Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, cho các bạn tham khảo
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAY
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN XUÂN HẠNH
PHæ BIÕN, GI¸O DôC PH¸P LUËT
TR£N §ÞA BµN TØNH THANH HO¸
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ
HÀ NỘI - 2014
2. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Xuân Hạnh
3. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT..... 6
1.1. Nhận thức cơ bản về phổ biến, giáo dục pháp luật.......................... 6
1.1.1. Khái niệm và các thành tố cơ bản của phổ biến, giáo dục pháp luật ......... 6
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của phổ biến, giáo dục pháp luật ............................ 7
1.1.3. Đặc điểm và các nguyên tắc của phổ biến, giáo dục pháp luật...........10
1.2. Các bộ phận cấu thành của phổ biến, giáo dục pháp luật ............15
1.2.1. Chủ thể của phổ biến, giáo dục pháp luật ...........................................15
1.2.2. Đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luật .......................................20
1.2.3. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật ...............................................22
1.2.4. Hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luâ ̣t.......................23
1.3. Các yếu tố tác động và điều kiện đảm bảo chất lƣợng, hiệu
quả phổ biến, giáo dục pháp luật.....................................................25
1.3.1. Các yếu tố tác động đến phổ biến, giáo dục pháp luật........................25
1.3.2. Các điều kiện đảm bảo hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.... 32
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HOÁ...........................................39
2.1. Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh
Thanh Hoá .........................................................................................39
2.1.1. Thực trạng công tác tổ chức triển khai phổ biến, giáo dục pháp luật ........39
2.1.2. Nội dung, đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật..............................51
4. 2.1.3. Hình thức và phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật ...................53
2.2. Nguyên nhân ƣu điểm, hạn chế trong công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá...................................64
2.2.1. Nguyên nhân của ưu điểm...................................................................64
2.2.2. Nguyên nhân của tồn tại......................................................................67
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN VỀ ĐẢM BẢO
CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HOÁ HIỆN NAY .........70
3.1. Quan điểm cơ bản về phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa
bàn tỉnh Thanh Hoá..........................................................................70
3.1.1. Phổ biến giáo dục pháp luật để đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm
vụ xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hoá trong
giai đoạn hiện nay ...............................................................................70
3.1.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm xây dựng ý thức tôn trọng,
tuân thủ Hiến pháp, pháp luật cho cán bộ, công chức và các tầng
lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá..........................................72
3.1.3. Phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao nhận thức về quyền
con người, quyền công dân và trách nhiệm của nhà nước trong
việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện ..........................................74
3.2. Một số giải pháp đảm bảo nâng cao chất lƣợng, hiệu quả phổ
biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá .................76
3.2.1. Đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất công tác phổ biến, giáo dục pháp luật .....76
3.2.2. Lựa chọn nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp......78
3.2.3. Tăng cường đổi mới các hình thức, phương pháp phổ biến, giáo
dục pháp luật .......................................................................................81
3.2.4. Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật đến từng hộ gia đình.........95
3.2.5. Định kỳ tổ chức kiểm tra, sơ kết, tổng kết công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật ..............96
5. 3.2.6. Đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất phù hợp cho phổ biến, giáo dục
pháp luật..............................................................................................97
3.2.7. Tập trung xây dựng các chương trình, đề án về phổ biến, giáo dục
pháp luật cho từng nhóm đối tượng ..................................................100
3.2.8. Hoàn thiện hệ thống pháp luật; tăng cường quyền tham gia ý kiến
của nhân dân vào dự thảo các văn bản pháp luật..............................101
3.2.9. Phổ biến, giáo dục pháp luật theo hướng làm thay đổi cách nghĩ,
cách nhìn của nhân dân đối với pháp luật.........................................102
3.2.10. Kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật với giáo dục đạo đức, học
tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ................................103
3.2.11. Đẩy mạnh xã hội hoá công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ
giúp pháp lý.......................................................................................104
3.2.12. Củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phổ
biến, giáo dục pháp luật ....................................................................106
3.2.13. Tập trung thi hành, đưa Hiến pháp năm 2013 vào cuộc sống ..........112
3.2.14. Tổ chức khảo sát tình hình phổ biến, giáo dục pháp luật .................114
KẾT LUẬN..................................................................................................116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................118
6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HĐND: Hội đồng nhân dân
MTTQ: Mặt trận tổ quốc
UBND: Ủy ban nhân dân
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phổ biến, giáo dục pháp luật là bước đầu tiên đưa pháp luật vào cuộc
sống, có vai trò, ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao nhận thức ý thức chấp
hành pháp luật của các tầng lớp Nhân dân, nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước bằng pháp luật, giữ vững an ninh , chính trị, trật tự an toàn xã hội , phát
triển kinh tế - xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa , xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Viê ̣t Nam của Nhân dân , do Nhân dân và
vì Nhân dân.
Xác định rõ vị trí vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,
trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách pháp luật, nhằm tiếp tục, thường xuyên đổi mới, tăng cường và
nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Cụ thể, Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định:
Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp
luật; huy động lực lượng của các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề
nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia các đợt vận
động thiết lập trật tự, kỷ cương và các hoạt động thường xuyên xây
dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong cơ quan nhà nước
và trong xã hội [16, tr.2].
Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân khẳng
định: “Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng” [1, tr.2].
8. 2
Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, tại Điều 2 quy định:
"Công dân có quyền được thông tin về pháp luật và có trách nhiệm chủ động
tìm hiểu, học tập pháp luật; Nhà nước bảo đảm, tạo điều kiện cho công dân
thực hiện quyền được thông tin về pháp luật" [37, Điều 2].
Nhiều văn bản pháp luật của Thủ tướng Chính phủ đã đề cập đến việc
tăng cường, đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật như: Quyết định
212/QĐ-TTg ngày 16/12/2004 cuả Thủ tướng chính phủ về chương trình
hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến
năm 2010; Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg ngày 12/3/2008 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ
năm 2008 đến năm 2012; Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP ngày 07/12/2007
của Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày
09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá IX) về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; Quyết định số 409/QĐ-TTg
ngày 09/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chương trình hành động
thực hiện Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng (khóa XI) về kết quả thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003
của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật của cán bộ, nhân dân từ năm 2012 đến năm 2016.
Trong thực tế, hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật đang còn nhiều
tồn tại, việc huy động nguồn lực cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
chưa được tiến hành một cách đồng bộ. Tổ chức, nhân lực làm công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế, kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện
dành cho công tác này còn chưa đáp ứng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ phổ
9. 3
biến, giáo dục pháp luật, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, ổn định
tình hình an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Ý thứ c chấp hành pháp luâ ̣t của một bộ phận cán bộ , công chứ c, viên
chứ c và người dân trong xã hội chưa cao , tình trạng vi phạm pháp luật vần
diễn ra trên nhiều lĩnh vực, làm ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương , hiê ̣u lực, hiê ̣u quả quản lý của Nhà nước , làm giảm
tính nghiêm minh của pháp luật.
Với các lý do trên, việc thực hiện Đề tài "phổ biến, giáo dục pháp luật
trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá" là cần thiết, nhằm hướng tới giải đáp những
câu hỏi sau:
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có vai trò, tầm quan trọng như
thế nào trong phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng, trật tự
an toàn xã hội, tăng cương pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Thực trạng công tác phổ biến giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh
Hoá hiện nay: Toàn diện trên tất cả các mặt hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật từ công tác chỉ đạo, ban hành văn bản pháp luật, kiện toàn đội ngũ làm
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, kết quả áp dụng các hình thức, nội dung,
giải pháp thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã và đang thực hiện
trên địa bàn tỉnh, tồn tại, hạn chế, nguyên nhân, giải pháp đã áp dụng.
Các giải pháp để đảm bảo nâng cao chất lượng, hiệu quả phổ biến giáo
dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
xã hội trong giai đoạn hiện nay
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá được đúng thực trạng và tập trung tìm ra các giải pháp để
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, đảm bảo
cho các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh đều được tiếp cận, tìm hiểu những
10. 4
quy định pháp luật liên quan đến đời sống, công tác của mình, qua đó góp
phần giảm bớt các hành vi vi phạm pháp luật; ổn định an ninh, chính trị, trật
tự an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
3. Tình hình nghiên cứu và những đóng góp của đề tài
Phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp
luật của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân là
một trong những nhiệm vụ cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, có
rất nhiều đề tài, bài viết nghiên cứu về lĩnh vực này đã được công bố, như:
“Bàn về hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật ở nước ta hiện nay”, Hoàng Thị
Kim Quế, Tạp chí Khoa học pháp lý - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2011; “Ý thức hiến pháp trong nhà nước pháp quyền – nhận thức và
những đặc trưng cơ bản”, Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
năm 2012; "Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật", Đào Trí úc, Hà Nội,
năm 1995; "Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở nước ta - Thực trạng
và giải pháp", Luận văn thạc sĩ của Hồ Quốc Dũng, năm 1997; "hoạt động phổ
biến, giáo dục pháp luật đối với đoàn viên, thanh niên trên địa bàn thành phố
Hà Nội trong tiến trình hội nhập phát triển của đất nước" Luận văn Thạc sĩ của
Bùi Thị Diễm Trang, Khoa Luật, 2007; "Phổ biến, giáo dục pháp luật của xã.
phường trên địa bàn thành phố Thanh Hoá", Luận văn Thạc sĩ của Đỗ Hồng kỳ,
năm 2012; "phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hà
Nội", Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Kim Ngân, năm 2013.
