SlideShare a Scribd company logo
1 of 121
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
*************
NGUYỄN VĂN TUẤN
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC
TƢ PHÁP – HỘ TỊCH, QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
*************
NGUYỄN VĂN TUẤN
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC
TƢ PHÁP – HỘ TỊCH, QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Hoàng Thị Kim Quế
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví
dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết Lời cam đoan này kính đề nghị Khoa Luật – Đại học Quốc gia
Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Văn Tuấn
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Giáo dục pháp luật : GDPL
Phổ biến, giáo dục pháp luật : PBGDPL
Tƣ pháp – hộ tịch : TP-HT
Ủy ban nhân dân : UBND
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
2.1
Số lƣợng công chức tƣ pháp – hộ tịch tại các
xã, phƣờng, thị trấn thuộc các quận, huyện, thị
xã trên địa bàn TP.Hà Nội
43
2.2
Độ tuổi, dân tộc, giới tính của công chức tƣ
pháp – hộ tịch trên địa bàn thành phố Hà Nội 44
2.3
Trình độ văn hóa, chuyên môn, chính trị, ngoại
ngữ và tin học của công chức TP-HT trên địa
bàn thành phố Hà Nội
45
2.4
Phân biệt GDPL cho công chức TP-HT giữa
khu vực nội thành và khu vực ngoại thành trên
địa bàn thành phố Hà Nội
47
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG
CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH ................................................................................6
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH ............6
1.1.1. Khái niệm công chức tư pháp – hộ tịch..........................................................6
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ công chức tư pháp – hộ
tịch ở nước ta............................................................................................................12
1.2. NHẬN THỨC CHUNG VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT ...............................14
1.2.1. Khái niệm giáo dục pháp luật........................................................................14
1.2.2. Các bộ phận cấu thành cơ bản của giáo dục pháp luật...............................17
1.3. GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH.........22
1.3.1. Khái niệm giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch .................22
1.3.2. Mục đích giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch...................22
1.3.3. Nội dung giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch...................24
1.3.4. Hình thức giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch .................25
1.3.5. Đối tượng của giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch ..........26
1.3.6. Chủ thể của giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch ..............28
1.3.7. Đặc điểm giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch...................28
1.4. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH .................................................................32
1.4.1. Quy định của pháp luật về lĩnh vực tư pháp và lĩnh vực hộ tịch.................32
1.4.2. Yếu tố về chủ thể giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch ..............35
1.4.3. Yếu tố về đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch.............................................35
1.4.4. Yếu tố về hình thức giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch ........37
1.4.5. Yếu tố về điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương ......................38
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ
PHÁP - HỘ TỊCH, QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................41
2.1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, VĂN HÓA - XÃ HỘI
VÀ TÌNH HÌNH ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH CỦA THÀNH
PHỐ HÀ NỘI ………………………………………………………………………41
2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá - xã hội của thành phố Hà Nội....41
2.1.2. Tình hình đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch trên địa bàn Hà Nội…….42
2.2. ĐẶC THÙ CỦA GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ
TỊCH VÀ SỰ TÁC ĐỘNG ĐẾN Ý THỨC PHÁP LUẬT, CÔNG TÁC GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI.............................................................................................................46
2.2.1. Đặc thù của giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch trên địa
bàn thành phố Hà Nội…………………………………………………………….46
2.2.2. Sự tác động của vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội
đến công tác giáo dục pháp luật đối với công chức tư pháp – hộ tịch ở thành phố
Hà Nội.......................................................................................................................48
2.3. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG
CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......53
2.3.1. Đánh giá chung về thực tiễn công tác giáo dục pháp luật cho công chức tư
pháp – hộ tịch ...........................................................................................................53
2.3.2. Thực trạng hình thức giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch
trên địa bàn thành phố Hà Nội................................................................................54
2.3.3. Thực trạng về chủ thể, đối tượng, nội dung, cơ sở pháp lý, nguồn lực đầu
tư của giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch trên địa bàn thành
phố Hà Nội ...............................................................................................................68
Chƣơng 3 QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ
NỘI HIỆN NAY ......................................................................................................77
3.1. QUAN ĐIỂM VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ
PHÁP – HỘ TỊCH ..................................................................................................77
3.1.1. Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp-hộ tịch phải đảm bảo tính
thường xuyên, liên tục bằng nhiều hình thức ........................................................77
3.1.2. Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch đáp ứng yêu cầu nâng
cao tính chuyên nghiệp, tôn trọng, tuân thủ pháp luật, tôn trọng bảo đảm các
quyền con người, quyền công dân...........................................................................78
3.2. GIẢI PHÁP VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP
– HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................81
3.2.1. Hoàn thiện chương trình, nội dung để đảm bảo chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ đối với công chức tư pháp – hộ tịch...........................................82
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực tư pháp - hộ tịch .....................................84
3.2.3. Xây dựng các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tham gia công tác giáo dục pháp
luật cho công chức tư pháp – hộ tịch......................................................................87
3.2.4. Áp dụng đa dạng các hình thức giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp
– hộ tịch ....................................................................................................................90
3.2.5. Kết hợp giáo dục pháp luật và kỹ năng thực hành pháp luật cho công chức
tư pháp – hộ tịch.......................................................................................................94
3.2.6. Kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục quyền con người, phòng chống
tham nhũng cho công chức tư pháp –hộ tịch.........................................................95
3.2.7. Tăng cường kiểm tra, giám sát, tổng kết rút kinh nghiệm và thực hiện công
tác thi đua khen thưởng trong hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật................98
3.2.8. Bảo đảm kinh phí cho công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức
cấp xã........................................................................................................................99
3.2.9. Thực hiện xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật....................101
3.2.10. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, tuyên truyền
pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật....................................................................104
KẾT LUẬN............................................................................................................108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................110
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính quyền cấp xã là gần dân nhất để trực tiếp triển khai, thực hiện các chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Công chức TP-HT
được coi như là một đại diện của ngành tư pháp ở cơ sở. Họ phải kiêm nhiệm cùng
lúc rất nhiều nhiệm vụ khác nhau trong lĩnh vực TP-HT. Trong khi đó, nội dung cải
cách nền hành chính theo hướng hiện đại hóa nền hành chính đòi hỏi giải quyết
công việc một cách nhanh chóng, chuyên nghiệp. Tuy nhiên ở nước ta, đội ngũ
công chức TP-HT còn mỏng, chuyên môn nghiệp vụ chưa đồng đều, một số ít công
chức chưa đạt chuẩn về trình độ, chủ yếu mới qua tập huấn đào tạo, chế độ chính
sách còn thấp. Để nâng cao chất lượng cho công chức TP-HT, GDPL có vai trò rất
quan trọng. Nhận thức rõ được nội dung này, nhiều năm qua, ngành Tư pháp Thành
phố Hà Nội đã tích cực tham mưu giúp Thành ủy, UBND Thành phố tập trung đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ cho đội ngũ công chức này. Từ đó,
GDPL cho công chức TP-HT trở thành một nội dung đặc biệt cần thiết để đội ngũ
công chức này có thể thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình.
Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức chính trị có địa vị pháp lý đặc biệt quan
trọng với vai trò lãnh đạo nhà nước xã hội và “gắn bó mật thiết với nhân dân, phục
vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về
những quyết định của mình” [32]. Thành ủy Hà Nội đã ban hành 02 chương trình
thành ủy có nghĩa hết sức quan trọng đối với công tác GDPL cho đội ngũ công chức
nói riêng và toàn thể đội ngũ cán bộ, nhân dân toàn thành phố nói chung. Đó là
chương trình số 08 – CTr/TU của Thành ủy Hà Nội ngày 18/10/2011 về việc Đẩy
mạnh cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm và chất lượng phục vụ của đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2011-2015; Chương trình số 09 – CTr/TU
của Thành ủy Hà Nội ngày 18/10/2011 về việc đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2011-2015. Về phía
UBND thành phố Hà Nội cũng ban hành kế hoạch số 221/KH-UBND ngày
19/12/2014 về phổ biến GDPL trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2015 ; Quyết
định số 6709/QĐ-UBND ngày 16/12/2014 của UBND thành phố Hà Nội về việc
2
phê duyệt chỉ tiêu kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cơ quan của
Đảng, Ủy ban mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Chính trị - Xã hội ; cán bộ, công
chức, viên chức nhà nước ; cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn của thành phố Hà
Nội năm 2015. Như vậy, GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, đối với
công chức TP-HT nói riêng đã và đang nhận được sự quan tâm rất lớn từ phía
Thành ủy, UBND thành phố Hà Nội và trở thành vấn đề quan trọng, cần thiết.
Trước những yêu cầu mới của đất nước, sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
và sự ra đời của những văn bản luật quan trọng, liên quan mật thiết đến đời sống
nhân dân như: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Đất đai,
Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Hộ tịch, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Bảo hiểm xã
hội, Luật Căn cước… và những văn bản Luật khác sẽ được sửa đổi, bổ sung trong
thời gian tới để phù hợp với Hiến pháp năm 2013. Đặc biệt là các quy định về
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Những vấn đề này đã đặt
ra cho công tác PBGDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và công chức
TP-HT nói riêng với nhiều nhiệm vụ mới, ở một tầm cao hơn, đòi hỏi tư duy về
công tác PBGDPL mới hơn, toàn diện hơn, thiết thực và khoa học hơn.
Chính vì những lý do ở trên, em đã lựa chọn đề tài “Giáo dục pháp luật cho
công chức tư pháp – hộ tịch, qua thực tiễn thành phố Hà Nội” để làm luận văn tốt
nghiệp của mình. Từ đó, việc nghiên cứu đề tài sẽ có thể góp phần nâng cao hiệu
quả PBGDPL nói chung và GDPL cho đội ngũ công chức TP-HT nói riêng trên địa
bàn thành phố Hà Nội hiện nay cũng như tại các địa phương khác ở nước ta. Đây là
cơ sở để các chủ thể GDPL cho công chức TP-HT có thể tham khảo để đưa ra được
những nội dung, hình thức, kế hoạch GDPL phù hợp cho đội ngũ công chức TP-HT.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề GDPL nói chung cũng đã và đang được nhắc tới khá nhiều trong các
công trình nghiên cứu khoa học. Một số công trình nghiên cứu khoa học đề cập sâu
đến vấn đề về này phải kể đến đó là:
Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Quốc Sửu, chuyên ngành Lý
luận và lịch sử nhà nước và pháp luật: “GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức hành
chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”,
Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2010. Luận án Tiến sĩ Xã hội học của tác giả
3
Đoàn Thị Thanh Huyền: “GDPL cho con cái trong gia đình hiện nay – Nghiên cứu
trường hợp tỉnh Quảng Ninh”, Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2014. Luận án Phó Tiến sỹ khoa học luật học của nghiên cứu
sinh Dương Thị Thanh Mai chuyên ngành Lý luận Nhà nước và Pháp quyền:
“GDPL qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam”, Cơ sở đào tạo: Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 1996. Luận án Phó Tiến sỹ khoa học luật của nghiên cứu
sinh Đinh Xuân Thảo ,chuyên ngành Lý luận Nhà nước và Pháp quyền: “GDPL
trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật)
ở nước ta hiện nay”, cơ sở đào tạo: Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1996.
Luận án Phó Tiến sỹ khoa học luật học của nghiên cứu sinh Lê Đình Khiên, chuyên
ngành Luật Nhà nước: “Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành
chính nhà nước ở nước ta hiện nay”, cơ sở đào tạo: Viện Nghiên cứu Nhà nước và
pháp luật 1996.
Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Mai: “GDPL cho
cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam hiện
nay”, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2005. Luận Văn Thạc sĩ Luật học của
tác giả Đặng Quang Tuân: “PBGDPL trong lĩnh vực giao thông – qua thực tiễn qua
thực tiễn thành phố Hà Nội”, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2012. Luận văn
Thạc sĩ Luật học của tác giả Phan Thị Hồng Hà: “PBGDPL cho công chức cấp xã – Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2010.
Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy “GDPL ở đô thị
qua thực tiễn thành phố Hải Dương”, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2010.
Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Phạm Kim Dung: “GDPL cho cán bộ, công
chức cơ quan hành chính ở thành phố Hà Nội hiện nay”, Khoa luật – Đại học quốc
gia Hà Nội, 2011. Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Đỗ Hồng Kỳ: “PBGDPL
của xã, phường trên địa bàn thành phố Thanh Hóa”, Khoa luật – Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2012.
Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Dương Thị Thu Hiền “phổ biến GDPL
trên địa bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình – thực trạng và giải pháp”, Khoa
luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2013. Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả
Nguyễn Thị Kim Ngân: “GDPL ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Khoa luật – Đại
4
học quốc gia Hà Nội, 2013. Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Xuân Hạnh:
“PBGDPL trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa”, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2014.
Như vậy, vấn đề GDPL đã được nghiên cứu khá nhiều trong các công trình
nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên cho đến nay, đề tài “Giáo dục pháp luật cho công
chức tƣ pháp – hộ tịch, qua thực tiễn thành phố Hà Nội” vẫn chưa được nhắc tới
trong các công trình nghiên cứu khoa học nào. Đây là một nội dung nghiên cứu khá
mới mẻ nhưng tuơng đối khó bởi nhiệm vụ, quyền hạn của công chức TP-HT khá là
rộng. Vì vậy, em đã lựa chọn đề tài này và lấy thực tiễn thành phố Hà Nội để làm
luận văn tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu và nhiệm vụ của Luận văn
Luận văn có mục đích nghiên cứu là làm rõ những đặc trưng, yêu cầu cơ bản
về GDPL cho công chức TP-HT, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
GDPL cho công chức TP-HT.
Luận văn tập trung nghiên cứu về GDPL đối với đối tượng là đội ngũ công chức
TP-HT. Do vậy, để thực hiện được mục đích nghiên cứu, luận văn phải thực hiện được
các nhiệm vụ:
Xác định được cơ sở lý luận về GDPL cho công chức TP-HT gồm: Nhận thức
chung về công chức TP-HT; Những vấn đề lý luận cơ bản về GDPL; GDPL cho
công chức TP-HT và những yếu tố tác động đến GDPL cho công chức TP-HT.
Đề cập và phân tích được thực trạng GDPL cho công chức TP-HT trên địa bàn
thành phố Hà Nội. Luận văn phải tập trung làm rõ thực trạng đội ngũ công chức TP-
HT và thực tiễn GDPL cho công chức TP-HT trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Đưa ra những quan điểm, giải pháp về GDPL cho công chức TP-HT trên địa
bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận của GDPL cho công chức TP-HT; làm rõ thực
trạng GDPL cho công chức TP-HT tại thành phố Hà Nội; đưa ra quan điểm, đề xuất
giải pháp về GDPL cho công chức TP-HT trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận được sử dụng trong luận văn đó là phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin. Luận văn được thực hiện trên cơ sở sự vận dụng tư tưởng Hồ
5
Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về nhà nước và pháp luật; về cán bộ, công chức;
về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học đó là phương pháp tư
duy trừu tượng, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy
nạp và diễn dịch, phương pháp hệ thống và phương pháp so sánh. Các phương pháp
nghiên cứu khoa học này được sử dụng để nghiên cứu đề tài nghiên cứu theo mã số
chuyên ngành Lý luận và Lịch sử nhà nước và pháp luật.
7. Điểm mới của Luận văn
Luận văn đưa ra được những đặc điểm của GDPL cho công chức TP-HT và
những yếu tố tác động đến GDPL cho công chức TP-HT.
Ngoài ra, Luận văn cũng cập nhật kịp thời những số liệu tổng hợp về đội ngũ
công chức TP-HT trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đưa ra được những vấn đề thực
tiễn, khó khăn và tồn tại của GDPL cho công chức TP-HT tại thành phố Hà Nội.
Trên cơ sở đó, đưa ra các quan điểm, giải pháp về GDPL cho công chức TP-HT trên
địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
8. Kết cấu Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia
thành 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch.
- Chương 2: Thực trạng giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch,
qua thực tiễn thành phố Hà Nội.
- Chương 3: Quan điểm và giải pháp về giáo dục pháp luật cho công chức tư
pháp – hộ tịch trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH
1.1.1. Khái niệm công chức tư pháp – hộ tịch
Thứ nhất, về khái niệm công chức.
Ở nước ta, khái niệm “cán bộ”, “công chức” có từ lâu. Văn bản đầu tiên là Sắc
lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Điều
1 Sắc lệnh ghi: “Những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ
một chức vụ thường xuyên trong cơ quan Chính phủ, ở trong nước hay ở nước ngoài đều
là công chức theo quy chế này, trừ trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định”.
Cuối những năm 80 của thế kỷ trước, khái niệm “cán bộ, công chức” được gọi
chung là “cán bộ, công nhân viên chức nhà nước”. Đến thời kỳ đổi mới (sau năm
1986), yêu cầu khách quan đòi hỏi phải chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức nhà
nước, khái niệm công chức được sử dụng trở lại trong Nghị định 169/HĐBT ngày
25/5/1991 của Chính phủ. Nghị định nêu rõ: “Công dân Việt Nam được tuyển dụng,
bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của nhà nước ở Trung
ương hay địa phương, ở trong nước, ngoài nước, đã được xếp vào một ngạch,
hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp gọi là công chức nhà nước”.
Năm 1998, Pháp lệnh Cán bộ, công chức ra đời, là văn bản pháp lý cao nhất
của nước ta về cán bộ, công chức. Dưới Pháp lệnh là Nghị định số 95/1998/NĐ-CP
ngày 17/11/1998 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức. Nghị định đã cụ thể
hóa khái niệm công chức“là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước, bao gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao
giữ một công việc thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành
chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp; những người làm việc
trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân và công an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp và công nhân quốc phòng”.
7
Sau hai lần sửa đổi, năm 2003, Pháp lệnh Cán bộ, công chức cho khái niệm
gộp cả cán bộ, công chức như sau: “Cán bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này
là công dân Việt Nam trong biên chế bao gồm: a) Những người do bầu cử để đảm
nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị -xã hội ở Trung ương...h) Những người được tuyển dụng, giao giữ chức
danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã”.
Ngày 13/11/2008, Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ
4 thông qua, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010. Khoản 2 Điều 4 quy định: “Công chức
là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh
trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở
trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước...”. Khoản 3 Điều 4 quy định: “... công chức cấp xã là
công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc
UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.”
Thứ hai, về khái niệm công chức tư pháp – hộ tịch
Trước khi Luật cán bộ, công chức năm 2008 ra đời, ở Việt Nam tồn tại song
song 02 thuật ngữ “Cán bộ TP-HT” và “Công chức TP-HT”. Thuật ngữ “Cán bộ
TP-HT” chỉ được nhắc tới trong Nghị định 158/2005/NĐ-CP và thông tư
01/2008/TT-BTP. Ngoài ra, tất cả các văn bản pháp luật khác từ năm 2003 đến nay
khi quy định về chức danh này đều thống nhất quy định rõ là “công chức TP-HT”.
Do vậy, việc viết “cán bộ TP-HT là công chức cấp xã…” tại khoản 1, Điều 81 Nghị
định 158/2005/NĐ-CP là chưa chính xác. Bởi lẽ, trước đó, Nghị định số 114/2003/NĐ-CP
đã quy định rõ 07 chức danh làm việc tại UBND cấp xã là công chức cấp xã trong đó có
công chức TP-HT. Tuy vậy, nghị định 158/2005/NĐ-CP vẫn sử dụng thuật ngữ “cán bộ
TP-HT” mà không dùng thuật ngữ “công chức TP-HT” là không phù hợp.
8
Khi Luật cán bộ, công chức 2008 ra đời, các văn bản pháp luật đã có sự thống
nhất duy nhất thuật ngữ “công chức tư pháp hộ tịch”. Việc quy định “Cán bộ TP-
HT” hay “công chức TP-HT” đều không làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ và quyền hạn
của chức danh này. Nội dung cần quan tâm hơn cả đó là cụm từ “TP-HT”, nhằm
mục đích phân biệt với công chức làm công tác tư pháp tại Phòng Tư pháp thuộc
UBND cấp huyện; công chức làm công tác tư pháp tại các phòng chuyên môn,
nghiệp vụ của Sở Tư pháp. Ngoài ra, theo quy định của Luật hộ tịch 2014 (có hiệu
lực từ ngày 01/01/2016), cụm từ TP-HT cũng là cơ sở để phân biệt đội ngũ công
chức TP-HT với công chức làm công tác hộ tịch tại Phòng Tư pháp, viên chức
ngoại giao, lãnh sự làm công tác hộ tịch tại Cơ quan đại diện.
Theo quy định của pháp luật, công chức TP-HT có những nhiệm vụ, quyền
hạn nhất định trong cả hai công tác tư pháp, công tác hộ tịch.
Về công tác tư pháp, công chức TP-HT tham mưu giúp UBND cấp xã thực
hiện các nhiệm vụ:
- Xây dựng chương trình, kế hoạch, quyết định, chỉ thị về công tác tư pháp cấp
xã trình UBND cấp xã phê duyệt và tổ chức thực hiện; thực hiện nhiệm vụ kiểm soát
thủ tục hành chính; tự kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp
luật do Hội đồng nhân dân và UBND cấp xã ban hành; hướng dẫn việc xây dựng quy
ước, hương ước thôn, tổ dân phố phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.
- Quản lý và thực hiện công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính theo quy định của pháp luật; theo dõi tình hình thi hành pháp luật tại địa
phương; đề xuất với UBND cấp xã xử lý hoặc báo cáo cơ quan có thẩm quyền xử lý
kết quả theo dõi thi hành pháp luật theo quy định của pháp luật; xây dựng, trình
UBND cấp xã ban hành và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch PBGDPL; xây
dựng, tập huấn, bồi dưỡng, quản lý đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật; tổ chức
thực hiện Ngày Pháp luật; quản lý, khai thác, sử dụng Tủ sách pháp luật ở cấp xã.
- Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hòa giải ở cơ sở; thành
lập, kiện toàn tổ hòa giải và công nhận tổ trưởng tổ hòa giải, hòa giải viên tại địa
phương; tổ chức kiểm tra, sơ kết, tổng kết và khen thưởng về hòa giải ở cơ sở; thực
9
hiện nhiệm vụ xây dựng xã, phường, thị trấn tiếp cận pháp luật theo quy định; quản
lý, đăng ký hộ tịch; thực hiện một số việc về quốc tịch tại cấp xã theo quy định của
pháp luật; cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn
