SlideShare a Scribd company logo
1 of 88
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THANH THẢO
CÁC TỘI XÂM PHẠM
NHÂN PHẨM CỦA TRẺ EM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THANH THẢO
CÁC TỘI XÂM PHẠM
NHÂN PHẨM CỦA TRẺ EM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS TRẦN VĂN ĐỘ
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thanh Thảo
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN
PHẨM TRẺ EM..........................................................................................................7
1.1. Khái niệm các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em....................................................7
1.2. Cơ sở quy định các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em..........................................10
1.3. Các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em ..........................15
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC
TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM TRẺ EM Ở TỈNH QUẢNG NAM.................26
2.1. Thực trạng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em ...............26
2.2. Thực tiễn xét xử các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em ở tỉnh Quảng Nam .........37
CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
XÉT XỬ CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM TRẺ EM.................................56
3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng xét xử các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em.........56
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ
em................................................................................................................................61
KẾT LUẬN................................................................................................................72
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS : Bộ luật Dân sự
BLHS : Bộ luật Hình sự
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
BVTE : Bảo vệ trẻ em
CTTP : Cấu thành tội phạm
CULHQVQTE : Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em
ĐCS : Đảng cộng sản
LTTHS : Luật tố tụng hình sự
NCTN : Người chưa thành niên
PLHS : Pháp luật hình sự
TAND : Toà án nhân dân
TNHS : Trách nhiệm hình sự
TTATXH : Trật tự an toàn xã hội
VAHS : Vụ án hình sự
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
XPNP : Xâm phạm nhân phẩm
XPNPTE : Xâm phạm nhân phẩm trẻ em
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là thế hệ mầm non - tương lai của đất nước, cần được chăm sóc, giáo
dục, bảo vệ trong những điều kiện tốt nhất bởi gia đình, nhà trường và xã hội. Pháp
luật Nhà nước CHXHCN Việt Nam luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến trẻ em, xem
trẻ em là nguồn hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước, là lớp người kế
tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời trang bị hành lang pháp luật
để BVTE khỏi sự xâm hại, đặc biệt là xâm hại nhân phẩm.
Theo Tổng cục Thống kê, đến năm 2018 quy mô dân số nước ta đạt
96.963.958 người, trong đó trẻ em dưới 16 tuổi khoảng 34,23 triệu người, chiếm
33,2% dân số. Với xu hướng cơ cấu dân số trẻ, sự phát triển của trẻ em càng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Do đó, công
tác chăm sóc, giáo dục và BVTE luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, ưu tiên
hàng đầu trong chiến lược phát triển con người [48].
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng đó mang lại những thành tựu to lớn
về kinh tế, xã hội. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong suốt hai thập kỷ
qua, đời sống nhân dân đang ngày một nâng cao, nhận thức và hành động trong
công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của toàn xã hội đã có những chuyển
biến mạnh mẽ. Công tác lập pháp và giám sát về BVTE của Quốc hội được tăng
cường. CULHQVQTE và Luật trẻ em 2016 đang đi vào cuộc sống. Môi trường,
điều kiện sống và phát triển của trẻ em ngày càng được cải thiện nhờ những giải
pháp mạnh mẽ, quyết liệt.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được, trong những
năm qua, những thách thức đối với vấn đề bảo vệ trẻ em lại đang diễn ra phức tạp
trên cả 3 cấp độ: BVTE đang bị xâm hại; BVTE có nguy cơ bị xâm hại và BVTE ở
cộng đồng. Tình trạng trẻ em bị lạm dụng và xâm hại về thể chất, tinh thần, nhân
phẩm với chiều hướng ngày càng gia tăng và phức tạp. Nghị quyết số 09, ngày 31
tháng 7 năm 1998 của Chính Phủ về tăng cường công tác phòng chống tội phạm
2
trong tình hình mới đã nêu XPNPTE là một trong những loại phạm tội gây ra rất
hậu quả nghiêm trọng, khiến dư luận xã hội quan tâm, lo lắng, nên cần tập trung
giải quyết [9]. Vì vậy, đấu tranh phòng chống tội phạm XPNPTE được xác định là
1 trong 4 đề án được quan tâm giải quyết.
Quảng Nam là tỉnh thuộc vùng đồng bằng duyên hải miền Trung, phía Bắc
tiếp giáp với trung tâm hành chính, kinh tế lớn thành phố Đà Nẵng, tình hình tội
phạm XPNPTE trong một thập kỷ (từ 2008-2018) vừa qua diễn biến khá phức tạp,
số lượng các vụ án tăng nhanh, từ 25 vụ 36 bị cáo trong năm 2008 đã tăng lên 36 vụ
47 bị cáo trong năm 2018 với tính chất và mức độ ngày càng nghiêm trọng. Diễn
biến gia tăng về số vụ phạm tội một mặt phản ánh công tác đấu tranh, khởi tố điều
tra, truy tố và xét xử các vụ án XPNPTE trong những năm qua tại Quảng Nam đã có
những tiến bộ, nhưng mặt khác cũng cho thấy tình hình tội phạm XPNPTE đã và
đang diễn biến phức tạp, điều đó cũng có nghĩa là công tác đấu tranh, phòng ngừa,
điều tra, truy tố và xét xử các vụ án XPNPTE gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại và
còn một số hạn chế, chưa thực sự chủ động trong việc ngăn chặn và và kiểm soát tội
phạm XPNPTE.
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn công tác ngành Tòa án, Học viên thấy rằng
vấn đề xâm phạm nhân phẩm của trẻ em đang là điểm nóng trong xã hội cần được
quan tâm. Vì vậy, học viên quyết định chọn đề tài “Các tội xâm phạm nhân phẩm
của trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm đề tài nghiên cứu khoa học và luận
văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật học của Học viện khoa học xã hội .
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
* Các sách chuyên khảo:
- “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)”, GS. TSKH. Lê
Cảm chủ biên, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001 [13].
- Trường Đại học Luật Hà Nội, “Giáo trình luật hình sự Việt Nam”, NXB.
CAND, Hà Nội, 2009 [12].
- “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm)”,
của ThS.Đinh Văn Quế, Nxb. TP.HCM, năm 2002, tái bản năm 2010 [24].
3
- Bình luận khoa học “Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)” của
GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, 2014 [52].
- So sánh đối chiếu Bộ luật hình sự 1999, 2015 và Bộ luật hình sự sửa đổi
năm 2017 của NXB Hồng Đức, Hà Nội năm 2017 [37].
* Dưới góc độ đề tài khoa học và Luận án tiến sỹ, Luận văn thạc sỹ:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp khoa “tội phạm xâm hại tình dục trẻ em tại
Hà Nội- thực trạng và một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác
phòng ngừa, ngăn chặn của lực lượng Cảnh sát Hình sự Công an thành phố Hà
Nội” của Hoàng Tâm, Nguyễn Nhật Quang, Bùi Tiến Đạt năm 2004 [39].
- Luận án tiến sĩ Luật học: "Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con
người theo pháp luật hình sự Việt Nam", của tác giả Vũ Hải Anh, Học viện khoa
học xã hội, năm 2017 [1].
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Các tội xâm hại tình dục trẻ em trong Luật hình
sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Hương, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà
Nội, năm 2014 [17].
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con
người theo Luật hình sự Việt Nam, trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk
Lắk” của tác giả Nguyễn Đình Cương, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, năm
2015 [11].
- Luận văn thạc sỹ luật học: “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con người trong Luật hình sự Việt Nam, trên cơ sở số liệu
thực tiễn địa bàn tỉnh Yên Bái” của tác giả Lê Thái Hưng, Khoa luật, Đại học quốc
gia Hà Nội, năm 2015 [16].
- Luận văn thạc sỹ luật học: "Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt
Nam (trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn tỉnh Thái Nguyên)”, của tác giả Dương Văn
Thịnh, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2016 [40].
- Luận văn thạc sỹ luật học: "Tội mua dâm người dưới 18 tuổi theo pháp luật
hình sự Việt Nam" của tác giả Nguyễn Hồng Nhung, Viện hàn lâm, khoa học xã hội
Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, năm 2018 [23].
4
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy ở nước ta đã có một
số công trình nghiên cứu cơ bản về tình hình các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ
em. Nhưng đối với việc nghiên cứu các tội phạm về XPNPTE tại một địa phương
cụ thể, thì chưa có một công trình nào nghiên cứu đặc biệt là đề tài “Các tội xâm
phạm nhân phẩm của trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, phân tích các quy định của PLHS
Việt Nam và đánh giá thực tiễn xét xử VAHS về các tội phạm XPNPTE trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam, Luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm việc xác định tội
danh và áp dụng hình phạt đối với các tội phạm XPNPTE theo PLHS Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, phân tích khái niệm và dấu hiệu pháp lý của các tội phạm
XPNPTE, phân biệt từng tội phạm XPNPTE với nhau.
- Nghiên cứu và phân tích về lịch sử phát triển của pháp luật Việt Nam tháng 8
năm 1945 đến ngày 01.01.2018, khi BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 có
hiệu lực) về “Các tội phạm xâm phạm nhân phẩm trẻ em”.
- So sánh những quy định của PLHS Việt Nam với một số nước trên thế giới
về các tội phạm XPNPTE.
- Đánh giá thực tiễn xét xử các VAHS về các tội phạm XPNPTE ở tỉnh Quảng
Nam, trong đó tập trung nghiên cứu, phân tích việc định tội danh và áp dụng hình
phạt.
- Đưa ra các giải pháp đảm bảo việc định tội danh và áp dụng hình phạt đối
với các tội phạm XPNPTE.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề lý luận, quy định của PLHS Việt Nam về các tội phạm
XPNPTE từ tháng 8 năm 1945 đến nay. Trong đó luận văn tập trung nghiên cứu
một số vấn đề lý luận về các tội phạm XPNPTE trong BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung
5
2009), so sánh với quy định về các tội phạm XPNPTE trong BLHS 2015 (sửa đổi,
bổ sung 2017, có hiệu lực từ ngày 01.01.2018). Đồng thời, nghiên cứu thực tiễn áp
dụng các quy định của pháp luật hình sự về “Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ
em” ở tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2008 - 2018.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực tiễn thụ lý xét xử các tội phạm XPNPTE tại Tòa án
nhân dân các cấp tỉnh Quảng Nam từ năm 2008 đến năm 2018 và những văn bản