Đề tài "Phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá" được
lựa chọn để thực hiện sau khi Quốc hội thông qua Luật phổ biến, giáo dục
pháp luật năm 2012, có hiệu lực vào ngày 01/01/2013, cùng với nhiều văn
bản hướng dẫn thi hành Luật phổ biến, giáo dục pháp luật, có nhiều yêu cầu,
quy định mới đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Trên cơ sở cơ sở
lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật, các quy định của Luật phổ biến, giáo
dục pháp luật, qua thực tiễn phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá,
11. 5
đề tài đưa ra các giải pháp nhằm cung cấp những kiến thức khoa học về mặt
lý luận, bổ sung thêm những tri thức khoa học pháp lý, giúp cho việc nghiên
cứu hoàn thiện các chủ trương, chính sách, quy định pháp luật và cơ chế về
công tác phổ biến giáo dục pháp luật. Qua đó, tăng cường hiệu quả công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật
của cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân, góp phần giữ vững an ninh,
chính trị, trật tự an toàn xã hội, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã
hội; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu, đánh giá về sự cần thiết của công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật trong giai đoạn hiện nay và thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật
trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá từ năm 2008 đến nay; phạm vi nghiên cứu giới
hạn ở mức độ chung về các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật mà không
đi sâu vào việc nghiên cứu đánh giá phổ biến, giáo dục pháp luật từng nhóm
đối tượng cụ thể.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm rõ tất cả các nội dung nghiên cứu, học viên sử dụng các phương
pháp nghiên cứu như sau: Phương pháp duy vật biện chứng của Chủ nghĩa
Mác - Lê Nin; phương pháp điều tra, khảo sát; phương pháp thống kê;
phương pháp đọc và phân tích, tổng hợp.
6. Kết cấu Luận văn
Luận văn gồm có phần mở đầu, nội dung, phần kết luận và danh mục
về các tài liệu tham khảo. Nội dung Luận văn gồm có 3 chương như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật
- Chương 2: Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh
Thanh Hoá.
- Chương 3: Quan điểm và giải pháp cơ bản về đảm bảo chất lượng,
hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh
Thanh Hoá hiện nay.
12. 6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
1.1. Nhận thức cơ bản về phổ biến, giáo dục pháp luật
1.1.1. Khái niệm và các thành tố cơ bản của phổ biến, giáo dục pháp luật
Cho đến nay, chưa có một văn bản nào của Đảng và Nhà nước quy
định thế nào là phổ biến, giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, về mặt khoa học
pháp lý đã có rất nhiều quan điểm hiểu một cách khác nhau về phổ biến,
giáo dục pháp luật.
Theo Từ điển tiếng việt thì:
"Phổ biến" là hoạt động làm cho đông đảo người biết đến bằng
cách truyền đạt trực tiếp hoặc thông qua hình thức nào đó [59, tr.758].
"Giáo dục" là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến
sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho
đối tượng ấy dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu
cầu đề ra [59, tr.379].
Từ cách hiểu này cho thấy “phổ biến” và “giáo dục” là hai khái niệm
khác nhau nhưng xét về mặt bản chất có quan hệ chặt chẽ với nhau và thống
nhất với nhau về nhiều phương diện, như mục đích, chủ thể thực hiện, đối
tượng tác động. Chính vì vậy, trong Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm
2012 và các văn kiện của Đảng và Nhà nước đều sử dụng cụm từ chung phổ
biến, giáo dục pháp luật.
Theo “Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật” (Kỷ
yếu Dự án VIE/98/001 về Tăng cường năng lực pháp luật tại Việt Nam – giai
đoạn II”, Hà Nội, 2002), thì phổ biến, giáo dục pháp luật là một từ ghép hai từ
phổ biến pháp luật và giáo dục pháp luật, có hai nghĩa, như sau:
13. 7
- Nghĩa hẹp: Là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm
nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó
nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp
luật của đối tượng.
- Nghĩa rộng: Là công tác, lĩnh vực, ngạch (theo nghĩa thông
thường mà không phải nghĩa trong pháp luật về cán bộ, công chức)
phổ biến, giáo dục pháp luật bao gồm tất cả các công đoạn phục vụ
cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật: định hướng công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật; lập chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo
dục pháp luật; áp dụng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật;
triển khai chương trình kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật; kiểm
tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,
rút kinh nghiệm, nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ lý luận…
về phổ biến, giáo dục pháp luật [9, tr.4].
Từ thực tiễn tham gia hoạt động quản lý nhà nước về phổ biến, giáo
dục pháp luật và qua nghiên cứu các báo cáo, đề tài, sách nghiệp vụ về phổ
biến, giáo dục pháp luật từ trước đến nay thì tôi thống nhất khái niệm phổ
biến, giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng nhằm mục đích hình
thành ở đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật tri thức pháp lý, tình
cảm và hành vi phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành.
Như vậy, từ khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật được hiểu như trên thì
chúng ta thấy phổ biến, giáo dục pháp luật có các thành tố cơ bản gồm: Chủ thể;
đối tượng; nội dung; hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật.
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của phổ biến, giáo dục pháp luật
1.1.2.1. Hình thành và mở rộng hệ thống tri thức pháp luật cho đối
tượng (mục đích nhận thức)
Đây là mục đích quan trọng hàng đầu của phổ biến, giáo dục pháp luật.
14. 8
Thông qua phổ biến, giáo dục pháp luật, đối tượng được phổ biến, giáo dục
pháp luật đã trang bị cho mình những tri thức cơ bản về pháp luật như giá trị
của pháp luật, vai trò của pháp luật, các chuẩn mực pháp luật trong từng lĩnh
vực đời sống xã hội. Trên cơ sở kiến thức, thông tin pháp luật được trang bị
đã hình thành mở rộng và làm sâu sắc tri thức pháp luật, giúp đối tượng hiểu
hơn về pháp luật và biết cách đánh giá một cách đúng đắn các hành vi của
mình so với chuẩn mực pháp lý. Qua đó, góp phần định hướng cho đối tượng
có lòng tin đúng đắn vào các giá trị của pháp luật, tạo cơ sở hình thành hành
vi hợp pháp ở mỗi cá nhân.
Trong điều kiện nuớc ta hiện nay , mă ̣c dù khẩu hiê ̣u “Sống , làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật” đã ra đời từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX,
nhưng đến nay, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ, công chứ c,
viên chứ c và người dân trong xã hô ̣i chưa cao, tình trạng vi phạm pháp luật do
người dân thiếu hiểu biết pháp luật vẫn diễn ra thường xuyên , làm ảnh hưởng
tiêu cực đến sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, hiê ̣u lực, hiê ̣u quả quản
lý của Nhà nước, làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật. Trong khi đó, hoạt
động phổ biến, giáo dục pháp luật ở một số cấp uỷ, chính quyền cơ quan, đơn
vị, địa phương vẫn đang bị coi nhẹ thì mục đích này càng trở nên quan trọng.
Do đó, Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định:
Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp
luật; huy động lực lượng của các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề
nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia các đợt vận
động thiết lập trật tự, kỷ cương và các hoạt động thường xuyên xây
dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong cơ quan nhà nước
và trong xã hội [16, tr.241].
1.1.2.2. Hình thành và phát triển niềm tin pháp luật cho đối tượng (mục
đích cảm xúc)
Bản chất pháp luật của Nhà nước ta là tốt đẹp, phản ánh ý chí,
15. 9
nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân, vì lợi ích của nhân dân.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, do các nguyên nhân khác nhau, như
trình độ lập pháp, sự biến đổi nhanh của của các quan hệ xã hội… mà có
những quy định pháp luật được ban hành không phù hợp với thực tiễn cuộc
sống. Mặt khác, có nhiều trường hợp, người có kiến thức pháp luật nhưng
không có lòng tin vào pháp luật, sẵn sàng vi phạm pháp luật vì nhiều
nguyên nhân, mục đích khác nhau.
Vì vậy, phổ biến, giáo dục pháp luật, với việc phổ biến các nội dung,
thông tin pháp luật, đồng thời giáo dục tình cảm công bằng, tinh thần trách
nhiệm, ý thức đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật nhằm góp phần
hình thành, bồi dưỡng, phát triển niềm tin pháp luật cho con người. Có lòng
tin vào pháp luật, con người sẽ có hành vi phù hợp với các chuẩn mực của
pháp luật một cách tự nguyện mà không cần có sự cưỡng chế, tác động của
Nhà nước để thực hiện những quy định pháp luật đó.
1.1.2.3. Hình thành và nâng cao ý thức tự giác sống và làm việc theo
pháp luật của con người(mục đích hành vi)
Phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ là phổ biến các nội dung pháp
luật đang có hiệu lực thi hành mà còn phổ biến về tình hình thực thi pháp luật,
lên án các hành vi vi phạm pháp luật, đồng tình ủng hộ các hành vi thực hiện
đúng pháp luật. Qua đó, nâng cao nhận thức pháp luật, hình thành, củng cố
tình cảm tốt đẹp của con người đối với pháp luật, từ đó nâng cao ý thức tự
giác chấp hành pháp luật của con người.
