SlideShare a Scribd company logo
1 of 111
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ MAI HIÊN
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN,
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ
VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ MAI HIÊN
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN,
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ
VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Anh Tuấn
HÀ NỘI - 2014
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
NguyÔn ThÞ Mai Hiªn
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO
ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ
VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN
7
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự và người liên quan trong thi hành án dân sự
7
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan đến việc thi hành án
7
1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan đến việc thi hành án
11
1.2. Cơ sở của việc xây dựng các quy định về nguyên tắc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến
việc thi hành án
14
1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và
người liên quan đến việc thi hành án được xây dựng trên cơ sở
đường lối của Đảng về hoạt động tư pháp
14
1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và
người liên quan đến việc thi hành án được xây dựng trên cơ sở
các quy định của Hiến pháp và các luật chuyên ngành về bảo
vệ quyền cơ bản
15
1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và
người liên quan đến việc thi hành án xuất phát từ nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự
16
5
1.2.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và
người liên quan đến việc thi hành án xuất phát từ quyền bình
đẳng của mọi chủ thể trong quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động
17
1.3. Mối liên hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự và người liên quan với các nguyên tắc khác đến
việc thi hành án
18
1.4. Lược sử các quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án
23
1.4.1. Thời kỳ từ tháng 8/1945 đến năm 1989 23
1.4.2. Thời kỳ từ năm 1990 đến trước khi có Pháp lệnh Thi hành án
dân sự năm 1993
25
1.4.3. Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
1993 đến trước khi có Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004
26
1.4.4. Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
2004 đến khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008
28
Chương 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ NGUYÊN
TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG
SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN
31
2.1. Các quy định về thủ tục thi hành án dân sự với việc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan
31
2.1.1. Quy định về bảo đảm quyền yêu cầu thi hành án với việc bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
31
2.1.2. Quy định về từ chối, trả đơn yêu cầu thi hành án với việc bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
35
2.1.3. Quy định về trách nhiệm của người được thi hành án trong
việc cung cấp thông tin tài sản hoặc điều kiện thi hành
37
2.1.4. Quy định về quyền được tham gia vào quá trình thi hành án
của chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp
41
2.2. Các quy định về biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án
dân sự với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
và người liên quan
43
6
2.2.1. Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự với việc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan
43
2.2.2. Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự với việc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan
45
2.3. Các quy định về khiếu nại, tố cáo, kháng nghị và xử lý vi
phạm đến việc thi hành án với việc bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự và người liên quan
49
2.3.1. Về khiếu nại và giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự 49
2.3.2. Về tố cáo và giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự 51
2.3.3. Về kháng nghị và giải quyết kháng nghị về thi hành án dân sự 52
2.3.4. Về xử lý vi phạm trong thi hành án dân sự 53
2.4. Các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại với việc bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan
đến việc thi hành án
55
Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN BẢO ĐẢM QUYỀN,
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN
QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN VÀ KIẾN NGHỊ
61
3.1. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án
61
3.1.1. Về thành tựu đạt được từ thực tiễn thực hiện nguyên tắc 61
3.1.2. Về những bất cập, vướng mắc từ thực tiễn thực hiện nguyên tắc 63
3.2. Một số kiến nghị về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án
81
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án
81
3.2.2. Kiến nghị về thực hiện nguyên tắc về bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án
91
KẾT LUẬN 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TAND : Tòa án nhân dân
THADS : Thi hành án dân sự
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
8
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
3.1 Kết quả THADS giai đoạn 2006- tháng 6/2014 61
9
10
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự (THADS) là một giai đoạn của quá trình tố tụng dân
sự, giai đoạn kết thúc quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự, trong đó các bản
án, quyết định của Tòa án được đưa ra thi hành. Pháp luật THADS quy định
trình tự, thủ tục và biện pháp thi hành bản án, quyết định của Tòa án trước hết
nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án. Tuy nhiên, các
quy định này cũng phải hướng tới việc bảo đảm an toàn pháp lý cho người
phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến thi hành án.
Xét về lý luận thì bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước
có hiệu lực pháp luật phải được các đương sự tôn trọng thực hiện. Ngược lại,
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật chậm được thi hành hoặc không được
thi hành trên thực tế thì quyền lợi hợp pháp của đương sự chưa được đảm bảo
thực hiện. Việc thi hành án không đúng pháp luật cũng có thể gây tổn hại đến
quyền lợi của các đương sự khác trong thi hành án, dẫn tới nguyên tắc pháp
chế bị vi phạm, niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng và Nhà nước bị
suy giảm. Đây chính là nhiệm vụ quan trọng mà pháp luật THADS của mỗi
quốc gia đều hướng tới và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xây dựng
niềm tin vào công lý.
Xét về pháp luật thì nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được ghi nhận tại Điều 5
của Luật THADS năm 2008. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật hiện hành
về vấn đề này còn khá chung chung, thiếu tính cụ thể và thiếu cơ chế bảo đảm
thực hiện. Điều luật này dường như mới chỉ dừng lại ở quy định rất đơn giản
với nội dung: "Trong quá trình thi hành án, quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được tôn trọng và được
pháp luật bảo vệ" [33].
11
Những năm qua công tác THADS đã từng bước được đẩy mạnh và đã
thu được những kết quả to lớn. Pháp luật về THADS đã và đang được củng cố
và hoàn thiện ngày càng phù hợp với những yêu cầu mới đặt ra của sự phát
triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập hiện nay, nền kinh tế
thị trường ngày càng phát triển, các giao lưu dân sự ngày một mở rộng thì số
vụ việc tranh chấp dân sự ngày càng gia tăng dẫn đến số lượng bản án, quyết
định phải thi hành ngày càng nhiều. Do đó, chất lượng của công tác THADS
ngày càng cần phải được củng cố và tăng cường; tình trạng bản án, quyết định
tồn đọng chưa được thi hành, xâm phạm quyền lợi hợp pháp của các đương
sự trong thi hành án cần phải được giải quyết nhằm đảm bảo tính nghiêm
minh của pháp luật và tăng cường tính pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Thực tiễn công tác thi hành án cho thấy tình trạng quyền lợi hợp pháp của
người được thi hành án không được bảo đảm thực hiện do người phải thi hành
án cố tình lẩn tránh, chống đối việc thi hành án, tình trạng chậm thi hành án,
án tồn đọng vẫn còn tồn tại. Ngoài ra, hiện tượng cơ quan thi hành án vượt
quá quyền hạn của mình, thi hành án không đúng pháp luật dẫn tới xâm phạm
quyền lợi hợp pháp của người phải thi hành án và những người liên quan cũng
gây nhiều bức xúc trong xã hội.
Với những lý do phân tích trên, việc nghiên cứu một cách có hệ thống
cả về phương diện lý luận, pháp luật và thực tiễn thực hiện các quy định của
pháp luật về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và
người liên quan trong THADS là cấp thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và
thực tiễn. Với nhận thức đó, tác giả đã lựa chọn vấn đề "Nguyên tắc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành
án" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến thời điểm tác giả nghiên cứu đề tài "Nguyên tắc bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án", chưa
12
có bài viết, hay công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về nguyên tắc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS.
Trong Giáo trình Luật THADS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội
năm 2012 chỉ có 01 trang đề cập đến nội dung cơ bản của nguyên tắc này.
Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu có đề một cách gián tiếp đến nguyên
tắc này như: "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự" (Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp trường, của Trường Đại học Luật Hà Nội, do TS. Nguyễn Công
Bình làm chủ nhiệm, năm 2004); "Những điểm mới của Luật Thi hành án dân
sự năm 2008" (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà
Nội, do TS. Bùi Thị Huyền làm chủ nhiệm, năm 2011).
Về bài viết nghiên cứu có liên quan gián tiếp đến bảo đảm quyền, lợi
ích của đương sự và người liên quan trong THADS, có một số bài viết sau
đây: Bài viết "Thực tiễn thi hành và giải pháp hoàn thiện thủ tục thi hành án
dân sự" của ThS. Đinh Thị Mai Phương, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
01/2006; "Về một bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng không được thi
hành" của Nguyễn Thị Khanh, Tạp chí Kiểm sát, số 7/2009; "Trách nhiệm bồi
thường nhà nước trong hoạt động thi hành án", của Nguyễn Công Long, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, số 4/2009; "Về nghĩa vụ của người được thi hành án
trong trường hợp cơ quan thi hành án tiến hành áp dụng biện pháp cưỡng
chế" của Phạm Văn Hưng, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 02/2010 v.v...
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đã công bố mà tác giả luận văn
khảo sát nói trên cũng chỉ dừng lại ở một số nội dung cơ bản nhất hoặc liên quan
gián tiếp đến nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và
người liên quan trong THADS. Cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên
cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu và toàn diện về nguyên tắc này. Do vậy,
luận văn này là công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về nguyên tắc bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS.
Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu tác giả có kế thừa những thành quả
nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã được công bố trước đó.
13
3. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát của luận văn là hướng tới việc đánh giá một cách
khách quan và toàn diện về hiệu quả của bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan trong THADS dưới cả góc độ lập pháp và thi
hành pháp luật trên thực tế. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và thực
tiễn thực hiện nguyên tắc tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
và người liên quan trong THADS, tác giả sẽ đưa những kiến nghị, đề xuất về
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS.
4. Nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài bao gồm các vấn đề chủ yếu sau đây:
- Luận giải những vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS;
- Đánh giá thực trạng pháp luật về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS;
- Đưa ra định hướng và đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS ở nước ta.
4.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài được xác định như sau:
- Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS;
- Các quy định của pháp luật Việt Nam trong lịch sử và hiện hành về
nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan
đến việc THADS;
14
- Thực tiễn áp dụng các quy định hiện hành về nguyên tắc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà đề tài đã đặt ra; trong quá
trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng một số phương pháp luận và phương
pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
(i) Việc nghiên cứu thực hiện đề tài được dựa trên phương pháp luận
nghiên cứu khoa học duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật;
(ii) Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu chuyên ngành. Cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích, bình luận, diễn giải, phương pháp lịch sử...
được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu tổng quan những vấn đề lý luận
về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên
quan đến việc THADS
- Phương pháp so sánh luật học, phương pháp đánh giá v.v... được sử
dụng trong Chương 2 khi tìm hiểu và đánh giá các quy định của pháp luật về
nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan
đến việc THADS.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê... được sử dụng ở
Chương 3 khi đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật và đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
15
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án.
Chương 2: Nội dung các quy định hiện hành về nguyên tắc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án và kiến nghị.
16
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN,
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN
ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN
1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN,
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự và ngƣời liên quan đến việc thi hành án
Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói
chung và trong quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Hoạt động THADS là hoạt
động cuối cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành,
góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, pháp chế XHCN, bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững
ổn định chính trị, xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Chính vì lẽ đó, vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng của thi hành án nói
chung, THADS nói riêng đã được khẳng định ngay tại Điều 106 Hiến pháp
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013: "Bản án, quyết định của Tòa án
nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng;
cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành" [35].
Thi hành án dân sự là một dạng hoạt động mang tính hành chính - tư
pháp nhằm thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, bảo đảm
hiệu lực thực tế của các bản án của Tòa án. Hoạt động này do cơ quan
THADS của Nhà nước hoặc chủ thể được Nhà nước trao quyền trực tiếp thực
hiện. Hoạt động THADS được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do
pháp luật quy định nhằm đảm bảo công bằng và bảo đảm quyền lợi hợp pháp
của các chủ thể trong thi hành án. Vì vậy, để đảm bảo cho hoạt động THADS
17
có hiệu quả, pháp luật THADS Việt Nam cần phải đặt ra những nguyên tắc
làm nền tảng căn bản cho việc xây dựng các quy định cụ thể về trình tự, thủ
tục và biện pháp THADS đáp ứng yêu cầu về bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS.
Các nguyên tắc này là những tư tưởng pháp lí cơ bản, chủ đạo, chi
phối và quyết định tổ chức và hoạt động THADS; phản ánh quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về THADS, xuyên suốt các quy phạm pháp luật
THADS và thể hiện những đặc trưng của hoạt động THADS.
Trong đó, nguyên tắc làm nền tảng chủ đạo, xuyên suốt trong hoạt
động THADS là nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
và người liên quan đến việc THADS. Việc ghi nhận nguyên tắc này trong
pháp luật là sự phản ánh khách quan của hoạt động THADS vì mục đích của
THADS là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mọi chủ thể có quyền lợi liên
quan trong THADS.
Thuật ngữ "bảo đảm" trong tiếng Việt là "làm cho chắc chắn". Do vậy,
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong
THADS là làm cho quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan
trong THADS chắc chắn có thể thực hiện được [43, tr. 120].
Về quy định tại Điều 5 của Luật THADS năm 2008, thì bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nghĩa
là trong quá trình THADS, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự và người liên quan trong THADS, ta cần phải làm rõ về
bản chất của đương sự và người liên quan trong THADS. Đây là yếu tố xác
định chủ thể có quyền lợi cần được bảo vệ.
Xét về thuật ngữ pháp lý thì thuật ngữ "đương sự" và người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan cũng cần được nghiên cứu làm rõ. Theo TS. Bùi Thị
18
Huyền thì: "Đương sự trong thi hành án dân sự là người có quyền và nghĩa vụ
liên quan trực tiếp đến việc thi hành án dân sự, tham gia vào quá trình thi hành
án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình" [25, tr. 98].
Đương sự trong THADS thông thường chính là đương sự trong vụ việc dân
sự. Đương sự trong thi hành án chính là những người được hưởng quyền hoặc
phải thực hiện nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định.
Khái niệm về đương sự trong THADS đã từng được ghi nhận tại Điều 3
Pháp lệnh THADS năm 2004 theo hướng:
Bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật phải
được người phải thi hành án, người được thi hành án, người có
quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án (gọi chung là đương
sự) nghiêm chỉnh thi hành và được các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ
trang nhân dân và cá nhân tôn trọng [41].
Tuy nhiên, phạm vi chủ thể được coi là đương sự đã bị thu hẹp hơn
trong Luật THADS năm 2008. Theo Khoản 1 Điều 3 Luật THADS thì các
đương sự trong THADS chỉ bao gồm: Người được thi hành án và người phải
thi hành án. Quy định này không bao quát hết được tất cả các đối tượng có
quyền và lợi ích hợp pháp cần được xem xét, bảo vệ trong quá trình THADS
và khó có thể "định danh" người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong THADS