bản bằng tiếng Việt, chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt;
chứng thực các việc khác theo quy định của pháp luật; phối hợp với cơ quan thi
hành án dân sự trong thi hành án dân sự trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
Về công tác hộ tịch, công chức TP-HT có nhiệm vụ và trách nhiệm như: Thụ
lý hồ sơ, kiểm tra, xác minh và đề xuất với Chủ tịch UBND cấp xã xem xét, quyết
định việc đăng ký hộ tịch theo quy định; thường xuyên kiểm tra và vận động nhân
dân đi đăng ký kịp thời các sự kiện hộ tịch. Đối với những khu vực người dân còn
bị chi phối bởi phong tục, tập quán hoặc điều kiện đi lại khó khăn phải có lịch định
kỳ đến tận nhà dân để đăng ký những sự kiện hộ tịch đã phát sinh; công chức TP-
HT phải chịu trách nhiệm trước UBND cấp xã về những sự kiện hộ tịch phát sinh
trên địa bàn xã, phường, thị trấn mà không được đăng ký; sử dụng các loại sổ hộ
tịch, biểu mẫu hộ tịch theo quy định của Bộ Tư pháp; tổng hợp tình hình và thống
kê chính xác số liệu hộ tịch để UBND cấp xã báo cáo UBND cấp huyện theo định
kỳ 6 tháng và hàng năm; tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân chấp hành các
quy định của pháp luật về hộ tịch; giữ gìn, bảo quản, lưu trữ sổ hộ tịch và giấy tờ hộ
tịch; khi thôi giữ chức vụ phải bàn giao đầy đủ cho người kế nhiệm.
Đối với công chức làm công tác tư pháp tại Phòng Tư pháp cấp huyện
Việc biên chế đội ngũ công chức này do Chủ tịch UBND cấp huyện quyết
định trong tổng biên chế công chức của cấp huyện được cấp trên phê duyệt. Bố trí
công tác đối với công chức của Phòng Tư pháp được căn cứ vào vị trí việc làm,
chức danh, tiêu chuẩn, cơ cấu ngạch công chức theo quy định và đảm bảo đủ lực lực
lượng để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Do vậy, công chức tư pháp của
Phòng Tư pháp thường chỉ đảm nhận một nhiệm vụ đặc thù với chuyên môn cao và
ổn định. Việc đảm nhận công việc có tính chuyên môn cao này nhằm thực hiện
nhiệm vụ chung của Phòng Tư pháp để có thể tham mưu cho UBND cấp huyện
trong việc thực hiện các nhiệm vụ về công tác xây dựng và thi hành pháp luật; theo
10
dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; kiểm soát thủ
tục hành chính; PBGDPL; hòa giải ở cơ sở; nuôi con nuôi; hộ tịch; chứng thực; bồi
thường nhà nước; trợgiúp pháp lý ; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính và công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
Đối với công chức làm công tác tư pháp tại Sở tư pháp thuộc UBND cấp tỉnh.
Đây là đội ngũ công chức được tuyển dụng để đảm nhận các công tác tư pháp
căn cứ vào vị trí làm việc, chức danh, tiêu chuẩn, cơ cấu ngạch công chức, và chức
danh nghề nghiệp của họ. Theo đó, công chức làm công tác tư pháp tại Sở Tư pháp
làm việc tại phòng chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tư pháp.
Các phòng chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tư pháp bao gồm: Phòng Xây dựng
và kiểm tra văn bản quy pha ̣m pháp luâ ̣t (quản lý công tác xây dựng , kiểm tra, rà
soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, công tác pháp chế , hỗ trợpháp lý
cho doanh nghiê ̣p); phòng Kiểm soát thủ tục hành chính (quản lý công tác kiểm soát
thủ tục hành chính); phòng Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành
pháp luật (quản lý công tác xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp
luật); phòng Phổ biến, giáo dục pháp luật (quản lý công tác PBGDPL, hòa giải ở cơ
sở, xây dựng hương ước, quy ước, xây dựng xã , phường, thị trấn tiếp cận pháp
luâ ̣t); phòng Hành chính tư pháp (bao gồm hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, nuôi con
nuôi, bồi thường nhà nước , đăng ký giao dịch bảo đảm, lý lịch tư pháp – trừ các
thành phố trực thuộc Trung ương); phòng Bổ trợ tư pháp (bao gồm luật sư, tư vấn
pháp luật, công chứ ng, giám định tư pháp, bán đấu giá tài sản, trọng tài thương mại
(nếu có), trợgiúp pháp lý , thi hành án dân sự, thừ a phát la ̣i (nếu có) và các lĩnh vực
tư pháp khác); Phòng Lý lịch tư pháp được thành lập tại thành phố trực thuộc Trung
ương theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
Cũng như công chức tư pháp làm việc tại Phòng Tư pháp, công chức tư pháp
làm việc tại Sở Tư pháp cũng thực hiện các nhiệm vụ đòi hỏi có tính đặc thù về
chuyên môn cao trong các lĩnh vực cụ thể. Các công việc mang tính đặc thù này tại
các phòng chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tư pháp được vận hành nhằm thực hiện
chức năng của Sở Tư pháp là tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh quản lý nhà nước về:
11
công tác xây dựng và thi hành pháp luật; theo dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý
văn bản quy phạm pháp luật; kiểm soát thủ tục hành chính; pháp chế; PBGDPL; hòa
giải ở cơ s ở; hộ tịch; quốc tịch; chứng thực; nuôi con nuôi; lý lịch tư pháp ; bồi
thường nhà nước ; trợ giúp pháp lý; luật sư; tư vấn pháp luật; công chứ ng; giám
định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; quản lý công tác thi hành
pháp luật về xử lý vi pha ̣m hành chính và công tác tư pháp khác theo quy đ ịnh của
pháp luật.
Như vậy, công chức tư pháp tại Phòng Tư pháp cấp huyện và công chức tư
pháp làm việc tại các phòng chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tư pháp chỉ đảm nhận
một công việc chuyên môn với một lĩnh vực nhất định của công tác tư pháp. Trong
khi đó, công chức TP-HT phải đảm nhận đến hơn mười đầu việc trong lĩnh vực tư
pháp thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã. Ngoài ra, hàng ngày, đội ngũ công chức
TP-HT cũng thực hiện một cách thường xuyên, liên tục các nhiệm vụ trong công tác
chứng thực và đăng ký, quản lý hộ tịch trên địa bàn xã, phường, thị trấn.
Theo quy định tại Luật hộ tịch năm 2014 (có hiệu lực từ ngày 01/01/216).
Bên cạnh việc quy định chức danh công chức TP-HT, Luật hộ tịch năm 2014
quy định thêm công chức làm công tác hộ tịch ở Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp
huyện; viên chức ngoại giao, lãnh sự làm công tác hộ tịch tại Cơ quan đại diện. Về
nhiệm vụ, quyền hạn thì 03 chức danh này đều có nhiệm vụ quyền hạn theo quy
định tại khoản 1 Điều 73 Luật hộ tịch năm 2014. Về tiêu chuẩn, đối với công chức
TP-HT thì tiêu chuẩn phải có trình độ trung cấp luật trở lên, được bồi dưỡng nghiệp
vụ hộ tịch, có chữ viết rõ ràng, trình độ tin học phù hợp. Đối với công chức làm
công tác hộ tịch tại Phòng Tư pháp phải có trình độ cử nhân luật trở lên và đã được
bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch. Viên chức ngoại giao, lãnh sự làm công tác hộ tịch tại
Cơ quan đại diện đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch. Tuy nhiên, đối với công
chức TP-HT, phải kiêm nhiệm thêm cả công tác tư pháp mà không chuyên trách
lĩnh vực hộ tịch như công chức tại Phòng Tư pháp và Viên chức ngoại giao, lãnh sự.
Qua việc nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn của công chức TP-HT và phân biệt
đặc điểm nghề nghiệp của công chức TP-HT với một số chức danh công chức làm
12
công tác tư pháp và công tác hộ tịch khác, theo cá nhân học viên thì việc ra đời chức
danh công chức TP-HT là trên cơ sở lồng ghép công tác tư pháp với công tác hộ
tịch. Nhà nước có thể áp dụng chung một suất về chế độ, chính sách cho cả hai lĩnh
vực tư pháp và hộ tịch đối với một chức danh công chức. Công chức TP-HT phải
đảm nhận cả hai công việc cùng lúc đó là các công tác tư pháp và công tác hộ tịch.
Thực tế, tính chất chuyên môn của công tác hộ tịch và công tác tư pháp khác (văn
bản, tuyên truyền pháp luật, hòa giải…) rất khác nhau. Công tác tư pháp khác mang
tính chất “hành chính trật tự” của chính quyền, công tác hộ tịch đòi hỏi sự ổn định,
thường xuyên, liên tục và chuyên môn cao.
Như vậy, công chức TP-HT là một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc
UBND cấp xã, có sự lồng ghép công tác tư pháp với công tác hộ tịch để chung nhau
một định suất lương nhằm tham mưu, giúp UBND cùng cấp thực hiện các công tác
tư pháp mang tính hành chính – trật tự và thực hiện một cách thường xuyên, liên
tục các nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã trong việc đăng ký, quản lý hộ tịch.
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ công chức tư pháp – hộ
tịch ở nước ta
Giai đoạn từ năm 1945 đến 1960 ở nước ta chỉ tồn tại thuật ngữ ban tư pháp
xã, phường, thị trấn. Đây là tổ chức có từ thời kỳ trước Tổng khởi nghĩa tháng Tám
năm 1945 ở vùng giải phóng – gọi là Tiểu ban Tư pháp trong Ủy ban dân tộc giải
phóng làng, xã. Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Ban Tư pháp xã được
chính thức thành lập theo Sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945 về việc tổ chức hội
đồng nhân dân và ủy ban hành chính. Theo đó, Ban Tư pháp có ba Ủy viên là Chủ
tịch, Phó chủ tịch, Thư ký của Ủy ban hành chính.
Giai đoạn từ năm 1961 đến năm 1980, công tác Tư pháp xã do tòa án nhân
dân đảm nhận theo quy định của Hiến pháp 1959. Thực hiện chức năng này, ngày
26/02/1964, TAND Tối cao ban hành Thông tư số 02-TC về xây dựng Tổ hào giải
và kiện toàn tổ chức Tư pháp xã, khu phố. Trong thông tư này, tổ chức Tư pháp xã,
khu phố có các ủy viên Tư pháp xã và khu phố.
Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1993, theo thông tư số 08/TT ngày
06/01/1982 thì trong hệ thộng tư pháp, ở cơ sở xã, phường, thị trấn có Ban Tư pháp.
13
Theo đó, Ban Tư pháp có Trưởng ban, một Phó trưởng ban và một số ủy viên.
Trưởng Ban tư pháp xã cần chọn người trong thường trực UBND xã kiêm chức,
Phó trưởng Ban Tư pháp xã là cán bộ chuyên trách thường trực làm tư pháp. Các ủy
viên nên chọn trong các ngành, đoàn thể địa phương.
Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2003, theo Thông tư liên Bộ số 12/TTLB
ngày 26/7/1993 hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức cơ quan
tư pháp địa phương thì ở xã, phường, thị trấn vẫn tồn tại khái niệm Ban Tư pháp xã.
Tiếp đó, Nghị định số 183/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ quy định
về đăng ký hộ tịch thì thuật ngữ Cán bộ TP-HT xuất hiện tại Điều 11và là người
làm việc tại UBND cấp xã.
Giai đoạn từ năm 2003 đến nay, chức danh Công chức TP-HT lần đầu tiên
xuất hiện trong Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ quy
định về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. Tại điểm e khoản 2 Điều 2 thì
những người được tuyển dụng, giao giữ chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc
UBND cấp xã, trong đó có chức danh TP-HT. Sau khi Nghị định 114/2003/NĐ-CP
ra đời thì các văn bản khác của nhà nước ta đều nhắc tới chức danh công chức này.
Cụ thể, đó là các văn bản như:
Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ,
chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn; Quyết định số
04/2004/QĐ0BNV ngày 16/01/2004 của Bộ trưởng Bộ nội vụ về việc ban hành quy
định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức, xã phường thị trấn; Nghị định số
158/2005/NĐ-CP về đăng ký, quản lý hộ tịch; Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về cấp
bản sao từ số gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký; Thông tư số
01/2008/TT-BTP hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số
158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch;
Thông tư số 01/2009/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc UBND tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc UBND
cấp huyện và công tác Tư pháp của UBND cấp xã; Nghị định số 92/2009/NĐ-CP
về chức danh, số lượng, một số chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã
14
và những người hoạt động chuyên trách ở cấp xã; Nghị định số 06/2012/NĐ-CP của
Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều cảu các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân và
gia đình và chứng thực; Nghị định số 112/2011/NĐ-CP của Chính phủ về công
chức cấp xã; Thông tư số 06/2012/TT-BNV của Bộ Nội vụ hướng dẫn về chức
trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển dụng công chức cấp xã; Văn bản hợp
nhất số 8013/VBHN-BTP của Bộ Tư pháp ngày 10/12/2013 về Đăng ký quản lý hộ
tịch; Luật hộ tịch số 60/2014/QH13 ngày 20/11/2014 của Quốc hội; Thông tư liên tịch
số 23/2014/TTLT - BTP – BNV ngày 22/12/2014 của Bộ tư pháp và Bộ Nội vụ...
Chức danh công chức TP-HT xuất hiện trong các văn bản pháp luật đều thể
hiện rõ đặc điểm nghề nghiệp của công chức này. Đó là sự kết hợp cả hai nhiệm vụ
tư pháp và hộ tịch mà công chức TP-HT phải đảm nhận. Cũng như các chức danh
công chức khác tại cấp xã, đội ngũ công chức TP-HT thường xuyên, trực tiếp tiếp
xúc với người dân để giải quyết các công việc thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã.
1.2. NHẬN THỨC CHUNG VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
1.2.1. Khái niệm giáo dục pháp luật
“Nhà nước pháp quyền được nhìn từ góc độ ý thức công dân, ý thức pháp luật
và nền văn hóa pháp lý ” [9, Tr.22]. Một nhiệm vụ và giải pháp cụ thể để xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đó là GDPL. Hiện nay ở
nước ta, GDPL trở thành một bộ phận của giáo dục chính trị, tư tưởng, “là một
nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng” [5].
GDPL có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc nâng cao nhận thức, ý thức chấp
hành pháp luật của cán bộ, công chức, đảng viên và người dân. Nó nhận được sự
quan tâm, nghiên cứu đặc biệt từ phía các nhà khoa học. Ở Việt Nam có hai luồng
quan điểm chưa thống nhất về việc giải thích từ ngữ, đó là việc phân biệt các khái
niệm: PBPL và GDPL. Xét trên mối quan hệ thực tiễn cũng như yêu cầu, mục đích
chung của GDPL, có thể thấy hai khái niệm PBPL và GDPL có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Xét về bản chất của từng hoạt động, thì mục đích của hoạt động phổ
biến là để GDPL.
15
Như vậy, có thể coi PBPL và GDPL là các mức độ, công đoạn tiếp nối nhau,
gắn liền với nhau trong quá trình truyền đạt nội dung pháp luật đến các đối tượng cụ
thể nhằm nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật cho họ. Khi phân tách hai khái niệm
này, việc xác định các chủ thể thực hiện, cách thức thực hiện GDPL sẽ khó tách
bạch mà có sự trùng lắp, vì hoạt động GDPL không giới hạn chỉ là việc GDPL trong
nhà trường với các chủ thể và đối tượng cụ thể là nhà giáo và người học.
Nếu thống nhất hai khái niệm, PBGDPL có mối liên hệ mật thiết với nhau,
trong phổ biến có giáo dục, trong giáo dục có phổ biến. Nếu tách riêng hai khái
niệm thì đây là một tập hợp từ ghép giữa hai từ “phổ biến” và “giáo dục” nên xét về
bản chất ngữ nghĩa là khác nhau, đồng thời hai hoạt động này có chủ thể thực hiện,
đối tượng điều chỉnh cũng như cách thức thực hiện khác nhau. Tuy nhiên, các ý
kiến theo quan điểm tách biết chưa đi sâu phân tích và chỉ ra được những khác biệt
cụ thể nói trên về nội hàm hoạt động liên quan đến hai khái niệm.
Về khái niệm PBGDPL, theo “Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ PBGDPL”[22]
PBGDPL là một từ ghép hai từ PBPL và GDPL. Cả cụm từ PBGDPL có hai nghĩa:
Thứ nhất, theo nghĩa hẹp, đó là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng
cao tri thức, tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó nâng cao ý thức tôn
trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng. Thứ hai, theo
nghĩa rộng, đó là một quá trình tác động có định hướng của chủ thể PBGDPL đến ý
thức của con người. Do vậy, PBGDPL bao gồm tất cả các công đoạn phục vụ cho
công tác PBGDPL. Nó được xác định là một khâu của hoạt động tổ chức thực hiện
pháp luật, là hoạt động có định hướng có tổ chức, có chủ định nhằm mục đích hình
thành ở đối tượng được tác động tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi xử sự phù
hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành với các hình thức, phương
tiện, phương pháp đặc thù; là quá trình tác động thường xuyên, liên tục, lâu dài của
chủ thể lên đối tượng; là cầu nối để truyền tải pháp luật vào cuộc sống.
Đối với khái niệm phổ biến pháp luật:
Theo Từ điển Tiếng Việt, “phổ biến là làm cho đông đảo mọi người biết đến
một vấn đề, một tri thức bằng cách truyền đạt trực tiếp hay thông qua hình thức nào
16
đó" [38]. PBPL có đối tượng tác động rộng rãi, mang ý nghĩa xã hội và nhân văn
sâu sắc, bởi trong lịch sử đã có lúc pháp luật được ban hành nhưng không được phổ
biến công khai mà chỉ được coi là một công cụ để nhà nước dùng để trị dân. Bên
cạnh đó PBPL còn mang tính tác nghiệp, truyền đạt nội dung pháp luật cho các đối
tượng cụ thể. Ở những mức độ khác nhau, PBPL còn nhằm làm cho các đối tượng
cụ thể hiểu thấu suốt các quy định của pháp luật để thực hiện pháp luật trên thực tế.
PBPL thường được thực hiện thông qua các hội nghị, các cuộc tập huấn...
Như vậy, theo nghĩa hẹp, PBPL là giới thiệu tinh thần văn bản pháp luật cho
đối tượng của nó. Theo nghĩa rộng thì đó là truyền bá pháp luật cho mọi tầng lớp
nhân dân trên cả nước.
Đối với khái niệm GDPL:
Theo Từ điển Tiếng Việt, giáo dục được hiểu đó là “ tác động có hệ thống
đến sự phát triển tinh thần, thể chất của con người, để họ dần dần có được những
phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra” [40, Tr.734]. Ngoài ra, giáo dục còn
được hiểu đó là hình thức học tập theo đó kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một
nhóm người được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy,
đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người
khác, nhưng cũng có thể thông qua tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng
đáng kể lên cách mà người ta suy nghĩ, cảm nhận, hành động đều được xem là có
tính giáo dục. Ví dụ: Giáo dục thường được chia thành các giai đoạn như giáo dục
tuổi ấu thơ, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học và giáo dục đại học.
Như vậy, so với phổ biến thì giáo dục cũng nhằm nâng cao nhận thức, tình
cảm song nội dung rộng hơn, phương thức tiến hành chặt chẽ hơn, đối tượng xác
định hơn, mục đích lớn hơn. Xét dưới góc độ nhất định thì phổ biến chính là các
phương thức giáo dục cụ thể.
Hiện nay, các nhà khoa học đã khá thống nhất về khái niệm GDPL: Thứ nhất,
theo nghĩa rộng: GDPL là một trong những tác động của thế giới khách quan và
cũng là một trong những tác động chủ quan của con người lên sự nhận thức và thực
hiện hành vi của chính con người. Thứ hai, theo nghĩa hẹp: “Hoạt động có định
17
hướng, có mục đích, trang bị kiến thức pháp luật, nhằm hình thành ở các đối tượng
được giáo dục những tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp
luật” [14, Tr. 452].
Trong luận văn, khái niệm GDPL được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là hoạt động có
định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo
dục một cách có hệ thống, thường xuyên và liên tục nhằm mục đích hình thành ở họ tri
thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật.
1.2.2. Các bộ phận cấu thành cơ bản của giáo dục pháp luật
Thứ nhất, mục đích của GDPL
Mục đích GDPL được hiểu là sự mong muốn, là dự kiến về kết quả đạt được
của giáo dục dục pháp luật. Những mong muốn này có tính chất lý tưởng, là cái mà
chủ thể GDPL đang hướng tới, đang phấn đấu để đạt được. Nó có tác dụng định
hướng, điều khiển hoạt động GDPL trong những điều kiện, hoản cảnh nhất định của
xã hội. Mục đích GDPL gồm ba nhóm mục đích cụ thể:
GDPL nâng cao hiểu biết pháp luật cho đối tượng
Pháp luật của nhà nước không phải khi nào cũng được mọi người trong xã hội
biết đến, tìm hiểu, đồng tình ủng hộ và thực hiện nghiêm chỉnh. Tuy rằng, bản chất
pháp luật của nhà nước ta là rất tốt đẹp, nó phản ánh ý chí, nguyện vọng, mong muốn
của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội. Quy định pháp luật dù tốt đẹp bao
nhiêu mà không được nhân dân biết đến thì chỉ là quy định trên giấy. “Do vậy, công tác
dục pháp luật hiện nay có vai trò to lớn trong việc xây dựng, nâng cao hiểu biết, tôn
trọng, và khả năng vận dụng pháp luật của nhân dân trong cuộc sống” [14, Tr.451].
Pháp luật của nhà nước có thể được một số người tìm hiểu quan tâm và nắm
bắt xuất phát từ nhu cầu học tập, nghiên cứu hay từ nhu cầu sản xuất- kinh doanh
của họ. Những người này luôn theo sát những quy định pháp luật mới được ban
hành để phục vụ trực tiếp cho công việc của mình, nhưng số lượng đối tượng này
không phải là nhiều. Với trình độ dân trí còn thấp, đời sống kinh tế của đa số nhân
dân còn gặp nhiều khó khăn cho nên các đối tượng nằm trong sự điều chỉnh của các
văn bản pháp luật, nghĩa là số đông nhân dân lao động trong xã hội chưa có điều
18
kiện tiếp cận với pháp luật. Chẳng những vậy, do số lượng công việc giải quyết quá
nhiều, một bộ phận cán bộ công chức nhà nước cũng khó có thể cập nhật thường
xuyên và kịp thời các văn bản pháp luật.
Do vậy, GDPL chính là phương tiện truyền tải những thông tin, những yêu
cầu, nội dung và các quy định pháp luật đến mọi công dân, cán bộ công chức nhà
nước. Điều này giúp cho họ hiểu biết, nắm bắt pháp luật kịp thời mà không mất quá
nhiều thời gian công chức cho việc tự tìm hiểu, tự học tập. Đây chính là phương
tiện hỗ trợ tích cực để nâng cao hiểu biết pháp luật.
GDPL hình thành lòng tin vào pháp luật của đối tượng
Pháp luật chỉ có thể được mọi người thực hiện nghiêm chỉnh khi họ tin tưởng
vào những quy định của pháp luật. Pháp luật được xây dựng là bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng, bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng, bảo đảm công bằng, tự do, dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Khi nào công dân, cán bộ, công chức nhà nước hiểu rõ, nhận
thức đủ như vậy thì pháp luật có lẽ không cần một biện pháp cưỡng chế nào mà họ
vẫn tự giác thực hiện.
Tạo lập niềm tin vào pháp luật cho đối tượng đòi hỏi phải kết hợp nhiều yếu
tố. Một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng là GDPL để mọi người hiểu biết
về pháp luật, hiểu biết về quá tình thực hiện và nội dung của việc áp dụng pháp luật.
Pháp luật cũng như mọi hiện tượng khác trong xã hội cũng có hai mặt không phải bao
giờ nó cũng thỏa mãn hết, phản ánh được đầy đủ nguyện vọng, mong muốn của tất
cả mọi người trong xã hội. Pháp luật lấy lợi ích của đông đảo nhân dân trong xã hội
làm tiêu chí, thước đo, do đó sẽ có một số ít lợi ích không thỏa mãn được. Chính
yếu tố hạn chế, mặt trái của các quy định pháp luật ngày càng tạp nên sự cần thiết
của công tác GDPL để tất cả mọi người hiểu đúng, đồng tình ủng hộ pháp luật. Có
như vậy, lòng tin vào pháp luật của mọi tầng lớp trong xã hội mới được hình thành.
GDPL nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của đối tượng.
Ý thức pháp luật của đối tượng được hình thành tư hai yếu tố đó là tri thức
pháp luật và tình cảm pháp luật. Tri thức pháp luật là sự am hiểu pháp luật của các
chủ thể có được qua việc học tập, tìm hiểu pháp luật, qua quá trình tích lũy kiến
19
thức của hoạt động thực tiễn và trong công tác. Tình cảm pháp luật chính là trạng thái
tâm lý của chủ thể khi thực hiện và áp dụng pháp luật, họ có thể đồng tình ủng hộ với
những hành vi thực hiện đúng pháp luật, lên án các hành vi vi phạm pháp luật.
Ý thức tự giác thực hiện pháp luật của công dân, cán bộ công chức chỉ có thể
được nâng cao khi công tác GDPL thường xuyên được tiến hành một cách kịp thời
và có tính thuyết phục. GDPL không đơn thuần là chỉ ra các văn bản đang có hiệu
lực mà còn lên án các hành vi vi phạm pháp luật, đồng tình ủng hộ các hành vi thực
hiện đúng pháp luật. Từ đó, GDPL làm hình thành dư luận và tâm lý đồng tình ủng
hộ với hành vi hợp pháp, lên án các hành vi vi phạm pháp luật. GDPL nhằm hình
thành, củng cố tình cảm tốt đẹp của con người với pháp luật. Ngoài ra, nó còn nâng
cao hiểu biết của con người đối với các văn bản pháp luật và các hiện tượng pháp
luật trong đời sống. Từ đó, GDPL sẽ góp phần nâng cao ý thức tự giác thực hiện
pháp luật từ phía mọi công dân, cán bộ và công chức nhà nước.
Thứ hai, đối tượng của GDPL
Đối tượng của GDPL là những cá nhân công dân hoặc những nhóm đối tượng
cụ thể tiếp nhận tác động của GDPL. Họ là những người có nhu cầu và cả những
người cho rằng mình không có nhu cầu tìm hiểu pháp luật.
Theo quy định của Luật PBGDPL công dân có quyền được thông tin về pháp
luật và có trách nhiệm chủ động tìm hiểu, học tập pháp luật. Nhà nước luôn bảo
đảm, tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền được thông tin về pháp luật.
GDPL được thực hiện đối với các đối tượng đặc thù như người dân ở vùng dân tộc
thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế
đặc biệt khó khăn và ngư dân; đối với nạn nhân bạo lực gia đình; đối với người
khuyết tật; đối với thanh, thiếu niên; đối với người đang chấp hành hình phạt tù,
người đang bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt
buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; đối với người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn, người đang được hưởng án treo; đối với trẻ em, phụ nữ, học
sinh, sinh viên... Ngoài ra, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước cũng là một nhóm
đối tượng của GDPL và trong đó có công chức TP-HT. Với mỗi một đối tượng,
20
GDPL sẽ có những nội dung, hình thức, phương pháp GDPL khác nhau. Từ đó,
những thông tin, yêu cầu, nội dung và các quy định pháp luật sẽ được truyền tải đến
đối tượng PBGDPL thông qua các hình thức, phương tiện, biện pháp thích hợp.
Thứ ba, chủ thể của GDPL
Chủ thể của GDPL là các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân tham gia tổ chức thực
hiện GDPL. GDPL có nội dung rộng, hình thức, phương pháp đa dạng, phong phú,
liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều đối tượng. Trong văn bản của Đảng và
nhà nước xác định thực hiện GDPL là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn xã
hội và của mỗi công dân. Các chủ thể tham gia GDPL khá đa dạng, tuy nhiên, chủ
thể chịu trách nhiệm trực tiếp tổ chức thực hiện GDPL là những chủ thể có thẩm
