng cho chính cá nhân cụ thể
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Trong những trường hợp người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa đến mức phải truy cứu TNHS
hoặc được miễn truy cứu TNHS thì người đó vẫn có thể phải bị áp dụng biện
pháp tư pháp. Ví dụ: Giá trị tài sản trộm cắp dưới 2 triệu đồng và người thực
hiện chưa có tiền án, tiền sự thì người đó không bị truy cứu TNHS theo khoản 1
Điều 138 BLHS năm 1999 nhưng tài sản thu giữ được sẽ được áp dụng biện
pháp tư pháp trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, nếu có hư
hỏng có thể sẽ phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại.
Thứ ba, biện pháp tư pháp nhằm hạn chế quyền, tự do của người thực
hiện tội phạm, nhằm hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt và nhằm loại bỏ những
điều kiện phạm tội, ngăn ngừa chủ thể bị áp dụng phạm tội trong tương lai.
Xét về bản chất, các biện pháp tư pháp hình sự không phải là hình
phạt nhưng cũng là những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước nhằm tăng hiệu
quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vì vậy, các biện pháp tư pháp khi
áp dụng cùng với hình phạt thì chúng có khả năng tác động hỗ trợ cho việc áp
dụng và thi hành hình phạt đạt hiệu quả cao hơn hoặc có thể thay thế cho hình
phạt đối với những trường hợp không áp dụng hình phạt (như miễn hình phạt,
miễn TNHS).
19
Ngoài ra, do tính chất được áp dụng trong mọi giai đoạn tố tụng nên
ngay cả trước khi Tòa án áp dụng hình phạt thì những điều kiện phạm tội
cũng sẽ được biện pháp tư pháp loại bỏ cùng với đó sẽ phòng ngừa chủ thể bị
áp dụng phạm tội trong tương lai (ví dụ: việc áp dụng biện pháp tịch thu vật,
tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm đối với tiền, tài sản và các công cụ phạm
tội trong vụ án bắt quả tang nhiều đối tượng đánh bạc sẽ làm chấm dứt các
điều kiện phạm tội đang tồn tại và có giá trị phòng ngừa các đối tượng phạm
tội tiếp).
Thứ tư, biện pháp tư pháp được áp dụng đối với tất cả các giai đoạn tố
tụng vì vậy chủ thể áp dụng biện pháp tư pháp rộng hơn chủ thể áp dụng hình
phạt. Với tính chất đặc biệt của mình, hình phạt chỉ có thể do Tòa án áp dụng
thông qua bản án. Trong khi đó, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án
đều có thẩm quyền áp dụng biện pháp tư pháp khi có căn cứ đối với người
phạm tội nói chung (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và cả người bị kết án),
riêng đối với biện pháp tư pháp thay thế cho hình phạt chỉ có thể do Tòa án áp
dụng đối với người bị kết án.
Thứ năm, biện pháp tư pháp được quy định trong BLHS, phải được cơ
quan tư pháp có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự thủ tục chặt chẽ do luật
tố tụng hình sự quy định và phải tuân theo nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc
công bằng, tôn trọng danh dự, nhân phẩm của con người.
Quy định về việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự trong luật
hình sự Việt Nam bảo đảm thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta là
mọi hành vi phạm tội đều bị xử lý. Đồng thời góp phần giúp cho các cơ quan
tư pháp có thẩm quyền vận dụng linh hoạt, mềm dẻo và đúng đắn chính sách
hình sự của Nhà nước; đồng thời khẳng định việc áp dụng hình phạt với tư
cách là biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc nhất không phải là phương
tiện duy nhất trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm.
20
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của biện pháp tƣ pháp "Trả lại
tài sản, sửa chữa hoặc bồi thƣờng thiệt hại"
* Khái niệm, đặc điểm của biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa
hoặc bồi thường thiệt hại"
Khi điều tra, truy tố và xét xử các tội phạm có liên quan đến việc
chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép tài sản hoặc những tội phạm xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm… Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
thường phải áp dụng các quy định của BLHS và BLTTHS để giải quyết
những vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại. Một trong những
biện pháp giải quyết vấn đề tài sản và trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự
mà cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng hiệu quả là biện pháp tư pháp "Trả lại
tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" được quy định tại Điều 42 BLHS
năm 1999.
Bộ luật hình sự năm 1985 quy định biện pháp này tại Điều 34 và được
giữ nguyên tên gọi tại Điều 42 BLHS năm 1999. "Trả lại tài sản, sửa chữa
hoặc bồi thường thiệt hại" là biện pháp tư pháp chung áp dụng đối với người
đã thành niên và người chưa thành niên phạm tội. Biện pháp này tuy được
quy định thành một điều luật riêng trong BLHS nhưng mới chỉ dừng lại ở việc
nêu nội dung của biện pháp. Cũng như biện pháp tư pháp, trong luật hình sự
của nước ta từ BLHS năm 1985 đến BLHS năm 1999 chưa có khái niệm pháp
lý nào về biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" tuy
nhiên nó được đề cập đến trong giáo trình của một số cơ sở đào tạo Luật.
Trong giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập 1 của Trường Đại học
Luật Hà Nội do Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2010 có đưa ra khái
niệm về biện pháp tư pháp này như sau: "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại là biện pháp tư pháp được BLHS quy định, do Tòa án áp
dụng đối với người phạm tội khi họ đã gây ra thiệt hại vật chất hoặc tinh thần
cho người bị hại" [43, tr. 259].
21
Như phần trên đã xác định, một trong những đặc điểm của biện pháp
tư pháp chung là được áp dụng trong tất cả các giai đoạn tố tụng khác nhau từ
điều tra, truy tố đến xét xử vì vậy chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp
này không chỉ có Tòa án mà còn cả Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát.
Mặt khác, theo quy định của biện pháp này không chỉ rõ chủ thể bị thiệt
hại là "người bị hại". Theo quy định về người tham gia tố tụng của BLTTHS
năm 2003, khi người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản đối với cơ
quan, đơn vị, tổ chức thì cơ quan, đơn vị, tổ chức tham gia tố tụng với tư cách
nguyên đơn dân sự và họ hoàn toàn có quyền được nhận lại tài sản của mình
cũng như được sửa chữa tài sản do tội phạm làm hư hỏng hoặc có quyền yêu
cầu bồi thường thiệt hại đối với các thiệt hại do tội phạm gây ra. Như vậy, có
thể thấy khái niệm này chưa khái quát hết được nội dung của điều luật.
Từ phân tích trên đây, tác giả mạnh dạn đưa ra một khái niệm về biện
pháp tư pháp này như sau: Biện pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại là biện pháp cưỡng chế hình sự do BLHS quy định và được
cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng buộc người phạm tội phải trả lại tài sản đã
chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Về đặc điểm của biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại", đây là biện pháp tư pháp nên nó có đủ năm đặc điểm của biện pháp
tư pháp nói chung. Đó là:
Thứ nhất, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt
hại" là biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn
hình phạt và hậu quả của việc áp dụng biện pháp tư pháp này là người bị áp
dụng không bị coi là có án tích nếu như biện pháp này được áp dụng độc lập
với hình phạt.
Thứ hai, biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại" được áp dụng cho chính cá nhân cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội.
22
Thứ ba, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại"
nhằm hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt, nhằm loại bỏ những điều kiện phạm
tội, ngăn ngừa chủ thể bị áp dụng phạm tội trong tương lai.
Thứ tư, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại"
được áp dụng đối với tất cả các giai đoạn tố tụng vì vậy Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát và Tòa án đều có thẩm quyền áp dụng biện pháp tư pháp này
khi có căn cứ đối với người phạm tội nói chung (người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo và cả người bị kết án).
Thứ năm, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt
hại" là biện pháp cưỡng chế hình sự được quy định trong BLHS, phải được cơ
quan tư pháp có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do
luật tố tụng hình sự quy định và phải tuân theo nguyên tắc pháp chế, nguyên
tắc công bằng, tôn trọng danh dự, nhân phẩm của con người.
Ngoài năm đặc điểm cơ bản của biện pháp tư pháp nói chung, biện
pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" còn có những đặc
điểm riêng sau:
Thứ nhất, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt
hại" trong trường hợp được Tòa án áp dụng cùng với hình phạt không chỉ
nhằm hỗ trợ cho hình phạt mà còn để xử lý vật chứng trong vụ án hình sự.
Thứ hai, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt
hại" là biện pháp tư pháp hình sự đồng thời mang tính chất dân sự.
* Vai trò của biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại"
Biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" là bộ
phận cấu thành của hệ thống biện pháp cưỡng chế hình sự trong luật hình sự
Việt Nam. Mặc dù là biện pháp tư pháp này là biện pháp hỗ trợ cho hình phạt
nhưng không vì thế mà làm nó mất đi vai trò quan trọng trong việc thực hiện
chính sách hình sự và đấu tranh phòng, chống tội phạm.
23
Ở phương diện thực hiện chính sách hình sự, biện pháp "Trả lại tài
sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" có vai trò quan trọng trong lĩnh vực
xây dựng và áp dụng pháp luật.
Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, cùng với việc quy định tội phạm
luật hình sự quy định một hệ thống biện pháp cưỡng chế hình sự đa dạng để
xử lý các hành vi nguy hiểm cho xã hội là một việc quan trọng để cụ thể hóa
chính sách hình sự của Nhà nước. Việc đa dạng hóa các biện pháp cưỡng chế
hình sự là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo tính thống nhất trong
thực tiễn áp dụng pháp luật.
Mỗi loại biện pháp cưỡng chế hình sự khác nhau được quy định với
nhiều cấp độ và khả năng tác động khác nhau thì việc xử lý hình sự càng
chuẩn mực, độ chính xác, công bằng càng cao nghĩa là khả năng phân hóa
TNHS càng được bảo đảm tốt hơn. Chính vì thế việc quy định biện pháp tư
pháp nói chung và biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt
hại" nói riêng làm cho hệ thống các biện pháp cưỡng chế hình sự đa dạng hơn
về thể loại, cân đối hơn về số lượng, tương xứng hơn về tính chất và hoàn
thiện hơn cho cả hệ thống. Để chứng minh cho nhận định này chúng ta có thể
đặt vấn đề ngược lại, nếu hệ thống biện pháp cưỡng chế hình sự không tồn tại
biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" thì sẽ như thế
nào? Rõ ràng sẽ là một chỗ trống lớn của pháp luật khi thực tiễn xảy ra những
sự kiện pháp lý hình sự như: hành vi chiếm đoạt tài sản (trộm cắp, cướp, cướp
giật tài sản…) hoặc hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ dẫn đến hậu quả chết người… Lúc này người phạm tội phải
chịu một hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
trên cơ sở các quy định về quyết định hình phạt trong BLHS là đương nhiên,
nhưng còn các vấn đề về xử lý vật chứng, trách nhiệm bồi thường các tổn thất
về vật chất và tinh thần cho người bị hại và một số người tham gia tố tụng
khác do tội phạm gây ra sẽ phải căn cứ vào đâu để giải quyết và giải quyết
như thế nào?
24
Như vậy, có thể thấy bằng việc ghi nhận biện pháp "Trả lại tài sản,
sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" pháp luật đã dự liệu trước những tình
huống pháp lý xảy ra trên thực tế để mọi hành vi nguy hiểm cho xã hội đều
được giải quyết một cách triệt để, đem lại công bằng cho xã hội và niềm tin
cho người dân.
Trong lĩnh vực áp dụng pháp luật, việc quy định biện pháp "Trả lại tài
sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong BLHS là căn cứ pháp lý giúp
cho cơ quan tư pháp áp dụng pháp luật một cách chủ động, linh hoạt và chính
xác hơn. Việc áp dụng biện pháp này sẽ củng cố, hỗ trợ và tăng cường cho
hiệu quả áp dụng hình phạt điều này thể hiện rõ nhất trong trường hợp người
phạm tội bị tuyên phạt các hình phạt chính không tước tự do như cảnh cáo,
phạt tiền, cải tạo không giam giữ và còn bị áp dụng kèm theo biện pháp "Trả
lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại".
Có thể nói, hình phạt là biện pháp cưỡng chế hình sự tác động trực
tiếp đến quyền, tự do thân thể của người phạm tội còn biện pháp "Trả lại tài
sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" tác động trực tiếp đến lợi ích kinh tế
của người này, cùng một lúc người phạm tội phải chịu sự tác động của các
biện pháp hình sự khác nhau đến các lợi ích khác nhau sẽ có giá trị trừng trị,
cải tạo và giáo dục hơn. Mặt khác, điều đó cũng làm cho chủ thể bị thiệt hại
nhận được sự công bằng, góp phần khắc phục giảm bớt những thiệt hại của họ
do tội phạm gây ra.
Ngoài ra, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt
hại" còn có vai trò quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Từ việc
áp dụng biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" đối với
chính người phạm tội không chỉ có tác dụng tích cực đến người phạm tội mà
còn hướng đến cộng đồng xã hội, có tính chất răn đe và phòng ngừa - cộng
đồng xã hội nhìn vào hậu quả pháp lý bất lợi mà người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội phải gánh chịu để có những sự lựa chọn cách xử sự
25
đúng đắn, tôn trọng pháp luật nếu không muốn phải gánh chịu những hậu quả
pháp lý hình sự như người phạm tội đã phải chịu.
Mặc dù biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại"
không có mục đích trừng trị cao như hình phạt nhưng nó thể hiện sự lên án
mạnh mẽ của Nhà nước đồng thời chủ động loại trừ điều kiện tái phạm của
người phạm tội, làm tăng hiệu quả của hình phạt. Do đó, sự phối hợp nhịp
nhàng giữa hình phạt với các biện pháp tư pháp nói chung và biện pháp "Trả
lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" nói riêng có giá trị và tầm quan
trọng cao trong việc thực hiện chính sách hình sự và công cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm của quốc gia.
1.2. PHÂN BIỆT BIỆN PHÁP TƢ PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA
HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI" VỚI HÌNH PHẠT TIỀN, HÌNH PHẠT TỊCH
THU TÀI SẢN VÀ VỚI BIỆN PHÁP TƢ PHÁP TỊCH THU TIỀN, VẬT TRỰC
TIẾP LIÊN QUAN ĐẾN TỘI PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.2.1. Phân biệt biện pháp tƣ pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc
bồi thƣờng thiệt hại" với hình phạt tiền
"Phạt tiền được hiểu là một trong những biện pháp cưỡng chế của Nhà
nước được Tòa án quyết định trong bản án kết tội đối với người bị kết án về
những tội phạm do luật hình sự quy định với nội dung là tước một khoản tiền
nhất định của họ sung vào công quỹ của nhà nước" [40, tr. 170].
Hình phạt tiền trong luật hình sự của nước ta đã tồn tại từ rất lâu và
luôn chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống hình phạt. Cùng với trục xuất,
phạt tiền là loại hình phạt lưỡng tính vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt
bổ sung. Việc áp dụng hình phạt tiền phải thỏa mãn các điều kiện nhất định và
chúng ta so sánh với biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại" thấy được giữa hai loại biện pháp hình sự này có những
điểm giống nhau và khác nhau như sau:
26
Thứ nhất, chúng đều là biện pháp cưỡng chế hình sự do BLHS quy
định, chỉ xuất hiện khi có sự việc phạm tội của cá nhân cụ thể có năng lực
TNHS, đủ tuổi chịu TNHS và có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị luật hình sự cấm.
Thứ hai, chúng đều là những biện pháp tác động vào tài sản, kinh tế
của đối tượng bị áp dụng.
Thứ ba, chúng đều dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi nhất định đối với
người bị áp dụng (đó là quyền sở hữu đối với tài sản).
Thứ tư, chúng đều là các dạng, các hình thức thực hiện TNHS, do cơ
quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự, thủ tục đặc
biệt được quy định trong luật tố tụng hình sự.
Thứ năm, theo pháp luật hình sự Việt Nam, chúng đều chỉ mang tính
chất cá nhân và chỉ áp dụng đối với thể nhân phạm tội.
Sự khác nhau của hình phạt tiền và biện pháp "Trả lại tài sản, sửa
chữa hoặc bồi thường thiệt hại" có thể nhận thấy qua bảng so sánh sau:
Bảng 1.1: So sánh biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa
hoặc bồi thường thiệt hại" với hình phạt tiền
TT
Tiêu chí
so sánh
Biện pháp "Trả lại tài sản, sửa
chữa hoặc bồi thƣờng thiệt hại"
Hình phạt tiền
1
Mức độ
nghiêm khắc
Là biện pháp cưỡng chế hình sự ít
nghiêm khắc hơn hình phạt tiền.
Việc áp dụng biện pháp này sẽ
không để lại án tích cho người bị
áp dụng.
Là biện pháp cưỡng chế hình sự
nghiêm khắc hơn biện pháp "Trả
lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại". Việc áp dụng
hình phạt tiền sẽ để lại án tích cho
người bị áp dụng.
2
Cách thức
áp dụng
Là biện pháp hỗ trợ cho hình phạt,
có thể được áp dụng độc lập hoặc
áp dụng bên cạnh hình phạt.
Là hình phạt được áp dụng độc lập
(khi là hình phạt chính) hoặc áp
dụng bên cạnh hình phạt khác (khi
là hình phạt bổ sung).
3
Chủ thể có
thẩm quyền
áp dụng
Rộng hơn, bao gồm Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Tòa án đều
có thẩm quyền áp dụng tùy vào
giai đoạn tố tụng cụ thể.
Hẹp hơn, chỉ Tòa án mới có thẩm
quyền áp dụng trong giai đoạn xét xử.
27
TT
Tiêu chí
so sánh
Biện pháp "Trả lại tài sản, sửa
chữa hoặc bồi thƣờng thiệt hại"
Hình phạt tiền
4
Đối tượng
áp dụng
Rộng hơn, là người thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội được luật
hình sự quy định là tội phạm hoặc
không phải là tội phạm (do không
đủ yếu tố cấu thành tội phạm). Xét
về tư cách tố tụng, đối tượng bị áp
dụng có thể là người không bị
khởi tố về hình sự hoặc là người bị
khởi tố về hình sự (bị can, bị cáo)