thuộc loại nào trong số các chủ thể có quyền lợi liên quan đến việc THADS.
Từ đó dẫn tới tên gọi của nguyên tắc về bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự tại Điều 5 của Luật THADS năm 2008 được mô tả khá dài dòng là
nguyên tắc "Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan" [33] và Khoản 1 Điều 3 của Luật này giải thích theo
hướng người được thi hành án là cá nhân, tổ chức được hưởng quyền và lợi
ích trong bản án, quyết định được thi hành. Người phải thi hành án là cá nhân,
tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành.
Người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong THADS là cá nhân, cơ quan, tổ
chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thi hành án.
19
Khi nghiên cứu về nguyên tắc này, TS Nguyễn Công Bình khẳng định
rằng: "... việc thi hành án dân sự không những phải bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của các đương sự mà còn phải bảo đảm cả quyền, lợi ích hợp pháp
của những người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án dân sự,
không được xâm phạm, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ" [1].
Tác giả này cũng đã chỉ ra cụ thể về yêu cầu của nguyên tắc như sau:
- Trong THADS phải tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Việc tổ chức THADS phải đúng pháp luật và đúng nội dung bản án,
quyết định được thi hành để bảo đảm quyền, lợi ích của người được thi hành
án, người phải thi hành án và không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp
của những người liên quan đến việc THADS.
- Bảo đảm cho người được thi hành án, người phải thi hành án và
những người liên quan đến việc THADS được tham gia vào quá trình thi hành
án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ và bảo đảm quyền khiếu nại của
họ đối với các hành vi trái pháp luật trong thi hành án.
Ngoài ra, trong những trường hợp bán tài sản kê biên của người phải
thi hành án thuộc sở hữu chung với người thứ ba thì họ phải được ưu tiên mua
trước. Nếu người sở hữu tài sản chung với người phải thi hành án không mua
thì việc bán tài sản đó cho người khác cũng phải theo đúng quy định của pháp
luật thi hành án để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của họ [1, tr. 64-65].
Như vậy, về mặt pháp luật thì nội dung của nguyên tắc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
theo quy định tại Điều 5 của Luật THADS năm 2008 mới chỉ thể hiện được
chủ thể có quyền lợi cần được tôn trọng và bảo vệ đồng thời việc tôn trọng,
bảo vệ này là theo quy định của pháp luật mà chưa bao quát được các nội
dung như việc tổ chức THADS phải đúng pháp luật và đúng nội dung bản án,
quyết định được thi hành, không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của
20
những người liên quan đến việc THADS; bảo đảm cho chủ thể có quyền lợi
được thực hiện quyền yêu cầu thi hành án, tham gia vào quá trình thi hành án
và bảo đảm quyền khiếu nại của họ đối với các hành vi trái pháp luật trong thi
hành án; bảo đảm quyền ưu tiên mua của các đồng sở hữu chủ đối với tài sản
bị kê biên. Ngoài ra, theo nghiên cứu của chúng tôi thì nguyên tắc này theo
pháp luật hiện hành cũng chưa thể hiện được nội dung về chủ thể có trách
nhiệm phải bảo đảm quyền lợi như cơ quan thi hành án, Thừa phát lại và các
chủ thể có trách nhiệm hỗ trợ, phối hợp trong THADS.
Từ những phân tích trên, tác giả mạnh dạn đưa ra khái niệm về nguyên
tắc như sau: Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và
người liên quan trong THADS là tư tưởng pháp lý chủ đạo, có tính bắt buộc
chung, được quy định trong pháp luật THADS, theo đó cơ quan thi hành án,
Thừa phát lại và các chủ thể có trách nhiệm hỗ trợ, phối hợp trong THADS
phải tổ chức THADS theo đúng pháp luật và đúng nội dung bản án, quyết
định được thi hành, không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các
chủ thể có quyền lợi và bảo đảm cho họ thực hiện quyền yêu cầu thi hành án,
được tham gia vào quá trình thi hành án để bảo vệ quyền lợi của mình và thực
hiện quyền khiếu nại đối với các hành vi trái pháp luật trong thi hành án.
1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của đƣơng sự và ngƣời liên quan đến việc thi hành án
Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người
liên quan trong THADS là nguyên tắc có ý nghĩa cả về chính trị, xã hội và
pháp lý.
1.1.2.1. Ý nghĩa chính trị
Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
và người liên quan trong THADS có ý nghĩa chính trị sâu sắc:
Nguyên tắc này là một trong những nguyên tắc cụ thể hóa các quy
định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân; tôn trọng hiệu lực
21
của phán quyết của Tòa án được ghi nhận tại Điều 50 và Điều 136 Hiến pháp
năm 1992 (nay là Điều 14 và Điều 106 Hiến pháp năm 2013) và được quy
định cụ thể hơn tại Điều 5 Luật THADS năm 2008. Việc quy định bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS
chứng tỏ ở nước ta, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, các quyền công dân ngày
càng được tôn trọng và bảo đảm thực hiện.
Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và
người liên quan trong THADS thể hiện bản chất tốt đẹp của Nhà nước pháp
quyền và dân chủ:
Với công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, chúng ta đã đạt được
những thành quả to lớn, đặc biệt là phát huy toàn diện quyền tự do dân chủ
của công dân, bảo đảm các quyền của con người. Việc Hiến pháp và các văn
bản pháp luật ghi nhận quyền bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
và người liên quan trong THADS thành một nguyên tắc và quy định cơ chế
bảo đảm việc thực hiện đã thể hiện tinh thần thượng tôn pháp luật và bản chất
dân chủ của Nhà nước ta luôn lấy con người là mục tiêu, trung tâm và là động
lực cho sự phát triển của đất nước.
1.1.2.2. Ý nghĩa xã hội
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân
và vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật. Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
và người liên quan trong THADS là một biểu hiện của nền dân chủ XHCN;
làm cho công tác THADS chính xác, khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên
quan là nguyên tắc mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, thể hiện tính nhân đạo trong
THADS ở Việt Nam.
Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người
liên quan là một biểu hiện của tính dân chủ trong hoạt động THADS.
22
Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên
quan trong THADS đã tạo điều kiện thuận lợi cho người được thi hành án,
người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có chủ động
trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong hoạt động
THADS, đảm bảo cho THADS có hiệu quả cao nhất, tạo được niềm tin đối
với các bên tham gia THADS.
Việc quy định nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự và người liên quan trong THADS góp phần tích cực vào việc bảo vệ pháp
chế XHCN, củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân vào hoạt động của
thiết chế THADS.
1.1.2.3. Ý nghĩa pháp lý
Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người
liên quan là cơ sở pháp lý quan trọng để đương sự, người có quyền lợi hợp
pháp liên quan trong thi hành án có thể sử dụng để bảo vệ quyền lợi của mình
khi cơ quan thi hành án, Thừa phát lại tổ chức việc thi hành án.
Đối với cơ quan tiến hành tố tụng, việc quy định nguyên tắc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan là cơ sở pháp lý để
đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án đồng thời là cơ sở để cơ
quan thi hành án, Thừa phát lại ra các quyết định cần thiết để tổ chức việc thi
hành án. Ngoài ra, nguyên tắc này cũng là tư tưởng pháp lý chỉ đạo mà các
chủ thể tiến hành và phối hợp trong thi hành án phải tuân thủ. Trong quá trình
THADS, các chủ thể này phải căn cứ vào bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật, các quy định của pháp luật nội dung và pháp luật THADS để bảo
đảm hài hòa và không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bảo đảm cho họ được tham gia vào
quá trình thi hành án để bảo vệ quyền lợi của mình và thực hiện quyền khiếu
nại đối với các hành vi trái pháp luật trong thi hành án.
23
1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC XÂY DỰNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ NGUYÊN TẮC
BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN
QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN
1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự
và ngƣời liên quan đến việc thi hành án đƣợc xây dựng trên cơ sở đƣờng
lối của Đảng về hoạt động tƣ pháp
Nhận thức tầm quan trọng của việc bảo vệ các quyền dân sự, kinh tế
của công dân, từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta đã chú
trọng trong việc đề ra các chủ trương, chính sách nhằm bảo vệ các quyền này
của công dân trong hoạt động tư pháp. Chủ trương bảo vệ các quyền căn bản
trong hoạt động tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số
49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị đã
chỉ ra định hướng cơ bản của việc cải cách tư pháp nước ta. Cụ thể là cần phải
"Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình
đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia
và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp..." [17, tr. 5]. Tiếp theo đó,
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: "Cải cách
tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội…" [18, tr. 2]. Nghị quyết này cũng chỉ ra những nhiệm vụ trọng tâm trong
việc hoàn thiện thủ tục tố tụng tư pháp. Đó là cần phải "Hoàn thiện các thủ
tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn
trọng và bảo vệ quyền con người", "Nghiên cứu chế định Thừa phát lại (Thừa
hành viên); trước mắt, có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương" [18].
Có thể thấy THADS có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các quyền
dân sự, kinh tế của công dân. Bản án, quyết định của Tòa án chỉ thực sự có
24
giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án là công đoạn cuối
cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành, góp phần
bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế XHCN; bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn
định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Việc ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và
người liên quan trong pháp luật THADS là sự cụ thể hóa đường lối, chính
sách của Đảng về bảo vệ các quyền cơ bản của công dân.
Việc ghi nhận nguyên tắc này trong các văn bản pháp luật về THADS
không nằm ngoài mục đích bảo vệ tốt hơn quyền của người được thi hành án,
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước dược ghi nhận
trong phán quyết của cơ quan tư pháp, xác định rõ trách nhiệm của cơ quan
thi hành án, Chấp hành viên, Thừa phát lại; xác định rõ hơn trách nhiệm, cơ
chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan trong hoạt động THADS,
cũng như công tác quản lý Nhà nước về THADS; nâng cao hiệu quả hoạt
động thi hành án, kỷ cương phép nước và tính nghiêm minh của pháp luật.
1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự
và ngƣời liên quan đến việc thi hành án đƣợc xây dựng trên cơ sở các quy
định của Hiến pháp và các luật chuyên ngành về bảo vệ quyền cơ bản
Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người
liên quan trong THADS là sự cụ thể hóa các quy định tại Điều 14 và Điều 106
Hiến pháp năm 2013.
Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định:
1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền
con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
pháp luật.
25
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế
theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng [35].
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 106 Hiến pháp năm 2013 thì "Bản án,
quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ
chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm
chỉnh chấp hành" [35].
Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người
liên quan trong THADS còn là sự cụ thể hóa các quy định về nguyên tắc tôn
trọng, bảo vệ quyền dân sự được quy định tại Điều 9 Bộ luật Dân sự. Cụ thể
là theo quy định tại Khoản 1 Điều luật này thì tất cả các quyền dân sự của cá
nhân, pháp nhân, chủ thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ... Khi
quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ
theo quy định của Bộ luật này hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
công nhận quyền dân sự của mình; buộc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi,
cải chính công khai; thực hiện nghĩa vụ dân sự hoặc bồi thường thiệt hại. Khi
Tòa án đã ra phán quyết thì quyền lợi hợp pháp của đương sự đã được ghi
nhận trong bản án, quyết định của Tòa án được tôn trọng và được pháp luật
bảo vệ trong quá trình THADS. Ngoài ra, quyền lợi của người liên quan
không phải là đương sự theo bản án, quyết định cũng cần được tôn trọng và
bảo vệ theo tinh thần của Điều 14, Điều 106 Hiến pháp năm 2013 và Điều 9
Bộ luật Dân sự.
1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự
và ngƣời liên quan đến việc thi hành án xuất phát từ nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự
Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân (TAND) đã có hiệu lực
pháp luật phải được cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các
26
đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị
hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Vì vậy, tham gia vào quá trình THADS
có rất nhiều các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhau, trong đó cơ quan có
thẩm quyền tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực thi
hành của Tòa án, trọng tài và hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh được gọi là cơ
quan THADS.
Cơ quan THADS là cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
trong việc thi hành các bản án, quyết định dân sự. Hoạt động của cơ quan
THADS một mặt bảo đảm việc thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, thể
hiện sự tôn trọng của xã hội, của công dân đối với phán quyết của Tòa án,
Trọng tài và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, mặt khác là công cụ hữu hiệu
để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội.
Để tăng cường hiệu quả công tác THADS, bảo vệ các quyền, lợi ích
hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, các cơ quan THADS phải tuân thủ nghiêm
ngặt trình tự, thủ tục, thời hạn thi hành án mà pháp luật quy định, không cá
nhân, cơ quan tổ chức nào, kể cả các cơ quan quản lí thi hành án được can
thiệp không đúng chức năng, nhiệm vụ vào hoạt động tác nghiệp của của cơ
quan THADS. Các quyết định của cơ quan THADS có giá trị bắt buộc các chủ
thể khác phải chấp hành. Mọi hành vi chống đối, cản trở trong việc thi hành
các quyết định của cơ quan THADS đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.
1.2.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự
và ngƣời liên quan đến việc thi hành án xuất phát từ quyền bình đẳng
của mọi chủ thể trong quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh,
thƣơng mại, lao động
Về tính chất, các tranh chấp trong quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động là trách nhiệm giữa các công dân với nhau.
Khi các tranh chấp xảy ra, các đương sự được quyền tự do bình đẳng thể hiện
ý chí của mình, được bảo vệ và tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
27
bằng cách yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Và chỉ khi có
yêu cầu của đương sự và khi nhận được yêu cầu của đương sự thì các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền nói chung, cơ quan THADS nói riêng mới được tiến
hành xem xét và giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng, kịp thời để bảo vệ
quyền và lợi ích của đương sự.
Vì vậy, cơ chế bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người
liên quan trong THADS được thiết lập trên cơ sở bảo đảm sự bình đẳng giữa
các chủ thể. Cụ thể như sau:
+ Các đương sự phải được tham gia vào quá trình thi hành án và được
tống đạt, thông báo hợp lệ để bảo vệ quyền lợi của mình;
+ Việc bảo vệ quyền lợi của đương sự này không được xâm phạm
quyền lợi hợp pháp của các đương sự khác và các chủ thể có quyền lợi hợp
pháp có liên quan;
+ Có cơ chế chống lạm quyền như việc kiểm tra, giám sát hoạt động
của cơ quan THADS và bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của tất cả các đương
sự và các chủ thể có liên quan trong thi hành án; có cơ chế bồi thường cho các
chủ thể có quyền lợi hợp pháp nếu cơ quan THADS gây tổn hại.
Như vậy, từ những luận giải trên cho thấy quyền bình đẳng của mọi
chủ thể trong quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động là cơ sở để xây dựng nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan trong THADS.
1.3. MỐI LIÊN HỆ GIỮA NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH
HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN VỚI CÁC NGUYÊN TẮC
KHÁC ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN
Nguyên tắc bảo đảm nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan là nguyên tắc có mối quan hệ hữu cơ gắn bó với
một loạt các nguyên tắc khác của THADS.
28
- Trong THADS, nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan và nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án,
quyết định có mối quan hệ mật thiết
Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định tức là mọi bản
án, quyết định được quy định phải được cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn
trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan trong phạm vi trách nhiệm của
mình chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định và phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về việc thi hành án.
Xét xử và thi hành án là hai mặt của quá trình thống nhất và thể hiện
quyền lực nhà nước, đảm bảo quyền, lợi ích của các bên trong THADS.
Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định biểu hiện tính pháp chế
trong THADS. Thực hiện nguyên tắc này không những làm cho hiệu lực của
bản án, quyết định được thi hành trên thực tế mà còn đảm bảo cho quyền lợi
hợp pháp của đương sự được thực hiện theo đúng phán quyết của Tòa án.
Nhờ đó mà nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và
người liên quan trong THADS được tôn trọng thực hiện.
Ngược lại, nếu các chủ thể tổ chức thi hành án thực hiện tốt nguyên
tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong
thi hành án thì không những góp phần làm cho việc thi hành án được đúng
theo bản án, quyết định mà còn bảo đảm được quyền lợi của những người liên
quan tới việc thi hành án, các chủ thể có quyền lợi có điều kiện để thực hiện
các quyền tố tụng của mình trong THADS.
- Nguyên tắc bảo đảm quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự là
