SlideShare a Scribd company logo
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHÙNG TRUNG THẮNG
TỘI GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. NGUYỄN NGỌC ANH
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận
văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phùng Trung Thắng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI GÂY Ô NHIỄM
MÔI TRƯỜNG................................................................................8
1.1. Cơ sở lý luận và ý nghĩa của việc quy định tội gây ô nhiễm môi
trường trong Việt Nam.......................................................................8
1.1.1. Cơ sở lý luận của việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường
trong Bộ luật hình sự Việt Nam .........................................................8
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong Bộ
luật hình sự ...................................................................................... 14
1.2. Khái niệm ô nhiễm môi trường, tội gây ô nhiễm môi trường ...........18
1.2.1. Khái niệm ô nhiễm môi trường ........................................................18
1.2.2. Khái niệm tội gây ô nhiễm môi trường ............................................ 19
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự
Việt Nam về tội gây ô nhiễm môi trường......................................... 21
1.3.1. Giai đoạn sau khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ nhất –
Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật
hình sự lần thứ hai - Bộ luật hình sự năm 1999................................ 21
1.3.2. Giai đoạn từ sau khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ hai –
Bộ luật hình sự năm 1999 đến trước khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật
hình sự năm 1999.............................................................................23
1.3.3. Giai đoạn từ sau khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999
(Bộ luật hình sự hiện hành) đến nay................................................. 25
1.4. Quan điểm của cộng đồng quốc tế và quy định của một số nước
về tội gây ô nhiễm môi trường......................................................... 28
1.4.1. Quan điểm của cộng đồng quốc tế về tội gây ô nhiễm môi trường...28
1.4.2. Quy định về tội gây ô nhiễm môi trường trong pháp luật hình sự
của một số nước............................................................................... 34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.............................................................................41
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ TỘI GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG................................................................ 42
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội gây ô
nhiễm môi trường ............................................................................ 42
2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội gây ô nhiễm môi
trường trong Bộ luật hình sự hiện hành............................................ 42
2.1.2. Quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về hình phạt đối với tội
gây ô nhiễm môi trường...................................................................56
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện
hành về tội gây ô nhiễm môi trường................................................. 58
2.2.1. Tình hình áp dụng............................................................................ 58
2.2.2. Những bất cập của việc áp dụng xử lý tội gây ô nhiễm môi trường......... 65
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.............................................................................80
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỘI
GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG .............................................................................81
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tội gây ô nhiễm môi trường ........81
3.1.1. Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về
tội gây ô nhiễm môi trường.............................................................. 81
3.1.2. Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật khác bảo đảm tính đồng
bộ, thống nhất trong phòng chống tội phạm gây ô nhiễm môi trường.... 93
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật về
tội gây ô nhiễm môi trường.............................................................. 99
3.2.1. Tăng cường công tác, phổ biến tuyên truyền nhằm nâng cao ý
thức của cá nhân, tổ chức, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc
trong cuộc chiến chống ô nhiễm môi trường.................................... 99
3.2.2. Tích cực phối hợp trong việc phát hiện, điều tra, xác định thiệt
hại xảy ra đối với tội phạm gây ô nhiễm môi trường...................... 103
3.2.3. Nghiên cứu, kết hợp hài hòa giữa bảo vệ môi trường với chính sách
ưu đãi hoạt động đầu tư, sản xuất và kinh doanh của địa phương,
đồng thời, tăng cường kiểm tra, thanh tra và kiên quyết xử lý các cơ
sở, doanh nghiệp gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường...................... 103
3.2.4. Tăng cường trang bị cơ sở vật chất, đào tạo chuyên môn, bảo
đảm phục vụ tốt cho việc xác minh thiệt hại .................................. 105
3.2.5. Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong việc phòng chống tội
phạm gây ô nhiễm môi trường ở Việt Nam.................................... 107
KẾT LUẬN............................................................................................... 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 111
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
TNHS trách nhiệm hình sự
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Tỷ lệ xử phạt vi phạm hành chính hành vi gây ô nhiễm
môi trường từ năm 2009 đến 2013 59
Bảng 2.2: Tình hình khởi tố và xét xử tội gây ô nhiễm môi
trường từ năm 2009 đến năm 2013 64
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 2.1: Thống kê số lượng các vụ việc gây ô nhiễm môi trường bị
xử phạt vi phạm hành chính từ năm 2009 đến năm 2013 61
Biểu đồ 2.2: Sự phát triển của hành vi gây ô nhiễm môi trường
trong tổng số các hành vi vi phạm về môi trường bị
phát hiện và xử lý từ năm 2009 đến năm 2013 63
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sau gần ba mươi năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên nhiều phương diện. Đất nước đã thoát
khỏi tình trạng khủng hoảng, nền kinh tế tăng trưởng nhanh, chính trị xã hội
ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt, vị thế trên trường quốc
tế không ngừng nâng cao. Chúng ta đang có cả thế và lực mới để đẩy nhanh
quá trình hội nhập, đồng thời, tạo đà cho sự phát triển mọi mặt của đất nước
trong thiên niên kỉ mới. Tuy vậy, để hướng tới một sự phát triển bền vững
khi đất nước ta đang trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đã đặt ra không ít những khó khăn, thách thức mà điển hình của một trong số
đó là vấn đề về ô nhiễm môi trường. Hiện nay, ô nhiễm môi trường vẫn luôn
là vấn đề nóng của tất cả các quốc gia trên thế giới dù cho quốc gia đó là
quốc gia đã phát triển hay đang phát triển. Đối với một đất nước đang phát
triển chủ yếu dựa vào quá trình khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên tự
nhiên như Việt Nam thì sự tác động, ảnh hưởng của con người đối với môi
trường là rất lớn. Nhận thức được tầm quan trọng sống còn của việc gìn giữ
môi trường, Nhà nước ta đã áp dụng đồng thời nhiều biện pháp bảo vệ môi
trường, trong đó rất chú trọng ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử
lý tội phạm và các vi phạm pháp luật khác về môi trường. Thực hiện các văn
bản quy định về xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến môi trường như xử lý
tội phạm về môi trường đã đạt được một số hiệu quả nhất định. Tuy nhiên,
thực tế hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường ở Việt Nam đã tới mức báo
động và đang trở thành vấn nạn tại nhiều địa phương trên cả nước. Tại các
thành phố lớn hay ngay cả nhiều vùng nông thôn, hàng trăm cơ sở sản xuất
công nghiệp đã và đang gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường xung quanh do
không có công trình, thiết bị xử lý chất thải hoặc những thiết bị này hoạt
2
động không hiệu quả. Nguy hiểm hơn, chính là việc các cơ sở này cố tình xả
trộm trực tiếp ra môi trường xung quanh các chất thải mà không qua bất kỳ
một khâu xử lý nào. Điều này sẽ tiết kiệm một khoản tiền lớn khi mà các cơ
sở sản xuất, kinh doanh này không phải xây dựng hoặc vận hành các hệ
thống xử lý chất thải ra trong quá trình sản xuất của đơn vị mình. Nếu sự
việc bị phát hiện, việc xử lý các đơn vị đó gặp rất nhiều rào cản như chính
sách ưu đãi đầu tư của địa phương, quy định xử phạt vi phạm hành chính
quá nhẹ.v.v..không khiến cho các cá nhân, tổ chức này run tay mà tiếp tục
thực hiện các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Đứng trước tình hình đó,
việc các nhà làm luật tội phạm hóa các hành vi gây ô nhiễm môi trường dưới
tội danh – Tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 182) trong BLHS hiện hành là
việc làm rất kịp thời và thể hiện sự quyết tâm thực hiện mục tiêu bảo vệ môi
trường mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra. Tuy nhiên, tính cho tới thời điểm
hiện nay, chưa có một vụ án nào được đưa ra xét xử theo quy định về tội gây
ô nhiễm môi trường theo BLHS hiện hành. Như vậy, có thể khẳng định:
pháp luật nói chung, pháp luật hình sự quy định về tội phạm gây ô nhiễm
môi trường còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho hoạt động phòng, chống tội
phạm về môi trường; cần phải được tổng kết, rút kinh nghiệm để đề xuất các
giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự về tội phạm gây ô nhiễm môi trường.
Mặt khác, nhìn nhận từ góc độ lý luận cho thấy, vấn đề nghiên cứu lý luận
về tội phạm môi trường nói chung, tội gây ô nhiễm môi trường nói riêng
chưa được quan tâm đúng mức. Trong điều kiện đó, việc nghiên cứu cơ sở lý
luận và thực tiễn để đề xuất giải pháp hoàn thiện phối hợp và nâng cao hiệu
quả phòng, chống tội phạm gây ô nhiễm môi trường đang được đặt ra như
một nhu cầu bức xúc. Nhận thức như vậy, chúng tôi đã chọn vấn đề “Tội gây
ô nhiễm môi trường trong luật hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc
sĩ luật học của mình.
3
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về các tội phạm môi
trường mà tiêu biểu là một số công trình như: Lực lượng Công an nhân dân
nâng cao trách nhiệm và hiệu quả trong công tác bảo vệ môi trường của
Trung tướng Đặng Văn Hiếu, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ
Công an năm 2007; Đề tài khoa học Tội phạm về môi trường - một số vấn đề
lý luận và thực tiễn năm 2003 do tiến sĩ Phạm Văn Lợi, Phó viện trưởng viện
Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp làm chủ nhiệm; luận án tiến sĩ TNHS đối với
các tội phạm về môi trường năm 2011 của tác giả Dương Thanh An; luận văn
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm môi trường theo Luật hình
sự Việt Nam của tác giả Nguyễn Trí Chinh năm 2010, Khoa luật – Đại học
quốc gia Hà Nội.v.v... Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên các đề
tài này mới chỉ đề cập nghiên cứu ở những góc độ nhất định về tội phạm môi
trường nói chung mà chưa nghiên cứu một cách chi tiết về từng loại tội phạm
môi trường. Theo những nghiên cứu như trên cho thấy, tính cho tới thời điểm
hiện tại chưa có một công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về tội gây ô
nhiễm môi trường ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về tội gây ô
nhiễm môi trường; thực trạng quy định và nội dung tội gây ô nhiễm môi
trường theo BLHS Việt Nam hiện hành; qua đó đề xuất các giải pháp hoàn
thiện nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS đối với tội phạm
gây ô nhiễm môi trường trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đảm bảo đạt được các mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra
và giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau:
4
- Tổng hợp, phân tích và làm rõ một số khía cạnh về tội gây ô nhiễm
môi trường như: Khái niệm, cơ sở lý luận và ý nghĩa của việc quy định tội
gây ô nhiễm môi trường;
- Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam
về tội gây ô nhiễm môi trường và đưa ra một số nhận định đánh giá;
- Nghiên cứu quy định về tội gây ô nhiễm môi trường của pháp luật
quốc tế và tại một số nước trong khu vực và trên thế giới nhằm phân tích,
đánh giá để học hỏi kinh nghiệm lập pháp;
- Nghiên cứu các quy định cụ thể về tội gây ô nhiễm môi trường trong
BLHS hiện hành của Việt Nam từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về tội gây ô
nhiễm môi trường để làm cơ sở chỉ ra những tồn tại, hạn chế qua việc áp dụng
và những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế;
- Tổng hợp kết quả nghiên cứu và đề xuất những phương án, giải pháp
hoàn thiện các quy định của BLHS Việt Nam cũng như những giải pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng tội gây ô nhiễm môi trường trong thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là qui định về tội gây ô nhiễm môi
trường tại Điều 182 chương XVII. Các tội phạm về môi trường của Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của BLHS (Luật số 37/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm
2009); Điều 182. Tội gây ô nhiễm không khí, Điều 183. Tội gây ô nhiễm nguồn
nước và Điều 184. Tội gây ô nhiễm đất của BLHS năm 1999; quan điểm, đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta và các tài liệu khác có liên
quan đến hoạt động đấu tranh đối với tội phạm gây ô nhiễm môi trường.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu về nội dung mà luận văn xác định bao gồm:
5
khái niệm, cơ sở lý luận và ý nghĩa của việc quy định tội gây ô nhiễm môi
trường trong BLHS; lịch sử hình thành, quy định về tội gây ô nhiễm môi
trường theo pháp luật quốc tế và tại một số nước; quy định, thực trạng áp
dụng tội gây ô nhiễm môi trường; nguyên nhân, hạn chế và đề xuất phương
án hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng tội gây ô nhiễm môi
trường trong thực tiễn.
- Về thời gian: luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng tội gây ô nhiễm
môi trường từ năm 2010 đến nay.
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh, phòng ngừa, chống tội phạm được thể hiện
trong Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị (Khoá IX)
về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá
đất nước, Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 21/01/2009 của Ban Bí thư về tiếp tục
thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng phương pháp
nghiên cứu của chuyên ngành luật hình sự và các phương pháp nghiên cứu cụ
thể là: phương pháp hệ thống; phương pháp thống kê; phương pháp phân tích
và tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp điều tra xã hội học.
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Là công trình nghiên cứu khoa học có hệ thống và tương đối toàn diện
về tội gây ô nhiễm môi trường trong Luật hình sự Việt Nam nên kết quả
nghiên cứu của luận văn có một số điểm mới cụ thể là:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội gây ô nhiễm môi trường
được quy định trong BLHS Việt Nam hiện hành;
6
- Chỉ ra được những vướng mắc, bất cập của các quy định hiện hành
liên quan đến tội gây ô nhiễm môi trường trong BLHS Việt Nam hiện hành;
- Tổng hợp chi tiết những nguyên nhân chính khó khăn cho việc áp
dụng quy định về tội gây ô nhiễm môi trường trên thực tế của BLHS Việt
Nam hiện hành;
- Đưa ra được hệ thống các kiến nghị, nâng cao hiệu quả áp dụng quy
định về Tội gây ô nhiễm môi trường của BLHS;
- Với kết quả nêu trên, luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo cho những người nghiên cứu, học tập, công tác thực tiễn liên quan đến
lĩnh vực phòng chống tội phạm về môi trường.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận, luận văn đi sâu vào nghiên cứu những quy định về tội
gây ô nhiễm môi trường trong BLHS hiện hành để làm sáng tỏ những kiến
thức cơ bản nhất cũng như chỉ ra những ưu điểm và hạn chế trong các quy
định về loại tội phạm này, cùng quan điểm quốc tế về tội gây ô nhiễm môi
trường cũng như quy định tương tự trong pháp luật hình sự của một số nước
trên thế giới sẽ giúp cho các nhà làm luật nước ta có thêm nguồn thông tin để
phân tích, đánh giá và học hỏi kỹ thuật lập pháp để tiếp tục hoàn thiện quy
định về tội này trong quá trình sửa đổi, bổ sung tiếp theo của BLHS.
- Về mặt thực tiễn, những số liệu mà luận văn cung cấp sẽ giúp cho
các nhà nghiên cứu có sự đánh giá chính xác về hiệu quả của việc áp dụng
tội gây ô nhiễm môi trường trong thời gian qua. Luận văn cũng chỉ ra
những bất cập, nguyên nhân ảnh hưởng tới việc áp dụng của tội gây ô
nhiễm môi trường. Những giải pháp, kiến nghị mà luận văn đề xuất sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về tội gây ô nhiễm môi trường
của BLHS trên thực tế, phục vụ yêu cầu đấu tranh phòng chống các loại tội
phạm về môi trường trong thời gian tới.
7
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về tội gây ô nhiễm môi trường
Chương 2. Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội
gây ô nhiễm môi trường và thực tiễn áp dụng
Chương 3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về tội gây ô nhiễm môi
trường và nâng cao hiệu quả áp dụng
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI
GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
1.1. Cơ sở lý luận và ý nghĩa của việc quy định tội gây ô nhiễm môi
trường trong Bộ luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Cơ sở lý luận của việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường
trong Bộ luật hình sự Việt Nam
Trong những thập kỷ gần đây, ô nhiễm môi trường luôn là vấn đề
nghiêm trọng mà nhiều quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt. Các vấn đề
về ô nhiễm đã khiến người dân trên khắp trái đất phải đương đầu với nhiều
bệnh dịch có sức tàn phá khủng khiếp. Theo một báo cáo của Tổ chức Phát
triển và Hợp tác kinh tế (OECD), tới năm 2050, ô nhiễm môi trường sẽ trở
thành “kẻ sát nhân” khiến 3,6 triệu người chết mỗi năm. Bên cạnh đó, những
thiệt hại do ô nhiễm môi trường đã tàn phá nặng nề nền kinh tế như các chi
phí khám, chữa bệnh, tổn thất sức lao động, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng
thủy, hải sản v.v… Những hội nghị quốc tế về môi trường như Hội nghị
Stockholm năm 1972, Hội nghị thượng đỉnh trái đất Rio năm 1992, Tuyên bố
thiên niên kỉ năm 2000, Hội nghị thượng đỉnh trái đất về phát triển bền vững
năm 2002 v.v… đã gióng lên những hồi chuông cảnh báo về những thảm họa
do ô nhiễm môi trường gây ra. Tại Việt Nam, ngay từ giai đoạn rất sớm của
quá trình phát triển đất nước theo con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước, Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức sâu sắc những hệ lụy của ô nhiễm
môi trường và đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, dưới nhiều hình thức,
vừa mang tính chiến lược nhưng cũng hết sức cụ thể để bảo vệ môi trường
hiệu quả hơn, trước sự gia tăng của các hành vi gây ô nhiễm ngày càng đa
dạng và phức tạp.
Biện pháp đầu tiên phải kể tới, đó là sự ghi nhận tại văn bản pháp lý
9
cao nhất của Nhà nước ta là Hiến pháp. Tại Điều 29, Hiến pháp năm 1992 đã
quy định rõ: “Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý
tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm
suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường” [46, Điều 29]. Trên cơ sở đó, Nhà
nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau đối với các
hành vi xâm phạm tới môi trường nói chung và hành vi gây ô nhiễm môi
trường nói riêng. Tại BLHS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1999, lần đầu tiên các nhà làm luật của nước ta đã dành hẳn một chương
riêng – Chương XVII. Các tội phạm về môi trường, trong đó có 03 điều luật
(Điều 182. Tội gây ô nhiễm không khí; Điều 183. Tội gây ô nhiễm nguồn nước
và Điều 184. Tội gây ô nhiễm đất) là cơ sở đầu tiên cho việc quy định cho hành
vi gây ô nhiễm môi trường được quy định tại Điều 182 BLHS hiện hành.
Sự phát triển của khoa học công nghệ đã tạo ra những sản phẩm mới
trên cơ sở những dạng vật chất mới, trong số đó đa phần là các chất nhân tạo,
khó phân hủy khi hết hạn sử dụng hoặc sinh ra sau khi sản xuất xong sản
phẩm. Mặc dù vậy, không phải sản phẩm nào cũng có thể tái chế hoặc trong
quá trình sản xuất không có những sản phẩm dư thừa thải ra môi trường sống
của con người gây những tác động tiêu cực đến sức khỏe, sinh hoạt, thực
phẩm v.v… mà không bị kiểm soát triệt để. Những hành vi thải vào không
khí, nguồn nước, đất đai những chất gây ô nhiễm môi trường ngày càng diễn
ra phổ biến ở nước ta tại những nơi tập chung các khu công nghiệp, khu chế
xuất, làng nghề v.v… đã ngày càng đặt ra yêu cầu phải có một chế tài đủ
mạnh không chỉ đơn giản là xử lý vi phạm hành chính mà phải được tội phạm
hóa đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường thực sự nguy hiểm cho xã
hội. Trong xu hướng của chính sách hình sự nước ta, việc sử dụng vai trò của
pháp luật hình sự trong việc bảo vệ môi trường trước các hành vi gây ô nhiễm
10
môi trường ngày càng được sử dụng nhiều hơn với mức độ quyết liệt hơn.
Việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong BLHS hiện hành được dựa
trên những cơ sở lý luận sau:
Thứ nhất, yêu cầu khách quan của việc tội phạm hóa các hành vi nguy
hiểm cho xã hội gây ô nhiễm môi trường xuất phát từ tính nguy hiểm ngày
càng cao của các hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Tại Việt Nam, quá trình phát triển kinh tế nhằm đẩy nhanh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện lực lượng sản xuất
thấp kém, nền kinh tế thị trường chưa hoàn thiện và việc khai thác, sử dụng
các nguồn tài nguyên thiên nhiên không được kiểm soát chặt chẽ đã làm cho
môi trường nông thôn bị suy thoái nghiêm trọng. Việc phát triển kinh tế đô thị
cũng làm cho môi trường tại chính các đô thị này ngày càng ô nhiễm nặng nề.
Những hành vi gây ô nhiễm môi trường không chỉ tập chung tại các khu công
nghiệp, làng nghề hay xuất nhập khẩu mà hiện nay lan rộng sang cả lĩnh vực
y tế, an toàn vệ sinh thực phẩm và bảo tồn thiên nhiên v.v… Tính chất và mức
độ của các hành vi gây ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng, phức
tạp, tinh vi và khó phát hiện. Ví dụ, năm 2008, Công ty Vedan bị phát hiện đã
bí mật xả thải ra sông Thị Vải, trong suốt 14 năm. Đứng trước những thách
thức do sự gia tăng tính nguy hiểm ngày càng cao của các hành vi gây ô
nhiễm môi trường, việc đấu tranh, ngăn chặn và phòng ngừa bằng biện pháp
hình sự là cần thiết.
Thứ hai, biện pháp hình sự chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống
các biện pháp của nhà nước để bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm.
Hiện nay, các biện pháp bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm của Nhà
nước bao gồm các biện pháp, cụ thể: 1) Các biện pháp mang tính chính trị,
bao gồm việc xác định các phương hướng cơ bản của chiến lược bảo vệ môi
trường khỏi sự ô nhiễm; 2) Các biện pháp mang tính kinh tế; 3) Các biện pháp
11
mang tính kỹ thuật, bao gồm việc xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các
biện pháp, giải pháp kỹ thuật và công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường; 4) Các
biện pháp mang tính tổ chức, bao gồm việc xây dựng hệ thống các đơn vị
quản lý, thanh tra, kiểm tra và khắc phục các sự cố về ô nhiễm môi trường; 6)
Các biện pháp mang tính giáo dục, bao gồm các chương trình giáo dục về
những hậu quả của ô nhiễm môi trường và những quy định của pháp luật đối
với các hành vi gây ô nhiễm môi trường.v.v... Mỗi biện pháp đều mang lại
những hiệu quả nhất định, tuy nhiên, pháp luật hình sự chiếm vị trí quan trọng
đặc biệt mà không ai có thể phủ nhận vai trò của nó. Với tư cách là một biện
pháp bảo vệ tính ổn định, bền vững của các mối quan hệ xã hội, pháp luật
hình sự đóng vai trò phòng ngừa và giáo dục trong công cuộc đấu tranh với
các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Khi những biện pháp xử phạt vi phạm
hành chính tỏ ra không thực sự đủ mạnh, tương xứng với tính chất và mức độ
nguy hiểm của các hành vi gây ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm
trọng thì các biện pháp hình sự chính là giải pháp cho vấn đề này. Bằng
những chế tài nghiêm khắc nhất, biện pháp hình sự sẽ có sức ảnh hưởng lớn
đối với những chủ thể có ý định thực hiện các hành vi gây ô nhiễm môi
trường. Những chủ thể này sẽ phải tính toán tới những hậu quả bất lợi có thể
bị áp dụng nếu thực hiện hành vi đó. Chính vì vậy, những biện pháp hình sự
chính là cơ sở để tăng cường công tác phòng ngừa và đấu tranh các hành vi vi
phạm pháp luật gây ô nhiễm môi trường và tạo ra những điều kiện cần thiết
cho việc tội phạm hóa những hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Thứ ba, việc tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm gây ô nhiễm môi
trường còn xuất phát từ yêu cầu của chính sách bảo vệ môi trường mà Đảng
và Nhà nước ta đã đề ra cũng như việc bảo đảm, thực hiện các cam kết quốc
tế của đất nước.
Bảo vệ môi trường trước các nguy cơ ô nhiễm khi đất nước bước vào
12
thời kỳ hội nhập từ lâu đã là một trong những chính sách ưu tiên của Đảng và
Nhà nước ta. Điều này được thể hiện thông qua một số văn bản như Nghị
quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị (Khoá IX) về bảo vệ
môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước,
Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 21/01/2009 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện
Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị.v.v… Đặc biệt, Hiến pháp của
nước ta cũng dành những quy định quan trọng về vấn đề bảo vệ môi trường.
Ví dụ, khoản 5, Điều 112 Hiến pháp năm 1992 quy định, Chính phủ có nhiệm
vụ: “Bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân…; bảo vệ môi
trường” [46, Điều 112]; Điều 44 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người
có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi
trường” [47, Điều 44]. Với việc thừa nhận quyền được sống trong môi trường
trong lành của mọi công dân, Nhà nước ta cũng khẳng định nhiệm vụ của
mình trong việc bảo vệ môi trường khỏi các hệ lụy của những hành vi gây ô
nhiễm môi trường gây ra đối với nhân dân, đồng thời, đây cũng chính là một
trong những cơ sở cho các nhà lập pháp nước ta, tội phạm hóa các hành vi này
trong pháp luật hình sự.
Hiện nay, Việt Nam đã tham gia một số lượng lớn các công ước, văn
bản pháp lý quốc tế về bảo vệ môi trường. Tại các công ước và văn bản pháp
lý quốc tế này đã yêu cầu các quốc gia ký kết quy định, áp dụng các biện pháp
quyết liệt, triệt để hơn trong đó có tính đến việc sử dụng các chế tài hình sự
đối với các hành vi nguy hiểm cho xã hội trong lĩnh vực môi trường nói
chung và gây ô nhiễm môi trường nói riêng. Do vậy, pháp luật hình sự chính
là phương tiện để thực hiện các cam kết trong các công ước và văn bản pháp
lý quốc tế khác mà Việt Nam tham gia ký kết và thực hiện. Ví dụ, Nghị định
thư Kyoto là một nghị định liên quan đến Chương trình khung về biến đổi khí
hậu mang tầm quốc tế của Liên hiệp quốc với mục tiêu cắt giảm lượng khí
13
thải gây hiệu ứng nhà kính. Bản dự thảo được kí kết vào ngày 11 tháng 12
năm 1997 tại Hội nghị các bên tham gia lần thứ ba khi các bên tham gia nhóm
họp tại Kyoto, và chính thức có hiệu lực vào ngày 16 tháng 2 năm 2005. Việt
Nam đã ký Nghị định thư Kyoto vào ngày 3/12/1998 và phê chuẩn vào ngày
25/9/2002. Đây chính là một trong các cơ sở để Việt Nam sửa đổi, bổ sung
BLHS năm 1999 bằng Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/06/2009 sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLHS năm 1999. Bởi vậy, trong quá trình soạn thảo,
sửa đổi bổ sung BLHS, việc nghiên cứu, áp dụng tinh thần của các công ước
trong khu vực lẫn quốc tế chính là một trong các cơ sở cho việc xây dựng
pháp luật của nước ta đối với các loại tội phạm về môi trường nói chung cũng
như tội phạm gây ô nhiễm nói riêng.
Thứ tư, yêu cầu tăng cường giáo dục, nâng cao ý thức toàn dân tuân thủ
pháp luật, chủ động tham gia phòng chống tội phạm chính là một trong các cơ
sở để các nhà làm luật tội phạm hóa các hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Ý thức kém của một số bộ phận người dân chính là một trong những
nguyên nhân chính gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường. Thái độ thờ ơ, hời
hợt, vô trách nhiệm cùng với những hành vi vơ vét những nguồn tài nguyên
thiên nhiên khi mà lợi ích kinh tế trở thành mục tiêu duy nhất đã khiến cho
môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng tại nhiều nơi trên đất nước ta. Bởi vậy,
bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm đang là nhiệm vụ thường trực, không chỉ
tại một thời điểm nhất định, không chỉ của chúng ta mà các lớp thế hệ mai sau
vẫn tiếp tục phải thực hiện. Chúng ta không thể hoàn thành nhiệm vụ này nếu
như một cá nhân không ý thức được việc bảo vệ môi trường. Sức mạnh to lớn
nhất đó chính là sự đồng lòng, chung tay và quyết tâm vì một hành tinh xanh,
ngôi nhà chung của nhân loại. Mọi người đều có quyền và nghĩa vụ tham gia
hành trình này, không phân biệt giai cấp địa vị trong xã hội, trai gái, giàu
nghèo, già trẻ, chủng tộc, màu da. Từ thành thị đến nông thôn, người giàu hay
14
người vô gia cư... đều bình đẳng trong hành trình cứu lấy ngôi nhà chung.
Bằng việc quy định TNHS đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường bị coi là
tội phạm, pháp luật hình sự không những có tác dụng răn đe, giáo dục người
phạm tội, mà còn tác động lên ý thức của mọi thành viên của xã hội (giáo dục
chung) về ý thức tuân thủ pháp luật, cũng như nâng cao tinh thần chủ động
tham gia phòng chống loại tội phạm này.
Tóm lại, những cơ sở lý luận trên, chính là những yếu tố quan trọng để
các nhà làm luật dựa vào đó tiến hành việc quy định tội gây ô nhiễm môi
trường trong BLHS hiện hành.
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong Bộ
luật hình sự
1.1.2.1. Củng cố lòng tin của nhân dân trong cuộc chiến chống ô nhiễm
môi trường và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
Sau những vụ việc các cơ sở gây ô nhiễm môi trường bị phanh phui
trên các phương tiện truyền thông, nhiều người đã đặt câu hỏi về trách nhiệm
của các cơ quan chức năng của nhà nước ở đâu trong các vụ việc đó. Đối với
những người dân sống trong khu vực bị ô nhiễm, tâm lý hụt hẫng, thất vọng
tại nhiều địa phương đã lên tới đỉnh điểm bởi cơ quan chức năng, quản lý,
chính quyền địa phương chưa thực sự đứng về phía người dân, dù những gì
mà doanh nghiệp gây ra có thể được xem là những tội ác thực sự. Thái độ thờ
ơ, đùn đẩy trách nhiệm cũng như cố tình bao che vì mục tiêu phát triển kinh tế
của địa phương đã khiến cho các hành vi gây ô nhiễm môi trường không được
ngăn chặn kịp thời và tại nhiều nơi đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống
của người dân. Việc BLHS quy định tội gây ô nhiễm môi trường đã thể hiện
tính răn đe mạnh mẽ, quyết liệt đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường,
đồng thời, cũng là sự cảnh báo tới các đối tượng đang có ý định thực hiện và
buộc chúng phải cân nhắc tới những hậu quả pháp lý hình sự bất lợi có thể bị
15
áp dụng. Để thực hiện hiệu quả các quy định của BLHS đối với các tội phạm
về môi trường nói chung và tội gây ô nhiễm môi trường nói riêng, ngày
29/11/2006, Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường được thành
lập và trực thuộc Tổng cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm (Tổng cục VI),
Bộ Công an. Đây là cơ quan có nhiệm vụ thống nhất quản lý, tổ chức chỉ đạo
hướng dẫn lực lượng Cảnh sát môi trường trong cả nước thực hiện các chủ
trương, kế hoạch, biện pháp bảo vệ môi trường, đồng thời, phòng ngừa, phát
hiện, đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác về môi trường
theo quy định của pháp luật. Trong những năm qua, lực lượng Cảnh sát
phòng, chống tội phạm về môi trường đã từng bước trưởng thành về lực
lượng và năng lực công tác, đã đạt được một số kết quả nhất định và khẳng
định được vai trò, vị trí nòng cốt trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống
tội phạm môi trường nói chung và tội phạm về gây ô nhiễm môi trường nói
riêng. Lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường được thành
lập sẽ góp phần bảo đảm được các quy định của BLHS đối với các tội phạm
về môi trường nói chung, tội phạm về gây ô nhiễm nói riêng đi vào thực tiễn
một cách hiệu quả hơn, lấy lại được niềm tin của nhân dân trong cuộc chiến
chống ô nhiễm môi trường và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.1.2.2. Tạo bước chuyển biến quan trọng của toàn xã hội trong nhận
thức về trách nhiệm, quyền lợi trong đấu tranh phòng chống tội phạm gây ô
nhiễm môi trường của toàn thể quần chúng nhân dân
Bác Hồ đã từng nói:
Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu
cũng xong [40, tr.212] hay Công an có bao nhiêu người, dù có vài
ba vạn, hay năm nghìn, bảy vạn đi nữa, thì lực lượng ấy cũng còn
ít lắm. Bên cạnh là lực lượng nhân dân, năm vạn người thì chỉ có
5 vạn cặp mắt, 5 vạn đôi bàn tay, phải làm sao cho có hàng triệu
16
cặp mắt, hàng triệu đôi bàn tay mới được. Muốn như vậy thì phải
dựa vào nhân dân, không được xa rời dân, nếu không sẽ thất bại.
Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì ta thành công nhiều, giúp đỡ ta
ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn,
dân ta rất tốt [41, tr.406].
Những lời dạy đó của Bác trong cuộc sống hôm nay vẫn muôn phần ý
nghĩa. Vì vậy, trong sự nghiệp bảo vệ trật tự an toàn xã hội trong những năm
trước đây, hôm nay, và mãi về sau, vai trò to lớn của quần chúng nhân dân là
vô cùng to lớn. Từ lời dạy của Bác, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đến
việc phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân, tất cả vì mục tiêu phục vụ
cho bình yên cuộc sống của nhân dân. Tinh thần này đã được ghi nhận tại
khoản 4, Điều 3 BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009): “Mọi công
dân có nghĩa vụ tích cực tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”
[49, Điều 3]. Việc BLHS hiện hành quy định tội gây ô nhiễm môi trường
chính là cơ sở để nhân dân nhận thức về trách nhiệm, nghĩa vụ cũng như quyền
lợi trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Vì vậy, công tác phổ biến, tuyên
truyền các quy định của pháp luật hình sự về đấu tranh, phòng chống các tội
phạm về môi trường tới các tầng lớp nhân dân có vai trò rất quan trọng. Khi
người dân hiểu rõ được những lợi ích của việc bảo vệ môi trường cũng chính là
bảo vệ sức khỏe, sinh hoạt, thực phẩm, kinh tế v.v.. cho bản thân, gia đình và
xã hội thì hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm môi trường nói chung, tội
phạm gây ô nhiễm môi trường nói riêng sẽ hết sức thuận lợi.
1.1.2.3. Tạo cơ chế phối hợp thực hiện đồng bộ, phát huy được sức
mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp tham gia phòng, chống tội phạm gây
ô nhiễm môi trường
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, lực lượng Cảnh sát phòng, chống
tội phạm không thể thực hiện được trọn vẹn nhiệm vụ nặng nề mà Đảng, Nhà
17
nước và nhân dân giao phó nếu không có sự hỗ trợ từ các ngành, các cấp, các
tổ chức trong hệ thống chính trị của đất nước. Thực tiễn đã chỉ ra, nhiều vụ án
mà lực lượng Cảnh sát môi trường đã phát hiện và xử lý trong thời gian qua,
ngoài sự giúp đỡ, báo tin của nhân dân thì sự giúp đỡ, hỗ trợ và phối hợp của
các ngành, các cấp khác là rất quan trọng. Đây chính là một trong những lý do
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 72/2010/NĐ-CP, ngày 08 tháng 7 năm
2010, quy định về phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp
luật khác về môi trường (Nghị định số 72/2010/NĐ-CP). Theo đó, những nội
dung nhằm thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm về môi
trường nói chung, tội phạm về gây ô nhiễm môi trường nói riêng được quy
định cụ thể đối với các cơ quan quản lý chuyên môn ở trung ương như Bộ
Công an, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính, các cơ quan thuộc
Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp v.v… đồng thời, các cơ quan này có
nhiệm vụ phối hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình công tác. Tại nhiều địa
phương, các cơ quan này đã xây dựng quy chế, kế hoạch phối hợp theo từng
năm công tác từng đơn vị. Ví dụ: sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối
hợp với phòng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường của Công an
tỉnh, Ban quản lý các khu công nghiệp của tỉnh, ủy ban nhân dân các huyện,
thành phố và các sở, ban, ngành liên quan tổ chức thực hiện có hiệu quả kế
hoạch thanh tra, kiểm tra đối với các địa phương có khả năng, nguy cơ hoặc
đã xảy ra ô nhiễm để lên phương án khắc phục, ngăn chặn; sở Nội vụ chủ trì,
phối hợp với sở Tài nguyên và Môi trường tham mưu với ủy ban nhân dân
tỉnh tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi
trường và tập trung đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ thanh tra, kiểm
tra, chủ động phát hiện và xử lý kịp thời các cơ sở vi phạm gây ô nhiễm môi
trường; sở Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các ngành liên quan nghiên cứu,
tham mưu với ủy ban nhân dân tỉnh về cơ chế ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích
18
đối với các dự án đầu tư trong lĩnh vực xử lý môi trường, xử lý chất thải rắn,
nước thải và các dự án ứng dụng công nghệ sản xuất sạch hơn; phòng Cảnh
sát phòng, chống tội phạm về môi trường của Công an tỉnh tăng cường công
tác nghiệp vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm môi trường nói chung, và tội
phạm về gây ô nhiễm môi trường nói riêng, đồng thời, thực hiện việc giám
định, kiểm định các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường theo quy định
của pháp luật; ủy ban nhân dân các huyện, thành phố tăng cường công tác
quản lý nhà nước về môi trường và phòng chống ô nhiễm môi trường trên địa
bàn. Các cơ quan có liên quan, tích cực phối hợp với sở Tài nguyên và Môi
trường trong công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về ô nhiễm
môi trường theo thẩm quyền và giải quyết tố cáo, khiếu nại có liên quan đến ô
nhiễm môi trường tại địa phương.v.v… Hiện nay, tại nhiều địa phương, công
tác phối hợp với các cơ quan chức năng của các bộ, ngành liên quan ngày
càng được củng cố, hoàn thiện. Về cơ bản, hình thành được mối quan hệ phối
hợp thường xuyên với các đơn vị, các lực lượng trong và ngoài ngành, bước
đầu rút ra bài học kinh nghiệm trong công tác phát hiện, điều tra tội phạm và
vi phạm pháp luật về ô nhiễm môi trường, đồng thời, góp phần quan trọng
vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc
gia và thúc đẩy hội nhập quốc tế.
1.2. Khái niệm ô nhiễm môi trường, tội gây ô nhiễm môi trường
1.2.1. Khái niệm ô nhiễm môi trường
Hiện nay, ô nhiễm môi trường là một khái niệm được nhiều ngành khoa
học định nghĩa. Dưới góc độ sinh học, khái niệm này chỉ tình trạng của môi
trường trong đó những chỉ số hóa học, lí học của nó bị thay đổi theo chiều
hướng xấu đi. Dưới góc độ kinh tế học, ô nhiễm môi trường là sự thay đổi
không có lợi cho môi trường sống về các tính chất vật lí, hóa học, sinh học mà
qua đó có thể gây tác hại tức thời hoặc lâu dài đến sức khỏe của con người,
19
các loài động thực vật và các điều kiện sống khác. Ví dụ, theo wikipedia, “ô
nhiễm môi trường là tình trạng môi trường bị ô nhiễm bởi các chất hóa học,
sinh học, bức xạ, tiếng ồn,... gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người và các
cơ thể sống khác”. Còn theo Từ điển môi trường và phát triển bền vững Anh -
Việt và Việt - Anh, ô nhiễm môi trường là:
Bất kỳ một sự thay đổi nào đó trực tiếp hoặc gián tiếp, các
tính chất vật lý, hóa học, sinh học, độ phóng xạ của bất kỳ bộ phận
nào của môi trường do xả, thoát, phát tán hoặc làm lắng đọng các
chất thải hoặc các chất gây tác động có hại cho bất kỳ việc sử dụng
bằng lợi ích nào [8, tr.300].
Dưới góc độ pháp luật bảo vệ môi trường của nước ta, ô nhiễm môi
trường được hiểu “là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù
hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường gây ảnh
hưởng xấu đến con người và sinh vật” [53, Điều 3].
1.2.2. Khái niệm tội gây ô nhiễm môi trường
Theo ý kiến của các chuyên gia về tội phạm môi trường, hiện nay, quy
định của BLHS hiện hành về tội gây ô nhiễm môi trường chưa thật đầy đủ và
cụ thể. Bên cạnh đó, nhận thức về loại tội phạm này còn chưa nhất quán về
chủ thể, phạm vi ô nhiễm, hình thức lỗi cũng như xác định mức độ thiệt
hại.v.v... Vì vậy, việc đưa ra một khái niệm chung về tội gây ô nhiễm môi
trường để thống nhất về đường lối xử lý hình sự đối với loại tội phạm này
trong thời gian tới là rất cần thiết. Theo quan điểm của chúng tôi, việc nhận
thức và xây dựng khái niệm về tội gây ô nhiễm môi trường cần chú ý tới hai
nội dung chính, cụ thể:
Thứ nhất, phải dựa trên các dấu hiệu chung của tội phạm
Tội phạm gây ô nhiễm môi trường cũng giống như bất kỳ loại tội phạm
nào khác là đều có những dấu hiệu chung của tội phạm, bao gồm: thực hiện
20
những hành vi nguy hiểm cho xã hội nhằm gây ô nhiễm môi trường với tính
chất, mức độ (đáng kể); được quy định trong BLHS; do người có năng lực
TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách có lỗi (đối với loại tội phạm
gây ô nhiễm môi trường là lỗi cố ý) và xâm phạm đến các quan hệ xã hội về
bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm được pháp luật hình sự bảo vệ. Do vậy,
việc xây dựng khái niệm về tội gây ô nhiễm môi trường trên cơ sở các dấu
hiệu chung của tội phạm là phù hợp, là cơ sở cho việc phân biệt tội gây ô
nhiễm môi trường với các tội phạm khác về môi trường, đồng thời, thể hiện
được những dấu hiệu đặc thù của loại tội phạm này.
Thứ hai, việc xây dựng khái niệm phải phù hợp với chính sách hình sự
của Việt Nam trong thời gian tới cũng như yêu cầu của công tác đấu tranh
với tội phạm gây ô nhiễm môi trường.
Chính sách hình sự của Nhà nước ta trong thời gian tới đối với các tội
phạm về môi trường nói chung, tội phạm gây ô nhiễm môi trường nói riêng
tập trung và thể hiện ở một số khía cạnh, nội dung như: mở rộng phạm vi, lĩnh
vực bảo vệ môi trường và tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội
phát sinh (độ rung, tiếng ồn, âm thanh, ánh sáng); tăng nặng TNHS và bảo
đảm sự tương xứng giữa các chế tài; nghiên cứu quy định cấu thành tội phạm
trong lĩnh vực môi trường dưới dạng cấu thành tội phạm hình thức, lỗi vô ý
v.v….. Đối với phạm vi của tội gây ô nhiễm môi trường trong BLHS hiện
hành, việc xử lý tội phạm xâm phạm tới môi trường hiện nay chỉ được tiến
hành trong 03 lĩnh vực là môi trường nước, không khí và đất. Điều này sẽ hạn
chế thẩm quyền của các cơ quan chức năng trong việc xử lý các hành vi gây ô
nhiễm môi trường trong các thành phần khác của môi trường khi mà đã bắt
đầu xuất hiện những hành vi xâm phạm tới các lĩnh vực môi trường đó trong
thực tiễn hiện nay. Mặt khác, hiện nay BLHS hiện hành vẫn chỉ truy cứu đối
với trường hợp lỗi cố ý sẽ dẫn tới nhiều trường hợp bỏ lột tội phạm cũng như
21
khó chứng minh được tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý. Hiện tại, qua
tham khảo BLHS của một số nước trên thế giới có quy định tương tự về tội
gây ô nhiễm môi trường thì các nước đó cũng đã quy định cả trường hợp lỗi
vô ý thực hiện các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Theo tác giả, việc quy
định cả hình thức lỗi vô ý là rất cần thiết, không những nâng cao được trách
nhiệm của các cá nhân, tổ chức mà còn nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm gây ô nhiễm môi trường.v.v...
Vì vậy, để bảo đảm phục vụ hiệu quả đối với công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm, việc xây dựng khái niệm về tội gây ô nhiễm môi trường vừa
phải đáp ứng các dấu hiệu chung của tội phạm theo quy định của BLHS vừa
phải phù hợp hoặc không trái với chính sách hay định hướng của pháp luật
hình sự Việt Nam trong những năm tới đối với nhóm tội phạm về môi trường.
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các quan điểm của các chuyên gia
về tội phạm môi trường, theo chúng tôi có thể khái niệm của tội gây ô nhiễm
môi trường như sau: tội gây ô nhiễm môi trường là một tội phạm, được quy
định trong BLHS, do người có năng lực TNHS, có lỗi và đạt độ tuổi luật định
khi thực hiện hành vi, xâm phạm đến các quan hệ xã hội bảo vệ môi trường
khỏi sự ô nhiễm bằng hành vi thải vào môi trường các chất gây ô nhiễm.
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình
sự Việt Nam về tội gây ô nhiễm môi trường
1.3.1. Giai đoạn sau khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ nhất
– Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự
lần thứ hai - Bộ luật hình sự năm 1999
Trong giai đoạn trước những năm 1980, do những nguyên nhân cả chủ
quan lẫn khách quan như hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của đất nước ta khi vừa
trải qua một thời gian dài của chiến tranh giành độc lập, điều kiện kinh tế xã
hội v.v… nên những quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường khỏi sự ô
22
nhiễm chưa được quan tâm, chú trọng nhiều và chưa được ghi nhận chi tiết
trong pháp luật hình sự của nước ta. Những năm tiếp theo sau đó, vấn đề bảo
vệ môi trường nói chung đã được đạo luật cao nhất của Nhà nước ta là Hiến
pháp năm 1980 bước đầu quy định: “Các cơ quan nhà nước, xí nghiệp, hợp
tác xã, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân đều có nghĩa vụ thực hiện chính
sách bảo vệ, cải tạo và tái sinh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và
cải thiện môi trường sống” [45, Điều 36]. Thời kỳ này, khi nền kinh tế của đất
nước đang hồi phục và phát triển thì những hệ lụy từ vấn đề ô nhiễm môi
trường đang dần trở nên cấp bách đã khiến cho yêu cầu bảo vệ môi trường
bằng các chế tài hình sự ngày một lớn. Đứng trước những yêu cầu về bảo vệ
môi trường khỏi sự ô nhiễm, đồng thời, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp
năm 1980 về bảo vệ môi trường, Nhà nước ta đã bước đầu quy định vấn đề
bảo vệ môi trường trong BLHS năm 1985 trong một số trường hợp. Ví dụ,
Điều 180. Tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai; Điều 181.
Tội vi phạm các quy định về quản lý bảo vệ rừng; Điều 195. Tội vi phạm các
quy định về bảo vệ môi trường gây hậu quả nghiêm trọng v.v.. Tuy nhiên,
việc quy định này còn rất sơ sài, không được hệ thống hóa, tập chung với tính
chất là một chương riêng biệt đối với các tội phạm về môi trường, đồng thời,
có thể các nhà làm luật lúc này chủ yếu là nhấn mạnh đến khía cạnh kinh tế
của các nguồn tài nguyên này mà chưa chú ý đến việc mô tả cụ thể các hành
vi. Điều này, dễ dàng nhận thấy qua việc một số tội phạm về môi trường được
gộp lại với những tội phạm khác và được hiểu không phải với tư cách là
những tội phạm về môi trường. Bên cạnh đó, đối với vấn đề ô nhiễm môi
trường, BLHS năm 1985 chưa có quy định rõ đối với các hành vi gây ô nhiễm
môi trường trong một hay một số điều luật cụ thể. Do BLHS năm 1985 được
xây dựng và ban hành trước thời kỳ đổi mới, vì vậy, khi tình hình kinh tế - xã
hội của đất nước ta có những bước phát triển và tiến bộ vượt bậc, xã hội phát
23
sinh thêm nhiều quan hệ xã hội, nhiều loại tội phạm mới hình thành và xuất
hiện dẫn tới pháp luật hình sự chưa điều chỉnh, chưa dự liệu hết được là điều
có thể hiểu được. Đây chính là những hạn chế đã được nhà làm luật đánh giá,
phân tích và bổ sung các hành vi có dấu hiệu của tội phạm mới phát sinh, cho
việc tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về bảo vệ môi trường
nói chung, bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm nói riêng trong lần pháp điển
hóa lần thứ hai (BLHS năm 1999).
1.3.2. Giai đoạn từ sau khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ hai
– Bộ luật hình sự năm 1999 đến trước khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự
năm 1999
Hiến pháp năm 1992 ra đời trong hoàn cảnh vấn đề bảo vệ môi trường
ngày càng được dư luận trong nước và quốc tế quan tâm. Nếu như, Hiến pháp
năm 1980 chỉ quy định việc bảo vệ môi trường chỉ dừng lại ở mức độ “nghĩa
vụ” đối với mọi công dân, các cơ quan, đơn vị, thì đến bản Hiến pháp năm
1992, đã thể hiện một mức độ quyết liệt hơn, nghiêm khắc hơn, cụ thể:
“Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường”
[46, Điều 29]. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1992 trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp lý nhằm cụ
thể hóa việc bảo vệ môi trường như: Luật đất đai năm 1993, Luật bảo vệ môi
trường năm 1993; Nghị định số 26/CP ngày 26/04/1996 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường v.v... Đây là sự nỗ lực
của Nhà nước ta nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật hoàn chỉnh
để bảo vệ môi trường trước thực trạng môi trường sinh thái ngày càng bị ô
nhiễm nghiêm trọng. Pháp luật hình sự cũng phải đứng trước những áp lực và
yêu cầu mới về vấn đề bảo vệ môi trường khi mà trước đó (BLHS năm 1985)
không được đánh giá cao về hiệu quả thi hành cũng như còn nhiều bất cập
trong nội dung các quy định. Bởi vậy, ở lần pháp điển hóa lần thứ 2 này
24
(BLHS năm 1999), nhà làm luật đã rất coi trọng vấn đề này và ghi nhận tại
một chương riêng - Chương XVII với 10 điều luật quy định khá cụ thể và chi
tiết các hành vi xâm hại đến môi trường. Theo đó, hành vi gây ô nhiễm môi
trường gồm có 03 tội (tội gây ô nhiễm không khí - Điều 182; tội gây ô nhiễm
nguồn nước - Điều 183 và tội gây ô nhiễm đất - Điều 184). Việc quy định các
tội phạm về gây ô nhiễm trong một số thành phần của môi trường sống như
nước, không khí, đất đã thể hiện sự quan tâm kịp thời của Đảng và Nhà nước
trước thực trạng môi trường đang bị ô nhiễm với mức độ nghiêm trọng tại
nhiều địa phương trên cả nước. Tuy nhiên, theo quy định của BLHS năm
1999, việc xử lý về mặt hình sự đối với các tội (tội gây ô nhiễm không khí, tội
gây ô nhiễm nguồn nước và tội gây ô nhiễm đất) phải bảo đảm có đủ ba yếu
tố mới cấu thành tội phạm, cụ thể: Thải chất gây ô nhiễm môi trường vượt
quá tiêu chuẩn cho phép; đã bị xử phạt hành chính mà cố tình không thực hiện
các biện pháp khắc phục và gây hậu quả nghiêm trọng. Việc quy định như vậy
là thiếu tính khả thi và khó áp dụng trong thực tế, bởi xác định hậu quả
nghiêm trọng của hành vi gây ô nhiễm môi trường có nhiều trường hợp không
xác định được ngay mà phải sau một thời gian dài mới có thể xác định được
hậu quả. Còn việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường,
thường chỉ áp dụng đối với pháp nhân nên rất khó khăn để làm căn cứ xử lý
về hình sự đối với người có hành vi gây ô nhiễm môi trường. Ví dụ, trong
năm 2008, sự kiện gây xôn xao dư luận trong nước liên quan đến thực trạng
gây ô nhiễm môi trường là vụ của Công ty Vedan xả thải ra sông Thị Vải.
Ngày 08-9-2008, cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường bắt quả
tang Công ty Vedan xả trộm nước thải chưa qua xử lý, Vedan đã lắp đặt hệ
thống bơm, đường ống ngầm để xả trực tiếp nước thải ra sông Thị Vải nhằm
qua mặt chính quyền. Hành vi này đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản
và sức khỏe của nông dân ba tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và TP. Hồ