thông qua quyết định xử lý vật
chứng hoặc bản án.
Hẹp hơn, là người thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội được luật
hình sự quy định là tội phạm. Xét
về tư cách tố tụng, đối tượng bị áp
dụng chỉ là bị cáo thông qua quyết
định trong bản án.
5
Đối tượng
chịutácđộng
Quyền sở hữu hoặc chiếm hữu bất
hợp pháp tài sản của người phạm tội
Quyền sở hữu tài sản của người
phạm tội.
6
Phạm vi
áp dụng
Rộng hơn, áp dụng trong mọi tội
phạm ít nghiêm trọng, nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt
nghiêm trọng xâm phạm đến
quyền sở hữu tài sản, quyền tự do
thân thể, sức khỏe, tính mạng,
danh dự, nhân phẩm của con
người.
Hẹp hơn, chỉ một số loại tội phạm
nhất định mới được áp dụng hình
phạt tiền. Cụ thể:
- Là hình phạt chính: Chỉ áp dụng
đối với tội phạm ít nghiêm trọng
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
trật tự công cộng, trật tự quản lý
hành chính hoặc một số tội phạm
khác do BLHS năm 1999 quy định.
- Là hình phạt bổ sung: Chỉ áp
dụng đối với người phạm các tội về
tham nhũng, ma túy, hoặc những
tội phạm khác do BLHS năm 1999
quy định.
7
Mục đích
áp dụng
Áp dụng biện pháp tư pháp nhằm
loại bỏ những điều kiện phạm tội,
ngăn ngừa họ phạm tội trong
tương lai.
Hình phạt nhằm trừng trị, giáo dục
người phạm tội và ngăn ngừa họ
phạm tội mới;
Hình phạt nhằm giáo dục người
khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm.
8
Hậu quả
pháp lý của
việc áp dụng
Khi không kèm theo hình phạt đối
với người phạm tội, người bị áp dụng
không bị coi là có án tích (ví dụ:
khi người đó được miễn hình phạt).
Người bị áp dụng phải chịu án tích.
Nguồn: Tác giả luận văn tổng hợp từ Bộ luật hình sự năm 1999, sửa
đổi bổ sung năm 2009.
28
1.2.2. Phân biệt biện pháp tƣ pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc
bồi thƣờng thiệt hại" với hình phạt tịch thu tài sản
Hình phạt tịch thu tài sản "là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được
quy định trong Bộ luật hình sự do Tòa án tuyên bố trong bản án kết tội đối với
người bị kết án về một trong các tội được luật hình sự quy định với nội dung là
tước của họ một phần hoặc toàn bộ tài sản sung công quỹ nhà nước" [40, tr. 191].
Cũng giống như với hình phạt tiền, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa
chữa hoặc bồi thường thiệt hại" và hình phạt tịch thu tài sản có những đặc
điểm giống nhau sau đây:
Thứ nhất, chúng đều là biện pháp cưỡng chế hình sự do BLHS quy
định, chỉ xuất hiện khi có sự việc phạm tội của cá nhân cụ thể có năng lực
TNHS, đủ tuổi chịu TNHS và có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị luật hình sự cấm.
Thứ hai, chúng đều là những biện pháp tác động vào tài sản, kinh tế
của đối tượng bị áp dụng.
Thứ ba, chúng đều dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi nhất định đối với
người bị áp dụng (đó là chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản của người
phạm tội).
Thứ tư, chúng đều là các dạng, các hình thức thực hiện TNHS, do cơ
quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự, thủ tục đặc
biệt được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự.
Thứ năm, theo pháp luật hình sự Việt Nam, chúng đều chỉ mang tính
chất cá nhân và chỉ áp dụng đối với thể nhân phạm tội.
Thứ sáu, tài sản mà người phạm tội phải "trả" hoặc bị "tịch thu" đều là
những tài sản do người phạm tội vi phạm pháp luật mà có.
Sự khác nhau của hình phạt tịch thu tài sản và biện pháp "Trả lại tài
sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" có thể nhận thấy qua bảng so sánh sau:
29
Bảng 1.2: So sánh biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa
hoặc bồi thường thiệt hại" với hình phạt tịch thu tài sản
TT
Tiêu chí
so sánh
Biện pháp "Trả lại tài sản, sửa
chữa hoặc bồi thƣờng thiệt hại"
Hình phạt tịch thu tài sản
1
Mức độ
nghiêm
khắc
Là biện pháp cưỡng chế hình sự ít
nghiêm khắc hơn hình phạt tịch thu
tài sản. Việc áp dụng biện pháp này
sẽ không để lại án tích cho người bị
áp dụng.
Là biện pháp cưỡng chế hình sự
nghiêm khắc hơn biện pháp "Trả
lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại". Việc áp dụng
hình phạt này sẽ để lại án tích cho
người bị áp dụng.
2
Cách thức
áp dụng
Là biện pháp hỗ trợ cho hình phạt, có
thể được áp dụng độc lập hoặc áp
dụng bên cạnh hình phạt.
Là hình phạt bổ sung được áp dụng
bên cạnh hình phạt khác
3
Chủ thể có
thẩm quyền
áp dụng
Rộng hơn, bao gồm Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Tòa án đều có
thẩm quyền áp dụng tùy vào giai
đoạn tố tụng cụ thể.
Hẹp hơn, chỉ Tòa án mới có thẩm
quyền áp dụng trong giai đoạn xét xử.
4
Đốitượng
ápdụng
Rộng hơn.
Là người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội được luật hình sự
quy định là tội phạm hoặc không
phải là tội phạm (do không đủ yếu tố
cấu thành tội phạm). Xét về tư cách
tố tụng, đối tượng bị áp dụng có thể
là người không bị khởi tố về hình sự
hoặc là người bị khởi tố về hình sự
(bị can, bị cáo) thông qua quyết định
xử lý vật chứng hoặc bản án.
Hẹp hơn.
à người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội được luật hình sự
quy định là tội phạm. Xét về tư
cách tố tụng, đối tượng bị áp dụng
chỉ là bị cáo thông qua quyết định
trong bản án.
5
Đối tượng
chịutácđộng
Quyền sở hữu hoặc chiếm hữu bất
hợp pháp tài sản của người phạm tội.
Quyền sở hữu tài sản của người
phạm tội.
6
Phạm vi
áp dụng
Rộng hơn, áp dụng trong mọi tội
phạm ít nghiêm trọng, nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt
nghiêm trọng xâm phạm đến
quyền sở hữu tài sản, quyền tự do
thân thể, sức khỏe, tính mạng,
danh dự, nhân phẩm của con người.
Hẹp hơn, chỉ một số loại tội phạm
nhất định mới được áp dụng hình
phạt tịch thu tài sản. Cụ thể: Chỉ
được áp dụng đối với người bị kết
án về tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng
trong trường hợp BLHS quy định
(Ví dụ tội tham ô tài sản Điều 278,
tội nhận hối lộ Điều 279 BLHS
năm 1999)
30
TT
Tiêu chí
so sánh
Biện pháp "Trả lại tài sản, sửa
chữa hoặc bồi thƣờng thiệt hại"
Hình phạt tịch thu tài sản
7
Giới hạn
của biện
pháp
Không có giới hạn nào về mức bồi
thường hoặc phạm vi sửa chữa tài
sản bị hư hỏng mà mức bồi thường
thiệt hại hoặc buộc phải sửa chữa
tài sản cho chủ sở hữu, người quản
lý hợp pháp tài sản căn cứ vào
thiệt hại thực tế (trừ trường hợp
các bên tự thỏa thuận được).
Có giới hạn tài sản bị tịch thu:
Trong trường hợp tịch thu toàn bộ
tài sản vẫn để cho người bị kết án
và gia đình họ có điều kiện sinh
sống.
8
Mục đích
áp dụng
Áp dụng biện pháp tư pháp nhằm
loại bỏ những điều kiện phạm tội,
ngăn ngừa họ phạm tội trong
tương lai.
Hình phạt nhằm trừng trị, giáo dục
người phạm tội và ngăn ngừa họ
phạm tội mới;
Hình phạt nhằm giáo dục người
khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm.
9
Hậu quả
pháp lý của
việc áp dụng
Khi không kèm theo hình phạt đối
với người phạm tội, người bị áp dụng
không bị coi là có án tích (ví dụ:
khi người đó được miễn hình phạt).
Ngườibịápdụngphảichịuántích.
Nguồn: Tác giả luận văn tổng hợp từ Bộ luật hình sự năm 1999, sửa
đổi bổ sung năm 2009.
1.2.3. Phân biệt biện pháp tƣ pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc
bồi thƣờng thiệt hại" với biện pháp tƣ pháp "Tịch thu vật, tiền trực tiếp
liên quan đến tội phạm"
Biện pháp "Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm" được
quy định tại Điều 41 BLHS năm 1999 như sau:
1. Việc tịch thu, sung quỹ Nhà nước được áp dụng đối với:
a) Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội;
b) Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác
những thứ ấy mà có;
c) Vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành.
31
2. Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng
trái phép, thì không tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người
quản lý hợp pháp.
3. Vật, tiền thuộc tài sản của người khác, nếu người này có
lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội
phạm, thì có thể bị tịch thu, sung quỹ Nhà nước [27].
Chúng ta có thể hiểu hai biện pháp này là hai trình tự ngược nhau
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự: đối với vụ án hình sự cụ thể, nếu như
biện pháp "Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm" nhằm thu hồi
vật chứng thì biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại"
nhằm xử lý vật chứng đã thu hồi. Vì vậy hai biện pháp này có quan hệ chặt
chẽ với nhau trong quá trình xử lý vật chứng một vụ án hình sự.
Sự giống nhau của hình phạt tịch thu tài sản và biện pháp "Trả lại
tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" có thể nhận thấy qua một số
điểm sau:
Thứ nhất, chúng đều là các biện pháp tư pháp được quy định trong
BLHS năm 1999. Vì vậy, chúng đều mang đặc điểm chung của biện pháp tư
pháp như đã trình bày ở trên.
Thứ hai, chúng đều là các biện pháp tác động đến tài sản, quyền kinh
tế của người phạm tội.
Thứ ba, việc áp dụng chúng đều giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải
quyết vấn đề xử lý vật chứng, xử lý tài sản có liên quan và giải quyết vấn đề
dân sự trong vụ án hình sự.
Sự khác nhau của biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến
tội phạm và biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" có
thể nhận thấy qua bảng so sánh sau:
32
Bảng 1.3: So sánh biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại" với biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm
TT
Tiêu chí
so sánh
Biện pháp "Trả lại tài sản, sửa
chữa hoặc bồi thƣờng thiệt hại"
Biện pháp "Tịch thu vật, tiền trực
tiếp liên quan đến tội phạm"
1
Đối tượng
tác động
Là tài sản của người bị hại, người
quản lý hợp pháp và trong trường
hợp phải bồi thường thiệt hại thì nó
có thể là tài sản của người phạm
tội. Nói đến "tài sản" đây là khái
niệm rộng hơn "vật, tiền" (ngoài
vật, tiền còn có các quyền nhân
thân gắn liền với tài sản như quyền
sở hữu trí tuệ, quyền tác giả….)
Chỉ là vật, tiền có thể là của người bị
hại, người quản lý hợp pháp (ví dụ:
đối tượng tịch thu là tài sản do phạm
tội mà có…), cũng có thể là của
người phạm tội (ví dụ: tiền thu được
trên chiếu bạc của các đối tượng tham
gia đánh bạc…), có thể là của người
khác có lỗi trong việc để người phạm
tội sử dụng vào việc phạm tội (ví dụ:
A cho B mượn xe ô tô trong khi biết
B chưa có giấy phép lái xe ô tô dẫn
đến B gây tai nạn giao thông….) và
có thể là những vật Nhà nước cấm
lưu hành (ví dụ: pháo nổ, ma túy…)
2 Tính chất
Là biện pháp quy định phương thức
xử lý vật chứng trong vụ án hình sự:
Nếu trong một vụ án hình sự có liên
quan đến tài sản thì phương án xử lý:
trước tiên là "trả lại" cho chủ sở hữu
hoặc người quản lý hợp pháp, nếu tài
sản bị hư hỏng có thể khắc phục
được thì "sửa chữa" và "trả lại", nếu
tài sản bị hư hỏng đến mức không
thể khắc phục được thì phải "bồi
thường thiệt hại". Ngoài ra trách
nhiệm bồi thường thiệt hại còn đặt ra
trong trường hợp tội phạm làm tổn
hại đến tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của con người.
Là biện pháp nhằm thu hồi và xử lý
vật chứng trong vụ án hình sự:
Điều 42 quy định phương thức xử
lý đối với tài sản (bao gồm: trả lại,
sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại)
thì Điều 41 quy định trường hợp
nào "không tịch thu mà trả lại cho
chủ sở hữu", trường hợp nào thì
tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
3
Đốitượng
thụhưởng
Người bị hại, người quản lý hợp
pháp tài sản.
Người bị hại, người quản lý hợp
pháp tài sản và Nhà nước.
4
Phạm vi
áp dụng
Phạm vi áp dụng hẹp hơn:
- Chỉ áp dụng đối với người phạm
tội nói riêng.
- Chỉ áp dụng đối với một số loại
tội phạm được quy định trong phần
riêng của BLHS năm 1999.
Phạm vi áp dụng rộng hơn:
- Áp dụng đối với tất cả những người
tham gia tố tụng khi có căn cứ pháp
lý do pháp luật hình sự quy định.
- Áp dụng đối với tất cả các loại tội
phạm được quy định trong phần
riêng của BLHS năm 1999.
Nguồn: Tác giả luận văn tổng hợp từ Bộ luật hình sự năm 1999, sửa
đổi bổ sung năm 2009.
33
1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY
ĐỊNH BIỆN PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG
THIỆT HẠI"
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến
trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, luật hình sự nước ta đã quy
định về hình phạt và phân chia hình phạt thành ba loại: chính hình, phụ hình
và bổ túc hình. Trong đó, chính hình là hình phạt tuyên độc lập cho mỗi tội
phạm, phụ hình là hình phạt thêm vào hình phạt chính, không cần Tòa án
tuyên án. Phụ hình là hậu quả tất yếu của chính hình nên Tòa án không cần
tuyên phụ hình mà nó vẫn được thi hành theo luật pháp. Bổ túc hình theo tên
gọi cũng là thêm vào hình phạt chính, không có bổ túc hình khi không có hình
phạt chính. Tuy nhiên, khác với phụ hình, bổ túc hình chỉ được áp dụng cho
tội nhân khi Tòa án có tuyên phạt rõ ràng. Bổ túc hình hay còn gọi là hình
phạt bổ sung trong luật hình sự thời kỳ này gồm: tịch thu tài sản, buộc phải
bồi thường chi phí hay tổn hại, tước quyền công dân, lưu xứ, quản thúc, câu
thúc thân thể, niêm yết tên tuổi phạm nhân nơi công cộng. Thời kỳ này luật
hình sự nước ta chưa có quy định về biện pháp tư pháp.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS
năm 1985 nước ta đã trải qua một thời kỳ lịch sử đầy biến động, xã hội còn
nhiều khó khăn nên công tác xây dựng pháp luật nói chung, luật hình sự nói
riêng đặc biệt là các quy phạm pháp luật quy định về biện pháp tư pháp chưa
thực sự được chú trọng quan tâm, nên pháp luật lúc này còn rất nhiều hạn chế.
Mặc dù các biện pháp tư pháp trong thời kỳ này chưa được quy định thành
một chương riêng với tên gọi là các biện pháp tư pháp như hiện nay nhưng
trong thời kỳ này một số biện pháp tư pháp đã được quy định rải rác trong các
Sắc lệnh như: Sắc lệnh số 01/SL ngày 19/4/1957 trừng trị tội đánh bạc tại
Điều 2 quy định về biện pháp tịch thu tang vật; Sắc lệnh 267/SL ngày
15/6/1956 quy định về biện pháp bồi thường thiệt hại.
34
Khi người phạm tội chiếm đoạt, sử dụng trái phép tài sản thuộc sở hữu
xã hội chủ nghĩa hay sở hữu của người khác hoặc người phạm tội gây ra thiệt
hại vật chất cho người khác thì ngoài TNHS họ đồng thời phải chịu trách
nhiệm về dân sự. Bắt buộc người phạm tội phải trả lại những vật, tiền đã
chiếm đoạt cho người sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa
hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây
ra có ý nghĩa như là biện pháp bảo vệ tài sản của công dân cũng như tài sản
thuộc sở hữu xã hội chủ nghĩa. Biện pháp tư pháp này thông thường được áp
dụng đối với những người phạm các tội xâm phạm sở hữu và các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân. Trước đây,
trong Sắc lệnh 150/SL ngày 15/4/1953 về việc thành lập các tòa án nhân dân
đặc biệt ở những nơi phát động quần chúng thi hành chính sách ruộng đất, Sắc
lệnh số 267/SL ngày 15/6/1956 trừng trị những âm mưu và hành động phá
hoại tài sản của Nhà nước và nhân dân cản trở việc thực hiện chính sách, kế
hoạch nhà nước thì việc bồi thường thiệt hại được xem như hình phạt bổ sung
do Tòa án đặc biệt áp dụng với người phạm tội. Quan điểm cho rằng việc bồi
thường thiệt hại và trả lại tài sản đã bị chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người
quản lý hợp pháp là hình phạt bổ sung đã hạn chế các cơ quan bảo vệ pháp
luật vì nó chỉ được áp dụng theo quyết định của Tòa án mà thôi. Thế nhưng
trong thực tế, biện pháp này cần được áp dụng với người phạm tội thậm chí
trước giai đoạn xét xử nếu Tòa án có đầy đủ các căn cứ để miễn tố hoặc miễn
TNHS cho họ. Trong các văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao sau
này, bồi thường thiệt hại không được xem là hình phạt mà được coi là biện
pháp dân sự trong vụ án hình sự.
Tuy nhiên, chỉ tới khi Nhà nước ban hành hai pháp lệnh trừng trị các
tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày 21/10/1970 thì việc bồi thường
thiệt hại và trả lại tài sản bị chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý
hợp pháp được chính thức khẳng định là biện pháp tư pháp chứ không phải là
hình phạt. Điều 21 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ
35
nghĩa ngày 21/10/1970 với tên gọi "Trả lại và bồi thường tài sản xã hội chủ
nghĩa bị xâm phạm" đã quy định: "Kẻ phạm tội xâm phạm tài sản xã hội chủ
nghĩa phải trả lại tài sản đó cho Nhà nước hoặc cho tập thể. Nếu tài sản bị
xâm phạm không còn nữa hoặc bị hư hỏng thì kẻ phạm tội phải bồi thường"
và Điều 17 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân
ngày 21/10/1970 với tên gọi "Trả lại và bồi thường tài sản riêng của công dân
bị xâm phạm" quy định: "Kẻ phạm tội xâm phạm tài sản riêng của công dân
phải trả lại tài sản cho người có tài sản đó. Nếu tài sản bị xâm phạm không
còn nữa hoặc bị hư hỏng thì kẻ phạm tội phải bồi thường".
Như vậy có thể nói biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại" trong thời kỳ này được đề cập chủ yếu trong thực tiễn xét xử.
1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
Bộ luật hình sự năm 1985 là BLHS đầu tiên kể từ khi thống nhất đất
nước đã được kỳ họp thứ IX - Quốc hội khóa VII thông qua ngày 27/6/1985,
có hiệu lực từ ngày 01/01/1986. Sự ra đời của BLHS năm 1985 đánh dấu một
bước tiến vượt bậc trong hoạt động lập pháp, thể hiện tập trung chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nước, các quy phạm pháp luật hình sự được pháp
điển hóa. Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp của nước ta các biện pháp tư
pháp được quy định thành một chương riêng, hoàn chỉnh - Chương V với tên
gọi "Các biện pháp tư pháp".
Trong BLHS năm 1985, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại" được quy định tại khoản 1 Điều 34.
Điều 34: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại;
buộc công khai xin lỗi.
1. Người phạm tội phải trả lại những vật, tiền bạc đã chiếm
đoạt cho người sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa
36