quy phạm pháp luật về thụ lý và xét xử các vụ án XPNPTE trong khoảng thời gian
từ năm 2008 đến năm 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Luận văn nghiên cứu trên cơ sở những quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về Nhà
nước và pháp luật, về đấu tranh, phòng chống tội phạm xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự nhân phẩm con người nói chung và các tội phạm XPNPTE nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở kết
hợp giữa phương pháp nghiên cứu lý thuyết và phương pháp nghiên cứu thực tiễn
lấy phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng thông qua đó có sự
phân tích, tổng hợp theo từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Ngoài ra luận văn cũng sử
dụng các phương pháp của các bộ môn khoa học khác như phương pháp lịch sử, so
sánh, hệ thống hóa, logic và thống kê kết hợp với khảo sát thực tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm đa dạng thêm cơ sở lý luận và
góp ý kiến để nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về “Các tội phạm xâm
phạm nhân phẩm trẻ em”. Bên cạnh đó cũng có thể sử dụng Luận văn này làm tài
liệu học tập và nghiên cứu.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn góp phần nâng cao hiệu quả xét xử các
VAHS nói chung và các tội phạm XPNPTE nói riêng. Bên cạnh đó có thể dùng làm
tài liệu để trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung những chế định của pháp luật
liên quan đến các tội phạm XPNPTE trong pháp luật hình sự Việt Nam.
6
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được cấu thành bởi các bộ phận như sau:
Mở đầu
Chương 1: Các vấn đề lý luận về các tội phạm xâm phạm nhân phẩm trẻ em
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn xét xử các tội phạm xâm phạm
nhân phẩm trẻ em ở tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng xét xử xét xử các tội
phạm xâm phạm nhân phẩm trẻ em.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
7
CHƯƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM TRẺ EM
1.1. Khái niệm các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em
1.1.1. Khái niệm trẻ em trong pháp luật hình sự Việt Nam
Quá trình phát triển về thể chất và tâm sinh lý của con người từ khi được sinh
ra đến khi chết đi trải qua các giai đoạn khác nhau, trong đó giai đoạn trẻ em là thời
kỳ phát triển đầu tiên trong cuộc đời mỗi con người.
Theo quy định tại Điều 1 CULHQVQTE 1989 thì: “Trong phạm vi Công ước
này trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ
em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn” [19, tr.14]. Nghĩa là, các quốc gia phê
chuẩn hoặc tham gia Công ước này đều phải tuân thủ theo quy định về độ tuổi của
trẻ em là dưới 18 tuổi.
Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn
CULHQVQTE Trở thành thành viên của Công ước, hệ thống pháp luật trong nước
đã quy định độ tuổi của trẻ em là dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, cho đến nay trong nền
khoa học pháp lý nước ta có thể nói chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh và thống
nhất về trẻ em, cụ thể là trong việc xác định ranh giới lứa tuổi của trẻ em.
Ở Việt Nam vấn đề quy định độ tuổi được coi là "Trẻ em" được quy định tại
Luật trẻ em 2016, quy định tại Điều 1 “Trẻ em là người dưới 16 tuổi” [36].
Trên thực tế, ở mỗi một ngành luật chuyên ngành khác nhau thì tùy theo mức
độ tiếp cận mà có những quy định liên quan đến độ tuổi và các quyền và nghĩa vụ
của trẻ em là khác nhau, như: BLHS 2015; Luật Lao động 2012, Luật Thanh niên
2005, BLDS 2015, Luật Giáo dục 2009 (dự thảo sửa đổi 2018), Luật Quốc tịch
2008 (sửa đổi bổ sung 2017) cũng có những quy định lứa tuổi được coi là trẻ em
phù hợp với góc độ tiếp cận của ngành luật đó….
Khái niệm "Trẻ em" không được quy định cụ thể trong Pháp luật hình sự Việt
Nam nhưng tại các Điều luật có liên quan nhà làm luật đưa ra nhiều lối tư duy khác
8
nhau để định nghĩa về trẻ em; tương ứng với mỗi CTTP, khái niệm“Trẻ em” cũng
được mô tả không giống nhau và để có thể đưa ra một khái niệm về trẻ em, trước
hết cần tìm hiểu những đặc điểm tâm sinh lý và xã hội, pháp lý của lứa tuổi này.
Các nghiên cứu khoa học ghi nhận lứa tuổi trẻ em có các đặc điểm như sau:
- Về thể chất: Phân kỳ phát triển cơ thể thì giai đoạn trẻ em trải qua nhiều thời
kỳ. Thời kỳ sơ sinh (từ lúc lọt lòng đến 01 tháng tuổi); thời kỳ bú mẹ (từ 1 - 12
tháng tuổi); thời kỳ răng sữa (từ 12- 60 tháng tuổi); thời kỳ thiếu niên (từ 7- 15
tuổi); thời kỳ dậy thì (lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông). Như
vậy, trẻ em là giai đoạn chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, các cơ quan trong cơ
thể đang trong quá trình xác lập, phân định và hoàn thiện về chức năng sinh lý, do
đó sức đề kháng và khả năng chống chọi với các tác động bất lợi của môi trường,
điều kiện sống của trẻ còn thấp hơn so với người trưởng thành. Vì vậy, những tác
động xấu của môi trường lên cơ thể trẻ em thường gây nên những hậu quả bất lợi
cho sự phát triển bình thường của cơ thể, thậm chí gây ra những di chứng cho giai
đoạn phát triển tiếp theo.
- Về tâm lý: Lứa tuổi trẻ em là thời kỳ lĩnh hội, tiếp nhận những tác động của
môi trường và điều kiện sống, những kinh nghiệm xã hội, lịch sử để định hình lên
những phẩm chất tâm lý nói chung và đặc điểm nhân cách nói riêng. Những phẩm
chất, đặc điểm này ở trẻ được hình thành qua quá trình giáo dục ở gia đình, nhà
trường và sự tác động của môi trường xã hội xung quanh trẻ. Khi đã được định
hình, chúng có ảnh hưởng rất lớn trong giai đoạn phát triển tiếp theo. Nên ảnh
hưởng tích cực hay tiêu cực của môi trường sống là nhân tố quan trọng, trực tiếp tác
động tới quá trình hình thành phẩm chất tâm lý và nhân cách ở trẻ em.
- Đặc điểm về xã hội - pháp lý: Vì chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, tâm
lý, trẻ không có hoặc chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Nghĩa là, bằng hành
vi của mình, trẻ không thể, hoặc chưa thể xác lập được một cách đầy đủ quyền và
nghĩa vụ pháp lý của mình khi tham gia các quan hệ dân sự. Nên cần có người giám
hộ đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ, đồng thời gánh chịu thay những
hậu quả pháp lý do hành vi của trẻ gây nên ở lứa tuổi này, hoạt động xã hội của trẻ
9
em chủ yếu vẫn trong phạm vi nhà trường và sinh hoạt tại nơi cư trú. Trẻ thường
sống phụ thuộc gia đình, tuy nhiên do các lý do khác nhau mà có cháu phải tự lập
kiếm sống, không được đi học, thiếu sự chăm sóc, giáo dục và bảo vệ của gia đình
và nhà trường.
Từ các đặc điểm nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về trẻ em như sau:“Trẻ em
là người dưới 16 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tâm lý, không có
hoặc chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, thiếu khả năng tự bảo vệ nên dễ bị
tội phạm xâm hại, cần có sự bảo vệ đặc biệt của pháp luật”.
Theo học viên khái niệm về Trẻ em trong PLHS Việt Nam là: "Trẻ em trong
pháp luật hình sự Việt Nam là người từ khi sinh ra đến dưới 16 tuổi".
1.1.2. Khái niệm nhân phẩm trẻ em
Nhân phẩm con người là gì? Nhân phẩm là giá trị làm người của mỗi cá nhân,
do vậy nhân phẩm không những phụ thuộc vào mỗi cá nhân mà nó còn phụ thuộc
vào quan niệm của xã hội và của giai cấp.
Ở mỗi con người chúng ta luôn có những phẩm chất nhất định, những phẩm
chất này làm nên giá trị của cá nhân (con người), gọi là nhân phẩm, là toàn bộ
những phẩm giá, giá trị làm người của mỗi con cá nhân.
Từ những phân tích đánh giá nêu trên về Khái niệm nhân phẩm và Khái niệm
trẻ em được quy định tại Điều 1 Luật trẻ em Việt Nam 2016. Học viên xin mạnh
dạn đưa ra Khái niệm nhân phẩm trẻ em: "Nhân phẩm trẻ em là phẩm giá, giá trị
tinh thần, lương tâm trong sáng của người dưới 16 tuổi".
1.1.3. Khái niệm các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em
Tội phạm là gì? Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội và chịu các hình
phạt theo quy định của BLHS - Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 [28].
Khái niệm các tội phạm XPNPTE được nghiên cứu nhằm để chỉ một nhóm
hành vi tội phạm cụ thể, xâm hại quyền, lợi ích một loại đối tượng cụ thể là trẻ em.
Các loại hành vi XPNPTE được quy định tại các Điều luật cụ thể như: Hiếp dâm
người dưới 16 tuổi (Điều 142 BLHS); Dâm ô với người dưới 16 tuổi (Điều 146
BLHS); Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13
10
tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS); Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi (Điều 144 BLHS); Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm
(Điều 147 BLHS) và Mua dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Vậy tội phạm
XPNPTE nghĩa là người phạm tội đã thực hiện những hành vi như: cố ý cưỡng bức,
lợi dụng sự kém hiểu biết trẻ em để xâm phạm đến nhân phẩm của trẻ em.
Từ những phân tích trên đây, học viên xin đưa ra khái niệm về các tội phạm
XPNPTE như sau: “Các tội phạm xâm phạm nhân phẩm trẻ em là các hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người không ở trong tình
trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm
đến các quyền, lợi ích cấu thành nhân phẩm của trẻ em”.
Tội phạm nói chung và các tội phạm XPNPTE nói riêng diễn ra trên thực tế rất
đa dạng, xâm hại đến nhiều loại khách thể khác nhau, BLHS 2015 không đặt ra một
chương riêng về tội phạm XPNPTE, nhưng căn cứ vào các tiêu chí khác nhau có thể
phân chia các tội phạm XPNPTE thành hai nhóm như sau:
Nhóm thứ nhất, các tội được quy định bằng Điều luật cụ thể: Tội “Hiếp dâm
người dưới 16 tuổi" (Điều 142); tội “Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi” (Điều 144); tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dùng khác với
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" (Điều 145); tội "Dâm ô đối với người dưới 16
tuổi" (Điều 146) và tội "Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm" (Điều
147) v.v. [28].
Nhóm thứ hai, các tội quy định XPNPTE là tình tiết định khung tăng nặng:
Tội "Mua bán người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục" (điểm b khoản 1 Điều 151);
Tội“Mua dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”(điểm b, khoản 2, Điều 329).
1.2. Cơ sở quy định các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em
1.2.1. Cơ sở chính trị - xã hội
- Chăm lo, giáo dục và BVTE luôn là một ưu tiên trong chiến lược phát triển
con người ở nước ta. Đảng và Nhà nước luôn xác định chăm lo cho thế hệ trẻ là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm, là mục tiêu của mọi thời kỳ cách mạng và mang
dấu ấn đặc thù của tư tưởng Hồ Chí Minh, Người nói: “Bồi dưỡng thế hệ cách
11
mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” và: “Vì lợi ích mười
năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
Tại Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, đặc biệt là Chỉ thị số 197/CT-TW
19/3/1960 về công tác thiếu niên, nhi đồng của Đảng - lần đầu tiên công tác thiếu
niên, nhi đồng được đề cập một cách toàn diện và đầy đủ trong một văn kiện của
Đảng, thể hiện mối quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta đối với việc đào tạo,