quyền, có chức năng hoạt động này.
Các chủ thể mà chúng ta phải kể tới đó là các Bộ, ngành, UBND các cấp và
Bộ tư pháp là cơ quan có chức năng giúp chính phủ quản lý nhà nước thống nhất về
công tác GDPL. Hội đồng phối hợp PBGDPL được thành lập ở trung ương; cấp
tỉnh; cấp huyện và cấp xã. Hội đồng PBGDPL là cơ quan tư vấn cho Chính phủ,
UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện, UBND cấp xã về công tác PBGDPL và việc
huy động nguồn lực. Cơ quan thường trực Hội đồng phối hợp PBGDPL của Chính
phủ là Bộ Tư pháp, của UBND cấp tỉnh là Sở Tư pháp, của UBND cấp huyện là
Phòng Tư pháp và UBND cấp xã là công chức TP-HT.
GDPL cũng chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của xu thế xã hội hóa hiện nay.
Không chỉ có nhà nước, sự tham gia của các đoàn thể, cộng đồng, gia đình, cá nhân
thì hoạt động GDPL đã ngày càng được mở rộng. Đối với các tổ chức nghề nghiệp,
đặc biệt là Văn phòng Luật sư, Văn phòng Công chứng, Phòng công chứng, Trung
tâm giới thiệu việc làm, GDPL là đòi hỏi tất yếu của việc mở rộng phạm vi, đối
tượng phục vụ. Hiện nay, khi GDPL là một trong những nhiệm vụ nhà nước còn
đảm nhận thì chủ thể trực tiếp tiến hành công tác này vẫn là khái niệm cần làm rõ
khi nghiên cứu cơ chế thực hiện công tác GDPL.
21
Thứ tư, hình thức của GDPL
Hình thức GDPL là những dạng hoạt động, cách cụ thể được thực hiện bởi chủ
thể GDPL tác động lên đối tượng GDPL để đạt được mục đích GDPL. Có rất nhiều
hình thức GDPL và mỗi hình thức có đặc trưng riêng. GDPL có thể được thực hiện
dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp khác nhau.
Theo Luật PBGDPL, hình thức GDPL có những hình thức như: Họp, thông
cáo báo chí; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật, cung cấp thông tin, tài liệu pháp
luật; thông qua phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh, internet, pa – no,
áp – phích, tranh cổ động; đăng tải trên công báo; đăng tải thông tin pháp luật trên
trang thông tin điện tử; tổ chức thi tìm hiểu pháp luật; thông qua xét xử, xử lý vi
phạm hành chính, hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ
giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở; lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh
hoạt của tổ chức chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật...
Thứ năm, phương pháp của GDPL
Phương pháp là lề lối, cách thức phải theo để tiến hành công việc với một kết
quả tốt nhất. Do vậy, phương pháp GDPL là lề lối, cách thức, biện pháp tiến hành
GDPL nhằm đạt được hiệu quả tốt. Một số phương pháp GDPL áp dụng nhiều ở
nước ta hiện nay đó là phương pháp giảng dạy, giải thích, thuyết phục và thực hành.
Mỗi một hình thức GDPL có thể áp dụng được nhiều phương pháp GDPL khác
nhau. Căn cứ vào nội dung của GDPL, chủ thể GDPL vạch ra hình thức GDPL với
các phương pháp GDPL phù hợp cho từng đối tượng.
Trong từng điều kiện hoàn cảnh về không gian, thời gian khác nhau, GDPL
được thực hiện bởi những phương pháp khác nhau để có thể truyền đạt một cách
sâu rộng nội dung cần giáo dục đến đối từng đối tượng. Với từng đối tượng khác
nhau sẽ tương ứng với một hay một số phương pháp giáo dục khác nhau để đem lại
hiệu quả tốt nhất của GDPL. Ví dụ: đối với đối tượng là học sinh, sinh viên thì
phương pháp giảng dạy là phương pháp GDPL được sử dụng nhiều nhất và mang
lại hiệu quả rõ nét nhất, ngoài ra cũng có thể sử dụng kết hợp với các phương pháp
giải thích, thuyết phục và thực hành.
22
1.3. GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH
1.3.1. Khái niệm giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch
GDPL cho công chức TP-HT có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao nhận thức,
ý thức chấp hành pháp luật của đội ngũ công chức TP-HT nói riêng và đối với đội
ngũ công chức cấp xã nói chung. Vì vậy, nó nhận được sự quan tâm đặc biệt từ phía
các chủ thể GDPL.
Theo nghĩa rộng, GDPL cho công chức TP-HT là quá trình tác động của các
yếu tố khách quan như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ...và những yếu tố chủ
quan từ phía chủ thể GDPL lên ý thức, hành vi của các công chức TP-HT. Theo
nghĩa hẹp, GDPL cho công chức TP-HT là hoạt động có mục đích, có tổ chức, có kế
hoạch của các chủ thể GDPL để chuyển tải, truyền đạt tri thức pháp luật, thông qua
các phương pháp giáo dục khoa học và hình thức giáo dục phù hợp tới đội ngũ công
chức TP-HT nhằm nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ hộ tịch và
công tác tư pháp khác cho công chức TP-HT.
Như vậy, GDPL cho công chức TP-HT là hoạt động có định hướng, có tổ
chức và mục đích của chủ thể giáo dục tác động lên đội ngũ công chứ này một cách
có hệ thống, thường xuyên bằng những hình thức, phương pháp nhất định nhằm
cung cấp tri thức pháp luật, thông tin pháp luật trong lĩnh vực tư pháp, lĩnh vực hộ
tịch và hình thành, nâng cao tình cảm, thái độ, ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp
luật của công chức TP-HT ở chính quyền cấp xã.
1.3.2. Mục đích giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch
Thứ nhất, GDPL cho công chức TP-HT có mục đích cung cấp kiến thức, kỹ
năng thực hành pháp luật nghề nghiệp cho công chức TP-HT.
Đây là mục đích hàng đầu, đội ngũ công chức này sẽ có sự am hiểu pháp luật,
nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của mình trong công tác
tư pháp của chính quyền cấp xã. GDPL được coi là điều kiện để hình thành tình
cảm, lòng tin vào pháp luật của công chức tư pháp hộ tịch nói riêng và cán bộ công
chức nhà nước nói chung. Nó giúp cho công chức TP-HT tổ chức thực hiện công
việc của mình một cách khoa học. Từ đó, người công chức có thể tự kiểm tra, đánh
23
giá thành quả công việc của mình mà UBND cấp xã cũng như cấp trên đã giao phó.
Mục đích này khẳng định rõ, nếu công chức TP-HT hiểu biết pháp luật không cao,
chưa đầy đủ sẽ khiến các công việc, các thủ tục hành chính diễn ra hàng ngày ở cấp
xã sẽ không linh hoạt, không đáp ứng nhu cầu cải cách hành chính hiện nay.
Thứ hai, công tác GDPL có mục đích tạo lập tình cảm, lòng tin đối với pháp
luật từ phía công chức tư pháp – hộ tịch.
Việc hình thành tình cảm, lòng tin với pháp luật sẽ giúp cho đội ngũ công chức
TP-HT có sự tôn trọng pháp luật, tôn trọng các cơ quan bảo vệ pháp luật. Khi có sự tôn
trọng pháp luật, họ sẽ hành động, thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, không bị
chệch khỏi các nội dung mà pháp luật đã dự liệu vì lợi ích riêng tư của mình.
GDPL đạt được hiệu quả, các công chức TP-HT sẽ xác định được một cách rõ
ràng những điều kiện để đánh giá sự công bằng của pháp luật. Việc đánh giá này tạo
điều kiện cho việc thực hiện pháp luật trong từng trường hợp cụ thể với người dân,
với đồng nghiệp và với bản thân người công chức theo đúng quy định của pháp luật.
Không chỉ vậy, GDPL được thực hiện sẽ tạo nên trách nhiệm, ý thức thực hiện pháp
luật cho công chức TP-HT trong từng lĩnh vực, thủ tục hành chính mà mình đảm
nhận. Qua đó, họ sẽ luôn luôn ủng hộ, tham gia vào các hoạt động bảo vệ sự nghiêm
minh của pháp luật. Đặc biệt, công tác hòa giải ở cơ sở đòi hỏi công chức TP-HT
phải có sự yêu nghề, luôn ủng hộ lẽ phải, tham gia hòa giải một cách tâm huyết.
Thứ ba, GDPL hình thành cho công chức tư pháp – hộ tịch những thói quen
xử sự theo pháp luật.
Việc hình thành tri thức pháp luật giúp cho công chức TP-HT dễ dàng xử lý
các tình huống trong thực tiễn. Có tri thức pháp luật, họ phải có sự đấu tranh nội
tâm của mình để thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Khi đó, thực
hiện thủ tục hành chính thường ngày được thực hiện liên tục sẽ đưa công chức TP-
HT vào những quy tắc chuẩn mực làm việc của toàn bộ hệ thống cán bộ, công chức
cấp xã nói chung.
Thực tiễn cho thấy, một bộ phận công chức TP-HT dễ dàng vì lợi ích vật chất
khiến người dân hết sức vất vả trong một số thủ tục hành chính, đặc biệt là thủ tục
24
hành chính trong lĩnh vực hộ tịch. Công tác GDPL cần đạt được hiệu quả cao để
giúp cho đội ngũ công chức này dần dần có thói quen xử sự hợp pháp, tránh gây
phiền hà cho nhân dân. Từ đó, các quy phạm pháp luật được thực hiện một cách
đúng đắn, tạo nên những chuyển biến cơ bản, bền vững, đảm bảo công tác tư pháp,
hộ tịch được chính thực hiện chính xác, đầy đủ, phục vụ đắc lực cho việc thực hiện
các nhiệm vụ về phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng.
1.3.3. Nội dung giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch
Đối với công tác TP-HT, các văn bản pháp luật ở nước ta quy định rất chồng
chéo. Vì vậy, việc kịp thời tìm hiểu các quy định của pháp luật để giải quyết công
việc hàng ngày của công chức TP-HT trở nên vô cùng cần thiết. Khi ấy, Sở tư pháp
cấp tỉnh, Phòng tư pháp cấp huyện cùng các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần
phải có sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời tập huấn cho đội ngũ công chức TP-HT.
Tập huấn nghiệp vụ sẽ giúp cho đội ngũ công chức này sẽ có đầy đủ kiến thức
pháp luật để giải quyết kịp thời các tình huống diễn ra trong phạm vi lĩnh vực mình
giải quyết. Khi thực hiện hoạt động GDPL, các chủ thể GDPL cần phải trú trọng
đến việc truyền tải về tầm quan trọng, giá trị đạo đức của các quy phạm pháp luật
mà mình truyền tải. Do vậy, hiệu quả làm việc của công chức TP-HT sẽ cao hơn,
giúp cho các thủ tục hành chính được thực hiện một cách nhanh chóng.
Để đạt được những thành quả trên, nội dung GDPL cho công chức TP-HT cần
tập trung những nội dung cụ thể đó là: Việc ban hành và tổ chức thực hiện chương
trình, kế hoạch, quyết định, chỉ thị về công tác tư pháp ở cấp xã; theo dõi, kiểm tra
tình hình thực hiện sau khi được cấp có thẩm quyền quyết định hoặc phê duyệt; tổ
chức lấy ý kiến nhân dân về các dự án luật, pháp lệnh theo hướng dẫn của UBND
cấp huyện và cơ quan Tư pháp cấp trên; tổ chức thực hiện việc tự kiểm tra các quyết
định, chỉ thị do UBND cấp xã ban hành; rà soát văn bản quy phạm pháp luật do Hội
đồng nhân dân, UBND cấp xã ban hành; chỉ đạo, hướng dẫn việc xây dựng quy
ước, hương ước thôn, tổ dân phố phù hợp với quy định pháp luật hiện hành; theo
dõi, báo cáo tình hình thi hành văn bản quy phạm pháp luật, phát hiện, đề xuất biện
pháp giải quyết những khó khăn vướng mắc trong thi hành văn bản quy phạm pháp
25
luật ở cấp xã với Phòng Tư pháp cấp huyện; tổ chức thực hiện chương trình, kế
hoạch PBGDPL; quản lý, khai thác, sử dụng Tủ sách pháp luật ở cấp xã; tổ chức
thực hiện các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở, bồi
dưỡng, cung cấp tài liệu nghiệp vụ cho tổ viên Tổ hoà giải trên địa bàn theo sự
hướng dẫn của cơ quan tư pháp cấp trên; công tác tư pháp, hộ tịch, chứng thực,
chứng nhận và theo dõi về quốc tịch trên địa bàn cấp xã theo quy định của pháp
luật; phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong thi hành án dân sự trên địa bàn
theo quy định của pháp luật.
1.3.4. Hình thức giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch
Công tác GDPL cho công chức TP-HT được thực hiện với các hình thức như
PBPL trực tiếp thông qua hoạt động tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ; hoạt động tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin, tài
liệu pháp luật; tổ chức cuộc thi tìm hiểu pháp luật; lồng ghép hoạt động văn hóa,
văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luât;
thông qua chương trình GDPL ở các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân.
Hiện nay, công tác GDPL “huy động được nhiều cơ quan, tổ chức tham gia hoạt động
lồng ghép này sẽ tranh thủ tối đa các nguồn lực ở địa phương, nếu tách riêng mỗi tổ
chức, đoàn thể thì sẽ hết sức khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ” [3, Tr.210].
Trong các hình thức trên, hình thức GDPL trực tiếp thông qua hoạt động tập
huấn chuyên đề, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ được coi là phổ biến, thường xuyên
được thực hiện. Qua đó, công chức TP-HT sẽ được hướng dẫn rõ ràng, cụ thể quy định,
trình tự, thủ tục liên quan đến lĩnh vực tư pháp và hộ tịch. Kết quả đạt được đó là công
chức tư pháp- hộ tịch để công tác giải quyết hồ sơ cho người dân được thuận lợi hơn.
Ngoài ra, các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cũng sẽ góp phần trang
bị kiến thức pháp luật, nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ công chức TP-HT,
chất lượng và hiệu quả công tác tư pháp ở xã, phường, thị trấn tốt hơn. Đặc biệt, tập
huấn nghiệp vụ giúp công chức TP-HT nắm được chức trách, nhiệm vụ của mình,
có khả năng, năng lực tham mưu, giúp UBND các phường, xã thực hiện tốt công tác
26
tư pháp tại địa phương, qua đó góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của
ngành và thành phố giao.
1.3.5. Đối tượng của giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch
GDPL cho công chức TP-HT có đối tượng là đội ngũ công chức TP-HT làm
việc tại xã, phường, thị trấn. Công chức TP-HT tham mưu giúp UBND cấp xã trong
lĩnh vực tư pháp và hộ tịch trên địa bàn xã. UBND cấp xã là cơ quan hành chính nhà
nước ở cơ sở, chức danh chuyên môn làm việc trong UBND xã là một bộ phận công
chức trong đội ngũ công chức hành chính nhà nước. Đội ngũ công chức này khác với đội
ngũ công chức trong ngành tư pháp như Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án...
Là một công chức thuộc chức danh chuyên môn của UBND xã, công chức TP-
HT có những đặc điểm của một công chức hành chính nói chung như: Là những
người trưởng thành về thể chất và về mặt xã hội, được tuyển dụng để giữ một chức
vụ một cách thường xuyên trong cơ quan hành chính nhà nước; công chức hành
chính là nhóm người được xã hội coi trọng và được coi là có “vị thế” vì họ là những
người đang giữ những chức vụ, trách nhiệm nhất định theo trình độ đào tạo, được
xếp vào ngạch bậc tương ứng trong cơ quan hành chính nhà nước; công chức hành
chính có nhiều kinh nghiệm sống, được tích lũy tùy theo lĩnh vực mà hoạt động nên
họ cần phải được đào tạo ở trình độ nhất định cùng với vị trí làm việc của mình
trong bộ máy cơ quan hành chính nhà nước.
Đội ngũ công chức hành chính là những người được đào tạo, bồi dưỡng ở các
trường, lớp, có khả năng chuyên môn cao. Họ được tuyển dụng, đảm nhận chức vụ
chuyên môn, nghiệp vụ trong cơ quan hành chính nhà nước. Họ có trách nhiệm thực
hiện những hoạt động nghiệp vụ chuyên ngành, được quy hoạch đào tạo theo tiêu
chuẩn cấp kiến thức nghiệp vụ với hai phân nhánh lý thuyết và thực hành. Công
chức hành chính có số lượng đông và hoạt động của họ có tính quyết định đến việc
hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị.
Đối với công chức TP-HT, tham mưu giúp UBND cấp xã tổ chức thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã trong lĩnh vực tư pháp và hộ tịch trên địa
bàn là nhiệm vụ của họ. Công việc của công chức TP-HT phải đảm nhiệm là rất
27
nhiều và khá nặng nề, bởi cùng lúc, họ phải đảm nhận cả hai lĩnh vực tư pháp và
lĩnh vực hộ tịch. Các công tác tư pháp luôn mang tính “hành chính trật tự” và công
tác hộ tịch thì có tính ổn định, đòi hỏi chuyên môn cao. Việc phụ trách công tác tư
pháp và hộ tịch đòi hỏi người công chức phải tập trung tối đa thời gian cũng như nỗ
lực của bản thân. Bởi lẽ, ngoài việc giải quyết vấn đề về hộ tịch, họ phải đảm đương
thêm nhiệm vụ tham mưu trong các lĩnh vực tư pháp như tuyên truyền pháp luật,
hòa giải ở cơ sở, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo, theo dõi thi hành pháp
luật, kiểm soát thủ tục hành chính... tham mưu cho chủ tịch UBND về lĩnh vực pháp
lý khác như giải phóng mặt bằng, giải quyết an ninh trật tự...
Do vậy, để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, công chức TP-HT phải có hiểu
biết rộng hầu hết trong các lĩnh vực của đời sống xã hội ngoài lĩnh vực chuyên môn
trong lĩnh vực hộ tịch. Khi trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững, tầm hiểu biết rộng
về pháp luật hội tụ đủ, công chức TP-HT cần phải có vốn kinh nghiệm sống tốt thì
mới có thể đáp ứng một cách toàn diện công việc mà họ giải quyết hàng ngày. Từ
đó, công dân đến UBND xã thực hiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực TP-HT
sẽ được phục vụ một cách nhanh chóng, hiệu quả, kịp thời và hợp tình, hợp lý.
Khi thực hiện nhiệm vụ quyền hạn mà pháp luật quy định, công chức TP-HT
phải trực tiếp đối diện với người dân trong các thủ tục hành chính được thực hiện
thường xuyên và chủ yếu ở cấp xã như công tác giải quyết đơn thư, công tác hộ tịch
phối hợp với các cơ quan tư pháp khác.... Do đó, họ thường xuyên phải chịu áp lực
trong công việc khi đối diện với người dân, bởi lẽ người dân ở cơ sở thường coi
trọng tình hơn là lý. Mặc dù được giải thích rõ theo quy định của pháp luật nhưng
công dân thấy bất lợi cho mình liền “vin” rằng mình bị “gây khó dễ”. Đây là một
công việc xảy ra ở những tình huống nhạy cảm, thậm chí có sự “đôi co” giữa công
dân với công chức, trong đó có công chức TP-HT. Khi công dân cho rằng mình bị
gây phiền hà, sách nhiễu, nếu như công chức TP-HT không kìm chế được cảm xúc
của mình thì rất dễ xảy ra tình huống xấu này.
Như vậy, công việc của công chức TP-HT ở cơ sở là khá nặng nề, không
những trực tiếp giải quyết nhu cầu pháp lý của người dân mà còn phải tham mưu
đắc lực, giúp chính quyền địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước. Từ
28
đó, GDPL cho công chức TP-HT cần phải mang những tính chất riêng biệt so với
GDPL cho đội ngũ công chức hành chính nói chung.
1.3.6. Chủ thể của giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch
Công chức TP-HT cũng là công chức hành chính, vì vậy, chủ thể thực hiện
GDPL cho đội ngũ công chức này cũng chính là chủ thể GDPL cho đội ngũ công
chức hành chính.
Về mặt tổ chức, quản lý, xây dựng chương trình, kế hoạch GDPL, chủ thể của
GDPL cho công chức TP-HT đó là Hội đồng phổ biến GDPL các cấp từ Trung
ương đến cấp huyện với cơ quan thường trực tương ứng là Bộ Tư pháp, Sở Tư
pháp, Phòng Tư pháp; hay các cơ sở đào tạo tham gia liên kết hoạt động GDPL như
Học viện Tư pháp, các trường Đại học luật, khoa Luật, Học viện hành chính (nay
thuộc Bộ Nội vụ), Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và cơ sở đào tạo
chuyên ngành luật khác.
Về yếu tố con người, chủ thể GDPL đội ngũ giảng viên, báo cáo viên pháp
luật, các chuyên gia về pháp luật, Luật sư, Công chứng viên, cán bộ chủ chốt tại các
cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội... Các chủ thể này tham gia
trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động GDPL. Thông qua các cơ quan, tổ chức, chủ
thể GDPL bằng năng lực, trách nhiệm của mình để truyền đạt cho đội ngũ công
chức TP-HT nội dung pháp luật cần giáo dục.
1.3.7. Đặc điểm giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch
Thứ nhất, GDPL cho công chức tư pháp – hộ tịch phải coi trọng kỹ năng
giao tiếp và văn hóa ứng xử của công chức tư pháp – hộ tịch
Công chức TP-HT là người thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với người dân khi
thực hiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực tư pháp ở cấp xã. Họ phải linh hoạt,
nhạy bén với mọi tình huống đối mặt với người dân sao cho phù hợp với văn hóa
ứng xử nơi công sở. Vì vậy, GDPL đòi hỏi phải tạo cho công chức TP-HT hình
thành được kỹ năng lắng nghe, kỹ năng giải quyết xung đột và kỹ năng đặt câu hỏi
khi thực hiện nhiệm vụ hàng ngày.
29
Về kỹ năng lắng nghe, giao tiếp với công dân thì công chức tư pháp – hộ tịch
phải tập trung, toàn tâm, toàn ý để lắng nghe công dân trình bày nội dung sự việc.
Họ phải chú ý và biết rằng công dân nói gì và thể hiện được sự mong muốn lắng
nghe từ phía công dân. Thực tế, số lượng đầu việc công chức TP-HT phải làm là rất
nhiều. Vì vậy, kỹ năng lắng nghe là một nội dung hết sức quan trọng cần phải thực
hiện trong công tác GDPL cho đội ngũ công chức TP-HT. Qua đó, công chức TP-
HT có thể hiểu, ghi nhớ nội dung sự việc được truyền tải để trả lời, giải đáp những
thắc mắc của công dân.
Về kỹ năng giải quyết xung đột. Những xung đột qua các vụ việc hòa giải
phần lớn thể hiện thái độ giận giữ của các đối tượng. Để giải quyết xung đột, công
chức TP-HT phải tìm ra giải pháp tốt nhất. Công tác GDPL phải đảm bảo hình
thành được trong suy nghĩ của người công chức sự bình tĩnh, khéo léo trong từng
lời nói, hành động và cử chỉ. Theo đó, công chức TP-HT tránh sự tò mò, thóc mách
vào vấn đề riêng tư của đối tượng. Khi các đối tượng cần giải pháp, cần phải đặt câu
hỏi để định hướng giúp họ tự tìm ra câu trả lời thay vì thay họ giải quyết vấn đề.
Về kỹ năng đặt câu hỏi. Công chức TP-HT cần có sự hiểu biết về các tri thức
pháp luật lĩnh vực chuyên môn cũng như các lĩnh vực khác. Qua đó, họ sẽ không bị
lạc hậu, hình thành thói quen cập nhật liên tục các văn bản pháp luật, học hỏi và
trau dồi thêm kiến thức. Khi có tầm hiểu biết về chuyên môn và các lĩnh vực khác,
công chức TP-HT sẽ dễ dàng đặt ra các câu hỏi phù hợp trước yêu cầu giải quyết
công việc của người dân.
Thứ hai, GDPL cho công chức tư pháp – hộ tịch được thực hiện trong
trường, lớp chính quy khi công chức tư pháp – hộ tịch học kiến thức chung về
pháp luật.
Tiêu chuẩn chuyên môn đối với công chức TP-HT là có trình độ từ trung cấp
Luật trở lên. Tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng
đã và đang có xu hướng kiện toàn đội ngũ công chức TP-HT với 100% công chức
có trình độ từ đại học trở lên. Do vậy, trước khi được tuyển dụng, công chức TP-HT
30
thường đã qua đào tạo bài bản, chuyên sâu với các kiến thức chung về pháp luật tại
các cơ sở giáo dục chuyên ngành Luật.
Tại các cơ sở đào tạo chính quy về luật, công chức TP-HT đã được học tập các
môn học về pháp luật từ đại cương đến chuyên ngành từng lĩnh vực khác nhau. Đây
là cơ sở, nền tảng quan trọng cho chuyên môn vững vàng đối với công chức TP-HT.
Sau khi có đầy đủ trình độ chuyên môn, công chức tư pháp –hộ tịch được tuyển
dụng nhằm đảm bảo thực hiện tốt nhưng công việc đòi hỏi phải có chuyên ngành
luật, đáp ứng được yêu cầu phức tạp, phạm vi rộng của công tác TP-HT.
Thứ ba, GDPL cho công chức tư pháp – hộ tịch được thực hiện thông qua
các lớp học, khóa học chuyên sâu về nghiệp vụ
Công chức TP-HT tham gia các lớp học, khóa học chuyên sâu về nghiệp vụ tư
pháp, nghiệp vụ hộ tịch được cấp các chứng chỉ hoạt động về một lĩnh vực chuyên
ngành cụ thể. Các chứng chỉ mà họ được cấp được coi như “chứng chỉ hành nghề”
đối với nghiệp vụ TP-HT. Để được cấp chứng chỉ, công chức TP-HT tham gia học tập
đầy đủ, trải qua kỳ thi sát hạch về nghiệp vụ TP-HT. GDPL như vậy sẽ ghóp phần đẩy
mạnh cải cách và đơn giản hóa thủ tục hành chính nói chung, tạo sự thuận lợi, giảm các
chi phí nhất định, tăng cường hiệu quả của quản lý nhà nước trong công tác TP-HT.
Các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu là cơ hội để đội ngũ công chức TP-
HT cập nhật kiến thức, bồi dưỡng nghiệp vụ và trao đổi kinh nghiệm với các đồng
nghiệp. Ví dụ: Căn cứ Quyết định Quyết định số 343/QĐ-HVTP ngày 20 tháng 4
năm 2015 của Giám đốc Học viện Tư pháp về việc mở Lớp bồi dưỡng chuyên sâu
kỹ năng xử phạt vi phạm hành chính; Căn cứ Công văn số 180/HVTP-BDCB ngày
17 tháng 3 năm 2015 về việc chiêu sinh Lớp bồi dưỡng chuyên sâu kỹ năng xử phạt
vi phạm hành chính; Căn cứ số lượng học viên đã đăng ký tham gia Lớp bồi dưỡng
chuyên sâu kỹ năng xử phạt vi phạm hành chính tại Hà Nội thì Học viện Tư pháp đã
có Thông báo số 393/TB-HVTP ngày 20/5/2015 Về lịch nhập học Lớp bồi dưỡng
chuyên sâu kỹ năng xử phạt vi phạm hành chính tại thành phố Hà Nội.
Thứ tư, GDPL cho công chức tư pháp – hộ tịch được thực hiện thông qua
các buổi hội nghị, họp, tấp huấn theo từng chuyên đề
31
Các quy định của pháp luật trong lĩnh vực TP-HT có phạm vi rất rộng. Hàng
năm, nhà nước ta ban hành và sửa đổi bổ sung pháp luật về lĩnh vực TP-HT để phù
hợp với tình hình thực tiễn của đời sống xã hội. Do vậy, công chức TP-HT thường
xuyên được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quan tâm để cập nhật đầy đủ,
chính xác các quy định của pháp luật. Tại các buổi hội nghị, tập huấn, các kiến thức
pháp luật theo từng chuyên đề luôn bám sát các yêu cầu từ thực tiễn. Qua đó, giúp
cho công chức TP-HT nhạy bén, giải quyết công việc nhanh chóng, kịp thời để phục
vụ nhân dân.
Ví du: Hàng năm, các Phòng Tư pháp quận, huyện, thị xã trên địa bàn thành
phố Hà Nội thường kết hợp Sở Tư pháp thành phố để tổ chức Hội nghị bồi dưỡng
nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho đội ngũ công chức TP-HT, các hòa giải viên ở cơ
sở. Tại hội nghị , công chức TP-HT được truyền đạt các nội dung quy định của
pháp luật về công tác hòa giải ở cơ sở; hướng dẫn các kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải;
Các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến công tác hòa giải ở cơ sở như:
Bộ Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật nhà ở, Pháp luật về đất đai, Pháp
luật về xây dựng, Pháp luật về bảo vệ môi trường cũng như giới thiệu một số tình
huống thường gặp trong công tác hòa giải ở cơ sở, kinh nghiệm thực tiễn trong quá
trình thực hiện công tác hòa giải.
Thứ năm, GDPL cho giúp cho công chức TP-HT am hiểu một cách chuyên
sâu về nội dung công việc đảm nhận
Tại xã, phường, thị trấn thường tập trung nhiều cán bộ, công chức và học sinh,
sinh viên nên thường có nhu cầu lớn công việc về TP-HT do công chức TP-HT đảm
nhận. Vì vậy, công chức TP-HT thường xuyên phải làm thêm giờ và nỗ lực mới
hoàn thành nhiệm vụ được giao. Hàng ngày, công việc chủ yếu mà công chức TP-
HT phải làm là giải quyết công việc liên quan đến vấn đề hộ tịch. Đội ngũ công
chức TP-HT ngoài việc đảm đương thêm nhiệm vụ trong lĩnh vực tư pháp như
tuyên truyền pháp luật, hòa giải cơ sở… là rất rộng và phức tạp, họ còn phải tham
mưu cho chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn về lĩnh vực pháp lý khác như giải
phóng mặt bằng, giải quyết an ninh trật tự...
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (9)