1.1.2.4. Phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý Nhà nước, quản lý xã hội
Như chúng ta đã biết, một trong những vai trò quan trọng của pháp luật
trong đời sống xã hội là để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà
nước; là công cụ quan trọng để Nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội; đảm
16. 10
bảo cho các quan hệ xã hội ổn định và phát triển. Chỉ khi nào trong xã hội
mọi công dân đều có ý thức pháp luật, luôn tuân thủ pháp luật và có hành vi
phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của hệ thống pháp luật, mới có thể thực hiện
quản lý Nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật và điều này chỉ có thể hình
thành và thực hiện được trên cơ sở tiến hành phổ biến, giáo dục pháp luật.
Phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần đem lại cho người dân tri thức pháp
luật, nâng cao trình độ văn hoá pháp lý, ý thức pháp luật ở mỗi người dân. Từ
đó, người dân có ý thức nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; đồng thời, lấy
pháp luật làm phương tiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Như vậy, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi
cho quá trình quản lý Nhà nước, quản lý xã hội.
1.1.3. Đặc điểm và các nguyên tắc của phổ biến, giáo dục pháp luật
1.1.3.1. Đặc điểm của phổ biến, giáo dục pháp luật
- Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị
Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nước ta hiện nay, thì nói tới chính trị là nói đến sự đảm bảo sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; đảm bảo hiệu lực quản
lý của nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân đối với mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng là một hoạt động nhằm
hình thành văn hóa chính trị ở mỗi cán bộ, đảng viên và người dân để họ tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ
của Nhân dân, từ đó tích cực, chủ động, sáng tạo cống hiến cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc.
Pháp luật của Nhà nước ta là thể chế hóa đường lối chủ trương của
Đảng, ý chí của nhân dân. Đường lối chính trị của Đảng ta - chỗ dựa của công
cuộc đổi mới mọi mặt về chính trị, kinh tế, xã hội đã đi vào tất cả các mặt của
17. 11
hoạt động lập pháp, chỉ đạo nội dung của pháp luật. Vì vậy, việc hiểu được các
quy định của pháp luật cũng là hiểu về chủ trương, đường lối lãnh đạo của
Đảng, qua đó, mỗi cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân có lập trường tư
tưởng vững vàng, vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó, có thể thấy rằng ý
thức pháp luật là một bộ phận của ý thức chính trị, khi thực hiện phổ biến, giáo
dục pháp luật cũng sẽ tạo ra khả năng cho việc giáo dục chính trị tư tưởng, hình
thành ở đối tượng những sự hiểu biết nhất định về chính trị. Ngược lại, thông
qua giáo dục chính trị cũng sẽ truyền đạt đến đối tượng những tư tưởng pháp
luật nhất định. Chính vì vậy, tại Chỉ thị 32 - CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban
Bí thư Trung ương Đảng (Khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của
cán bộ, nhân dân đã khẳng định phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận
của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống
chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và Kết luận số 04-KL/TW ngày
19/4/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã khẳng định:
Nhận thức của các cấp uỷ, tổ chức đảng về vai trò, tầm quan
trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã được nâng lên
một bước; nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng đã coi phổ biến, giáo dục pháp
luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; thường
xuyên quan tâm đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy vai
trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể và các
doanh nghiệp trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện [3].
- Phổ biến, giáo dục pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với công tác
xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật
Phổ biến, giáo dục pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với công tác xây
18. 12
dựng pháp luật. Trong mối quan hệ này, chúng ta thấy, xây dựng pháp luật là
cơ sở cho việc hình thành, đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,
đưa pháp luật vào cuộc sống. Ngược lại, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật tạo cơ sở cho việc xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật. Bởi
thông qua hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật các cơ quan xây dựng pháp
luật nắm bắt được yêu cầu, nhu cầu, đề xuất từ tổ chức, cá nhân; đánh giá
được tính khả thi hiệu quả của pháp luật trong thực tế cuộc sống, từ đó góp
phần nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật còn có mối quan hệ chặt chẽ với
thực hiện pháp luật. Trong mối quan hệ này phổ biến, giáo dục pháp luật là
khâu đầu tiên trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật. Bởi, nếu cá nhân
thiếu hiểu biết pháp luật, thì không thể thực hiện đúng pháp luật. Do vậy Nhà
nước không thể quản lý xã hội bằng pháp luật. Thực tế hiện nay, một trong
những nguyên nhân của tình trạng vi phạm pháp luật là do trình độ pháp luật
của một bộ phận Nhân dân, trong đó có cả cán bộ, công chức còn thấp. Như
vậy, rõ ràng, việc phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao trình độ pháp luật cho
các tâng lớp nhân dân có quan hệ gắn bó mật thiết với việc thực hiện pháp luật.
Ngược lại công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cũng chịu ảnh hưởng
trực tiếp của hoạt động thực hiện pháp luật. Việc tổ chức thực hiện pháp luật
tốt hay chưa tốt sẽ tạo ra môi trường thuận lợi hay không thuận lợi cho việc
thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, cho qua trình xây dựng niềm
tin, tạo thành ý thức tôn trọng pháp luật của các tầng lớp nhân dân.
Trong điều kiện xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì
một trong những điều kiện quan trọng là làm sao để người dân được tham gia
tích cực vào các hoạt động quản lý xã hội bằng pháp luật. Tăng cường dân
chủ cũng có nghĩa là mở rộng sự tham gia của người dân vào các hoạt động
lập pháp, hành pháp và tư pháp, thực hiện giám sát hoạt động của các cơ quan
19. 13
nhà nước. Chính điều này đã nâng cao trách nhiệm của mỗi người trong xã
hội. Phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự
lớn mạnh của tính tích cực, đảm bảo hành trang kiến thức pháp lý cần thiết
cho sự tham gia vào các hoạt động xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật.
- Phổ biế n, giáo dụ c pháp luậ t nhằ m truyề n đ ạ t
nộ i dung pháp luậ t thông qua các hình thứ c phù hợ p, góp
phầ n nâng cao ý thứ c pháp luậ t củ a đ ố i tượng
Đây là một trong những đặc điểm quan trọng của phổ biến, giáo dục
pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật chính là phương tiện truyền tải những
thông tin, những yêu cầu, thông tin về nội dung các quy định pháp luật, ý thức
tôn trọng, chấp hành pháp luật đến với các tầng lớp nhân dân bằng các hình
thức, biện pháp phù hợp giúp họ hiểu biết, nắm bắt kịp thời mà không mất
quá nhiều thời gian, công sức, chi phí cho việc tìm hiểu, nghiên cứu.
Phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ đơn thuần là cung cấp, truyền
tải thông tin mà quan trọng hơn là nâng cao ý thức pháp luật cho các tầng lớp
nhân dân. Từ đó, hình thành ý thức tôn trọng, tự giác chấp hành pháp luật của
mọi người trong xã hội và đó cũng chính là mục đính quan trọng nhất của phổ
biến, giáo dục pháp luật.
- Trách nhiệm phổ biến, giáo dục pháp luật được giao cho các chủ thể
xác định
Chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật là những cơ quan, tổ chức, cá
nhân tổ chức thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật. Do phổ biến, giáo dục
pháp luật có nội dung rộng, hình thức đa dạng, phong phú. Vì vậy, trong điều
kiện hiện nay, để tăng cường hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật, trong các
văn bản của Đảng và Nhà nước đều xác định các cơ quan, tổ chức ở các
ngành, các cấp và mọi công dân đều tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật.
20. 14
Tuy nhiên, chủ thể có trách nhiệm phổ biến, giáo dục pháp luật theo quy định
pháp Luật phổ biến, giáo dục pháp luật là các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, gồm Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ
ban nhân dân, các sở, ban, ngành, địa phương và các cán bộ, công chức được
giao nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật trong các cơ quan Nhà nước,
người được mời tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật.
Ngoài ra các cơ quan của Quốc hội, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án
nhân dân các cấp, các tổ chức chính trị xã hội trong quá trình thực hiện chức
năng nhiệm vụ của mình cũng có trách nhiệm phổ biến, giáo dục pháp luật.
1.1.3.2. Các nguyên tắc của phổ biến, giáo dục pháp luật
"Nguyên tắc được hiểu là điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo
trong một loạt việc làm" [50, tr.672]. Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
cũng như nhiều hoạt động khác, để đảm bảo mục đích yêu cầu đặt ra, đồng
thời để nâng cao chất lượng hiệu quả, thì quá trình phổ biến, giáo dục pháp
luật phải tuân theo các nguyên tắc nhất định.
Theo quy định của Luật phổ biến, giáo dục pháp luật, thì phổ biến, giáo
dục pháp luật phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Chính xác, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, thiết thực.
- Kịp thời, thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm.
- Đa dạng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, phù hợp
với nhu cầu, lứa tuổi, trình độ của đối tượng được phổ biến, giáo dục
pháp luật và truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc.
- Gắn với viê ̣c thi hành pháp luật, thực hiện nhiê ̣m vụphát
triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước, của
địa phương và đời sống hằng ngày của người dân.
- Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan, tổ chức, gia đình và xã
hội [37, Điều 5].
21. 15
Cùng với việc quy định về nguyên tắc phổ biến, giáo dục pháp luật, để
đảm bảo hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật, Luật phổ biến, giáo dục pháp
luật cũng quy định về những hành vi bị nghiêm cấm, như sau:
- Truyền đạt sai lệch, phê phán nội dung pháp luật được phổ
biến; không cung cấp thông tin, tài liệu theo quy định của pháp luật;
cung cấp thông tin , tài liệu có nội dung sai sự thật , trái pháp luật ,
trái đa ̣o đứ c xã hội, truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
- Lợi dụng phổ biến , giáo dục pháp luật để xuyên tạc chủ
trương, đường lối của Đảng , pháp luật của Nhà nước ; tuyên truyền
chính sách thù địch, gây chia rẽ khối đa ̣i đoàn kết toàn dân tộc; xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan,
tổ chứ c, cá nhân.
- Cản trở việc thực hiện quyền được thông tin, tìm hiểu, học
tập pháp luật của công dân, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
- Lợi dụng việc thực hiện quyền được thông tin, tìm hiểu, học
tập pháp luật để gây cản trở đến hoạt động bình thường của cơ
quan, tổ chức, cá nhân, gây mất trật tự, an toàn xã hội [37, Điều 9].
1.2. Các bộ phận cấu thành của phổ biến, giáo dục pháp luật
1.2.1. Chủ thể của phổ biến, giáo dục pháp luật
Chủ thể của phổ biến, giáo dục pháp luật là tất cả những tổ chức, cá
nhân mà theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội tham gia vào việc
thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật. Theo quy định của pháp luật hiện
hành và thực tiễn phổ biến, giáo dục pháp luật có thể phân loại chủ thể phổ
biến, giáo dục pháp luật ra thành chủ thể được giao trách nhiệm, nhiệm vụ
thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật theo quy định của pháp luật và chủ thể
không được giao trách nhiệm, nhưng tự nguyện tham gia tham gia phổ biến,
22. 16
giáo dục pháp luật.
Chủ thể được giao trách nhiệm, nhiệm vụ thực hiện phổ biến, giáo dục
pháp luật theo quy định của pháp luật, gồm có chủ thể là tổ chức và chủ thể là
cá nhân. Đây là nguồn lực chủ yếu, giữ vai trò quyết định, nòng cốt trong thực
hiện phổ biến, giáo dục pháp luật.
Theo Luật phổ biến, giáo dục pháp luật (Chương III, Mục 1, từ Điều 25
đến Điều 32), thì chủ thể là tổ chức được quy định như sau:
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có
trách nhiệm: Ban hành theo thẩm quyền chương trình, đề án, kế
hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật và chỉ đạo, hướng dẫn các cơ
quan, đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý triển khai thực hiện; xác
định nội dung và hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp
với từng nhóm đối tượng; biên soạn tài liệu và phổ biến kiến thức
pháp luật chuyên ngành; bảo đảm quyền được thông tin về pháp
luật của nhân dân; tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ,
công chức, viên chức và cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng vũ trang
nhân dân thuộc phạm vi quản lý, chú trọng thực hiện thông qua phổ
biến pháp luật trực tiếp, cung cấp văn bản quy phạm pháp luật,
trang thông tin điện tử của cơ quan, các khóa học, lớp đào tạo, bồi
dưỡng, tập huấn; xây dựng, tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ báo cáo
viên pháp luật của bộ, ngành; chỉ đạo các trường, cơ sở dạy nghề
thuộc phạm vi quản lý tổ chức giáo dục pháp luật trong cơ sở giáo
dục, cơ sở dạy nghề; bố trí, chuẩn hóa, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên
dạy môn giáo dục công dân, giáo viên, giảng viên dạy pháp luật.
- Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm toán Nhà
nước có trách nhiệm: xây dựng, tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ báo
cáo viên pháp luật của ngành; tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật
23. 17
cho cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý; phổ biến
kiến thức pháp luật chuyên ngành cho nhân dân bằng hình thức phù
hợp; kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân thông qua
hoạt động chuyên môn.
- Hội đồng nhân dân các cấp có trách nhiệm: Quyết định các
biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật; phân bổ dự toán ngân sách địa phương cho công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật; giám sát việc thực hiện pháp luật về phổ biến,
giáo dục pháp luật.
- Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm: Ban hành theo
thẩm quyền chương trình, kế hoạch, đề án về phổ biến, giáo dục
pháp luật; chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức triển khai và kiểm tra công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng, tập huấn, bồi dưỡng,
quản lý đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật;
thực hiện chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy môn giáo dục công dân,
giáo viên, giảng viên dạy pháp luật theo quy định của pháp luật; tạo
điều kiện để các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp hỗ trợ cho hoạt
động phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý cán bộ, công
chức, viên chức có trách nhiệm: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho
cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thuộc phạm vi
quản lý, chú trọng thực hiện thông qua phổ biến pháp luật trực tiếp,
đăng tải thông tin pháp luật trên trang thông tin điện tử, báo, bản tin
của cơ quan, tổ chức, đơn vị (nếu có); kết hợp thực hiện phổ biến,
giáo dục pháp luật thông qua các hoạt động chuyên môn; bảo đảm
các điều kiện cần thiết cho việc tổ chức phổ biến, giáo dục pháp
luật đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động; xây
24. 18
dựng, tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên pháp luật của cơ
quan, tổ chức, đơn vị mình hoặc định kỳ mời báo cáo viên tham gia
phổ biến, giáo dục pháp luật tại cơ quan, tổ chức, đơn vị; phối hợp
với cơ quan nhà nước, tổ chức hữu quan phổ biến, giáo dục pháp
luật cho nhân dân.
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên của Mặt trận có trách nhiệm: Tổ chức phổ biến, giáo dục pháp
luật cho hội viên, đoàn viên của tổ chức mình; vận động nhân dân
chấp hành pháp luật; phối hợp với cơ quan nhà nước, tổ chức hữu
quan phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân; xây dựng, tập
huấn, bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên
pháp luật của tổ chức mình; vận động tổ chức, cá nhân, doanh
nghiệp tham gia và hỗ trợ hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật;
tham gia giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về phổ biến,
giáo dục pháp luật.
Tổ chức hành nghề về pháp luật, tổ chức xã hội nghề nghiệp
về pháp luật, cơ sở đào tạo luật, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức danh
tư pháp có trách nhiệm tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật cho
nhân dân; tổ chức phổ biến giáo dục, pháp luật thông qua hoạt động
tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý; kết hợp phổ biến, giáo dục pháp
luật thông qua hoạt động chuyên môn; tạo điều kiện cho thành viên
của tổ chức, công chức, viên chức, giảng viên, học viên, sinh viên
tham gia hoạt động tình nguyện phổ biến, giáo dục pháp luật. Cơ sở
đào tạo luật, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức danh tư pháp có trách
nhiệm tham gia bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho người làm công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân có trách
25. 19
nhiệm tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật, bố trí giáo viên dạy
môn giáo dục công dân, giáo viên, giảng viên dạy pháp luật theo
quy định của pháp luật; phối hợp với gia đình và xã hội thực hiện
mục tiêu giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ thống
giáo dục quốc dân.
- Các thành viên trong gia đình có trách nhiệm gương mẫu
chấp hành pháp luật; ông, bà, cha, mẹ có trách nhiệm giáo dục và
tạo điều kiện cho con, cháu tìm hiểu, học tập pháp luật, rèn luyện ý
thức tôn trọng, chấp hành pháp luật [37].
Chủ thể là cá nhân được giao trách nhiệm phổ biến, giáo dục pháp luật
theo quy định của Luật phổ biến, giáo dục pháp luật (Chương III, Mục 2, từ
Điều 33 đến Điều 37) gồm:
- Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp,
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm thực
hiện phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân thông qua hoạt động
tiếp xúc cử tri; giám sát việc thực hiện pháp luật.
- Cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sỹ trong lực
lượng vũ trang nhân dân có trách nhiệm tích cực tìm hiểu, học tập
pháp luật; tham gia các khóa học, lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn
về pháp luật; gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật; chủ động,
tích cực kết hợp thực hiện việc phổ biến, giáo dục pháp luật thông
qua các hoạt động chuyên môn, thực thi nhiệm vụ; hỗ trợ, giúp đỡ
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật liên quan đến lĩnh vực công tác.
- Báo cáo viên pháp luật là cán bộ, công chức, viên chức và sỹ
quan trong lực lượng vũ trang nhân dân được cơ quan có thẩm quyền
ra quyết đi ̣nh công nhâ ̣n để kiêm nhiệm thực hiện hoạt động phổ
26. 20
biến, giáo dục pháp luâ ̣t , có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ phổ
biến, giáo dục pháp luật theo sự phân công; truyền đạt chính xác nội
dung phổ biến, giáo dục pháp luật; Tuyên truyền viên pháp luật và
những người được mời tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở
có trách nhiệm tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở [37].