một trong những nội dung quan trọng của nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự và người liên quan
Sau khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thì quyền, lợi ích hợp
pháp của các đương sự chỉ được bảo đảm thực hiện nếu bản án, quyết định
được thi hành trên thực tế, nhất là đối với người được thi hành án.
29
Nguyên tắc quyền yêu cầu THADS được ghi nhận tại Điều 7 Luật
THADS năm 2008: Người được thi hành án, người phải thi hành án căn cứ vào
bản án, quyết định có quyền yêu cầu cơ quan THADS tổ chức thi hành án.
Để bảo đảm quyền này của các đương sự và người liên quan, Tòa án,
cơ quan và tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phải cấp cho họ bản
án, quyết định trong thời hạn pháp luật quy định. Khi cấp cho các đương sự
bản án, quyết định các cơ quan, tổ chức này phải giải thích cho các đương sự
quyền yêu cầu THADS của họ và thời hiệu yêu cầu THADS. Đây là một
trong những biểu hiện của nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan trong THADS.
- Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan với các nguyên tắc tự nguyện và cưỡng chế thi
hành án; trách nhiệm bồi thường thiệt hại; trách nhiệm phối hợp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân với cơ quan THADS và chấp hành viên
Thi hành án dân sự là hoạt động phức tạp, hiệu quả của nó phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố; trong thi hành án, việc đương sự tự nguyện THADS là
tốt nhất, vừa thuận lợi cho việc tổ chức thi hành án vừa giảm các chi phí cho
việc thi hành án. Vì vậy, Nhà nước khuyến khích các đương sự tự nguyện thi
hành án. Tuy vậy, thực tế THADS cho thấy không ít trường hợp sau khi được
giáo dục thuyết phục đương sự vẫn không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ
THADS của họ. Trong trường hợp này, để bảo đảm hiệu lực của bản án,
quyết định phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án cần thiết để kết
thúc việc thi hành án, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi
hành án. Tuy nhiên, việc kết hợp hài hòa giữa bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của người được thi hành án và quyền, lợi ích hợp pháp của người phải
thi hành án và người liên quan khác trong THADS là cần thiết.
Hiệu quả của việc THADS phụ thuộc rất lớn vào việc cơ quan THADS,
các cá nhân, cơ quan và tổ chức có trách nhiệm phối hợp trong THADS có
30
thực hiện đúng, đầy đủ các quyền hạn, nhiệm vụ của họ hay không. Vì vậy,
việc đề cao trách nhiệm của các chủ thể tổ chức thi hành án và trách nhiệm
của các cá nhân, cơ quan tổ chức có mối quan hệ phối hợp với cơ quan
THADS là cần thiết. Từ đó, vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
THADS được đặt ra là nguyên tắc cơ bản của luật THADS, cũng là biểu hiện
cho việc bảo vệ quyền của đương sự và người liên quan trong THADS.
Đồng thời, tuy cơ quan THADS và chấp hành viên được thực hiện
quyền lực của Nhà nước để tổ chức thi hành án, giữ vai trò chủ đạo tổ chức
thi hành án, nhưng trong những trường hợp đương sự chây ỳ, chống đối nếu
không có sự phối hợp, giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức và các nhân khác thì
việc thi hành án vẫn khó có thể thực hiện có hiệu quả. Việc bảo đảm sự phối
hợp giữa các cơ quan, tổ chức và các nhân trong THADS sẽ tạo được sức
mạnh tổng hợp trong việc giáo dục, thuyết phục đương sự thi hành án và tổ
chức cưỡng chế trong THADS có tác dụng nâng cao hiệu quả THADS, đảm
bảo được quyền lợi của các bên trong THADS.
- Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan với các nguyên tắc thỏa thuận trong THADS và
nguyên tắc tiếng nói, chữ viết dùng trong THADS
Trong giao lưu dân sự, các đương sự có quyền tự do cam kết, thỏa
thuận xác lập các quyền, nghĩa vụ dân sự phù hợp với pháp luật. Vì vậy, trong
quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự thì đương sự vẫn có quyền tự định
đoạt. THADS là một giai đoạn của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự và người liên quan nên trong giai đoạn này các đương sự vẫn có
quyền tự định đoạt, trong đó có quyền thỏa thuận THADS. Có thể coi quyền
thỏa thuận trong THADS là một phương tiện để các đương sự có thể sử dụng
để bảo đảm hơn quyền lợi của mình, giúp cho việc THADS được nhanh
chóng và hiệu quả hơn.
Đồng thời, trong nhiều vụ việc có đương sự là người thuộc các dân tộc
khác nhau, thậm chí có cả người nước ngoài tham gia. Về nguyên tắc, tiếng
31
nói, chữ viết trong THADS là tiếng Việt. Tuy nhiên, để thực hiện được việc
THADS, bảo vệ hài hòa quyền lợi của các bên thì các đương sự đều được tạo
điều kiện như nhau trong việc sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình
trong THADS. Đây là vấn đề có ý nghĩa cả về pháp lí và chính trị. Về chính
trị, nó bảo đảm sự bình đẳng giữa các công dân thuộc các dân tộc. Về pháp lí,
nó bảo đảm cho việc tổ chức THADS được thuận lợi.
- Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan với nguyên tắc giám sát, kiểm sát hoạt động
trong THADS
Hoạt động của cơ quan THADS và các cơ quan nhà nước khác trong
tổ chức THADS là hoạt động thực hiện quyền lực của nhà nước trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan. Hoạt động
này chỉ phát huy được tác dụng của nó khi tiến hành đúng theo quy định của
pháp luật. Vì vậy, để đảm bảo cho hoạt động của các cơ quan này trong
THADS tiến hành đúng pháp luật thì phải kiểm tra, giám sát chúng.
Qua kiểm tra, giám sát các hoạt động THADS sẽ nâng cao được trách
nhiệm thi hành án của cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc
THADS, phát hiện và xử lí kịp thời các vi phạm pháp luật trong THADS, bảo
đảm việc THADS nhanh chóng và đúng đắn, tránh tình trạng xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong THADS.
Tóm lại, có thể nói, nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan trong THADS là nguyên tắc cơ bản và có tầm
quan trọng lớn. Từ góc nhìn như phân tích ở trên, tất cả các nguyên tắc trên
đều hướng tới việc bảo đảm quyền, lợi ích của chủ thể có quyền lợi trong thi
hành án nhưng nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và
người liên quan trong THADS là nguyên tắc có ý nghĩa trực tiếp và nhấn
mạnh nhất tới việc bảo đảm quyền lợi của người được thi hành án nhưng
không được xâm hại tới quyền lợi hợp pháp của người phải thi hành án và các
chủ thể có quyền lợi liên quan tới việc thi hành án.
32
Các nguyên tắc khác của THADS đã được phân tích ở trên đều có
quan hệ gắn bó mật thiết với nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự và người liên quan trong THADS và nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS chỉ có ý nghĩa
khi việc bảo đảm cho nguyên tắc này được thực hiện đồng bộ với việc thực
hiện các nguyên tắc nêu trên.
1.4. LƢỢC SỬ CÁC QUY ĐỊNH VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN,
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THI
HÀNH ÁN
1.4.1. Thời kỳ từ tháng 8/1945 đến năm 1989
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước khi có Pháp
lệnh THADS năm 1989, công tác THADS đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
Tòa án; dù chưa được quy định rõ nét và nổi bật, nhưng nguyên tắc bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong THADS đã được đề cập qua khá
nhiều văn bản pháp luật thời kì này.
- Giai đoạn 1945 đến 1949:
Trước cách mạng tháng Tám, ở nước ta đã tồn tại chế định Thừa phát
lại. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chế định Thừa phát lại tiếp tục được
duy trì. Tại Nghị định số 37 ngày 01/12/1945 về tổ chức Bộ Tư pháp, phòng
giám đốc Hộ vụ được thành lập, trong đó có Ban công lại thực hiện nhiệm vụ
quản lý tổ chức Thừa phát lại. Cũng theo tinh thần Sắc lệnh ngày 10/10/1945,
những quy định về thủ tục THADS tiếp tục được áp dụng, đáp ứng yêu cầu
của hoạt động tư pháp trong những năm đầu của chính quyền cách mạng.
Tuy nhiên, tổ chức Thừa phát lại - hình thức tổ chức và hoạt động
THADS đầu tiên của chế độ mới, không còn mang ý nghĩa là công cụ của
chính quyền thực dân phong kiến như trước đây, mà trở thành công cụ đắc
lực trong việc thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực của TAND, bảo vệ
quyền và lợi ích của các bên trong THADS.
33
Rõ ràng Nhà nước không chỉ tôn trọng quyền tự định đoạt của các
đương sự trong giao lưu dân sự, thương sự và tố tụng mà còn đảm bảo quyền
tự định đoạt của đương sự trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình bằng
sự cưỡng chế của Nhà nước.
- Giai đoạn từ tháng 5 - 1950 đến năm 1980:
Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL về "Cải
cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng" tạo nên sự thay đổi có tính chất bước
ngoặt trong tổ chức và hoạt động tư pháp nói chung và tổ chức hoạt động
THADS nói riêng.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức
TAND năm 1960. Điều 24 của Luật này đã xác định: "Tại các Tòa án nhân
dân địa phương có nhân viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản
án và quyết định dân sự, những khoản xử về bồi thường và tài sản trong các
bản án, quyết định hình sự". Vấn đề vị trí, chức năng, nhiệm vụ của nhân viên
chấp hành án được xác định rõ trong Luật tổ chức TAND đã tạo cơ sở pháp lý
quan trọng cho việc tổ chức và hoạt động THADS.
Như vậy, nét đặc trưng trong nội dung quy định của Điều lệ tạm thời,
cũng như các văn bản pháp luật trong thời kỳ này là khẳng định trách nhiệm
chủ động của Nhà nước đối với việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa
án; nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên
quan bị hạn chế do việc tự định đoạt của đương sự trong quá trình thi hành án
không được ghi nhận, việc thi hành án thể hiện tính chất "bao cấp" nặng nề,
vừa làm hạn chế hiệu quả công tác thi hành án do không phát huy được tính
chủ động và trách nhiệm của đương sự trong quá trình thi hành án.
- Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1989:
Với sự ra đời của Hiến pháp năm 1980, nhiều đạo luật về tổ chức của
bộ máy nhà nước cũng được ban hành nhằm kiện toàn bộ máy nhà nước, phân
định rõ chức năng của từng loại cơ quan, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà
34
nước bằng pháp luật. Điều 16 của Luật tổ chức TAND năm 1981 đã giao cho
Bộ Tư pháp (mới được thành lập lại sau hơn 20 năm giải thể) đảm nhiệm
công tác quản lý TAND địa phương về mặt tổ chức. Nghị định số 143-HĐBT
ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp đã quy định: Bộ Tư pháp có chức năng
quản lý TAND địa phương về mặt tổ chức, trong đó bao gồm cả việc quản lý
công tác THADS.
Có thể thấy rằng, trong thời kỳ này tổ chức bộ máy cũng như nguyên
tắc hoạt động của cơ quan thi hành án chưa được chú trọng. Cơ chế quản lý và
tổ chức thi hành án chưa tạo được vị trí của Chấp hành viên tương xứng với
yêu cầu của nhiệm vụ đặt ra. Mặt khác, tổ chức và hoạt động thi hành án là
một giai đoạn khép kín trong Tòa án và tùy thuộc vào sự chỉ đạo của Chánh
án TAND địa phương. Nhiều năm liền mối quan tâm chú trọng của Tòa án
vẫn dành cho công tác xét xử, còn công tác thi hành án không được quan tâm
đúng mức. Điều này dẫn đến tình trạng án xét xử xong không được thi hành
chiếm tỉ lệ ngày càng lớn trong lượng án phải thi hành hàng năm, quyền và lợi
ích của đương sự và người liên quan chưa được quan tâm và đảm bảo.
1.4.2. Thời kỳ từ năm 1990 đến trƣớc khi có Pháp lệnh Thi hành
án dân sự năm 1993
Pháp lệnh THADS ngày 28/8/1989, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/1990, việc tập trung thống nhất những quy định về THADS vào một
hình thức văn bản pháp lý có hiệu lực cao đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc
áp dụng pháp luật trong việc THADS, góp phần bảo đảm hiệu lực của các bản
án, quyết định về dân sự của Tòa án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
Nhà nước, của tập thể và công dân, góp phần tăng cường pháp chế XHCN.
Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người
liên quan lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều 7 Pháp lệnh THADS ngày
28/8/1989, theo đó "Người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến việc thi
35
hành án được tham gia vào việc thi hành án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình" [24]. Theo quy định này việc THADS không những phải bảo đảm
quyền lợi của người được thi hành án mà còn phải bảo đảm cả quyền tham gia
của người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến việc thi hành án để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Theo Pháp lệnh này, cơ chế kết hợp quyền tự định đoạt của đương sự
với sự chủ động của cơ quan thi hành án và Chấp hành viên được ghi nhận.
Theo đó, người được thi hành có quyền yêu cầu người phải thi hành án thi
hành những phán quyết của Tòa án, nhưng cũng có quyền tự hòa giải, thỏa
thuận với người phải thi hành án về phương thức thi hành. Như đã phân tích ở
trên về mối liên hệ giữa các nguyên tắc thì có thể coi quyền thỏa thuận trong
THADS là một phương tiện để các đương sự có thể sử dụng để bảo đảm hơn
quyền lợi của mình, giúp cho việc THADS được nhanh chóng và hiệu quả hơn.
1.4.3. Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
1993 đến trƣớc khi có Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004
Đầu những năm 1990, công cuộc đổi mới nói chung và cải cách bộ
máy nhà nước nói riêng đã được tiến hành một cách khá tích cực, khẩn
trương. Hiến pháp năm 1992 và các Luật về tổ chức bộ máy nhà nước được
Quốc hội khóa IX thông qua vào tháng 10/1992, đã đặt ra những nguyên tắc
nền tảng cho quá trình cải cách Tư pháp, trong đó công tác THADS được đổi
mới một cách cơ bản. Khác với Luật Tổ chức TAND năm 1981, Luật Tổ chức
TAND năm 1992 không quy định thẩm quyền của TAND trong việc thi hành
án. Trong khi đó Luật Tổ chức Chính phủ năm 1992 lần đầu tiên đã xác định
việc "quản lý công tác thi hành án" là một trong những nhiệm vụ và quyền
hạn của Chính phủ trong lĩnh vực pháp luật và hành chính tư pháp. Pháp lệnh
THADS ban hành ngày 21/4/1993, có hiệu lực ngày 01/6/1993 đã thay thế
Pháp lệnh THADS ban hành ngày 28/8/1989. Tại Điều 8 Pháp lệnh này đã
tiếp tục ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người có
36
liên quan đến việc thi hành án. Theo đó, "người có quyền, lợi ích hợp pháp
liên quan đến việc thi hành án được tham gia vào việc thi hành án để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình" [40].
Như vậy, tại thời kì này, ngoài việc chú trọng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự tại Điều 2 Pháp lệnh THADS ban hành ngày 21/4/1993
theo hướng bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được
các đương sự nghiêm chỉnh thi hành, các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân tôn trọng thì Pháp lệnh
này cũng đã quan tâm và tôn trọng việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
người có liên quan đến việc thi hành án.
Điểm khác biệt căn bản nhất của Pháp lệnh THADS năm 1993 so với
Pháp lệnh THADS năm 1989 chính là ở các quy định về chủ thể chính có
trách nhiệm bảo đảm quyền lợi của đương sự và người liên quan trong
THADS. Theo Pháp lệnh THADS năm 1989, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm
quyền lợi của đương sự và người liên quan trong THADS, còn theo Pháp lệnh
THADS năm 1993 thì nhiệm vụ này được chuyển giao cho hệ thống các cơ
quan THADS.
Việc quy định chặt chẽ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Chấp
hành viên và quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh này
đã khẳng định địa vị pháp lý của đội ngũ Chấp hành viên trong tổ chức bộ
máy nhà nước tương xứng với nhiệm vụ được Nhà nước giao phó đã phần nào
thể hiện định hướng của Nhà nước ta trong công tác THADS là bảo đảm tối
đa quyền lợi ích của các chủ thể tham gia THADS.
Như vậy, cùng với việc hình thành hệ thống cơ quan THADS, một cơ
chế phối hợp về THADS cũng đã được xác lập. Theo nghiên cứu của chúng
tôi thì phải đặt công tác THADS trong tổng thể hoạt động triển khai các
nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội thì mới thấy hết ý nghĩa của
cơ chế phối hợp này. Sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ động, phát huy
37
trách nhiệm của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án và sự chỉ đạo sát sao,
kịp thời của Ủy ban nhân dân các cấp, sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức
có liên quan, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý thức trách nhiệm của cả
cộng đồng trong hoạt động THADS.
1.4.4. Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
2004 đến khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008
Qua hơn 10 năm thi hành, Pháp lệnh THADS năm 1993 đã bộc lộ
nhiều bất cập trước những đòi hỏi của quá trình đổi mới, cải cách hành chính,
cải cách tư pháp. Nhiều vướng mắc về cơ chế quản lý, mô hình tổ chức, thủ
tục THADS chưa được tháo gỡ kịp thời, dẫn đến tình trạng án tồn đọng có xu
hướng gia tăng, đòi hỏi pháp luật THADS cần có sự bổ sung, hoàn thiện kịp
thời để nâng cao hiệu quả công tác THADS. Vì vậy, ngày 14/01/2004, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh THADS sửa đổi thay thế Pháp
lệnh THADS năm 1993.
Pháp lệnh thời kỳ này đã quy định nhiều nguyên tắc hơn để bảo đảm
cho quyền lợi hợp pháp của các chủ thể trong THADS được thực hiện như
nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định dân sự; Quyền yêu cầu
thi hành án; Tự nguyện thi hành án; Cưỡng chế thi hành án; Trách nhiệm của
các cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân trong việc thi hành
án; Kiểm sát việc thi hành án. Đặc biệt, nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của người có liên quan đến việc thi hành án được quy định tại Điều 9
Pháp lệnh THADS năm 2004. Theo đó, người có quyền, nghĩa vụ liên quan
đến việc thi hành án được tham gia vào việc thi hành án và có quyền khiếu nại
hoặc khởi kiện theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình.
Đối chiếu với quy định của Pháp lệnh THADS năm 1993, Nghị định
số 30/CP ngày 02/6/1993 của Chính phủ thì những quy định tại Pháp lệnh
THADS năm 2004 và Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính
38
phủ đã có một bước tiến rõ rệt trong việc nâng cao trách nhiệm của cơ quan
THADS, Chấp hành viên trong việc bảo đảm quyền lợi của đương sự và
người liên quan trong THADS.
Ngày 14/11/2008, Quốc hội đã thông qua Luật THADS có hiệu lực từ
01/07/2009. Văn bản pháp lý này đã kế thừa và phát triển các quy định về bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong
THADS. Theo quy định tại Điều 5 của Luật này thì "Trong quá trình thi hành
án, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ" [33]. Mặc dù Điều luật này chỉ
đưa ra một quy định chung có tính khái quát nhưng về phương diện lý luận có
thể rút ra nội dung của nó theo cách giải thích của một số công trình nghiên