25
Chí Minh nằm bên sông Thị vải. Cơ quan công an đã vào cuộc nhưng không
thể xử lý hình sự mà chỉ phạt hành chính với mức tiền phạt 267,5 triệu đồng.
Khoảng một tháng sau, đêm 10-10-2008, cảnh sát môi trường TP. Hồ Chí
Minh lại bắt quả tang công ty thuộc da Hào Dương đang lén điều khiển hệ
thống điện đặc biệt xả thẳng nước thải chưa qua xử lý ra sông Đồng Điền.
Cùng với 23 lần bị lập biên bản gây ô nhiễm môi trường, hồ sơ vụ việc được
chuyển đi nhằm khởi tố vụ án hình sự về tội gây ô nhiễm nguồn nước. Nhưng
tháng 3-2009, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận
không khởi tố do chưa đủ cơ sở để truy tố. Hào Dương bị xử phạt hành chính,
mức tiền tối đa chỉ 33 triệu đồng.v.v... Tuy nhiên, tất cả các vụ vi phạm trên
đều không thể xử lý hình sự. Sở dĩ các vụ gây ô nhiễm môi trường nói trên
không thể xử lý hình sự là vì BLHS năm 1999 quy định dấu hiệu đã bị xử
phạt vi phạm hành chính mà còn cố tình vi phạm mới cấu thành tội phạm.
Theo pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường, khi
các cơ sở sản xuất (công ty/pháp nhân) có hành vi gây ô nhiễm môi trường,
việc xử phạt hành chính sẽ được tiến hành đối với pháp nhân đó. Trong khi
đó, BLHS chỉ coi cá nhân là chủ thể của tội phạm. Do đó, khi các cơ quan
chức năng muốn khởi tố người đứng đầu pháp nhân hoặc người trực tiếp điều
hành việc xả thải gây ô nhiễm môi trường thì hành vi của người này không đủ
yếu tố cấu thành tội phạm vì dấu hiệu đã bị xử phạt hành chính chưa được
thỏa mãn. Chính vì vậy, khắc phục điểm bất cập, vướng mắc này trong quy
định của BLHS năm 1999 đối với quy định về các tội phạm gây ô nhiễm môi
trường là rất cần thiết.
1.3.3. Giai đoạn từ sau khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm
1999 (Bộ luật hình sự hiện hành) đến nay
Tính đến năm 2009, trải qua gần mười năm thi hành, BLHS năm 1999
đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
26
hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công
dân, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, tạo môi trường ổn định để phát
triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu của thực tiễn áp dụng,
một số quy định của BLHS năm 1999 về tội phạm môi trường nói chung, tội
phạm gây ô nhiễm môi trường nói riêng đã phát sinh một số hạn chế, vướng
mắc và bất cập, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu đấu tranh phòng, chống
tội phạm trong tình hình mới, nhất là việc tăng cường hội nhập quốc tế và quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. BLHS sửa đổi, bổ
sung năm 2009 (BLHS hiện hành) đã quy định 11 tội danh về các tội phạm
môi trường, trong đó hành vi gây ô nhiễm môi trường chỉ duy nhất được quy
định tại một điều luật – Điều 182. Tội gây ô nhiễm môi trường. Đây chính là
kết quả của việc các nhà làm luật đã gộp các tội (tội gây ô nhiễm không khí -
Điều 182, tội gây ô nhiễm nguồn nước - Điều 183 và tội gây ô nhiễm đất -
Điều 184 trong BLHS năm 1999) thành tội gây ô nhiễm môi trường - Điều
182 BLHS hiện hành. Sự thay đổi này trong quy định của BLHS hiện hành
bắt nguồn từ việc thay đổi quan niệm về ô nhiễm môi trường của pháp luật
bảo vệ môi trường (Luật bảo vệ môi trường năm 1993 đã được thay thế bằng
Luật bảo vệ môi trường năm 2005), của kĩ thuật lập pháp.v.v.. Ví dụ, một số
hành vi phạm tội được mô tả trong khoản 1 của mỗi điều luật có sự lặp lại như
“thải các yếu tố độc hại, phát các bức xạ, chất phóng xạ” [48, Điều 182-184];
đều được xây dựng với cấu thành vật chất – dấu hiệu hậu quả gây ra đối với
môi trường quá tiêu chuẩn cho phép.....Như vậy, việc nhập 3 tội danh về gây
ô nhiễm không khí, gây ô nhiễm nguồn nước, gây ô nhiễm đất thành tội gây ô
nhiễm môi trường là một điểm mới, hợp lý, là sự tiến bộ về mặt kỹ thuật lập
pháp của các nhà làm luật, đồng thời, giúp cho việc áp dụng trên thực tế được
linh hoạt, thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, đối với các yếu tố để cấu thành tội
phạm được đặt ra đối với loại tội phạm này như: Thải chất gây ô nhiễm môi
27
trường vượt quá tiêu chuẩn cho phép; đã bị xử phạt hành chính mà cố tình
không thực hiện các biện pháp khắc phục; gây hậu quả nghiêm trọng, đã nhận
được khá nhiều ý kiến phản ánh của các chuyên gia nghiên cứu về tội phạm
môi trường trong quá trình xin ý kiến sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1999. Về
nội dung này, các chuyên gia đều cho rằng, việc BLHS năm 1999 quy định
như vậy đã cản trở đến hiệu quả áp dụng, xử lý về mặt hình sự đối với các tội
phạm gây ô nhiễm môi trường. Chính vì vậy, sau khi BLHS năm 1999 (sửa
đổi, bổ sung năm 2009), nội dung đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm
đã được nhà làm luật bỏ trong các dấu hiệu cấu thành tội gây ô nhiễm môi
trường. Do vậy, về bản chất, cấu thành tội phạm của tội gây ô nhiễm môi
trường đã được sửa đổi khác so với cấu thành tội phạm của ba hành vi gây ô
nhiễm môi trường trong BLHS năm 1999 khi chưa được sửa đổi, bổ sung.
Theo đó, chỉ truy cứu TNHS đối với những người có hành vi gây ô nhiễm môi
trường “vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm
trọng hoặc làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc gây hậu quả
nghiêm trọng khác” [49, Điều 182]. Đây rõ ràng là một trong những điểm mới
và tiến bộ của BLHS sau khi sửa đổi, bổ sung năm 2009, đồng thời, khắc
phục được một phần những bất cập, khó khăn về cơ sở pháp lý để truy cứu
TNHS các cá nhân gây ô nhiễm môi trường. Tuy vậy, việc xác định thiệt hại
của hành vi gây ô nhiễm môi trường vẫn đặt ra những thách thức không nhỏ
cho nhà làm luật khi hiện nay vấn đề đó đã cản trở không nhỏ tới hiệu quả của
việc áp dụng tội gây ô nhiễm môi trường trong thực tế. Ngoài những sửa đổi,
bổ sung đã được đề cập ở trên, BLHS hiện hành còn có một số nội dung liên
quan đến việc tăng nặng TNHS đối với tội phạm gây ô nhiễm môi trường.
Việc tăng mức hình phạt theo quy định của BLHS hiện hành đối với tội gây ô
nhiễm môi trường đã thể hiện sự cân nhắc của nhà làm luật với sự phát triển
tình hình kinh tế xã hội nước ta so với giai đoạn trước đó, đồng thời, điều đó
28
còn có tác dụng răn đe, ngăn ngừa những hành vi gây ô nhiễm môi trường ở
mức độ cao hơn, quyết liệt hơn so với BLHS năm 1999.
1.4. Quan điểm của cộng đồng quốc tế và quy định của một số nước
về tội gây ô nhiễm môi trường
1.4.1. Quan điểm của cộng đồng quốc tế về tội gây ô nhiễm môi
trường
Ngày nay, việc tăng cường sử dụng pháp luật hình sự để chống lại các
hành vi gây ô nhiễm môi trường diễn ra khá phổ biến ở nhiều quốc gia trên
thế giới. Không chỉ dừng lại ở phạm vi quốc gia, luật hình sự về bảo vệ môi
trường khỏi sự ô nhiễm còn nhận được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế.
Điều này được minh chứng bởi những sự kiện như: trong suốt Hội nghị lần
thứ tám của Liên hợp quốc về phòng ngừa tội phạm và đấu tranh với tội phạm
có tổ chức tại Havana, Cuba năm 1990, vấn đề kiểm soát chặt chẽ hơn những
hoạt động phạm tội có tổ chức gây thiệt hại cho môi trường tự nhiên đã được
đưa ra thảo luận. Nghị quyết số 45/121 ngày 14 tháng12 năm 1990 với sự
nhất trí của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thúc đẩy các quốc gia sửa đổi luật
hình sự để tạo ra một giải pháp có hiệu quả đối với những hiểm họa môi
trường mà đặc biệt là vấn đề ô nhiễm môi trường. Thêm một lần nữa, vai trò
của luật hình sự trong việc bảo vệ môi trường trước những hiểm họa do ô
nhiễm môi trường lại được nhấn mạnh trong một loạt các Nghị quyết của Hội
đồng kinh tế và xã hội của Liên hợp quốc như: Nghị quyết số 28 năm 1993,
Nghị quyết số 15 năm 1994, Nghị quyết số 27 năm 1995 v.v… Tại châu Âu,
văn bản pháp lí đầu tiên đề cập yêu cầu phải kiểm soát các hành vi xâm hại,
gây ô nhiễm môi trường là Nghị quyết (77) 28 về sự đóng góp của luật hình
sự đối với việc bảo vệ môi trường, được thông qua tại cuộc gặp lần thứ 27,
Uỷ ban các bộ trưởng của Hội đồng châu Âu ngày 28/9/1977. Nghị quyết này
đã đưa ra một yêu cầu khẩn thiết về sự can thiệp của luật hình sự để ngăn
29
ngừa những hành vi phá hủy môi trường. Sau đó, Công ước số 172 của Hội
đồng châu Âu về bảo vệ môi trường bằng pháp luật hình sự ngày 04/11/1998
đã nhấn mạnh luật hình sự đóng góp một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ
môi trường. Bên cạnh đó, hàng loạt các hội thảo quốc tế cũng thảo luận sôi
nổi vấn đề sử dụng pháp luật hình sự để bảo vệ môi trường, trong đó điển
hình là Hội thảo về chính sách hình sự về bảo vệ thiên nhiên và môi trường tại
châu Âu được tổ chức tại Lauchhammer (Đức), từ ngày 25 đến ngày
29/4/1994. Tại đây, luật hình sự đã được đánh giá là một công cụ không thể
thiếu trong việc bảo vệ môi trường trước các nguy cơ bị xâm hại, ô nhiễm
v.v... Hiện nay tội phạm gây ô nhiễm môi trường đang được quốc tế nhìn
nhận với một số điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, đó là sự gia tăng nhanh chóng của các hành vi gây ô nhiễm
môi trường.
Hiện nay, tại nhiều nước đang phát triển, việc ưu tiên phát triển kinh tế
trong đó ưu tiên cho hoạt động xây dựng các khu công nghiệp, khu chế
xuất.v.v… đang phải đối mặt với tình hình ô nhiễm môi trường ngày một trầm
trọng. Những ưu đãi về tài chính, cơ sở hạ tầng cùng một loạt các điều kiện
thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài mà buông lỏng việc quản lý bảo vệ môi
trường đã khiến cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất lợi dụng để thực hiện
những hoạt động tàn phá môi trường. Ngay cả đối với những nước phát triển,
những hành vi gây ô nhiễm môi trường cũng không ngừng gia tăng và không
hề có ngoại lệ khác. Những hành vi này không chỉ phát triển về mặt số lượng
mà còn gây mối lo ngại cả về tính nguy hiểm cho xã hội của chúng. Ví dụ, tại
Thụy Điển, theo số liệu thống kê chính thức của nước này đã chứng minh sự
gia tăng rõ rệt các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường nói chung, hành
vi gây ô nhiễm môi trường nói riêng. Theo đó, trong năm 2000, số các quyết
định xử lý các hành vi xâm phạm môi trường tại Thụy Điển đã tăng lên tới
30
278% so với các năm trước đó. Cũng theo khảo sát của một nhà nghiên cứu
Thụy Điển, hoạt động của gần một nửa triệu các công ty của Thụy Điển đang
bị xếp vào loại tạo ra những mối nguy hiểm cho môi trường .v.v..
Thứ hai, việc tăng cường sử dụng luật hình sự để bảo vệ môi trường
trước các nguy cơ ô nhiễm là do sự thiếu hiệu quả của các biện pháp pháp lí
khác đối với việc xử lí các vi phạm pháp luật về môi trường
Đây cũng chính là một trong những nhận định đã được đưa ra tại Hội thảo
Lauchhammer, khi nhiều chuyên gia của nhiều nước đều cho rằng luật hình sự
cần phải được áp dụng đối với những người vi phạm mà trước đó các chế tài
hành chính áp dụng đối với họ đã không có hiệu quả. Bên cạnh đó, Uỷ ban châu
Âu trong một kiến nghị cho Nghị quyết về bảo vệ môi trường bằng pháp luật
hình sự cũng khẳng định tầm quan trọng của luật hình sự là phương tiện duy
nhất để bảo đảm cho việc thực thi luật của Cộng đồng châu Âu một cách hiệu
quả, các quốc gia thành viên có trách nhiệm phải quy định các biện pháp pháp lí
hình sự nhằm bảo vệ môi trường. Khi bàn về mức độ can thiệp của luật hình sự
vào công tác bảo vệ môi trường trước các hành vi gây ô nhiễm môi trường ngày
càng gia tăng, đa số các quan điểm đều nhất trí rằng, tuy luật hình sự được đánh
giá là biện pháp không thể thiếu trong tổng thể hoạt động đấu tranh phòng chống
vi phạm pháp luật về môi trường song cũng không vì thế mà lạm dụng nó và chỉ
nên là giải pháp cuối cùng, khi mà các biện pháp khác không được tuân thủ hoặc
được thực hiện một cách không có hiệu quả hoặc hiệu quả không đáng kể. Theo
đó, luật hình sự nên được xem là một công cụ hỗ trợ bên cạnh luật hành chính, là
công cụ phòng ngừa đối với cả khả năng tái phạm của người phạm tội lẫn ý định
phạm tội của những công dân khác. Tóm lại, trong mối quan hệ với việc bảo vệ
môi trường trước các hành vi xâm phạm, gây ô nhiễm v.v.. luật hình sự được
xem là một công cụ để phòng ngừa, để răn đe là chính. Do vậy, việc sử dụng
pháp luật hình sự được cho là nên có giới hạn. Tuy nhiên, hiện nay trên thế giới
31
đang tồn tại hai loại ý kiến trái ngược nhau về tính nguy hiểm của các tội phạm
gây ô nhiễm môi trường. Theo đó, loại ý kiến thứ nhất cho rằng tội phạm gây ô
nhiễm môi trường là loại tội vi cảnh, là những hành vi nguy hiểm không đáng kể
hoặc không nên bị xem là tội phạm. Như một số hiện tượng xã hội mới khác, tội
phạm gây ô nhiễm môi trường không được mọi người chấp nhận như một loại
tội phạm thực sự. Những quan niệm đánh giá thấp tính nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm gây ô nhiễm môi trường được biện minh bởi một lí do liên quan đến
yếu tố nạn nhân. Những người theo quan điểm này cho rằng, tội phạm gây ô
nhiễm môi trường được xem là loại tội không có nạn nhân hoặc nạn nhân không
rõ ràng. Chính vì quan niệm trên nên sẽ gây khó khăn đối với mọi người để có
thể nhận thức về các tội phạm gây ô nhiễm môi trường theo cùng một cách suy
nghĩ về những loại tội phạm truyền thống khác và thật nguy hiểm bởi vì điều đó
làm cho người ta dễ dàng vi phạm các quy định của pháp luật về môi trường. Ví
dụ, hành vi đổ lượng thuốc sâu tự chế tạo còn dùng thừa xuống ao cá nhà
hàng xóm và người đổ không ý thức được rằng, hành vi của mình có thể bị
coi là tội phạm v.v… Trong khi đó, có những ý kiến ngược lại cho rằng
những hành vi gây ô nhiễm môi trường là nguy hiểm và cần phải bị xử lí bằng
pháp luật hình sự. Những hành vi này bị lên án là không chỉ gây thiệt hại cho
tài sản mà còn gây nguy hiểm cho con người cũng như các giá trị khác. Chính
vì vậy, tội phạm gây ô nhiễm môi trường nói riêng và các tội phạm về môi
trường nói chung trong một số trường hợp có ý kiến đã coi là một trong
những loại tội phạm xâm hại tới những giá trị nhân văn quan trọng, do đó có
thể bị xem là một loại tội chống loài người. Không những thế, tội phạm gây ô
nhiễm môi trường cùng với các tội phạm khác về môi trường còn bị yêu cầu
đưa ra xét xử như một loại tội phạm quốc tế theo hướng thành lập một toà án
môi trường quốc tế bên cạnh việc kêu gọi toà án hình sự quốc tế xét xử những
tội phạm về môi trường nghiêm trọng v.v…
32
Thứ ba, đây là loại tội phạm mặc dù được coi là có tính nguy hiểm cho
xã hội chưa rõ ràng nhưng ảnh hưởng tới môi trường sống rõ dệt và nhanh
chóng hơn các loại tội phạm môi trường khác.
Nói một cách khác, việc chứng minh tính nguy hiểm cho xã hội của
loại tội phạm này chưa đủ sức thuyết phục đối với cả cộng đồng. Tuy nhiên,
so về tính chất và mức độ nguy hiểm của loại tội phạm này so với các loại tội
phạm môi trường khác thì tội phạm gây ô nhiễm môi trường vẫn thể hiện ở
mức độ cao hơn, nghiêm trọng hơn. Ví dụ như các hành vi xâm hại tới động
vật hoang dã cần bảo vệ, tài nguyên rừng thì ảnh hưởng tới môi trường sống
phải một thời gian khá lâu con người mới nhận thấy được. Tuy nhiên, những
hành vi gây ô nhiễm môi trường thì thời gian tác động tới môi trường, sức
khỏe con người, động vật, thực vật ít hơn và nhiều trường hợp là ảnh hưởng
ngay lập tức. Bên cạnh đó, nhiều nước cũng đã chứng minh được một số chất
gây ô nhiễm môi trường còn ảnh hưởng qua một thời gian dài hoặc gây ra các
bệnh di truyền cho nhiều thế hệ.
Thứ tư, hậu quả của các tội phạm gây ô nhiễm môi trường được cho là
khó xác định.
Về vấn đề này, hiện nay nhiều tác giả cũng tán thành quan điểm này và
đều có chung nhận định, việc đánh giá thiệt hại để làm cơ sở cho việc xác
định TNHS và những biện pháp khắc phục hậu quả đối với tội phạm này là
hết sức phức tạp bởi một thực tế là thiệt hại gây ra có thể được tích lũy dần (là
loại thiệt hại tiềm ẩn, dần dần nảy sinh) và gây ra cho nhiều nạn nhân mà một
vài người trong số họ thậm chí có thể không biết rằng mình đang là nạn nhân.
Hơn nữa, thiệt hại do tội phạm gây ô nhiễm môi trường gây ra được xem là
rất đa dạng và phức tạp. Chúng không chỉ là thiệt hại về tính mạng, về sức
khoẻ của con người, của tập quán, nguồn sống của động thực vật, mà còn là
thiệt hại cho thiên nhiên, cảnh quan, môi sinh v.v… Vì vậy, loại tội phạm này
33
có thể gây ra những hậu quả rất lớn và lâu dài. Chính vì ý thức được điều này
nên có nhiều chuyên gia đã có ý kiến cho rằng, nên quy định cả trường hợp
tuy chưa có thiệt hại cụ thể xảy ra song có nguy cơ đe dọa thiệt hại nghiêm
trọng sẽ xảy ra đối với tội phạm gây ô nhiễm môi trường.
Thứ năm, tội phạm gây ô nhiễm môi trường có thể được thực hiện dưới
cả hình thức lỗi cố ý hoặc vô ý.
Xét từ góc độ luật định, các văn bản pháp luật của Hội đồng châu Âu
đều thống nhất về việc quy định cả hai hình thức lỗi đối với các tội phạm về
môi trường nói chung và tội phạm gây ô nhiễm môi trường nói riêng. Bên
cạnh đó, trong quan điểm lập pháp của mình, Hội đồng châu Âu còn gợi ý rõ
hơn là chỉ quy định những tội phạm về môi trường với lỗi vô ý nếu đó là tội
phạm nghiêm trọng. Đây là một điểm quan trọng mà pháp luật hình sự Việt
Nam đối với tội phạm về môi trường nói chung và tội phạm gây ô nhiễm môi
trường nói riêng khi chưa quy định trong BLHS hiện hành khi mà chúng ta
vẫn chỉ dừng lại ở hình thức lỗi cố ý.
Thứ sáu, vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với tội phạm
gây ô nhiễm môi trường nói riêng, tội phạm về môi trường nói chung hiện vẫn
còn nhiều tranh luận tại nhiều quốc gia.
Tại một số quốc gia từ trước cho đến nay vẫn giữ quan điểm chủ thể
của tội phạm chỉ là cá nhân. Luật hình sự của các nước này dựa trên cơ sở
TNHS cá nhân với quan niệm lỗi là một phạm trù đạo đức cho nên chỉ có ở
con người, lỗi là lỗi của cá nhân, do đó TNHS chỉ đặt ra đối với cá nhân. Mặt
khác, quan niệm về TNHS của pháp nhân cũng đã hình thành và đang tồn tại.
Có nhà nghiên cứu về tội phạm nhận định, hiện nay, nguyên tắc trách nhiệm
cá nhân được thừa nhận rộng răi đă trở nên không còn phù hợp xét từ góc độ
của các mối nguy hiểm gây ra bởi các hành vi mang tính tập thể, ở đó không
có cá nhân nào có thể bị chứng minh là có lỗi. Do đó, một số nhà lập pháp
đưa ý kiến cho rằng những biện pháp pháp lí hình sự chỉ đặt trên cơ sở trách
34
nhiệm cá nhân sẽ là không hiệu quả để bảo vệ môi trường khỏi những ô
nhiễm nghiêm trọng gây ra bởi các công ti lớn. Thậm chí ở châu Âu người ta
cho rằng, chính những công ti quốc gia và những tập đoàn xuyên quốc gia lại
là những chủ thể đầy quyền lực thực hiện những hành vi gây thiệt hại cho môi
trường. Vậy tại sao lại không quy định những chủ thể đó phải chịu trách
nhiệm vì những thiệt hại nghiêm trọng mà họ gây ra cho môi trường? Lập
luận này hiện nay đang khá thuyết phục và ngày càng có nhiều ý kiến ủng hộ
cho xu hướng quy TNHS cho pháp nhân bên cạnh TNHS của cá nhân. Về
phía Hội đồng châu Âu, quan điểm về vấn đề này đã thể hiện rất rõ trong
Nghị quyết (77) 28 khi đề nghị các quốc gia thành viên xem xét lại những
nguyên tắc của TNHS với gợi ý nên quy định TNHS của pháp nhân (cả công
và tư) đối với tất cả các tội phạm môi trường. Tiếp sau đó, Công ước số 172
đã thể hiện rất rõ tinh thần này bằng việc quy định TNHS của pháp nhân (các
doanh nghiệp) thực hiện các tội phạm về môi trường tại Điều 9 của Công ước.
Tóm lại, hiện nay, tội phạm gây ô nhiễm môi trường cùng với các tội
phạm khác về môi trường ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm, chú ý.
Cho dù còn có nhiều quan điểm khác nhau về loại tội phạm này tại các quốc
gia và các khu vực, nhưng một thực tế không thể phủ nhận là cơ quan lập
pháp của các nước cũng như các nhà khoa học đang cố gắng để phân tích bản
chất, đặc điểm và khuynh hướng phát triển của từng loại tội phạm môi trường
trong đó có tội phạm gây ô nhiễm môi trường để tìm ra những giải pháp phù
hợp, bao gồm cả việc lập pháp hình sự trong bức tranh tổng thể của công tác
phòng ngừa và đấu tranh, chống các tội phạm về môi trường.
1.4.2. Quy định về tội gây ô nhiễm môi trường trong pháp luật hình sự
của một số nước
1.4.2.1. Theo Bộ luật hình sự liên bang Nga
Giống như BLHS của Việt Nam, BLHS của Nga cũng dành một chương
riêng để quy định các tội phạm về môi trường, Chương 26. Các tội phạm về
35
sinh thái. Nhà làm luật của Nga đã quy định 17 điều quy định về các loại tội
phạm môi trường (từ Điều 246 đến Điều 262). Theo đó, tội gây ô nhiễm môi
trường theo BLHS Liên bang Nga gồm 04 tội (tội gây ô nhiễm nước - Điều
250; tội gây ô nhiễm không khí - Điều 251; tội gây ô nhiễm môi trường biển -
Điều 252; tội làm hư hại đất - Điều 254). Quy định này trong BLHS của liên
bang Nga có phần giống với quy định của BLHS năm 1999 của Việt Nam về
các tội gây ô nhiễm môi trường nhưng bổ sung tội gây ô nhiễm môi trường
biển – Điều 252. Các tội gây ô nhiễm môi trường này đều có cấu thành vật chất
khi dấu hiệu hậu quả đều là dấu hiệu bắt buộc. Ví dụ, Điều 250 về tội gây ô
nhiễm nguồn nước:
1. Gây ô nhiễm, làm bẩn các nguồn nước bề mặt, nước
ngầm, các nguồn nước uống, hoặc làm thay đổi thuộc tính tự
nhiên của chúng, nếu như những hành vi đó gây thiệt hại đáng
kể cho cây trồng, súc vật, các loài cá, hoặc kinh tế nông-lâm
nghiệp.... [60, Điều 250];
Điều 251 về tội làm ô nhiễm bầu không khí:
1. Người nào vi phạm quy định thải vào khí quyển các
chất làm ô nhiễm hoặc vi phạm chế độ sử dụng các trang thiết
bị, các công trình, nếu như những hành vi đó làm ô nhiễm
không khí hoặc làm biến đổi thuộc tính tự nhiên của không
khí.... [60, Điều 251]. v.v...
Đặc biệt, ngoài hình thức lỗi cố ý ở khoản 1 tại các điều này, nhà làm luật
của Nga còn quy định cả hình thức lỗi vô ý ở khoản 2 hoặc khoản 3. Ví dụ,
khoản 3 Điều 250. Tội gây ô nhiễm nguồn nước “Những hành vi quy định tại
khoản 1 và khoản 2 của Điều này mà do vô ý làm chết người thì bị phạt tù đến
năm năm” [60, Điều 250] (theo sửa đổi Luật liên bang ngày 08 tháng 12 năm
2003). Như vậy, có thể thấy, tội gây ô nhiễm môi trường tương ứng theo BLHS
của Nga cũng được phân chia thành các tội riêng như trong BLHS năm 1999
36
của Việt Nam, tuy nhiên, có sự bổ sung trong một lĩnh vực là gây ô nhiễm môi
trường biển (Điều 252). Mặt khác, nhà làm luật của Nga cũng quy định cụ thể
việc điều chỉnh trong BLHS đối với các trường hợp người phạm tội gây ra
những hậu quả ô nhiễm môi trường khi vô ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội của mình.
1.4.2.2. Theo Bộ luật hình sự của Trung quốc
Hiện nay, giống như nhiều nước đang phát triển, Trung Quốc đang đứng
trước nhiều thách thức to lớn cần phải giải quyết, trong đó có vấn đề ô nhiễm
môi trường. Nền kinh tế phát triển với tốc độ cao cùng với dân số khổng lồ đã
và đang là những nhân tố gây sức ép mạnh đối với môi trường sinh thái và tài
nguyên thiên nhiên. Ô nhiễm môi trường là nguyên nhân chính gây nên sự
xuất hiện các làng ung thư mà trong thời gian gần đây Chính phủ Trung quốc
đã bắt đầu thừa nhận với các phương tiện thông tin truyền thông. Đứng trước
tình hình đó, Chính phủ Trung Quốc đã coi bảo vệ môi trường khỏi sự ô
nhiễm là một nhiệm vụ quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế xã hội
của mình. Nhằm thực hiện nhiệm vụ chiến lược là bảo vệ môi trường sống và
tài nguyên thiên nhiên, Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành nhiều biện pháp
kiểm soát và bảo vệ thiết thực, trong đó có các biện pháp pháp lý như quy
định và thi hành các chế tài dân sự, hành chính và đặc biệt là tăng cường áp
dụng các biện pháp hình sự đối với các vi phạm pháp luật về môi trường.
BLHS Trung Quốc năm 1997 cũng đã dành một phần riêng (Phần 6) trong
Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý xã hội để quy định các tội xâm
phạm việc bảo vệ môi trường. Phần 6. Các tội xâm phạm việc bảo vệ tài
nguyên môi trường gồm 09 điều luật từ Điều 338 đến Điều 346.
Theo đó, điều luật của BLHS Trung Quốc tương ứng với tội gây ô nhiễm
môi trường của BLHS Việt Nam hiện hành chính là Điều 338. Tội gây ô
nhiễm đất, nước, khí quyển. Giống như tội gây ô nhiễm môi trường trong
37
BLHS hiện hành của Việt Nam, tội gây ô nhiễm đất, nước, khí quyển – Điều
338 của BLHS Trung Quốc cũng có cấu thành tội phạm vật chất (hậu quả là
dấu hiệu bắt buộc):
Người nào vi phạm quy định của Nhà nước đổ các chất thải vào
lòng đất, sông ngòi, bầu khí quyển hoặc xử lý các chất thải mang tính
phóng xạ, chứa tác nhân gây bệnh truyền nhiễm, có chứa độc tố hoặc
các chất thải nguy hiểm khác, gây ô nhiễm nặng cho môi trường, gây
thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản của công và tài sản cá nhân hoặc
gây hậu quả thương vong cho người khác... [38, Điều 338].
Ngoài ra, có một điểm khá đặc biệt đối với chủ thể của tội phạm gây ô
nhiễm đất, nước, khí quyển của BLHS Trung Quốc là pháp nhân cũng phải
chịu TNHS dưới hình thức phạt tiền và “đối với những người quản lý trực
tiếp và những nhân viên chịu trách nhiệm trực tiếp khác sẽ bị xử phạt theo
quy định tại các điều nói trên của Mục này” [38, Điều 346]. Hình phạt đối với
đơn vị phạm tội nói tại các điều từ 338 đến 345. Như vậy, hình phạt tiền được
áp dụng đối với pháp nhân trong quy định về tội gây ô nhiễm đất, nước khí
quyển trong BLHS của Trung Quốc cũng là một giải pháp khá hợp lý khi mà
hiện nay, hầu hết các cơ sở gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường tại các địa
phương đều nhằm mục đích phục vụ cho lợi nhuận của các pháp nhân này.
Đây cũng là một xu hướng của nhà làm luật hiện nay trên thế giới, đã và đang
cân nhắc vấn đề TNHS của pháp nhân trong một số trường hợp cụ thể. Bên
cạnh đó, việc BLHS của Trung Quốc quy định TNHS đối với “những người
quản lý trực tiếp và những nhân viên chịu trách nhiệm trực tiếp khác” là một
biện pháp mang tính răn đe mạnh mẽ, nhằm vào những đối tượng có trách
nhiệm chính trong việc thải các chất gây ô nhiễm ra môi trường, đồng thời,
bảo đảm không bỏ lọt tội phạm cũng như quá trình giải quyết vụ việc được
tiến hành thuận lợi.
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT

More Related Content

What's hot

Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAYLuận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOTLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt NamLuận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAYLuận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAYĐề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCMLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (20)

Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAYLuận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
 
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOTLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt NamLuận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
 
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAYLuận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAYĐề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCMLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
 

Similar to Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT

Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trê...
Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trê...Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trê...
Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trê...
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói 🥳🥳 Liên hệ ZALO/TELE: 0917.193.864 ❤❤
 
Luận án: Pháp luật về trách nhiệm pháp lý về bảo vệ môi trường
Luận án: Pháp luật về trách nhiệm pháp lý về bảo vệ môi trườngLuận án: Pháp luật về trách nhiệm pháp lý về bảo vệ môi trường
Luận án: Pháp luật về trách nhiệm pháp lý về bảo vệ môi trường
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trườngPháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
BÀI MẪU Luận văn Quản Lý nhà nước về ô nhiễm không khí, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn Quản Lý nhà nước về ô nhiễm không khí, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Luận văn Quản Lý nhà nước về ô nhiễm không khí, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn Quản Lý nhà nước về ô nhiễm không khí, 9 ĐIỂM
Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
Khoá Luận Pháp Luật Về Đánh Giá Tác Động Môi Trường – Lý Luận Và Thực Tiễn.
Khoá Luận Pháp Luật Về Đánh Giá Tác Động Môi Trường – Lý Luận Và Thực Tiễn.Khoá Luận Pháp Luật Về Đánh Giá Tác Động Môi Trường – Lý Luận Và Thực Tiễn.
Khoá Luận Pháp Luật Về Đánh Giá Tác Động Môi Trường – Lý Luận Và Thực Tiễn.
Dịch Vụ Viết Thuê Đề Tài Trangluanvan.com / 0934.536.149
 
Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Lĩnh Vực Nuôi Trồng Chế Biến Thủy Sản.docx
Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Lĩnh Vực Nuôi Trồng Chế Biến Thủy Sản.docxLuận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Lĩnh Vực Nuôi Trồng Chế Biến Thủy Sản.docx
Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Lĩnh Vực Nuôi Trồng Chế Biến Thủy Sản.docx
Nhận Viết Đề Tài Trọn Gói ZALO 0932091562
 
Đề tài: Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế...
Đề tài: Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế...Đề tài: Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế...
Đề tài: Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế...
Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí, HOT
Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí, HOTLuận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí, HOT
Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí, HOT
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam, HAY
Luận án: Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam, HAYLuận án: Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam, HAY
Luận án: Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
KHÓA LUẬN: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí - Thực tiễn th...
KHÓA LUẬN: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí - Thực tiễn th...KHÓA LUẬN: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí - Thực tiễn th...
KHÓA LUẬN: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí - Thực tiễn th...
OnTimeVitThu
 
Thực hiện pháp luật về phòng, chống tội phạm môi trường qua thực tiễn ở thành...
Thực hiện pháp luật về phòng, chống tội phạm môi trường qua thực tiễn ở thành...Thực hiện pháp luật về phòng, chống tội phạm môi trường qua thực tiễn ở thành...
Thực hiện pháp luật về phòng, chống tội phạm môi trường qua thực tiễn ở thành...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Pháp Luật Về Trách Nhiệm Pháp Lý Trong Lĩnh Vực Bảo Vệ Môi Trường ...
Hoàn Thiện Pháp Luật Về Trách Nhiệm Pháp Lý Trong Lĩnh Vực Bảo Vệ Môi Trường ...Hoàn Thiện Pháp Luật Về Trách Nhiệm Pháp Lý Trong Lĩnh Vực Bảo Vệ Môi Trường ...
Hoàn Thiện Pháp Luật Về Trách Nhiệm Pháp Lý Trong Lĩnh Vực Bảo Vệ Môi Trường ...
Dịch Vụ Viết Thuê Đề Tài 0934.573.149 / Luanvantot.com
 
Pháp luật bảo vệ môi trường lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản
Pháp luật bảo vệ môi trường lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sảnPháp luật bảo vệ môi trường lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản
Pháp luật bảo vệ môi trường lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản
Luanvantot.com 0934.573.149
 
Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Trong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Th...
Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Trong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Th...Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Trong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Th...
Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Trong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Th...
Viết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 
Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất
Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuấtBồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất
Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Trong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Th...
Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Trong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Th...Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Trong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Th...
Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Trong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Th...
Nhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường k...
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường k...Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường k...
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường k...
https://www.facebook.com/garmentspace
 
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường qua tại cơ sở sản xuất
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường qua tại cơ sở sản xuấtLuận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường qua tại cơ sở sản xuất
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường qua tại cơ sở sản xuất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Pháp luật về phí bảo vệ môi trường tại TP Đà Nẵng - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Pháp luật về phí bảo vệ môi trường tại TP Đà Nẵng - Gửi miễn phí qua...Luận án: Pháp luật về phí bảo vệ môi trường tại TP Đà Nẵng - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Pháp luật về phí bảo vệ môi trường tại TP Đà Nẵng - Gửi miễn phí qua...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Pháp luật về xử lý rác thải sinh hoạt tại Quảng Trị, HOT
Luận văn: Pháp luật về xử lý rác thải sinh hoạt tại Quảng Trị, HOTLuận văn: Pháp luật về xử lý rác thải sinh hoạt tại Quảng Trị, HOT
Luận văn: Pháp luật về xử lý rác thải sinh hoạt tại Quảng Trị, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

Similar to Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT (20)

Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trê...
Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trê...Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trê...
Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trê...
 