Luận văn: Quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài, HOT
 
QUẢN LÝ LỄ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TIÊN LÃNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG_10283712052019
QUẢN LÝ LỄ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TIÊN LÃNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG_10283712052019QUẢN LÝ LỄ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TIÊN LÃNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG_10283712052019
QUẢN LÝ LỄ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TIÊN LÃNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG_10283712052019
 
Luận văn: Quản lý hạ tầng kỹ thuật thị trấn Thanh Lãng, Vĩnh Phúc
Luận văn: Quản lý hạ tầng kỹ thuật thị trấn Thanh Lãng, Vĩnh PhúcLuận văn: Quản lý hạ tầng kỹ thuật thị trấn Thanh Lãng, Vĩnh Phúc
Luận văn: Quản lý hạ tầng kỹ thuật thị trấn Thanh Lãng, Vĩnh Phúc
 
Luận văn: Vai trò của Chính phủ trong quy trình lập pháp ở Việt Nam
Luận văn: Vai trò của Chính phủ trong quy trình lập pháp ở Việt NamLuận văn: Vai trò của Chính phủ trong quy trình lập pháp ở Việt Nam
Luận văn: Vai trò của Chính phủ trong quy trình lập pháp ở Việt Nam
 
Luận văn tốt nghiệp: Lễ hội Chọi Trâu Đồ Sơn, HAY
Luận văn tốt nghiệp: Lễ hội Chọi Trâu Đồ Sơn, HAYLuận văn tốt nghiệp: Lễ hội Chọi Trâu Đồ Sơn, HAY
Luận văn tốt nghiệp: Lễ hội Chọi Trâu Đồ Sơn, HAY
 
Luận văn: Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến nuôi thủy sản, HAY
Luận văn: Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến nuôi thủy sản, HAYLuận văn: Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến nuôi thủy sản, HAY
Luận văn: Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến nuôi thủy sản, HAY
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại đất đai
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại đất đaiLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại đất đai
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại đất đai
 
Giao trinh luat hanh chinh 1
Giao trinh luat hanh chinh 1Giao trinh luat hanh chinh 1
Giao trinh luat hanh chinh 1
 
Luận án: Phát triển làng nghề sản xuất hàng xuất khẩu trên địa bàn Hà Nội đến...
Luận án: Phát triển làng nghề sản xuất hàng xuất khẩu trên địa bàn Hà Nội đến...Luận án: Phát triển làng nghề sản xuất hàng xuất khẩu trên địa bàn Hà Nội đến...
Luận án: Phát triển làng nghề sản xuất hàng xuất khẩu trên địa bàn Hà Nội đến...
 