Chủ thể không được giao trách nhiệm, nhiệm vụ phổ biến, giáo dục
pháp luật nhưng tự nguyện tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua
các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, như các luật gia, luật sư, hoà giải viên,
người có uy tín trong cộng đồng dân cư, Bí Thư chi bộ, Trưởng thôn, bản,
khu phố, Trưởng các tổ chức chính trị xã hội ở cơ sở...chủ thể này tuy không
giữ vị trí nòng cốt trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nhưng trong
điều kiện hiện nay khi nguồn lực về kinh phí, cơ sở vật chất đầu tư cho hoạt
động phổ biến, giáo dục pháp luật chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu, thì chủ
thể này có vai trò rất quan trọng trong phổ biến, giáo dục pháp luật. Nhờ
những chủ thể này, công tác giáo dục pháp luật được triển khai rộng rãi đến
mọi tầng lớp nhân dân, góp phần tích cực nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo
dục pháp luật.
1.2.2. Đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luật
Từ khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng
nhằm mục đích hình thành ở đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật tri
thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với các quy định pháp luật hiện
hành, cho thấy, đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ là cá
nhân, nhóm cộng đồng xã hội mà còn bao gồm các yếu tố tình cảm, nhận thức
hành vi của họ.
Để công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đạt chất lượng, hiệu quả, thì
việc xác định, phân loại đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luật là hết sức
quan trọng. Trên cơ sở xác định đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật, chủ
27. 21
thể phổ biến, giáo dục pháp luật lựa chọn, nội dung hình thức, biện pháp phổ
biến, giáo dục pháp luật phù hợp, đảm bảo cho đối tượng có thể thuận tiện, dễ
dàng trong việc tiếp thu các nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật.
Trong lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật thì có nhiều cách khác
nhau để phân loại đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật (theo giới tính, lứa
tuổi, vùng miền, nghề nghiệp…). Theo quy định tại quyết định số 37/2008/QĐ-
TTg ngày 12/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phổ
biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012, thì xét theo mục tiêu
phổ biến, giáo dục pháp luật, đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật được
chia thành các nhóm như sau: người dân; cán bộ, công chức, viên chức;
người sử dụng lao động, người lao động; cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ
trang nhân dân; thanh thiếu niên; người Việt Nam ở nước ngoài và người
nước ngoài ở Việt Nam.
Mặc dù việc phân chia các nhóm đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật
chỉ là tương đối. Song, có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc nâng
cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Trong thực tế, căn cứ vào
mục tiêu, yêu cầu của phổ biến, giáo dục pháp luật mà người ta phân nhóm đối
tượng phổ biến, giáo dục pháp luật. Trên cơ sở đó, xác định các nội dung, hình
thức biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp cho đối tượng. Ví dụ như
đối với đối tượng là thanh thiếu niên thì lựa chọn những nội dung pháp luật,
như hôn nhân và gia đình, pháp luật về thực hiện nghĩa vụ quan sự, pháp luật
hình sự, lao động, văn hóa, môi trường, xã hội, an toàn giao thông, phòng
chống ma tuý, mại dân, tệ nạn xã hội...Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả phổ
biến, giáo dục pháp luật, lựa chọn được nội dung hình thức phổ biến, giáo dục
pháp luật phù hợp thì ngay trong nhóm đối tượng đã được phân chia đó, các
chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật có thể tiếp tục phân chia thành các nhóm
nhỏ hơn. Ví dụ căn cứ theo lứa tuổi thì có nhóm đối tượng phổ biến, giáo dục
28. 22
pháp luật là thanh thiếu niên, và ngay trong nhóm đối tượng này có thể phân
chia thành các nhóm đối tượng như: thanh thiếu niên tự do, sinh sống, lao động
tại địa bàn cư trú; thanh thiếu niên vi phạm pháp luật; thanh niên lao động ở
nước ngoài; thanh thiếu niên trong trường học.
1.2.3. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật
Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật được xác định trên cơ sở mục
đích, yêu cầu, nhiệm vụ của phổ biến, giáo dục pháp luật. Việc xác định nội
dung phổ biến, giáo dục pháp luật có vai trò hết sức quan trọng để nâng cao
hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật.
Về nguyên tắc, nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật phải bảo đảm bao
quát tất cả các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành. Tuy nhiên, do số
lượng văn bản quy phạm pháp luật được ban hành là quá lớn, thuộc mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội nên để công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đem lại
hiệu quả thiết thực thì cần lựa chọn các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến đời
sống, công tác và hoạt động nghề nghiệp của người được phổ biến. Theo quy
định của Luật phổ biến, giáo dục pháp luật, thì nội dung phổ biến, giáo dục
pháp luật bao gồm:
- Quy định của Hiến pháp và văn bản quy phạm pháp luật
mới được ban hành.
- Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan thiết thực đến
đời sống, công tác của cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân.
Trọng tâm là các quy định của pháp luật về dân sự, hình sự, hành
chính, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, đất đai, xây dựng, bảo
vệ môi trường, lao động, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh, giao
thông, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền hạn và trách
nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức.
- Các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
29. 23
Việt Nam là thành viên, các thỏa thuận quốc tế.
- Ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ
pháp luật; lợi ích của việc chấp hành pháp luật; gương người tốt,
việc tốt trong thực hiện pháp luật [37, Điều 10].
Như vậy, nội dung phổ biến giáo dục pháp luật không chỉ là các văn bản
pháp luật, các quy định pháp luật, mà còn bao gồm những thông tin cần thiết về
thực tiễn pháp luật: tình hình thi hành, áp dụng pháp luật trong các lĩnh vực
hoạt động xã hội; thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân; trách nhiệm của các
cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong cơ quan Nhà nước trong việc bảo
vệ, bảo đảm quyền quyền con người, quyền công dân, trong việc thực hiện
chức trách, nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật; công tác tổ chức
triển khai thi hành Hiến pháp, mà trong giai đoạn hiện nay là công tác triển
khai thi hành Hiến pháp 2013 theo các Nghị quyết của Quốc hội, Chỉ thị của
Ban Bí Thư Trung ương Đảng, các Kế hoạch Chương trình triển khai thi hành
Hiến pháp của Chính phủ, các bộ, ngành trung ương và địa phương.
Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp thì tất cả các nội dung phổ
biến, giáo dục pháp luật đều phải được phổ biến, giáo dục cho các đối tượng,
mà tuỳ thuộc vào mục đích yêu cầu của phổ biến, giáo dục pháp luật, nhu cầu
tìm hiểu pháp luật của từng nhóm đối tượng, tuỳ từng thời điểm mà lựa chọn
các nội dung và mức độ phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp để mang lại
hiệu quả thiết thực cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
1.2.4. Hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục phá p luật
“Hình thức” là cách thể hiện, cách tiến hành một hoạt động
[50, tr.427].
“Phương pháp” là hệ thống các cách sử dụng để tiến hành
một hoạt động nào đó [50, tr.766].
Từ các khái niệm trên thì có thể hiểu hình thức phổ biến, giáo dục pháp
30. 24
luật là các dạng hoạt động cụ thể để tổ chức quá trình phổ biến, giáo dục pháp
luật, để thể hiện nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật. Phương pháp phổ
biến, giáo dục pháp luật là hệ thống các cách thức sử dụng để tiến hành hoạt
động giáo dục pháp luật.
Từ cách hiểu này cho thấy, hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật
không chỉ phụ thuộc vào việc lựa chọn nội dung pháp luật phù hợp mà còn phụ
thuộc vào việc vận dụng hình thức và phương pháp phổ biến, giáo dục pháp
luật phù hợp. Bởi vì, để chuyển tải được nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật
đến đối tượng, giúp đối tượng hiểu và vận dụng một cách nhanh nhất, đòi hỏi
phải vận dụng hình thức, phương pháp phù hợp trong từng điều kiện, hoàn
cảnh và với từng nhóm đối tượng cụ thể. Trên cơ sở đó, chúng ta xác định được
tính phù hợp giữa hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật với đối
tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật, yêu cầu về nội dung quy định pháp
luật cần phổ biến đến đối tượng nhóm dân cư xác định, trình độ của đối tượng
được phổ biến, điều kiện kinh tế, địa lý và hoàn cảnh thực tế của đối tượng, địa
bàn, trang thiết bị tại địa bàn phổ biến, giáo dục pháp luật.
Theo quy định của Luật phổ biến, giáo dục pháp luật, thì hình thức phổ
biến, giáo dục pháp luật bao gồm:
Họp báo, thông cáo báo chí; phổ biến pháp luật trực tiếp; tư
vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu pháp
luật; phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các phương tiện thông
tin đại chúng, loa truyền thanh, internet, pa-nô, áp-phích, tranh cổ
động; đăng tải trên Công báo; đăng tải thông tin pháp luật trên trang
thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của cơ quan, tổ chức,
khu dân cư; tổ chức thi tìm hiểu pháp luâ ̣t ; thông qua công tác xét
xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các cơ quan
31. 25
trong bộ máy nhà nước ; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý , hòa
giải ở cơ sở ; lồng ghép trong hoạt động văn hóa , văn nghệ, sinh
hoạt của tổ chức chính trị và các đoàn thể , câu la ̣c bộ, tủ sách pháp
luật và các thiết chế văn hóa khác ở cơ sở; thông qua chương trình
giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục
quốc dân; các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật khác phù hợp
với từng đối tượng cụ thể mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền có thể áp dụng để bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật đem lại hiệu quả [37, Điều 11].