bồi dưỡng lớp người mới phục vụ cho sự nghiệp xây dựng XHCN. Từ đó đến nay
Đảng đã có rất nhiều chỉ thị về công tác thiếu niên, nhi đồng. Đến năm 1979 Đảng
và Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em - đây
chính là nền tảng pháp lý đầu tiên để BVTE.
Đại hội Đảng lần thứ tư (1986), Đảng và Nhà nước ta tiến hành công cuộc đổi
mới trên nhiều phương diện, trong đó chính thức nhắc đến các quy định pháp luật
về quyền trẻ em. Như vậy nghĩa vấn đề BVTE cũng là một bộ phận quan trọng của
công cuộc đổi mới này. Từ đó, quyền trẻ em với tư cách là quyền con người được
thảo luận công khai và rộng rãi và được ghi nhận, quy định cụ thể các quyền của trẻ
em trong pháp luật Việt Nam. Đầu tiên về thành tựu lập pháp, hàng loạt các văn bản
có hiệu lực pháp lý cao đó ra đời, nhằm thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng
về trẻ em vào trong hệ thống pháp luật cho phù hợp với điều kiện mới, đó là BLHS
1985, Luật Hôn nhân gia đình 1986, Luật Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân
1988. Đặc biệt là khi CUQTVQTE ra đời, nhằm cụ thể hoá các quy định của Công
ước vào hệ thống pháp luật quốc gia, Nhà nước ta đã ban hành Luật Bảo vệ, chăm
sóc, giáo dục trẻ em 1991, Luật Phổ cập giáo dục tiểu học 1991, Luật Giáo dục
1998. Ngày 30/5/1994 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã ra Chỉ thị số
38/CT-TW về “tăng cường công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em”; phát
động “tháng hành động vì trẻ em” từ ngày 15/5 đến ngày 30/6 hàng năm. Sau khi sơ
kết 04 năm thực hiện chỉ thị 38/CT- TW, Bộ Chính trị đã ra Thông tri số 04/TT-TW
về: “tăng cường lãnh đạo công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”.
Trong giai đoạn hiện nay, công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em đặt trước
những thách thức mới, Đảng đã ban hành những văn bản quan trọng giúp định
12
hướng hành động cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Ngày 28 tháng 6 năm 2000 Bộ
Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 55, trong đó trong tâm nêu rõ các cơ sở Đảng phải
nâng cao công tác BVTE. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hiện nay nhiều Chương trình
hành động Quốc gia vì trẻ em trên các lĩnh vực như giáo dục, y tế, dinh dưỡng được
tổ chức thực hiện, ví dụ như “Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2001-
2010”; “Chương trình hành động quốc gia vỡ trẻ em giai đoạn 2001-2010”; Chiến
lược chăm sóc sức khoẻ sinh sản quốc gia 2001-2010”.
Như vây, Chủ tịch Hồ Chí Minh và ĐCS Việt Nam đã thấy rõ vai trò của trẻ
em trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Cho nên Đảng và Nhà nước
qua nhiều giai đoạn lịch sử, luôn coi trọng BVTE bà đề ra những đường lối, chính
sách cụ thể tạo nên một quá trình đồng bộ, nhất quán và toàn diện hướng tới một
chế độ chính trị, pháp lý hoàn chỉnh cho công tác BVTE.
1.2.2. Cơ sở pháp lý
- Ngày 20/02/1990 Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã phê chuẩn
CULHVQTE 1989. Từ đó hệ thống pháp luật quốc gia ở nước ta đã tích cực “nội
luật hoá” tinh thần và nội dung của Công ước này. Hàng loạt văn bản pháp luật
quan trọng như Hiến pháp; Luật trẻ em; Luật Quốc tịch; Luật Phổ cập giáo dục tiểu
học; Luật Lao động; Luật Dân sự, được ban hành và sửa đổi, đều quan tâm thích
đáng đến quyền lợi của trẻ em. Có thể tìm hiểu quyền trẻ em được quy định trong
một số ngành luật sau:
Hiến pháp là đạo luật gốc, quy định những vấn đề quan trọng mang tính
nguyên tắc, làm cơ sở cho các ngành luật khác. Các quyền cơ bản nhất của trẻ em
đã được quy định trong Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013, chẳng hạn như khoản 1
Điều 37 Hiến pháp 2013 quy định: "Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm
xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những
hành vi khác vi phạm quyền trẻ em".
Tại Điều 5 Luật trẻ em Việt Nam năm 2016 đã quy định tập trung nhất về các
quyền cơ bản của trẻ em và trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và xã hội trong việc
13
bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em như: Không được phân biệt đối xử đối với trẻ em
… Và tại Điều 6 Luật này lại quy định các hành vi bị nghiêm cấm: Không xâm hại
tình dục trẻ em…; Còn tại Chương II của Luật trẻ em đã dành 24 Điều (từ Điều 12
đến Điều 36) để quy định các quyền dành cho trẻ em như: quyền được khai sinh và
có quốc tịch .v.v. Còn tại Chương III và Chương IV của thì về trách nhiệm chăm
sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em; thực hiện quyền của trẻ em; các hành vi bị nghiêm
cấm; trách nhiệm quản lý Nhà nước về bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em.v.v..
Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật
nhằm điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình. Trong Luật này, trẻ em được sự
bảo hộ pháp lý đặc biệt. Điều 2 Luật này quy định Nhà nước và xã hội không thừa
nhận sự phân biệt đối xử giữa các con; Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm
BVTE. Điều 68 và 69 quy định cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con. Các Điều
75; 76; 77 Luật này ghi nhận về quyền có tài sản riêng, việc quản lý tài sản riêng và
định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên. Tại Điều 90 quy định về quyền
nhận cha, mẹ của con.
Qua những quy định trên, ta thấy trong chính sách pháp luật nước ta, quyền
của trẻ em luôn được đề cao, tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Xuất phát từ truyền
thống, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, với bản chất ưu việt của Nhà nước
XHCN, hệ thống pháp luật nước ta đã quy định một cách thống nhất và đồng bộ về
quyền của trẻ em, cũng như quy định trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ
chức và mọi công dân bảo đảm cho các quyền của trẻ em được thực hiện trên thực
tế, hợp với những chuẩn mực giá trị nhân văn của nhân loại.
1.2.3. Cơ sở thực tiễn
Vì trẻ em là con người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể chất cũng như
tâm sinh lý, nên khi trẻ bị XPNP sẽ dẫn đến những hậu quả rất nghiêm trọng tác
động trực tiếp đến tâm sinh lý của trẻ em khiến trẻ em dễ bị mặc cảm, phát triển
không bình thường, khó hoà nhập với xã hội, tổn thương về sức khoẻ thể chất, và
gây ra những tổn thương nặng nề về tinh thần ... nhất là đối với trẻ em nữ bị xâm
14
hại tình dục có thể làm nạn nhân có thai khi chưa phát triển đầy đủ thể trạng và
chưa có sự hiểu biết về sức khỏe sinh sản dẫn đến việc phải nạo phá thai ngoài ý
muốn hoặc sinh ra những em bé phát triển không bình thường. Những trường hợp
XPNPTE đi kèm với bạo lực có thể dẫn tới tử vong.
Theo số liệu thống kê, dân số Việt Nam tính đến hết năm 2018 có 96.963.958
người, trong đó trẻ em dưới 16 tuổi khoảng 34,23 triệu người, chiếm 33,2% dân số
[48]. Ý thức được tầm quan trọng của công tác BVTE, Chính phủ đã tích cực đề ra
nhiều giải pháp để hạn chế sự lạm phát trong các loại tội phạm có đương sự là trẻ
em nói chung và các tội phạm XPNPTE nói riêng. Nhưng do tình hình tội phạm
XPNPTE có xu hương ngày diễn biến phức tạp do sự phát triển của khoa học công
nghệ, điện tử tin học giúp cho tội phạm dễ dàng trong việc đưa ra những vỏ bọc
ngụy trang, che dấu tinh vi các thủ đoạn phạm tội và phương thức tiếp cận để lôi
kéo, dụ dỗ trẻ em thậm chí sau khi tội phạm XPNPTE đã có những hành vi dùng
mạng xã hội (Internet) để không chế các em. Do vậy đòi hỏi công tác nghiên cứu
lập pháp nhất là trong lĩnh vực hình sự cần phải đượcr sửa đổi, bổ sung, thay thế kịp
thì mới có thể góp phần nhanh chóng xử lý và có chế tài đủ mạnh đối với tội phạm
XPNPTE.
1.2.4. Hội nhập quốc tế
Từ năm 1986 đến nay nước ta đã tích cực mở rộng mối quan hệ với nhiều
quốc gia trên thế giới như Mỹ, Pháp, Trung Quốc …, không còn bó hẹp trong phạm
vi các nước XHCN. Đặc biệt là việc sau khi Việt Nam ký kết CUQTVQTE, Chính
Phủ Việt Nam đã nhanh chóng đưa quyền trẻ em vào hệ thống pháp luật Việt Nam
nói chung và pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng.
Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề mà CUQTVQTE và luật pháp quốc tế liên
quan đến quyền trẻ em tuy đã được quy định trong Luật trẻ em 2016 và một số Luật
khác của Việt Nam nhưng chỉ mang tính nguyên tắc, chưa được thể hiện một cách
cụ thể và thiếu các quy định về biện pháp thúc đẩy thực hiện, dẫn đến có nhiều cách
hiểu khác nhau và rất khó thống nhất trong việc thể chế hóa trong các văn bản
hướng dẫn thực hiện luật. Một số vấn đề quan trọng liên quan đến thực hiện quyền
15
được bảo vệ, quyền tham gia của trẻ em mới được cộng đồng quốc tế đề cập đến
trong thời gian từ 2008 đến nay và đang được thực hiện ở Việt Nam chưa được đề
cập đầy đủ.
Pháp luật về các tội phạm XPNPTE là phương tiện để thực hiện sự cam kết và
hòa nhập giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, bảo đảm việc bảo vệ quyền
trẻ em ở mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Trong điều kiện hiện nay, nhiều nội
dung cụ thể của quyền trẻ em cũng như việc bảo vệ quyền trẻ em đòi hỏi phải có sự
đấu tranh, hợp tác giải quyết, phối hợp của nhiều quốc gia hoặc cộng đồng quốc tế.
Những nội dung này đều là những vấn đề đòi hỏi cần có sự hợp tác, phối hợp của
các quốc gia với nhau trong cộng đồng thế giới.
1.3. Các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em
1.3.1. Khách thể của tội phạm:
Tội phạm XPNPTE xâm hại trực tiếp đến quyền bất khả XPNP, danh dự,
quyền tự do, quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, quyền được phát triển và
các quyền, lợi ích hợp pháp khác của trẻ em được pháp luật bảo hộ; gây ảnh hưởng
tiêu cực đến sự phát triển bình thường về thể chất, tâm, sinh lý, thậm chí gây ra hậu
quả là những di chứng nguy hại cho quá trình phát triển tiếp theo của các em; đi
ngược lại đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc chăm sóc, giáo
dục và bảo vệ trẻ em; gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với tình hình
TTATXH. Khách thể trực tiếp của mỗi một tội phạm XPNPTE cụ thể được xác
định căn cứ vào quyền, lợi ích cụ thể bị hành vi phạm tội đó xâm hại. Như hành vi
hiếp dâm người dưới 16 tuổi xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục của
người dưới 16 tuổi (trẻ em).
Đối tượng của tội phạm (bị hại) là người dưới 16 tuổi. Tuy nhiên, tuỳ theo tội
phạm cụ thể mà độ tuổi bị hại có khác nhau: đối tượng của tội hiếp dâm, tội dâm ô,
tôi sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiếu dâm là người dưới 16 tuổi; đối
tượng của tội cưỡng dâm, tội giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục, tôi mua dâm
là người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi…
16
1.3.2. Mặt khách quan của tội phạm:
Hành vi khách quan của tội phạm XPNPTE thường diễn ra dưới dạng hành
động phạm tội. Trên thực tế, hành vi xâm hại rất đa dạng, tội phạm thường được
thực hiện bằng bạo lực; bằng thủ đoạn lợi dụng sự non nớt, chưa phát triển hoàn
thiện về thể lực và trí lực, tình trạng không thể tự vệ được của trẻ em (người dưới
16 tuổi), thủ đoạn lợi dụng điều kiện hoàn cảnh khách quan thuận lợi, trẻ em không