Similar to Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT

Similar to Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT (20)

Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật tại huyện Vân Đồn, Quảng Ninh
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật tại huyện Vân Đồn, Quảng NinhLuận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật tại huyện Vân Đồn, Quảng Ninh
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật tại huyện Vân Đồn, Quảng Ninh
 
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật trên tỉnh Quảng Ninh, HOT
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật trên tỉnh Quảng Ninh, HOTLuận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật trên tỉnh Quảng Ninh, HOT
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật trên tỉnh Quảng Ninh, HOT
 
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAYLuận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAY
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã Hà Nội, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã Hà Nội, HAYLuận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã Hà Nội, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức cấp xã Hà Nội, HAY
 
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOTLuận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOT
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Áp dụng pháp luật về chứng thực- qua thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà N...
Áp dụng pháp luật về chứng thực- qua thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà N...Áp dụng pháp luật về chứng thực- qua thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà N...
Áp dụng pháp luật về chứng thực- qua thực tiễn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà N...
 
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật ở huyện Tây Hòa, Phú Yên
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật ở huyện Tây Hòa, Phú YênLuận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật ở huyện Tây Hòa, Phú Yên
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật ở huyện Tây Hòa, Phú Yên
 
Luận văn: Kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, HAYLuận văn: Kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, HAY
 
Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai - Từ thực tiễn huyên Thanh Trì, thà...
Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai - Từ thực tiễn huyên Thanh Trì, thà...Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai - Từ thực tiễn huyên Thanh Trì, thà...
Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai - Từ thực tiễn huyên Thanh Trì, thà...
 
Pháp luật của tòa án tỉnh Sơn La trong xét xử vụ án về ma túy, HOT
Pháp luật của tòa án tỉnh Sơn La trong xét xử vụ án về ma túy, HOTPháp luật của tòa án tỉnh Sơn La trong xét xử vụ án về ma túy, HOT
Pháp luật của tòa án tỉnh Sơn La trong xét xử vụ án về ma túy, HOT
 
Đề tài: Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo hiện nay, HAY
Đề tài: Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo hiện nay, HAYĐề tài: Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo hiện nay, HAY
Đề tài: Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo hiện nay, HAY
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại Tòa án nhân d...
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại Tòa án nhân d...Luận văn: Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại Tòa án nhân d...
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại Tòa án nhân d...
 
Đề tài: Pháp luật về hòa giải ở cơ sở tại tỉnh Quảng Ngãi, HAY
Đề tài: Pháp luật về hòa giải ở cơ sở tại tỉnh Quảng Ngãi, HAYĐề tài: Pháp luật về hòa giải ở cơ sở tại tỉnh Quảng Ngãi, HAY
Đề tài: Pháp luật về hòa giải ở cơ sở tại tỉnh Quảng Ngãi, HAY
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, tỉnh Quảng Ngãi
Luận văn: Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, tỉnh Quảng NgãiLuận văn: Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, tỉnh Quảng Ngãi
Luận văn: Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, tỉnh Quảng Ngãi
 
Đề tài: Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở tỉnh Quảng Ngãi
Đề tài: Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở tỉnh Quảng NgãiĐề tài: Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở tỉnh Quảng Ngãi
Đề tài: Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở tỉnh Quảng Ngãi
 
Khóa luận Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay sdt/ ZALO 09345 497 28
Khóa luận Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay  sdt/ ZALO 09345 497 28	Khóa luận Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay  sdt/ ZALO 09345 497 28
Khóa luận Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay sdt/ ZALO 09345 497 28
 
Luận án: Văn hóa giao tiếp của lực lượng Công an nhân dân
Luận án: Văn hóa giao tiếp của lực lượng Công an nhân dânLuận án: Văn hóa giao tiếp của lực lượng Công an nhân dân
Luận án: Văn hóa giao tiếp của lực lượng Công an nhân dân
 
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luậtNhững căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptxVẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
Gingvin36HC
 
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
K61PHMTHQUNHCHI
 

Recently uploaded (20)

VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptxVẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
 
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
 
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
Thực trạng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực giống cây trồng: Nghiên cứu điển...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
 
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
Nhân tố ảnh hưởng tới động lực làm việc của kiểm toán viên tại Chi nhánh Công...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
 
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
 
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdfTiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
 
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
 
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG   CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG   CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
PHONG TRÀO “XUNG KÍCH, TÌNH NGUYỆN VÌ CUỘC SỐNG CỘNG ĐỒNG” CỦA ĐOÀN TNCS HỒ...
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
 