1.3. Các yếu tố tác động và điều kiện đảm bảo chất lƣợng, hiệu quả
phổ biến, giáo dục pháp luật
1.3.1. Các yếu tố tác động đến phổ biến, giáo dục pháp luật
1.3.1.1. Công tác tổ chức chỉ đạo triển khai phổ biến, giáo dục pháp
luật của các cấp uỷ đảng, chính quyền
Công tác tổ chức chỉ đạo triển khai phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp
uỷ đảng, chính quyền là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến
chất lượng, hiệu quả của phổ biến, giáo dục pháp luật. Thực tế cho thấy, khi
cấp ủy các cấp ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo triển khai phổ biến, giáo dục
pháp luật thì công tác này sẽ được tổ chức một cách thường xuyên, có kế
hoạch, đồng bộ, thống nhất, từ việc xác định nội dung, hình thức phổ biến,
giáo dục pháp luật, phân công trách nhiệm thực hiện cho đến việc xây dựng,
bố trí, phát triển nguồn nhân lực, đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất cho công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật.
Trong những năm gần đây, để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, Ban
Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp
32. 26
luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; Kết luận số
04-KL/TW ngày 19/4/2011 về kết quả thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày
09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, khẳng định phổ biến, giáo dục
pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm
vụ thường xuyên, liên tục của các cơ quan Đảng, Nhà nước và cả hệ thống
chính trị, thể hiện sự đổi mới về nhận thức của Đảng ta đối với công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật.
Để triển khai thực hiện Chỉ thị này, Chính phủ ban hành Nghị quyết số
61/2007/NQ-CP ngày 07/12/2007 về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-
CT/TW; Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg ngày 16/12/2004 phê duyệt
Chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm
2005 đến năm 2010; Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg ngày 12/3/2008 phê
duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012;
Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09/4/2012 ban hành Chương trình hành
đô ̣ng thực hiện Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng (khóa XI), trong đó có nhiều đề án về phổ biến, giáo dục pháp
luật. Bên cạnh đó, các bộ, ngành, đoàn thể ở trung ương và các địa phương đã
ban hành nhiều Chương trình, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật.
Trên cơ sở quán triệt sâu sắc các văn bản chỉ đạo của Ban Bí thư Trung
ương Đảng, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương, các cấp ủy
đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên ở các địa phương trong cả nước cũng
như ở tỉnh Thanh Hóa đã ngày càng nhận thức sâu sắc về tầm quan trong, vai
trò, vị trí của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, có ý nghĩa rất lớn phục vụ
cho các nhiệm vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo ổn định tình
hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Chính vì vậy, cấp uỷ, chính
quyền các cấp đã tập trung chỉ đạo, tổ chức đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo
33. 27
dục pháp luật một cách thường xuyên, bằng nhiều hình thức phong phú đa
dạng cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động và các tầng
lớp nhân dân. Đi đôi với việc quan tâm chỉ đạo thực hiện phổ biến, giáo dục
pháp luật, cấp uỷ, chính quyền chỉ đạo tổ chức theo dõi, kiểm tra, đôn đốc
thường xuyên việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ cơ, xây dựng, thực hiện
hương ước, quy ước, xây dựng đơn vị an toàn làm chủ, thực hiện tốt công tác
cải cách hành chính và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số cấp uỷ, chính quyền cơ quan, đơn
vị, đơn vị, địa phương chưa thực sự đầy đủ và chưa tương xứng với vị trí, vai
trò, tầm quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, cho rằng đây là
nhiệm vụ của riêng cơ quan Tư pháp. Vì vậy, chưa quan tâm, chủ động tích
cực trong chỉ đạo, tổ chức triển khai công tác này. Điều đó đã làm ảnh hưởng
đến hiệu quả, chất lượng chung về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong
giai đoạn hiện nay.
1.3.1.2. Điều kiện tự nhiên, văn hoá - xã hội
Điều kiện tự nhiên, địa hình, giao thông đi lại cùng với điều kiện về
văn hoá xã hội là một trong những yếu tố tác động đến chất lượng, hiệu quả
phổ biến, giáo dục pháp luật. Nhìn chung, ở địa phương nào có điều kiện tự
nhiên, giao thông đi lại thuận lợi, kinh tế, văn hoá xã hội phát triển, trình độ
dân trí cao và đồng đều thì sẽ tạo điều kiện, góp phần tăng cường hiệu quả
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và ngược nếu địa phương nào có điều
kiện tự nhiên khó khăn, không thuận lợi, kinh tế, văn hoá xã hội kém phát
triển thì sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng không phải khi trình độ kinh tế, văn hoá phát
triển thì sẽ hoàn toàn có tác động thuận lợi đến phổ biến, giáo dục pháp luật.
Ví dụ như khi kinh tế xã hội phát triển sẽ kèm theo mặt trái của nó là các tệ
nạn xã hội, ý thức coi thường, bất chấp quy định pháp luật… điều đó sẽ ảnh
34. 28
hưởng đến phổ biến, giáo dục pháp luật. Chính vì vậy, mà trong từng điều
kiện cụ thể, đòi hỏi các chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật phải có sự chỉ
đạo, tổ chức, triển khai phù hợp với tình hình thực tế.
Tại Thanh Hóa, có dân số đông trên 3,8 triệu người, địa bàn hành chính
rộng, chia thành các vùng miền khá rõ rệt, gồm miền núi, trung du đồng bằng
và ven biển, với số lượng lớn các đơn vị hành chính địa phương, gồm 27
huyện, thị xã, thành phố và 637 xã, phường, thị trấn, 6.042 thôn, bản, khu
phố. Trong đó có có 11 huyện miền núi và 7 huyện đồng bằng trung du có xã
miền núi dân số khoảng 1.074.022 người. Các dân tộc thiểu số có dân số
tương đối nhiều như: Dân tộc Mường có 364.622 người, Dân tộc Thái có
223.165 người, Dân tộc Mông có 14.917 người, Dân tộc Thổ có 11.530
người, Dân tộc Dao có 6.215 người, Dân tộc Khơ Mú có 978 người. Còn lại
21 dân tộc thiểu số khác có 4.493 người. Trong đó Dân tộc Tày 444 người,
Nùng 151 người, Hoa 327 người, Khơ Me 31 người, Gia Rai 27 người, Ê Đê
68 người…. ít nhất là Dân tộc Tà Ôi có 02 người... Có 9 huyện đồng bằng,
trong đó có 6 huyện, thị xã ven biển với 47 xã, phường và 401 thôn, khu phố.
Dân số các xã, phường ven biển là 411.659 người, đồng bào theo đạo công
giáo chiếm tỷ lệ 7,1%. Kinh tế xã hội của tỉnh đang từng bước phát triển. Đời
sống của nhân dân ngày càng được cải thiện.
Phong tục tập quán , truyền thống dân tộc , đó là lòng yêu nước , truyền
thống "lá lành đùm lá rách ", tinh thần tương thân tương ái , ý chí đấu tranh
chống ngoại xâm kiên cường, tinh thần đoàn kết...Truyền thống tốt đẹp đó
luôn được người dân tỉnh Thanh Hoá phát huy. Đại đa số, người dân luôn tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, điều đó đã tạo điều kiện thuận
lợi cho công tác giáo dục pháp luật.
Tuy nhiên, hiện nay, đời sống nhân dân ở một số vùng miền núi, nông
thôn còn gặp nhiều khó khăn đó tác động đến tư tưởng, tâm lý, lối sống của
35. 29
người dân trong sinh hoạt, sản xuất. Thực tế đó dẫn đến việc tổ chức triển
khai, tiếp nhận và xử lý các thông tin kinh tế - xã hội, pháp luật của nhân dân
các dân tộc ở các vùng, miền trên địa bàn tỉnh bị hạn chế. Mặt khác, sự phát
triển của kinh tế thi ̣trường kèm theo những mặt xấu của nó như các tệ nạn xã
hội, các hành vi suy đồi đạo đức, thái độ bất chấp, coi thường pháp luật, các
hành vi vi phạm pháp luật thường xuyên diễn ra . Chính vì thế mà việc thay
đổi thói quen , nếp sống, xây dựng ý thức tự giác chấp hành pháp luật của
người dân là việc rất khó khăn, đòi hỏi phải thực hiện lâu dài, thường xuyên.
Đông thời, vấn đề đó cũng đã đặt ra cho người làm công tác phổ biến ,
giáo dục pháp luật nhiệm vụ là cần phải kết hợp một cách hài hòa giữa truyền
thống dân tộc, phong tục tập quán, đạo đức với phổ biến, giáo dục pháp luật
cho phù hợp với sự phát triển của xã hội trong thời kỳ phát triển, hội nhập kinh
tế - quốc tế. Đây là điều mà chúng ta đã, đang và sẽ phải làm cho tốt. Như vậy,
mới góp phần phát huy tối hiệu quả công tác giáo dục pháp luật trên thực tế.