Luận án: Pháp luật về trách nhiệm pháp lý về bảo vệ môi trường
Luận án: Pháp luật về trách nhiệm pháp lý về bảo vệ môi trườngLuận án: Pháp luật về trách nhiệm pháp lý về bảo vệ môi trường
Luận án: Pháp luật về trách nhiệm pháp lý về bảo vệ môi trường
 
Pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trườngPháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
 
BÀI MẪU Luận văn Quản Lý nhà nước về ô nhiễm không khí, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn Quản Lý nhà nước về ô nhiễm không khí, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Luận văn Quản Lý nhà nước về ô nhiễm không khí, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn Quản Lý nhà nước về ô nhiễm không khí, 9 ĐIỂM
 
Khoá Luận Pháp Luật Về Đánh Giá Tác Động Môi Trường – Lý Luận Và Thực Tiễn.
Khoá Luận Pháp Luật Về Đánh Giá Tác Động Môi Trường – Lý Luận Và Thực Tiễn.Khoá Luận Pháp Luật Về Đánh Giá Tác Động Môi Trường – Lý Luận Và Thực Tiễn.
Khoá Luận Pháp Luật Về Đánh Giá Tác Động Môi Trường – Lý Luận Và Thực Tiễn.
 
Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Lĩnh Vực Nuôi Trồng Chế Biến Thủy Sản.docx
Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Lĩnh Vực Nuôi Trồng Chế Biến Thủy Sản.docxLuận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Lĩnh Vực Nuôi Trồng Chế Biến Thủy Sản.docx
Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Lĩnh Vực Nuôi Trồng Chế Biến Thủy Sản.docx
 
Đề tài: Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế...
Đề tài: Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế...Đề tài: Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế...
Đề tài: Thực thi pháp luật Bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nuôi trồng và chế...
 
Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí, HOT
Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí, HOTLuận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí, HOT
Luận văn: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí, HOT
 
Luận án: Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam, HAY
Luận án: Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam, HAYLuận án: Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam, HAY
Luận án: Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam, HAY
 
KHÓA LUẬN: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí - Thực tiễn th...
KHÓA LUẬN: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí - Thực tiễn th...KHÓA LUẬN: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí - Thực tiễn th...
KHÓA LUẬN: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí - Thực tiễn th...
 
Thực hiện pháp luật về phòng, chống tội phạm môi trường qua thực tiễn ở thành...
Thực hiện pháp luật về phòng, chống tội phạm môi trường qua thực tiễn ở thành...Thực hiện pháp luật về phòng, chống tội phạm môi trường qua thực tiễn ở thành...
Thực hiện pháp luật về phòng, chống tội phạm môi trường qua thực tiễn ở thành...
 
Hoàn Thiện Pháp Luật Về Trách Nhiệm Pháp Lý Trong Lĩnh Vực Bảo Vệ Môi Trường ...
Hoàn Thiện Pháp Luật Về Trách Nhiệm Pháp Lý Trong Lĩnh Vực Bảo Vệ Môi Trường ...Hoàn Thiện Pháp Luật Về Trách Nhiệm Pháp Lý Trong Lĩnh Vực Bảo Vệ Môi Trường ...
Hoàn Thiện Pháp Luật Về Trách Nhiệm Pháp Lý Trong Lĩnh Vực Bảo Vệ Môi Trường ...
 
Pháp luật bảo vệ môi trường lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản
Pháp luật bảo vệ môi trường lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sảnPháp luật bảo vệ môi trường lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản
Pháp luật bảo vệ môi trường lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản
 
Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Trong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Th...
Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Trong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Th...Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Trong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Th...
Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Trong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Th...
 
Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất
Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuấtBồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất
Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất
 
Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Trong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Th...
Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Trong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Th...Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Trong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Th...
Luận Văn Pháp Luật Bảo Vệ Môi Trường Trong Lĩnh Vực Nuôi Trồng Và Chế Biến Th...
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường k...
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường k...Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường k...
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường k...
 
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường qua tại cơ sở sản xuất
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường qua tại cơ sở sản xuấtLuận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường qua tại cơ sở sản xuất
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường qua tại cơ sở sản xuất
 
Luận án: Pháp luật về phí bảo vệ môi trường tại TP Đà Nẵng - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Pháp luật về phí bảo vệ môi trường tại TP Đà Nẵng - Gửi miễn phí qua...Luận án: Pháp luật về phí bảo vệ môi trường tại TP Đà Nẵng - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Pháp luật về phí bảo vệ môi trường tại TP Đà Nẵng - Gửi miễn phí qua...
 
Luận văn: Pháp luật về xử lý rác thải sinh hoạt tại Quảng Trị, HOT
Luận văn: Pháp luật về xử lý rác thải sinh hoạt tại Quảng Trị, HOTLuận văn: Pháp luật về xử lý rác thải sinh hoạt tại Quảng Trị, HOT
Luận văn: Pháp luật về xử lý rác thải sinh hoạt tại Quảng Trị, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docxVăn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
metamngoc123
 
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdfTHONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
QucHHunhnh
 
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀNGiải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
linh miu
 
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
khanhthy3000
 
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptxFSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
deviv80273
 
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptxLỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
12D241NguynPhmMaiTra
 
Cau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdf
Cau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdfCau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdf
Cau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdf
HngMLTh
 
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thươngPLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
hieutrinhvan27052005
 
Halloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary schoolHalloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary school
AnhPhm265031
 
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang ThiềuBiểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
BÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docx
BÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docxBÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docx
BÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docx
HngL891608
 
SLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdf
SLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdfSLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdf
SLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdf
UyenDang34
 
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
SmartBiz
 
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
NguynDimQunh33
 
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyetinsulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
lmhong80
 
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
trắc nhiệm ký sinh.docxddddddddddddddddd
trắc nhiệm ký sinh.docxdddddddddddddddddtrắc nhiệm ký sinh.docxddddddddddddddddd
trắc nhiệm ký sinh.docxddddddddddddddddd
my21xn0084
 

Recently uploaded (18)

Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docxVăn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
Văn 7. Truyện ngụ ngôn Rùa và thỏ+ Viết PT nhân vật.docx
 
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
BÀI TẬP BỔ TRỢ TIẾNG ANH I-LEARN SMART WORLD 9 CẢ NĂM CÓ TEST THEO UNIT NĂM H...
 
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdfTHONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
THONG BAO nop ho so xet tuyen TS6 24-25.pdf
 
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀNGiải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
Giải phẫu tim sau đại học- LÊ QUANG TUYỀN
 
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
100 DẪN CHỨNG NGHỊ LUẬN XÃ HỘiI HAY.docx
 
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptxFSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
FSSC 22000 version 6_Seminar_FINAL end.pptx
 
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptxLỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
LỊCH SỬ 12 - CHUYÊN ĐỀ 10 - TRẮC NGHIỆM.pptx
 
Cau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdf
Cau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdfCau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdf
Cau-Trắc-Nghiệm-TTHCM-Tham-Khảo-THI-CUỐI-KI.pdf
 
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thươngPLĐC-chương 1 (1).ppt của trường  ĐH Ngoại thương
PLĐC-chương 1 (1).ppt của trường ĐH Ngoại thương
 
Halloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary schoolHalloween vocabulary for kids in primary school
Halloween vocabulary for kids in primary school
 
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang ThiềuBiểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
Biểu tượng trăng và bầu trời trong tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều
 
BÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docx
BÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docxBÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docx
BÁO CÁO CUỐI KỲ PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HƯỚNG ĐỐI TƯỢNG - NHÓM 7.docx
 
SLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdf
SLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdfSLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdf
SLIDE BÀI GIẢNG MÔN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.pdf
 
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024june
 
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc40 câu hỏi - đáp Bộ  luật dân sự năm  2015 (1).doc
40 câu hỏi - đáp Bộ luật dân sự năm 2015 (1).doc
 
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyetinsulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
insulin cho benh nhan nam vien co tang duong huyet
 
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 10 - SÁCH MỚI - FORM BÀI TẬP 2025 (DÙNG CHUNG ...
 
trắc nhiệm ký sinh.docxddddddddddddddddd
trắc nhiệm ký sinh.docxdddddddddddddddddtrắc nhiệm ký sinh.docxddddddddddddddddd
trắc nhiệm ký sinh.docxddddddddddddddddd
 

Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHÙNG TRUNG THẮNG TỘI GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. NGUYỄN NGỌC ANH HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Phùng Trung Thắng
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU.......................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG................................................................................8 1.1. Cơ sở lý luận và ý nghĩa của việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong Việt Nam.......................................................................8 1.1.1. Cơ sở lý luận của việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong Bộ luật hình sự Việt Nam .........................................................8 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong Bộ luật hình sự ...................................................................................... 14 1.2. Khái niệm ô nhiễm môi trường, tội gây ô nhiễm môi trường ...........18 1.2.1. Khái niệm ô nhiễm môi trường ........................................................18 1.2.2. Khái niệm tội gây ô nhiễm môi trường ............................................ 19 1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây ô nhiễm môi trường......................................... 21 1.3.1. Giai đoạn sau khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ nhất – Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ hai - Bộ luật hình sự năm 1999................................ 21 1.3.2. Giai đoạn từ sau khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ hai – Bộ luật hình sự năm 1999 đến trước khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999.............................................................................23
  • 4. 1.3.3. Giai đoạn từ sau khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999 (Bộ luật hình sự hiện hành) đến nay................................................. 25 1.4. Quan điểm của cộng đồng quốc tế và quy định của một số nước về tội gây ô nhiễm môi trường......................................................... 28 1.4.1. Quan điểm của cộng đồng quốc tế về tội gây ô nhiễm môi trường...28 1.4.2. Quy định về tội gây ô nhiễm môi trường trong pháp luật hình sự của một số nước............................................................................... 34 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.............................................................................41 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ TỘI GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG................................................................ 42 2.1. Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội gây ô nhiễm môi trường ............................................................................ 42 2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội gây ô nhiễm môi trường trong Bộ luật hình sự hiện hành............................................ 42 2.1.2. Quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về hình phạt đối với tội gây ô nhiễm môi trường...................................................................56 2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội gây ô nhiễm môi trường................................................. 58 2.2.1. Tình hình áp dụng............................................................................ 58 2.2.2. Những bất cập của việc áp dụng xử lý tội gây ô nhiễm môi trường......... 65 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.............................................................................80 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỘI GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG .............................................................................81 3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tội gây ô nhiễm môi trường ........81 3.1.1. Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội gây ô nhiễm môi trường.............................................................. 81
  • 5. 3.1.2. Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật khác bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong phòng chống tội phạm gây ô nhiễm môi trường.... 93 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật về tội gây ô nhiễm môi trường.............................................................. 99 3.2.1. Tăng cường công tác, phổ biến tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức của cá nhân, tổ chức, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc trong cuộc chiến chống ô nhiễm môi trường.................................... 99 3.2.2. Tích cực phối hợp trong việc phát hiện, điều tra, xác định thiệt hại xảy ra đối với tội phạm gây ô nhiễm môi trường...................... 103 3.2.3. Nghiên cứu, kết hợp hài hòa giữa bảo vệ môi trường với chính sách ưu đãi hoạt động đầu tư, sản xuất và kinh doanh của địa phương, đồng thời, tăng cường kiểm tra, thanh tra và kiên quyết xử lý các cơ sở, doanh nghiệp gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường...................... 103 3.2.4. Tăng cường trang bị cơ sở vật chất, đào tạo chuyên môn, bảo đảm phục vụ tốt cho việc xác minh thiệt hại .................................. 105 3.2.5. Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong việc phòng chống tội phạm gây ô nhiễm môi trường ở Việt Nam.................................... 107 KẾT LUẬN............................................................................................... 109 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 111
  • 6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự TNHS trách nhiệm hình sự
  • 7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Tỷ lệ xử phạt vi phạm hành chính hành vi gây ô nhiễm môi trường từ năm 2009 đến 2013 59 Bảng 2.2: Tình hình khởi tố và xét xử tội gây ô nhiễm môi trường từ năm 2009 đến năm 2013 64
  • 8. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang Biểu đồ 2.1: Thống kê số lượng các vụ việc gây ô nhiễm môi trường bị xử phạt vi phạm hành chính từ năm 2009 đến năm 2013 61 Biểu đồ 2.2: Sự phát triển của hành vi gây ô nhiễm môi trường trong tổng số các hành vi vi phạm về môi trường bị phát hiện và xử lý từ năm 2009 đến năm 2013 63
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Sau gần ba mươi năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên nhiều phương diện. Đất nước đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, nền kinh tế tăng trưởng nhanh, chính trị xã hội ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt, vị thế trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Chúng ta đang có cả thế và lực mới để đẩy nhanh quá trình hội nhập, đồng thời, tạo đà cho sự phát triển mọi mặt của đất nước trong thiên niên kỉ mới. Tuy vậy, để hướng tới một sự phát triển bền vững khi đất nước ta đang trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đặt ra không ít những khó khăn, thách thức mà điển hình của một trong số đó là vấn đề về ô nhiễm môi trường. Hiện nay, ô nhiễm môi trường vẫn luôn là vấn đề nóng của tất cả các quốc gia trên thế giới dù cho quốc gia đó là quốc gia đã phát triển hay đang phát triển. Đối với một đất nước đang phát triển chủ yếu dựa vào quá trình khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên tự nhiên như Việt Nam thì sự tác động, ảnh hưởng của con người đối với môi trường là rất lớn. Nhận thức được tầm quan trọng sống còn của việc gìn giữ môi trường, Nhà nước ta đã áp dụng đồng thời nhiều biện pháp bảo vệ môi trường, trong đó rất chú trọng ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý tội phạm và các vi phạm pháp luật khác về môi trường. Thực hiện các văn bản quy định về xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến môi trường như xử lý tội phạm về môi trường đã đạt được một số hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường ở Việt Nam đã tới mức báo động và đang trở thành vấn nạn tại nhiều địa phương trên cả nước. Tại các thành phố lớn hay ngay cả nhiều vùng nông thôn, hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đã và đang gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường xung quanh do không có công trình, thiết bị xử lý chất thải hoặc những thiết bị này hoạt
  • 10. 2 động không hiệu quả. Nguy hiểm hơn, chính là việc các cơ sở này cố tình xả trộm trực tiếp ra môi trường xung quanh các chất thải mà không qua bất kỳ một khâu xử lý nào. Điều này sẽ tiết kiệm một khoản tiền lớn khi mà các cơ sở sản xuất, kinh doanh này không phải xây dựng hoặc vận hành các hệ thống xử lý chất thải ra trong quá trình sản xuất của đơn vị mình. Nếu sự việc bị phát hiện, việc xử lý các đơn vị đó gặp rất nhiều rào cản như chính sách ưu đãi đầu tư của địa phương, quy định xử phạt vi phạm hành chính quá nhẹ.v.v..không khiến cho các cá nhân, tổ chức này run tay mà tiếp tục thực hiện các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Đứng trước tình hình đó, việc các nhà làm luật tội phạm hóa các hành vi gây ô nhiễm môi trường dưới tội danh – Tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 182) trong BLHS hiện hành là việc làm rất kịp thời và thể hiện sự quyết tâm thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra. Tuy nhiên, tính cho tới thời điểm hiện nay, chưa có một vụ án nào được đưa ra xét xử theo quy định về tội gây ô nhiễm môi trường theo BLHS hiện hành. Như vậy, có thể khẳng định: pháp luật nói chung, pháp luật hình sự quy định về tội phạm gây ô nhiễm môi trường còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho hoạt động phòng, chống tội phạm về môi trường; cần phải được tổng kết, rút kinh nghiệm để đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự về tội phạm gây ô nhiễm môi trường. Mặt khác, nhìn nhận từ góc độ lý luận cho thấy, vấn đề nghiên cứu lý luận về tội phạm môi trường nói chung, tội gây ô nhiễm môi trường nói riêng chưa được quan tâm đúng mức. Trong điều kiện đó, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất giải pháp hoàn thiện phối hợp và nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm gây ô nhiễm môi trường đang được đặt ra như một nhu cầu bức xúc. Nhận thức như vậy, chúng tôi đã chọn vấn đề “Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
  • 11. 3 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về các tội phạm môi trường mà tiêu biểu là một số công trình như: Lực lượng Công an nhân dân nâng cao trách nhiệm và hiệu quả trong công tác bảo vệ môi trường của Trung tướng Đặng Văn Hiếu, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an năm 2007; Đề tài khoa học Tội phạm về môi trường - một số vấn đề lý luận và thực tiễn năm 2003 do tiến sĩ Phạm Văn Lợi, Phó viện trưởng viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp làm chủ nhiệm; luận án tiến sĩ TNHS đối với các tội phạm về môi trường năm 2011 của tác giả Dương Thanh An; luận văn Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm môi trường theo Luật hình sự Việt Nam của tác giả Nguyễn Trí Chinh năm 2010, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội.v.v... Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên các đề tài này mới chỉ đề cập nghiên cứu ở những góc độ nhất định về tội phạm môi trường nói chung mà chưa nghiên cứu một cách chi tiết về từng loại tội phạm môi trường. Theo những nghiên cứu như trên cho thấy, tính cho tới thời điểm hiện tại chưa có một công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về tội gây ô nhiễm môi trường ở nước ta. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về tội gây ô nhiễm môi trường; thực trạng quy định và nội dung tội gây ô nhiễm môi trường theo BLHS Việt Nam hiện hành; qua đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS đối với tội phạm gây ô nhiễm môi trường trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đảm bảo đạt được các mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau:
  • 12. 4 - Tổng hợp, phân tích và làm rõ một số khía cạnh về tội gây ô nhiễm môi trường như: Khái niệm, cơ sở lý luận và ý nghĩa của việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường; - Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam về tội gây ô nhiễm môi trường và đưa ra một số nhận định đánh giá; - Nghiên cứu quy định về tội gây ô nhiễm môi trường của pháp luật quốc tế và tại một số nước trong khu vực và trên thế giới nhằm phân tích, đánh giá để học hỏi kinh nghiệm lập pháp; - Nghiên cứu các quy định cụ thể về tội gây ô nhiễm môi trường trong BLHS hiện hành của Việt Nam từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá; - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về tội gây ô nhiễm môi trường để làm cơ sở chỉ ra những tồn tại, hạn chế qua việc áp dụng và những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế; - Tổng hợp kết quả nghiên cứu và đề xuất những phương án, giải pháp hoàn thiện các quy định của BLHS Việt Nam cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng tội gây ô nhiễm môi trường trong thực tiễn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là qui định về tội gây ô nhiễm môi trường tại Điều 182 chương XVII. Các tội phạm về môi trường của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS (Luật số 37/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009); Điều 182. Tội gây ô nhiễm không khí, Điều 183. Tội gây ô nhiễm nguồn nước và Điều 184. Tội gây ô nhiễm đất của BLHS năm 1999; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta và các tài liệu khác có liên quan đến hoạt động đấu tranh đối với tội phạm gây ô nhiễm môi trường. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu về nội dung mà luận văn xác định bao gồm:
  • 13. 5 khái niệm, cơ sở lý luận và ý nghĩa của việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong BLHS; lịch sử hình thành, quy định về tội gây ô nhiễm môi trường theo pháp luật quốc tế và tại một số nước; quy định, thực trạng áp dụng tội gây ô nhiễm môi trường; nguyên nhân, hạn chế và đề xuất phương án hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng tội gây ô nhiễm môi trường trong thực tiễn. - Về thời gian: luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng tội gây ô nhiễm môi trường từ năm 2010 đến nay. 5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh, phòng ngừa, chống tội phạm được thể hiện trong Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị (Khoá IX) về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 21/01/2009 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành luật hình sự và các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: phương pháp hệ thống; phương pháp thống kê; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp điều tra xã hội học. 6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Là công trình nghiên cứu khoa học có hệ thống và tương đối toàn diện về tội gây ô nhiễm môi trường trong Luật hình sự Việt Nam nên kết quả nghiên cứu của luận văn có một số điểm mới cụ thể là: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội gây ô nhiễm môi trường được quy định trong BLHS Việt Nam hiện hành;
  • 14. 6 - Chỉ ra được những vướng mắc, bất cập của các quy định hiện hành liên quan đến tội gây ô nhiễm môi trường trong BLHS Việt Nam hiện hành; - Tổng hợp chi tiết những nguyên nhân chính khó khăn cho việc áp dụng quy định về tội gây ô nhiễm môi trường trên thực tế của BLHS Việt Nam hiện hành; - Đưa ra được hệ thống các kiến nghị, nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về Tội gây ô nhiễm môi trường của BLHS; - Với kết quả nêu trên, luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, học tập, công tác thực tiễn liên quan đến lĩnh vực phòng chống tội phạm về môi trường. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về mặt lý luận, luận văn đi sâu vào nghiên cứu những quy định về tội gây ô nhiễm môi trường trong BLHS hiện hành để làm sáng tỏ những kiến thức cơ bản nhất cũng như chỉ ra những ưu điểm và hạn chế trong các quy định về loại tội phạm này, cùng quan điểm quốc tế về tội gây ô nhiễm môi trường cũng như quy định tương tự trong pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới sẽ giúp cho các nhà làm luật nước ta có thêm nguồn thông tin để phân tích, đánh giá và học hỏi kỹ thuật lập pháp để tiếp tục hoàn thiện quy định về tội này trong quá trình sửa đổi, bổ sung tiếp theo của BLHS. - Về mặt thực tiễn, những số liệu mà luận văn cung cấp sẽ giúp cho các nhà nghiên cứu có sự đánh giá chính xác về hiệu quả của việc áp dụng tội gây ô nhiễm môi trường trong thời gian qua. Luận văn cũng chỉ ra những bất cập, nguyên nhân ảnh hưởng tới việc áp dụng của tội gây ô nhiễm môi trường. Những giải pháp, kiến nghị mà luận văn đề xuất sẽ góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về tội gây ô nhiễm môi trường của BLHS trên thực tế, phục vụ yêu cầu đấu tranh phòng chống các loại tội phạm về môi trường trong thời gian tới.
  • 15. 7 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Những vấn đề chung về tội gây ô nhiễm môi trường Chương 2. Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội gây ô nhiễm môi trường và thực tiễn áp dụng Chương 3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về tội gây ô nhiễm môi trường và nâng cao hiệu quả áp dụng
  • 16. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG 1.1. Cơ sở lý luận và ý nghĩa của việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong Bộ luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Cơ sở lý luận của việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong Bộ luật hình sự Việt Nam Trong những thập kỷ gần đây, ô nhiễm môi trường luôn là vấn đề nghiêm trọng mà nhiều quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt. Các vấn đề về ô nhiễm đã khiến người dân trên khắp trái đất phải đương đầu với nhiều bệnh dịch có sức tàn phá khủng khiếp. Theo một báo cáo của Tổ chức Phát triển và Hợp tác kinh tế (OECD), tới năm 2050, ô nhiễm môi trường sẽ trở thành “kẻ sát nhân” khiến 3,6 triệu người chết mỗi năm. Bên cạnh đó, những thiệt hại do ô nhiễm môi trường đã tàn phá nặng nề nền kinh tế như các chi phí khám, chữa bệnh, tổn thất sức lao động, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy, hải sản v.v… Những hội nghị quốc tế về môi trường như Hội nghị Stockholm năm 1972, Hội nghị thượng đỉnh trái đất Rio năm 1992, Tuyên bố thiên niên kỉ năm 2000, Hội nghị thượng đỉnh trái đất về phát triển bền vững năm 2002 v.v… đã gióng lên những hồi chuông cảnh báo về những thảm họa do ô nhiễm môi trường gây ra. Tại Việt Nam, ngay từ giai đoạn rất sớm của quá trình phát triển đất nước theo con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức sâu sắc những hệ lụy của ô nhiễm môi trường và đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, dưới nhiều hình thức, vừa mang tính chiến lược nhưng cũng hết sức cụ thể để bảo vệ môi trường hiệu quả hơn, trước sự gia tăng của các hành vi gây ô nhiễm ngày càng đa dạng và phức tạp. Biện pháp đầu tiên phải kể tới, đó là sự ghi nhận tại văn bản pháp lý
  • 17. 9 cao nhất của Nhà nước ta là Hiến pháp. Tại Điều 29, Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ: “Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường” [46, Điều 29]. Trên cơ sở đó, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau đối với các hành vi xâm phạm tới môi trường nói chung và hành vi gây ô nhiễm môi trường nói riêng. Tại BLHS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999, lần đầu tiên các nhà làm luật của nước ta đã dành hẳn một chương riêng – Chương XVII. Các tội phạm về môi trường, trong đó có 03 điều luật (Điều 182. Tội gây ô nhiễm không khí; Điều 183. Tội gây ô nhiễm nguồn nước và Điều 184. Tội gây ô nhiễm đất) là cơ sở đầu tiên cho việc quy định cho hành vi gây ô nhiễm môi trường được quy định tại Điều 182 BLHS hiện hành. Sự phát triển của khoa học công nghệ đã tạo ra những sản phẩm mới trên cơ sở những dạng vật chất mới, trong số đó đa phần là các chất nhân tạo, khó phân hủy khi hết hạn sử dụng hoặc sinh ra sau khi sản xuất xong sản phẩm. Mặc dù vậy, không phải sản phẩm nào cũng có thể tái chế hoặc trong quá trình sản xuất không có những sản phẩm dư thừa thải ra môi trường sống của con người gây những tác động tiêu cực đến sức khỏe, sinh hoạt, thực phẩm v.v… mà không bị kiểm soát triệt để. Những hành vi thải vào không khí, nguồn nước, đất đai những chất gây ô nhiễm môi trường ngày càng diễn ra phổ biến ở nước ta tại những nơi tập chung các khu công nghiệp, khu chế xuất, làng nghề v.v… đã ngày càng đặt ra yêu cầu phải có một chế tài đủ mạnh không chỉ đơn giản là xử lý vi phạm hành chính mà phải được tội phạm hóa đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường thực sự nguy hiểm cho xã hội. Trong xu hướng của chính sách hình sự nước ta, việc sử dụng vai trò của pháp luật hình sự trong việc bảo vệ môi trường trước các hành vi gây ô nhiễm
  • 18. 10 môi trường ngày càng được sử dụng nhiều hơn với mức độ quyết liệt hơn. Việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong BLHS hiện hành được dựa trên những cơ sở lý luận sau: Thứ nhất, yêu cầu khách quan của việc tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ô nhiễm môi trường xuất phát từ tính nguy hiểm ngày càng cao của các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Tại Việt Nam, quá trình phát triển kinh tế nhằm đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong điều kiện lực lượng sản xuất thấp kém, nền kinh tế thị trường chưa hoàn thiện và việc khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên không được kiểm soát chặt chẽ đã làm cho môi trường nông thôn bị suy thoái nghiêm trọng. Việc phát triển kinh tế đô thị cũng làm cho môi trường tại chính các đô thị này ngày càng ô nhiễm nặng nề. Những hành vi gây ô nhiễm môi trường không chỉ tập chung tại các khu công nghiệp, làng nghề hay xuất nhập khẩu mà hiện nay lan rộng sang cả lĩnh vực y tế, an toàn vệ sinh thực phẩm và bảo tồn thiên nhiên v.v… Tính chất và mức độ của các hành vi gây ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng, phức tạp, tinh vi và khó phát hiện. Ví dụ, năm 2008, Công ty Vedan bị phát hiện đã bí mật xả thải ra sông Thị Vải, trong suốt 14 năm. Đứng trước những thách thức do sự gia tăng tính nguy hiểm ngày càng cao của các hành vi gây ô nhiễm môi trường, việc đấu tranh, ngăn chặn và phòng ngừa bằng biện pháp hình sự là cần thiết. Thứ hai, biện pháp hình sự chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống các biện pháp của nhà nước để bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm. Hiện nay, các biện pháp bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm của Nhà nước bao gồm các biện pháp, cụ thể: 1) Các biện pháp mang tính chính trị, bao gồm việc xác định các phương hướng cơ bản của chiến lược bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm; 2) Các biện pháp mang tính kinh tế; 3) Các biện pháp
  • 19. 11 mang tính kỹ thuật, bao gồm việc xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các biện pháp, giải pháp kỹ thuật và công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường; 4) Các biện pháp mang tính tổ chức, bao gồm việc xây dựng hệ thống các đơn vị quản lý, thanh tra, kiểm tra và khắc phục các sự cố về ô nhiễm môi trường; 6) Các biện pháp mang tính giáo dục, bao gồm các chương trình giáo dục về những hậu quả của ô nhiễm môi trường và những quy định của pháp luật đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường.v.v... Mỗi biện pháp đều mang lại những hiệu quả nhất định, tuy nhiên, pháp luật hình sự chiếm vị trí quan trọng đặc biệt mà không ai có thể phủ nhận vai trò của nó. Với tư cách là một biện pháp bảo vệ tính ổn định, bền vững của các mối quan hệ xã hội, pháp luật hình sự đóng vai trò phòng ngừa và giáo dục trong công cuộc đấu tranh với các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Khi những biện pháp xử phạt vi phạm hành chính tỏ ra không thực sự đủ mạnh, tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của các hành vi gây ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọng thì các biện pháp hình sự chính là giải pháp cho vấn đề này. Bằng những chế tài nghiêm khắc nhất, biện pháp hình sự sẽ có sức ảnh hưởng lớn đối với những chủ thể có ý định thực hiện các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Những chủ thể này sẽ phải tính toán tới những hậu quả bất lợi có thể bị áp dụng nếu thực hiện hành vi đó. Chính vì vậy, những biện pháp hình sự chính là cơ sở để tăng cường công tác phòng ngừa và đấu tranh các hành vi vi phạm pháp luật gây ô nhiễm môi trường và tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc tội phạm hóa những hành vi gây ô nhiễm môi trường. Thứ ba, việc tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm gây ô nhiễm môi trường còn xuất phát từ yêu cầu của chính sách bảo vệ môi trường mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra cũng như việc bảo đảm, thực hiện các cam kết quốc tế của đất nước. Bảo vệ môi trường trước các nguy cơ ô nhiễm khi đất nước bước vào