Luận văn: Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ************* NGUYỄN VĂN TUẤN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH, QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ************* NGUYỄN VĂN TUẤN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH, QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Hoàng Thị Kim Quế HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy, tôi viết Lời cam đoan này kính đề nghị Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Văn Tuấn
  • 4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Giáo dục pháp luật : GDPL Phổ biến, giáo dục pháp luật : PBGDPL Tƣ pháp – hộ tịch : TP-HT Ủy ban nhân dân : UBND
  • 5. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Số lƣợng công chức tƣ pháp – hộ tịch tại các xã, phƣờng, thị trấn thuộc các quận, huyện, thị xã trên địa bàn TP.Hà Nội 43 2.2 Độ tuổi, dân tộc, giới tính của công chức tƣ pháp – hộ tịch trên địa bàn thành phố Hà Nội 44 2.3 Trình độ văn hóa, chuyên môn, chính trị, ngoại ngữ và tin học của công chức TP-HT trên địa bàn thành phố Hà Nội 45 2.4 Phân biệt GDPL cho công chức TP-HT giữa khu vực nội thành và khu vực ngoại thành trên địa bàn thành phố Hà Nội 47
  • 6. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH ................................................................................6 1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH ............6 1.1.1. Khái niệm công chức tư pháp – hộ tịch..........................................................6 1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch ở nước ta............................................................................................................12 1.2. NHẬN THỨC CHUNG VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT ...............................14 1.2.1. Khái niệm giáo dục pháp luật........................................................................14 1.2.2. Các bộ phận cấu thành cơ bản của giáo dục pháp luật...............................17 1.3. GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH.........22 1.3.1. Khái niệm giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch .................22 1.3.2. Mục đích giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch...................22 1.3.3. Nội dung giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch...................24 1.3.4. Hình thức giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch .................25 1.3.5. Đối tượng của giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch ..........26 1.3.6. Chủ thể của giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch ..............28 1.3.7. Đặc điểm giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch...................28 1.4. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH .................................................................32 1.4.1. Quy định của pháp luật về lĩnh vực tư pháp và lĩnh vực hộ tịch.................32 1.4.2. Yếu tố về chủ thể giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch ..............35 1.4.3. Yếu tố về đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch.............................................35 1.4.4. Yếu tố về hình thức giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch ........37 1.4.5. Yếu tố về điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương ......................38
  • 7. Chƣơng 2 THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP - HỘ TỊCH, QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................41 2.1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, VĂN HÓA - XÃ HỘI VÀ TÌNH HÌNH ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI ………………………………………………………………………41 2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá - xã hội của thành phố Hà Nội....41 2.1.2. Tình hình đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch trên địa bàn Hà Nội…….42 2.2. ĐẶC THÙ CỦA GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH VÀ SỰ TÁC ĐỘNG ĐẾN Ý THỨC PHÁP LUẬT, CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI.............................................................................................................46 2.2.1. Đặc thù của giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch trên địa bàn thành phố Hà Nội…………………………………………………………….46 2.2.2. Sự tác động của vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội đến công tác giáo dục pháp luật đối với công chức tư pháp – hộ tịch ở thành phố Hà Nội.......................................................................................................................48 2.3. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......53 2.3.1. Đánh giá chung về thực tiễn công tác giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch ...........................................................................................................53 2.3.2. Thực trạng hình thức giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch trên địa bàn thành phố Hà Nội................................................................................54 2.3.3. Thực trạng về chủ thể, đối tượng, nội dung, cơ sở pháp lý, nguồn lực đầu tư của giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch trên địa bàn thành phố Hà Nội ...............................................................................................................68 Chƣơng 3 QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY ......................................................................................................77 3.1. QUAN ĐIỂM VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH ..................................................................................................77
  • 8. 3.1.1. Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp-hộ tịch phải đảm bảo tính thường xuyên, liên tục bằng nhiều hình thức ........................................................77 3.1.2. Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch đáp ứng yêu cầu nâng cao tính chuyên nghiệp, tôn trọng, tuân thủ pháp luật, tôn trọng bảo đảm các quyền con người, quyền công dân...........................................................................78 3.2. GIẢI PHÁP VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................81 3.2.1. Hoàn thiện chương trình, nội dung để đảm bảo chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với công chức tư pháp – hộ tịch...........................................82 3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực tư pháp - hộ tịch .....................................84 3.2.3. Xây dựng các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tham gia công tác giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch......................................................................87 3.2.4. Áp dụng đa dạng các hình thức giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch ....................................................................................................................90 3.2.5. Kết hợp giáo dục pháp luật và kỹ năng thực hành pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch.......................................................................................................94 3.2.6. Kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục quyền con người, phòng chống tham nhũng cho công chức tư pháp –hộ tịch.........................................................95 3.2.7. Tăng cường kiểm tra, giám sát, tổng kết rút kinh nghiệm và thực hiện công tác thi đua khen thưởng trong hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật................98 3.2.8. Bảo đảm kinh phí cho công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã........................................................................................................................99 3.2.9. Thực hiện xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật....................101 3.2.10. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật....................................................................104 KẾT LUẬN............................................................................................................108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................110
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chính quyền cấp xã là gần dân nhất để trực tiếp triển khai, thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Công chức TP-HT được coi như là một đại diện của ngành tư pháp ở cơ sở. Họ phải kiêm nhiệm cùng lúc rất nhiều nhiệm vụ khác nhau trong lĩnh vực TP-HT. Trong khi đó, nội dung cải cách nền hành chính theo hướng hiện đại hóa nền hành chính đòi hỏi giải quyết công việc một cách nhanh chóng, chuyên nghiệp. Tuy nhiên ở nước ta, đội ngũ công chức TP-HT còn mỏng, chuyên môn nghiệp vụ chưa đồng đều, một số ít công chức chưa đạt chuẩn về trình độ, chủ yếu mới qua tập huấn đào tạo, chế độ chính sách còn thấp. Để nâng cao chất lượng cho công chức TP-HT, GDPL có vai trò rất quan trọng. Nhận thức rõ được nội dung này, nhiều năm qua, ngành Tư pháp Thành phố Hà Nội đã tích cực tham mưu giúp Thành ủy, UBND Thành phố tập trung đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ cho đội ngũ công chức này. Từ đó, GDPL cho công chức TP-HT trở thành một nội dung đặc biệt cần thiết để đội ngũ công chức này có thể thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình. Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức chính trị có địa vị pháp lý đặc biệt quan trọng với vai trò lãnh đạo nhà nước xã hội và “gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình” [32]. Thành ủy Hà Nội đã ban hành 02 chương trình thành ủy có nghĩa hết sức quan trọng đối với công tác GDPL cho đội ngũ công chức nói riêng và toàn thể đội ngũ cán bộ, nhân dân toàn thành phố nói chung. Đó là chương trình số 08 – CTr/TU của Thành ủy Hà Nội ngày 18/10/2011 về việc Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm và chất lượng phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2011-2015; Chương trình số 09 – CTr/TU của Thành ủy Hà Nội ngày 18/10/2011 về việc đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2011-2015. Về phía UBND thành phố Hà Nội cũng ban hành kế hoạch số 221/KH-UBND ngày 19/12/2014 về phổ biến GDPL trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2015 ; Quyết định số 6709/QĐ-UBND ngày 16/12/2014 của UBND thành phố Hà Nội về việc
  • 10. 2 phê duyệt chỉ tiêu kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cơ quan của Đảng, Ủy ban mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Chính trị - Xã hội ; cán bộ, công chức, viên chức nhà nước ; cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn của thành phố Hà Nội năm 2015. Như vậy, GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, đối với công chức TP-HT nói riêng đã và đang nhận được sự quan tâm rất lớn từ phía Thành ủy, UBND thành phố Hà Nội và trở thành vấn đề quan trọng, cần thiết. Trước những yêu cầu mới của đất nước, sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và sự ra đời của những văn bản luật quan trọng, liên quan mật thiết đến đời sống nhân dân như: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Hộ tịch, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Căn cước… và những văn bản Luật khác sẽ được sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới để phù hợp với Hiến pháp năm 2013. Đặc biệt là các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Những vấn đề này đã đặt ra cho công tác PBGDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và công chức TP-HT nói riêng với nhiều nhiệm vụ mới, ở một tầm cao hơn, đòi hỏi tư duy về công tác PBGDPL mới hơn, toàn diện hơn, thiết thực và khoa học hơn. Chính vì những lý do ở trên, em đã lựa chọn đề tài “Giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch, qua thực tiễn thành phố Hà Nội” để làm luận văn tốt nghiệp của mình. Từ đó, việc nghiên cứu đề tài sẽ có thể góp phần nâng cao hiệu quả PBGDPL nói chung và GDPL cho đội ngũ công chức TP-HT nói riêng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay cũng như tại các địa phương khác ở nước ta. Đây là cơ sở để các chủ thể GDPL cho công chức TP-HT có thể tham khảo để đưa ra được những nội dung, hình thức, kế hoạch GDPL phù hợp cho đội ngũ công chức TP-HT. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề GDPL nói chung cũng đã và đang được nhắc tới khá nhiều trong các công trình nghiên cứu khoa học. Một số công trình nghiên cứu khoa học đề cập sâu đến vấn đề về này phải kể đến đó là: Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Quốc Sửu, chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật: “GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2010. Luận án Tiến sĩ Xã hội học của tác giả
  • 11. 3 Đoàn Thị Thanh Huyền: “GDPL cho con cái trong gia đình hiện nay – Nghiên cứu trường hợp tỉnh Quảng Ninh”, Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014. Luận án Phó Tiến sỹ khoa học luật học của nghiên cứu sinh Dương Thị Thanh Mai chuyên ngành Lý luận Nhà nước và Pháp quyền: “GDPL qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam”, Cơ sở đào tạo: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1996. Luận án Phó Tiến sỹ khoa học luật của nghiên cứu sinh Đinh Xuân Thảo ,chuyên ngành Lý luận Nhà nước và Pháp quyền: “GDPL trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay”, cơ sở đào tạo: Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1996. Luận án Phó Tiến sỹ khoa học luật học của nghiên cứu sinh Lê Đình Khiên, chuyên ngành Luật Nhà nước: “Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay”, cơ sở đào tạo: Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật 1996. Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Mai: “GDPL cho cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay”, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2005. Luận Văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Đặng Quang Tuân: “PBGDPL trong lĩnh vực giao thông – qua thực tiễn qua thực tiễn thành phố Hà Nội”, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2012. Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Phan Thị Hồng Hà: “PBGDPL cho công chức cấp xã – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2010. Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy “GDPL ở đô thị qua thực tiễn thành phố Hải Dương”, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2010. Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Phạm Kim Dung: “GDPL cho cán bộ, công chức cơ quan hành chính ở thành phố Hà Nội hiện nay”, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2011. Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Đỗ Hồng Kỳ: “PBGDPL của xã, phường trên địa bàn thành phố Thanh Hóa”, Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012. Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Dương Thị Thu Hiền “phổ biến GDPL trên địa bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình – thực trạng và giải pháp”, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2013. Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Kim Ngân: “GDPL ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Khoa luật – Đại
  • 12. 4 học quốc gia Hà Nội, 2013. Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Xuân Hạnh: “PBGDPL trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa”, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2014. Như vậy, vấn đề GDPL đã được nghiên cứu khá nhiều trong các công trình nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên cho đến nay, đề tài “Giáo dục pháp luật cho công chức tƣ pháp – hộ tịch, qua thực tiễn thành phố Hà Nội” vẫn chưa được nhắc tới trong các công trình nghiên cứu khoa học nào. Đây là một nội dung nghiên cứu khá mới mẻ nhưng tuơng đối khó bởi nhiệm vụ, quyền hạn của công chức TP-HT khá là rộng. Vì vậy, em đã lựa chọn đề tài này và lấy thực tiễn thành phố Hà Nội để làm luận văn tốt nghiệp của mình. 3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu và nhiệm vụ của Luận văn Luận văn có mục đích nghiên cứu là làm rõ những đặc trưng, yêu cầu cơ bản về GDPL cho công chức TP-HT, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả GDPL cho công chức TP-HT. Luận văn tập trung nghiên cứu về GDPL đối với đối tượng là đội ngũ công chức TP-HT. Do vậy, để thực hiện được mục đích nghiên cứu, luận văn phải thực hiện được các nhiệm vụ: Xác định được cơ sở lý luận về GDPL cho công chức TP-HT gồm: Nhận thức chung về công chức TP-HT; Những vấn đề lý luận cơ bản về GDPL; GDPL cho công chức TP-HT và những yếu tố tác động đến GDPL cho công chức TP-HT. Đề cập và phân tích được thực trạng GDPL cho công chức TP-HT trên địa bàn thành phố Hà Nội. Luận văn phải tập trung làm rõ thực trạng đội ngũ công chức TP- HT và thực tiễn GDPL cho công chức TP-HT trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đưa ra những quan điểm, giải pháp về GDPL cho công chức TP-HT trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận của GDPL cho công chức TP-HT; làm rõ thực trạng GDPL cho công chức TP-HT tại thành phố Hà Nội; đưa ra quan điểm, đề xuất giải pháp về GDPL cho công chức TP-HT trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp luận được sử dụng trong luận văn đó là phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Luận văn được thực hiện trên cơ sở sự vận dụng tư tưởng Hồ
  • 13. 5 Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về nhà nước và pháp luật; về cán bộ, công chức; về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học đó là phương pháp tư duy trừu tượng, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp hệ thống và phương pháp so sánh. Các phương pháp nghiên cứu khoa học này được sử dụng để nghiên cứu đề tài nghiên cứu theo mã số chuyên ngành Lý luận và Lịch sử nhà nước và pháp luật. 7. Điểm mới của Luận văn Luận văn đưa ra được những đặc điểm của GDPL cho công chức TP-HT và những yếu tố tác động đến GDPL cho công chức TP-HT. Ngoài ra, Luận văn cũng cập nhật kịp thời những số liệu tổng hợp về đội ngũ công chức TP-HT trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đưa ra được những vấn đề thực tiễn, khó khăn và tồn tại của GDPL cho công chức TP-HT tại thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó, đưa ra các quan điểm, giải pháp về GDPL cho công chức TP-HT trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay. 8. Kết cấu Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 3 chương: - Chương 1: Cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch. - Chương 2: Thực trạng giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch, qua thực tiễn thành phố Hà Nội. - Chương 3: Quan điểm và giải pháp về giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
  • 14. 6 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH 1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH 1.1.1. Khái niệm công chức tư pháp – hộ tịch Thứ nhất, về khái niệm công chức. Ở nước ta, khái niệm “cán bộ”, “công chức” có từ lâu. Văn bản đầu tiên là Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Điều 1 Sắc lệnh ghi: “Những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong cơ quan Chính phủ, ở trong nước hay ở nước ngoài đều là công chức theo quy chế này, trừ trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định”. Cuối những năm 80 của thế kỷ trước, khái niệm “cán bộ, công chức” được gọi chung là “cán bộ, công nhân viên chức nhà nước”. Đến thời kỳ đổi mới (sau năm 1986), yêu cầu khách quan đòi hỏi phải chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức nhà nước, khái niệm công chức được sử dụng trở lại trong Nghị định 169/HĐBT ngày 25/5/1991 của Chính phủ. Nghị định nêu rõ: “Công dân Việt Nam được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của nhà nước ở Trung ương hay địa phương, ở trong nước, ngoài nước, đã được xếp vào một ngạch, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp gọi là công chức nhà nước”. Năm 1998, Pháp lệnh Cán bộ, công chức ra đời, là văn bản pháp lý cao nhất của nước ta về cán bộ, công chức. Dưới Pháp lệnh là Nghị định số 95/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức. Nghị định đã cụ thể hóa khái niệm công chức“là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, bao gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công việc thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp; những người làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân và công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp và công nhân quốc phòng”.
  • 15. 7 Sau hai lần sửa đổi, năm 2003, Pháp lệnh Cán bộ, công chức cho khái niệm gộp cả cán bộ, công chức như sau: “Cán bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam trong biên chế bao gồm: a) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -xã hội ở Trung ương...h) Những người được tuyển dụng, giao giữ chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã”. Ngày 13/11/2008, Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010. Khoản 2 Điều 4 quy định: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước...”. Khoản 3 Điều 4 quy định: “... công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.” Thứ hai, về khái niệm công chức tư pháp – hộ tịch Trước khi Luật cán bộ, công chức năm 2008 ra đời, ở Việt Nam tồn tại song song 02 thuật ngữ “Cán bộ TP-HT” và “Công chức TP-HT”. Thuật ngữ “Cán bộ TP-HT” chỉ được nhắc tới trong Nghị định 158/2005/NĐ-CP và thông tư 01/2008/TT-BTP. Ngoài ra, tất cả các văn bản pháp luật khác từ năm 2003 đến nay khi quy định về chức danh này đều thống nhất quy định rõ là “công chức TP-HT”. Do vậy, việc viết “cán bộ TP-HT là công chức cấp xã…” tại khoản 1, Điều 81 Nghị định 158/2005/NĐ-CP là chưa chính xác. Bởi lẽ, trước đó, Nghị định số 114/2003/NĐ-CP đã quy định rõ 07 chức danh làm việc tại UBND cấp xã là công chức cấp xã trong đó có công chức TP-HT. Tuy vậy, nghị định 158/2005/NĐ-CP vẫn sử dụng thuật ngữ “cán bộ TP-HT” mà không dùng thuật ngữ “công chức TP-HT” là không phù hợp.
  • 16. 8 Khi Luật cán bộ, công chức 2008 ra đời, các văn bản pháp luật đã có sự thống nhất duy nhất thuật ngữ “công chức tư pháp hộ tịch”. Việc quy định “Cán bộ TP- HT” hay “công chức TP-HT” đều không làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ và quyền hạn của chức danh này. Nội dung cần quan tâm hơn cả đó là cụm từ “TP-HT”, nhằm mục đích phân biệt với công chức làm công tác tư pháp tại Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện; công chức làm công tác tư pháp tại các phòng chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tư pháp. Ngoài ra, theo quy định của Luật hộ tịch 2014 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2016), cụm từ TP-HT cũng là cơ sở để phân biệt đội ngũ công chức TP-HT với công chức làm công tác hộ tịch tại Phòng Tư pháp, viên chức ngoại giao, lãnh sự làm công tác hộ tịch tại Cơ quan đại diện. Theo quy định của pháp luật, công chức TP-HT có những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định trong cả hai công tác tư pháp, công tác hộ tịch. Về công tác tư pháp, công chức TP-HT tham mưu giúp UBND cấp xã thực hiện các nhiệm vụ: - Xây dựng chương trình, kế hoạch, quyết định, chỉ thị về công tác tư pháp cấp xã trình UBND cấp xã phê duyệt và tổ chức thực hiện; thực hiện nhiệm vụ kiểm soát thủ tục hành chính; tự kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và UBND cấp xã ban hành; hướng dẫn việc xây dựng quy ước, hương ước thôn, tổ dân phố phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. - Quản lý và thực hiện công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; theo dõi tình hình thi hành pháp luật tại địa phương; đề xuất với UBND cấp xã xử lý hoặc báo cáo cơ quan có thẩm quyền xử lý kết quả theo dõi thi hành pháp luật theo quy định của pháp luật; xây dựng, trình UBND cấp xã ban hành và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch PBGDPL; xây dựng, tập huấn, bồi dưỡng, quản lý đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật; tổ chức thực hiện Ngày Pháp luật; quản lý, khai thác, sử dụng Tủ sách pháp luật ở cấp xã. - Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hòa giải ở cơ sở; thành lập, kiện toàn tổ hòa giải và công nhận tổ trưởng tổ hòa giải, hòa giải viên tại địa phương; tổ chức kiểm tra, sơ kết, tổng kết và khen thưởng về hòa giải ở cơ sở; thực