1.3.1.3. Điều kiện kinh tế- xã hội
Điều kiện kinh kiện -xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến giáo dục pháp
luật. Kinh tế - xã hội phát triển , thì đầu tư kinh phí , cơ sở vật chất phục vụ
hoạt động giáo dục pháp luật sẽ đầy đủ , hiện đại, nếu kinh tế kém phát triển
thì cơ sở vật chất phục vụ việc giáo dục pháp luật sẽ thiếu thốn , lạc hậu, công
tác giáo dục pháp luật sẽ không thu được kết quả cao.
Ở tỉnh Thanh Hoá, trong những năm gần đây kinh tế xã hội ngày càng
phát triển, tốc độ tăng trưởng bình quân nhanh, thể chế kinh tế thị trường tiếp
tục được hoàn thiện. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, đời
sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Nguồn lực cơ sở vật chất đầu tư để
thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, trong đó có nhiệm vụ công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật ngày càng được quan tâm củng cố, tăng
cường, đã tạo điều kiện cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
36. 30
Tuy nhiên, do đặc điểm chung cuả cả nước cũng như tỉnh Thanh Hoá đi
lên phát triển từ một nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu. Vì vậy, mặc
dù đã có nhiều cố gắng nhưng kinh tế - xã hội chưa phát triển mạnh, đảm bảo
được các mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra:
Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm; các cân đối vĩ mô chưa thật
vững chắc; chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý. Những hạn chế,
yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ, văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường chậm được khắc phục; tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, suy thoái
đạo đức, lối sống... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Thể chế kinh tế
thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những
điểm yếu cản trở sự phát triển [19, tr.17].
Chính vì vậy, hiện nay kinh phí, cơ sở vật chất đầu tư cho công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật chưa thực sự đáp ứng yêu cầu. Điều đó đã làm ảnh
hưởng đến hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật
1.3.1.4. Trình độ dân trí
Trình độ dân trí là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả phổ biến,
giáo dục pháp luật. Trình độ dân trí cao sẽ thuận lợi cho việc tổ chức triển
khai cũng như các hoạt động tiếp thu các nội dung pháp luật của chủ thể thực
hiện phổ biến, giáo dục pháp luật và đối tượng tiếp thu các nội dung phổ biến,
giáo dục pháp luật. Trình độ dân trí thấp sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả phổ biến,
giáo dục pháp luật. Vấn đề này cũng đặt ra yêu cầu đối với người làm công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật là phải tổ chức vận dụng các hình thức,
phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp cho từng đối tượng có
trình độ khác nhau.
37. 31
Tại Thanh Hoá, nhìn chung, trình độ nhận thức của người dân hiện nay
không đồng đều và còn thấp, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi. Nhiều tập
tục, thói quen sinh hoạt lạc hậu ở miền núi, nông thôn vẫn duy trì và tồn tại,
có nơi coi trọng tập tục địa phương hơn pháp luật. Nhiều người dân, nhất là ở
vùng nông thôn, đồng bào dân tộc miền núi chưa có ý thức tìm hiểu pháp luật.
Bởi do coi pháp luật là sự gò bó, là để trừng phạt các hành vi vi phạm ảnh
hưởng đến an ninh trật tự, xã hội mà chưa hiểu rằng pháp luật là để bảo vệ,
tạo điều kiện cho người dân thực hiện hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh
doanh, bảo vệ, bảo đảm an toàn cho người dân trong đời sống xã hội. Chính
vì vậy, người dân ở các vùng miền này ít quan tâm tới pháp luật, chỉ khi có
việc liên quan hoặc vướng mắc pháp luật mới tìm hiểu pháp luật để bảo vệ
quyền lợi của mình, hoặc tìm cách tránh khỏi bị xử lý theo quy định của pháp
luật của pháp luật. Vì thế mà việc thay đổi thói quen , nếp sống, ý thức đó của
người dân là việc không phải dễ dàng.
Trong khi đó, một thời gian dài công tác giáo dục pháp luật chưa được
coi trọng đúng mức . Vì vậy, trong thời gian tới, công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật cần được thực hiện thường xuyên, liên tục, bằng nhiều hình thức thì
mới mang lại hiệu quả thiết thực.
1.3.1.5. Nội dung, hình thức và phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật
Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật xét về số lượng cũng như tính
đồng bộ là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của phổ
biến, giáo dục pháp luật. Trong những năm gần đây, để đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, Nhà nước ban hành rất nhiều
văn bản pháp luật. Điều đó, cũng đặt ra nhiệm vụ nặng nề cho công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật, đưa pháp luật đến với các tầng lớp nhân dân để họ
hiểu biết và thực hiện.
38. 32
Tuy nhiên, trong điều kiện nay, khi Nhà nước vẫn đang giữ vai trò
nòng cốt trong phổ biến, giáo dục pháp luật và nguồn nhân lực, cơ sở vật chất
đầu tư cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có hạn, trong khi, chúng ta
vẫn chủ yếu đang ứng dụng các hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục
pháp luật truyền thống mà chưa tìm tòi, sáng tạo ra hình thức phổ biến, giáo
dục pháp luật mới có hiệu quả thì việc phổ biến kịp thời các nội dung pháp
luật cần thiết pháp đến các tầng lớp nhân dân là điều rất khó thực hiện.
1.3.1.6. Tình hình thực thi, chấp hành pháp luật, vấn đề xử lý vi phạm
pháp luật
Một số cán bộ và nhân dân nhận thức pháp luật chưa đi đôi với hành
động. Tình hình vi phạm pháp luật vẫn diễn biến phức tạp, trong đó một bộ
phận cán bộ, đảng viên, công chức còn vi phạm pháp luật. Một số người lợi
dụng kẽ hở của luật pháp để trục lợi cá nhân. Bên cạnh đó, việc xử lý một số
vụ việc vi phạm pháp luật, đặc biệt là một số vụ việc liên quan đến cán bộ,
đảng viên không nghiêm minh, thiếu chính xác đã ảnh hưởng không nhỏ đến
niềm tin của nhân dân đối với pháp luật, ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật.
1.3.2. Các điều kiện đảm bảo hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật
1.3.2.1. Nhận thức chung về hiệu quả của phổ biến, giáo dục pháp luật
“Hiệu qủa” là kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại [50, tr.424].
Về hiệu quả của phổ biến, giáo dục pháp luật, có nhiều quan điểm nhận thức
khác nhau. Trên cơ sở nghiên cứu về mặt lý luận của phổ biến, giáo dục pháp
luật và qua thực tiễn công tác về lĩnh vực phổ biến, giáo dục pháp luật, tôi
hoàn toàn thống nhất quan điểm:
Hiệu quả của phổ biến, giáo dục pháp luật là kết quả có thể
đạt được dưới sự tác động định hướng của phổ biến, giáo dục pháp
39. 33
luật nhằm cung cấp cho các cá nhân kiến thức pháp luật, kỹ năng
pháp luật cần thiết, hình thành ở họ thái độ, tình cảm, niềm tin pháp
luật và hành vi phù hợp pháp luật với chi phí về vật chất, tinh thần
thấp nhất [23, tr.4].
Hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật cần được nhận thức, đánh giá
trên cả hai phương diện, là: Phương diện kết quả đạt được so với yêu cầu,
mục đích của văn bản pháp luật, các quy định pháp luật tương ứng và phương
diện hiệu quả xã hội đạt được từ kết quả thực hiện các quy định pháp luật.
Song, thông thường khi nói về hiệu quả của phổ biến, giáo dục pháp luật thì
chúng ta thường đề cấp đến phương diện kết quả đạt được so với yêu cầu,
mục đích của văn bản pháp luật, các quy định pháp. Còn về phương diện hiệu
quả xã hội của phổ biến, giáo dục pháp luật cơ bản bản lại phụ thuộc vào hiệu
quả xã hội của chính các quy định pháp luật được phổ biến, giáo dục cho đối
tượng. Bởi, về mặt lý luận cũng như trên thực tế, nếu các quy định pháp luật
đã lỗi thời, lạc hậu thì việc phổ biến, giáo dục pháp luật và thực hiện các quy
định đó cũng không mang lại lợi ích cho xã hội.
Về hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật, xét trên phương diện thực
hiện đúng các yêu cầu, mục đích của các quy định pháp luật tương ứng, thì:
Hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật cần được đánh giá trên
từng mục đích cơ bản của phổ biến, giáo dục pháp luật: mục đích
nhận thức, mục đích thái độ, tình cảm, niềm tin pháp luật và mục đích
hành vi phù hợp pháp luật. Đây chính là “bộ ba mục đích“ của phổ
biến, giáo dục pháp luật. Như vậy mới thật sự khách quan, toàn diện
và công bằng đối với hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật [23, tr.5].
Theo đó, để đánh giá được hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật phải
dựa trên các tiêu chí sau:
Tiêu chí thứ nhất: về trạng thái tri thức ban đầu của đối tượng khi chưa
40. 34
được phổ biến, giáo dục pháp luật.
Tiêu chí thứ hai: về trạng thái thái độ, tình cảm pháp luật ở đối tượng
phổ biến, giáo dục pháp luật trước khi được phổ biến, giáo dục pháp luật
nhằm xây dựng, củng cố niềm tin vào pháp luật. Điều này thể hiện tình cảm
pháp luật công bằng, sự không khoan nhượng đối với mọi hành vi vi pháp luật
và tình cảm trách nhiệm là một trong những chỉ số để đánh giá hiệu quả của
hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật.