hoặc bồi thường các thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi
phạm tội gây ra [25].
Theo quy định này có hai vấn đề chưa phù hợp:
Thứ nhất, chưa thống nhất giữa tên gọi và nội dung của điều luật: tên
gọi của điều luật là "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" nhưng
trong nội dung điều luật lại quy định "Người phạm tội phải trả lại những vật,
tiền bạc đã chiếm đoạt…." như vậy vô hình chung đã xác định "Tài sản" bằng
"vật, tiền bạc" rõ ràng đã hạn chế khái niệm "tài sản" bằng việc liệt kê thành
hai loại là vật và tiền. Vậy nếu các loại tài sản khác như quyền sở hữu trí tuệ
và các quyền tài sản khác mà bị chiếm đoạt thì sẽ phải xử lý như thế nào khi
không được xác định là "tài sản". Quy định này cũng mâu thuẫn với khái
niệm "tài sản" trong luật dân sự.
Thứ hai, việc xác định đối tượng được trả lại tài sản bị chiếm đoạt.
Theo quy định của điều luật, người phạm tội phải trả lại vật, tiền bạc bị chiếm
đoạt cho "người sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp". Nếu chỉ quy định là
"người sở hữu" như trong BLHS năm 1985 thì mới chỉ dừng lại ở chủ thể là
cá nhân sở hữu, còn những chủ thể khác như pháp nhân có tài sản là đối tượng
của tội phạm thì sẽ không phải là đối tượng điều chỉnh của biện pháp này.
Như vậy, rõ ràng là không phù hợp.
Ví dụ: Ngày 20/5/2012 tám đối tượng rủ nhau trộm ngao của Công ty
Minh Phú, thu giữ hơn 500kg ngao thành phẩm. Trong vụ án này, các đối
tượng bị bắt quả tang và tang vật là số ngao được trả lại ngay cho Công ty
Minh Phú. Như vậy, nếu chỉ quy định trả lại tài sản cho "người sở hữu hoặc
người quản lý hợp pháp" là chưa đầy đủ và bao quát hết được các chủ thể có
quyền sở hữu đối với tài sản trong trường hợp chủ sở hữu là pháp nhân.
Chính những bất cập đó đã dẫn đến nhu cầu phải sửa đồi, bổ sung quy
định tại BLHS năm 1999.
37
1.4. NGHIÊN CỨU SO SÁNH BIỆN PHÁP TƢ PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN,
SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI" TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỚI BIỆN PHÁP CƢỠNG CHẾ HÌNH SỰ TƢƠNG ĐƢƠNG TRONG
LUẬT HÌNH SỰ CỦA LIÊN BANG NGA VÀ CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN
TRUNG HOA
1.4.1. Luật hình sự Liên bang Nga
Nếu như trong BLHS Việt Nam quy định hai loại biện pháp tư pháp:
biện pháp tư pháp chung và biện pháp tư pháp riêng (như đã giới thiệu ở mục
của luận văn) thì BLHS Liên bang Nga không có chương điều nào quy định là
"biện pháp tư pháp" mà chỉ có quy định hai loại biện pháp:
- Biện pháp giáo dục bắt buộc được quy định tại Điều 91 BLHS liên
bang Nga: theo đó biện pháp này được áp dụng đối với người chưa thành niên
lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng nếu thấy rằng có thể
cải tạo được họ bằng các biện pháp giáo dục bắt buộc và bắt buộc chữa bệnh.
Hệ thống các biện pháp giáo dục bắt buộc bao gồm: cảnh cáo; giao cho cha
mẹ hoặc người thay cha mẹ hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát
giáo dục; buộc bồi thường thiệt hại gây ra; hạn chế sự nhàn rỗi và đặt ra
những yêu cầu đặc biệt trong xử sự của người chưa thành niên.
- Biện pháp bắt buộc chữa bệnh được quy định thành một phần,
chương riêng trong BLHS Liên bang Nga - Phần VI, Chương 15 gồm 8 điều
(từ Điều 98 đến Điều 105) quy định khá đầy đủ và chi tiết từ căn cứ, mục
đích, thời hạn áp dụng, các loại biện pháp bắt buộc chữa bệnh, giám sát thời
gian bắt buộc chữa bệnh và áp dụng đồng thời giữa bắt buộc chữa bệnh và thi
hành án.
Như vậy, luật hình sự Liên bang Nga không quy định về biện pháp
"Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong luật nội dung. Tuy
nhiên BLTTHS của Liên bang Nga có quy định về nội dung này trong các
quy định về vật chứng và giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại. Theo đó,
38
cũng như luật hình sự Việt Nam, đối tượng của tội phạm cũng được xác định
là một trong các loại vật chứng của vụ án hình sự (khoản 2 Điều 81 BLTTHS
Liên bang Nga).
Vấn đề trả lại tài sản cho chủ sở hữu được quy định tại điểm 3, 4, 6
khoản 3 và khoản 4 Điều 81 BLTTHS Liên bang Nga:
3. Khi ra bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án phải giải
quyết vấn đề vật chứng, theo đó:
...
3) Vật chứng là vật không có giá trị và không được chủ sở
hữu hoặc người quản lý hợp pháp yêu cầu trả lại thì bị tiêu hủy,
trong trường hợp họ yêu cầu thì có thể trả lại cho họ.
4) Tiền bạc, vật có giá trị và các tài sản khác có được do
phạm tội mà có và các lợi ích phát sinh từ các tài sản đó thì trả lại
cho chủ sở hữu.
……
6) Những vật chứng khác được chuyển cho người quản lý
hợp pháp, trong trường hợp không xác định được người quản lý hợp
pháp thì chuyển thành sở hữu của Nhà nước. Mọi tranh chấp về
quyền sở hữu đối với vật chứng được giải quyết theo thủ tục tố tụng
dân sự.
4. Những vật bị thu giữ trong giai đoạn tố tụng trước khi xét
xử nhưng không được coi là vật chứng thì trả lại cho chủ sở hữu
hoặc người quản lý vật đó Như vậy, khi xét xử hoặc quyết định
đình chỉ vụ án phải đồng thời xử lý vật chứng, một trong các quy
định về xử lý vật chứng là trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Theo đó,
thì ngoài tài sản có được do phạm tội mà có thì các lợi ích phát sinh
từ các tài sản đó cũng là đối tượng được trả lại cho chủ sở hữu. Quy
39
định này khác với luật hình sự của Việt Nam, theo luật hình sự Việt
Nam thì các lợi ích phát sinh từ tài sản do phạm tội mà có là một
trong những nội dung người bị thiệt hại được bồi thường. Dù vậy,
thực chất các lợi ích phát sinh từ tài sản do phạm tội mà có hoàn
toàn không thể tịch thu sung công quỹ Nhà nước, lại càng không
thể thuộc về chủ thể đã chiếm đoạt nên việc quy định phải trả lại
cho chủ sở hữu là phù hợp [44].
Ngoài ra khoản 2 Điều 82 BLTTHS Liên bang Nga quy định trả lại tài
sản cho chủ sở hữu trong các trường hợp:
1) Đối với vật chứng là vật cồng kềnh hoặc do những
nguyên nhân khác mà không thể đưa vào hồ sơ vụ án, kể cả vật
chứng có số lượng lớn, việc bảo quản chúng gặp khó khăn hoặc chi
phí để bảo quản chúng trong điều kiện đặc biệt tương đương với giá
trị của vật chứng thì:
…
b) Trả lại cho người quản lý hợp pháp, nếu không ảnh
hưởng đến việc chứng minh;
...
2) Đối với vật chứng là hàng hóa hoặc thực phẩm mau
hỏng, cũng như những tài sản chóng bị lỗi thời một cách vô hình,
việc bảo quản chúng gặp khó khăn hoặc chi phí để bảo quản chúng
trong những điều kiện đặc biệt tương đương với giá trị của vật
chứng thì có thể:
a) Trả lại cho chủ sở hữu;
b) Trong trường hợp không có khả năng để trả lại thì tổ
chức bán theo quy định của Chính phủ Liên bang Nga. Số tiền bán
vật chứng được đưa vào tài khoản ký quỹ hoặc của cơ quan thu giữ
40
vật chứng hoặc đưa vào ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác
thuộc danh mục do Chính phủ Liên bang Nga quy định [44].
Về bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự được quy định trong
BLTTHS Liên bang Nga như sau:
Tại khoản 3 Điều 42: "Người bị hại được bảo đảm được bồi thường
thiệt hại về tài sản do tội phạm gây ra và cả những chi phí trong việc họ tham
gia vào quá trình điều tra và xét xử vụ án, bao gồm cả chi phí cho người đại
diện…" [44] và mức bồi thường do Tòa án quyết định hoặc giải quyết theo
thủ tục tố tụng dân sự. Từ quy định này chúng ta có thể hiểu rằng việc giải
quyết phần bồi thường thiệt hại được tiến hành đồng thời với vụ án hình sự
hoặc có thể được tách ra và giải quyết bằng một vụ án khác theo thủ tục tố
tụng dân sự.
Điều 44 quy định: Nguyên đơn dân sự là thể nhân hoặc pháp nhân có
đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất và về tinh thần khi có căn cứ cho
rằng thiệt hại do tội phạm gây ra. Để tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn
dân sự, họ phải có quyết định công nhận là nguyên đơn dân sự của Tòa án.
Chủ thể này có quyền rút đơn yêu cầu vào bất kỳ thời điểm nào nhưng phải
trước khi nghị án, việc rút đơn yêu cầu sẽ dẫn đến đình chỉ việc giải quyết bồi
thường dân sự.
Các quy định trên khá tương đồng với luật hình sự Việt Nam. Tuy
nhiên trong luật hình sự Liên bang Nga việc trả lại tài sản cho chủ sở hữu
hoặc người quản lý hợp pháp, bồi thường thiệt hại không được gọi là biện
pháp tư pháp và không được quy định thành chương riêng trong BLHS như
nước ta mà chỉ quy định trong một số nội dung đã nêu ở trên trong BLTTHS.
1.4.2. Luật hình sự nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa
Bộ luật hình sự nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa được Đại
hội đại biểu nhân dân toàn quốc khóa V, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 01
41
tháng 7 năm 1979, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1980. Để đáp ứng
yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, tháng 3 năm
1997 tại kỳ họp thứ 5, Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc khóa VIII đã thảo
luận và sửa đổi BLHS năm 1979, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 10 năm 1997.
Từ đó đến nay BLHS này đã được 5 lần sửa đổi, bổ sung; lần sửa đổi, bổ sung
gần đây nhất là ngày 28 tháng 02 năm 2005 tại Hội nghị lần thứ 14 của Ủy
ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc khóa X.
Các biện pháp cưỡng chế hình sự được quy định trong Phần chung
BLHS nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa, cụ thể tại Chương III -
Hình phạt và Chương IV - Áp dụng hình phạt. Tuy nhiên, cũng như BLHS
Liên bang Nga đã giới thiệu ở phần trên, trong BLHS nước Cộng hòa dân chủ
nhân dân Trung Hoa hệ thống các biện pháp cưỡng chế hình sự không có quy
định nào có tên gọi là "biện pháp tư pháp" như luật hình sự Việt Nam; nhưng
các quy định tương tự thì có.
Tại Điều 36 Mục 1 Chương III - Hình phạt có quy định: "Nếu hành vi
phạm tội còn gây thiệt hại về kinh tế, thì ngoài chế tài theo luật hình sự, còn
phải căn cứ vào tình tiết cụ thể để buộc người phạm tội phải bồi thường thiệt
hại kinh tế" [17].
Ngoài ra, Bộ luật này còn quy định vấn đề bồi thường cho người bị hại
được ưu tiên trong trường hợp người phạm tội có trách nhiệm bồi thường dân
sự, đồng thời bị xử phạt tiền, nếu toàn bộ tài sản của họ không đủ để trả hoặc
bị xử tịch thu tài sản thì phải ưu tiên bồi thường dân sự cho người bị hại trước.
Mục 1 Chương IV - Áp dụng hình phạt, bên cạnh các quy định về căn
cứ quyết định hình phạt (Điều 61) và các nguyên tắc khi quyết định hình phạt
(Điều 62, 63) thì Điều 64 có quy định về giải quyết vấn đề liên quan đến tài
sản của người bị hại bị chiếm đoạt như sau: "Tất cả tài sản bất hợp pháp của
người phạm tội đều buộc giao nộp hoặc yêu cầu bồi hoàn. Tài sản hợp pháp
của người bị hại được hoàn trả ngay…" [17].
42
Như vậy, về mặt hình thức, nội dung các quy định về việc trả lại tài
sản và bồi thường thiệt hại cho người bị hại không được quy định thành phần
riêng mà lại được quy định thành các nội dung trong hình phạt và áp dụng
hình phạt mặc dù tại các Điều 32, 33, 34 Mục 1 Chương III quy định về các
loại hình phạt gồm: hình phạt chính và hình phạt bổ sung không hề đề cập trả
lại tài sản cho người bị hại hoặc bồi thường thiệt hại là một loại hình phạt.
Ngoài ra, chúng ta cùng tìm hiểu quy định về vấn đề này trong
BLTTHS nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa.
Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân dân Trung Hoa được
thông qua tại kỳ họp thứ hai Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ 5
ngày 01 tháng 7 năm 1979 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm
1980. Đến năm 1996, Bộ luật này được sửa đổi, bổ sung tại kỳ họp thứ tư Đại
hội đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ VIII ngày 17 tháng 3 năm 1996 và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1997 đến nay.
Vấn đề bồi thường thiệt hại cho người bị hại được luật hình sự nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa xác định là vấn đề dân sự vì vậy trong
BLTTHS của nước này dành một chương riêng quy định về kiện dân sự -
Chương VII- Phần những quy định chung. Cụ thể:
Điều 77 quy định: "Người bị hại chịu thiệt hại vật chất do hành vi
phạm tội của bị cáo gây ra thì có quyền yêu cầu bồi thường dân sự trong quá
trình tố tụng hình sự" [17].
Điều 78 quy định: "Việc kiện dân sự phải tiến hành xét xử đồng thời
với vụ án hình sự. Trong trường hợp cần thiết để tránh kéo dài thời gian xét
xử vụ án hình sự, sau khi xét xử phần hình sự, Tòa án đó sẽ tiếp tục xem xét
yêu cầu dân sự" [17].
Có thể thấy vấn đề dân sự có thể được giải quyết đồng thời cùng vụ án
hình sự hoặc có thể tách ra giải quyết sau nếu vụ án có khả năng bị quá hạn
tạm hoãn.
43
Khác với quy định của BLTTHS Liên bang Nga cũng như BLTTHS
Việt Nam vấn đề xử lý tài sản của người bị hại được quy định trong chương
về chứng cứ, BLTTHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa nội dung này lại
được quy định tại Điều 198 Chương III - Thủ tục phúc thẩm thuộc Phần thứ
ba - Xét xử.
Cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân phải quản
lý những tài sản, vật có giá trị của nghị can, bị cáo, cũng như hoa lợi phát sinh
từ đó, mà họ thu giữ hoặc phong tỏa để điều tra. Không một tổ chức hoặc cá
nhân nào được biển thủ hoặc xử lý tài sản đó khi chưa được phép. Tài sản hợp
pháp của người bị hại phải được trả lại cho họ ngay. Những đồ vật bị cấm và
dễ bị hư hỏng phải bị xử lý theo những quy định của nhà nước liên quan.
Cũng theo Điều này, bất kỳ nhân viên tư pháp nào tham ô, biển thủ
hoặc xử lý tiền và tài sản bất hợp pháp bị phong tỏa hoặc thu giữ cũng như
hoa lợi phát sinh một cách trái pháp luật phải bị truy cứu TNHS theo luật; nếu
hành vi không cấu thành tội phạm thì phải bị xử phạt hành chính.
Như vậy, có thể hiểu tài sản hợp pháp của người bị hại được trả lại
ngay cho họ trong giai đoạn điều tra.
Bằng những phân tích các quy định trên đây, chúng ta có thể thấy luật
hình sự Trung Quốc tuy không quy định việc người phạm tội phải trả lại tài
sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc bồi thường thiệt hại là một biện pháp
tư pháp trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế hình sự nhưng đã có những
quy định về việc Tòa án tuyên trả lại tài sản đã bị chiếm đoạt cho chủ sở hữu
hoặc bồi thường thiệt hại cho người bị hại cũng tương tự như luật hình sự
Việt Nam.
44
Chương 2
NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP
"TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI"
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI BÌNH
2.1. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN,
SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI" TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 1999
Biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" thực
chất là một loại trách nhiệm dân sự được giải quyết trong vụ án hình sự và
việc quy định nó hoàn toàn phù hợp với chính sách pháp luật của Nhà nước ta.
2.1.1. Những quy định chung
Bộ luật hình sự năm 1985 sau một thời gian áp dụng trên thực tế đã
phát sinh một số hạn chế chính vì vậy nhu cầu sửa đổi là cần thiết. Một trong
các lý do để sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1985 được xác định: Ở một chừng
mực nào đó, các quan hệ xã hội trước thời kỳ đổi mới ở nước ta là sản phẩm
của hạ tầng cơ sở sinh ra từ nền kinh tế quan liêu - hành chính và bao cấp, bảo
thủ và trì trệ nên khi chuyển sang cơ chế thị trường thì chưa đáp ứng được các
nhu cầu của thực tiễn xã hội nói chung và thực tiễn pháp lý nói riêng (kể cả
pháp luật hình sự). Do đó, việc tiến hành đổi mới pháp luật hình sự - sửa đổi
BLHS năm 1985 cho phù hợp với các quan hệ xã hội mới sẽ hình thành là
hoàn toàn hợp lý [8, tr. 61].
Việc Quốc hội chính thức thông qua BLHS năm 1999 đã đáp ứng
được yêu cầu nêu trên. BLHS mới ra đời là kết quả của quá trình pháp điển
hóa lần thứ hai trên cơ sở của sự kế thừa hệ thống các nguyên tắc, chế định đã
qua thực tiễn áp dụng của BLHS năm 1985 đồng thời có sự sửa đổi, bổ sung
nâng cao và phát triển để những quy định trở nên phù hợp.
45
Trong Điều 42 BLHS năm 1999 thực chất quy định hai biện pháp:
biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" và biện pháp
"Buộc công khai xin lỗi". Trong phạm vi luận văn này chỉ nghiên cứu biện
pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" theo khoản 1 Điều 42.
Điều 42: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại;
buộc công khai xin lỗi.
1. Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ
sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra.
2. Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa
án buộc người phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin
lỗi người bị hại [27].
Đây là một trong các biện pháp hỗ trợ cho hình phạt không chỉ ngăn
chặn người phạm tội phạm tội mới mà còn bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của
chủ sở hữu cũng như bảo vệ các quyền khác của con người. Trong mỗi vụ án
hình sự đều có khách thể nhất định bị xâm hại và có quan hệ xã hội bị phá vỡ;
nếu pháp luật hình sự chỉ dừng lại ở việc trừng trị kẻ phạm tội thông qua một
hình phạt nào đó thì chưa đủ, chưa khiến mọi người "tâm phục, khẩu phục"
được vì những gì tội phạm gây ra là tác động thiệt hại đến những chủ thể
khác. Chính vì vậy, để pháp luật thực sự đi vào lòng người, thực sự công bằng
thì bên cạnh việc người phạm tội phải chịu hình phạt thì những đối tượng bị
thiệt hại phải được bù đắp những tổn thất mà họ đã phải chịu.
Căn cứ Điều 74 BLTTHS năm 2003 định nghĩa về vật chứng: "Vật
chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết
của tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật chất có
giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội" [28] có thể thấy các tài sản
phải trả lại theo quy định của Điều 42 BLHS năm 1999 chính là một trong số
các vật chứng của vụ án hình sự - vật là đối tượng của tội phạm và việc xử lý
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY
Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY

More Related Content

What's hot

Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sựTé Lầu
 

What's hot (15)

Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại rừng, 9đ
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại rừng, 9đLuận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại rừng, 9đ
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại rừng, 9đ
 
Luận văn: Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền theo pháp luật, 9đ
Luận văn: Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền theo pháp luật, 9đLuận văn: Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền theo pháp luật, 9đ
Luận văn: Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền theo pháp luật, 9đ
 
Luận văn: Pháp luật về khiếu nại hành chính về lĩnh vực đất đai, HOT
Luận văn: Pháp luật về khiếu nại hành chính về lĩnh vực đất đai, HOTLuận văn: Pháp luật về khiếu nại hành chính về lĩnh vực đất đai, HOT
Luận văn: Pháp luật về khiếu nại hành chính về lĩnh vực đất đai, HOT
 
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về quyết định hành chính về đất đai
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về quyết định hành chính về đất đaiLuận văn: Giải quyết khiếu nại về quyết định hành chính về đất đai
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về quyết định hành chính về đất đai
 
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sự
 
Luận án: Giải quyết khiếu nại về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Luận án: Giải quyết khiếu nại về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đấtLuận án: Giải quyết khiếu nại về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Luận án: Giải quyết khiếu nại về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
 
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự thuộc về thân nhân người phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự thuộc về thân nhân người phạm tộiLuận văn: Trách nhiệm hình sự thuộc về thân nhân người phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự thuộc về thân nhân người phạm tội
 
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt NamLuận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
 
Luận văn: Xét xử tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Xét xử tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiLuận văn: Xét xử tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Xét xử tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
 
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, danh dự
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, danh dự Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, danh dự
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, danh dự
 
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oanQuyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
 
Luận văn: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự
Luận văn: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sựLuận văn: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự
Luận văn: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự
 
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân, HAY
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân, HAYTình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân, HAY
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân, HAY
 

Similar to Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY

Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

Similar to Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY (20)

Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOTLuận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
 
Luận văn: Tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong hình phạt
Luận văn: Tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong hình phạtLuận văn: Tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong hình phạt
Luận văn: Tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong hình phạt
 
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAY
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAYLuận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAY
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAY
 
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
 
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo LuậtLuận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
 
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộcTừ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Từ biện pháp xử lý hành chính đến đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đLuận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAYLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
 
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
 
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sựCác tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCM
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCMLuận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCM
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCM
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápTóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháplamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptxsongtoan982017
 
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh AnPhân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh Anlamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆTCHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆTlamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcK61PHMTHQUNHCHI
 

Recently uploaded (20)

Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
 
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
 
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápTóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
 
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌCLuận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
 
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
 
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
 
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh AnPhân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
 
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆTCHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
 