  • 17. 9 hiện nhiệm vụ xây dựng xã, phường, thị trấn tiếp cận pháp luật theo quy định; quản lý, đăng ký hộ tịch; thực hiện một số việc về quốc tịch tại cấp xã theo quy định của pháp luật; cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt, chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt; chứng thực các việc khác theo quy định của pháp luật; phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong thi hành án dân sự trên địa bàn theo quy định của pháp luật. Về công tác hộ tịch, công chức TP-HT có nhiệm vụ và trách nhiệm như: Thụ lý hồ sơ, kiểm tra, xác minh và đề xuất với Chủ tịch UBND cấp xã xem xét, quyết định việc đăng ký hộ tịch theo quy định; thường xuyên kiểm tra và vận động nhân dân đi đăng ký kịp thời các sự kiện hộ tịch. Đối với những khu vực người dân còn bị chi phối bởi phong tục, tập quán hoặc điều kiện đi lại khó khăn phải có lịch định kỳ đến tận nhà dân để đăng ký những sự kiện hộ tịch đã phát sinh; công chức TP- HT phải chịu trách nhiệm trước UBND cấp xã về những sự kiện hộ tịch phát sinh trên địa bàn xã, phường, thị trấn mà không được đăng ký; sử dụng các loại sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch theo quy định của Bộ Tư pháp; tổng hợp tình hình và thống kê chính xác số liệu hộ tịch để UBND cấp xã báo cáo UBND cấp huyện theo định kỳ 6 tháng và hàng năm; tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân chấp hành các quy định của pháp luật về hộ tịch; giữ gìn, bảo quản, lưu trữ sổ hộ tịch và giấy tờ hộ tịch; khi thôi giữ chức vụ phải bàn giao đầy đủ cho người kế nhiệm. Đối với công chức làm công tác tư pháp tại Phòng Tư pháp cấp huyện Việc biên chế đội ngũ công chức này do Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định trong tổng biên chế công chức của cấp huyện được cấp trên phê duyệt. Bố trí công tác đối với công chức của Phòng Tư pháp được căn cứ vào vị trí việc làm, chức danh, tiêu chuẩn, cơ cấu ngạch công chức theo quy định và đảm bảo đủ lực lực lượng để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Do vậy, công chức tư pháp của Phòng Tư pháp thường chỉ đảm nhận một nhiệm vụ đặc thù với chuyên môn cao và ổn định. Việc đảm nhận công việc có tính chuyên môn cao này nhằm thực hiện nhiệm vụ chung của Phòng Tư pháp để có thể tham mưu cho UBND cấp huyện trong việc thực hiện các nhiệm vụ về công tác xây dựng và thi hành pháp luật; theo
  • 18. 10 dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; kiểm soát thủ tục hành chính; PBGDPL; hòa giải ở cơ sở; nuôi con nuôi; hộ tịch; chứng thực; bồi thường nhà nước; trợgiúp pháp lý ; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật. Đối với công chức làm công tác tư pháp tại Sở tư pháp thuộc UBND cấp tỉnh. Đây là đội ngũ công chức được tuyển dụng để đảm nhận các công tác tư pháp căn cứ vào vị trí làm việc, chức danh, tiêu chuẩn, cơ cấu ngạch công chức, và chức danh nghề nghiệp của họ. Theo đó, công chức làm công tác tư pháp tại Sở Tư pháp làm việc tại phòng chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tư pháp. Các phòng chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tư pháp bao gồm: Phòng Xây dựng và kiểm tra văn bản quy pha ̣m pháp luâ ̣t (quản lý công tác xây dựng , kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, công tác pháp chế , hỗ trợpháp lý cho doanh nghiê ̣p); phòng Kiểm soát thủ tục hành chính (quản lý công tác kiểm soát thủ tục hành chính); phòng Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật (quản lý công tác xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật); phòng Phổ biến, giáo dục pháp luật (quản lý công tác PBGDPL, hòa giải ở cơ sở, xây dựng hương ước, quy ước, xây dựng xã , phường, thị trấn tiếp cận pháp luâ ̣t); phòng Hành chính tư pháp (bao gồm hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, nuôi con nuôi, bồi thường nhà nước , đăng ký giao dịch bảo đảm, lý lịch tư pháp – trừ các thành phố trực thuộc Trung ương); phòng Bổ trợ tư pháp (bao gồm luật sư, tư vấn pháp luật, công chứ ng, giám định tư pháp, bán đấu giá tài sản, trọng tài thương mại (nếu có), trợgiúp pháp lý , thi hành án dân sự, thừ a phát la ̣i (nếu có) và các lĩnh vực tư pháp khác); Phòng Lý lịch tư pháp được thành lập tại thành phố trực thuộc Trung ương theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Cũng như công chức tư pháp làm việc tại Phòng Tư pháp, công chức tư pháp làm việc tại Sở Tư pháp cũng thực hiện các nhiệm vụ đòi hỏi có tính đặc thù về chuyên môn cao trong các lĩnh vực cụ thể. Các công việc mang tính đặc thù này tại các phòng chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tư pháp được vận hành nhằm thực hiện chức năng của Sở Tư pháp là tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh quản lý nhà nước về:
  • 19. 11 công tác xây dựng và thi hành pháp luật; theo dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; kiểm soát thủ tục hành chính; pháp chế; PBGDPL; hòa giải ở cơ s ở; hộ tịch; quốc tịch; chứng thực; nuôi con nuôi; lý lịch tư pháp ; bồi thường nhà nước ; trợ giúp pháp lý; luật sư; tư vấn pháp luật; công chứ ng; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi pha ̣m hành chính và công tác tư pháp khác theo quy đ ịnh của pháp luật. Như vậy, công chức tư pháp tại Phòng Tư pháp cấp huyện và công chức tư pháp làm việc tại các phòng chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tư pháp chỉ đảm nhận một công việc chuyên môn với một lĩnh vực nhất định của công tác tư pháp. Trong khi đó, công chức TP-HT phải đảm nhận đến hơn mười đầu việc trong lĩnh vực tư pháp thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã. Ngoài ra, hàng ngày, đội ngũ công chức TP-HT cũng thực hiện một cách thường xuyên, liên tục các nhiệm vụ trong công tác chứng thực và đăng ký, quản lý hộ tịch trên địa bàn xã, phường, thị trấn. Theo quy định tại Luật hộ tịch năm 2014 (có hiệu lực từ ngày 01/01/216). Bên cạnh việc quy định chức danh công chức TP-HT, Luật hộ tịch năm 2014 quy định thêm công chức làm công tác hộ tịch ở Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện; viên chức ngoại giao, lãnh sự làm công tác hộ tịch tại Cơ quan đại diện. Về nhiệm vụ, quyền hạn thì 03 chức danh này đều có nhiệm vụ quyền hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 73 Luật hộ tịch năm 2014. Về tiêu chuẩn, đối với công chức TP-HT thì tiêu chuẩn phải có trình độ trung cấp luật trở lên, được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch, có chữ viết rõ ràng, trình độ tin học phù hợp. Đối với công chức làm công tác hộ tịch tại Phòng Tư pháp phải có trình độ cử nhân luật trở lên và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch. Viên chức ngoại giao, lãnh sự làm công tác hộ tịch tại Cơ quan đại diện đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch. Tuy nhiên, đối với công chức TP-HT, phải kiêm nhiệm thêm cả công tác tư pháp mà không chuyên trách lĩnh vực hộ tịch như công chức tại Phòng Tư pháp và Viên chức ngoại giao, lãnh sự. Qua việc nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn của công chức TP-HT và phân biệt đặc điểm nghề nghiệp của công chức TP-HT với một số chức danh công chức làm
  • 20. 12 công tác tư pháp và công tác hộ tịch khác, theo cá nhân học viên thì việc ra đời chức danh công chức TP-HT là trên cơ sở lồng ghép công tác tư pháp với công tác hộ tịch. Nhà nước có thể áp dụng chung một suất về chế độ, chính sách cho cả hai lĩnh vực tư pháp và hộ tịch đối với một chức danh công chức. Công chức TP-HT phải đảm nhận cả hai công việc cùng lúc đó là các công tác tư pháp và công tác hộ tịch. Thực tế, tính chất chuyên môn của công tác hộ tịch và công tác tư pháp khác (văn bản, tuyên truyền pháp luật, hòa giải…) rất khác nhau. Công tác tư pháp khác mang tính chất “hành chính trật tự” của chính quyền, công tác hộ tịch đòi hỏi sự ổn định, thường xuyên, liên tục và chuyên môn cao. Như vậy, công chức TP-HT là một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, có sự lồng ghép công tác tư pháp với công tác hộ tịch để chung nhau một định suất lương nhằm tham mưu, giúp UBND cùng cấp thực hiện các công tác tư pháp mang tính hành chính – trật tự và thực hiện một cách thường xuyên, liên tục các nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã trong việc đăng ký, quản lý hộ tịch. 1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch ở nước ta Giai đoạn từ năm 1945 đến 1960 ở nước ta chỉ tồn tại thuật ngữ ban tư pháp xã, phường, thị trấn. Đây là tổ chức có từ thời kỳ trước Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ở vùng giải phóng – gọi là Tiểu ban Tư pháp trong Ủy ban dân tộc giải phóng làng, xã. Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Ban Tư pháp xã được chính thức thành lập theo Sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945 về việc tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính. Theo đó, Ban Tư pháp có ba Ủy viên là Chủ tịch, Phó chủ tịch, Thư ký của Ủy ban hành chính. Giai đoạn từ năm 1961 đến năm 1980, công tác Tư pháp xã do tòa án nhân dân đảm nhận theo quy định của Hiến pháp 1959. Thực hiện chức năng này, ngày 26/02/1964, TAND Tối cao ban hành Thông tư số 02-TC về xây dựng Tổ hào giải và kiện toàn tổ chức Tư pháp xã, khu phố. Trong thông tư này, tổ chức Tư pháp xã, khu phố có các ủy viên Tư pháp xã và khu phố. Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1993, theo thông tư số 08/TT ngày 06/01/1982 thì trong hệ thộng tư pháp, ở cơ sở xã, phường, thị trấn có Ban Tư pháp.
  • 21. 13 Theo đó, Ban Tư pháp có Trưởng ban, một Phó trưởng ban và một số ủy viên. Trưởng Ban tư pháp xã cần chọn người trong thường trực UBND xã kiêm chức, Phó trưởng Ban Tư pháp xã là cán bộ chuyên trách thường trực làm tư pháp. Các ủy viên nên chọn trong các ngành, đoàn thể địa phương. Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2003, theo Thông tư liên Bộ số 12/TTLB ngày 26/7/1993 hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức cơ quan tư pháp địa phương thì ở xã, phường, thị trấn vẫn tồn tại khái niệm Ban Tư pháp xã. Tiếp đó, Nghị định số 183/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ quy định về đăng ký hộ tịch thì thuật ngữ Cán bộ TP-HT xuất hiện tại Điều 11và là người làm việc tại UBND cấp xã. Giai đoạn từ năm 2003 đến nay, chức danh Công chức TP-HT lần đầu tiên xuất hiện trong Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ quy định về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. Tại điểm e khoản 2 Điều 2 thì những người được tuyển dụng, giao giữ chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong đó có chức danh TP-HT. Sau khi Nghị định 114/2003/NĐ-CP ra đời thì các văn bản khác của nhà nước ta đều nhắc tới chức danh công chức này. Cụ thể, đó là các văn bản như: Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn; Quyết định số 04/2004/QĐ0BNV ngày 16/01/2004 của Bộ trưởng Bộ nội vụ về việc ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức, xã phường thị trấn; Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về đăng ký, quản lý hộ tịch; Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ số gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký; Thông tư số 01/2008/TT-BTP hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch; Thông tư số 01/2009/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc UBND tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện và công tác Tư pháp của UBND cấp xã; Nghị định số 92/2009/NĐ-CP về chức danh, số lượng, một số chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã
  • 22. 14 và những người hoạt động chuyên trách ở cấp xã; Nghị định số 06/2012/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều cảu các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực; Nghị định số 112/2011/NĐ-CP của Chính phủ về công chức cấp xã; Thông tư số 06/2012/TT-BNV của Bộ Nội vụ hướng dẫn về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển dụng công chức cấp xã; Văn bản hợp nhất số 8013/VBHN-BTP của Bộ Tư pháp ngày 10/12/2013 về Đăng ký quản lý hộ tịch; Luật hộ tịch số 60/2014/QH13 ngày 20/11/2014 của Quốc hội; Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT - BTP – BNV ngày 22/12/2014 của Bộ tư pháp và Bộ Nội vụ... Chức danh công chức TP-HT xuất hiện trong các văn bản pháp luật đều thể hiện rõ đặc điểm nghề nghiệp của công chức này. Đó là sự kết hợp cả hai nhiệm vụ tư pháp và hộ tịch mà công chức TP-HT phải đảm nhận. Cũng như các chức danh công chức khác tại cấp xã, đội ngũ công chức TP-HT thường xuyên, trực tiếp tiếp xúc với người dân để giải quyết các công việc thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã. 1.2. NHẬN THỨC CHUNG VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT 1.2.1. Khái niệm giáo dục pháp luật “Nhà nước pháp quyền được nhìn từ góc độ ý thức công dân, ý thức pháp luật và nền văn hóa pháp lý ” [9, Tr.22]. Một nhiệm vụ và giải pháp cụ thể để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đó là GDPL. Hiện nay ở nước ta, GDPL trở thành một bộ phận của giáo dục chính trị, tư tưởng, “là một nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng” [5]. GDPL có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức, đảng viên và người dân. Nó nhận được sự quan tâm, nghiên cứu đặc biệt từ phía các nhà khoa học. Ở Việt Nam có hai luồng quan điểm chưa thống nhất về việc giải thích từ ngữ, đó là việc phân biệt các khái niệm: PBPL và GDPL. Xét trên mối quan hệ thực tiễn cũng như yêu cầu, mục đích chung của GDPL, có thể thấy hai khái niệm PBPL và GDPL có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Xét về bản chất của từng hoạt động, thì mục đích của hoạt động phổ biến là để GDPL.
  • 23. 15 Như vậy, có thể coi PBPL và GDPL là các mức độ, công đoạn tiếp nối nhau, gắn liền với nhau trong quá trình truyền đạt nội dung pháp luật đến các đối tượng cụ thể nhằm nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật cho họ. Khi phân tách hai khái niệm này, việc xác định các chủ thể thực hiện, cách thức thực hiện GDPL sẽ khó tách bạch mà có sự trùng lắp, vì hoạt động GDPL không giới hạn chỉ là việc GDPL trong nhà trường với các chủ thể và đối tượng cụ thể là nhà giáo và người học. Nếu thống nhất hai khái niệm, PBGDPL có mối liên hệ mật thiết với nhau, trong phổ biến có giáo dục, trong giáo dục có phổ biến. Nếu tách riêng hai khái niệm thì đây là một tập hợp từ ghép giữa hai từ “phổ biến” và “giáo dục” nên xét về bản chất ngữ nghĩa là khác nhau, đồng thời hai hoạt động này có chủ thể thực hiện, đối tượng điều chỉnh cũng như cách thức thực hiện khác nhau. Tuy nhiên, các ý kiến theo quan điểm tách biết chưa đi sâu phân tích và chỉ ra được những khác biệt cụ thể nói trên về nội hàm hoạt động liên quan đến hai khái niệm. Về khái niệm PBGDPL, theo “Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ PBGDPL”[22] PBGDPL là một từ ghép hai từ PBPL và GDPL. Cả cụm từ PBGDPL có hai nghĩa: Thứ nhất, theo nghĩa hẹp, đó là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng. Thứ hai, theo nghĩa rộng, đó là một quá trình tác động có định hướng của chủ thể PBGDPL đến ý thức của con người. Do vậy, PBGDPL bao gồm tất cả các công đoạn phục vụ cho công tác PBGDPL. Nó được xác định là một khâu của hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, là hoạt động có định hướng có tổ chức, có chủ định nhằm mục đích hình thành ở đối tượng được tác động tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi xử sự phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành với các hình thức, phương tiện, phương pháp đặc thù; là quá trình tác động thường xuyên, liên tục, lâu dài của chủ thể lên đối tượng; là cầu nối để truyền tải pháp luật vào cuộc sống. Đối với khái niệm phổ biến pháp luật: Theo Từ điển Tiếng Việt, “phổ biến là làm cho đông đảo mọi người biết đến một vấn đề, một tri thức bằng cách truyền đạt trực tiếp hay thông qua hình thức nào
  • 24. 16 đó" [38]. PBPL có đối tượng tác động rộng rãi, mang ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc, bởi trong lịch sử đã có lúc pháp luật được ban hành nhưng không được phổ biến công khai mà chỉ được coi là một công cụ để nhà nước dùng để trị dân. Bên cạnh đó PBPL còn mang tính tác nghiệp, truyền đạt nội dung pháp luật cho các đối tượng cụ thể. Ở những mức độ khác nhau, PBPL còn nhằm làm cho các đối tượng cụ thể hiểu thấu suốt các quy định của pháp luật để thực hiện pháp luật trên thực tế. PBPL thường được thực hiện thông qua các hội nghị, các cuộc tập huấn... Như vậy, theo nghĩa hẹp, PBPL là giới thiệu tinh thần văn bản pháp luật cho đối tượng của nó. Theo nghĩa rộng thì đó là truyền bá pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân trên cả nước. Đối với khái niệm GDPL: Theo Từ điển Tiếng Việt, giáo dục được hiểu đó là “ tác động có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của con người, để họ dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra” [40, Tr.734]. Ngoài ra, giáo dục còn được hiểu đó là hình thức học tập theo đó kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thông qua tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách mà người ta suy nghĩ, cảm nhận, hành động đều được xem là có tính giáo dục. Ví dụ: Giáo dục thường được chia thành các giai đoạn như giáo dục tuổi ấu thơ, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học và giáo dục đại học. Như vậy, so với phổ biến thì giáo dục cũng nhằm nâng cao nhận thức, tình cảm song nội dung rộng hơn, phương thức tiến hành chặt chẽ hơn, đối tượng xác định hơn, mục đích lớn hơn. Xét dưới góc độ nhất định thì phổ biến chính là các phương thức giáo dục cụ thể. Hiện nay, các nhà khoa học đã khá thống nhất về khái niệm GDPL: Thứ nhất, theo nghĩa rộng: GDPL là một trong những tác động của thế giới khách quan và cũng là một trong những tác động chủ quan của con người lên sự nhận thức và thực hiện hành vi của chính con người. Thứ hai, theo nghĩa hẹp: “Hoạt động có định
  • 25. 17 hướng, có mục đích, trang bị kiến thức pháp luật, nhằm hình thành ở các đối tượng được giáo dục những tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật” [14, Tr. 452]. Trong luận văn, khái niệm GDPL được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống, thường xuyên và liên tục nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật. 1.2.2. Các bộ phận cấu thành cơ bản của giáo dục pháp luật Thứ nhất, mục đích của GDPL Mục đích GDPL được hiểu là sự mong muốn, là dự kiến về kết quả đạt được của giáo dục dục pháp luật. Những mong muốn này có tính chất lý tưởng, là cái mà chủ thể GDPL đang hướng tới, đang phấn đấu để đạt được. Nó có tác dụng định hướng, điều khiển hoạt động GDPL trong những điều kiện, hoản cảnh nhất định của xã hội. Mục đích GDPL gồm ba nhóm mục đích cụ thể: GDPL nâng cao hiểu biết pháp luật cho đối tượng Pháp luật của nhà nước không phải khi nào cũng được mọi người trong xã hội biết đến, tìm hiểu, đồng tình ủng hộ và thực hiện nghiêm chỉnh. Tuy rằng, bản chất pháp luật của nhà nước ta là rất tốt đẹp, nó phản ánh ý chí, nguyện vọng, mong muốn của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội. Quy định pháp luật dù tốt đẹp bao nhiêu mà không được nhân dân biết đến thì chỉ là quy định trên giấy. “Do vậy, công tác dục pháp luật hiện nay có vai trò to lớn trong việc xây dựng, nâng cao hiểu biết, tôn trọng, và khả năng vận dụng pháp luật của nhân dân trong cuộc sống” [14, Tr.451]. Pháp luật của nhà nước có thể được một số người tìm hiểu quan tâm và nắm bắt xuất phát từ nhu cầu học tập, nghiên cứu hay từ nhu cầu sản xuất- kinh doanh của họ. Những người này luôn theo sát những quy định pháp luật mới được ban hành để phục vụ trực tiếp cho công việc của mình, nhưng số lượng đối tượng này không phải là nhiều. Với trình độ dân trí còn thấp, đời sống kinh tế của đa số nhân dân còn gặp nhiều khó khăn cho nên các đối tượng nằm trong sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật, nghĩa là số đông nhân dân lao động trong xã hội chưa có điều
  • 26. 18 kiện tiếp cận với pháp luật. Chẳng những vậy, do số lượng công việc giải quyết quá nhiều, một bộ phận cán bộ công chức nhà nước cũng khó có thể cập nhật thường xuyên và kịp thời các văn bản pháp luật. Do vậy, GDPL chính là phương tiện truyền tải những thông tin, những yêu cầu, nội dung và các quy định pháp luật đến mọi công dân, cán bộ công chức nhà nước. Điều này giúp cho họ hiểu biết, nắm bắt pháp luật kịp thời mà không mất quá nhiều thời gian công chức cho việc tự tìm hiểu, tự học tập. Đây chính là phương tiện hỗ trợ tích cực để nâng cao hiểu biết pháp luật. GDPL hình thành lòng tin vào pháp luật của đối tượng Pháp luật chỉ có thể được mọi người thực hiện nghiêm chỉnh khi họ tin tưởng vào những quy định của pháp luật. Pháp luật được xây dựng là bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng, bảo đảm công bằng, tự do, dân chủ xã hội chủ nghĩa. Khi nào công dân, cán bộ, công chức nhà nước hiểu rõ, nhận thức đủ như vậy thì pháp luật có lẽ không cần một biện pháp cưỡng chế nào mà họ vẫn tự giác thực hiện. Tạo lập niềm tin vào pháp luật cho đối tượng đòi hỏi phải kết hợp nhiều yếu tố. Một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng là GDPL để mọi người hiểu biết về pháp luật, hiểu biết về quá tình thực hiện và nội dung của việc áp dụng pháp luật. Pháp luật cũng như mọi hiện tượng khác trong xã hội cũng có hai mặt không phải bao giờ nó cũng thỏa mãn hết, phản ánh được đầy đủ nguyện vọng, mong muốn của tất cả mọi người trong xã hội. Pháp luật lấy lợi ích của đông đảo nhân dân trong xã hội làm tiêu chí, thước đo, do đó sẽ có một số ít lợi ích không thỏa mãn được. Chính yếu tố hạn chế, mặt trái của các quy định pháp luật ngày càng tạp nên sự cần thiết của công tác GDPL để tất cả mọi người hiểu đúng, đồng tình ủng hộ pháp luật. Có như vậy, lòng tin vào pháp luật của mọi tầng lớp trong xã hội mới được hình thành. GDPL nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của đối tượng. Ý thức pháp luật của đối tượng được hình thành tư hai yếu tố đó là tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật. Tri thức pháp luật là sự am hiểu pháp luật của các chủ thể có được qua việc học tập, tìm hiểu pháp luật, qua quá trình tích lũy kiến
  • 27. 19 thức của hoạt động thực tiễn và trong công tác. Tình cảm pháp luật chính là trạng thái tâm lý của chủ thể khi thực hiện và áp dụng pháp luật, họ có thể đồng tình ủng hộ với những hành vi thực hiện đúng pháp luật, lên án các hành vi vi phạm pháp luật. Ý thức tự giác thực hiện pháp luật của công dân, cán bộ công chức chỉ có thể được nâng cao khi công tác GDPL thường xuyên được tiến hành một cách kịp thời và có tính thuyết phục. GDPL không đơn thuần là chỉ ra các văn bản đang có hiệu lực mà còn lên án các hành vi vi phạm pháp luật, đồng tình ủng hộ các hành vi thực hiện đúng pháp luật. Từ đó, GDPL làm hình thành dư luận và tâm lý đồng tình ủng hộ với hành vi hợp pháp, lên án các hành vi vi phạm pháp luật. GDPL nhằm hình thành, củng cố tình cảm tốt đẹp của con người với pháp luật. Ngoài ra, nó còn nâng cao hiểu biết của con người đối với các văn bản pháp luật và các hiện tượng pháp luật trong đời sống. Từ đó, GDPL sẽ góp phần nâng cao ý thức tự giác thực hiện pháp luật từ phía mọi công dân, cán bộ và công chức nhà nước. Thứ hai, đối tượng của GDPL Đối tượng của GDPL là những cá nhân công dân hoặc những nhóm đối tượng cụ thể tiếp nhận tác động của GDPL. Họ là những người có nhu cầu và cả những người cho rằng mình không có nhu cầu tìm hiểu pháp luật. Theo quy định của Luật PBGDPL công dân có quyền được thông tin về pháp luật và có trách nhiệm chủ động tìm hiểu, học tập pháp luật. Nhà nước luôn bảo đảm, tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền được thông tin về pháp luật. GDPL được thực hiện đối với các đối tượng đặc thù như người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn và ngư dân; đối với nạn nhân bạo lực gia đình; đối với người khuyết tật; đối với thanh, thiếu niên; đối với người đang chấp hành hình phạt tù, người đang bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; đối với người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, người đang được hưởng án treo; đối với trẻ em, phụ nữ, học sinh, sinh viên... Ngoài ra, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước cũng là một nhóm đối tượng của GDPL và trong đó có công chức TP-HT. Với mỗi một đối tượng,
  • 28. 20 GDPL sẽ có những nội dung, hình thức, phương pháp GDPL khác nhau. Từ đó, những thông tin, yêu cầu, nội dung và các quy định pháp luật sẽ được truyền tải đến đối tượng PBGDPL thông qua các hình thức, phương tiện, biện pháp thích hợp. Thứ ba, chủ thể của GDPL Chủ thể của GDPL là các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân tham gia tổ chức thực hiện GDPL. GDPL có nội dung rộng, hình thức, phương pháp đa dạng, phong phú, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều đối tượng. Trong văn bản của Đảng và nhà nước xác định thực hiện GDPL là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và của mỗi công dân. Các chủ thể tham gia GDPL khá đa dạng, tuy nhiên, chủ thể chịu trách nhiệm trực tiếp tổ chức thực hiện GDPL là những chủ thể có thẩm quyền, có chức năng hoạt động này. Các chủ thể mà chúng ta phải kể tới đó là các Bộ, ngành, UBND các cấp và Bộ tư pháp là cơ quan có chức năng giúp chính phủ quản lý nhà nước thống nhất về công tác GDPL. Hội đồng phối hợp PBGDPL được thành lập ở trung ương; cấp tỉnh; cấp huyện và cấp xã. Hội đồng PBGDPL là cơ quan tư vấn cho Chính phủ, UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện, UBND cấp xã về công tác PBGDPL và việc huy động nguồn lực. Cơ quan thường trực Hội đồng phối hợp PBGDPL của Chính phủ là Bộ Tư pháp, của UBND cấp tỉnh là Sở Tư pháp, của UBND cấp huyện là Phòng Tư pháp và UBND cấp xã là công chức TP-HT. GDPL cũng chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của xu thế xã hội hóa hiện nay. Không chỉ có nhà nước, sự tham gia của các đoàn thể, cộng đồng, gia đình, cá nhân thì hoạt động GDPL đã ngày càng được mở rộng. Đối với các tổ chức nghề nghiệp, đặc biệt là Văn phòng Luật sư, Văn phòng Công chứng, Phòng công chứng, Trung tâm giới thiệu việc làm, GDPL là đòi hỏi tất yếu của việc mở rộng phạm vi, đối tượng phục vụ. Hiện nay, khi GDPL là một trong những nhiệm vụ nhà nước còn đảm nhận thì chủ thể trực tiếp tiến hành công tác này vẫn là khái niệm cần làm rõ khi nghiên cứu cơ chế thực hiện công tác GDPL.