cứu trước đây và kết quả nghiên cứu về khái niệm của nguyên tắc này. Theo
đó, cơ quan thi hành án, Thừa phát lại và các chủ thể có trách nhiệm hỗ trợ,
phối hợp trong THADS phải tổ chức THADS theo đúng pháp luật và đúng
nội dung bản án, quyết định được thi hành, không xâm phạm đến quyền, lợi
ích hợp pháp của các chủ thể có quyền lợi và bảo đảm cho họ thực hiện quyền
yêu cầu thi hành án, được tham gia vào quá trình thi hành án để bảo vệ quyền
lợi của mình và thực hiện quyền khiếu nại đối với các hành vi trái pháp luật
trong thi hành án.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS, Chương 1 của
luận văn đã đạt được một số kết quả cơ bản sau:
Trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống các khái niệm về nguyên tắc bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS,
luận văn đã xây dựng một cách đầy đủ và hoàn chỉnh khái niệm nguyên tắc
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong
THADS và ý nghĩa của nó.
39
Luận văn cũng xác định được cơ sở xây dựng nguyên tắc trên và mối
quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và
người liên quan trong THADS với các nguyên tắc khác trong THADS. Kết
quả nghiên cứu đã chỉ ra được mối quan hệ mật thiết và tương hỗ về mối liên
hệ giữa các nguyên tắc trong việc bảo vệ quyền lợi của các chủ thể.
Luận văn cũng đã làm rõ quá trình hình thành và phát triển của các qui
định về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người
liên quan trong pháp luật THADS Việt Nam. Kết quả nghiên cứu này giúp
cho tác giả luận văn có góc nhìn xuyên suốt và sâu sắc về vấn đề nghiên cứu.
Tuy nhiên, để việc nghiên cứu về nguyên tắc này được toàn diện, sâu sắc hơn
thì việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về nguyên tắc này (Chương 2)
và thực tiễn thực hiện (Chương 3) là hết sức cần thiết.
40
Chương 2
NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ NGUYÊN TẮC
BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ
VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN
2.1. CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VỚI VIỆC
BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN
2.1.1. Quy định về bảo đảm quyền yêu cầu thi hành án với việc
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự
Trước đây, Pháp lệnh THADS năm 1993 chưa quy định quyền yêu
cầu THADS của người phải THADS. Trong thực tiễn nhiều trường hợp vì
nhiều lý do khác nhau, người được thi hành án không làm đơn yêu cầu thi
hành án ngay sau khi có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Trong khi đó, người phải thi hành án đã có điều kiện thi hành, hơn thế, mong
muốn nhanh chóng thực hiện xong nghĩa vụ của mình. Do vậy, Pháp lệnh
THADS năm 2004 và Luật THADS năm 2008 đã bổ sung quy định theo
hướng mở rộng quyền làm đơn yêu cầu thi hành án đối với cả người phải thi
hành án. Theo quy định tại Điều 7 Luật THADS thì "Người được thi hành án,
người phải thi hành án căn cứ vào bản án, quyết định có quyền yêu cầu cơ
quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án" [33]. Mục đích của việc bổ sung
quy định này là nhằm khuyến khích ý thức tự giác chấp hành pháp luật của
người phải thi hành án cũng như để đảm bảo quyền lợi của họ trong trường
hợp cần thiết (ví dụ: Nếu thi hành án xong thì họ sẽ được xác nhận và đảm
bảo thủ tục xuất nhập cảnh, hoặc để làm điều kiện xét giảm án phạt tù...).
Ngoài việc mở rộng chủ thể có quyền yêu cầu THADS thì pháp luật
cũng đã ghi nhận những cơ chế nhất định để tạo điều kiện cho đương sự có
thể bảo vệ quyền lợi của mình. Để thi hành được bản án, quyết định dân sự thì
bản án, quyết định tuyên phải chính xác, rõ ràng và các đương sự phải nhận
41
thức được đúng quyền, nghĩa vụ thi hành án và thời hiệu THADS. Thực tế, tổ
chức THADS cho thấy không phải trường hợp nào việc tổ chức THADS cũng
đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu đó. Do vậy, pháp luật THADS của chúng ta
đã có những quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức ra bản án,
quyết định phải giải thích cho các đương sự quyền, nghĩa vụ thi hành án của
họ, thời hiệu yêu cầu THADS và giải thích bản án, quyết định trong trường
hợp chúng không chính xác, rõ ràng. Đây là yếu tố cơ bản để các đương sự và
những người liên quan thực hiện và bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp
của mình trong THADS, được quy định cụ thể tại Điều 382 BLTTDS, Điều 26
và Điều 179 Luật THADS.
Về hướng dẫn quyền yêu cầu THADS, Điều 26 Luật THADS quy
định: "Khi ra bản án, quyết định, Tòa án, Hội đồng xứ lý vụ việc cạnh tranh,
Trọng tài thương mại phải giải thích cho đương sự, đồng thời ghi rõ trong bản
án, quyết định về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu
yêu cầu thi hành án" [33]. Tòa án cần phải thích cho các đương sự rõ khi bản
án, quyết định có hiệu lực thi hành, các đương sự có quyền thỏa thuận về việc
thi hành án, nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và
không trái đạo đức xã hội. Kết quả thi hành án theo thỏa thuận được công
nhận. Trong trường hợp đương sự không thỏa thuận thì có quyền yêu cầu cơ
quan THADS thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản
án, quyết định. Luật THADS 2008 không có điều luật quy định về nghĩa vụ
thi hành án nhưng ta cần phải hiểu đó là những nghĩa vụ đã được quyết định
theo bản án hoặc quyết định của Tòa án. Như vậy, tùy từng trường hợp cụ thể
mà Tòa án chọn cách giải thích khác nhau.
Điều 179 Luật THADS về trách nhiệm của cơ quan ra bản án, quyết
định trong việc bảo đảm quyền lợi của đương sự như sau:
1. Bảo đảm bản án, quyết định đã tuyên chính xác, rõ ràng,
cụ thể, phù hợp với thực tế.
42
2. Có văn bản giải thích những nội dung mà bản án, quyết
định tuyên chưa rõ trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được
yêu cầu của đương sự hoặc của cơ quan thi hành án dân sự.
Trường hợp vụ việc phức tạp thì thời hạn trả lời không quá
30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
3. Trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự về việc
xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị.
4. Thụ lý và kịp thời giải quyết yêu cầu của cơ quan thi
hành án dân sự, đương sự về việc xác định quyền sở hữu, phân chia
tài sản hoặc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng
tài sản thuộc thẩm quyền của Tòa án phát sinh trong quá trình thi
hành án [33].
Theo quy định tại Điều 2 Luật THADS, những bản án, quyết định dân
sự được đưa ra thi hành án phải là những bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật. Tuy vậy, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự,
Điều luật này còn quy định những bản án, quyết định được đưa ra thi hành
bao gồm cả những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng theo
quy định của pháp luật được thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng
nghị hoặc khiếu nại như bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công
lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc
bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người
lao động trở lại làm việc; Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Khi ra bản án, quyết định, Tòa án, hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh,
trọng tài thương mại phải ghi rõ trong bản án, quyết định quyền yêu cầu thi
hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án đồng thời giải
thích rõ cho các đương sự biết rõ các vấn đề này. Trong trường hợp bản án,
quyết định không rõ ràng thì người được thi hành án, người phải thi hành án
43
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án, quyết định và
cơ quan THADS có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức đã ra bản án, quyết định
giải thích những điểm chưa rõ trong bản án, quyết định để thi hành. Nhận
được yêu cầu giải thích bản án, quyết định cơ quan tổ chức đã ra quyết định
bản án phải có văn bản giải thích những nội dung chưa rõ của bản án, quyết
định trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp vụ
việc phức tạp thì thời hạn trả lời không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận được
yêu cầu.
Quyền yêu cầu THADS được giới hạn bởi thời hiệu yêu cầu thi hành
án theo quy định của Luật THADS. Thời hiệu yêu cầu thi hành án được quy
định tại Điều 30 Luật THADS. Thời hiệu yêu cầu thi hành án là thời hạn do
pháp luật quy định mà trong khoảng thời gian đó người được thi hành án,
người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức thi hành
bản án, quyết định của Tòa án. Hết thời hạn đó, nếu người được thi hành án,
người phải thi hành án vẫn không có đơn yêu cầu thi hành án, thì người được
thi hành án không còn quyền yêu cầu thi hành phần bản án, quyết định chưa
yêu cầu thi hành án nữa, còn người phải thi hành án không còn nghĩa vụ phải
thi hành phần bản án, quyết định đó cho người được thi hành án nữa. Bản án,
quyết định hết hiệu lực thi hành (đối với phần thi hành theo đơn yêu cầu).
Quyền yêu cầu thi hành án chỉ được thực hiện trong thời hạn 05 năm
kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (hoặc nghĩa vụ đến hạn
hay đến định kỳ quy định trong bản án). Quá thời hạn này, nếu người yêu cầu
thi hành án không chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện
bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì hết quyền
yêu cầu thi hành án.
Vấn đề này, từ trước đến nay ít được chú ý khi cấp bản án, quyết định
cho đương sự nên các bên đương sự không biết để yêu cầu. Do vậy, để đảm
bảo quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS,
Tòa án có trách nhiệm phải giải thích rõ các bên đương sự trong THADS
44
được biết về quyền làm đơn yêu cầu thi hành án chỉ được tiến hành trong thời
hiệu luật định.
2.1.2. Quy định về từ chối, trả đơn yêu cầu thi hành án với việc
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự
Để bảo đảm quyền yêu cầu THADS của các đương sự và có cơ sở xác
định trách nhiệm tổ chức thi hành án của các cơ quan thi hành án khi cần
thiết, pháp luật quy định một cách rất rõ ràng và minh bạch việc nhận, từ chối,
trả đơn yêu cầu thi hành án.
Theo quy định tại Điều 33 Luật THADS và Điều 4 Nghị định của
Chính phủ số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009, khi nhận đơn yêu cầu thi hành
án, cơ quan THADS phải kiểm tra nội dung đơn và các tài liệu kèm theo, vào
sổ nhận đơn và cấp giấy biên nhận cho người nộp đơn. Việc cấp trực tiếp
hoặc gửi bằng đường bưu điện giấy biên nhận cho người nộp đơn yêu cầu thi
hành án phải được thực hiện ngay sau khi nhận được đơn yêu cầu thi hành án.
Đây là những quy định nhằm gắn chặt trách nhiệm và chống sự lạm quyền
của các cơ quan THADS nhằm đảm bảo quyền lợi của đương sự và người có
quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến THADS.
Đối với trường hợp đơn thi hành án không có đầy đủ các nội dung
theo quy định của pháp luật hoặc không nếu rõ thông tin về điều kiện thi
hành án của người phải thi hành án và không yêu cầu xác minh thì cơ quan
THADS thông báo để đương sự bổ sung nội dung đơn yêu cầu THADS
trước khi quyết định thi hành án. Đối với trường hợp đơn yêu cầu thi hành
án không có đầy đủ các điều kiện thi hành án theo quy định của pháp luật thì
cơ quan THADS từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án. Để chống sự lạm
quyền của các cơ quan THADS nhằm đảm quyền lợi của đương sự và người
có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến THADS, Điều 34 Luật THADS đã
ấn định các trường hợp cụ thể mà cơ quan THADS được từ chối nhận đơn yêu
cầu THADS:
45
- Người yêu cầu thi hành án không có quyền yêu cầu thi hành án hoặc
nội dung đơn yêu cầu thi hành án không liên quan đến nội dung của bản án,
quyết định;
- Cơ quan THADS được yêu cầu không có thẩm quyền thi hành án;
Ngoài ra, Điều 51 Luật THADS cũng quy định cụ thể và giới hạn những
trường hợp mà cơ quan THADS được trả đơn yêu cầu THADS nhằm hạn chế
sự lạm quyền từ phía cơ quan THADS và bảo đảm quyền lợi chính đáng của
người phải THADS, tránh việc đẩy họ vào tình trạng khốn cùng. Theo đó, cơ
quan THADS chỉ được trả đơn yêu cầu THADS trong các trường hợp sau:
- Người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án hoặc có tài
sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án
hoặc tài sản đó theo quy định của pháp luật không được xử lý để thi hành án;
- Người phải thi hành án không có thu nhập hoặc mức thu nhập thấp,
chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án và gia đình;
- Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không
nhận để thi hành án;
- Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc định
nhưng vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được
mà đương sự không có thỏa thuận khác.
Việc trả lại đơn yêu cầu thi hành án không làm thay đổi hay chấm dứt
quyền, nghĩa vụ của đương sự đã được tuyên trong bản án, quyết định mà nó
chỉ làm thay đổi về thời điểm đảm bảo các quyền, nghĩa vụ đó mà thôi. Và
theo nghĩa đó, việc trả lại đơn yêu cầu chỉ xảy ra đối với các trường hợp thuộc
diện thi hành án theo đơn yêu cầu và nghĩa vụ thi hành án thường có thể là
nghĩa vụ về tiền hoặc nghĩa vụ về tài sản.
Trong hoạt động của mình, cơ quan THADS được sử dụng quyền lực
nhà nước để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và bảo đảm hiệu
46
lực thi hành bản án quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên,
quyền lực nhà nước mà cơ quan THADS sử dụng để bảo đảm thi hành các
bản án, quyết định nói trên chỉ nằm trong một giới hạn theo quy định của
pháp luật. Chính vì vậy, trong thực tế nhiều trường hợp, đương sự (chủ yếu là
người được thi hành án) đã có những phản ứng gay gắt khi cơ quan thi hành
án ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án cho họ vì lý do người phải thi
hành án không có điều kiện thi hành. Họ yêu cầu cơ quan thi hành án phải có
những biện pháp mạnh hơn đối với người phải thi hành án để bảo vệ quyền
lợi cho họ và khi những yêu cầu đó không được đáp ứng thì họ cho rằng cơ
quan thi hành án thiếu trách nhiệm hoặc cho rằng pháp luật không nghiêm
minh. Trong trường hợp này, thường thì Chấp hành viên rất khó để giải thích
thỏa đáng cho người được thi hành án hiểu tại sao cơ quan thi hành án không
thể thực hiện theo yêu cầu của họ.
Có thể nói, việc trả lại đơn yêu cầu thi hành án tuy không làm mất đi
quyền lợi, nghĩa vụ của các bên đương sự đã được xác định trong bản án,
quyết định nhưng hệ quả nó lại làm chậm quá trình đảm bảo quyền lợi cho
người được thi hành án và xét đến cùng thì cũng có ảnh hưởng nhất định đến
lợi ích của người được thi hành án. Do đó, việc trả lại đơn cần phải được thực
hiện một cách thật khách quan, đúng căn cứ mà pháp luật quy định. Một lần
nữa khẳng định vai trò cũng như tầm quan trọng của công tác xác minh điều
kiện thi hành án xuyên suốt trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết
định. Có xác minh một cách trung thực, khách quan thì mới có thể thực hiện
việc trả đơn yêu cầu thi hành án một cách có chất lượng và đúng pháp luật.
Từ đó hạn chế được các vấn đề về khiếu nại, tố cáo có liên quan đến THADS.
2.1.3. Quy định về trách nhiệm của ngƣời đƣợc thi hành án trong
việc cung cấp thông tin tài sản hoặc điều kiện thi hành
Quy định về trách nhiệm của người được thi hành án trong việc cung
cấp thông tin tài sản hoặc điều kiện thi hành lần đầu tiên chính thức được đưa
vào nội dung đơn yêu cầu thi hành án như là một điều kiện bắt buộc.
47
Tại điểm d khoản 1 Điều 31 Luật THADS quy định đơn yêu cầu thi
hành án có các nội dung chính sau đây:
a) Họ, tên, địa chỉ của người yêu cầu;
b) Tên cơ quan thi hành án dân sự nơi yêu cầu;
c) Họ, tên, địa chỉ của người được thi hành án; người phải
thi hành án;
d) Nội dung yêu cầu thi hành án;
đ) Thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người
phải thi hành án [33].
Tại khoản 2 Điều 4 Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật THADS về
thủ tục THADS (sau đây gọi tắt là Nghị định số 58/2009/NĐ-CP) hướng dẫn
vấn đề này như sau:
Đơn yêu cầu thi hành án phải có đầy đủ các nội dung theo
quy định tại Điều 31 Luật thi hành án dân sự.
Trường hợp đơn yêu cầu thi hành án không có đầy đủ các
nội dung theo quy định hoặc không nêu rõ thông tin về điều kiện thi
hành án của người phải thi hành án nhưng không yêu cầu xác minh thì
cơ quan thi hành án dân sự thông báo để đương sự bổ sung nội dung
đơn yêu cầu thi hành án trước khi ra quyết định thi hành án [15].
Về trách nhiệm xác minh của đương sự, Điều 6 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP
quy định:
1. Người được thi hành án có quyền tự mình hoặc ủy quyền
cho người khác xác minh điều kiện thi hành án. Cơ quan, tổ chức,
cá nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của
người phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin khi người
được thi hành án hoặc người đại diện theo ủy quyền của người được
48
thi hành án ủy quyền có yêu cầu. Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá
nhân đó từ chối cung cấp thì phải có văn bản trả lời và nêu rõ lý do.
Kết quả xác minh được công nhận và làm căn cứ để tổ chức
việc thi hành án, trừ trường hợp Chấp hành viên thấy cần thiết phải
xác minh lại. Việc xác minh lại của Chấp hành viên được tiến hành
trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được kết quả xác minh do
đương sự cung cấp.
Trường hợp người được thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá
nhân cố tình cung cấp thông tin sai sự thật về điều kiện thi hành án
của người phải thi hành án thì phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật, thanh toán các chi phí phát sinh, trường hợp gây ra thiệt hại thì
phải bồi thường.
2. Người được thi hành án khi yêu cầu Chấp hành viên xác
minh điều kiện thi hành án phải xuất trình các tài liệu hoặc biên bản
làm việc để chứng minh việc người đó hoặc người đại diện theo ủy
quyền đã tiến hành xác minh tại các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang
nắm giữ các thông tin về tài sản, đang quản lý tài sản, tài khoản của
người phải thi hành án nhưng không có kết quả.
Việc xác minh tại các cơ quan, tổ chức, cá nhân được coi là
không có kết quả khi người được thi hành án hoặc người được ủy
quyền chứng minh đã trực tiếp hoặc yêu cầu bằng văn bản nhưng đã
quá thời hạn 01 tháng, kể từ ngày yêu cầu nhưng không nhận được
văn bản trả lời của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà không có lý do
chính đáng [15].
Tiếp theo tại Điều 44 Luật THADS quy định về điều kiện để đương sự
yêu cầu cơ quan thi hành án tiến hành xác minh:
... Trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu, nếu người được
thi hành án đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thể tự xác
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAYLuận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
 