Tiêu chí thứ ba: về trạng thái của động cơ và hành vi tích cực pháp luật
ở đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật. Hiệu quả của hoạt động phổ biến,
giáo dục pháp luật được đánh giá thông qua việc thực hiện các hành vi tích
cực pháp luật ở đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật. Các đối tượng
được phổ biến, giáo dục pháp luật sẽ hình thành thói quen kiềm chế không
thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm; thực hiện nghĩa vụ pháp lý và tích
cực sử dụng các quyền của mình một cách có văn hóa, đạo đức.
1.3.2.2. Các điều kiện đảm bảo hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật
- Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật:
Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật là yếu tố đảm bảo cho
công tác giáo dục pháp luật. Một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất,
khả thi sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi cho công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật, đưa pháp luật vào cuộc sống, bởi dễ được người dân đồng tình, ủng hộ
và tự giác chấp hành.
Ngày nay, kinh tế xã hội của nước ta đang trong thời kỳ phát triển
mạnh, với nhiều quan xã hội đa dạng, phức tạp thì việc phải kịp thời ban hành
đầy đủ các quy định pháp luật tạo ra hành lang pháp lý đồng bộ , tạo thuận lợi
cho các tổ chức , cá nhân hoạt động ngày càng trở nên quan trọng , cấp thiết.
Tuy nhiên, việc ban hành quá nhiều văn bản pháp luật cũng như các chương
trình, kế hoạch của nhà nước cần triển khai, thực hiện cùng một thời điểm,
41. 35
trong khi điều kiện nhân lực, vật lực có hạn, hệ thống pháp luật nước ta chưa
đồng bộ, chất lượng các văn bản luật chưa cao, thường xuyên sửa đổi, bổ
sung, chậm đi vào cuộc sống...do vậy, đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả
triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Nội dung, hình thức và phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật
phù hợp:
Để phát huy hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật phải căn cứ vào từng
nhóm đối tượng cụ thể để lựa chọn nội dung pháp luật phù hợp với nhu cầu
của họ để phổ biến. Đồng thời, tuỳ vào từng thời điểm cụ thể, trên cơ sở
nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội mà các cấp uỷ, chính quyền đã đề ra để
xác định nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật cần tập trung phổ biến. Có
như vậy, mới thu hút sự quan tâm tham gia nghiên cứu, tìm hiểu học tập, nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật của đối tượng; phục vụ có hiệu quả các nhiệm
vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội.
Cùng với việc xác định nội dung pháp luật thì phải lựa chọn hình thức
và phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp. Do hiểu biết và nhận
thức của các đối tượng khác nhau trong xã hội là không giống nhau. Vì vậy,
khi phổ biến, giáo dục pháp luật cần xuất phát từ yêu cầu phổ biến của nội
dung quy định pháp luật cần phổ biến đến đối tượng xác định; trình độ văn
hóa và nhận thức của đối tượng được phổ biến; điều kiện kinh tế, địa lý và
hoàn cảnh thực tế của đối tượng; năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác
phổ biến giáo dục pháp luật để lựa chọn hình thức, phương pháp phù hợp.
Đây là điều kiện quan trọng để đảm bảo hiệu quả của công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật.
Tại Thanh Hoá, trong những năm qua để nâng cao hiệu quả công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật, các cấp ủy, chính quyền luôn quan tâm lựa chọn
nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp trong từng thời điểm cho từng
nhóm đối tượng. Cụ thể, bên cạnh việc quan tâm tổ chức chỉ đạo, triển khai có
42. 36
hiệu quả các chương trình phổ biến giáo dục pháp luật của Chính phủ, cấp uỷ,
chính quyền tỉnh Thanh Hoá đã chỉ đạo xây dựng và tổ chức triển khai nhiều
Đề án, chương trình phổ biến giáo dục pháp luật riêng phù hợp với điều kiện
của tỉnh trên cơ sở phân nhóm đối tượng và địa bàn để lựa chọn nội dung,
hình thức và phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp nhằm nâng
cao hiệu quả tuyên truyền pháp luật cho cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh
như: Đề án "Nâng cao nhận thức pháp luật cho đồng bào dân tộc miền núi
Thanh Hóa"; Đề án "Nâng cao nhận thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân
các xã, phường ven biển"; Đề án “củng cố, kiện toàn nâng cao hiệu quả hoạt
động hoà giải ở cơ sở”.
- Văn bản pháp luật (cơ sở pháp luật) về phổ biến, giáo dục pháp luật:
Văn bản, quy định pháp luật về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
hoàn thiện là một trong những điều kiện quan trọng để đảm bảo quả hiệu quả
phổ biến, giáo dục pháp luật. Trong những năm trước đây các quy định pháp
luật về phổ biến, giáo dục pháp luật còn thiếu, chưa có văn bản quy phạm
pháp luật có hiệu lực pháp lý cao như nghị quyết hay Luật của Quốc hội, nên
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là trong
việc xác định và phân công trách nhiệm của các sở, ban, ngành, ngành, địa
phương, các tổ chức, cá nhân trong phổ biến, giáo dục pháp luật.
Đến năm 2012, Quốc hội nước ta mới ban hành Luật phổ biến, giáo dục
pháp luật. Sau đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/2013/NĐ-CP ngày
04/04/2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật phổ biến,
giáo dục pháp luật; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
09/2013/QĐ-TTg ngày 24/01/2013 quy định về chuẩn tiếp cận pháp luật của
người dân tại cơ sở; Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 21/2013/TT-BTP quy
định quy định trình tự, thủ tục công nhận, miễn nhiệm báo cáo viên pháp luật;
công nhận, cho thôi làm tuyên truyền viên pháp luật và một số biện pháp bảo
đảm hoạt động của báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật; Bộ
43. 37
trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Thông tư liên tịch số
14/2014/TTLT – BTP - BTC quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và
quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở… đã tạo
điều kiện thuận lợi cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, đầu tư kinh phí,
cơ sở vật chất, xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phổ biến, giáo
dục pháp luật.
Tuy nhiên hiện nay, pháp luật về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
vẫn chưa thực sự đầy đủ, còn thiếu các quy định về cơ chế huy động nguồn
đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân cho công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật; thiếu quy định về cơ chế phối hợp, tiêu chí chất lượng, xử lý trách
nhiệm trong phổ biến, giáo dục pháp luật… Điều này đã làm ảnh hưởng đến
hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
- Nguồn nhân lực cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật:
Tổ chức bộ máy, số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật có ảnh hưởng trực tiếp, quyết định đến công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật. Tại Thanh Hoá, hiện nay, tổ chức bộ máy làm công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật được quan tâm kiện toàn. Vai trò của cơ quan
Tư pháp trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ngày càng được phát
huy. Bên cạnh đó, các tổ chức pháp chế ở các sở, ban, ngành đã và đang được
thành lập theo quy định của pháp luật; các cơ quan, đơn vị đều đã giao cho
cán bộ, công chức làm đầu mối tham mưu tổ chức triển khai công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật. Đội ngũ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
đang ngày càng được củng cố, tăng cường số lượng, nâng cao về trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật, có phẩm chất đạo đức
tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng. Đây là điều kiện thuận lợi, để tổ chức triển
khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đạt hiệu quả.
Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay, cũng như nhiều địa phương
44. 38
khác, tại Thanh Hoá, chưa có một cơ chế đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch lâu
dài nguồn nhân lực cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Chế độ, chính
sách cho báo cáo viên, tuyên truyền viên còn thiếu, chưa thực sự khuyến
khích và phát huy được tiềm năng của đội ngũ làm công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật. Một số sở, ban, ngành, địa phương chưa thực sự quan tâm tập
huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật
để nâng cao chất lượng cho đội ngũ này. Vì vậy, số lượng cũng như chất
lượng đội ngũ này chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu, đã ảnh hưởng đến việc
nâng cao hiệu quả của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Kinh phí, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật:
Kinh phí, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật là một trong những điều kiện cần thiết để đảm bảo cho công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật được triển khai thường xuyên và đạt hiệu quả.
Trong những năm gần đây, đặc biệt từ khi có Chỉ thị số 32-CT/TW
ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và các Chương trình,
Đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ, việc đầu tư kinh phí
cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được tăng cường. Các ngành, các
cấp đã chủ động trong việc bố trí ngân sách hàng năm cho công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật. Ngoài khoản ngân sách Nhà nước cấp cho hoạt động phổ
biến, giáo dục pháp luật, có địa phương còn nhận được hỗ trợ từ phía doanh
nghiệp, cá nhân trong nước và nước… Điều đó, đã góp phần đảm bảo hiệu
quả phổ biến, giáo dục pháp luật ngày càng tăng.
Tuy nhiên, nhìn chung, hiện nay ở các địa phương trong cả nước cũng
như tỉnh Thanh Hoá, cơ sở vật chất nói chung cũng như nguồn kinh phí, cơ sở
vật chất đầu tư cho hoạt động giáo dục pháp luật còn thiếu và gặp nhiều khó
khăn, chủ yếu vẫn từ ngân sách nhà nước . Vì vậy, đã ảnh hưởng không nhỏ