  • 29. 21 Thứ tư, hình thức của GDPL Hình thức GDPL là những dạng hoạt động, cách cụ thể được thực hiện bởi chủ thể GDPL tác động lên đối tượng GDPL để đạt được mục đích GDPL. Có rất nhiều hình thức GDPL và mỗi hình thức có đặc trưng riêng. GDPL có thể được thực hiện dưới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp khác nhau. Theo Luật PBGDPL, hình thức GDPL có những hình thức như: Họp, thông cáo báo chí; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật, cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật; thông qua phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh, internet, pa – no, áp – phích, tranh cổ động; đăng tải trên công báo; đăng tải thông tin pháp luật trên trang thông tin điện tử; tổ chức thi tìm hiểu pháp luật; thông qua xét xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở; lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật... Thứ năm, phương pháp của GDPL Phương pháp là lề lối, cách thức phải theo để tiến hành công việc với một kết quả tốt nhất. Do vậy, phương pháp GDPL là lề lối, cách thức, biện pháp tiến hành GDPL nhằm đạt được hiệu quả tốt. Một số phương pháp GDPL áp dụng nhiều ở nước ta hiện nay đó là phương pháp giảng dạy, giải thích, thuyết phục và thực hành. Mỗi một hình thức GDPL có thể áp dụng được nhiều phương pháp GDPL khác nhau. Căn cứ vào nội dung của GDPL, chủ thể GDPL vạch ra hình thức GDPL với các phương pháp GDPL phù hợp cho từng đối tượng. Trong từng điều kiện hoàn cảnh về không gian, thời gian khác nhau, GDPL được thực hiện bởi những phương pháp khác nhau để có thể truyền đạt một cách sâu rộng nội dung cần giáo dục đến đối từng đối tượng. Với từng đối tượng khác nhau sẽ tương ứng với một hay một số phương pháp giáo dục khác nhau để đem lại hiệu quả tốt nhất của GDPL. Ví dụ: đối với đối tượng là học sinh, sinh viên thì phương pháp giảng dạy là phương pháp GDPL được sử dụng nhiều nhất và mang lại hiệu quả rõ nét nhất, ngoài ra cũng có thể sử dụng kết hợp với các phương pháp giải thích, thuyết phục và thực hành.
  • 30. 22 1.3. GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÔNG CHỨC TƢ PHÁP – HỘ TỊCH 1.3.1. Khái niệm giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch GDPL cho công chức TP-HT có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của đội ngũ công chức TP-HT nói riêng và đối với đội ngũ công chức cấp xã nói chung. Vì vậy, nó nhận được sự quan tâm đặc biệt từ phía các chủ thể GDPL. Theo nghĩa rộng, GDPL cho công chức TP-HT là quá trình tác động của các yếu tố khách quan như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ...và những yếu tố chủ quan từ phía chủ thể GDPL lên ý thức, hành vi của các công chức TP-HT. Theo nghĩa hẹp, GDPL cho công chức TP-HT là hoạt động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch của các chủ thể GDPL để chuyển tải, truyền đạt tri thức pháp luật, thông qua các phương pháp giáo dục khoa học và hình thức giáo dục phù hợp tới đội ngũ công chức TP-HT nhằm nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ hộ tịch và công tác tư pháp khác cho công chức TP-HT. Như vậy, GDPL cho công chức TP-HT là hoạt động có định hướng, có tổ chức và mục đích của chủ thể giáo dục tác động lên đội ngũ công chứ này một cách có hệ thống, thường xuyên bằng những hình thức, phương pháp nhất định nhằm cung cấp tri thức pháp luật, thông tin pháp luật trong lĩnh vực tư pháp, lĩnh vực hộ tịch và hình thành, nâng cao tình cảm, thái độ, ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật của công chức TP-HT ở chính quyền cấp xã. 1.3.2. Mục đích giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch Thứ nhất, GDPL cho công chức TP-HT có mục đích cung cấp kiến thức, kỹ năng thực hành pháp luật nghề nghiệp cho công chức TP-HT. Đây là mục đích hàng đầu, đội ngũ công chức này sẽ có sự am hiểu pháp luật, nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của mình trong công tác tư pháp của chính quyền cấp xã. GDPL được coi là điều kiện để hình thành tình cảm, lòng tin vào pháp luật của công chức tư pháp hộ tịch nói riêng và cán bộ công chức nhà nước nói chung. Nó giúp cho công chức TP-HT tổ chức thực hiện công việc của mình một cách khoa học. Từ đó, người công chức có thể tự kiểm tra, đánh
  • 31. 23 giá thành quả công việc của mình mà UBND cấp xã cũng như cấp trên đã giao phó. Mục đích này khẳng định rõ, nếu công chức TP-HT hiểu biết pháp luật không cao, chưa đầy đủ sẽ khiến các công việc, các thủ tục hành chính diễn ra hàng ngày ở cấp xã sẽ không linh hoạt, không đáp ứng nhu cầu cải cách hành chính hiện nay. Thứ hai, công tác GDPL có mục đích tạo lập tình cảm, lòng tin đối với pháp luật từ phía công chức tư pháp – hộ tịch. Việc hình thành tình cảm, lòng tin với pháp luật sẽ giúp cho đội ngũ công chức TP-HT có sự tôn trọng pháp luật, tôn trọng các cơ quan bảo vệ pháp luật. Khi có sự tôn trọng pháp luật, họ sẽ hành động, thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, không bị chệch khỏi các nội dung mà pháp luật đã dự liệu vì lợi ích riêng tư của mình. GDPL đạt được hiệu quả, các công chức TP-HT sẽ xác định được một cách rõ ràng những điều kiện để đánh giá sự công bằng của pháp luật. Việc đánh giá này tạo điều kiện cho việc thực hiện pháp luật trong từng trường hợp cụ thể với người dân, với đồng nghiệp và với bản thân người công chức theo đúng quy định của pháp luật. Không chỉ vậy, GDPL được thực hiện sẽ tạo nên trách nhiệm, ý thức thực hiện pháp luật cho công chức TP-HT trong từng lĩnh vực, thủ tục hành chính mà mình đảm nhận. Qua đó, họ sẽ luôn luôn ủng hộ, tham gia vào các hoạt động bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật. Đặc biệt, công tác hòa giải ở cơ sở đòi hỏi công chức TP-HT phải có sự yêu nghề, luôn ủng hộ lẽ phải, tham gia hòa giải một cách tâm huyết. Thứ ba, GDPL hình thành cho công chức tư pháp – hộ tịch những thói quen xử sự theo pháp luật. Việc hình thành tri thức pháp luật giúp cho công chức TP-HT dễ dàng xử lý các tình huống trong thực tiễn. Có tri thức pháp luật, họ phải có sự đấu tranh nội tâm của mình để thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Khi đó, thực hiện thủ tục hành chính thường ngày được thực hiện liên tục sẽ đưa công chức TP- HT vào những quy tắc chuẩn mực làm việc của toàn bộ hệ thống cán bộ, công chức cấp xã nói chung. Thực tiễn cho thấy, một bộ phận công chức TP-HT dễ dàng vì lợi ích vật chất khiến người dân hết sức vất vả trong một số thủ tục hành chính, đặc biệt là thủ tục
  • 32. 24 hành chính trong lĩnh vực hộ tịch. Công tác GDPL cần đạt được hiệu quả cao để giúp cho đội ngũ công chức này dần dần có thói quen xử sự hợp pháp, tránh gây phiền hà cho nhân dân. Từ đó, các quy phạm pháp luật được thực hiện một cách đúng đắn, tạo nên những chuyển biến cơ bản, bền vững, đảm bảo công tác tư pháp, hộ tịch được chính thực hiện chính xác, đầy đủ, phục vụ đắc lực cho việc thực hiện các nhiệm vụ về phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng. 1.3.3. Nội dung giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch Đối với công tác TP-HT, các văn bản pháp luật ở nước ta quy định rất chồng chéo. Vì vậy, việc kịp thời tìm hiểu các quy định của pháp luật để giải quyết công việc hàng ngày của công chức TP-HT trở nên vô cùng cần thiết. Khi ấy, Sở tư pháp cấp tỉnh, Phòng tư pháp cấp huyện cùng các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời tập huấn cho đội ngũ công chức TP-HT. Tập huấn nghiệp vụ sẽ giúp cho đội ngũ công chức này sẽ có đầy đủ kiến thức pháp luật để giải quyết kịp thời các tình huống diễn ra trong phạm vi lĩnh vực mình giải quyết. Khi thực hiện hoạt động GDPL, các chủ thể GDPL cần phải trú trọng đến việc truyền tải về tầm quan trọng, giá trị đạo đức của các quy phạm pháp luật mà mình truyền tải. Do vậy, hiệu quả làm việc của công chức TP-HT sẽ cao hơn, giúp cho các thủ tục hành chính được thực hiện một cách nhanh chóng. Để đạt được những thành quả trên, nội dung GDPL cho công chức TP-HT cần tập trung những nội dung cụ thể đó là: Việc ban hành và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch, quyết định, chỉ thị về công tác tư pháp ở cấp xã; theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện sau khi được cấp có thẩm quyền quyết định hoặc phê duyệt; tổ chức lấy ý kiến nhân dân về các dự án luật, pháp lệnh theo hướng dẫn của UBND cấp huyện và cơ quan Tư pháp cấp trên; tổ chức thực hiện việc tự kiểm tra các quyết định, chỉ thị do UBND cấp xã ban hành; rà soát văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, UBND cấp xã ban hành; chỉ đạo, hướng dẫn việc xây dựng quy ước, hương ước thôn, tổ dân phố phù hợp với quy định pháp luật hiện hành; theo dõi, báo cáo tình hình thi hành văn bản quy phạm pháp luật, phát hiện, đề xuất biện pháp giải quyết những khó khăn vướng mắc trong thi hành văn bản quy phạm pháp
  • 33. 25 luật ở cấp xã với Phòng Tư pháp cấp huyện; tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch PBGDPL; quản lý, khai thác, sử dụng Tủ sách pháp luật ở cấp xã; tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở, bồi dưỡng, cung cấp tài liệu nghiệp vụ cho tổ viên Tổ hoà giải trên địa bàn theo sự hướng dẫn của cơ quan tư pháp cấp trên; công tác tư pháp, hộ tịch, chứng thực, chứng nhận và theo dõi về quốc tịch trên địa bàn cấp xã theo quy định của pháp luật; phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong thi hành án dân sự trên địa bàn theo quy định của pháp luật. 1.3.4. Hình thức giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch Công tác GDPL cho công chức TP-HT được thực hiện với các hình thức như PBPL trực tiếp thông qua hoạt động tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ; hoạt động tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật; tổ chức cuộc thi tìm hiểu pháp luật; lồng ghép hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luât; thông qua chương trình GDPL ở các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân. Hiện nay, công tác GDPL “huy động được nhiều cơ quan, tổ chức tham gia hoạt động lồng ghép này sẽ tranh thủ tối đa các nguồn lực ở địa phương, nếu tách riêng mỗi tổ chức, đoàn thể thì sẽ hết sức khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ” [3, Tr.210]. Trong các hình thức trên, hình thức GDPL trực tiếp thông qua hoạt động tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ được coi là phổ biến, thường xuyên được thực hiện. Qua đó, công chức TP-HT sẽ được hướng dẫn rõ ràng, cụ thể quy định, trình tự, thủ tục liên quan đến lĩnh vực tư pháp và hộ tịch. Kết quả đạt được đó là công chức tư pháp- hộ tịch để công tác giải quyết hồ sơ cho người dân được thuận lợi hơn. Ngoài ra, các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cũng sẽ góp phần trang bị kiến thức pháp luật, nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ công chức TP-HT, chất lượng và hiệu quả công tác tư pháp ở xã, phường, thị trấn tốt hơn. Đặc biệt, tập huấn nghiệp vụ giúp công chức TP-HT nắm được chức trách, nhiệm vụ của mình, có khả năng, năng lực tham mưu, giúp UBND các phường, xã thực hiện tốt công tác
  • 34. 26 tư pháp tại địa phương, qua đó góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của ngành và thành phố giao. 1.3.5. Đối tượng của giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch GDPL cho công chức TP-HT có đối tượng là đội ngũ công chức TP-HT làm việc tại xã, phường, thị trấn. Công chức TP-HT tham mưu giúp UBND cấp xã trong lĩnh vực tư pháp và hộ tịch trên địa bàn xã. UBND cấp xã là cơ quan hành chính nhà nước ở cơ sở, chức danh chuyên môn làm việc trong UBND xã là một bộ phận công chức trong đội ngũ công chức hành chính nhà nước. Đội ngũ công chức này khác với đội ngũ công chức trong ngành tư pháp như Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án... Là một công chức thuộc chức danh chuyên môn của UBND xã, công chức TP- HT có những đặc điểm của một công chức hành chính nói chung như: Là những người trưởng thành về thể chất và về mặt xã hội, được tuyển dụng để giữ một chức vụ một cách thường xuyên trong cơ quan hành chính nhà nước; công chức hành chính là nhóm người được xã hội coi trọng và được coi là có “vị thế” vì họ là những người đang giữ những chức vụ, trách nhiệm nhất định theo trình độ đào tạo, được xếp vào ngạch bậc tương ứng trong cơ quan hành chính nhà nước; công chức hành chính có nhiều kinh nghiệm sống, được tích lũy tùy theo lĩnh vực mà hoạt động nên họ cần phải được đào tạo ở trình độ nhất định cùng với vị trí làm việc của mình trong bộ máy cơ quan hành chính nhà nước. Đội ngũ công chức hành chính là những người được đào tạo, bồi dưỡng ở các trường, lớp, có khả năng chuyên môn cao. Họ được tuyển dụng, đảm nhận chức vụ chuyên môn, nghiệp vụ trong cơ quan hành chính nhà nước. Họ có trách nhiệm thực hiện những hoạt động nghiệp vụ chuyên ngành, được quy hoạch đào tạo theo tiêu chuẩn cấp kiến thức nghiệp vụ với hai phân nhánh lý thuyết và thực hành. Công chức hành chính có số lượng đông và hoạt động của họ có tính quyết định đến việc hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị. Đối với công chức TP-HT, tham mưu giúp UBND cấp xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã trong lĩnh vực tư pháp và hộ tịch trên địa bàn là nhiệm vụ của họ. Công việc của công chức TP-HT phải đảm nhiệm là rất
  • 35. 27 nhiều và khá nặng nề, bởi cùng lúc, họ phải đảm nhận cả hai lĩnh vực tư pháp và lĩnh vực hộ tịch. Các công tác tư pháp luôn mang tính “hành chính trật tự” và công tác hộ tịch thì có tính ổn định, đòi hỏi chuyên môn cao. Việc phụ trách công tác tư pháp và hộ tịch đòi hỏi người công chức phải tập trung tối đa thời gian cũng như nỗ lực của bản thân. Bởi lẽ, ngoài việc giải quyết vấn đề về hộ tịch, họ phải đảm đương thêm nhiệm vụ tham mưu trong các lĩnh vực tư pháp như tuyên truyền pháp luật, hòa giải ở cơ sở, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo, theo dõi thi hành pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính... tham mưu cho chủ tịch UBND về lĩnh vực pháp lý khác như giải phóng mặt bằng, giải quyết an ninh trật tự... Do vậy, để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, công chức TP-HT phải có hiểu biết rộng hầu hết trong các lĩnh vực của đời sống xã hội ngoài lĩnh vực chuyên môn trong lĩnh vực hộ tịch. Khi trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững, tầm hiểu biết rộng về pháp luật hội tụ đủ, công chức TP-HT cần phải có vốn kinh nghiệm sống tốt thì mới có thể đáp ứng một cách toàn diện công việc mà họ giải quyết hàng ngày. Từ đó, công dân đến UBND xã thực hiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực TP-HT sẽ được phục vụ một cách nhanh chóng, hiệu quả, kịp thời và hợp tình, hợp lý. Khi thực hiện nhiệm vụ quyền hạn mà pháp luật quy định, công chức TP-HT phải trực tiếp đối diện với người dân trong các thủ tục hành chính được thực hiện thường xuyên và chủ yếu ở cấp xã như công tác giải quyết đơn thư, công tác hộ tịch phối hợp với các cơ quan tư pháp khác.... Do đó, họ thường xuyên phải chịu áp lực trong công việc khi đối diện với người dân, bởi lẽ người dân ở cơ sở thường coi trọng tình hơn là lý. Mặc dù được giải thích rõ theo quy định của pháp luật nhưng công dân thấy bất lợi cho mình liền “vin” rằng mình bị “gây khó dễ”. Đây là một công việc xảy ra ở những tình huống nhạy cảm, thậm chí có sự “đôi co” giữa công dân với công chức, trong đó có công chức TP-HT. Khi công dân cho rằng mình bị gây phiền hà, sách nhiễu, nếu như công chức TP-HT không kìm chế được cảm xúc của mình thì rất dễ xảy ra tình huống xấu này. Như vậy, công việc của công chức TP-HT ở cơ sở là khá nặng nề, không những trực tiếp giải quyết nhu cầu pháp lý của người dân mà còn phải tham mưu đắc lực, giúp chính quyền địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước. Từ
  • 36. 28 đó, GDPL cho công chức TP-HT cần phải mang những tính chất riêng biệt so với GDPL cho đội ngũ công chức hành chính nói chung. 1.3.6. Chủ thể của giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch Công chức TP-HT cũng là công chức hành chính, vì vậy, chủ thể thực hiện GDPL cho đội ngũ công chức này cũng chính là chủ thể GDPL cho đội ngũ công chức hành chính. Về mặt tổ chức, quản lý, xây dựng chương trình, kế hoạch GDPL, chủ thể của GDPL cho công chức TP-HT đó là Hội đồng phổ biến GDPL các cấp từ Trung ương đến cấp huyện với cơ quan thường trực tương ứng là Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp; hay các cơ sở đào tạo tham gia liên kết hoạt động GDPL như Học viện Tư pháp, các trường Đại học luật, khoa Luật, Học viện hành chính (nay thuộc Bộ Nội vụ), Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và cơ sở đào tạo chuyên ngành luật khác. Về yếu tố con người, chủ thể GDPL đội ngũ giảng viên, báo cáo viên pháp luật, các chuyên gia về pháp luật, Luật sư, Công chứng viên, cán bộ chủ chốt tại các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội... Các chủ thể này tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động GDPL. Thông qua các cơ quan, tổ chức, chủ thể GDPL bằng năng lực, trách nhiệm của mình để truyền đạt cho đội ngũ công chức TP-HT nội dung pháp luật cần giáo dục. 1.3.7. Đặc điểm giáo dục pháp luật cho công chức tư pháp – hộ tịch Thứ nhất, GDPL cho công chức tư pháp – hộ tịch phải coi trọng kỹ năng giao tiếp và văn hóa ứng xử của công chức tư pháp – hộ tịch Công chức TP-HT là người thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với người dân khi thực hiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực tư pháp ở cấp xã. Họ phải linh hoạt, nhạy bén với mọi tình huống đối mặt với người dân sao cho phù hợp với văn hóa ứng xử nơi công sở. Vì vậy, GDPL đòi hỏi phải tạo cho công chức TP-HT hình thành được kỹ năng lắng nghe, kỹ năng giải quyết xung đột và kỹ năng đặt câu hỏi khi thực hiện nhiệm vụ hàng ngày.
  • 37. 29 Về kỹ năng lắng nghe, giao tiếp với công dân thì công chức tư pháp – hộ tịch phải tập trung, toàn tâm, toàn ý để lắng nghe công dân trình bày nội dung sự việc. Họ phải chú ý và biết rằng công dân nói gì và thể hiện được sự mong muốn lắng nghe từ phía công dân. Thực tế, số lượng đầu việc công chức TP-HT phải làm là rất nhiều. Vì vậy, kỹ năng lắng nghe là một nội dung hết sức quan trọng cần phải thực hiện trong công tác GDPL cho đội ngũ công chức TP-HT. Qua đó, công chức TP- HT có thể hiểu, ghi nhớ nội dung sự việc được truyền tải để trả lời, giải đáp những thắc mắc của công dân. Về kỹ năng giải quyết xung đột. Những xung đột qua các vụ việc hòa giải phần lớn thể hiện thái độ giận giữ của các đối tượng. Để giải quyết xung đột, công chức TP-HT phải tìm ra giải pháp tốt nhất. Công tác GDPL phải đảm bảo hình thành được trong suy nghĩ của người công chức sự bình tĩnh, khéo léo trong từng lời nói, hành động và cử chỉ. Theo đó, công chức TP-HT tránh sự tò mò, thóc mách vào vấn đề riêng tư của đối tượng. Khi các đối tượng cần giải pháp, cần phải đặt câu hỏi để định hướng giúp họ tự tìm ra câu trả lời thay vì thay họ giải quyết vấn đề. Về kỹ năng đặt câu hỏi. Công chức TP-HT cần có sự hiểu biết về các tri thức pháp luật lĩnh vực chuyên môn cũng như các lĩnh vực khác. Qua đó, họ sẽ không bị lạc hậu, hình thành thói quen cập nhật liên tục các văn bản pháp luật, học hỏi và trau dồi thêm kiến thức. Khi có tầm hiểu biết về chuyên môn và các lĩnh vực khác, công chức TP-HT sẽ dễ dàng đặt ra các câu hỏi phù hợp trước yêu cầu giải quyết công việc của người dân. Thứ hai, GDPL cho công chức tư pháp – hộ tịch được thực hiện trong trường, lớp chính quy khi công chức tư pháp – hộ tịch học kiến thức chung về pháp luật. Tiêu chuẩn chuyên môn đối với công chức TP-HT là có trình độ từ trung cấp Luật trở lên. Tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng đã và đang có xu hướng kiện toàn đội ngũ công chức TP-HT với 100% công chức có trình độ từ đại học trở lên. Do vậy, trước khi được tuyển dụng, công chức TP-HT
  • 38. 30 thường đã qua đào tạo bài bản, chuyên sâu với các kiến thức chung về pháp luật tại các cơ sở giáo dục chuyên ngành Luật. Tại các cơ sở đào tạo chính quy về luật, công chức TP-HT đã được học tập các môn học về pháp luật từ đại cương đến chuyên ngành từng lĩnh vực khác nhau. Đây là cơ sở, nền tảng quan trọng cho chuyên môn vững vàng đối với công chức TP-HT. Sau khi có đầy đủ trình độ chuyên môn, công chức tư pháp –hộ tịch được tuyển dụng nhằm đảm bảo thực hiện tốt nhưng công việc đòi hỏi phải có chuyên ngành luật, đáp ứng được yêu cầu phức tạp, phạm vi rộng của công tác TP-HT. Thứ ba, GDPL cho công chức tư pháp – hộ tịch được thực hiện thông qua các lớp học, khóa học chuyên sâu về nghiệp vụ Công chức TP-HT tham gia các lớp học, khóa học chuyên sâu về nghiệp vụ tư pháp, nghiệp vụ hộ tịch được cấp các chứng chỉ hoạt động về một lĩnh vực chuyên ngành cụ thể. Các chứng chỉ mà họ được cấp được coi như “chứng chỉ hành nghề” đối với nghiệp vụ TP-HT. Để được cấp chứng chỉ, công chức TP-HT tham gia học tập đầy đủ, trải qua kỳ thi sát hạch về nghiệp vụ TP-HT. GDPL như vậy sẽ ghóp phần đẩy mạnh cải cách và đơn giản hóa thủ tục hành chính nói chung, tạo sự thuận lợi, giảm các chi phí nhất định, tăng cường hiệu quả của quản lý nhà nước trong công tác TP-HT. Các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu là cơ hội để đội ngũ công chức TP- HT cập nhật kiến thức, bồi dưỡng nghiệp vụ và trao đổi kinh nghiệm với các đồng nghiệp. Ví dụ: Căn cứ Quyết định Quyết định số 343/QĐ-HVTP ngày 20 tháng 4 năm 2015 của Giám đốc Học viện Tư pháp về việc mở Lớp bồi dưỡng chuyên sâu kỹ năng xử phạt vi phạm hành chính; Căn cứ Công văn số 180/HVTP-BDCB ngày 17 tháng 3 năm 2015 về việc chiêu sinh Lớp bồi dưỡng chuyên sâu kỹ năng xử phạt vi phạm hành chính; Căn cứ số lượng học viên đã đăng ký tham gia Lớp bồi dưỡng chuyên sâu kỹ năng xử phạt vi phạm hành chính tại Hà Nội thì Học viện Tư pháp đã có Thông báo số 393/TB-HVTP ngày 20/5/2015 Về lịch nhập học Lớp bồi dưỡng chuyên sâu kỹ năng xử phạt vi phạm hành chính tại thành phố Hà Nội. Thứ tư, GDPL cho công chức tư pháp – hộ tịch được thực hiện thông qua các buổi hội nghị, họp, tấp huấn theo từng chuyên đề
  • 39. 31 Các quy định của pháp luật trong lĩnh vực TP-HT có phạm vi rất rộng. Hàng năm, nhà nước ta ban hành và sửa đổi bổ sung pháp luật về lĩnh vực TP-HT để phù hợp với tình hình thực tiễn của đời sống xã hội. Do vậy, công chức TP-HT thường xuyên được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quan tâm để cập nhật đầy đủ, chính xác các quy định của pháp luật. Tại các buổi hội nghị, tập huấn, các kiến thức pháp luật theo từng chuyên đề luôn bám sát các yêu cầu từ thực tiễn. Qua đó, giúp cho công chức TP-HT nhạy bén, giải quyết công việc nhanh chóng, kịp thời để phục vụ nhân dân. Ví du: Hàng năm, các Phòng Tư pháp quận, huyện, thị xã trên địa bàn thành phố Hà Nội thường kết hợp Sở Tư pháp thành phố để tổ chức Hội nghị bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho đội ngũ công chức TP-HT, các hòa giải viên ở cơ sở. Tại hội nghị , công chức TP-HT được truyền đạt các nội dung quy định của pháp luật về công tác hòa giải ở cơ sở; hướng dẫn các kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải; Các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến công tác hòa giải ở cơ sở như: Bộ Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật nhà ở, Pháp luật về đất đai, Pháp luật về xây dựng, Pháp luật về bảo vệ môi trường cũng như giới thiệu một số tình huống thường gặp trong công tác hòa giải ở cơ sở, kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình thực hiện công tác hòa giải. Thứ năm, GDPL cho giúp cho công chức TP-HT am hiểu một cách chuyên sâu về nội dung công việc đảm nhận Tại xã, phường, thị trấn thường tập trung nhiều cán bộ, công chức và học sinh, sinh viên nên thường có nhu cầu lớn công việc về TP-HT do công chức TP-HT đảm nhận. Vì vậy, công chức TP-HT thường xuyên phải làm thêm giờ và nỗ lực mới hoàn thành nhiệm vụ được giao. Hàng ngày, công việc chủ yếu mà công chức TP- HT phải làm là giải quyết công việc liên quan đến vấn đề hộ tịch. Đội ngũ công chức TP-HT ngoài việc đảm đương thêm nhiệm vụ trong lĩnh vực tư pháp như tuyên truyền pháp luật, hòa giải cơ sở… là rất rộng và phức tạp, họ còn phải tham mưu cho chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn về lĩnh vực pháp lý khác như giải phóng mặt bằng, giải quyết an ninh trật tự...