Luận văn: Chế định giải quyết việc dân sự trong pháp luật, HAY
Luận văn: Chế định giải quyết việc dân sự trong pháp luật, HAYLuận văn: Chế định giải quyết việc dân sự trong pháp luật, HAY
Luận văn: Chế định giải quyết việc dân sự trong pháp luật, HAY
 
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt nam, HOT
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt nam, HOTLuận văn: Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt nam, HOT
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt nam, HOT
 
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAYĐề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sựLuận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
 
Bình đẳng trước pháp luật của đương sự trong tố tụng dân sự
Bình đẳng trước pháp luật của đương sự trong tố tụng dân sựBình đẳng trước pháp luật của đương sự trong tố tụng dân sự
Bình đẳng trước pháp luật của đương sự trong tố tụng dân sự
 
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩmLuận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
 
Các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị khi giải quyết vụ việc dân sự
Các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị khi giải quyết vụ việc dân sựCác quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị khi giải quyết vụ việc dân sự
Các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị khi giải quyết vụ việc dân sự
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc NinhLuận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
 
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chínhLuận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
 
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa ánLuận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
 
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng
 
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌN...
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌN...NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌN...
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌN...
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
 
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAYLuận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
 
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tốLuận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
 

Similar to Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT

Similar to Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT (20)

Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đế...
Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đế...Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đế...
Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đế...
 
Nguyên Tắc Bảo Đảm Quyền, Lợi Ích Hợp Pháp Của Đƣơng Sự Và Ngƣời Liên Quan Đế...
Nguyên Tắc Bảo Đảm Quyền, Lợi Ích Hợp Pháp Của Đƣơng Sự Và Ngƣời Liên Quan Đế...Nguyên Tắc Bảo Đảm Quyền, Lợi Ích Hợp Pháp Của Đƣơng Sự Và Ngƣời Liên Quan Đế...
Nguyên Tắc Bảo Đảm Quyền, Lợi Ích Hợp Pháp Của Đƣơng Sự Và Ngƣời Liên Quan Đế...
 
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
 
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOTLuận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt NamLuận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAY
Đề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAYĐề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAY
Đề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAY
 
Luận án: Quyết định giải quyết khiếu nại hành chính tỉnh Phú Yên
Luận án: Quyết định giải quyết khiếu nại hành chính tỉnh Phú YênLuận án: Quyết định giải quyết khiếu nại hành chính tỉnh Phú Yên
Luận án: Quyết định giải quyết khiếu nại hành chính tỉnh Phú Yên
 
Luận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niênLuận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niên
 
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụngQuyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
 
Luận án: Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận án: Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niênLuận án: Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận án: Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Bình Định
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Bình ĐịnhLuận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Bình Định
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Bình Định
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Luận văn: Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của đương sự
Luận văn: Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của đương sựLuận văn: Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của đương sự
Luận văn: Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của đương sự
 
Nguyên tắc bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự
Nguyên tắc bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sựNguyên tắc bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự
Nguyên tắc bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự
 
Luận án: Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của đương sự, HAY
Luận án: Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của đương sự, HAYLuận án: Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của đương sự, HAY
Luận án: Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của đương sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, 9đ
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, 9đLuận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, 9đ
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, 9đ
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 