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
 
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
 
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
 

Luận văn: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, HAY

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ PHƢỢNG BIỆN PHÁP TƢ PHÁP: TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ PHƢỢNG BIỆN PHÁP TƢ PHÁP: TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản HÀ NỘI - 2014
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Vò ThÞ Ph-îng
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI" THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 7 1.1. cơ sở lý luận về biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" 7 1.1.1. Quan niệm chung về các biện pháp tư pháp 7 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" 12 1.2. Phân biệt biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" với hình phạt tiền, hình phạt tịch thu tài sản và với biện pháp tư pháp tịch thu tiền, vật trực tiếp liên quan đến tội phạm trong luật hình sự Việt Nam 17 1.2.1. Phân biệt biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" với hình phạt tiền 17 1.2.2. Phân biệt biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" với hình phạt tịch thu tài sản 20 1.2.3. Phân biệt biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" với biện pháp tư pháp "Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm" 22
  • 5. 5 1.3. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam quy định biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" 25 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 25 1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 27 1.4. Nghiên cứu so sánh biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong pháp luật hình sự Việt Nam với biện pháp cưỡng chế hình sự tương đương trong luật hình sự của Liên bang Nga và Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa 29 1.4.1. Luật hình sự Liên bang Nga 29 1.4.2. Luật hình sự nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa 32 Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI" TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI BÌNH 36 2.1. Những quy định về biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong Bộ luật hình sự năm 1999 36 2.1.1. Những quy định chung 36 2.1.2. Quy định về "Trả lại tài sản" 44 2.1.3. Quy định về "Sửa chữa tài sản" 50 2.1.4. Quy định về "Bồi thường thiệt hại" 52 2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trên địa bàn tỉnh Thái Bình 65 2.2.1. Tình hình chung 65 2.2.2. Một số tồn tại, hạn chế trong áp dụng biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trên địa bàn tỉnh Thái Bình 69
  • 6. 6 2.3. Những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế trong áp dụng biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" 78 2.3.1. Nguyên nhân khách quan 79 2.3.2. Nguyên nhân chủ quan 79 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI" TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG 81 3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" 81 3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" 82 3.2.1. Hoàn thiện quy định tại Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999 82 3.2.2. Hoàn thiện một số quy định pháp luật hình sự có liên quan đến áp dụng biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" 86 3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong thực tiễn 91 3.3.1. Nâng cao năng lực, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ tư pháp 91 3.3.2. Tăng cường hoạt động hướng dẫn bảo đảm thực hiện áp dụng biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thường thiệt hại" đạt hiệu quả 93 3.3.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật 96 3.3.4. Tăng cường hợp tác quốc tế trong việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép 97 KẾT LUẬN 98 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật dân sự BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự TNHS : Trách nhiệm hình sự
  • 8. 8 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 1.1 So sánh biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" với hình phạt tiền 18 1.2 So sánh biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" với hình phạt tịch thu tài sản 21 1.3 So sánh biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" với biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm 24 2.1 Thống kê xét xử các loại tội phạm của ngành Tòa án Thái Bình từ năm 2009 đến năm 2013 66 2.2 Thống kê xét xử 3 nhóm tội phạm có khả năng áp dụng cao biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại 68 3.1 Đề nghị sửa đổi khoản 2 Điều 41 BLHS và khoản 1 Điều 42 84 3.2 Đề nghị sửa đổi Điều 42 BLHS năm 1999 85
  • 9. 9 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tình hình tội phạm ở nước ta thời gian qua ngày càng gia tăng không chỉ về số lượng mà cả về các loại tội phạm, đặc biệt là các loại tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm quyền sở hữu; các tội phạm về chức vụ cũng như các tội phạm kinh tế... Để xử lý các tội phạm này các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng nhiều biện pháp xử lý khác nhau, trong đó có việc áp dụng biện pháp tư pháp. Theo báo cáo của Bộ Tư pháp năm 2012 "Thực tiễn 11 năm thi hành Bộ luật hình sự cho thấy, các biện pháp tư pháp thường được áp dụng nhiều nhất là tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm (Điều 41); trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại (Điều 42)" [1]. Trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" không có ý nghĩa quyết định như hình phạt nhưng trong giới hạn tác động của nó đã phát huy được vai trò tích cực, là một bộ phận cấu thành không thể thiếu trong hệ thống các biện pháp tác động của Nhà nước và xã hội đến tội phạm. Vai trò nổi bật của biện pháp tư pháp này khi áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là nhằm loại bỏ những điều kiện phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội trong tương lai và khi áp dụng cùng hình phạt nó có vai trò hỗ trợ cho hình phạt. Tuy nhiên, việc nhận thức cũng như áp dụng biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" một cách chính xác, trên cơ sở đó đưa ra phán quyết công bằng và thống nhất chung cho mọi trường hợp không phải là việc dễ dàng, đơn giản đối với những người tiến hành tố tụng. Vì thế có nhiều trường hợp đã dẫn đến tình trạng cơ quan tiến hành tố tụng lúng túng trong áp dụng các điều luật có nội dung liên quan đến vấn đề xử lý tài sản là đối tượng chiếm đoạt hoặc bị sử dụng trái phép, còn tồn tại việc xác định thiệt hại cũng
  • 10. 10 như đánh giá các chứng cứ liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại chưa triệt để dẫn đến Tòa án đưa ra quyết định về việc bồi thường thiệt hại chưa thỏa đáng, có trường hợp bồi thường thấp có trường hợp bồi thường cao;… Đây cũng là một trong những lý do dẫn đến tình trạng áp dụng pháp luật không thống nhất và tình trạng kháng cáo, kháng nghị, kéo dài thời gian giải quyết vụ án, ảnh hưởng lợi ích của những người bị hại thậm chí của cả người phạm tội. Bản chất của biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" mang tính dân sự và giải quyết trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự là một trong những nguyên tắc quan trọng đã được quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003. Trong thời gian qua, các quy định của pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp này đã có những sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng cũng như nghiên cứu vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến, cách hiểu và áp dụng khác nhau. Việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra những giải pháp hoàn thiện nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho việc lựa chọn đề tài: Biện pháp tư pháp: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại theo Bộ luật hình sự năm 1999 làm luận văn thạc sĩ luật học. Đây là một đề tài khá mới và phức tạp, tuy nhiên với phạm vi luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến biện pháp tư pháp này trên cơ sở nghiên cứu số liệu thực tiễn xét xử 5 năm (2009 - 2013) địa bàn tỉnh Thái Bình. 2. Tình hình nghiên cứu Từ khi Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 có hiệu lực, các biện pháp tư pháp cũng đã được một số tài liệu, bài viết tạp chí đề cập đến và cũng đã được các nhà nghiên cứu chọn làm đề tài luận văn, luận án.
  • 11. 11 Trước tiên, phải kể đến là Giáo trình của một số cơ sở đào tạo Luật trong nước, như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) của Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập 1, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2010; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Học viện Tư pháp, PGS.TS Nguyễn Văn Huyên (chủ biên), Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2011. Thứ hai, ở cấp độ luận văn thạc sĩ thực hiện ở Trường Đại học Luật Hà Nội có đề tài của Lê Thị Bích Lan, "Một số vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm"; cấp độ đề tài luận án tiến sĩ của Nguyễn Thanh Hồng, "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án tai nạn giao thông đường bộ". Thứ ba, một số sách chuyên khảo như: Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), của GS.TSKH Lê Văn Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam", PGS.TS Trịnh Quốc Toản, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2011;"Cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả của các biện pháp tư pháp và các hình phạt không phải là tù và tử hình", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; "Tìm hiểu hình phạt và các biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam: những văn bản hướng dẫn thi hành hình phạt trong bộ luật hình sự 1999", Trần Minh Hưởng, Nxb Lao động, Hà Nội, 2007; "Hoàn thiện các quy định chung của phần chung Bộ luật hình sự trong yêu cầu mới của đất nước", TS. Trịnh Tiến Việt, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012. Thứ tư, một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành cũng đã đề cập đến đối tượng nghiên cứu của luận văn này, như: "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm hại tính mạng, sức khỏe con người" của ThS. Đinh Văn Quế (Tạp chí Tòa án, số 10/2004); "Quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự về việc trả lại tài sản cho chủ sở hữu và thực tiễn áp
  • 12. 12 dụng" của ThS. Nguyễn Văn Trượng (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2005); "Thực trạng quy định của pháp luật hình sự về các biện pháp tư pháp" của TS. Trương Quang Vinh (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 02/2010). Tình hình nghiên cứu cho thấy, trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận về vấn đề này, các nhà nghiên cứu luật học đã đề cập đến một mức độ nào đó về biện pháp tư pháp. Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu riêng về biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" mà chỉ đơn lẻ nghiên cứu đề cập về vấn đề bồi thường thiệt hại. Để việc đưa biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" áp dụng vào thực tiễn được chính xác, cụ thể hơn đòi hỏi vấn đề lý luận về loại biện pháp tư pháp này phải được nghiên cứu sâu hơn, toàn diện, có hệ thống và chính thống hơn. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Xây dựng và hoàn thiện biện pháp tư pháp này nói riêng và BLHS, BLTTHS nói chung là đáp ứng một trong những yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận về biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" cũng như thực tiễn pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật về biện pháp này trên địa bàn tỉnh Thái Bình trong 5 năm từ năm 2009 đến năm 2013, luận văn đề xuất những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp này và nâng cao hiệu quả áp dụng nó trong thực tiễn. * Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại"như: khái niệm, đặc điểm,
  • 13. 13 vai trò của biện pháp tư pháp này; phân biệt biện pháp này với biện pháp tư pháp "Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm" và với một số hình phạt mang tính kinh tế. - Nghiên cứu so sánh với pháp luật hình sự Liên bang Nga và Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa. - Phân tích làm sáng tỏ những quy định biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay; - Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp này trên địa bàn tỉnh Thái Bình từ năm 2009 đến năm 2013 để chỉ ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của nó. - Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện chế định biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong pháp luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, logic học, triết học, tội phạm học, luật hình sự, tố tụng hình sự. Luận văn được hình thành dựa trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học và các tài liệu đã được công bố, dựa trên cơ sở nghiên cứu các văn bản pháp luật của Nhà nước, các văn bản áp dụng pháp luật, bản án, quyết định của Tòa án nhân dân, phân tích thực tiễn trên địa bàn tỉnh Thái Bình đồng thời sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp logic lịch sử, phân tích, thống kê và phương pháp tổng hợp để chọn lọc, trình bày nội dung luận văn.
  • 14. 14 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan đến loại biện pháp tư pháp thường xuyên được áp dụng trong thực tiễn của luật hình sự Việt Nam. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn có đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định để nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tư pháp này trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, đào tạo, các cơ quan bảo vệ pháp luật có thể dùng để rút kinh nghiệm trong công tác điều tra, truy tố, xét xử. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, nội dụng của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" theo luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Những quy định về biện pháp tư pháp: "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong Bộ luật hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Thái Bình. Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện các quy định về biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong pháp luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng.
  • 15. 15 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI" THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI" 1.1.1. Quan niệm chung về các biện pháp tƣ pháp Nhà nước quản lý xã hội bằng nhiều phương tiện khác nhau trong đó phương tiện hữu hiệu nhất là pháp luật, với mỗi loại vi phạm pháp luật có những chế tài riêng để xử lý và đưa các quan hệ xã hội trở về trật tự cần phải có. Khi cá nhân thực hiện tội phạm thì sẽ phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi thông qua các chế tài hình sự được quy định trong BLHS hay nói cách khác người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) do hành vi phạm tội của mình. Hệ thống các dạng của TNHS gồm: - Hệ thống hình phạt gồm: + Các hình phạt chính: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo không giam giữ; Trục xuất; Tù có thời hạn; Tù chung thân; Tử hình. + Các hình phạt bổ sung: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm những công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân; Tịch thu tài sản; Phạt tiền là hình phạt bổ sung; Trục xuất là hình phạt bổ sung. - Hệ thống các biện pháp tư pháp gồm: + Các biện pháp tư pháp chung như: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; Trả lại tài sản, sửa chữa, bồi thường thiệt hại; Buộc công khai xin lỗi; Bắt buộc chữa bệnh.
  • 16. 16 + Các biện pháp tư pháp quy định riêng đối với người chưa thành niên phạm tội: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Đưa vào trường giáo dưỡng. Nghiên cứu luật hình sự nước ngoài cho thấy, ít có nước nào chỉ thiết lập riêng hoặc là hệ thống các hình phạt hoặc là hệ thống các biện pháp cưỡng chế hình sự khác trong luật hình sự, mà phần lớn các nước chấp nhận sự song song tồn tại hai hệ thống các biện pháp cưỡng chế hình sự: Hình phạt và biện pháp cưỡng chế hình sự khác. Tuy nhiên, biện pháp cưỡng chế hình sự khác ở mỗi nước khác nhau có tên gọi khác nhau, chẳng hạn, BLHS của Cộng hòa Liên bang Đức quy định từ Điều 61 đến Điều 72 về các biện pháp cải biến và an toàn; luật hình sự của Cộng hòa Pháp và BLHS năm 1995 của Tây Ban Nha đều gọi các biện pháp này với tên gọi là biện pháp an ninh. Chính quyền Sài Gòn cũ đưa các biện pháp này vào Chương II BLHS năm 1972 với tên gọi là các biện pháp phòng vệ. Còn BLHS năm 1999 của Việt Nam đặt tên các biện pháp cưỡng chế hình sự này là các biện pháp tư pháp. Trong luật hình sự Việt Nam, chế định hình phạt được BLHS năm 1999 ghi nhận đầy đủ từ khái niệm, mục đích đến các loại hình phạt cụ thể. Trong khi đó, Pháp luật hình sự nước ta từ năm 1945 đến nay chưa có ghi nhận khái niệm pháp lý cũng như mục đích của biện pháp tư pháp. Định nghĩa biện pháp tư pháp đã được một số nhà hình sự học đề cập đến trong một số công trình khoa học luật hình sự như các sách chuyên khảo và giáo trình của các trường đại học chuyên ngành Luật. Chẳng hạn như: Biện pháp tư pháp là những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, được Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng với người phạm tội cũng như người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình [46, tr. 186]; "Các biện pháp tư pháp là các biện pháp hình sự được Bộ luật hình sự quy định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt" [47, tr. 249];