  • 20. 12 thời kỳ hội nhập từ lâu đã là một trong những chính sách ưu tiên của Đảng và Nhà nước ta. Điều này được thể hiện thông qua một số văn bản như Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị (Khoá IX) về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 21/01/2009 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị.v.v… Đặc biệt, Hiến pháp của nước ta cũng dành những quy định quan trọng về vấn đề bảo vệ môi trường. Ví dụ, khoản 5, Điều 112 Hiến pháp năm 1992 quy định, Chính phủ có nhiệm vụ: “Bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân…; bảo vệ môi trường” [46, Điều 112]; Điều 44 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường” [47, Điều 44]. Với việc thừa nhận quyền được sống trong môi trường trong lành của mọi công dân, Nhà nước ta cũng khẳng định nhiệm vụ của mình trong việc bảo vệ môi trường khỏi các hệ lụy của những hành vi gây ô nhiễm môi trường gây ra đối với nhân dân, đồng thời, đây cũng chính là một trong những cơ sở cho các nhà lập pháp nước ta, tội phạm hóa các hành vi này trong pháp luật hình sự. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia một số lượng lớn các công ước, văn bản pháp lý quốc tế về bảo vệ môi trường. Tại các công ước và văn bản pháp lý quốc tế này đã yêu cầu các quốc gia ký kết quy định, áp dụng các biện pháp quyết liệt, triệt để hơn trong đó có tính đến việc sử dụng các chế tài hình sự đối với các hành vi nguy hiểm cho xã hội trong lĩnh vực môi trường nói chung và gây ô nhiễm môi trường nói riêng. Do vậy, pháp luật hình sự chính là phương tiện để thực hiện các cam kết trong các công ước và văn bản pháp lý quốc tế khác mà Việt Nam tham gia ký kết và thực hiện. Ví dụ, Nghị định thư Kyoto là một nghị định liên quan đến Chương trình khung về biến đổi khí hậu mang tầm quốc tế của Liên hiệp quốc với mục tiêu cắt giảm lượng khí
  • 21. 13 thải gây hiệu ứng nhà kính. Bản dự thảo được kí kết vào ngày 11 tháng 12 năm 1997 tại Hội nghị các bên tham gia lần thứ ba khi các bên tham gia nhóm họp tại Kyoto, và chính thức có hiệu lực vào ngày 16 tháng 2 năm 2005. Việt Nam đã ký Nghị định thư Kyoto vào ngày 3/12/1998 và phê chuẩn vào ngày 25/9/2002. Đây chính là một trong các cơ sở để Việt Nam sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1999 bằng Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/06/2009 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999. Bởi vậy, trong quá trình soạn thảo, sửa đổi bổ sung BLHS, việc nghiên cứu, áp dụng tinh thần của các công ước trong khu vực lẫn quốc tế chính là một trong các cơ sở cho việc xây dựng pháp luật của nước ta đối với các loại tội phạm về môi trường nói chung cũng như tội phạm gây ô nhiễm nói riêng. Thứ tư, yêu cầu tăng cường giáo dục, nâng cao ý thức toàn dân tuân thủ pháp luật, chủ động tham gia phòng chống tội phạm chính là một trong các cơ sở để các nhà làm luật tội phạm hóa các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Ý thức kém của một số bộ phận người dân chính là một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường. Thái độ thờ ơ, hời hợt, vô trách nhiệm cùng với những hành vi vơ vét những nguồn tài nguyên thiên nhiên khi mà lợi ích kinh tế trở thành mục tiêu duy nhất đã khiến cho môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng tại nhiều nơi trên đất nước ta. Bởi vậy, bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm đang là nhiệm vụ thường trực, không chỉ tại một thời điểm nhất định, không chỉ của chúng ta mà các lớp thế hệ mai sau vẫn tiếp tục phải thực hiện. Chúng ta không thể hoàn thành nhiệm vụ này nếu như một cá nhân không ý thức được việc bảo vệ môi trường. Sức mạnh to lớn nhất đó chính là sự đồng lòng, chung tay và quyết tâm vì một hành tinh xanh, ngôi nhà chung của nhân loại. Mọi người đều có quyền và nghĩa vụ tham gia hành trình này, không phân biệt giai cấp địa vị trong xã hội, trai gái, giàu nghèo, già trẻ, chủng tộc, màu da. Từ thành thị đến nông thôn, người giàu hay
  • 22. 14 người vô gia cư... đều bình đẳng trong hành trình cứu lấy ngôi nhà chung. Bằng việc quy định TNHS đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường bị coi là tội phạm, pháp luật hình sự không những có tác dụng răn đe, giáo dục người phạm tội, mà còn tác động lên ý thức của mọi thành viên của xã hội (giáo dục chung) về ý thức tuân thủ pháp luật, cũng như nâng cao tinh thần chủ động tham gia phòng chống loại tội phạm này. Tóm lại, những cơ sở lý luận trên, chính là những yếu tố quan trọng để các nhà làm luật dựa vào đó tiến hành việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong BLHS hiện hành. 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội gây ô nhiễm môi trường trong Bộ luật hình sự 1.1.2.1. Củng cố lòng tin của nhân dân trong cuộc chiến chống ô nhiễm môi trường và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa Sau những vụ việc các cơ sở gây ô nhiễm môi trường bị phanh phui trên các phương tiện truyền thông, nhiều người đã đặt câu hỏi về trách nhiệm của các cơ quan chức năng của nhà nước ở đâu trong các vụ việc đó. Đối với những người dân sống trong khu vực bị ô nhiễm, tâm lý hụt hẫng, thất vọng tại nhiều địa phương đã lên tới đỉnh điểm bởi cơ quan chức năng, quản lý, chính quyền địa phương chưa thực sự đứng về phía người dân, dù những gì mà doanh nghiệp gây ra có thể được xem là những tội ác thực sự. Thái độ thờ ơ, đùn đẩy trách nhiệm cũng như cố tình bao che vì mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương đã khiến cho các hành vi gây ô nhiễm môi trường không được ngăn chặn kịp thời và tại nhiều nơi đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống của người dân. Việc BLHS quy định tội gây ô nhiễm môi trường đã thể hiện tính răn đe mạnh mẽ, quyết liệt đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường, đồng thời, cũng là sự cảnh báo tới các đối tượng đang có ý định thực hiện và buộc chúng phải cân nhắc tới những hậu quả pháp lý hình sự bất lợi có thể bị
  • 23. 15 áp dụng. Để thực hiện hiệu quả các quy định của BLHS đối với các tội phạm về môi trường nói chung và tội gây ô nhiễm môi trường nói riêng, ngày 29/11/2006, Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường được thành lập và trực thuộc Tổng cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm (Tổng cục VI), Bộ Công an. Đây là cơ quan có nhiệm vụ thống nhất quản lý, tổ chức chỉ đạo hướng dẫn lực lượng Cảnh sát môi trường trong cả nước thực hiện các chủ trương, kế hoạch, biện pháp bảo vệ môi trường, đồng thời, phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác về môi trường theo quy định của pháp luật. Trong những năm qua, lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường đã từng bước trưởng thành về lực lượng và năng lực công tác, đã đạt được một số kết quả nhất định và khẳng định được vai trò, vị trí nòng cốt trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm môi trường nói chung và tội phạm về gây ô nhiễm môi trường nói riêng. Lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường được thành lập sẽ góp phần bảo đảm được các quy định của BLHS đối với các tội phạm về môi trường nói chung, tội phạm về gây ô nhiễm nói riêng đi vào thực tiễn một cách hiệu quả hơn, lấy lại được niềm tin của nhân dân trong cuộc chiến chống ô nhiễm môi trường và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. 1.1.2.2. Tạo bước chuyển biến quan trọng của toàn xã hội trong nhận thức về trách nhiệm, quyền lợi trong đấu tranh phòng chống tội phạm gây ô nhiễm môi trường của toàn thể quần chúng nhân dân Bác Hồ đã từng nói: Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong [40, tr.212] hay Công an có bao nhiêu người, dù có vài ba vạn, hay năm nghìn, bảy vạn đi nữa, thì lực lượng ấy cũng còn ít lắm. Bên cạnh là lực lượng nhân dân, năm vạn người thì chỉ có 5 vạn cặp mắt, 5 vạn đôi bàn tay, phải làm sao cho có hàng triệu
  • 24. 16 cặp mắt, hàng triệu đôi bàn tay mới được. Muốn như vậy thì phải dựa vào nhân dân, không được xa rời dân, nếu không sẽ thất bại. Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì ta thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn, dân ta rất tốt [41, tr.406]. Những lời dạy đó của Bác trong cuộc sống hôm nay vẫn muôn phần ý nghĩa. Vì vậy, trong sự nghiệp bảo vệ trật tự an toàn xã hội trong những năm trước đây, hôm nay, và mãi về sau, vai trò to lớn của quần chúng nhân dân là vô cùng to lớn. Từ lời dạy của Bác, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân, tất cả vì mục tiêu phục vụ cho bình yên cuộc sống của nhân dân. Tinh thần này đã được ghi nhận tại khoản 4, Điều 3 BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009): “Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm” [49, Điều 3]. Việc BLHS hiện hành quy định tội gây ô nhiễm môi trường chính là cơ sở để nhân dân nhận thức về trách nhiệm, nghĩa vụ cũng như quyền lợi trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Vì vậy, công tác phổ biến, tuyên truyền các quy định của pháp luật hình sự về đấu tranh, phòng chống các tội phạm về môi trường tới các tầng lớp nhân dân có vai trò rất quan trọng. Khi người dân hiểu rõ được những lợi ích của việc bảo vệ môi trường cũng chính là bảo vệ sức khỏe, sinh hoạt, thực phẩm, kinh tế v.v.. cho bản thân, gia đình và xã hội thì hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm môi trường nói chung, tội phạm gây ô nhiễm môi trường nói riêng sẽ hết sức thuận lợi. 1.1.2.3. Tạo cơ chế phối hợp thực hiện đồng bộ, phát huy được sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp tham gia phòng, chống tội phạm gây ô nhiễm môi trường Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm không thể thực hiện được trọn vẹn nhiệm vụ nặng nề mà Đảng, Nhà
  • 25. 17 nước và nhân dân giao phó nếu không có sự hỗ trợ từ các ngành, các cấp, các tổ chức trong hệ thống chính trị của đất nước. Thực tiễn đã chỉ ra, nhiều vụ án mà lực lượng Cảnh sát môi trường đã phát hiện và xử lý trong thời gian qua, ngoài sự giúp đỡ, báo tin của nhân dân thì sự giúp đỡ, hỗ trợ và phối hợp của các ngành, các cấp khác là rất quan trọng. Đây chính là một trong những lý do Chính phủ đã ban hành Nghị định số 72/2010/NĐ-CP, ngày 08 tháng 7 năm 2010, quy định về phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác về môi trường (Nghị định số 72/2010/NĐ-CP). Theo đó, những nội dung nhằm thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm về môi trường nói chung, tội phạm về gây ô nhiễm môi trường nói riêng được quy định cụ thể đối với các cơ quan quản lý chuyên môn ở trung ương như Bộ Công an, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính, các cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp v.v… đồng thời, các cơ quan này có nhiệm vụ phối hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình công tác. Tại nhiều địa phương, các cơ quan này đã xây dựng quy chế, kế hoạch phối hợp theo từng năm công tác từng đơn vị. Ví dụ: sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với phòng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường của Công an tỉnh, Ban quản lý các khu công nghiệp của tỉnh, ủy ban nhân dân các huyện, thành phố và các sở, ban, ngành liên quan tổ chức thực hiện có hiệu quả kế hoạch thanh tra, kiểm tra đối với các địa phương có khả năng, nguy cơ hoặc đã xảy ra ô nhiễm để lên phương án khắc phục, ngăn chặn; sở Nội vụ chủ trì, phối hợp với sở Tài nguyên và Môi trường tham mưu với ủy ban nhân dân tỉnh tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi trường và tập trung đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra, chủ động phát hiện và xử lý kịp thời các cơ sở vi phạm gây ô nhiễm môi trường; sở Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các ngành liên quan nghiên cứu, tham mưu với ủy ban nhân dân tỉnh về cơ chế ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích
  • 26. 18 đối với các dự án đầu tư trong lĩnh vực xử lý môi trường, xử lý chất thải rắn, nước thải và các dự án ứng dụng công nghệ sản xuất sạch hơn; phòng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường của Công an tỉnh tăng cường công tác nghiệp vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm môi trường nói chung, và tội phạm về gây ô nhiễm môi trường nói riêng, đồng thời, thực hiện việc giám định, kiểm định các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật; ủy ban nhân dân các huyện, thành phố tăng cường công tác quản lý nhà nước về môi trường và phòng chống ô nhiễm môi trường trên địa bàn. Các cơ quan có liên quan, tích cực phối hợp với sở Tài nguyên và Môi trường trong công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về ô nhiễm môi trường theo thẩm quyền và giải quyết tố cáo, khiếu nại có liên quan đến ô nhiễm môi trường tại địa phương.v.v… Hiện nay, tại nhiều địa phương, công tác phối hợp với các cơ quan chức năng của các bộ, ngành liên quan ngày càng được củng cố, hoàn thiện. Về cơ bản, hình thành được mối quan hệ phối hợp thường xuyên với các đơn vị, các lực lượng trong và ngoài ngành, bước đầu rút ra bài học kinh nghiệm trong công tác phát hiện, điều tra tội phạm và vi phạm pháp luật về ô nhiễm môi trường, đồng thời, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập quốc tế. 1.2. Khái niệm ô nhiễm môi trường, tội gây ô nhiễm môi trường 1.2.1. Khái niệm ô nhiễm môi trường Hiện nay, ô nhiễm môi trường là một khái niệm được nhiều ngành khoa học định nghĩa. Dưới góc độ sinh học, khái niệm này chỉ tình trạng của môi trường trong đó những chỉ số hóa học, lí học của nó bị thay đổi theo chiều hướng xấu đi. Dưới góc độ kinh tế học, ô nhiễm môi trường là sự thay đổi không có lợi cho môi trường sống về các tính chất vật lí, hóa học, sinh học mà qua đó có thể gây tác hại tức thời hoặc lâu dài đến sức khỏe của con người,
  • 27. 19 các loài động thực vật và các điều kiện sống khác. Ví dụ, theo wikipedia, “ô nhiễm môi trường là tình trạng môi trường bị ô nhiễm bởi các chất hóa học, sinh học, bức xạ, tiếng ồn,... gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người và các cơ thể sống khác”. Còn theo Từ điển môi trường và phát triển bền vững Anh - Việt và Việt - Anh, ô nhiễm môi trường là: Bất kỳ một sự thay đổi nào đó trực tiếp hoặc gián tiếp, các tính chất vật lý, hóa học, sinh học, độ phóng xạ của bất kỳ bộ phận nào của môi trường do xả, thoát, phát tán hoặc làm lắng đọng các chất thải hoặc các chất gây tác động có hại cho bất kỳ việc sử dụng bằng lợi ích nào [8, tr.300]. Dưới góc độ pháp luật bảo vệ môi trường của nước ta, ô nhiễm môi trường được hiểu “là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật” [53, Điều 3]. 1.2.2. Khái niệm tội gây ô nhiễm môi trường Theo ý kiến của các chuyên gia về tội phạm môi trường, hiện nay, quy định của BLHS hiện hành về tội gây ô nhiễm môi trường chưa thật đầy đủ và cụ thể. Bên cạnh đó, nhận thức về loại tội phạm này còn chưa nhất quán về chủ thể, phạm vi ô nhiễm, hình thức lỗi cũng như xác định mức độ thiệt hại.v.v... Vì vậy, việc đưa ra một khái niệm chung về tội gây ô nhiễm môi trường để thống nhất về đường lối xử lý hình sự đối với loại tội phạm này trong thời gian tới là rất cần thiết. Theo quan điểm của chúng tôi, việc nhận thức và xây dựng khái niệm về tội gây ô nhiễm môi trường cần chú ý tới hai nội dung chính, cụ thể: Thứ nhất, phải dựa trên các dấu hiệu chung của tội phạm Tội phạm gây ô nhiễm môi trường cũng giống như bất kỳ loại tội phạm nào khác là đều có những dấu hiệu chung của tội phạm, bao gồm: thực hiện
  • 28. 20 những hành vi nguy hiểm cho xã hội nhằm gây ô nhiễm môi trường với tính chất, mức độ (đáng kể); được quy định trong BLHS; do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách có lỗi (đối với loại tội phạm gây ô nhiễm môi trường là lỗi cố ý) và xâm phạm đến các quan hệ xã hội về bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm được pháp luật hình sự bảo vệ. Do vậy, việc xây dựng khái niệm về tội gây ô nhiễm môi trường trên cơ sở các dấu hiệu chung của tội phạm là phù hợp, là cơ sở cho việc phân biệt tội gây ô nhiễm môi trường với các tội phạm khác về môi trường, đồng thời, thể hiện được những dấu hiệu đặc thù của loại tội phạm này. Thứ hai, việc xây dựng khái niệm phải phù hợp với chính sách hình sự của Việt Nam trong thời gian tới cũng như yêu cầu của công tác đấu tranh với tội phạm gây ô nhiễm môi trường. Chính sách hình sự của Nhà nước ta trong thời gian tới đối với các tội phạm về môi trường nói chung, tội phạm gây ô nhiễm môi trường nói riêng tập trung và thể hiện ở một số khía cạnh, nội dung như: mở rộng phạm vi, lĩnh vực bảo vệ môi trường và tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội phát sinh (độ rung, tiếng ồn, âm thanh, ánh sáng); tăng nặng TNHS và bảo đảm sự tương xứng giữa các chế tài; nghiên cứu quy định cấu thành tội phạm trong lĩnh vực môi trường dưới dạng cấu thành tội phạm hình thức, lỗi vô ý v.v….. Đối với phạm vi của tội gây ô nhiễm môi trường trong BLHS hiện hành, việc xử lý tội phạm xâm phạm tới môi trường hiện nay chỉ được tiến hành trong 03 lĩnh vực là môi trường nước, không khí và đất. Điều này sẽ hạn chế thẩm quyền của các cơ quan chức năng trong việc xử lý các hành vi gây ô nhiễm môi trường trong các thành phần khác của môi trường khi mà đã bắt đầu xuất hiện những hành vi xâm phạm tới các lĩnh vực môi trường đó trong thực tiễn hiện nay. Mặt khác, hiện nay BLHS hiện hành vẫn chỉ truy cứu đối với trường hợp lỗi cố ý sẽ dẫn tới nhiều trường hợp bỏ lột tội phạm cũng như
  • 29. 21 khó chứng minh được tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý. Hiện tại, qua tham khảo BLHS của một số nước trên thế giới có quy định tương tự về tội gây ô nhiễm môi trường thì các nước đó cũng đã quy định cả trường hợp lỗi vô ý thực hiện các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Theo tác giả, việc quy định cả hình thức lỗi vô ý là rất cần thiết, không những nâng cao được trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức mà còn nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm gây ô nhiễm môi trường.v.v... Vì vậy, để bảo đảm phục vụ hiệu quả đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, việc xây dựng khái niệm về tội gây ô nhiễm môi trường vừa phải đáp ứng các dấu hiệu chung của tội phạm theo quy định của BLHS vừa phải phù hợp hoặc không trái với chính sách hay định hướng của pháp luật hình sự Việt Nam trong những năm tới đối với nhóm tội phạm về môi trường. Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các quan điểm của các chuyên gia về tội phạm môi trường, theo chúng tôi có thể khái niệm của tội gây ô nhiễm môi trường như sau: tội gây ô nhiễm môi trường là một tội phạm, được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS, có lỗi và đạt độ tuổi luật định khi thực hiện hành vi, xâm phạm đến các quan hệ xã hội bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm bằng hành vi thải vào môi trường các chất gây ô nhiễm. 1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây ô nhiễm môi trường 1.3.1. Giai đoạn sau khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ nhất – Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ hai - Bộ luật hình sự năm 1999 Trong giai đoạn trước những năm 1980, do những nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan như hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của đất nước ta khi vừa trải qua một thời gian dài của chiến tranh giành độc lập, điều kiện kinh tế xã hội v.v… nên những quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường khỏi sự ô
  • 30. 22 nhiễm chưa được quan tâm, chú trọng nhiều và chưa được ghi nhận chi tiết trong pháp luật hình sự của nước ta. Những năm tiếp theo sau đó, vấn đề bảo vệ môi trường nói chung đã được đạo luật cao nhất của Nhà nước ta là Hiến pháp năm 1980 bước đầu quy định: “Các cơ quan nhà nước, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân đều có nghĩa vụ thực hiện chính sách bảo vệ, cải tạo và tái sinh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và cải thiện môi trường sống” [45, Điều 36]. Thời kỳ này, khi nền kinh tế của đất nước đang hồi phục và phát triển thì những hệ lụy từ vấn đề ô nhiễm môi trường đang dần trở nên cấp bách đã khiến cho yêu cầu bảo vệ môi trường bằng các chế tài hình sự ngày một lớn. Đứng trước những yêu cầu về bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm, đồng thời, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 1980 về bảo vệ môi trường, Nhà nước ta đã bước đầu quy định vấn đề bảo vệ môi trường trong BLHS năm 1985 trong một số trường hợp. Ví dụ, Điều 180. Tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai; Điều 181. Tội vi phạm các quy định về quản lý bảo vệ rừng; Điều 195. Tội vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường gây hậu quả nghiêm trọng v.v.. Tuy nhiên, việc quy định này còn rất sơ sài, không được hệ thống hóa, tập chung với tính chất là một chương riêng biệt đối với các tội phạm về môi trường, đồng thời, có thể các nhà làm luật lúc này chủ yếu là nhấn mạnh đến khía cạnh kinh tế của các nguồn tài nguyên này mà chưa chú ý đến việc mô tả cụ thể các hành vi. Điều này, dễ dàng nhận thấy qua việc một số tội phạm về môi trường được gộp lại với những tội phạm khác và được hiểu không phải với tư cách là những tội phạm về môi trường. Bên cạnh đó, đối với vấn đề ô nhiễm môi trường, BLHS năm 1985 chưa có quy định rõ đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường trong một hay một số điều luật cụ thể. Do BLHS năm 1985 được xây dựng và ban hành trước thời kỳ đổi mới, vì vậy, khi tình hình kinh tế - xã hội của đất nước ta có những bước phát triển và tiến bộ vượt bậc, xã hội phát
  • 31. 23 sinh thêm nhiều quan hệ xã hội, nhiều loại tội phạm mới hình thành và xuất hiện dẫn tới pháp luật hình sự chưa điều chỉnh, chưa dự liệu hết được là điều có thể hiểu được. Đây chính là những hạn chế đã được nhà làm luật đánh giá, phân tích và bổ sung các hành vi có dấu hiệu của tội phạm mới phát sinh, cho việc tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về bảo vệ môi trường nói chung, bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm nói riêng trong lần pháp điển hóa lần thứ hai (BLHS năm 1999). 1.3.2. Giai đoạn từ sau khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ hai – Bộ luật hình sự năm 1999 đến trước khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999 Hiến pháp năm 1992 ra đời trong hoàn cảnh vấn đề bảo vệ môi trường ngày càng được dư luận trong nước và quốc tế quan tâm. Nếu như, Hiến pháp năm 1980 chỉ quy định việc bảo vệ môi trường chỉ dừng lại ở mức độ “nghĩa vụ” đối với mọi công dân, các cơ quan, đơn vị, thì đến bản Hiến pháp năm 1992, đã thể hiện một mức độ quyết liệt hơn, nghiêm khắc hơn, cụ thể: “Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường” [46, Điều 29]. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1992 trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp lý nhằm cụ thể hóa việc bảo vệ môi trường như: Luật đất đai năm 1993, Luật bảo vệ môi trường năm 1993; Nghị định số 26/CP ngày 26/04/1996 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường v.v... Đây là sự nỗ lực của Nhà nước ta nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật hoàn chỉnh để bảo vệ môi trường trước thực trạng môi trường sinh thái ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng. Pháp luật hình sự cũng phải đứng trước những áp lực và yêu cầu mới về vấn đề bảo vệ môi trường khi mà trước đó (BLHS năm 1985) không được đánh giá cao về hiệu quả thi hành cũng như còn nhiều bất cập trong nội dung các quy định. Bởi vậy, ở lần pháp điển hóa lần thứ 2 này
  • 32. 24 (BLHS năm 1999), nhà làm luật đã rất coi trọng vấn đề này và ghi nhận tại một chương riêng - Chương XVII với 10 điều luật quy định khá cụ thể và chi tiết các hành vi xâm hại đến môi trường. Theo đó, hành vi gây ô nhiễm môi trường gồm có 03 tội (tội gây ô nhiễm không khí - Điều 182; tội gây ô nhiễm nguồn nước - Điều 183 và tội gây ô nhiễm đất - Điều 184). Việc quy định các tội phạm về gây ô nhiễm trong một số thành phần của môi trường sống như nước, không khí, đất đã thể hiện sự quan tâm kịp thời của Đảng và Nhà nước trước thực trạng môi trường đang bị ô nhiễm với mức độ nghiêm trọng tại nhiều địa phương trên cả nước. Tuy nhiên, theo quy định của BLHS năm 1999, việc xử lý về mặt hình sự đối với các tội (tội gây ô nhiễm không khí, tội gây ô nhiễm nguồn nước và tội gây ô nhiễm đất) phải bảo đảm có đủ ba yếu tố mới cấu thành tội phạm, cụ thể: Thải chất gây ô nhiễm môi trường vượt quá tiêu chuẩn cho phép; đã bị xử phạt hành chính mà cố tình không thực hiện các biện pháp khắc phục và gây hậu quả nghiêm trọng. Việc quy định như vậy là thiếu tính khả thi và khó áp dụng trong thực tế, bởi xác định hậu quả nghiêm trọng của hành vi gây ô nhiễm môi trường có nhiều trường hợp không xác định được ngay mà phải sau một thời gian dài mới có thể xác định được hậu quả. Còn việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường, thường chỉ áp dụng đối với pháp nhân nên rất khó khăn để làm căn cứ xử lý về hình sự đối với người có hành vi gây ô nhiễm môi trường. Ví dụ, trong năm 2008, sự kiện gây xôn xao dư luận trong nước liên quan đến thực trạng gây ô nhiễm môi trường là vụ của Công ty Vedan xả thải ra sông Thị Vải. Ngày 08-9-2008, cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường bắt quả tang Công ty Vedan xả trộm nước thải chưa qua xử lý, Vedan đã lắp đặt hệ thống bơm, đường ống ngầm để xả trực tiếp nước thải ra sông Thị Vải nhằm qua mặt chính quyền. Hành vi này đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản và sức khỏe của nông dân ba tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và TP. Hồ