Đề tài: Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, HOT

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ MAI HIÊN NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ MAI HIÊN NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Anh Tuấn HÀ NỘI - 2014
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn ThÞ Mai Hiªn
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN 7 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong thi hành án dân sự 7 1.1.1. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án 7 1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án 11 1.2. Cơ sở của việc xây dựng các quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án 14 1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án được xây dựng trên cơ sở đường lối của Đảng về hoạt động tư pháp 14 1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án được xây dựng trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và các luật chuyên ngành về bảo vệ quyền cơ bản 15 1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án xuất phát từ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự 16
  • 5. 5 1.2.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án xuất phát từ quyền bình đẳng của mọi chủ thể trong quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động 17 1.3. Mối liên hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan với các nguyên tắc khác đến việc thi hành án 18 1.4. Lược sử các quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án 23 1.4.1. Thời kỳ từ tháng 8/1945 đến năm 1989 23 1.4.2. Thời kỳ từ năm 1990 đến trước khi có Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 25 1.4.3. Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 đến trước khi có Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 26 1.4.4. Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 đến khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008 28 Chương 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN 31 2.1. Các quy định về thủ tục thi hành án dân sự với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan 31 2.1.1. Quy định về bảo đảm quyền yêu cầu thi hành án với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự 31 2.1.2. Quy định về từ chối, trả đơn yêu cầu thi hành án với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự 35 2.1.3. Quy định về trách nhiệm của người được thi hành án trong việc cung cấp thông tin tài sản hoặc điều kiện thi hành 37 2.1.4. Quy định về quyền được tham gia vào quá trình thi hành án của chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp 41 2.2. Các quy định về biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án dân sự với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan 43
  • 6. 6 2.2.1. Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan 43 2.2.2. Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan 45 2.3. Các quy định về khiếu nại, tố cáo, kháng nghị và xử lý vi phạm đến việc thi hành án với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan 49 2.3.1. Về khiếu nại và giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự 49 2.3.2. Về tố cáo và giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự 51 2.3.3. Về kháng nghị và giải quyết kháng nghị về thi hành án dân sự 52 2.3.4. Về xử lý vi phạm trong thi hành án dân sự 53 2.4. Các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án 55 Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN VÀ KIẾN NGHỊ 61 3.1. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án 61 3.1.1. Về thành tựu đạt được từ thực tiễn thực hiện nguyên tắc 61 3.1.2. Về những bất cập, vướng mắc từ thực tiễn thực hiện nguyên tắc 63 3.2. Một số kiến nghị về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án 81 3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án 81 3.2.2. Kiến nghị về thực hiện nguyên tắc về bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án 91 KẾT LUẬN 98 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TAND : Tòa án nhân dân THADS : Thi hành án dân sự XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 8. 8 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 3.1 Kết quả THADS giai đoạn 2006- tháng 6/2014 61
  • 9. 9
  • 10. 10 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thi hành án dân sự (THADS) là một giai đoạn của quá trình tố tụng dân sự, giai đoạn kết thúc quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự, trong đó các bản án, quyết định của Tòa án được đưa ra thi hành. Pháp luật THADS quy định trình tự, thủ tục và biện pháp thi hành bản án, quyết định của Tòa án trước hết nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án. Tuy nhiên, các quy định này cũng phải hướng tới việc bảo đảm an toàn pháp lý cho người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến thi hành án. Xét về lý luận thì bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước có hiệu lực pháp luật phải được các đương sự tôn trọng thực hiện. Ngược lại, bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật chậm được thi hành hoặc không được thi hành trên thực tế thì quyền lợi hợp pháp của đương sự chưa được đảm bảo thực hiện. Việc thi hành án không đúng pháp luật cũng có thể gây tổn hại đến quyền lợi của các đương sự khác trong thi hành án, dẫn tới nguyên tắc pháp chế bị vi phạm, niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng và Nhà nước bị suy giảm. Đây chính là nhiệm vụ quan trọng mà pháp luật THADS của mỗi quốc gia đều hướng tới và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xây dựng niềm tin vào công lý. Xét về pháp luật thì nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được ghi nhận tại Điều 5 của Luật THADS năm 2008. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này còn khá chung chung, thiếu tính cụ thể và thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện. Điều luật này dường như mới chỉ dừng lại ở quy định rất đơn giản với nội dung: "Trong quá trình thi hành án, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ" [33].
  • 11. 11 Những năm qua công tác THADS đã từng bước được đẩy mạnh và đã thu được những kết quả to lớn. Pháp luật về THADS đã và đang được củng cố và hoàn thiện ngày càng phù hợp với những yêu cầu mới đặt ra của sự phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập hiện nay, nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, các giao lưu dân sự ngày một mở rộng thì số vụ việc tranh chấp dân sự ngày càng gia tăng dẫn đến số lượng bản án, quyết định phải thi hành ngày càng nhiều. Do đó, chất lượng của công tác THADS ngày càng cần phải được củng cố và tăng cường; tình trạng bản án, quyết định tồn đọng chưa được thi hành, xâm phạm quyền lợi hợp pháp của các đương sự trong thi hành án cần phải được giải quyết nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và tăng cường tính pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN). Thực tiễn công tác thi hành án cho thấy tình trạng quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án không được bảo đảm thực hiện do người phải thi hành án cố tình lẩn tránh, chống đối việc thi hành án, tình trạng chậm thi hành án, án tồn đọng vẫn còn tồn tại. Ngoài ra, hiện tượng cơ quan thi hành án vượt quá quyền hạn của mình, thi hành án không đúng pháp luật dẫn tới xâm phạm quyền lợi hợp pháp của người phải thi hành án và những người liên quan cũng gây nhiều bức xúc trong xã hội. Với những lý do phân tích trên, việc nghiên cứu một cách có hệ thống cả về phương diện lý luận, pháp luật và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS là cấp thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Với nhận thức đó, tác giả đã lựa chọn vấn đề "Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Cho đến thời điểm tác giả nghiên cứu đề tài "Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án", chưa
  • 12. 12 có bài viết, hay công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS. Trong Giáo trình Luật THADS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2012 chỉ có 01 trang đề cập đến nội dung cơ bản của nguyên tắc này. Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu có đề một cách gián tiếp đến nguyên tắc này như: "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự" (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, của Trường Đại học Luật Hà Nội, do TS. Nguyễn Công Bình làm chủ nhiệm, năm 2004); "Những điểm mới của Luật Thi hành án dân sự năm 2008" (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, do TS. Bùi Thị Huyền làm chủ nhiệm, năm 2011). Về bài viết nghiên cứu có liên quan gián tiếp đến bảo đảm quyền, lợi ích của đương sự và người liên quan trong THADS, có một số bài viết sau đây: Bài viết "Thực tiễn thi hành và giải pháp hoàn thiện thủ tục thi hành án dân sự" của ThS. Đinh Thị Mai Phương, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 01/2006; "Về một bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng không được thi hành" của Nguyễn Thị Khanh, Tạp chí Kiểm sát, số 7/2009; "Trách nhiệm bồi thường nhà nước trong hoạt động thi hành án", của Nguyễn Công Long, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4/2009; "Về nghĩa vụ của người được thi hành án trong trường hợp cơ quan thi hành án tiến hành áp dụng biện pháp cưỡng chế" của Phạm Văn Hưng, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 02/2010 v.v... Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đã công bố mà tác giả luận văn khảo sát nói trên cũng chỉ dừng lại ở một số nội dung cơ bản nhất hoặc liên quan gián tiếp đến nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS. Cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu và toàn diện về nguyên tắc này. Do vậy, luận văn này là công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu tác giả có kế thừa những thành quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã được công bố trước đó.
  • 13. 13 3. Mục đích nghiên cứu Mục tiêu tổng quát của luận văn là hướng tới việc đánh giá một cách khách quan và toàn diện về hiệu quả của bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS dưới cả góc độ lập pháp và thi hành pháp luật trên thực tế. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và thực tiễn thực hiện nguyên tắc tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS, tác giả sẽ đưa những kiến nghị, đề xuất về hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS. 4. Nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài bao gồm các vấn đề chủ yếu sau đây: - Luận giải những vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS; - Đánh giá thực trạng pháp luật về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS; - Đưa ra định hướng và đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS ở nước ta. 4.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài được xác định như sau: - Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS; - Các quy định của pháp luật Việt Nam trong lịch sử và hiện hành về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS;
  • 14. 14 - Thực tiễn áp dụng các quy định hiện hành về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà đề tài đã đặt ra; trong quá trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng một số phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây: (i) Việc nghiên cứu thực hiện đề tài được dựa trên phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; (ii) Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chuyên ngành. Cụ thể như sau: - Phương pháp phân tích, bình luận, diễn giải, phương pháp lịch sử... được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu tổng quan những vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS - Phương pháp so sánh luật học, phương pháp đánh giá v.v... được sử dụng trong Chương 2 khi tìm hiểu và đánh giá các quy định của pháp luật về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS. - Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê... được sử dụng ở Chương 3 khi đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
  • 15. 15 Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án. Chương 2: Nội dung các quy định hiện hành về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án. Chương 3: Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc thi hành án và kiến nghị.
  • 16. 16 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN 1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự và ngƣời liên quan đến việc thi hành án Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung và trong quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Hoạt động THADS là hoạt động cuối cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, pháp chế XHCN, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Chính vì lẽ đó, vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng của thi hành án nói chung, THADS nói riêng đã được khẳng định ngay tại Điều 106 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013: "Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành" [35]. Thi hành án dân sự là một dạng hoạt động mang tính hành chính - tư pháp nhằm thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, bảo đảm hiệu lực thực tế của các bản án của Tòa án. Hoạt động này do cơ quan THADS của Nhà nước hoặc chủ thể được Nhà nước trao quyền trực tiếp thực hiện. Hoạt động THADS được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định nhằm đảm bảo công bằng và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các chủ thể trong thi hành án. Vì vậy, để đảm bảo cho hoạt động THADS
  • 17. 17 có hiệu quả, pháp luật THADS Việt Nam cần phải đặt ra những nguyên tắc làm nền tảng căn bản cho việc xây dựng các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục và biện pháp THADS đáp ứng yêu cầu về bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS. Các nguyên tắc này là những tư tưởng pháp lí cơ bản, chủ đạo, chi phối và quyết định tổ chức và hoạt động THADS; phản ánh quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về THADS, xuyên suốt các quy phạm pháp luật THADS và thể hiện những đặc trưng của hoạt động THADS. Trong đó, nguyên tắc làm nền tảng chủ đạo, xuyên suốt trong hoạt động THADS là nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan đến việc THADS. Việc ghi nhận nguyên tắc này trong pháp luật là sự phản ánh khách quan của hoạt động THADS vì mục đích của THADS là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mọi chủ thể có quyền lợi liên quan trong THADS. Thuật ngữ "bảo đảm" trong tiếng Việt là "làm cho chắc chắn". Do vậy, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS là làm cho quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS chắc chắn có thể thực hiện được [43, tr. 120]. Về quy định tại Điều 5 của Luật THADS năm 2008, thì bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nghĩa là trong quá trình THADS, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Để hiểu rõ hơn về khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS, ta cần phải làm rõ về bản chất của đương sự và người liên quan trong THADS. Đây là yếu tố xác định chủ thể có quyền lợi cần được bảo vệ. Xét về thuật ngữ pháp lý thì thuật ngữ "đương sự" và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng cần được nghiên cứu làm rõ. Theo TS. Bùi Thị
  • 18. 18 Huyền thì: "Đương sự trong thi hành án dân sự là người có quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thi hành án dân sự, tham gia vào quá trình thi hành án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình" [25, tr. 98]. Đương sự trong THADS thông thường chính là đương sự trong vụ việc dân sự. Đương sự trong thi hành án chính là những người được hưởng quyền hoặc phải thực hiện nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định. Khái niệm về đương sự trong THADS đã từng được ghi nhận tại Điều 3 Pháp lệnh THADS năm 2004 theo hướng: Bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật phải được người phải thi hành án, người được thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án (gọi chung là đương sự) nghiêm chỉnh thi hành và được các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân tôn trọng [41]. Tuy nhiên, phạm vi chủ thể được coi là đương sự đã bị thu hẹp hơn trong Luật THADS năm 2008. Theo Khoản 1 Điều 3 Luật THADS thì các đương sự trong THADS chỉ bao gồm: Người được thi hành án và người phải thi hành án. Quy định này không bao quát hết được tất cả các đối tượng có quyền và lợi ích hợp pháp cần được xem xét, bảo vệ trong quá trình THADS và khó có thể "định danh" người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong THADS thuộc loại nào trong số các chủ thể có quyền lợi liên quan đến việc THADS. Từ đó dẫn tới tên gọi của nguyên tắc về bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự tại Điều 5 của Luật THADS năm 2008 được mô tả khá dài dòng là nguyên tắc "Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan" [33] và Khoản 1 Điều 3 của Luật này giải thích theo hướng người được thi hành án là cá nhân, tổ chức được hưởng quyền và lợi ích trong bản án, quyết định được thi hành. Người phải thi hành án là cá nhân, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành. Người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong THADS là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thi hành án.
  • 19. 19 Khi nghiên cứu về nguyên tắc này, TS Nguyễn Công Bình khẳng định rằng: "... việc thi hành án dân sự không những phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự mà còn phải bảo đảm cả quyền, lợi ích hợp pháp của những người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án dân sự, không được xâm phạm, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ" [1]. Tác giả này cũng đã chỉ ra cụ thể về yêu cầu của nguyên tắc như sau: - Trong THADS phải tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. - Việc tổ chức THADS phải đúng pháp luật và đúng nội dung bản án, quyết định được thi hành để bảo đảm quyền, lợi ích của người được thi hành án, người phải thi hành án và không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của những người liên quan đến việc THADS. - Bảo đảm cho người được thi hành án, người phải thi hành án và những người liên quan đến việc THADS được tham gia vào quá trình thi hành án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ và bảo đảm quyền khiếu nại của họ đối với các hành vi trái pháp luật trong thi hành án. Ngoài ra, trong những trường hợp bán tài sản kê biên của người phải thi hành án thuộc sở hữu chung với người thứ ba thì họ phải được ưu tiên mua trước. Nếu người sở hữu tài sản chung với người phải thi hành án không mua thì việc bán tài sản đó cho người khác cũng phải theo đúng quy định của pháp luật thi hành án để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của họ [1, tr. 64-65]. Như vậy, về mặt pháp luật thì nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại Điều 5 của Luật THADS năm 2008 mới chỉ thể hiện được chủ thể có quyền lợi cần được tôn trọng và bảo vệ đồng thời việc tôn trọng, bảo vệ này là theo quy định của pháp luật mà chưa bao quát được các nội dung như việc tổ chức THADS phải đúng pháp luật và đúng nội dung bản án, quyết định được thi hành, không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của
  • 20. 20 những người liên quan đến việc THADS; bảo đảm cho chủ thể có quyền lợi được thực hiện quyền yêu cầu thi hành án, tham gia vào quá trình thi hành án và bảo đảm quyền khiếu nại của họ đối với các hành vi trái pháp luật trong thi hành án; bảo đảm quyền ưu tiên mua của các đồng sở hữu chủ đối với tài sản bị kê biên. Ngoài ra, theo nghiên cứu của chúng tôi thì nguyên tắc này theo pháp luật hiện hành cũng chưa thể hiện được nội dung về chủ thể có trách nhiệm phải bảo đảm quyền lợi như cơ quan thi hành án, Thừa phát lại và các chủ thể có trách nhiệm hỗ trợ, phối hợp trong THADS. Từ những phân tích trên, tác giả mạnh dạn đưa ra khái niệm về nguyên tắc như sau: Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS là tư tưởng pháp lý chủ đạo, có tính bắt buộc chung, được quy định trong pháp luật THADS, theo đó cơ quan thi hành án, Thừa phát lại và các chủ thể có trách nhiệm hỗ trợ, phối hợp trong THADS phải tổ chức THADS theo đúng pháp luật và đúng nội dung bản án, quyết định được thi hành, không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể có quyền lợi và bảo đảm cho họ thực hiện quyền yêu cầu thi hành án, được tham gia vào quá trình thi hành án để bảo vệ quyền lợi của mình và thực hiện quyền khiếu nại đối với các hành vi trái pháp luật trong thi hành án. 1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự và ngƣời liên quan đến việc thi hành án Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS là nguyên tắc có ý nghĩa cả về chính trị, xã hội và pháp lý. 1.1.2.1. Ý nghĩa chính trị Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS có ý nghĩa chính trị sâu sắc: Nguyên tắc này là một trong những nguyên tắc cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân; tôn trọng hiệu lực
  • 21. 21 của phán quyết của Tòa án được ghi nhận tại Điều 50 và Điều 136 Hiến pháp năm 1992 (nay là Điều 14 và Điều 106 Hiến pháp năm 2013) và được quy định cụ thể hơn tại Điều 5 Luật THADS năm 2008. Việc quy định bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS chứng tỏ ở nước ta, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, các quyền công dân ngày càng được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS thể hiện bản chất tốt đẹp của Nhà nước pháp quyền và dân chủ: Với công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, chúng ta đã đạt được những thành quả to lớn, đặc biệt là phát huy toàn diện quyền tự do dân chủ của công dân, bảo đảm các quyền của con người. Việc Hiến pháp và các văn bản pháp luật ghi nhận quyền bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS thành một nguyên tắc và quy định cơ chế bảo đảm việc thực hiện đã thể hiện tinh thần thượng tôn pháp luật và bản chất dân chủ của Nhà nước ta luôn lấy con người là mục tiêu, trung tâm và là động lực cho sự phát triển của đất nước. 1.1.2.2. Ý nghĩa xã hội Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS là một biểu hiện của nền dân chủ XHCN; làm cho công tác THADS chính xác, khách quan, toàn diện và đầy đủ. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan là nguyên tắc mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, thể hiện tính nhân đạo trong THADS ở Việt Nam. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan là một biểu hiện của tính dân chủ trong hoạt động THADS.