  • 17. 17 Biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt do pháp luật hình sự quy định và được cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể áp dụng đối với người phạm tội nhằm hạn chế quyền, tự do của người đó hoặc hỗ trợ hay thay thế cho hình phạt [7, tr. 679]. Trong khoa học luật hình sự nước ngoài, biện pháp cưỡng chế hình sự khác được hiểu là "Biện pháp tước hoặc hạn chế tự do hoặc quyền, hoặc là biện pháp về tài sản, chủ yếu có mục đích ngăn ngừa việc thực hiện tội phạm mới" hoặc là "những biện pháp cưỡng chế không có màu sắc luân lý, áp dụng với các cá nhân nguy hiểm cho trật tự xã hội để phòng ngừa các tội phạm mà tình trạng của họ có thể gây ra". Trong các định nghĩa khoa học về các biện pháp cưỡng chế hình sự khác nêu trên, các học giả đã dựa trên bản chất, đặc điểm và chức năng của các biện pháp này tuy nhiên chưa khái quát hết các đặc điểm chủ yếu của loại biện pháp này như về chủ thể áp dụng, hiệu lực pháp luật và hiệu lực thi hành của nó [40, tr. 87]. Trên cơ sở nghiên cứu phân tích, so sánh, tổng hợp các định nghĩa của các nhà khoa học trong và ngoài nước, có thể chỉ ra năm đặc điểm cơ bản của biện pháp tư pháp như sau: Thứ nhất, biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt. "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội" [27, Điều 26] do Tòa án quyết định, chính vì vậy khi bị áp dụng hình phạt sẽ để lại án tích đối với người bị tuyên phạt trong khi đó hậu quả pháp lý đối với người bị áp dụng biện pháp tư pháp không bị coi là có án tích. Mặt khác, tính ít nghiêm khắc hơn hình phạt của biện pháp tư pháp còn thể hiện ở mục đích của hai loại biện pháp cưỡng chế hình sự này. Nếu như hình phạt nhằm trừng trị
  • 18. 18 người phạm tội, có thể tước đoạt quyền, tự do thậm chí là tính mạng của người bị kết án thì các biện pháp tư pháp chỉ có thể hạn chế một số quyền nhân thân của người phạm tội thậm chí một số biện pháp tư pháp xét về mặt xã hội còn mang lại lợi ích cho người phạm tội. Ví dụ: trường hợp áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng điều khiển hành vi của mình; hoặc người phạm tội trước khi bị kết án hoặc đang trong thời gian chấp hành hình phạt mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình thì biện pháp tư pháp có ý nghĩa nhân đạo giúp người này trở lại trạng thái của người bình thường. Thứ hai, biện pháp tư pháp được áp dụng cho chính cá nhân cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Trong những trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa đến mức phải truy cứu TNHS hoặc được miễn truy cứu TNHS thì người đó vẫn có thể phải bị áp dụng biện pháp tư pháp. Ví dụ: Giá trị tài sản trộm cắp dưới 2 triệu đồng và người thực hiện chưa có tiền án, tiền sự thì người đó không bị truy cứu TNHS theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999 nhưng tài sản thu giữ được sẽ được áp dụng biện pháp tư pháp trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, nếu có hư hỏng có thể sẽ phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại. Thứ ba, biện pháp tư pháp nhằm hạn chế quyền, tự do của người thực hiện tội phạm, nhằm hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt và nhằm loại bỏ những điều kiện phạm tội, ngăn ngừa chủ thể bị áp dụng phạm tội trong tương lai. Xét về bản chất, các biện pháp tư pháp hình sự không phải là hình phạt nhưng cũng là những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước nhằm tăng hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vì vậy, các biện pháp tư pháp khi áp dụng cùng với hình phạt thì chúng có khả năng tác động hỗ trợ cho việc áp dụng và thi hành hình phạt đạt hiệu quả cao hơn hoặc có thể thay thế cho hình phạt đối với những trường hợp không áp dụng hình phạt (như miễn hình phạt, miễn TNHS).
  • 19. 19 Ngoài ra, do tính chất được áp dụng trong mọi giai đoạn tố tụng nên ngay cả trước khi Tòa án áp dụng hình phạt thì những điều kiện phạm tội cũng sẽ được biện pháp tư pháp loại bỏ cùng với đó sẽ phòng ngừa chủ thể bị áp dụng phạm tội trong tương lai (ví dụ: việc áp dụng biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm đối với tiền, tài sản và các công cụ phạm tội trong vụ án bắt quả tang nhiều đối tượng đánh bạc sẽ làm chấm dứt các điều kiện phạm tội đang tồn tại và có giá trị phòng ngừa các đối tượng phạm tội tiếp). Thứ tư, biện pháp tư pháp được áp dụng đối với tất cả các giai đoạn tố tụng vì vậy chủ thể áp dụng biện pháp tư pháp rộng hơn chủ thể áp dụng hình phạt. Với tính chất đặc biệt của mình, hình phạt chỉ có thể do Tòa án áp dụng thông qua bản án. Trong khi đó, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án đều có thẩm quyền áp dụng biện pháp tư pháp khi có căn cứ đối với người phạm tội nói chung (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và cả người bị kết án), riêng đối với biện pháp tư pháp thay thế cho hình phạt chỉ có thể do Tòa án áp dụng đối với người bị kết án. Thứ năm, biện pháp tư pháp được quy định trong BLHS, phải được cơ quan tư pháp có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự thủ tục chặt chẽ do luật tố tụng hình sự quy định và phải tuân theo nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc công bằng, tôn trọng danh dự, nhân phẩm của con người. Quy định về việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự trong luật hình sự Việt Nam bảo đảm thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta là mọi hành vi phạm tội đều bị xử lý. Đồng thời góp phần giúp cho các cơ quan tư pháp có thẩm quyền vận dụng linh hoạt, mềm dẻo và đúng đắn chính sách hình sự của Nhà nước; đồng thời khẳng định việc áp dụng hình phạt với tư cách là biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc nhất không phải là phương tiện duy nhất trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm.
  • 20. 20 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của biện pháp tƣ pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thƣờng thiệt hại" * Khái niệm, đặc điểm của biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" Khi điều tra, truy tố và xét xử các tội phạm có liên quan đến việc chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép tài sản hoặc những tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm… Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thường phải áp dụng các quy định của BLHS và BLTTHS để giải quyết những vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại. Một trong những biện pháp giải quyết vấn đề tài sản và trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự mà cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng hiệu quả là biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" được quy định tại Điều 42 BLHS năm 1999. Bộ luật hình sự năm 1985 quy định biện pháp này tại Điều 34 và được giữ nguyên tên gọi tại Điều 42 BLHS năm 1999. "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" là biện pháp tư pháp chung áp dụng đối với người đã thành niên và người chưa thành niên phạm tội. Biện pháp này tuy được quy định thành một điều luật riêng trong BLHS nhưng mới chỉ dừng lại ở việc nêu nội dung của biện pháp. Cũng như biện pháp tư pháp, trong luật hình sự của nước ta từ BLHS năm 1985 đến BLHS năm 1999 chưa có khái niệm pháp lý nào về biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" tuy nhiên nó được đề cập đến trong giáo trình của một số cơ sở đào tạo Luật. Trong giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập 1 của Trường Đại học Luật Hà Nội do Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2010 có đưa ra khái niệm về biện pháp tư pháp này như sau: "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại là biện pháp tư pháp được BLHS quy định, do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội khi họ đã gây ra thiệt hại vật chất hoặc tinh thần cho người bị hại" [43, tr. 259].
  • 21. 21 Như phần trên đã xác định, một trong những đặc điểm của biện pháp tư pháp chung là được áp dụng trong tất cả các giai đoạn tố tụng khác nhau từ điều tra, truy tố đến xét xử vì vậy chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp này không chỉ có Tòa án mà còn cả Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Mặt khác, theo quy định của biện pháp này không chỉ rõ chủ thể bị thiệt hại là "người bị hại". Theo quy định về người tham gia tố tụng của BLTTHS năm 2003, khi người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản đối với cơ quan, đơn vị, tổ chức thì cơ quan, đơn vị, tổ chức tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn dân sự và họ hoàn toàn có quyền được nhận lại tài sản của mình cũng như được sửa chữa tài sản do tội phạm làm hư hỏng hoặc có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với các thiệt hại do tội phạm gây ra. Như vậy, có thể thấy khái niệm này chưa khái quát hết được nội dung của điều luật. Từ phân tích trên đây, tác giả mạnh dạn đưa ra một khái niệm về biện pháp tư pháp này như sau: Biện pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại là biện pháp cưỡng chế hình sự do BLHS quy định và được cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng buộc người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Về đặc điểm của biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại", đây là biện pháp tư pháp nên nó có đủ năm đặc điểm của biện pháp tư pháp nói chung. Đó là: Thứ nhất, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" là biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt và hậu quả của việc áp dụng biện pháp tư pháp này là người bị áp dụng không bị coi là có án tích nếu như biện pháp này được áp dụng độc lập với hình phạt. Thứ hai, biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" được áp dụng cho chính cá nhân cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
  • 22. 22 Thứ ba, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" nhằm hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt, nhằm loại bỏ những điều kiện phạm tội, ngăn ngừa chủ thể bị áp dụng phạm tội trong tương lai. Thứ tư, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" được áp dụng đối với tất cả các giai đoạn tố tụng vì vậy Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án đều có thẩm quyền áp dụng biện pháp tư pháp này khi có căn cứ đối với người phạm tội nói chung (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và cả người bị kết án). Thứ năm, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" là biện pháp cưỡng chế hình sự được quy định trong BLHS, phải được cơ quan tư pháp có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do luật tố tụng hình sự quy định và phải tuân theo nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc công bằng, tôn trọng danh dự, nhân phẩm của con người. Ngoài năm đặc điểm cơ bản của biện pháp tư pháp nói chung, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" còn có những đặc điểm riêng sau: Thứ nhất, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong trường hợp được Tòa án áp dụng cùng với hình phạt không chỉ nhằm hỗ trợ cho hình phạt mà còn để xử lý vật chứng trong vụ án hình sự. Thứ hai, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" là biện pháp tư pháp hình sự đồng thời mang tính chất dân sự. * Vai trò của biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" Biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" là bộ phận cấu thành của hệ thống biện pháp cưỡng chế hình sự trong luật hình sự Việt Nam. Mặc dù là biện pháp tư pháp này là biện pháp hỗ trợ cho hình phạt nhưng không vì thế mà làm nó mất đi vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách hình sự và đấu tranh phòng, chống tội phạm.
  • 23. 23 Ở phương diện thực hiện chính sách hình sự, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" có vai trò quan trọng trong lĩnh vực xây dựng và áp dụng pháp luật. Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, cùng với việc quy định tội phạm luật hình sự quy định một hệ thống biện pháp cưỡng chế hình sự đa dạng để xử lý các hành vi nguy hiểm cho xã hội là một việc quan trọng để cụ thể hóa chính sách hình sự của Nhà nước. Việc đa dạng hóa các biện pháp cưỡng chế hình sự là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo tính thống nhất trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Mỗi loại biện pháp cưỡng chế hình sự khác nhau được quy định với nhiều cấp độ và khả năng tác động khác nhau thì việc xử lý hình sự càng chuẩn mực, độ chính xác, công bằng càng cao nghĩa là khả năng phân hóa TNHS càng được bảo đảm tốt hơn. Chính vì thế việc quy định biện pháp tư pháp nói chung và biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" nói riêng làm cho hệ thống các biện pháp cưỡng chế hình sự đa dạng hơn về thể loại, cân đối hơn về số lượng, tương xứng hơn về tính chất và hoàn thiện hơn cho cả hệ thống. Để chứng minh cho nhận định này chúng ta có thể đặt vấn đề ngược lại, nếu hệ thống biện pháp cưỡng chế hình sự không tồn tại biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" thì sẽ như thế nào? Rõ ràng sẽ là một chỗ trống lớn của pháp luật khi thực tiễn xảy ra những sự kiện pháp lý hình sự như: hành vi chiếm đoạt tài sản (trộm cắp, cướp, cướp giật tài sản…) hoặc hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ dẫn đến hậu quả chết người… Lúc này người phạm tội phải chịu một hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi trên cơ sở các quy định về quyết định hình phạt trong BLHS là đương nhiên, nhưng còn các vấn đề về xử lý vật chứng, trách nhiệm bồi thường các tổn thất về vật chất và tinh thần cho người bị hại và một số người tham gia tố tụng khác do tội phạm gây ra sẽ phải căn cứ vào đâu để giải quyết và giải quyết như thế nào?
  • 24. 24 Như vậy, có thể thấy bằng việc ghi nhận biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" pháp luật đã dự liệu trước những tình huống pháp lý xảy ra trên thực tế để mọi hành vi nguy hiểm cho xã hội đều được giải quyết một cách triệt để, đem lại công bằng cho xã hội và niềm tin cho người dân. Trong lĩnh vực áp dụng pháp luật, việc quy định biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong BLHS là căn cứ pháp lý giúp cho cơ quan tư pháp áp dụng pháp luật một cách chủ động, linh hoạt và chính xác hơn. Việc áp dụng biện pháp này sẽ củng cố, hỗ trợ và tăng cường cho hiệu quả áp dụng hình phạt điều này thể hiện rõ nhất trong trường hợp người phạm tội bị tuyên phạt các hình phạt chính không tước tự do như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và còn bị áp dụng kèm theo biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại". Có thể nói, hình phạt là biện pháp cưỡng chế hình sự tác động trực tiếp đến quyền, tự do thân thể của người phạm tội còn biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" tác động trực tiếp đến lợi ích kinh tế của người này, cùng một lúc người phạm tội phải chịu sự tác động của các biện pháp hình sự khác nhau đến các lợi ích khác nhau sẽ có giá trị trừng trị, cải tạo và giáo dục hơn. Mặt khác, điều đó cũng làm cho chủ thể bị thiệt hại nhận được sự công bằng, góp phần khắc phục giảm bớt những thiệt hại của họ do tội phạm gây ra. Ngoài ra, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" còn có vai trò quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Từ việc áp dụng biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" đối với chính người phạm tội không chỉ có tác dụng tích cực đến người phạm tội mà còn hướng đến cộng đồng xã hội, có tính chất răn đe và phòng ngừa - cộng đồng xã hội nhìn vào hậu quả pháp lý bất lợi mà người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải gánh chịu để có những sự lựa chọn cách xử sự
  • 25. 25 đúng đắn, tôn trọng pháp luật nếu không muốn phải gánh chịu những hậu quả pháp lý hình sự như người phạm tội đã phải chịu. Mặc dù biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" không có mục đích trừng trị cao như hình phạt nhưng nó thể hiện sự lên án mạnh mẽ của Nhà nước đồng thời chủ động loại trừ điều kiện tái phạm của người phạm tội, làm tăng hiệu quả của hình phạt. Do đó, sự phối hợp nhịp nhàng giữa hình phạt với các biện pháp tư pháp nói chung và biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" nói riêng có giá trị và tầm quan trọng cao trong việc thực hiện chính sách hình sự và công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm của quốc gia. 1.2. PHÂN BIỆT BIỆN PHÁP TƢ PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI" VỚI HÌNH PHẠT TIỀN, HÌNH PHẠT TỊCH THU TÀI SẢN VÀ VỚI BIỆN PHÁP TƢ PHÁP TỊCH THU TIỀN, VẬT TRỰC TIẾP LIÊN QUAN ĐẾN TỘI PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.2.1. Phân biệt biện pháp tƣ pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thƣờng thiệt hại" với hình phạt tiền "Phạt tiền được hiểu là một trong những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được Tòa án quyết định trong bản án kết tội đối với người bị kết án về những tội phạm do luật hình sự quy định với nội dung là tước một khoản tiền nhất định của họ sung vào công quỹ của nhà nước" [40, tr. 170]. Hình phạt tiền trong luật hình sự của nước ta đã tồn tại từ rất lâu và luôn chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống hình phạt. Cùng với trục xuất, phạt tiền là loại hình phạt lưỡng tính vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung. Việc áp dụng hình phạt tiền phải thỏa mãn các điều kiện nhất định và chúng ta so sánh với biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" thấy được giữa hai loại biện pháp hình sự này có những điểm giống nhau và khác nhau như sau:
  • 26. 26 Thứ nhất, chúng đều là biện pháp cưỡng chế hình sự do BLHS quy định, chỉ xuất hiện khi có sự việc phạm tội của cá nhân cụ thể có năng lực TNHS, đủ tuổi chịu TNHS và có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Thứ hai, chúng đều là những biện pháp tác động vào tài sản, kinh tế của đối tượng bị áp dụng. Thứ ba, chúng đều dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi nhất định đối với người bị áp dụng (đó là quyền sở hữu đối với tài sản). Thứ tư, chúng đều là các dạng, các hình thức thực hiện TNHS, do cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự, thủ tục đặc biệt được quy định trong luật tố tụng hình sự. Thứ năm, theo pháp luật hình sự Việt Nam, chúng đều chỉ mang tính chất cá nhân và chỉ áp dụng đối với thể nhân phạm tội. Sự khác nhau của hình phạt tiền và biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" có thể nhận thấy qua bảng so sánh sau: Bảng 1.1: So sánh biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" với hình phạt tiền TT Tiêu chí so sánh Biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thƣờng thiệt hại" Hình phạt tiền 1 Mức độ nghiêm khắc Là biện pháp cưỡng chế hình sự ít nghiêm khắc hơn hình phạt tiền. Việc áp dụng biện pháp này sẽ không để lại án tích cho người bị áp dụng. Là biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc hơn biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại". Việc áp dụng hình phạt tiền sẽ để lại án tích cho người bị áp dụng. 2 Cách thức áp dụng Là biện pháp hỗ trợ cho hình phạt, có thể được áp dụng độc lập hoặc áp dụng bên cạnh hình phạt. Là hình phạt được áp dụng độc lập (khi là hình phạt chính) hoặc áp dụng bên cạnh hình phạt khác (khi là hình phạt bổ sung). 3 Chủ thể có thẩm quyền áp dụng Rộng hơn, bao gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án đều có thẩm quyền áp dụng tùy vào giai đoạn tố tụng cụ thể. Hẹp hơn, chỉ Tòa án mới có thẩm quyền áp dụng trong giai đoạn xét xử.