có người bảo vệ.
Trong số các tội XPNPTE có nhiều tội mang tính bạo lực, đó có thể là hành vi
đối xử tàn ác, bạo hành đối với trẻ em gây đau đớn về thể xác, khủng hoảng về tinh
thần như bắt trói, đánh đập, bỏ đói…; dùng sức mạnh vật chất tác động lên cơ thể
trẻ em (như vật ngã, khoá trói, giữ chân tay…) để đè bẹp sự kháng cự vốn đã rất yếu
ớt của trẻ; đe doạ dùng vũ lực (như dùng lời nói, cử chỉ, động tác…) uy hiếp tinh
thần, gây ra cho trẻ sự sợ hãi khiếp đảm; hoặc dùng các thủ đoạn khác (như đầu
độc, cho uống thuốc mê, chất kích thích…) để đẩy trẻ em lâm vào tình trạng không
thể kháng cự nhằm thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi dạng này thường gặp trong
các vụ án hiếp dâm người dưới 16 tuổi, cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi; Lợi dụng sự yếu đuối, non nớt, thiếu kinh nghiệm sống của trẻ em để lừa gạt,
dụ dỗ, cưỡng ép, gây áp lực tâm lý làm trẻ khiếp sợ buộc phải khuất phục để tội
phạm diễn ra như trong các vụ án dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi bán dâm; giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;
dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, mua bán người dưới 16 tuổi để bóc lột tình
dục.v.v.
Có trường hợp còn dùng các thủ đoạn tạo hoàn cảnh đẩy trẻ em lệ thuộc vào
chúng, khống chế trẻ em đang lệ thuộc hoặc đang trong tình trạng quẫn bách để
thực hiện tội phạm như: Lệ thuộc về vật chất giữa người nuôi dưỡng và người được
nuôi dưỡng; về mặt xã hội như giáo viên với học sinh, giữa bố mẹ và con, thầy
thuốc với bệnh nhân; còn tình trạng quẫn bách của trẻ như không nơi nương tựa,
khó khăn đặc biệt về cuộc sống mà nếu không có sự giúp đỡ, hỗ trợ của người khác
sẽ rất khó khăn trong việc duy trì cuộc sống. Hành vi dạng này thường thấy trong
17
các vụ án cưỡng người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, mua dâm người từ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi
Hậu quả của tội phạm XPNPTE được thể hiện dưới các dạng thiệt hại về thể
chất và tinh thần. Trong đó về thể chất sẽ tổn hại đến sức khoẻ của trẻ, tác động tiêu
cực đến sự phát triển bình thường về thể chất, sinh lý của trẻ em, trong nhiều trường
hợp tội phạm gây ra và để lại những di chứng nguy hại cho giai đoạn phát triển thể
chất tiếp theo của trẻ. Còn về tinh thần sẽ tác động gây ra những thiệt hại về danh
dự, nhân phẩm, gây hiệu ứng tâm lý tiêu cực cho sự phát triển bình thường tâm lý
trẻ thơ, cản trở việc thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp khác của trẻ em.
1.3.3. Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội phạm XPNPTE là con người cụ thể, đã thực hiện hành vi nguy
hiểm được quy định trong BLHS một cách cố ý, không ở trong tình trạng không có
năng lực TNHS và đạt độ tuổi theo quy định của Bộ luật này.
Về độ tuổi chịu TNHS của chủ thể tội phạm XPNPTE, theo quy định chung
của BLHS 2015 thì:
- Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 18 tuổi phải chịu TNHS về các
tội "Hiếp dâm người dưới 16 tuổi" - Điều 142, tội "Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi" - Điều 144, tội "Mua bán người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục"
- Điều 151, khoản 1 điểm b; tội "Mua bán người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục" -
Điều 151, khoản 1 điểm b.
- Người từ đủ 18 tuổi trở lên phải chịu TNHS đối với các tội phạm XPNPTE,
gồm "Hiếp dâm người dưới 16 tuổi" - Điều 142, tội "Giao cấu hoặc thực hiện hành
vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" - Điều 145; tội
"Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi" - Điều 146; tội "Sử dụng người dưới 16 tuổi
vào mục đích khiêu dâm" - Điều 147 và tội "Mua dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi" - Điều 329, khoản 2, điểm b.
Về điều kiện của chủ thể, trong các tội phạm XPNPTE có 01 tội đòi hỏi chủ
thể của tội phạm phải có dấu hiệu là người có quyền hành nhất định đối với trẻ em
bị lệ thuộc (chủ thể đặc biệt), đó là “Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
18
tuổi”- Điều 144 BLHS 2015. Còn lại ở các tội khác, chủ thể của tội phạm chỉ cần
đạt được những dấu hiệu chung theo quy định của pháp luật.
1.3.4. Mặt chủ quan của tội phạm:
Trong mặt chủ quan của tội phạm XPNPTE, người phạm tội thường thực hiện
tội phạm với hình thức lỗi cố ý trực tiếp, nghĩa là nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả
xảy ra. Ví dụ như người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi,
trong trường hợp này, đối tượng biết việc làm của mình là gây nguy hại đến sức
khoẻ, sự phát triển lành mạnh của trẻ em, biết rõ hành vi đó là trái pháp luật, song
người phạm tội vẫn mong muốn thực hiện được hành vi giao cấu để thoả mãn dục
vọng. Hậu quả trẻ em bị xâm hại là điều người phạm tội mong muốn xảy ra. Khoa
học Luật hình sự còn coi trường hợp này là lỗi cố ý xác định, dựa trên mức độ cụ
thể của sự hình dung của người phạm tội về hậu quả nguy hiểm mà hành vi phạm
tội của họ gây ra. Ngoài ra, phạm tội với hình thức lỗi cố ý gián tiếp cũng tương đối
phổ biến trong các vụ án XPNPTE. Ở trường hợp này người thực hiện hành vi phạm
tội có đủ khả năng nhận thức được hành vi này tạo ra mối nguy hiểm cho đối tượng
là trẻ em, đương nhiên biết được hậu quả sẽ xảy ra nhưng vẫn để mặc cho hậu quả
xảy ra. Ví dụ: Người đủ 18 tuổi mua dâm người từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, hậu quả
làm người bán dâm bị xâm hại nhân phẩm. Khi mua dâm có thể người mua dâm
không nhận thực được người bán dâm là trẻ em hay là người đã thành niên, nhưng
người mua dâm nhận thức được việc mua bán là xâm hại đến nhân phẩm của con
người nhưng do đã thỏa thuận và những ham muốn tình dục và vật chất từ hai phía
nên vẫn thực hiện hành vi mua bán dâm. Sau này người mua dâm mới biết người
bán dâm cho mình chưa đủ 16 tuổi, nên đã gián tiếp XPNPTE.
Tội phạm XPNPTE khi thực hiện thường chứa đựng những động cơ, mục đích
khác nhau của người phạm tội. Do tội phạm này chủ yếu được thực hiện với lỗi cố ý
trực tiếp, người phạm tội luôn xác định mục đích cần đạt được trước khi thực hiện
tội phạm. Có thể thấy trong nhiều tội, người phạm tội có mục đích là để thoả mãn
những nhu cầu cá nhân và chính những nhu cầu này là nguyên nhân trực tiếp dẫn
19
đến hành vi XPNPTE, nhất là trong nhóm tội phạm xâm hại tình dục, thì động cơ
thúc đẩy người phạm tội thực hiện tội phạm luôn là để thoả mãn sinh lý, dục vọng
bản năng; trong các vụ mua bán người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục thì mục đích
là vì vụ lợi.
1.3.5. Về hình phạt:
Vì đối tượng tác động của tội phạm là trẻ em (người dưới 16 tuổi) nên chính
sách hình sự đối với loại tội phạm này ở nước ta rất nghiêm khắc. Hình phạt đối với
tội phạm XPNPTE thường là rất cao, chẳng hạn "Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi",
tại khoản 3 Điều 144 BLHS 2015 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tử
hình; "Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi", có khung hình phạt
phạt cao nhất là chung thân - khoản 3 Điều 144; các tội "Giao cấu hoặc thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" - khoản 3
Điều 145 và tội "Mua dâm người từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" - điểm a, khoản 3
Điều 329 có khung hình phạt cao nhất đến 15 năm tù; Các tội "Dâm ô đối với người
dưới 16 tuổi" - khoản 3 Điều 146; tội "Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích
khiêu dâm" - khoản 3 Điều 147 đều có khung hình phạt cao nhất lên đến 12 năm tù.
Từ phân tích trên ta thấy hầu hết các tội phạm XPNPTE là tội phạm rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Do vậy ngoài hình phạt chính BLHS 2015
còn quy định hình phạt bổ sung đối với các tội XPNPTE như các hình phạt: Cấm
đảm nhiệm chức vụ; cấm hành nghề hoặc làm những công việc nhất định từ 1 đến 5
năm hoặc phạt tiền từ 10 triệu đến 50 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài
sản.v.v.
1.4. Luật hình sự một số nước về các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em
1.4.1. Bộ luật Hình sự Canada
Bộ luật hình sự Canada quy định các tội phạm XPNPTE trong phần V về các
tội phạm về tình dục, đạo đức và gây rối loạn trật tự. Qua nghiên cứu và so sánh,
học viên nhận thấy có một số điểm đáng lưu ý là:
- Một là, BLHS Canada quy định 02 hành vi về nội dung XPNPTE:
20
+ Xâm phạm tình dục: Điều 151. Người nào vì mục đích tình dục, trực tiếp
hoặc gián tiếp, tiếp xúc bằng một phần cơ thể mình hoặc thông qua một vật lên bất
kỳ phần nào của cơ thể người dưới 16 tuổi …[17, tr.20]
+ Mời chào tiếp xúc tình dục: Điều 152. Người nào, vì mục đích tình dục, mời
chào, lôi kéo hoặc xúi giục và cơ thể người dưới 16 tuổi [17, tr.20].
- Hai là, BLHS Canada đã quy định rõ đối tượng của tội phạm chỉ có thể là
người dưới 16 tuổi. Khi so sánh với quy định của pháp luật Việt Nam, ta thấy rằng
điểm chung của 2 Bộ luật là đối tượng của tội phạm được giới hạn ở độ tuổi 16, tuy
nhiên pháp luật Việt Nam quy định rõ hơn khi chia thành 02 đối tượng là trẻ em
dưới 13 tuổi và trẻ em từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi. Như vậy khác biệt ở cả việc quy
định TNHS, trong khi BLHS Canada quy định TNHS chung khi phạm tội đối với
người dưới 16 tuổi thì trong pháp luật Việt Nam, TNHS của người phạm tội đối với
trẻ em dưới 13 tuổi sẽ nghiêm khắc hơn đối với người phạm tội với trẻ em từ đủ 13
đến dưới 16 tuổi.
- Ba là, về hình phạt áp dụng đối với người phạm tội, BLHS Canada quy định
hình phạt đối với loại tội này có khung hình phạt thấp nhất là phạt tù 14 ngày, cao
nhất là phạt tù 10 năm.
- Bốn là, BLHS Canada quy định 02 trường hợp ngoại lệ đối với người thực
hiện hành vi vi phạm với người khởi hiện ở các độ tuổi sau:
+ Đối với người khởi kiện ở độ tuổi 12 hoặc 13: có thể biện hộ là người khởi
kiện đã đồng ý với hành vi cấu thành trách nhiệm nếu người phạm tội: (a) nhiều hơn
người khởi kiện không đến 2 tuổi, (b) không được giao trông nom hoặc có quyền
đối với người khởi kiện; không phải là người mà người khởi kiện có mối quan hệ
phụ thuộc và không có mối quan hệ bóc lột đối với người khởi kiện.
+ Đối với người khởi kiện ở độ tuổi 14 hoặc 15: có thể biện hộ là người khởi
kiện đã đồng ý với hành vi cấu thành trách nhiệm nếu: (a) người phạm tội nhiều hơn
người khởi kiện không đến 5 tuổi và không được giao trông nom hoặc có quyền đối
với người khởi kiện; không phải là người mà người khởi kiện có mối quan hệ phụ
21
thuộc và không có mối quan hệ bóc lột đối với người khởi kiện. (b) bị cáo đã kết
hôn với người khởi kiện. [17, tr.21]
- Năm là, BLHS Canada quy định 02 trường hợp ngoại trừ như sau:
+ Ngoại trừ đối với trường hợp chuyển tiếp: Bị cáo lớn hơn người khởi kiện từ
5 tuổi trở lên (chỉ áp dụng với trường hợp người khởi kiện ở độ tuổi 14 hoặc 15): có
thể biện hộ là người khởi kiện đã đồng ý với hành vi cấu thành trách nhiệm nếu: (1)
người phạm tội là vợ/chồng của người khởi kiện theo thông luật hoặc đang chung
sống như vợ chồng với thời gian ít hơn 1 năm và họ đã có hoặc mong muốn có con