  • 22. 22 Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS đã tạo điều kiện thuận lợi cho người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có chủ động trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong hoạt động THADS, đảm bảo cho THADS có hiệu quả cao nhất, tạo được niềm tin đối với các bên tham gia THADS. Việc quy định nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS góp phần tích cực vào việc bảo vệ pháp chế XHCN, củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân vào hoạt động của thiết chế THADS. 1.1.2.3. Ý nghĩa pháp lý Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan là cơ sở pháp lý quan trọng để đương sự, người có quyền lợi hợp pháp liên quan trong thi hành án có thể sử dụng để bảo vệ quyền lợi của mình khi cơ quan thi hành án, Thừa phát lại tổ chức việc thi hành án. Đối với cơ quan tiến hành tố tụng, việc quy định nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan là cơ sở pháp lý để đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án đồng thời là cơ sở để cơ quan thi hành án, Thừa phát lại ra các quyết định cần thiết để tổ chức việc thi hành án. Ngoài ra, nguyên tắc này cũng là tư tưởng pháp lý chỉ đạo mà các chủ thể tiến hành và phối hợp trong thi hành án phải tuân thủ. Trong quá trình THADS, các chủ thể này phải căn cứ vào bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, các quy định của pháp luật nội dung và pháp luật THADS để bảo đảm hài hòa và không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bảo đảm cho họ được tham gia vào quá trình thi hành án để bảo vệ quyền lợi của mình và thực hiện quyền khiếu nại đối với các hành vi trái pháp luật trong thi hành án.
  • 23. 23 1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC XÂY DỰNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN 1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự và ngƣời liên quan đến việc thi hành án đƣợc xây dựng trên cơ sở đƣờng lối của Đảng về hoạt động tƣ pháp Nhận thức tầm quan trọng của việc bảo vệ các quyền dân sự, kinh tế của công dân, từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta đã chú trọng trong việc đề ra các chủ trương, chính sách nhằm bảo vệ các quyền này của công dân trong hoạt động tư pháp. Chủ trương bảo vệ các quyền căn bản trong hoạt động tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị đã chỉ ra định hướng cơ bản của việc cải cách tư pháp nước ta. Cụ thể là cần phải "Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp..." [17, tr. 5]. Tiếp theo đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: "Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội…" [18, tr. 2]. Nghị quyết này cũng chỉ ra những nhiệm vụ trọng tâm trong việc hoàn thiện thủ tục tố tụng tư pháp. Đó là cần phải "Hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người", "Nghiên cứu chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên); trước mắt, có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương" [18]. Có thể thấy THADS có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các quyền dân sự, kinh tế của công dân. Bản án, quyết định của Tòa án chỉ thực sự có
  • 24. 24 giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án là công đoạn cuối cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế XHCN; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Việc ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong pháp luật THADS là sự cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng về bảo vệ các quyền cơ bản của công dân. Việc ghi nhận nguyên tắc này trong các văn bản pháp luật về THADS không nằm ngoài mục đích bảo vệ tốt hơn quyền của người được thi hành án, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước dược ghi nhận trong phán quyết của cơ quan tư pháp, xác định rõ trách nhiệm của cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, Thừa phát lại; xác định rõ hơn trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan trong hoạt động THADS, cũng như công tác quản lý Nhà nước về THADS; nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án, kỷ cương phép nước và tính nghiêm minh của pháp luật. 1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự và ngƣời liên quan đến việc thi hành án đƣợc xây dựng trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và các luật chuyên ngành về bảo vệ quyền cơ bản Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS là sự cụ thể hóa các quy định tại Điều 14 và Điều 106 Hiến pháp năm 2013. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: 1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
  • 25. 25 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng [35]. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 106 Hiến pháp năm 2013 thì "Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành" [35]. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS còn là sự cụ thể hóa các quy định về nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự được quy định tại Điều 9 Bộ luật Dân sự. Cụ thể là theo quy định tại Khoản 1 Điều luật này thì tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ... Khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận quyền dân sự của mình; buộc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai; thực hiện nghĩa vụ dân sự hoặc bồi thường thiệt hại. Khi Tòa án đã ra phán quyết thì quyền lợi hợp pháp của đương sự đã được ghi nhận trong bản án, quyết định của Tòa án được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ trong quá trình THADS. Ngoài ra, quyền lợi của người liên quan không phải là đương sự theo bản án, quyết định cũng cần được tôn trọng và bảo vệ theo tinh thần của Điều 14, Điều 106 Hiến pháp năm 2013 và Điều 9 Bộ luật Dân sự. 1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự và ngƣời liên quan đến việc thi hành án xuất phát từ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân (TAND) đã có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các
  • 26. 26 đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Vì vậy, tham gia vào quá trình THADS có rất nhiều các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhau, trong đó cơ quan có thẩm quyền tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực thi hành của Tòa án, trọng tài và hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh được gọi là cơ quan THADS. Cơ quan THADS là cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong việc thi hành các bản án, quyết định dân sự. Hoạt động của cơ quan THADS một mặt bảo đảm việc thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của xã hội, của công dân đối với phán quyết của Tòa án, Trọng tài và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, mặt khác là công cụ hữu hiệu để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội. Để tăng cường hiệu quả công tác THADS, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, các cơ quan THADS phải tuân thủ nghiêm ngặt trình tự, thủ tục, thời hạn thi hành án mà pháp luật quy định, không cá nhân, cơ quan tổ chức nào, kể cả các cơ quan quản lí thi hành án được can thiệp không đúng chức năng, nhiệm vụ vào hoạt động tác nghiệp của của cơ quan THADS. Các quyết định của cơ quan THADS có giá trị bắt buộc các chủ thể khác phải chấp hành. Mọi hành vi chống đối, cản trở trong việc thi hành các quyết định của cơ quan THADS đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. 1.2.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự và ngƣời liên quan đến việc thi hành án xuất phát từ quyền bình đẳng của mọi chủ thể trong quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động Về tính chất, các tranh chấp trong quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động là trách nhiệm giữa các công dân với nhau. Khi các tranh chấp xảy ra, các đương sự được quyền tự do bình đẳng thể hiện ý chí của mình, được bảo vệ và tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
  • 27. 27 bằng cách yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Và chỉ khi có yêu cầu của đương sự và khi nhận được yêu cầu của đương sự thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nói chung, cơ quan THADS nói riêng mới được tiến hành xem xét và giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng, kịp thời để bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Vì vậy, cơ chế bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS được thiết lập trên cơ sở bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể. Cụ thể như sau: + Các đương sự phải được tham gia vào quá trình thi hành án và được tống đạt, thông báo hợp lệ để bảo vệ quyền lợi của mình; + Việc bảo vệ quyền lợi của đương sự này không được xâm phạm quyền lợi hợp pháp của các đương sự khác và các chủ thể có quyền lợi hợp pháp có liên quan; + Có cơ chế chống lạm quyền như việc kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan THADS và bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của tất cả các đương sự và các chủ thể có liên quan trong thi hành án; có cơ chế bồi thường cho các chủ thể có quyền lợi hợp pháp nếu cơ quan THADS gây tổn hại. Như vậy, từ những luận giải trên cho thấy quyền bình đẳng của mọi chủ thể trong quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động là cơ sở để xây dựng nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS. 1.3. MỐI LIÊN HỆ GIỮA NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN VỚI CÁC NGUYÊN TẮC KHÁC ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN Nguyên tắc bảo đảm nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan là nguyên tắc có mối quan hệ hữu cơ gắn bó với một loạt các nguyên tắc khác của THADS.
  • 28. 28 - Trong THADS, nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan và nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định có mối quan hệ mật thiết Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định tức là mọi bản án, quyết định được quy định phải được cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan trong phạm vi trách nhiệm của mình chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án. Xét xử và thi hành án là hai mặt của quá trình thống nhất và thể hiện quyền lực nhà nước, đảm bảo quyền, lợi ích của các bên trong THADS. Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định biểu hiện tính pháp chế trong THADS. Thực hiện nguyên tắc này không những làm cho hiệu lực của bản án, quyết định được thi hành trên thực tế mà còn đảm bảo cho quyền lợi hợp pháp của đương sự được thực hiện theo đúng phán quyết của Tòa án. Nhờ đó mà nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS được tôn trọng thực hiện. Ngược lại, nếu các chủ thể tổ chức thi hành án thực hiện tốt nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong thi hành án thì không những góp phần làm cho việc thi hành án được đúng theo bản án, quyết định mà còn bảo đảm được quyền lợi của những người liên quan tới việc thi hành án, các chủ thể có quyền lợi có điều kiện để thực hiện các quyền tố tụng của mình trong THADS. - Nguyên tắc bảo đảm quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự là một trong những nội dung quan trọng của nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan Sau khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thì quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự chỉ được bảo đảm thực hiện nếu bản án, quyết định được thi hành trên thực tế, nhất là đối với người được thi hành án.
  • 29. 29 Nguyên tắc quyền yêu cầu THADS được ghi nhận tại Điều 7 Luật THADS năm 2008: Người được thi hành án, người phải thi hành án căn cứ vào bản án, quyết định có quyền yêu cầu cơ quan THADS tổ chức thi hành án. Để bảo đảm quyền này của các đương sự và người liên quan, Tòa án, cơ quan và tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phải cấp cho họ bản án, quyết định trong thời hạn pháp luật quy định. Khi cấp cho các đương sự bản án, quyết định các cơ quan, tổ chức này phải giải thích cho các đương sự quyền yêu cầu THADS của họ và thời hiệu yêu cầu THADS. Đây là một trong những biểu hiện của nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS. - Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan với các nguyên tắc tự nguyện và cưỡng chế thi hành án; trách nhiệm bồi thường thiệt hại; trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân với cơ quan THADS và chấp hành viên Thi hành án dân sự là hoạt động phức tạp, hiệu quả của nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố; trong thi hành án, việc đương sự tự nguyện THADS là tốt nhất, vừa thuận lợi cho việc tổ chức thi hành án vừa giảm các chi phí cho việc thi hành án. Vì vậy, Nhà nước khuyến khích các đương sự tự nguyện thi hành án. Tuy vậy, thực tế THADS cho thấy không ít trường hợp sau khi được giáo dục thuyết phục đương sự vẫn không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ THADS của họ. Trong trường hợp này, để bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án cần thiết để kết thúc việc thi hành án, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án. Tuy nhiên, việc kết hợp hài hòa giữa bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án và quyền, lợi ích hợp pháp của người phải thi hành án và người liên quan khác trong THADS là cần thiết. Hiệu quả của việc THADS phụ thuộc rất lớn vào việc cơ quan THADS, các cá nhân, cơ quan và tổ chức có trách nhiệm phối hợp trong THADS có
  • 30. 30 thực hiện đúng, đầy đủ các quyền hạn, nhiệm vụ của họ hay không. Vì vậy, việc đề cao trách nhiệm của các chủ thể tổ chức thi hành án và trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan tổ chức có mối quan hệ phối hợp với cơ quan THADS là cần thiết. Từ đó, vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong THADS được đặt ra là nguyên tắc cơ bản của luật THADS, cũng là biểu hiện cho việc bảo vệ quyền của đương sự và người liên quan trong THADS. Đồng thời, tuy cơ quan THADS và chấp hành viên được thực hiện quyền lực của Nhà nước để tổ chức thi hành án, giữ vai trò chủ đạo tổ chức thi hành án, nhưng trong những trường hợp đương sự chây ỳ, chống đối nếu không có sự phối hợp, giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức và các nhân khác thì việc thi hành án vẫn khó có thể thực hiện có hiệu quả. Việc bảo đảm sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức và các nhân trong THADS sẽ tạo được sức mạnh tổng hợp trong việc giáo dục, thuyết phục đương sự thi hành án và tổ chức cưỡng chế trong THADS có tác dụng nâng cao hiệu quả THADS, đảm bảo được quyền lợi của các bên trong THADS. - Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan với các nguyên tắc thỏa thuận trong THADS và nguyên tắc tiếng nói, chữ viết dùng trong THADS Trong giao lưu dân sự, các đương sự có quyền tự do cam kết, thỏa thuận xác lập các quyền, nghĩa vụ dân sự phù hợp với pháp luật. Vì vậy, trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự thì đương sự vẫn có quyền tự định đoạt. THADS là một giai đoạn của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan nên trong giai đoạn này các đương sự vẫn có quyền tự định đoạt, trong đó có quyền thỏa thuận THADS. Có thể coi quyền thỏa thuận trong THADS là một phương tiện để các đương sự có thể sử dụng để bảo đảm hơn quyền lợi của mình, giúp cho việc THADS được nhanh chóng và hiệu quả hơn. Đồng thời, trong nhiều vụ việc có đương sự là người thuộc các dân tộc khác nhau, thậm chí có cả người nước ngoài tham gia. Về nguyên tắc, tiếng
  • 31. 31 nói, chữ viết trong THADS là tiếng Việt. Tuy nhiên, để thực hiện được việc THADS, bảo vệ hài hòa quyền lợi của các bên thì các đương sự đều được tạo điều kiện như nhau trong việc sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trong THADS. Đây là vấn đề có ý nghĩa cả về pháp lí và chính trị. Về chính trị, nó bảo đảm sự bình đẳng giữa các công dân thuộc các dân tộc. Về pháp lí, nó bảo đảm cho việc tổ chức THADS được thuận lợi. - Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan với nguyên tắc giám sát, kiểm sát hoạt động trong THADS Hoạt động của cơ quan THADS và các cơ quan nhà nước khác trong tổ chức THADS là hoạt động thực hiện quyền lực của nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan. Hoạt động này chỉ phát huy được tác dụng của nó khi tiến hành đúng theo quy định của pháp luật. Vì vậy, để đảm bảo cho hoạt động của các cơ quan này trong THADS tiến hành đúng pháp luật thì phải kiểm tra, giám sát chúng. Qua kiểm tra, giám sát các hoạt động THADS sẽ nâng cao được trách nhiệm thi hành án của cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc THADS, phát hiện và xử lí kịp thời các vi phạm pháp luật trong THADS, bảo đảm việc THADS nhanh chóng và đúng đắn, tránh tình trạng xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong THADS. Tóm lại, có thể nói, nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS là nguyên tắc cơ bản và có tầm quan trọng lớn. Từ góc nhìn như phân tích ở trên, tất cả các nguyên tắc trên đều hướng tới việc bảo đảm quyền, lợi ích của chủ thể có quyền lợi trong thi hành án nhưng nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS là nguyên tắc có ý nghĩa trực tiếp và nhấn mạnh nhất tới việc bảo đảm quyền lợi của người được thi hành án nhưng không được xâm hại tới quyền lợi hợp pháp của người phải thi hành án và các chủ thể có quyền lợi liên quan tới việc thi hành án.
  • 32. 32 Các nguyên tắc khác của THADS đã được phân tích ở trên đều có quan hệ gắn bó mật thiết với nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS và nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS chỉ có ý nghĩa khi việc bảo đảm cho nguyên tắc này được thực hiện đồng bộ với việc thực hiện các nguyên tắc nêu trên. 1.4. LƢỢC SỬ CÁC QUY ĐỊNH VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN 1.4.1. Thời kỳ từ tháng 8/1945 đến năm 1989 Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước khi có Pháp lệnh THADS năm 1989, công tác THADS đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tòa án; dù chưa được quy định rõ nét và nổi bật, nhưng nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong THADS đã được đề cập qua khá nhiều văn bản pháp luật thời kì này. - Giai đoạn 1945 đến 1949: Trước cách mạng tháng Tám, ở nước ta đã tồn tại chế định Thừa phát lại. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chế định Thừa phát lại tiếp tục được duy trì. Tại Nghị định số 37 ngày 01/12/1945 về tổ chức Bộ Tư pháp, phòng giám đốc Hộ vụ được thành lập, trong đó có Ban công lại thực hiện nhiệm vụ quản lý tổ chức Thừa phát lại. Cũng theo tinh thần Sắc lệnh ngày 10/10/1945, những quy định về thủ tục THADS tiếp tục được áp dụng, đáp ứng yêu cầu của hoạt động tư pháp trong những năm đầu của chính quyền cách mạng. Tuy nhiên, tổ chức Thừa phát lại - hình thức tổ chức và hoạt động THADS đầu tiên của chế độ mới, không còn mang ý nghĩa là công cụ của chính quyền thực dân phong kiến như trước đây, mà trở thành công cụ đắc lực trong việc thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực của TAND, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên trong THADS.
  • 33. 33 Rõ ràng Nhà nước không chỉ tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trong giao lưu dân sự, thương sự và tố tụng mà còn đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. - Giai đoạn từ tháng 5 - 1950 đến năm 1980: Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL về "Cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng" tạo nên sự thay đổi có tính chất bước ngoặt trong tổ chức và hoạt động tư pháp nói chung và tổ chức hoạt động THADS nói riêng. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức TAND năm 1960. Điều 24 của Luật này đã xác định: "Tại các Tòa án nhân dân địa phương có nhân viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án và quyết định dân sự, những khoản xử về bồi thường và tài sản trong các bản án, quyết định hình sự". Vấn đề vị trí, chức năng, nhiệm vụ của nhân viên chấp hành án được xác định rõ trong Luật tổ chức TAND đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức và hoạt động THADS. Như vậy, nét đặc trưng trong nội dung quy định của Điều lệ tạm thời, cũng như các văn bản pháp luật trong thời kỳ này là khẳng định trách nhiệm chủ động của Nhà nước đối với việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án; nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan bị hạn chế do việc tự định đoạt của đương sự trong quá trình thi hành án không được ghi nhận, việc thi hành án thể hiện tính chất "bao cấp" nặng nề, vừa làm hạn chế hiệu quả công tác thi hành án do không phát huy được tính chủ động và trách nhiệm của đương sự trong quá trình thi hành án. - Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1989: Với sự ra đời của Hiến pháp năm 1980, nhiều đạo luật về tổ chức của bộ máy nhà nước cũng được ban hành nhằm kiện toàn bộ máy nhà nước, phân định rõ chức năng của từng loại cơ quan, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà
  • 34. 34 nước bằng pháp luật. Điều 16 của Luật tổ chức TAND năm 1981 đã giao cho Bộ Tư pháp (mới được thành lập lại sau hơn 20 năm giải thể) đảm nhiệm công tác quản lý TAND địa phương về mặt tổ chức. Nghị định số 143-HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp đã quy định: Bộ Tư pháp có chức năng quản lý TAND địa phương về mặt tổ chức, trong đó bao gồm cả việc quản lý công tác THADS. Có thể thấy rằng, trong thời kỳ này tổ chức bộ máy cũng như nguyên tắc hoạt động của cơ quan thi hành án chưa được chú trọng. Cơ chế quản lý và tổ chức thi hành án chưa tạo được vị trí của Chấp hành viên tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ đặt ra. Mặt khác, tổ chức và hoạt động thi hành án là một giai đoạn khép kín trong Tòa án và tùy thuộc vào sự chỉ đạo của Chánh án TAND địa phương. Nhiều năm liền mối quan tâm chú trọng của Tòa án vẫn dành cho công tác xét xử, còn công tác thi hành án không được quan tâm đúng mức. Điều này dẫn đến tình trạng án xét xử xong không được thi hành chiếm tỉ lệ ngày càng lớn trong lượng án phải thi hành hàng năm, quyền và lợi ích của đương sự và người liên quan chưa được quan tâm và đảm bảo. 1.4.2. Thời kỳ từ năm 1990 đến trƣớc khi có Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 Pháp lệnh THADS ngày 28/8/1989, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1990, việc tập trung thống nhất những quy định về THADS vào một hình thức văn bản pháp lý có hiệu lực cao đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật trong việc THADS, góp phần bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tập thể và công dân, góp phần tăng cường pháp chế XHCN. Nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều 7 Pháp lệnh THADS ngày 28/8/1989, theo đó "Người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến việc thi
  • 35. 35 hành án được tham gia vào việc thi hành án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình" [24]. Theo quy định này việc THADS không những phải bảo đảm quyền lợi của người được thi hành án mà còn phải bảo đảm cả quyền tham gia của người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến việc thi hành án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Theo Pháp lệnh này, cơ chế kết hợp quyền tự định đoạt của đương sự với sự chủ động của cơ quan thi hành án và Chấp hành viên được ghi nhận. Theo đó, người được thi hành có quyền yêu cầu người phải thi hành án thi hành những phán quyết của Tòa án, nhưng cũng có quyền tự hòa giải, thỏa thuận với người phải thi hành án về phương thức thi hành. Như đã phân tích ở trên về mối liên hệ giữa các nguyên tắc thì có thể coi quyền thỏa thuận trong THADS là một phương tiện để các đương sự có thể sử dụng để bảo đảm hơn quyền lợi của mình, giúp cho việc THADS được nhanh chóng và hiệu quả hơn. 1.4.3. Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 đến trƣớc khi có Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 Đầu những năm 1990, công cuộc đổi mới nói chung và cải cách bộ máy nhà nước nói riêng đã được tiến hành một cách khá tích cực, khẩn trương. Hiến pháp năm 1992 và các Luật về tổ chức bộ máy nhà nước được Quốc hội khóa IX thông qua vào tháng 10/1992, đã đặt ra những nguyên tắc nền tảng cho quá trình cải cách Tư pháp, trong đó công tác THADS được đổi mới một cách cơ bản. Khác với Luật Tổ chức TAND năm 1981, Luật Tổ chức TAND năm 1992 không quy định thẩm quyền của TAND trong việc thi hành án. Trong khi đó Luật Tổ chức Chính phủ năm 1992 lần đầu tiên đã xác định việc "quản lý công tác thi hành án" là một trong những nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực pháp luật và hành chính tư pháp. Pháp lệnh THADS ban hành ngày 21/4/1993, có hiệu lực ngày 01/6/1993 đã thay thế Pháp lệnh THADS ban hành ngày 28/8/1989. Tại Điều 8 Pháp lệnh này đã tiếp tục ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người có