  • 27. 27 TT Tiêu chí so sánh Biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thƣờng thiệt hại" Hình phạt tiền 4 Đối tượng áp dụng Rộng hơn, là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định là tội phạm hoặc không phải là tội phạm (do không đủ yếu tố cấu thành tội phạm). Xét về tư cách tố tụng, đối tượng bị áp dụng có thể là người không bị khởi tố về hình sự hoặc là người bị khởi tố về hình sự (bị can, bị cáo) thông qua quyết định xử lý vật chứng hoặc bản án. Hẹp hơn, là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định là tội phạm. Xét về tư cách tố tụng, đối tượng bị áp dụng chỉ là bị cáo thông qua quyết định trong bản án. 5 Đối tượng chịutácđộng Quyền sở hữu hoặc chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người phạm tội Quyền sở hữu tài sản của người phạm tội. 6 Phạm vi áp dụng Rộng hơn, áp dụng trong mọi tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, quyền tự do thân thể, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của con người. Hẹp hơn, chỉ một số loại tội phạm nhất định mới được áp dụng hình phạt tiền. Cụ thể: - Là hình phạt chính: Chỉ áp dụng đối với tội phạm ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính hoặc một số tội phạm khác do BLHS năm 1999 quy định. - Là hình phạt bổ sung: Chỉ áp dụng đối với người phạm các tội về tham nhũng, ma túy, hoặc những tội phạm khác do BLHS năm 1999 quy định. 7 Mục đích áp dụng Áp dụng biện pháp tư pháp nhằm loại bỏ những điều kiện phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội trong tương lai. Hình phạt nhằm trừng trị, giáo dục người phạm tội và ngăn ngừa họ phạm tội mới; Hình phạt nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. 8 Hậu quả pháp lý của việc áp dụng Khi không kèm theo hình phạt đối với người phạm tội, người bị áp dụng không bị coi là có án tích (ví dụ: khi người đó được miễn hình phạt). Người bị áp dụng phải chịu án tích. Nguồn: Tác giả luận văn tổng hợp từ Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.
  • 28. 28 1.2.2. Phân biệt biện pháp tƣ pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thƣờng thiệt hại" với hình phạt tịch thu tài sản Hình phạt tịch thu tài sản "là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được quy định trong Bộ luật hình sự do Tòa án tuyên bố trong bản án kết tội đối với người bị kết án về một trong các tội được luật hình sự quy định với nội dung là tước của họ một phần hoặc toàn bộ tài sản sung công quỹ nhà nước" [40, tr. 191]. Cũng giống như với hình phạt tiền, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" và hình phạt tịch thu tài sản có những đặc điểm giống nhau sau đây: Thứ nhất, chúng đều là biện pháp cưỡng chế hình sự do BLHS quy định, chỉ xuất hiện khi có sự việc phạm tội của cá nhân cụ thể có năng lực TNHS, đủ tuổi chịu TNHS và có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Thứ hai, chúng đều là những biện pháp tác động vào tài sản, kinh tế của đối tượng bị áp dụng. Thứ ba, chúng đều dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi nhất định đối với người bị áp dụng (đó là chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản của người phạm tội). Thứ tư, chúng đều là các dạng, các hình thức thực hiện TNHS, do cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự, thủ tục đặc biệt được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự. Thứ năm, theo pháp luật hình sự Việt Nam, chúng đều chỉ mang tính chất cá nhân và chỉ áp dụng đối với thể nhân phạm tội. Thứ sáu, tài sản mà người phạm tội phải "trả" hoặc bị "tịch thu" đều là những tài sản do người phạm tội vi phạm pháp luật mà có. Sự khác nhau của hình phạt tịch thu tài sản và biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" có thể nhận thấy qua bảng so sánh sau:
  • 29. 29 Bảng 1.2: So sánh biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" với hình phạt tịch thu tài sản TT Tiêu chí so sánh Biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thƣờng thiệt hại" Hình phạt tịch thu tài sản 1 Mức độ nghiêm khắc Là biện pháp cưỡng chế hình sự ít nghiêm khắc hơn hình phạt tịch thu tài sản. Việc áp dụng biện pháp này sẽ không để lại án tích cho người bị áp dụng. Là biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc hơn biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại". Việc áp dụng hình phạt này sẽ để lại án tích cho người bị áp dụng. 2 Cách thức áp dụng Là biện pháp hỗ trợ cho hình phạt, có thể được áp dụng độc lập hoặc áp dụng bên cạnh hình phạt. Là hình phạt bổ sung được áp dụng bên cạnh hình phạt khác 3 Chủ thể có thẩm quyền áp dụng Rộng hơn, bao gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án đều có thẩm quyền áp dụng tùy vào giai đoạn tố tụng cụ thể. Hẹp hơn, chỉ Tòa án mới có thẩm quyền áp dụng trong giai đoạn xét xử. 4 Đốitượng ápdụng Rộng hơn. Là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định là tội phạm hoặc không phải là tội phạm (do không đủ yếu tố cấu thành tội phạm). Xét về tư cách tố tụng, đối tượng bị áp dụng có thể là người không bị khởi tố về hình sự hoặc là người bị khởi tố về hình sự (bị can, bị cáo) thông qua quyết định xử lý vật chứng hoặc bản án. Hẹp hơn. à người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định là tội phạm. Xét về tư cách tố tụng, đối tượng bị áp dụng chỉ là bị cáo thông qua quyết định trong bản án. 5 Đối tượng chịutácđộng Quyền sở hữu hoặc chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người phạm tội. Quyền sở hữu tài sản của người phạm tội. 6 Phạm vi áp dụng Rộng hơn, áp dụng trong mọi tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, quyền tự do thân thể, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của con người. Hẹp hơn, chỉ một số loại tội phạm nhất định mới được áp dụng hình phạt tịch thu tài sản. Cụ thể: Chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng trong trường hợp BLHS quy định (Ví dụ tội tham ô tài sản Điều 278, tội nhận hối lộ Điều 279 BLHS năm 1999)
  • 30. 30 TT Tiêu chí so sánh Biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thƣờng thiệt hại" Hình phạt tịch thu tài sản 7 Giới hạn của biện pháp Không có giới hạn nào về mức bồi thường hoặc phạm vi sửa chữa tài sản bị hư hỏng mà mức bồi thường thiệt hại hoặc buộc phải sửa chữa tài sản cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp tài sản căn cứ vào thiệt hại thực tế (trừ trường hợp các bên tự thỏa thuận được). Có giới hạn tài sản bị tịch thu: Trong trường hợp tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống. 8 Mục đích áp dụng Áp dụng biện pháp tư pháp nhằm loại bỏ những điều kiện phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội trong tương lai. Hình phạt nhằm trừng trị, giáo dục người phạm tội và ngăn ngừa họ phạm tội mới; Hình phạt nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. 9 Hậu quả pháp lý của việc áp dụng Khi không kèm theo hình phạt đối với người phạm tội, người bị áp dụng không bị coi là có án tích (ví dụ: khi người đó được miễn hình phạt). Ngườibịápdụngphảichịuántích. Nguồn: Tác giả luận văn tổng hợp từ Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. 1.2.3. Phân biệt biện pháp tƣ pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thƣờng thiệt hại" với biện pháp tƣ pháp "Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm" Biện pháp "Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm" được quy định tại Điều 41 BLHS năm 1999 như sau: 1. Việc tịch thu, sung quỹ Nhà nước được áp dụng đối với: a) Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; b) Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; c) Vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành.
  • 31. 31 2. Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép, thì không tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. 3. Vật, tiền thuộc tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu, sung quỹ Nhà nước [27]. Chúng ta có thể hiểu hai biện pháp này là hai trình tự ngược nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự: đối với vụ án hình sự cụ thể, nếu như biện pháp "Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm" nhằm thu hồi vật chứng thì biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" nhằm xử lý vật chứng đã thu hồi. Vì vậy hai biện pháp này có quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình xử lý vật chứng một vụ án hình sự. Sự giống nhau của hình phạt tịch thu tài sản và biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" có thể nhận thấy qua một số điểm sau: Thứ nhất, chúng đều là các biện pháp tư pháp được quy định trong BLHS năm 1999. Vì vậy, chúng đều mang đặc điểm chung của biện pháp tư pháp như đã trình bày ở trên. Thứ hai, chúng đều là các biện pháp tác động đến tài sản, quyền kinh tế của người phạm tội. Thứ ba, việc áp dụng chúng đều giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vấn đề xử lý vật chứng, xử lý tài sản có liên quan và giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Sự khác nhau của biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm và biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" có thể nhận thấy qua bảng so sánh sau:
  • 32. 32 Bảng 1.3: So sánh biện pháp tư pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" với biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm TT Tiêu chí so sánh Biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thƣờng thiệt hại" Biện pháp "Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm" 1 Đối tượng tác động Là tài sản của người bị hại, người quản lý hợp pháp và trong trường hợp phải bồi thường thiệt hại thì nó có thể là tài sản của người phạm tội. Nói đến "tài sản" đây là khái niệm rộng hơn "vật, tiền" (ngoài vật, tiền còn có các quyền nhân thân gắn liền với tài sản như quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả….) Chỉ là vật, tiền có thể là của người bị hại, người quản lý hợp pháp (ví dụ: đối tượng tịch thu là tài sản do phạm tội mà có…), cũng có thể là của người phạm tội (ví dụ: tiền thu được trên chiếu bạc của các đối tượng tham gia đánh bạc…), có thể là của người khác có lỗi trong việc để người phạm tội sử dụng vào việc phạm tội (ví dụ: A cho B mượn xe ô tô trong khi biết B chưa có giấy phép lái xe ô tô dẫn đến B gây tai nạn giao thông….) và có thể là những vật Nhà nước cấm lưu hành (ví dụ: pháo nổ, ma túy…) 2 Tính chất Là biện pháp quy định phương thức xử lý vật chứng trong vụ án hình sự: Nếu trong một vụ án hình sự có liên quan đến tài sản thì phương án xử lý: trước tiên là "trả lại" cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, nếu tài sản bị hư hỏng có thể khắc phục được thì "sửa chữa" và "trả lại", nếu tài sản bị hư hỏng đến mức không thể khắc phục được thì phải "bồi thường thiệt hại". Ngoài ra trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn đặt ra trong trường hợp tội phạm làm tổn hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Là biện pháp nhằm thu hồi và xử lý vật chứng trong vụ án hình sự: Điều 42 quy định phương thức xử lý đối với tài sản (bao gồm: trả lại, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại) thì Điều 41 quy định trường hợp nào "không tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu", trường hợp nào thì tịch thu sung công quỹ Nhà nước. 3 Đốitượng thụhưởng Người bị hại, người quản lý hợp pháp tài sản. Người bị hại, người quản lý hợp pháp tài sản và Nhà nước. 4 Phạm vi áp dụng Phạm vi áp dụng hẹp hơn: - Chỉ áp dụng đối với người phạm tội nói riêng. - Chỉ áp dụng đối với một số loại tội phạm được quy định trong phần riêng của BLHS năm 1999. Phạm vi áp dụng rộng hơn: - Áp dụng đối với tất cả những người tham gia tố tụng khi có căn cứ pháp lý do pháp luật hình sự quy định. - Áp dụng đối với tất cả các loại tội phạm được quy định trong phần riêng của BLHS năm 1999. Nguồn: Tác giả luận văn tổng hợp từ Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.
  • 33. 33 1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH BIỆN PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI" 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, luật hình sự nước ta đã quy định về hình phạt và phân chia hình phạt thành ba loại: chính hình, phụ hình và bổ túc hình. Trong đó, chính hình là hình phạt tuyên độc lập cho mỗi tội phạm, phụ hình là hình phạt thêm vào hình phạt chính, không cần Tòa án tuyên án. Phụ hình là hậu quả tất yếu của chính hình nên Tòa án không cần tuyên phụ hình mà nó vẫn được thi hành theo luật pháp. Bổ túc hình theo tên gọi cũng là thêm vào hình phạt chính, không có bổ túc hình khi không có hình phạt chính. Tuy nhiên, khác với phụ hình, bổ túc hình chỉ được áp dụng cho tội nhân khi Tòa án có tuyên phạt rõ ràng. Bổ túc hình hay còn gọi là hình phạt bổ sung trong luật hình sự thời kỳ này gồm: tịch thu tài sản, buộc phải bồi thường chi phí hay tổn hại, tước quyền công dân, lưu xứ, quản thúc, câu thúc thân thể, niêm yết tên tuổi phạm nhân nơi công cộng. Thời kỳ này luật hình sự nước ta chưa có quy định về biện pháp tư pháp. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985 nước ta đã trải qua một thời kỳ lịch sử đầy biến động, xã hội còn nhiều khó khăn nên công tác xây dựng pháp luật nói chung, luật hình sự nói riêng đặc biệt là các quy phạm pháp luật quy định về biện pháp tư pháp chưa thực sự được chú trọng quan tâm, nên pháp luật lúc này còn rất nhiều hạn chế. Mặc dù các biện pháp tư pháp trong thời kỳ này chưa được quy định thành một chương riêng với tên gọi là các biện pháp tư pháp như hiện nay nhưng trong thời kỳ này một số biện pháp tư pháp đã được quy định rải rác trong các Sắc lệnh như: Sắc lệnh số 01/SL ngày 19/4/1957 trừng trị tội đánh bạc tại Điều 2 quy định về biện pháp tịch thu tang vật; Sắc lệnh 267/SL ngày 15/6/1956 quy định về biện pháp bồi thường thiệt hại.
  • 34. 34 Khi người phạm tội chiếm đoạt, sử dụng trái phép tài sản thuộc sở hữu xã hội chủ nghĩa hay sở hữu của người khác hoặc người phạm tội gây ra thiệt hại vật chất cho người khác thì ngoài TNHS họ đồng thời phải chịu trách nhiệm về dân sự. Bắt buộc người phạm tội phải trả lại những vật, tiền đã chiếm đoạt cho người sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra có ý nghĩa như là biện pháp bảo vệ tài sản của công dân cũng như tài sản thuộc sở hữu xã hội chủ nghĩa. Biện pháp tư pháp này thông thường được áp dụng đối với những người phạm các tội xâm phạm sở hữu và các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân. Trước đây, trong Sắc lệnh 150/SL ngày 15/4/1953 về việc thành lập các tòa án nhân dân đặc biệt ở những nơi phát động quần chúng thi hành chính sách ruộng đất, Sắc lệnh số 267/SL ngày 15/6/1956 trừng trị những âm mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước và nhân dân cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch nhà nước thì việc bồi thường thiệt hại được xem như hình phạt bổ sung do Tòa án đặc biệt áp dụng với người phạm tội. Quan điểm cho rằng việc bồi thường thiệt hại và trả lại tài sản đã bị chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp là hình phạt bổ sung đã hạn chế các cơ quan bảo vệ pháp luật vì nó chỉ được áp dụng theo quyết định của Tòa án mà thôi. Thế nhưng trong thực tế, biện pháp này cần được áp dụng với người phạm tội thậm chí trước giai đoạn xét xử nếu Tòa án có đầy đủ các căn cứ để miễn tố hoặc miễn TNHS cho họ. Trong các văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao sau này, bồi thường thiệt hại không được xem là hình phạt mà được coi là biện pháp dân sự trong vụ án hình sự. Tuy nhiên, chỉ tới khi Nhà nước ban hành hai pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày 21/10/1970 thì việc bồi thường thiệt hại và trả lại tài sản bị chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp được chính thức khẳng định là biện pháp tư pháp chứ không phải là hình phạt. Điều 21 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ
  • 35. 35 nghĩa ngày 21/10/1970 với tên gọi "Trả lại và bồi thường tài sản xã hội chủ nghĩa bị xâm phạm" đã quy định: "Kẻ phạm tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa phải trả lại tài sản đó cho Nhà nước hoặc cho tập thể. Nếu tài sản bị xâm phạm không còn nữa hoặc bị hư hỏng thì kẻ phạm tội phải bồi thường" và Điều 17 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày 21/10/1970 với tên gọi "Trả lại và bồi thường tài sản riêng của công dân bị xâm phạm" quy định: "Kẻ phạm tội xâm phạm tài sản riêng của công dân phải trả lại tài sản cho người có tài sản đó. Nếu tài sản bị xâm phạm không còn nữa hoặc bị hư hỏng thì kẻ phạm tội phải bồi thường". Như vậy có thể nói biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong thời kỳ này được đề cập chủ yếu trong thực tiễn xét xử. 1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 Bộ luật hình sự năm 1985 là BLHS đầu tiên kể từ khi thống nhất đất nước đã được kỳ họp thứ IX - Quốc hội khóa VII thông qua ngày 27/6/1985, có hiệu lực từ ngày 01/01/1986. Sự ra đời của BLHS năm 1985 đánh dấu một bước tiến vượt bậc trong hoạt động lập pháp, thể hiện tập trung chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước, các quy phạm pháp luật hình sự được pháp điển hóa. Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp của nước ta các biện pháp tư pháp được quy định thành một chương riêng, hoàn chỉnh - Chương V với tên gọi "Các biện pháp tư pháp". Trong BLHS năm 1985, biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" được quy định tại khoản 1 Điều 34. Điều 34: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi. 1. Người phạm tội phải trả lại những vật, tiền bạc đã chiếm đoạt cho người sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa
  • 36. 36 hoặc bồi thường các thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra [25]. Theo quy định này có hai vấn đề chưa phù hợp: Thứ nhất, chưa thống nhất giữa tên gọi và nội dung của điều luật: tên gọi của điều luật là "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" nhưng trong nội dung điều luật lại quy định "Người phạm tội phải trả lại những vật, tiền bạc đã chiếm đoạt…." như vậy vô hình chung đã xác định "Tài sản" bằng "vật, tiền bạc" rõ ràng đã hạn chế khái niệm "tài sản" bằng việc liệt kê thành hai loại là vật và tiền. Vậy nếu các loại tài sản khác như quyền sở hữu trí tuệ và các quyền tài sản khác mà bị chiếm đoạt thì sẽ phải xử lý như thế nào khi không được xác định là "tài sản". Quy định này cũng mâu thuẫn với khái niệm "tài sản" trong luật dân sự. Thứ hai, việc xác định đối tượng được trả lại tài sản bị chiếm đoạt. Theo quy định của điều luật, người phạm tội phải trả lại vật, tiền bạc bị chiếm đoạt cho "người sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp". Nếu chỉ quy định là "người sở hữu" như trong BLHS năm 1985 thì mới chỉ dừng lại ở chủ thể là cá nhân sở hữu, còn những chủ thể khác như pháp nhân có tài sản là đối tượng của tội phạm thì sẽ không phải là đối tượng điều chỉnh của biện pháp này. Như vậy, rõ ràng là không phù hợp. Ví dụ: Ngày 20/5/2012 tám đối tượng rủ nhau trộm ngao của Công ty Minh Phú, thu giữ hơn 500kg ngao thành phẩm. Trong vụ án này, các đối tượng bị bắt quả tang và tang vật là số ngao được trả lại ngay cho Công ty Minh Phú. Như vậy, nếu chỉ quy định trả lại tài sản cho "người sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp" là chưa đầy đủ và bao quát hết được các chủ thể có quyền sở hữu đối với tài sản trong trường hợp chủ sở hữu là pháp nhân. Chính những bất cập đó đã dẫn đến nhu cầu phải sửa đồi, bổ sung quy định tại BLHS năm 1999.
  • 37. 37 1.4. NGHIÊN CỨU SO SÁNH BIỆN PHÁP TƢ PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI" TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỚI BIỆN PHÁP CƢỠNG CHẾ HÌNH SỰ TƢƠNG ĐƢƠNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ CỦA LIÊN BANG NGA VÀ CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN TRUNG HOA 1.4.1. Luật hình sự Liên bang Nga Nếu như trong BLHS Việt Nam quy định hai loại biện pháp tư pháp: biện pháp tư pháp chung và biện pháp tư pháp riêng (như đã giới thiệu ở mục của luận văn) thì BLHS Liên bang Nga không có chương điều nào quy định là "biện pháp tư pháp" mà chỉ có quy định hai loại biện pháp: - Biện pháp giáo dục bắt buộc được quy định tại Điều 91 BLHS liên bang Nga: theo đó biện pháp này được áp dụng đối với người chưa thành niên lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng nếu thấy rằng có thể cải tạo được họ bằng các biện pháp giáo dục bắt buộc và bắt buộc chữa bệnh. Hệ thống các biện pháp giáo dục bắt buộc bao gồm: cảnh cáo; giao cho cha mẹ hoặc người thay cha mẹ hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát giáo dục; buộc bồi thường thiệt hại gây ra; hạn chế sự nhàn rỗi và đặt ra những yêu cầu đặc biệt trong xử sự của người chưa thành niên. - Biện pháp bắt buộc chữa bệnh được quy định thành một phần, chương riêng trong BLHS Liên bang Nga - Phần VI, Chương 15 gồm 8 điều (từ Điều 98 đến Điều 105) quy định khá đầy đủ và chi tiết từ căn cứ, mục đích, thời hạn áp dụng, các loại biện pháp bắt buộc chữa bệnh, giám sát thời gian bắt buộc chữa bệnh và áp dụng đồng thời giữa bắt buộc chữa bệnh và thi hành án. Như vậy, luật hình sự Liên bang Nga không quy định về biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" trong luật nội dung. Tuy nhiên BLTTHS của Liên bang Nga có quy định về nội dung này trong các quy định về vật chứng và giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại. Theo đó,
  • 38. 38 cũng như luật hình sự Việt Nam, đối tượng của tội phạm cũng được xác định là một trong các loại vật chứng của vụ án hình sự (khoản 2 Điều 81 BLTTHS Liên bang Nga). Vấn đề trả lại tài sản cho chủ sở hữu được quy định tại điểm 3, 4, 6 khoản 3 và khoản 4 Điều 81 BLTTHS Liên bang Nga: 3. Khi ra bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án phải giải quyết vấn đề vật chứng, theo đó: ... 3) Vật chứng là vật không có giá trị và không được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp yêu cầu trả lại thì bị tiêu hủy, trong trường hợp họ yêu cầu thì có thể trả lại cho họ. 4) Tiền bạc, vật có giá trị và các tài sản khác có được do phạm tội mà có và các lợi ích phát sinh từ các tài sản đó thì trả lại cho chủ sở hữu. …… 6) Những vật chứng khác được chuyển cho người quản lý hợp pháp, trong trường hợp không xác định được người quản lý hợp pháp thì chuyển thành sở hữu của Nhà nước. Mọi tranh chấp về quyền sở hữu đối với vật chứng được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. 4. Những vật bị thu giữ trong giai đoạn tố tụng trước khi xét xử nhưng không được coi là vật chứng thì trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý vật đó Như vậy, khi xét xử hoặc quyết định đình chỉ vụ án phải đồng thời xử lý vật chứng, một trong các quy định về xử lý vật chứng là trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Theo đó, thì ngoài tài sản có được do phạm tội mà có thì các lợi ích phát sinh từ các tài sản đó cũng là đối tượng được trả lại cho chủ sở hữu. Quy
  • 39. 39 định này khác với luật hình sự của Việt Nam, theo luật hình sự Việt Nam thì các lợi ích phát sinh từ tài sản do phạm tội mà có là một trong những nội dung người bị thiệt hại được bồi thường. Dù vậy, thực chất các lợi ích phát sinh từ tài sản do phạm tội mà có hoàn toàn không thể tịch thu sung công quỹ Nhà nước, lại càng không thể thuộc về chủ thể đã chiếm đoạt nên việc quy định phải trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp [44]. Ngoài ra khoản 2 Điều 82 BLTTHS Liên bang Nga quy định trả lại tài sản cho chủ sở hữu trong các trường hợp: 1) Đối với vật chứng là vật cồng kềnh hoặc do những nguyên nhân khác mà không thể đưa vào hồ sơ vụ án, kể cả vật chứng có số lượng lớn, việc bảo quản chúng gặp khó khăn hoặc chi phí để bảo quản chúng trong điều kiện đặc biệt tương đương với giá trị của vật chứng thì: … b) Trả lại cho người quản lý hợp pháp, nếu không ảnh hưởng đến việc chứng minh; ... 2) Đối với vật chứng là hàng hóa hoặc thực phẩm mau hỏng, cũng như những tài sản chóng bị lỗi thời một cách vô hình, việc bảo quản chúng gặp khó khăn hoặc chi phí để bảo quản chúng trong những điều kiện đặc biệt tương đương với giá trị của vật chứng thì có thể: a) Trả lại cho chủ sở hữu; b) Trong trường hợp không có khả năng để trả lại thì tổ chức bán theo quy định của Chính phủ Liên bang Nga. Số tiền bán vật chứng được đưa vào tài khoản ký quỹ hoặc của cơ quan thu giữ
  • 40. 40 vật chứng hoặc đưa vào ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác thuộc danh mục do Chính phủ Liên bang Nga quy định [44]. Về bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự được quy định trong BLTTHS Liên bang Nga như sau: Tại khoản 3 Điều 42: "Người bị hại được bảo đảm được bồi thường thiệt hại về tài sản do tội phạm gây ra và cả những chi phí trong việc họ tham gia vào quá trình điều tra và xét xử vụ án, bao gồm cả chi phí cho người đại diện…" [44] và mức bồi thường do Tòa án quyết định hoặc giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Từ quy định này chúng ta có thể hiểu rằng việc giải quyết phần bồi thường thiệt hại được tiến hành đồng thời với vụ án hình sự hoặc có thể được tách ra và giải quyết bằng một vụ án khác theo thủ tục tố tụng dân sự. Điều 44 quy định: Nguyên đơn dân sự là thể nhân hoặc pháp nhân có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất và về tinh thần khi có căn cứ cho rằng thiệt hại do tội phạm gây ra. Để tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn dân sự, họ phải có quyết định công nhận là nguyên đơn dân sự của Tòa án. Chủ thể này có quyền rút đơn yêu cầu vào bất kỳ thời điểm nào nhưng phải trước khi nghị án, việc rút đơn yêu cầu sẽ dẫn đến đình chỉ việc giải quyết bồi thường dân sự. Các quy định trên khá tương đồng với luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên trong luật hình sự Liên bang Nga việc trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, bồi thường thiệt hại không được gọi là biện pháp tư pháp và không được quy định thành chương riêng trong BLHS như nước ta mà chỉ quy định trong một số nội dung đã nêu ở trên trong BLTTHS. 1.4.2. Luật hình sự nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa Bộ luật hình sự nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa được Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc khóa V, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 01
  • 41. 41 tháng 7 năm 1979, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1980. Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, tháng 3 năm 1997 tại kỳ họp thứ 5, Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc khóa VIII đã thảo luận và sửa đổi BLHS năm 1979, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 10 năm 1997. Từ đó đến nay BLHS này đã được 5 lần sửa đổi, bổ sung; lần sửa đổi, bổ sung gần đây nhất là ngày 28 tháng 02 năm 2005 tại Hội nghị lần thứ 14 của Ủy ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc khóa X. Các biện pháp cưỡng chế hình sự được quy định trong Phần chung BLHS nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa, cụ thể tại Chương III - Hình phạt và Chương IV - Áp dụng hình phạt. Tuy nhiên, cũng như BLHS Liên bang Nga đã giới thiệu ở phần trên, trong BLHS nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa hệ thống các biện pháp cưỡng chế hình sự không có quy định nào có tên gọi là "biện pháp tư pháp" như luật hình sự Việt Nam; nhưng các quy định tương tự thì có. Tại Điều 36 Mục 1 Chương III - Hình phạt có quy định: "Nếu hành vi phạm tội còn gây thiệt hại về kinh tế, thì ngoài chế tài theo luật hình sự, còn phải căn cứ vào tình tiết cụ thể để buộc người phạm tội phải bồi thường thiệt hại kinh tế" [17]. Ngoài ra, Bộ luật này còn quy định vấn đề bồi thường cho người bị hại được ưu tiên trong trường hợp người phạm tội có trách nhiệm bồi thường dân sự, đồng thời bị xử phạt tiền, nếu toàn bộ tài sản của họ không đủ để trả hoặc bị xử tịch thu tài sản thì phải ưu tiên bồi thường dân sự cho người bị hại trước. Mục 1 Chương IV - Áp dụng hình phạt, bên cạnh các quy định về căn cứ quyết định hình phạt (Điều 61) và các nguyên tắc khi quyết định hình phạt (Điều 62, 63) thì Điều 64 có quy định về giải quyết vấn đề liên quan đến tài sản của người bị hại bị chiếm đoạt như sau: "Tất cả tài sản bất hợp pháp của người phạm tội đều buộc giao nộp hoặc yêu cầu bồi hoàn. Tài sản hợp pháp của người bị hại được hoàn trả ngay…" [17].
  • 42. 42 Như vậy, về mặt hình thức, nội dung các quy định về việc trả lại tài sản và bồi thường thiệt hại cho người bị hại không được quy định thành phần riêng mà lại được quy định thành các nội dung trong hình phạt và áp dụng hình phạt mặc dù tại các Điều 32, 33, 34 Mục 1 Chương III quy định về các loại hình phạt gồm: hình phạt chính và hình phạt bổ sung không hề đề cập trả lại tài sản cho người bị hại hoặc bồi thường thiệt hại là một loại hình phạt. Ngoài ra, chúng ta cùng tìm hiểu quy định về vấn đề này trong BLTTHS nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa. Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân dân Trung Hoa được thông qua tại kỳ họp thứ hai Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ 5 ngày 01 tháng 7 năm 1979 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1980. Đến năm 1996, Bộ luật này được sửa đổi, bổ sung tại kỳ họp thứ tư Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ VIII ngày 17 tháng 3 năm 1996 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1997 đến nay. Vấn đề bồi thường thiệt hại cho người bị hại được luật hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa xác định là vấn đề dân sự vì vậy trong BLTTHS của nước này dành một chương riêng quy định về kiện dân sự - Chương VII- Phần những quy định chung. Cụ thể: Điều 77 quy định: "Người bị hại chịu thiệt hại vật chất do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra thì có quyền yêu cầu bồi thường dân sự trong quá trình tố tụng hình sự" [17]. Điều 78 quy định: "Việc kiện dân sự phải tiến hành xét xử đồng thời với vụ án hình sự. Trong trường hợp cần thiết để tránh kéo dài thời gian xét xử vụ án hình sự, sau khi xét xử phần hình sự, Tòa án đó sẽ tiếp tục xem xét yêu cầu dân sự" [17]. Có thể thấy vấn đề dân sự có thể được giải quyết đồng thời cùng vụ án hình sự hoặc có thể tách ra giải quyết sau nếu vụ án có khả năng bị quá hạn tạm hoãn.
  • 43. 43 Khác với quy định của BLTTHS Liên bang Nga cũng như BLTTHS Việt Nam vấn đề xử lý tài sản của người bị hại được quy định trong chương về chứng cứ, BLTTHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa nội dung này lại được quy định tại Điều 198 Chương III - Thủ tục phúc thẩm thuộc Phần thứ ba - Xét xử. Cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân phải quản lý những tài sản, vật có giá trị của nghị can, bị cáo, cũng như hoa lợi phát sinh từ đó, mà họ thu giữ hoặc phong tỏa để điều tra. Không một tổ chức hoặc cá nhân nào được biển thủ hoặc xử lý tài sản đó khi chưa được phép. Tài sản hợp pháp của người bị hại phải được trả lại cho họ ngay. Những đồ vật bị cấm và dễ bị hư hỏng phải bị xử lý theo những quy định của nhà nước liên quan. Cũng theo Điều này, bất kỳ nhân viên tư pháp nào tham ô, biển thủ hoặc xử lý tiền và tài sản bất hợp pháp bị phong tỏa hoặc thu giữ cũng như hoa lợi phát sinh một cách trái pháp luật phải bị truy cứu TNHS theo luật; nếu hành vi không cấu thành tội phạm thì phải bị xử phạt hành chính. Như vậy, có thể hiểu tài sản hợp pháp của người bị hại được trả lại ngay cho họ trong giai đoạn điều tra. Bằng những phân tích các quy định trên đây, chúng ta có thể thấy luật hình sự Trung Quốc tuy không quy định việc người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc bồi thường thiệt hại là một biện pháp tư pháp trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế hình sự nhưng đã có những quy định về việc Tòa án tuyên trả lại tài sản đã bị chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc bồi thường thiệt hại cho người bị hại cũng tương tự như luật hình sự Việt Nam.
  • 44. 44 Chương 2 NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI" TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI BÌNH 2.1. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP "TRẢ LẠI TÀI SẢN, SỬA CHỮA HOẶC BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI" TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 Biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" thực chất là một loại trách nhiệm dân sự được giải quyết trong vụ án hình sự và việc quy định nó hoàn toàn phù hợp với chính sách pháp luật của Nhà nước ta. 2.1.1. Những quy định chung Bộ luật hình sự năm 1985 sau một thời gian áp dụng trên thực tế đã phát sinh một số hạn chế chính vì vậy nhu cầu sửa đổi là cần thiết. Một trong các lý do để sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1985 được xác định: Ở một chừng mực nào đó, các quan hệ xã hội trước thời kỳ đổi mới ở nước ta là sản phẩm của hạ tầng cơ sở sinh ra từ nền kinh tế quan liêu - hành chính và bao cấp, bảo thủ và trì trệ nên khi chuyển sang cơ chế thị trường thì chưa đáp ứng được các nhu cầu của thực tiễn xã hội nói chung và thực tiễn pháp lý nói riêng (kể cả pháp luật hình sự). Do đó, việc tiến hành đổi mới pháp luật hình sự - sửa đổi BLHS năm 1985 cho phù hợp với các quan hệ xã hội mới sẽ hình thành là hoàn toàn hợp lý [8, tr. 61]. Việc Quốc hội chính thức thông qua BLHS năm 1999 đã đáp ứng được yêu cầu nêu trên. BLHS mới ra đời là kết quả của quá trình pháp điển hóa lần thứ hai trên cơ sở của sự kế thừa hệ thống các nguyên tắc, chế định đã qua thực tiễn áp dụng của BLHS năm 1985 đồng thời có sự sửa đổi, bổ sung nâng cao và phát triển để những quy định trở nên phù hợp.
  • 45. 45 Trong Điều 42 BLHS năm 1999 thực chất quy định hai biện pháp: biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" và biện pháp "Buộc công khai xin lỗi". Trong phạm vi luận văn này chỉ nghiên cứu biện pháp "Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại" theo khoản 1 Điều 42. Điều 42: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi. 1. Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra. 2. Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại [27]. Đây là một trong các biện pháp hỗ trợ cho hình phạt không chỉ ngăn chặn người phạm tội phạm tội mới mà còn bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của chủ sở hữu cũng như bảo vệ các quyền khác của con người. Trong mỗi vụ án hình sự đều có khách thể nhất định bị xâm hại và có quan hệ xã hội bị phá vỡ; nếu pháp luật hình sự chỉ dừng lại ở việc trừng trị kẻ phạm tội thông qua một hình phạt nào đó thì chưa đủ, chưa khiến mọi người "tâm phục, khẩu phục" được vì những gì tội phạm gây ra là tác động thiệt hại đến những chủ thể khác. Chính vì vậy, để pháp luật thực sự đi vào lòng người, thực sự công bằng thì bên cạnh việc người phạm tội phải chịu hình phạt thì những đối tượng bị thiệt hại phải được bù đắp những tổn thất mà họ đã phải chịu. Căn cứ Điều 74 BLTTHS năm 2003 định nghĩa về vật chứng: "Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết của tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật chất có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội" [28] có thể thấy các tài sản phải trả lại theo quy định của Điều 42 BLHS năm 1999 chính là một trong số các vật chứng của vụ án hình sự - vật là đối tượng của tội phạm và việc xử lý