như kết quả của mối quan hệ này, (2) bị cáo không được giao trông nom hoặc có
quyền đối với người khởi kiện; không phải là người mà người khởi kiện có mối
quan hệ phụ thuộc và không có mối quan hệ bóc lột đối với người khởi kiện [17,
tr.21]
+ Ngoại trừ đối với người bị buộc tội ở độ tuổi 12 hoặc 13 tuổi sẽ không bị xét
xử về tội phạm này trừ trường hợp người đó được giao trông nom hoặc có quyền
đối với người khởi kiện, là người mà người khởi kiện có mối quan hệ phụ thuộc
hoặc có mối quan hệ bóc lột đối với người khởi kiện [17, tr.21].
- Sáu là, BLHS Canada quy định việc sai lầm về tuổi của người khởi kiện:
Không thể biện hộ đối với trách nhiệm về tội này là người phạm tội tin rằng người
khởi kiện đã 16 tuổi hoặc lớn hơn vào thời điểm phạm tội trừ trường hợp người
phạm tội đã thực hiện tất cả các biện pháp hợp lý để xác định tuổi của người khởi
kiện.
1.4.2. Bộ luật Hình sự Thụy Điển
Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định các tội phạm XPNPTE trong Chương 6
về các tội về tình dục, học viên nhận thấy có một số điểm đáng lưu ý là:
- Một là, BLHS Thụy Điển quy định 7 hành vi về nội dung XPNPTE, gồm:
Giao cấu với trẻ em, hiếp dâm trẻ em, bóc lột tình dục trẻ em, lạm dụng tình dục trẻ
em, bóc lột trẻ em trình diễn khiêu dâm, mua dâm trẻ em và quấy rối tình dục.
- Hai là, về đối tượng của tội phạm: quy định 03 đối tượng gồm trẻ em dưới
15 tuổi, trẻ em từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi và trẻ em dưới 18 tuổi. Người nào
22
phạm tội đối với trẻ em dưới 15 tuổi hoặc trẻ em từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi thì bị xử
lý về các tội giao cấu với trẻ em, hiếp dâm trẻ em, bóc lột tình dục trẻ em, lạm dụng
tình dục trẻ em, bóc lột trẻ em trình diễn khiêu dâm và quấy rối tình dục. Còn người
nào xúi giục trẻ em dưới 18 tuổi thực hiện hành vi tình dục hoặc để cho người khác
thực hiện hành vi tình dục với mình để nhận thù lao, nếu không thuộc những trường
hợp khác đã được quy định trong Chương này thì bị xử lý về tội mua dâm trẻ em.
- Ba là, về hình phạt áp dụng đối với người phạm tội thì khung hình phạt thấp
nhất là phạt tiền, cao nhất là phạt tù 10 năm.
- Bốn là, BLHS Thụy Điển quy định những trường hợp ngoại lệ như sau:
Người thực hiện những hành vi sau sẽ không bị truy cứu TNHS nếu không có chênh
lệch quá lớn về độ tuổi và mức độ phát triển giữa người thực hiện hành vi và trẻ em
cũng như có căn cứ cho rằng hành vi đó không mang tính chất lạm dụng trẻ em:
(1) Giao cấu hoặc có các hành vi tình dục khác tương ứng với hành vi giao cấu
với trẻ em dưới 15 tuổi hoặc trẻ em là con đẻ từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi hoặc với
người mà người phạm tội có trách nhiệm trông nom, nuôi dưỡng hoặc có quan hệ
thân thiết hoặc người mà người phạm tội chịu trách nhiệm chăm sóc hoặc giám sát
theo quyết định của nhà chức trách thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.
(2) Người nào thực hiện hành vi khác ngoài những hành vi nêu trên với trẻ em
dưới 15 tuổi.
(3) Người nào khuyến khích hoặc bóc lột trẻ em dưới 15 tuổi thực hiện hoặc
tham gia vào việc trình diễn khiêu dâm.
(4) Người nào đụng chạm vào thân thể trẻ em dưới 15 tuổi, ... nếu không thuộc
những trường hợp khác đã được quy định.
- Năm là, giống như PLHS Việt Nam, BLHS Thụy Điển quy định người phạm
tội phải chịu TNHS ngay cả khi người phạm tội không biết rõ độ tuổi của nạn nhân
(trẻ em)…
- Sáu là, giống như BLHS Thủy Điển, BLHS Việt Nam 2015 đã lần đầu tiên
quy định Điều 147 về tội "Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm";
Còn Thụy Điển là tội "Bóc lột trẻ em trình diễn khiêu dâm". [17, tr.22-23].
23
1.4.3. Bộ luật Hình sự Liên bang Nga
Bộ luật hình sự Nga quy định các tội phạm XPNPTE trong Chương 18 về các
tội xâm phạm tự do tình dục, học viên nhận thấy có một số điểm như sau:
- Một là, BLHS Nga quy định 02 hành vi về nội dung XPNPTE, đó là: hiếp
dâm, cưỡng dâm, giao cấu và thực hiện các hoạt động tình dục khác với người chưa
đủ 16 tuổi và dâm ô.
- Hai là, quy định có 03 đối tượng của tội phạm: chưa đủ 12 tuổi, chưa đủ 14
tuổi và dưới 16 tuổi. Tùy thuộc độ tuổi của người bị hại dưới 12 tuổi, dưới 14 tuổi
hay dưới 16 tuổi mà mức độ hình phạt áp dụng giảm dần.
- Ba là, về hình phạt áp dụng đối với người phạm tội thì khung hình phạt thấp
nhất là phạt tiền, cao nhất là phạt tù 20 năm.
- Bốn là, BLHS Nga quy định 01 trường hợp ngoại lệ đối với người thực hiện
hành vi vi phạm với người bị hại như sau: Người mà lần đầu phạm tội giao cấu,
đồng tính nam hoặc đồng tính nữ do người đủ 18 tuổi thực hiện với người khác đã
biết là chưa đủ 16 tuổi sẽ được tòa án miễn chấp hành hình phạt nếu xác định được
rằng người này và hành vi phạm tội đã thực hiện không còn nguy hiểm cho xã hội
nữa vì đã kết hôn với người bị hại [17, tr. 23,24].
1.4.4. Bộ luật Hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Bộ luật hình sự Trung Quốc quy định các tội phạm XPNPTE trong Chương 4
về tội xâm phạm quyền tự do thân thể, quyền dân chủ của công dân. Nghiên cứu
những quy định trong BLHS Trung Quốc, thấy có một số điểm đáng lưu ý là:
- Một là, BLHS Trung Quốc chỉ quy định 01 hành vi về nội dung XHNPTE,
đó là: Giao cấu với trẻ em gái.
- Hai là, BLHS Trung Quốc chỉ quy định 01 đối tượng của tội phạm là trẻ em
gái dưới 14 tuổi và quy định “Giao cấu với trẻ em gái chưa đủ 14 tuổi, coi như
phạm tội hiếp dâm, bị xử phạt nặng”.
- Ba là, về hình phạt áp dụng đối với người phạm tội thì khung hình phạt thấp
nhất là phạt tù 3 năm, cao nhất là tử hình [17, tr. 24,25].
24
Điểm khác biệt của BLHS Trung Quốc theo như học viên đã nghiên cứu và
nhậ xét là: Luật Trung Quốc chỉ quy định đối tượng của tội phạm XPNPTE chỉ có
thể là con gái.
1.4.5. Bộ luật Hình sự Cộng hòa Liên bang Đức
Bộ Luật Hình Sự Đức quy định các tội phạm XPNPTE trong Chương 13,
nghiên cứu những quy định trong BLHS Đức, thấy có một số điểm đáng lưu ý là:
- Một là, BLHS Đức chỉ quy định 01 hành vi về nội dung XPNPTE, đó là:
Lạm dụng tình dục trẻ em. Hành vi này được quy định tại 3 Điều về lạm dụng tình
dục trẻ em, lạm dụng tình dục trẻ em nghiêm trọng và lạm dụng tình dục trẻ em với
hậu quả chết người.
- Hai là, giống như Trung Quốc, BLHS Đức chỉ quy định 01 đối tượng của tội
phạm là người dưới 14 tuổi nhưng ở đây, BLHS Đức quy định đối tượng rộng hơn
khi quy định là “người”, nghĩa là có thể là cả trẻ em trai và trẻ em gái.
- Ba là, về hình phạt áp dụng đối với người phạm tội thì khung hình phạt thấp
nhất là phạt tù 06 tháng, cao nhất là phạt tù 10 năm [17, tr. 25].
Sau khi tìm hiểu một số quy định của Bộ luật hình sự các quốc gia ở châu Âu
cũng như châu Á có thể thấy rằng, trẻ em luôn nhận được sự quan tâm chăm sóc đặc
biệt từ phía các nhà chức trách. Vì vậy, đa phần ở các nước đều quy định chương
mục, điều khoản riêng dành cho loại tội phạm liên quan đến nhân phẩm trẻ em. Ở
Việt Nam cũng vậy, chính vì đối tượng bị xâm phạm là nhân phẩm trẻ em nên việc
quy định các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em là một nội dung rất được chú
trọng trong Bộ luật hình sự. Để xây dựng một bộ luật nhằm bảo đảm quyền lợi của
trẻ em cần dựa trên nền tảng kế thừa tinh hoa văn hóa dân tộc và tiếp thu có chọn
lọc kinh nghiệm của nước ngoài. So sánh giữa các bộ luật với Bộ luật hình sự Việt
Nam thì BLHS Việt Nam quy định các hành vi xâm phạm nhân phẩm trẻ em có
điểm chung với BLHS Thụy Điển (giao cấu với trẻ em, hiếp dâm trẻ em, bóc lột trẻ
em trình diễn khiêu dâm…) , về đối tượng của tội phạm lại có điểm tương đồng với
BLHS Canada (người dưới 16 tuổi), về hình phạt lại có nét giống của BLHS Trung
Quốc (khung hình phạt cao nhất là tử hình). Tuy nhiên, BLHS Việt Nam vẫn có
25
những cái riêng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước để vận dụng một
cách có hiệu quả trên thực tế nhưng như vậy vẫn chưa đủ. Theo học viên, ở các
nước có quy định các trường hợp ngoại lệ cũng như loại trừ rất hay và khoa học vừa
bảo vệ quyền lợi cho người bị hại vừa không bất lợi cho bị cáo nên cần học tập.
Việt Nam đang từng bước hội nhập quốc tế nên những quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam về các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em cũng phải được hoàn thiện
một cách đầy đủ, có hệ thống phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế.
Tiểu kết Chương 1
Ở chương này, học viên tập trung nghiên cứu một số vấn đề chung về các tội
phạm XPNPTE theo PLLHS Việt Nam, bao gồm khái niệm các tội phạm XPNPTE;
cơ sở quy định các tội XPNPTE; phân tích các dấu hiệu pháp lý của các tội phạm
XPNPTE và so sánh những quy định của PLHS Việt Nam về các tội phạm
XPNPTE đối với PLHS của một số nước như Canada, Thụy Điển, Nga, Trung
Quốc, Đức. Qua nghiên cứu ta thấy rằng trẻ em luôn là đối tượng đặc biệt cần được
bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự và sự phát triển bình thường về
mặt tâm sinh lý. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác đấu tranh phòng
chống và xử lý loại tội phạm này. Ở Chương II học viên sẽ nghiên cứu về thực trạng
pháp luật và thực tiễn xét xử các tội phạm XPNPTE ở tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ
năm 2008-2018.
26
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ
CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM TRẺ EM Ở
TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Thực trạng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em
2.1.1. Khái quát quy định pháp luật hình sự về các tội xâm phạm nhân
phẩm trẻ em giai đoạn sau cách mạng tháng 8/1945 đến trước khi ban hành Bộ
luật hình sự 2015
2.1.1.1. Các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em trong pháp luật hình sự từ sau
CMT8/1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự 1985
Trước khi Cách mạng tháng 8/1945 thành công Nhà nước Việt Nam trải qua
các triều đại phong kiến và thực dân phong kiến đều đã ban hành một số Đạo luật,
trong đó ghi nhận nội dung để trường trị các loại tội phạm XPNPTE, có thể kể đến
Quốc triều hình luật (Luật hình triều Lê - Bộ luật thành văn đầu tiên). Điều 404 Bộ
luật này quy định: Trong mọi trường hợp cứ giao cấu (gian dâm) với trẻ em dưới 12
tuổi là phạm tội hiếp dâm. Hay Bộ luật Gia Long 1815 (còn gọi là Hoàng Việt luật
lệ). Tại Điều 330 cũng quy định: Hiếp dâm (Cưỡng gian) trẻ em thì bị tử hình, trong
đó nếu trẻ em dưới dưới 10 tuổi thì người phạm tội xẽ bị chém chết, còn trẻ em dưới
12 tuổi thì người phạm tội sẽ bị treo cổ. Còn khi thực dân pháp xâm lược nước ta
đất nước chia cắt làm ba miền: bắc kỳ, trung kỳ, nam kỳ, mỗi miền sử dụng những
quy định pháp luật khác nhau. Ở Bắc kỳ ngày 02/12/1921 quan toàn quyền Sarraut
ban hành nghị định áp dụng luật hình sự tại bắc kỳ bao gồm 328 điều, trong đó từ
điều 198 đến Điều 205 quy định và trừng trị nghiêm khắc các tội XPNPTE. Ở
Trung kỳ, có Luật Hoàng việt luật lệ (1933) trong đó tại Điều 303 quy định: Hiếp
dâm (phạm gian) trẻ em chưa đủ 15 tuổi sẽ bị phạt đến 10 tù. Học viên thấy rằng từ
xưa giai cấp thống trị dù ít hay nhiều cũng đã quan tâm đến trẻ em, qua việc đã có
những quy định BVTE khỏi XPNPTE và trừng trị nghiêm kẻ phạm tội.