  • 36. 36 liên quan đến việc thi hành án. Theo đó, "người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến việc thi hành án được tham gia vào việc thi hành án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình" [40]. Như vậy, tại thời kì này, ngoài việc chú trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự tại Điều 2 Pháp lệnh THADS ban hành ngày 21/4/1993 theo hướng bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được các đương sự nghiêm chỉnh thi hành, các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân tôn trọng thì Pháp lệnh này cũng đã quan tâm và tôn trọng việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người có liên quan đến việc thi hành án. Điểm khác biệt căn bản nhất của Pháp lệnh THADS năm 1993 so với Pháp lệnh THADS năm 1989 chính là ở các quy định về chủ thể chính có trách nhiệm bảo đảm quyền lợi của đương sự và người liên quan trong THADS. Theo Pháp lệnh THADS năm 1989, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm quyền lợi của đương sự và người liên quan trong THADS, còn theo Pháp lệnh THADS năm 1993 thì nhiệm vụ này được chuyển giao cho hệ thống các cơ quan THADS. Việc quy định chặt chẽ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Chấp hành viên và quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh này đã khẳng định địa vị pháp lý của đội ngũ Chấp hành viên trong tổ chức bộ máy nhà nước tương xứng với nhiệm vụ được Nhà nước giao phó đã phần nào thể hiện định hướng của Nhà nước ta trong công tác THADS là bảo đảm tối đa quyền lợi ích của các chủ thể tham gia THADS. Như vậy, cùng với việc hình thành hệ thống cơ quan THADS, một cơ chế phối hợp về THADS cũng đã được xác lập. Theo nghiên cứu của chúng tôi thì phải đặt công tác THADS trong tổng thể hoạt động triển khai các nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội thì mới thấy hết ý nghĩa của cơ chế phối hợp này. Sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ động, phát huy
  • 37. 37 trách nhiệm của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án và sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của Ủy ban nhân dân các cấp, sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý thức trách nhiệm của cả cộng đồng trong hoạt động THADS. 1.4.4. Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 đến khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008 Qua hơn 10 năm thi hành, Pháp lệnh THADS năm 1993 đã bộc lộ nhiều bất cập trước những đòi hỏi của quá trình đổi mới, cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Nhiều vướng mắc về cơ chế quản lý, mô hình tổ chức, thủ tục THADS chưa được tháo gỡ kịp thời, dẫn đến tình trạng án tồn đọng có xu hướng gia tăng, đòi hỏi pháp luật THADS cần có sự bổ sung, hoàn thiện kịp thời để nâng cao hiệu quả công tác THADS. Vì vậy, ngày 14/01/2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh THADS sửa đổi thay thế Pháp lệnh THADS năm 1993. Pháp lệnh thời kỳ này đã quy định nhiều nguyên tắc hơn để bảo đảm cho quyền lợi hợp pháp của các chủ thể trong THADS được thực hiện như nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định dân sự; Quyền yêu cầu thi hành án; Tự nguyện thi hành án; Cưỡng chế thi hành án; Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân trong việc thi hành án; Kiểm sát việc thi hành án. Đặc biệt, nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người có liên quan đến việc thi hành án được quy định tại Điều 9 Pháp lệnh THADS năm 2004. Theo đó, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án được tham gia vào việc thi hành án và có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Đối chiếu với quy định của Pháp lệnh THADS năm 1993, Nghị định số 30/CP ngày 02/6/1993 của Chính phủ thì những quy định tại Pháp lệnh THADS năm 2004 và Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính
  • 38. 38 phủ đã có một bước tiến rõ rệt trong việc nâng cao trách nhiệm của cơ quan THADS, Chấp hành viên trong việc bảo đảm quyền lợi của đương sự và người liên quan trong THADS. Ngày 14/11/2008, Quốc hội đã thông qua Luật THADS có hiệu lực từ 01/07/2009. Văn bản pháp lý này đã kế thừa và phát triển các quy định về bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS. Theo quy định tại Điều 5 của Luật này thì "Trong quá trình thi hành án, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ" [33]. Mặc dù Điều luật này chỉ đưa ra một quy định chung có tính khái quát nhưng về phương diện lý luận có thể rút ra nội dung của nó theo cách giải thích của một số công trình nghiên cứu trước đây và kết quả nghiên cứu về khái niệm của nguyên tắc này. Theo đó, cơ quan thi hành án, Thừa phát lại và các chủ thể có trách nhiệm hỗ trợ, phối hợp trong THADS phải tổ chức THADS theo đúng pháp luật và đúng nội dung bản án, quyết định được thi hành, không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể có quyền lợi và bảo đảm cho họ thực hiện quyền yêu cầu thi hành án, được tham gia vào quá trình thi hành án để bảo vệ quyền lợi của mình và thực hiện quyền khiếu nại đối với các hành vi trái pháp luật trong thi hành án. KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS, Chương 1 của luận văn đã đạt được một số kết quả cơ bản sau: Trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống các khái niệm về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS, luận văn đã xây dựng một cách đầy đủ và hoàn chỉnh khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS và ý nghĩa của nó.
  • 39. 39 Luận văn cũng xác định được cơ sở xây dựng nguyên tắc trên và mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS với các nguyên tắc khác trong THADS. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra được mối quan hệ mật thiết và tương hỗ về mối liên hệ giữa các nguyên tắc trong việc bảo vệ quyền lợi của các chủ thể. Luận văn cũng đã làm rõ quá trình hình thành và phát triển của các qui định về nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong pháp luật THADS Việt Nam. Kết quả nghiên cứu này giúp cho tác giả luận văn có góc nhìn xuyên suốt và sâu sắc về vấn đề nghiên cứu. Tuy nhiên, để việc nghiên cứu về nguyên tắc này được toàn diện, sâu sắc hơn thì việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về nguyên tắc này (Chương 2) và thực tiễn thực hiện (Chương 3) là hết sức cần thiết.
  • 40. 40 Chương 2 NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THI HÀNH ÁN 2.1. CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN, LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ VÀ NGƢỜI LIÊN QUAN 2.1.1. Quy định về bảo đảm quyền yêu cầu thi hành án với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự Trước đây, Pháp lệnh THADS năm 1993 chưa quy định quyền yêu cầu THADS của người phải THADS. Trong thực tiễn nhiều trường hợp vì nhiều lý do khác nhau, người được thi hành án không làm đơn yêu cầu thi hành án ngay sau khi có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Trong khi đó, người phải thi hành án đã có điều kiện thi hành, hơn thế, mong muốn nhanh chóng thực hiện xong nghĩa vụ của mình. Do vậy, Pháp lệnh THADS năm 2004 và Luật THADS năm 2008 đã bổ sung quy định theo hướng mở rộng quyền làm đơn yêu cầu thi hành án đối với cả người phải thi hành án. Theo quy định tại Điều 7 Luật THADS thì "Người được thi hành án, người phải thi hành án căn cứ vào bản án, quyết định có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án" [33]. Mục đích của việc bổ sung quy định này là nhằm khuyến khích ý thức tự giác chấp hành pháp luật của người phải thi hành án cũng như để đảm bảo quyền lợi của họ trong trường hợp cần thiết (ví dụ: Nếu thi hành án xong thì họ sẽ được xác nhận và đảm bảo thủ tục xuất nhập cảnh, hoặc để làm điều kiện xét giảm án phạt tù...). Ngoài việc mở rộng chủ thể có quyền yêu cầu THADS thì pháp luật cũng đã ghi nhận những cơ chế nhất định để tạo điều kiện cho đương sự có thể bảo vệ quyền lợi của mình. Để thi hành được bản án, quyết định dân sự thì bản án, quyết định tuyên phải chính xác, rõ ràng và các đương sự phải nhận
  • 41. 41 thức được đúng quyền, nghĩa vụ thi hành án và thời hiệu THADS. Thực tế, tổ chức THADS cho thấy không phải trường hợp nào việc tổ chức THADS cũng đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu đó. Do vậy, pháp luật THADS của chúng ta đã có những quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức ra bản án, quyết định phải giải thích cho các đương sự quyền, nghĩa vụ thi hành án của họ, thời hiệu yêu cầu THADS và giải thích bản án, quyết định trong trường hợp chúng không chính xác, rõ ràng. Đây là yếu tố cơ bản để các đương sự và những người liên quan thực hiện và bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong THADS, được quy định cụ thể tại Điều 382 BLTTDS, Điều 26 và Điều 179 Luật THADS. Về hướng dẫn quyền yêu cầu THADS, Điều 26 Luật THADS quy định: "Khi ra bản án, quyết định, Tòa án, Hội đồng xứ lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại phải giải thích cho đương sự, đồng thời ghi rõ trong bản án, quyết định về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án" [33]. Tòa án cần phải thích cho các đương sự rõ khi bản án, quyết định có hiệu lực thi hành, các đương sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án, nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả thi hành án theo thỏa thuận được công nhận. Trong trường hợp đương sự không thỏa thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan THADS thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định. Luật THADS 2008 không có điều luật quy định về nghĩa vụ thi hành án nhưng ta cần phải hiểu đó là những nghĩa vụ đã được quyết định theo bản án hoặc quyết định của Tòa án. Như vậy, tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án chọn cách giải thích khác nhau. Điều 179 Luật THADS về trách nhiệm của cơ quan ra bản án, quyết định trong việc bảo đảm quyền lợi của đương sự như sau: 1. Bảo đảm bản án, quyết định đã tuyên chính xác, rõ ràng, cụ thể, phù hợp với thực tế.
  • 42. 42 2. Có văn bản giải thích những nội dung mà bản án, quyết định tuyên chưa rõ trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của đương sự hoặc của cơ quan thi hành án dân sự. Trường hợp vụ việc phức tạp thì thời hạn trả lời không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. 3. Trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự về việc xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị. 4. Thụ lý và kịp thời giải quyết yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, đương sự về việc xác định quyền sở hữu, phân chia tài sản hoặc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản thuộc thẩm quyền của Tòa án phát sinh trong quá trình thi hành án [33]. Theo quy định tại Điều 2 Luật THADS, những bản án, quyết định dân sự được đưa ra thi hành án phải là những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Tuy vậy, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, Điều luật này còn quy định những bản án, quyết định được đưa ra thi hành bao gồm cả những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng theo quy định của pháp luật được thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị hoặc khiếu nại như bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc; Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Khi ra bản án, quyết định, Tòa án, hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh, trọng tài thương mại phải ghi rõ trong bản án, quyết định quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án đồng thời giải thích rõ cho các đương sự biết rõ các vấn đề này. Trong trường hợp bản án, quyết định không rõ ràng thì người được thi hành án, người phải thi hành án
  • 43. 43 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án, quyết định và cơ quan THADS có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức đã ra bản án, quyết định giải thích những điểm chưa rõ trong bản án, quyết định để thi hành. Nhận được yêu cầu giải thích bản án, quyết định cơ quan tổ chức đã ra quyết định bản án phải có văn bản giải thích những nội dung chưa rõ của bản án, quyết định trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp vụ việc phức tạp thì thời hạn trả lời không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Quyền yêu cầu THADS được giới hạn bởi thời hiệu yêu cầu thi hành án theo quy định của Luật THADS. Thời hiệu yêu cầu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật THADS. Thời hiệu yêu cầu thi hành án là thời hạn do pháp luật quy định mà trong khoảng thời gian đó người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Hết thời hạn đó, nếu người được thi hành án, người phải thi hành án vẫn không có đơn yêu cầu thi hành án, thì người được thi hành án không còn quyền yêu cầu thi hành phần bản án, quyết định chưa yêu cầu thi hành án nữa, còn người phải thi hành án không còn nghĩa vụ phải thi hành phần bản án, quyết định đó cho người được thi hành án nữa. Bản án, quyết định hết hiệu lực thi hành (đối với phần thi hành theo đơn yêu cầu). Quyền yêu cầu thi hành án chỉ được thực hiện trong thời hạn 05 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (hoặc nghĩa vụ đến hạn hay đến định kỳ quy định trong bản án). Quá thời hạn này, nếu người yêu cầu thi hành án không chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì hết quyền yêu cầu thi hành án. Vấn đề này, từ trước đến nay ít được chú ý khi cấp bản án, quyết định cho đương sự nên các bên đương sự không biết để yêu cầu. Do vậy, để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và người liên quan trong THADS, Tòa án có trách nhiệm phải giải thích rõ các bên đương sự trong THADS
  • 44. 44 được biết về quyền làm đơn yêu cầu thi hành án chỉ được tiến hành trong thời hiệu luật định. 2.1.2. Quy định về từ chối, trả đơn yêu cầu thi hành án với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự Để bảo đảm quyền yêu cầu THADS của các đương sự và có cơ sở xác định trách nhiệm tổ chức thi hành án của các cơ quan thi hành án khi cần thiết, pháp luật quy định một cách rất rõ ràng và minh bạch việc nhận, từ chối, trả đơn yêu cầu thi hành án. Theo quy định tại Điều 33 Luật THADS và Điều 4 Nghị định của Chính phủ số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009, khi nhận đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan THADS phải kiểm tra nội dung đơn và các tài liệu kèm theo, vào sổ nhận đơn và cấp giấy biên nhận cho người nộp đơn. Việc cấp trực tiếp hoặc gửi bằng đường bưu điện giấy biên nhận cho người nộp đơn yêu cầu thi hành án phải được thực hiện ngay sau khi nhận được đơn yêu cầu thi hành án. Đây là những quy định nhằm gắn chặt trách nhiệm và chống sự lạm quyền của các cơ quan THADS nhằm đảm bảo quyền lợi của đương sự và người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến THADS. Đối với trường hợp đơn thi hành án không có đầy đủ các nội dung theo quy định của pháp luật hoặc không nếu rõ thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án và không yêu cầu xác minh thì cơ quan THADS thông báo để đương sự bổ sung nội dung đơn yêu cầu THADS trước khi quyết định thi hành án. Đối với trường hợp đơn yêu cầu thi hành án không có đầy đủ các điều kiện thi hành án theo quy định của pháp luật thì cơ quan THADS từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án. Để chống sự lạm quyền của các cơ quan THADS nhằm đảm quyền lợi của đương sự và người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến THADS, Điều 34 Luật THADS đã ấn định các trường hợp cụ thể mà cơ quan THADS được từ chối nhận đơn yêu cầu THADS:
  • 45. 45 - Người yêu cầu thi hành án không có quyền yêu cầu thi hành án hoặc nội dung đơn yêu cầu thi hành án không liên quan đến nội dung của bản án, quyết định; - Cơ quan THADS được yêu cầu không có thẩm quyền thi hành án; Ngoài ra, Điều 51 Luật THADS cũng quy định cụ thể và giới hạn những trường hợp mà cơ quan THADS được trả đơn yêu cầu THADS nhằm hạn chế sự lạm quyền từ phía cơ quan THADS và bảo đảm quyền lợi chính đáng của người phải THADS, tránh việc đẩy họ vào tình trạng khốn cùng. Theo đó, cơ quan THADS chỉ được trả đơn yêu cầu THADS trong các trường hợp sau: - Người phải thi hành án không có tài sản để thi hành án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản đó theo quy định của pháp luật không được xử lý để thi hành án; - Người phải thi hành án không có thu nhập hoặc mức thu nhập thấp, chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án và gia đình; - Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận để thi hành án; - Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc định nhưng vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được mà đương sự không có thỏa thuận khác. Việc trả lại đơn yêu cầu thi hành án không làm thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ của đương sự đã được tuyên trong bản án, quyết định mà nó chỉ làm thay đổi về thời điểm đảm bảo các quyền, nghĩa vụ đó mà thôi. Và theo nghĩa đó, việc trả lại đơn yêu cầu chỉ xảy ra đối với các trường hợp thuộc diện thi hành án theo đơn yêu cầu và nghĩa vụ thi hành án thường có thể là nghĩa vụ về tiền hoặc nghĩa vụ về tài sản. Trong hoạt động của mình, cơ quan THADS được sử dụng quyền lực nhà nước để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và bảo đảm hiệu
  • 46. 46 lực thi hành bản án quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, quyền lực nhà nước mà cơ quan THADS sử dụng để bảo đảm thi hành các bản án, quyết định nói trên chỉ nằm trong một giới hạn theo quy định của pháp luật. Chính vì vậy, trong thực tế nhiều trường hợp, đương sự (chủ yếu là người được thi hành án) đã có những phản ứng gay gắt khi cơ quan thi hành án ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án cho họ vì lý do người phải thi hành án không có điều kiện thi hành. Họ yêu cầu cơ quan thi hành án phải có những biện pháp mạnh hơn đối với người phải thi hành án để bảo vệ quyền lợi cho họ và khi những yêu cầu đó không được đáp ứng thì họ cho rằng cơ quan thi hành án thiếu trách nhiệm hoặc cho rằng pháp luật không nghiêm minh. Trong trường hợp này, thường thì Chấp hành viên rất khó để giải thích thỏa đáng cho người được thi hành án hiểu tại sao cơ quan thi hành án không thể thực hiện theo yêu cầu của họ. Có thể nói, việc trả lại đơn yêu cầu thi hành án tuy không làm mất đi quyền lợi, nghĩa vụ của các bên đương sự đã được xác định trong bản án, quyết định nhưng hệ quả nó lại làm chậm quá trình đảm bảo quyền lợi cho người được thi hành án và xét đến cùng thì cũng có ảnh hưởng nhất định đến lợi ích của người được thi hành án. Do đó, việc trả lại đơn cần phải được thực hiện một cách thật khách quan, đúng căn cứ mà pháp luật quy định. Một lần nữa khẳng định vai trò cũng như tầm quan trọng của công tác xác minh điều kiện thi hành án xuyên suốt trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định. Có xác minh một cách trung thực, khách quan thì mới có thể thực hiện việc trả đơn yêu cầu thi hành án một cách có chất lượng và đúng pháp luật. Từ đó hạn chế được các vấn đề về khiếu nại, tố cáo có liên quan đến THADS. 2.1.3. Quy định về trách nhiệm của ngƣời đƣợc thi hành án trong việc cung cấp thông tin tài sản hoặc điều kiện thi hành Quy định về trách nhiệm của người được thi hành án trong việc cung cấp thông tin tài sản hoặc điều kiện thi hành lần đầu tiên chính thức được đưa vào nội dung đơn yêu cầu thi hành án như là một điều kiện bắt buộc.
  • 47. 47 Tại điểm d khoản 1 Điều 31 Luật THADS quy định đơn yêu cầu thi hành án có các nội dung chính sau đây: a) Họ, tên, địa chỉ của người yêu cầu; b) Tên cơ quan thi hành án dân sự nơi yêu cầu; c) Họ, tên, địa chỉ của người được thi hành án; người phải thi hành án; d) Nội dung yêu cầu thi hành án; đ) Thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi hành án [33]. Tại khoản 2 Điều 4 Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật THADS về thủ tục THADS (sau đây gọi tắt là Nghị định số 58/2009/NĐ-CP) hướng dẫn vấn đề này như sau: Đơn yêu cầu thi hành án phải có đầy đủ các nội dung theo quy định tại Điều 31 Luật thi hành án dân sự. Trường hợp đơn yêu cầu thi hành án không có đầy đủ các nội dung theo quy định hoặc không nêu rõ thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án nhưng không yêu cầu xác minh thì cơ quan thi hành án dân sự thông báo để đương sự bổ sung nội dung đơn yêu cầu thi hành án trước khi ra quyết định thi hành án [15]. Về trách nhiệm xác minh của đương sự, Điều 6 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP quy định: 1. Người được thi hành án có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh điều kiện thi hành án. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin khi người được thi hành án hoặc người đại diện theo ủy quyền của người được
  • 48. 48 thi hành án ủy quyền có yêu cầu. Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân đó từ chối cung cấp thì phải có văn bản trả lời và nêu rõ lý do. Kết quả xác minh được công nhận và làm căn cứ để tổ chức việc thi hành án, trừ trường hợp Chấp hành viên thấy cần thiết phải xác minh lại. Việc xác minh lại của Chấp hành viên được tiến hành trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được kết quả xác minh do đương sự cung cấp. Trường hợp người được thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân cố tình cung cấp thông tin sai sự thật về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, thanh toán các chi phí phát sinh, trường hợp gây ra thiệt hại thì phải bồi thường. 2. Người được thi hành án khi yêu cầu Chấp hành viên xác minh điều kiện thi hành án phải xuất trình các tài liệu hoặc biên bản làm việc để chứng minh việc người đó hoặc người đại diện theo ủy quyền đã tiến hành xác minh tại các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ các thông tin về tài sản, đang quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án nhưng không có kết quả. Việc xác minh tại các cơ quan, tổ chức, cá nhân được coi là không có kết quả khi người được thi hành án hoặc người được ủy quyền chứng minh đã trực tiếp hoặc yêu cầu bằng văn bản nhưng đã quá thời hạn 01 tháng, kể từ ngày yêu cầu nhưng không nhận được văn bản trả lời của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà không có lý do chính đáng [15]. Tiếp theo tại Điều 44 Luật THADS quy định về điều kiện để đương sự yêu cầu cơ quan thi hành án tiến hành xác minh: ... Trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu, nếu người được thi hành án đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thể tự xác