  • 33. 25 Chí Minh nằm bên sông Thị vải. Cơ quan công an đã vào cuộc nhưng không thể xử lý hình sự mà chỉ phạt hành chính với mức tiền phạt 267,5 triệu đồng. Khoảng một tháng sau, đêm 10-10-2008, cảnh sát môi trường TP. Hồ Chí Minh lại bắt quả tang công ty thuộc da Hào Dương đang lén điều khiển hệ thống điện đặc biệt xả thẳng nước thải chưa qua xử lý ra sông Đồng Điền. Cùng với 23 lần bị lập biên bản gây ô nhiễm môi trường, hồ sơ vụ việc được chuyển đi nhằm khởi tố vụ án hình sự về tội gây ô nhiễm nguồn nước. Nhưng tháng 3-2009, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận không khởi tố do chưa đủ cơ sở để truy tố. Hào Dương bị xử phạt hành chính, mức tiền tối đa chỉ 33 triệu đồng.v.v... Tuy nhiên, tất cả các vụ vi phạm trên đều không thể xử lý hình sự. Sở dĩ các vụ gây ô nhiễm môi trường nói trên không thể xử lý hình sự là vì BLHS năm 1999 quy định dấu hiệu đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn cố tình vi phạm mới cấu thành tội phạm. Theo pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường, khi các cơ sở sản xuất (công ty/pháp nhân) có hành vi gây ô nhiễm môi trường, việc xử phạt hành chính sẽ được tiến hành đối với pháp nhân đó. Trong khi đó, BLHS chỉ coi cá nhân là chủ thể của tội phạm. Do đó, khi các cơ quan chức năng muốn khởi tố người đứng đầu pháp nhân hoặc người trực tiếp điều hành việc xả thải gây ô nhiễm môi trường thì hành vi của người này không đủ yếu tố cấu thành tội phạm vì dấu hiệu đã bị xử phạt hành chính chưa được thỏa mãn. Chính vì vậy, khắc phục điểm bất cập, vướng mắc này trong quy định của BLHS năm 1999 đối với quy định về các tội phạm gây ô nhiễm môi trường là rất cần thiết. 1.3.3. Giai đoạn từ sau khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999 (Bộ luật hình sự hiện hành) đến nay Tính đến năm 2009, trải qua gần mười năm thi hành, BLHS năm 1999 đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
  • 34. 26 hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, tạo môi trường ổn định để phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu của thực tiễn áp dụng, một số quy định của BLHS năm 1999 về tội phạm môi trường nói chung, tội phạm gây ô nhiễm môi trường nói riêng đã phát sinh một số hạn chế, vướng mắc và bất cập, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, nhất là việc tăng cường hội nhập quốc tế và quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009 (BLHS hiện hành) đã quy định 11 tội danh về các tội phạm môi trường, trong đó hành vi gây ô nhiễm môi trường chỉ duy nhất được quy định tại một điều luật – Điều 182. Tội gây ô nhiễm môi trường. Đây chính là kết quả của việc các nhà làm luật đã gộp các tội (tội gây ô nhiễm không khí - Điều 182, tội gây ô nhiễm nguồn nước - Điều 183 và tội gây ô nhiễm đất - Điều 184 trong BLHS năm 1999) thành tội gây ô nhiễm môi trường - Điều 182 BLHS hiện hành. Sự thay đổi này trong quy định của BLHS hiện hành bắt nguồn từ việc thay đổi quan niệm về ô nhiễm môi trường của pháp luật bảo vệ môi trường (Luật bảo vệ môi trường năm 1993 đã được thay thế bằng Luật bảo vệ môi trường năm 2005), của kĩ thuật lập pháp.v.v.. Ví dụ, một số hành vi phạm tội được mô tả trong khoản 1 của mỗi điều luật có sự lặp lại như “thải các yếu tố độc hại, phát các bức xạ, chất phóng xạ” [48, Điều 182-184]; đều được xây dựng với cấu thành vật chất – dấu hiệu hậu quả gây ra đối với môi trường quá tiêu chuẩn cho phép.....Như vậy, việc nhập 3 tội danh về gây ô nhiễm không khí, gây ô nhiễm nguồn nước, gây ô nhiễm đất thành tội gây ô nhiễm môi trường là một điểm mới, hợp lý, là sự tiến bộ về mặt kỹ thuật lập pháp của các nhà làm luật, đồng thời, giúp cho việc áp dụng trên thực tế được linh hoạt, thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, đối với các yếu tố để cấu thành tội phạm được đặt ra đối với loại tội phạm này như: Thải chất gây ô nhiễm môi
  • 35. 27 trường vượt quá tiêu chuẩn cho phép; đã bị xử phạt hành chính mà cố tình không thực hiện các biện pháp khắc phục; gây hậu quả nghiêm trọng, đã nhận được khá nhiều ý kiến phản ánh của các chuyên gia nghiên cứu về tội phạm môi trường trong quá trình xin ý kiến sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1999. Về nội dung này, các chuyên gia đều cho rằng, việc BLHS năm 1999 quy định như vậy đã cản trở đến hiệu quả áp dụng, xử lý về mặt hình sự đối với các tội phạm gây ô nhiễm môi trường. Chính vì vậy, sau khi BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), nội dung đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm đã được nhà làm luật bỏ trong các dấu hiệu cấu thành tội gây ô nhiễm môi trường. Do vậy, về bản chất, cấu thành tội phạm của tội gây ô nhiễm môi trường đã được sửa đổi khác so với cấu thành tội phạm của ba hành vi gây ô nhiễm môi trường trong BLHS năm 1999 khi chưa được sửa đổi, bổ sung. Theo đó, chỉ truy cứu TNHS đối với những người có hành vi gây ô nhiễm môi trường “vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng hoặc làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác” [49, Điều 182]. Đây rõ ràng là một trong những điểm mới và tiến bộ của BLHS sau khi sửa đổi, bổ sung năm 2009, đồng thời, khắc phục được một phần những bất cập, khó khăn về cơ sở pháp lý để truy cứu TNHS các cá nhân gây ô nhiễm môi trường. Tuy vậy, việc xác định thiệt hại của hành vi gây ô nhiễm môi trường vẫn đặt ra những thách thức không nhỏ cho nhà làm luật khi hiện nay vấn đề đó đã cản trở không nhỏ tới hiệu quả của việc áp dụng tội gây ô nhiễm môi trường trong thực tế. Ngoài những sửa đổi, bổ sung đã được đề cập ở trên, BLHS hiện hành còn có một số nội dung liên quan đến việc tăng nặng TNHS đối với tội phạm gây ô nhiễm môi trường. Việc tăng mức hình phạt theo quy định của BLHS hiện hành đối với tội gây ô nhiễm môi trường đã thể hiện sự cân nhắc của nhà làm luật với sự phát triển tình hình kinh tế xã hội nước ta so với giai đoạn trước đó, đồng thời, điều đó
  • 36. 28 còn có tác dụng răn đe, ngăn ngừa những hành vi gây ô nhiễm môi trường ở mức độ cao hơn, quyết liệt hơn so với BLHS năm 1999. 1.4. Quan điểm của cộng đồng quốc tế và quy định của một số nước về tội gây ô nhiễm môi trường 1.4.1. Quan điểm của cộng đồng quốc tế về tội gây ô nhiễm môi trường Ngày nay, việc tăng cường sử dụng pháp luật hình sự để chống lại các hành vi gây ô nhiễm môi trường diễn ra khá phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Không chỉ dừng lại ở phạm vi quốc gia, luật hình sự về bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm còn nhận được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Điều này được minh chứng bởi những sự kiện như: trong suốt Hội nghị lần thứ tám của Liên hợp quốc về phòng ngừa tội phạm và đấu tranh với tội phạm có tổ chức tại Havana, Cuba năm 1990, vấn đề kiểm soát chặt chẽ hơn những hoạt động phạm tội có tổ chức gây thiệt hại cho môi trường tự nhiên đã được đưa ra thảo luận. Nghị quyết số 45/121 ngày 14 tháng12 năm 1990 với sự nhất trí của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thúc đẩy các quốc gia sửa đổi luật hình sự để tạo ra một giải pháp có hiệu quả đối với những hiểm họa môi trường mà đặc biệt là vấn đề ô nhiễm môi trường. Thêm một lần nữa, vai trò của luật hình sự trong việc bảo vệ môi trường trước những hiểm họa do ô nhiễm môi trường lại được nhấn mạnh trong một loạt các Nghị quyết của Hội đồng kinh tế và xã hội của Liên hợp quốc như: Nghị quyết số 28 năm 1993, Nghị quyết số 15 năm 1994, Nghị quyết số 27 năm 1995 v.v… Tại châu Âu, văn bản pháp lí đầu tiên đề cập yêu cầu phải kiểm soát các hành vi xâm hại, gây ô nhiễm môi trường là Nghị quyết (77) 28 về sự đóng góp của luật hình sự đối với việc bảo vệ môi trường, được thông qua tại cuộc gặp lần thứ 27, Uỷ ban các bộ trưởng của Hội đồng châu Âu ngày 28/9/1977. Nghị quyết này đã đưa ra một yêu cầu khẩn thiết về sự can thiệp của luật hình sự để ngăn
  • 37. 29 ngừa những hành vi phá hủy môi trường. Sau đó, Công ước số 172 của Hội đồng châu Âu về bảo vệ môi trường bằng pháp luật hình sự ngày 04/11/1998 đã nhấn mạnh luật hình sự đóng góp một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, hàng loạt các hội thảo quốc tế cũng thảo luận sôi nổi vấn đề sử dụng pháp luật hình sự để bảo vệ môi trường, trong đó điển hình là Hội thảo về chính sách hình sự về bảo vệ thiên nhiên và môi trường tại châu Âu được tổ chức tại Lauchhammer (Đức), từ ngày 25 đến ngày 29/4/1994. Tại đây, luật hình sự đã được đánh giá là một công cụ không thể thiếu trong việc bảo vệ môi trường trước các nguy cơ bị xâm hại, ô nhiễm v.v... Hiện nay tội phạm gây ô nhiễm môi trường đang được quốc tế nhìn nhận với một số điểm nổi bật sau: Thứ nhất, đó là sự gia tăng nhanh chóng của các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Hiện nay, tại nhiều nước đang phát triển, việc ưu tiên phát triển kinh tế trong đó ưu tiên cho hoạt động xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất.v.v… đang phải đối mặt với tình hình ô nhiễm môi trường ngày một trầm trọng. Những ưu đãi về tài chính, cơ sở hạ tầng cùng một loạt các điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài mà buông lỏng việc quản lý bảo vệ môi trường đã khiến cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất lợi dụng để thực hiện những hoạt động tàn phá môi trường. Ngay cả đối với những nước phát triển, những hành vi gây ô nhiễm môi trường cũng không ngừng gia tăng và không hề có ngoại lệ khác. Những hành vi này không chỉ phát triển về mặt số lượng mà còn gây mối lo ngại cả về tính nguy hiểm cho xã hội của chúng. Ví dụ, tại Thụy Điển, theo số liệu thống kê chính thức của nước này đã chứng minh sự gia tăng rõ rệt các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường nói chung, hành vi gây ô nhiễm môi trường nói riêng. Theo đó, trong năm 2000, số các quyết định xử lý các hành vi xâm phạm môi trường tại Thụy Điển đã tăng lên tới
  • 38. 30 278% so với các năm trước đó. Cũng theo khảo sát của một nhà nghiên cứu Thụy Điển, hoạt động của gần một nửa triệu các công ty của Thụy Điển đang bị xếp vào loại tạo ra những mối nguy hiểm cho môi trường .v.v.. Thứ hai, việc tăng cường sử dụng luật hình sự để bảo vệ môi trường trước các nguy cơ ô nhiễm là do sự thiếu hiệu quả của các biện pháp pháp lí khác đối với việc xử lí các vi phạm pháp luật về môi trường Đây cũng chính là một trong những nhận định đã được đưa ra tại Hội thảo Lauchhammer, khi nhiều chuyên gia của nhiều nước đều cho rằng luật hình sự cần phải được áp dụng đối với những người vi phạm mà trước đó các chế tài hành chính áp dụng đối với họ đã không có hiệu quả. Bên cạnh đó, Uỷ ban châu Âu trong một kiến nghị cho Nghị quyết về bảo vệ môi trường bằng pháp luật hình sự cũng khẳng định tầm quan trọng của luật hình sự là phương tiện duy nhất để bảo đảm cho việc thực thi luật của Cộng đồng châu Âu một cách hiệu quả, các quốc gia thành viên có trách nhiệm phải quy định các biện pháp pháp lí hình sự nhằm bảo vệ môi trường. Khi bàn về mức độ can thiệp của luật hình sự vào công tác bảo vệ môi trường trước các hành vi gây ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, đa số các quan điểm đều nhất trí rằng, tuy luật hình sự được đánh giá là biện pháp không thể thiếu trong tổng thể hoạt động đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật về môi trường song cũng không vì thế mà lạm dụng nó và chỉ nên là giải pháp cuối cùng, khi mà các biện pháp khác không được tuân thủ hoặc được thực hiện một cách không có hiệu quả hoặc hiệu quả không đáng kể. Theo đó, luật hình sự nên được xem là một công cụ hỗ trợ bên cạnh luật hành chính, là công cụ phòng ngừa đối với cả khả năng tái phạm của người phạm tội lẫn ý định phạm tội của những công dân khác. Tóm lại, trong mối quan hệ với việc bảo vệ môi trường trước các hành vi xâm phạm, gây ô nhiễm v.v.. luật hình sự được xem là một công cụ để phòng ngừa, để răn đe là chính. Do vậy, việc sử dụng pháp luật hình sự được cho là nên có giới hạn. Tuy nhiên, hiện nay trên thế giới
  • 39. 31 đang tồn tại hai loại ý kiến trái ngược nhau về tính nguy hiểm của các tội phạm gây ô nhiễm môi trường. Theo đó, loại ý kiến thứ nhất cho rằng tội phạm gây ô nhiễm môi trường là loại tội vi cảnh, là những hành vi nguy hiểm không đáng kể hoặc không nên bị xem là tội phạm. Như một số hiện tượng xã hội mới khác, tội phạm gây ô nhiễm môi trường không được mọi người chấp nhận như một loại tội phạm thực sự. Những quan niệm đánh giá thấp tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm gây ô nhiễm môi trường được biện minh bởi một lí do liên quan đến yếu tố nạn nhân. Những người theo quan điểm này cho rằng, tội phạm gây ô nhiễm môi trường được xem là loại tội không có nạn nhân hoặc nạn nhân không rõ ràng. Chính vì quan niệm trên nên sẽ gây khó khăn đối với mọi người để có thể nhận thức về các tội phạm gây ô nhiễm môi trường theo cùng một cách suy nghĩ về những loại tội phạm truyền thống khác và thật nguy hiểm bởi vì điều đó làm cho người ta dễ dàng vi phạm các quy định của pháp luật về môi trường. Ví dụ, hành vi đổ lượng thuốc sâu tự chế tạo còn dùng thừa xuống ao cá nhà hàng xóm và người đổ không ý thức được rằng, hành vi của mình có thể bị coi là tội phạm v.v… Trong khi đó, có những ý kiến ngược lại cho rằng những hành vi gây ô nhiễm môi trường là nguy hiểm và cần phải bị xử lí bằng pháp luật hình sự. Những hành vi này bị lên án là không chỉ gây thiệt hại cho tài sản mà còn gây nguy hiểm cho con người cũng như các giá trị khác. Chính vì vậy, tội phạm gây ô nhiễm môi trường nói riêng và các tội phạm về môi trường nói chung trong một số trường hợp có ý kiến đã coi là một trong những loại tội phạm xâm hại tới những giá trị nhân văn quan trọng, do đó có thể bị xem là một loại tội chống loài người. Không những thế, tội phạm gây ô nhiễm môi trường cùng với các tội phạm khác về môi trường còn bị yêu cầu đưa ra xét xử như một loại tội phạm quốc tế theo hướng thành lập một toà án môi trường quốc tế bên cạnh việc kêu gọi toà án hình sự quốc tế xét xử những tội phạm về môi trường nghiêm trọng v.v…
  • 40. 32 Thứ ba, đây là loại tội phạm mặc dù được coi là có tính nguy hiểm cho xã hội chưa rõ ràng nhưng ảnh hưởng tới môi trường sống rõ dệt và nhanh chóng hơn các loại tội phạm môi trường khác. Nói một cách khác, việc chứng minh tính nguy hiểm cho xã hội của loại tội phạm này chưa đủ sức thuyết phục đối với cả cộng đồng. Tuy nhiên, so về tính chất và mức độ nguy hiểm của loại tội phạm này so với các loại tội phạm môi trường khác thì tội phạm gây ô nhiễm môi trường vẫn thể hiện ở mức độ cao hơn, nghiêm trọng hơn. Ví dụ như các hành vi xâm hại tới động vật hoang dã cần bảo vệ, tài nguyên rừng thì ảnh hưởng tới môi trường sống phải một thời gian khá lâu con người mới nhận thấy được. Tuy nhiên, những hành vi gây ô nhiễm môi trường thì thời gian tác động tới môi trường, sức khỏe con người, động vật, thực vật ít hơn và nhiều trường hợp là ảnh hưởng ngay lập tức. Bên cạnh đó, nhiều nước cũng đã chứng minh được một số chất gây ô nhiễm môi trường còn ảnh hưởng qua một thời gian dài hoặc gây ra các bệnh di truyền cho nhiều thế hệ. Thứ tư, hậu quả của các tội phạm gây ô nhiễm môi trường được cho là khó xác định. Về vấn đề này, hiện nay nhiều tác giả cũng tán thành quan điểm này và đều có chung nhận định, việc đánh giá thiệt hại để làm cơ sở cho việc xác định TNHS và những biện pháp khắc phục hậu quả đối với tội phạm này là hết sức phức tạp bởi một thực tế là thiệt hại gây ra có thể được tích lũy dần (là loại thiệt hại tiềm ẩn, dần dần nảy sinh) và gây ra cho nhiều nạn nhân mà một vài người trong số họ thậm chí có thể không biết rằng mình đang là nạn nhân. Hơn nữa, thiệt hại do tội phạm gây ô nhiễm môi trường gây ra được xem là rất đa dạng và phức tạp. Chúng không chỉ là thiệt hại về tính mạng, về sức khoẻ của con người, của tập quán, nguồn sống của động thực vật, mà còn là thiệt hại cho thiên nhiên, cảnh quan, môi sinh v.v… Vì vậy, loại tội phạm này
  • 41. 33 có thể gây ra những hậu quả rất lớn và lâu dài. Chính vì ý thức được điều này nên có nhiều chuyên gia đã có ý kiến cho rằng, nên quy định cả trường hợp tuy chưa có thiệt hại cụ thể xảy ra song có nguy cơ đe dọa thiệt hại nghiêm trọng sẽ xảy ra đối với tội phạm gây ô nhiễm môi trường. Thứ năm, tội phạm gây ô nhiễm môi trường có thể được thực hiện dưới cả hình thức lỗi cố ý hoặc vô ý. Xét từ góc độ luật định, các văn bản pháp luật của Hội đồng châu Âu đều thống nhất về việc quy định cả hai hình thức lỗi đối với các tội phạm về môi trường nói chung và tội phạm gây ô nhiễm môi trường nói riêng. Bên cạnh đó, trong quan điểm lập pháp của mình, Hội đồng châu Âu còn gợi ý rõ hơn là chỉ quy định những tội phạm về môi trường với lỗi vô ý nếu đó là tội phạm nghiêm trọng. Đây là một điểm quan trọng mà pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội phạm về môi trường nói chung và tội phạm gây ô nhiễm môi trường nói riêng khi chưa quy định trong BLHS hiện hành khi mà chúng ta vẫn chỉ dừng lại ở hình thức lỗi cố ý. Thứ sáu, vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với tội phạm gây ô nhiễm môi trường nói riêng, tội phạm về môi trường nói chung hiện vẫn còn nhiều tranh luận tại nhiều quốc gia. Tại một số quốc gia từ trước cho đến nay vẫn giữ quan điểm chủ thể của tội phạm chỉ là cá nhân. Luật hình sự của các nước này dựa trên cơ sở TNHS cá nhân với quan niệm lỗi là một phạm trù đạo đức cho nên chỉ có ở con người, lỗi là lỗi của cá nhân, do đó TNHS chỉ đặt ra đối với cá nhân. Mặt khác, quan niệm về TNHS của pháp nhân cũng đã hình thành và đang tồn tại. Có nhà nghiên cứu về tội phạm nhận định, hiện nay, nguyên tắc trách nhiệm cá nhân được thừa nhận rộng răi đă trở nên không còn phù hợp xét từ góc độ của các mối nguy hiểm gây ra bởi các hành vi mang tính tập thể, ở đó không có cá nhân nào có thể bị chứng minh là có lỗi. Do đó, một số nhà lập pháp đưa ý kiến cho rằng những biện pháp pháp lí hình sự chỉ đặt trên cơ sở trách
  • 42. 34 nhiệm cá nhân sẽ là không hiệu quả để bảo vệ môi trường khỏi những ô nhiễm nghiêm trọng gây ra bởi các công ti lớn. Thậm chí ở châu Âu người ta cho rằng, chính những công ti quốc gia và những tập đoàn xuyên quốc gia lại là những chủ thể đầy quyền lực thực hiện những hành vi gây thiệt hại cho môi trường. Vậy tại sao lại không quy định những chủ thể đó phải chịu trách nhiệm vì những thiệt hại nghiêm trọng mà họ gây ra cho môi trường? Lập luận này hiện nay đang khá thuyết phục và ngày càng có nhiều ý kiến ủng hộ cho xu hướng quy TNHS cho pháp nhân bên cạnh TNHS của cá nhân. Về phía Hội đồng châu Âu, quan điểm về vấn đề này đã thể hiện rất rõ trong Nghị quyết (77) 28 khi đề nghị các quốc gia thành viên xem xét lại những nguyên tắc của TNHS với gợi ý nên quy định TNHS của pháp nhân (cả công và tư) đối với tất cả các tội phạm môi trường. Tiếp sau đó, Công ước số 172 đã thể hiện rất rõ tinh thần này bằng việc quy định TNHS của pháp nhân (các doanh nghiệp) thực hiện các tội phạm về môi trường tại Điều 9 của Công ước. Tóm lại, hiện nay, tội phạm gây ô nhiễm môi trường cùng với các tội phạm khác về môi trường ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm, chú ý. Cho dù còn có nhiều quan điểm khác nhau về loại tội phạm này tại các quốc gia và các khu vực, nhưng một thực tế không thể phủ nhận là cơ quan lập pháp của các nước cũng như các nhà khoa học đang cố gắng để phân tích bản chất, đặc điểm và khuynh hướng phát triển của từng loại tội phạm môi trường trong đó có tội phạm gây ô nhiễm môi trường để tìm ra những giải pháp phù hợp, bao gồm cả việc lập pháp hình sự trong bức tranh tổng thể của công tác phòng ngừa và đấu tranh, chống các tội phạm về môi trường. 1.4.2. Quy định về tội gây ô nhiễm môi trường trong pháp luật hình sự của một số nước 1.4.2.1. Theo Bộ luật hình sự liên bang Nga Giống như BLHS của Việt Nam, BLHS của Nga cũng dành một chương riêng để quy định các tội phạm về môi trường, Chương 26. Các tội phạm về
  • 43. 35 sinh thái. Nhà làm luật của Nga đã quy định 17 điều quy định về các loại tội phạm môi trường (từ Điều 246 đến Điều 262). Theo đó, tội gây ô nhiễm môi trường theo BLHS Liên bang Nga gồm 04 tội (tội gây ô nhiễm nước - Điều 250; tội gây ô nhiễm không khí - Điều 251; tội gây ô nhiễm môi trường biển - Điều 252; tội làm hư hại đất - Điều 254). Quy định này trong BLHS của liên bang Nga có phần giống với quy định của BLHS năm 1999 của Việt Nam về các tội gây ô nhiễm môi trường nhưng bổ sung tội gây ô nhiễm môi trường biển – Điều 252. Các tội gây ô nhiễm môi trường này đều có cấu thành vật chất khi dấu hiệu hậu quả đều là dấu hiệu bắt buộc. Ví dụ, Điều 250 về tội gây ô nhiễm nguồn nước: 1. Gây ô nhiễm, làm bẩn các nguồn nước bề mặt, nước ngầm, các nguồn nước uống, hoặc làm thay đổi thuộc tính tự nhiên của chúng, nếu như những hành vi đó gây thiệt hại đáng kể cho cây trồng, súc vật, các loài cá, hoặc kinh tế nông-lâm nghiệp.... [60, Điều 250]; Điều 251 về tội làm ô nhiễm bầu không khí: 1. Người nào vi phạm quy định thải vào khí quyển các chất làm ô nhiễm hoặc vi phạm chế độ sử dụng các trang thiết bị, các công trình, nếu như những hành vi đó làm ô nhiễm không khí hoặc làm biến đổi thuộc tính tự nhiên của không khí.... [60, Điều 251]. v.v... Đặc biệt, ngoài hình thức lỗi cố ý ở khoản 1 tại các điều này, nhà làm luật của Nga còn quy định cả hình thức lỗi vô ý ở khoản 2 hoặc khoản 3. Ví dụ, khoản 3 Điều 250. Tội gây ô nhiễm nguồn nước “Những hành vi quy định tại khoản 1 và khoản 2 của Điều này mà do vô ý làm chết người thì bị phạt tù đến năm năm” [60, Điều 250] (theo sửa đổi Luật liên bang ngày 08 tháng 12 năm 2003). Như vậy, có thể thấy, tội gây ô nhiễm môi trường tương ứng theo BLHS của Nga cũng được phân chia thành các tội riêng như trong BLHS năm 1999
  • 44. 36 của Việt Nam, tuy nhiên, có sự bổ sung trong một lĩnh vực là gây ô nhiễm môi trường biển (Điều 252). Mặt khác, nhà làm luật của Nga cũng quy định cụ thể việc điều chỉnh trong BLHS đối với các trường hợp người phạm tội gây ra những hậu quả ô nhiễm môi trường khi vô ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình. 1.4.2.2. Theo Bộ luật hình sự của Trung quốc Hiện nay, giống như nhiều nước đang phát triển, Trung Quốc đang đứng trước nhiều thách thức to lớn cần phải giải quyết, trong đó có vấn đề ô nhiễm môi trường. Nền kinh tế phát triển với tốc độ cao cùng với dân số khổng lồ đã và đang là những nhân tố gây sức ép mạnh đối với môi trường sinh thái và tài nguyên thiên nhiên. Ô nhiễm môi trường là nguyên nhân chính gây nên sự xuất hiện các làng ung thư mà trong thời gian gần đây Chính phủ Trung quốc đã bắt đầu thừa nhận với các phương tiện thông tin truyền thông. Đứng trước tình hình đó, Chính phủ Trung Quốc đã coi bảo vệ môi trường khỏi sự ô nhiễm là một nhiệm vụ quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế xã hội của mình. Nhằm thực hiện nhiệm vụ chiến lược là bảo vệ môi trường sống và tài nguyên thiên nhiên, Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành nhiều biện pháp kiểm soát và bảo vệ thiết thực, trong đó có các biện pháp pháp lý như quy định và thi hành các chế tài dân sự, hành chính và đặc biệt là tăng cường áp dụng các biện pháp hình sự đối với các vi phạm pháp luật về môi trường. BLHS Trung Quốc năm 1997 cũng đã dành một phần riêng (Phần 6) trong Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý xã hội để quy định các tội xâm phạm việc bảo vệ môi trường. Phần 6. Các tội xâm phạm việc bảo vệ tài nguyên môi trường gồm 09 điều luật từ Điều 338 đến Điều 346. Theo đó, điều luật của BLHS Trung Quốc tương ứng với tội gây ô nhiễm môi trường của BLHS Việt Nam hiện hành chính là Điều 338. Tội gây ô nhiễm đất, nước, khí quyển. Giống như tội gây ô nhiễm môi trường trong
  • 45. 37 BLHS hiện hành của Việt Nam, tội gây ô nhiễm đất, nước, khí quyển – Điều 338 của BLHS Trung Quốc cũng có cấu thành tội phạm vật chất (hậu quả là dấu hiệu bắt buộc): Người nào vi phạm quy định của Nhà nước đổ các chất thải vào lòng đất, sông ngòi, bầu khí quyển hoặc xử lý các chất thải mang tính phóng xạ, chứa tác nhân gây bệnh truyền nhiễm, có chứa độc tố hoặc các chất thải nguy hiểm khác, gây ô nhiễm nặng cho môi trường, gây thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản của công và tài sản cá nhân hoặc gây hậu quả thương vong cho người khác... [38, Điều 338]. Ngoài ra, có một điểm khá đặc biệt đối với chủ thể của tội phạm gây ô nhiễm đất, nước, khí quyển của BLHS Trung Quốc là pháp nhân cũng phải chịu TNHS dưới hình thức phạt tiền và “đối với những người quản lý trực tiếp và những nhân viên chịu trách nhiệm trực tiếp khác sẽ bị xử phạt theo quy định tại các điều nói trên của Mục này” [38, Điều 346]. Hình phạt đối với đơn vị phạm tội nói tại các điều từ 338 đến 345. Như vậy, hình phạt tiền được áp dụng đối với pháp nhân trong quy định về tội gây ô nhiễm đất, nước khí quyển trong BLHS của Trung Quốc cũng là một giải pháp khá hợp lý khi mà hiện nay, hầu hết các cơ sở gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường tại các địa phương đều nhằm mục đích phục vụ cho lợi nhuận của các pháp nhân này. Đây cũng là một xu hướng của nhà làm luật hiện nay trên thế giới, đã và đang cân nhắc vấn đề TNHS của pháp nhân trong một số trường hợp cụ thể. Bên cạnh đó, việc BLHS của Trung Quốc quy định TNHS đối với “những người quản lý trực tiếp và những nhân viên chịu trách nhiệm trực tiếp khác” là một biện pháp mang tính răn đe mạnh mẽ, nhằm vào những đối tượng có trách nhiệm chính trong việc thải các chất gây ô nhiễm ra môi trường, đồng thời, bảo đảm không bỏ lọt tội phạm cũng như quá trình giải quyết vụ việc được tiến hành thuận lợi.