27
Ngày 02/9/1945 khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà được thành lập qua
bản tuyên ngôn độc lập, từ năm 1945 đến năm 1954 vì đất nước vừa xây dựng chính
quyền ở miền bắc vừa đấu tranh chống thực dân Pháp ở miền Nam nên ta vẫn sử
dụng luật cũ.
Năm 1960 TAND tối cao ra Chỉ thị số 1024 ngày 15/6/1960 hướng dẫn xử lý
tội hiếp dâm nhằm khắc phục khuynh hướng xem nhẹ tính chất nghiêm trọng của
loại tội này, nhất là khuynh hướng coi nhẹ tội hiếp dâm trẻ em nhưng nội dung
hướng dẫn còn chưa đầy đủ. Theo đó tại trước năm 1966 thì Ngành Tòa án thường
xuyên hướng dẫn áp dụng xét xử các tội XPNPTE theo hướng xử lý một số hình
thức phạm tội mới mà luật cũ chưa hề quy định như tội cưỡng dâm…. Phải đến năm
1967 TAND tối cao mới ban hành Chỉ thị số 329 để thay thế Chỉ thị số 1024 thì mới
chính thức ghi nhận 04 tội phạm XPNPTE gồm: Tội Hiếp dâm, tội cưỡng dâm, tội
giao cấu và tội dâm ô người dưới 16 tuổ. Báo cáo tổng kết năm 1968 của Nghành
Tòa án đã kịp thời bổ sung hình thức dâm ô mới xâm phạm thuần phong mĩ tục và
trật tự trị an cần phải trừng trị là đồng tình dâm ô, bao gồm cả giao cấu nơi công
cộng hoặc có đông người tham gia.
Năm 1976 Chính phủ ký sắc lệnh số 03, tại Điều 5 quy định về tội xâm phạm
đến thân thể và nhân phẩm của công dân. Để hướng dẫn thi hành sắc luật trên, tháng
4/1976 Bộ tư pháp đã ban hành thông tư số 03/BTP, chỉ rõ các hành vi xâm phạm
tình dục bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, thông gian với gái vị thành niên, dâm ô…
Hai văn bản pháp luật trên trở thành văn bản pháp luật chung cho cả nước [17, tr
14,15,16].
2.1.1.2. Các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em trong Bộ luật hình sự 1985
Ngày 27/6/1985, Bộ luật hình sự năm 1985 chính thức được thông qua và hơn
nửa năm sau thì có hiệu lực thi hành. Bộ luật có 3 điều luật quy định tội XPNPTE là
tội hiếp dâm (Điều 112), tội cưỡng dâm (Điều 113), tội giao cấu với người dưới 16
tuổi (Điều 114). Từ khi ra đời đến trước khi có BLHS 1999 thì BLHS 1985 đã có 4
lần sửa đổi, bổ sung năm 1989, 1991,1992 và 1997. Trong lần sửa đổi, bổ sung lần
thứ 4 BLHS 1985 đã bổ sung 04 điều về các tội XPNPTE. Cụ thể: bổ sung tội hiếp
28
dâm trẻ em (Điều 112a); tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 113a); tội mua dâm NCTN
(Điều 202a) và tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 202b).
2.1.1.3. Các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em trong Bộ luật hình sự 1999
Tình hình tội phạm có những chuyển biến tích cực hay tiêu cực phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế chính trị xã hội của đất nước trong giai đoạn đó. Nhiều tội phạm
mới xuất hiện, tình chất nguy hiểm của nhiều tội phạm tăng đồng thời tính nguy
hiểm của nhiều tội phạm cũng không còn. Do đó các quy định của PLHS cũng phải
thay đổi để phù hợp với tình hình tội phạm trong điều kiện đất nước thay đổi. Trong
phạm vi của luận văn này học viên chỉ đề cập đến những thay đổi trong nhóm tội
XPNPTE.
Thời gian càng về sau nhóm tội phạm XPNPTE diễn ra hết sức phức tạp. Do
đó PLHS với vai trò là công cụ đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội
phạm XPNPTE nói riêng cần phải sửa đổi bổ sung để các quy định pháp luật phù
hợp hơn với điều kiện mới. BLHS 1999 ra đời thay thế cho BLHS 1985. BLHS
1999 của nước CHXHCN Việt Nam được quốc hội khoá X thông qua ngày
21/12/1999 có hiệu lực ngày 01/7/2000.
Một số tình tiết định khung tăng nặng trong một số Điều luật cũ được tách ra
thành cấu thành cơ bản của tội mới. Ví dụ: tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114 BLHS)
được tách ra từ tội cưỡng dâm NCTN (Điều 113a BLHS 1985) căn cứ vào độ tuổi
của trẻ. Sự thay đổi này là phù hợp với tình hình thực tế và thể hiện sự quan tâm
hơn của nhà nước ta đối với việc BVTE.
Tội hiếp dâm (Điều 111 BLHS 1999) so với BLHS năm 1985 đã bỏ tình tiết
"có nhiều tình tiết..."; quy định thêm các dấu hiệu đó là "đe doạ dùng vũ lực hoặc
lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân"; bổ sung một số tình tiết
định khung như "đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc; đối
với nhiều người; gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31%
đến 60% (khoản 2); gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ
61% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội (khoản 3). Về quy định của
tội giao cấu với trẻ em (Điều 115) bỏ tình tiết "có nhiều tình tiết..."; bổ sung một số
29
tình tiết định khung hình phạt; ở khoản 2 thêm tình tiết "đối với nhiều người" và
thay tình tiết "gây tổn hại nặng cho sức khoẻ của nạn nhân" bằng tình tiết "gây tổn
hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; ở khoản 3
thêm tình tiết "biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội và gây tổn hại cho sức khoẻ
của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên". Đối với tội dâm ô đối với trẻ em
(Điều 116) bỏ tình tiết "có nhiều tình tiết..."; thêm tình tiết định khung ở khoản 3 là
"gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" và thêm khoản 4 quy định hình phạt bổ sung
[17, tr. 16,17,18]. Và nếu như trong BLHS 1985 tội dâm ô với trẻ em được quy
định tại chương VIII các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng thì đến
BLHS 1999 tội dâm ô với trẻ em được chuyển đến chương XII các tội xâm phạm
tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người. Hành vi dâm ô đối với trẻ em
đã xâm phạm đến con người, chủ thể của hành vi này đã coi con người như phương
tiện để thoả mãn một cách bất hợp pháp nhu cầu tình dục của mình. Tuy nhiên
không phải bất cứ quan hệ xã hội nào bị xâm phạm đều được coi là khách thể trực
tiếp. Trong trường hợp nhiều quan hệ xã hội cùng bị gây thiệt hại hoặc đe doạ gây
thiệt hại thì quan hệ xã hội được coi là khách thế trực tiếp là quan hệ xã hội mà sự
gây thiệt hại cho quan hệ xã hội đó khi căn cứ vào tất cả các mặt như tính chất quan
trọng của quan hệ xã hội, mức độ bị gây thiệt hại, mục đích chủ quan của người
phạm tội… thể hiện đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi [17, tr.18].
Sự thay đổi này là cần thiết và phù hợp bởi lẽ hành vi dâm ô với trẻ em là một hành
vi mang tính nguy hiểm cao cho trẻ em. Nó xâm phạm đến sự phát triển bình
thường về mặt tâm sinh lý của trẻ em, và quyền được bảo vệ về nhân phẩm danh dự
của trẻ em.
Xã hội tiếp tục có nhiều thay đổi, nhiều tội phạm mới xuất hiện như trong lĩnh
vực công nghệ thông tin, môi trường, chứng khoán; nhiều quy định không còn phù
hợp với cuộc sống ngày nay như hình phạt tử hình trong một số điều luật, mức phạt
tiền… nên BLHS 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009, có hiệu lực ngày
01/01/2010. Nhưng trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, lần sửa đổi, bổ
30
sung này không ảnh hưởng đến nội dung của các điều luật quy định các tội
XPNPTE nên học viên vẫn dựa vào các quy định của BLHS 1999.
2.1.2. Các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em trong Bộ luật hình sự 2015
Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 (sửa đổi bổ sung 2000) đã đánh dấu một bước
quan trọng trong kỹ thuật lập pháp của Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình thực
thi BLHS vẫn còn nhiều điểm vướng mắc, bất cập so với đòi hỏi của đất nước.
Chính vì vậy, ngày 27/11/2015 Nhà nước ta đã ban hành BLHS 2015 (sửa đổi bổ
sung 2017), có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01.01.2018. BLHS 2015 thể hiện nhiều
điểm mới trong chính sách hình sự của Việt Nam; sửa đổi, bổ sung nhiều quy định
nhằm phù hợp với sự thay đổi của kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo đảm cơ
bản quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp 2013.
Trong đó BVTE được BLHS 2015 trú trọng và đã có những thay đổi và bổ sung
nhằm tạo cơ sở pháp lý xử lý các tội XPNPTE, cụ thể như sau:
Dễ nhận thấy, so sánh với BLHS 1999, cụm từ “trẻ em” không còn được sử
dụng trong BLHS 2015, thay vào đó, nhà làm luật đã chi tiết hóa độ tuổi của nhóm
đối tượng này, đó là “người dưới 16 tuổi”. Ví dụ như tội hiếp dâm trẻ em (Điều
112) thành tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); tội cưỡng dâm trẻ em (Điều
114) thành tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144)… Như
vậy, BLHS 2015 có sự tương thích với LTE 2016 khi thống nhất độ tuổi trẻ em là
người dưới 16 tuổi. Tương tự, chủ thể là người đã thành niên trong các điều luật
cũng được thay thế bằng “người đủ 18 tuổi” như tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145); tội dâm
ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146). Việc quy định cụ thể, rõ ràng về tuổi của
nạn nhân cũng như người thực hiện tội phạm đã một phần nào đó khắc phục được
những ý kiến trái chiều về khái niệm “trẻ em”, “NCTN”, “người đã thành niên”
trong BLHS năm 1999. BLHS 2015 đã quy định một tội danh mới tại Điều 147 "Tội
sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm".
So sánh với BLHS 1999, BLHS 2015 đã bổ sung một số dấu hiệu định tội và
định khung tăng nặng trong cấu thành các tội XPNPTE, cụ thể:
31
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142 BLHS 2015)
– Về tình tiết định tội:
+ Bên cạnh hành vi giao cấu đã được quy định tại Điều 112 BLHS 1999,
BLHS 2015 đã bổ sung thêm tình tiết “thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác”,
không chỉ trong tội phạm này mà còn các tội từ Điều 144 đến 146.
+ Bộ luật hình sự 2015 đã bổ sung đối tượng tác động “người dưới 13 tuổi”
vào tình tiết định tội. Trước đây, cách hiểu về khoản 4 Điều 112 BLHS 1999 “Mọi
trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và
người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc
tử hình” chưa có sự thống nhất, có quan điểm cho rằng đây là cấu thành tội phạm
tăng nặng nhưng cũng có nhiều ý kiến cho rằng đó là cấu thành tội phạm cơ bản thứ
hai. Như vậy, với quy định này, nhà làm luật đã thể hiện rõ hành vi giao cấu với
người dưới 13 tuổi là tình tiết định tội. Đây là một điểm tiến bộ trong BLHS 2015
nhằm đảm bảo nguyên tắc phân hóa TNHS, đồng thời giải quyết được vấn đề gây
tranh cãi nếu như theo Điều 112 BLHS 1999 khi người có thủ đoạn “dùng vũ lực,
đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân
hoặc thủ đoạn khác” lại ít nguy hiểm hơn hành vi giao cấu, trong nhiều trường hợp
còn là giao cấu thuận tình với người dưới 13 tuổi hoặc nạn nhân nói dối về độ tuổi
của mình…
– Về tình tiết định khung tăng nặng:
+ Điểm c khoản 2 Điều 142 đã thay đổi tình tiết “gây tổn hại cho sức khỏe của
nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 61%” tại điểm c khoản 2 Điều 112 BLHS
1999 thành “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%”, tương tự tại điểm d khoản 3 “61% trở lên”.
Việc nhà làm luật bổ sung thêm dấu hiệu “gây thương tích” đã bao quát được những
trường hợp xảy ra trong thực tế, tránh nhầm lẫn như chúng ta đã dùng lâu nay; đồng
thời, tạo sự thống nhất với Điều 134 - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác và Thông tư 20/TT-BYT của Bộ Y tế về quy định tỷ lệ tổn
thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.
32
+ Bổ sung tình tiết “gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến
45%” tại điểm d khoản 2 Điều 142 hoặc tương tự tại điểm đ khoản 3 “46% trở lên”.
Trong trường hợp này, hành vi của người phạm tội hoặc gây rối loạn tâm thần, hoặc
gây rối loạn hành vi cho nạn nhân. Quy định như vậy đã khắc phục được thiếu sót
của BLHS 1999 khi không bao quát được hậu quả của tội phạm, do nạn nhân của tội
phạm này không chỉ bị tổn thương sức khỏe mà còn bị tổn hại về tinh thần. Đặc
biệt, Thông tư 20/TT-BYT 2014 đã giải quyết được vấn đề mà từ lâu các nhà
nghiên cứu đã đặt ra, là làm sao để xác định được những tổn thương về tâm thần.
Đây là một quy định mới mà theo người nghiên cứu đánh giá là kịp thời để có thể
xử lí những hậu quả trong thực tế có thể xảy ra.
+ Các tình tiết quy định tại điểm c khoản 3 Điều 112 BLHS 1999 “phạm tội
nhiều lần” và điểm d khoản 3 “đối với nhiều người” đã được giảm nhẹ khung hình
phạt và chi tiết hơn khi được quy định tại khoản 2 thành “phạm tội 02 lần trở lên”
(điểm e) và “đối với 02 người trở lên” (điểm g). Sự quy định chi tiết này làm cho
việc áp dụng pháp luật được thực hiện một cách nhất quán với các tình tiết tương tự
tại BLHS 2015.
+ Bổ sung tình tiết mới “phạm tội đối với người dưới 10 tuổi” là tình tiết định
khung tăng nặng tại điểm c khoản 3 Điều 142 BLHS với mức hình phạt là tù 20
năm, tù chung thân hoặc tử hình. Việc quy định tình tiết này làm tình tiết định
khung tăng nặng là cần thiết, phù hợp với lý luận cũng như thực tiễn, thể hiện rõ sự
phân hóa về độ tuổi của đối tượng tác động khi chủ thể thực hiện hành vi giao cấu
hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi: một là người
dưới 10 tuổi, hai là người từ đủ 10 tuổi đến dưới 13 tuổi.
Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi - Điều 144 BLHS 2015,
đã có những quy định mới về tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Nhìn chung, về dấu hiệu định tội, BLHS 2015 không có quy định khác với BLHS
1999, trừ bổ sung thêm trường hợp nạn nhân phải miễn cưỡng “thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác” bên cạnh hành vi giao cấu và một số tình tiết khung tăng
nặng tương tự với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
33
Tội Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS 2015)
– Về tình tiết định tội: Luật 2015 quy định “nếu không thuộc trường hợp quy
định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này” để loại trừ khả năng người phạm tội
vừa thực hiện hành vi quy định tại Điều 145 BLHS nhưng đồng thời cũng có những
tình tiết khác đi kèm đủ điều kiện cấu thành các tội theo Điều 142 hoặc 144.
– Về tình tiết định khung tăng nặng: Luật 2015 đã quy định tình tiết mới “đối
với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh” (điểm
e khoản 2 Điều 145). Đây là tình tiết được quy định trong một số tội trong nhóm các
tội xâm phạm tình dục trẻ em và đã xảy ra trong thực tế, và là một sự bổ sung kịp
thời nhằm dự liệu hết các trường hợp có thể phát sinh.
– Về hình phạt bổ sung, đã quy định thêm hình phạt bổ sung cho tội danh này
tại khoản 4, theo đó, “người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”. Quy định này đã
hỗ trợ hình phạt chính, thể hiện sự nghiêm khắc hơn đối với tội phạm này, đồng thời
tương thích với quy định của các tội XPNPTE khác.
Tội Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146 BLHS 2015)
– Về tình tiết định tội: Luật 2015 đã quy định hành vi dâm ô phải không nhằm
mục đích giao cấu … nhưng vẫn chưa làm rõ được khái niệm dâm ô mầ vẫn theo
cách hiểu được hướng dẫn tại Bản hướng dẫn số 329 năm 1967 của Ngành tòa án do
vậy theo học viên vẫn nên thống nhất áp dụng theo phần chú giải của Ban soạn thảo
BLHS 2015 thì “hành vi dâm ô được coi là hành vi đụng chạm vào những bộ phận
nhạy cảm của trẻ em hoặc buộc trẻ em đụng chạm vào những bộ phận nhạy cảm
của người phạm tội”. Tuy nhiên cách hiểu này cũng dễ dẫn đến nhầm lẫn giữa hành
vi quan hệ tình dục khác với hành vi dâm ô. Những hành vi nào được xem là dâm
ô? Liệu còn hành vi dâm ô trẻ em nữa không nếu ghi nhận hành vi quan hệ tình dục
khác trong BLHS 2015? Đây là những câu hỏi cần văn bản hướng dẫn kịp thời để
tránh sự tùy tiện trong thực tiễn áp dụng.
34
– Về tình tiết định khung tăng nặng, nhà làm luật đã không sử dụng các tình
tiết không rõ ràng như “gây hậu quả nghiêm trọng” hoặc “gây hậu quả rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” như trong BLHS 1999 mà thay vào đó đã bổ
sung một số tình tiết, cụ thể như “phạm tội có tổ chức” (điểm a khoản 2), “gây rối
loạn hoạt động tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%” (điểm đ khoản
2) và “gây rối loạn hoạt động tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%”
(điểm a khoản 3); “làm nạn nhân tự sát” (điểm b khoản 3). Những tình tiết này có
nhiều điểm tương đồng so với các XPNP khác, là cơ sở pháp lí chi tiết khi định
khung hình phạt.
Tội Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm Điều 147 BLHS
2015: Đây là một trong những hành vi mới, được hình sự hóa tại BLHS 2015. Quy
định tội phạm này không chỉ nội luật hóa một số công ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia như CULHQVQTE và Nghị định thư bổ sung cho Công ước về quyền trẻ
em, Công ước số 182 nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức lao
động trẻ em tồi tệ nhất của Tổ chức Lao động quốc tế; mà còn giúp tạo ra cơ sở
pháp lý để giải quyết những trường hợp xảy ra trong thực tế, đặc biệt khi việc xâm
hại tình dục trẻ em dưới nhiều hình thức khác nhau.
Một số dấu hiệu đáng chú ý tại Điều 147 BLHS 2015:
– Chủ thể và nạn nhân của tội phạm:
Khoản 1 Điều 147 quy định chủ thể của tội phạm này phải là người đủ 18 tuổi
trở lên. Theo học viên quy định như vậy là chính xác bởi người đã thành niên phát
triển đầy đủ về nhận thức, đủ khả năng để nhận thức được hành vi này nguy hiểm
cho xã hội, xâm hại trực tiếp đến khách thể được luật hình sự bảo vệ, cụ thể là sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ em.
Nạn nhân (bị hại) của tội phạm ở đây là người dưới 16 tuổi, theo đúng tinh
thần nội dung các điều luật trước liên quan đến XPNPTE. Ý chí của trẻ em ở đây có
thể hiểu là có thể đồng ý hoặc không đồng ý với hành vi này, tuy nhiên người phạm
tội đã lợi dụng sự non nớt của các em để thực hiện hành vi phạm tội.
35
– Mặt khách quan của tội phạm, từ quy định của Điều luật, hiện nay có nhiều
cách hiểu khác nhau:
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng, có thể hiểu “người phạm tội sử dụng người
dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm phải hội đủ một trong hai yếu tố cấu thành
của tội phạm này: Thứ nhất, người phạm tội phải đủ 18 tuổi trở lên và không phân
biệt là nam hay nữ mà có hành vi lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi trình
diễn khiêu dâm. Thứ hai, người phạm tội phải là người trực tiếp chứng kiến việc
trình diễn khiêu dâm dưới bất kỳ hình thức nào.
+ Quan điểm thứ hai, điều luật này quy định hai hành vi: thứ nhất người đủ 18
tuổi trở lên có hành vi lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi trình diễn khiêu
dâm hoặc người đủ 18 tuổi trở lên có hành vi lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16
tuổi trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm dưới mọi hình thức. Học viên
đồng tình với quan điểm thứ hai. Theo đó, người bị truy cứu TNHS đối với tội danh
này phải bằng thủ đoạn lôi kéo, dụ dỗ ép buộc người dưới 16 tuổi trình diễn khiêu
dâm hoặc cũng thủ đoạn đó khiến người dưới 16 tuổi trực tiếp chứng kiến việc trình
diễn khiêu dâm. Chính những hành vi này mới đảm bảo được tính nguy hiểm của
hành vi, đồng thời bảo vệ được đối tượng mà nhà làm luật muốn hướng đến, đó là
trẻ em, cụ thể hơn là người dưới 16 tuổi. Tuy nhiên, nếu thực sự hiểu theo cách này,
thì tên Điều luật cũng cần cân nhắc, bởi hành vi lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới
16 tuổi trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm có phù hợp với tên tội “Sử
dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm” hay không?
Một vấn đề khác cũng cần được nhà làm luật giải thích, đó là hiểu như thế nào
về “trình diễn khiêu dâm”, “trực tiếp chứng kiến” và “dưới mọi hình thức”. Về khái
niệm khiêu dâm, theo Nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước về quyền trẻ
em có thể hiểu “là bất cứ sự thể hiện nào, dù bằng bất kỳ phương tiện gì, việc trẻ em
tham gia vào các hoạt động tình dục một cách rõ ràng, thật hoặc mô phỏng, hoặc bất
kỳ sự thể hiện nào về những bộ phận sinh dục của trẻ em nhằm các mục đích tình
dục” (Khoản 3 Điều 2). Khái niệm này cũng đã được ghi nhận trong một số văn bản
pháp luật của Việt Nam như tại khoản 5 Điều 3 Nghị định 178/2004/NĐ-CP quy
36
định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm “là hành vi
dùng cử chỉ, hành động, hình ảnh, âm thanh gây kích thích ham muốn tình dục” hay
“là hành vi dùng hình ảnh, ngôn ngữ, âm thanh, hành động khêu gợi, kích thích dâm
ô, ham muốn tình dục trái với truyền thống đạo đức, thuần phong mỹ tục dân tộc
Việt Nam bao gồm: mô tả bộ phận sinh dục, khỏa thân, mô tả khỏa thân hoặc không
khỏa thân nhưng kích thích tình dục, mô tả nhu cầu tình dục, thủ dâm dưới mọi hình
thức” (khoản 1 Điều 3 Thông tư số 09/2010/TT-BVHTTDL quy định chi tiết thi
hành một số quy định tại Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính
phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa); tuy nhiên,
“trình diễn khiêu dâm” chưa được định nghĩa trong bất kì điều ước quốc tế nào Việt
Nam tham gia hay văn bản pháp luật nào của nước ta. “Trực tiếp chứng kiến” có thể
hiểu là người chứng kiến có mặt ngay tại nơi trình diễn khiêu dâm đó, tuy nhiên,
với sự phát triển vũ bão của công nghệ, nếu việc trình diễn khiêu dâm đó được phát
trực tiếp qua mạng Internet, qua các ứng dụng video trực tuyến thịnh hành như
livestream của Facebook, facetime thì có được coi là trực tiếp chứng kiến hay
không? “Dưới mọi hình thức” ở đây là hình thức chứng kiến hay hình thức trình
diễn khiêu dâm? Đây là những câu hỏi để các cơ quan chức năng đưa giải thích để
tránh những cách hiểu khác nhau về nội dung Điều luật.
- Đường lối xử lí: Điều luật quy định 03 khung hình phạt, ít nhất là 6 tháng tù
(khoản 1) đến 12 năm tù (khoản 3). Ngoài một số tình tiết định khung tăng nặng đã
phân tích trước đó, điều luật còn bổ sung một tình tiết mới đó là “có mục đích
thương mại” (điểm đ khoản 2). Một người sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích
khiêu dâm nhằm thu lợi bất chính bao gồm tiền hoặc lợi ích vật chất khác thì sẽ phải
chịu tình tiết định khung tăng nặng này. Bên cạnh các hình phạt chính là các hình
phạt bổ sung như sau: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ 01 năm đến 05 năm và nếu xét thấy cần thiết các cơ quan tiến hành tố
tụng có thể bị áp dụng bất kỳ hình phạt nào trên đây.
Đối với tội Mua dâm người dưới 18 tuổi
So với Điều 256 BLHS 1999, Điều 329 BLHS 2015, mặc điểm b khoản 2 của 02
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam

More Related Content

What's hot

What's hot (17)

Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
 
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAYQuyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
 
Ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội trong điều tra vụ án
Ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội trong điều tra vụ ánNgăn chặn người chưa thành niên phạm tội trong điều tra vụ án
Ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội trong điều tra vụ án
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luậtHình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
 
Luận án: Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp l...
Luận án: Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp l...Luận án: Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp l...
Luận án: Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp l...
 
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOTLuận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
 
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt NamLuận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam
 
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tộiChính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
 
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Bắc Ninh
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Bắc NinhLuận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Bắc Ninh
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Bắc Ninh
 
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện của tội giết người tỉnh Tiền Giang
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện của tội giết người tỉnh Tiền GiangLuận văn: Nguyên nhân điều kiện của tội giết người tỉnh Tiền Giang
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện của tội giết người tỉnh Tiền Giang
 
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại TPHCM, HAY
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại TPHCM, HAYLuận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại TPHCM, HAY
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại TPHCM, HAY
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà NẵngLuận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
 
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 

Similar to Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam

Similar to Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam (20)

Phòng ngừa các tội xâm phạm trật tự công cộng tại tỉnh Quảng Nam
Phòng ngừa các tội xâm phạm trật tự công cộng tại tỉnh Quảng NamPhòng ngừa các tội xâm phạm trật tự công cộng tại tỉnh Quảng Nam
Phòng ngừa các tội xâm phạm trật tự công cộng tại tỉnh Quảng Nam
 
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đNgăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
 
Nguyên nhân, điều kiện của tội cướp giật tài sản tại tỉnh Tiền Giang
Nguyên nhân, điều kiện của tội cướp giật tài sản tại tỉnh Tiền GiangNguyên nhân, điều kiện của tội cướp giật tài sản tại tỉnh Tiền Giang
Nguyên nhân, điều kiện của tội cướp giật tài sản tại tỉnh Tiền Giang
 
Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình Sự
Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình SựLuận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình Sự
Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình Sự
 
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAYLuận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long An
Luận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long AnLuận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long An
Luận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long An
 
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAYLuận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
 
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAYLuận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
Luận văn: Định tội danh tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, HAY
 
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
 
Luận văn: Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tại Vĩnh PhúcLuận văn: Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tại Vĩnh Phúc
 
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đLuận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
 
Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dân
Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dânBảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dân
Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dân
 
Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu tỉnh Kiên Giang, 9đ
Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu tỉnh Kiên Giang, 9đNhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu tỉnh Kiên Giang, 9đ
Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu tỉnh Kiên Giang, 9đ
 
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, 9 ĐIỂM
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, 9 ĐIỂMLuận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, 9 ĐIỂM
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAY
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAYLuận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAY
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAY
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội
Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tộiHình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội
Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn tội phạm học: Phòng ngừa tình hình tội phạm
Luận văn tội phạm học: Phòng ngừa tình hình tội phạmLuận văn tội phạm học: Phòng ngừa tình hình tội phạm
Luận văn tội phạm học: Phòng ngừa tình hình tội phạm
 
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội phạm tại TP Hà Nội, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội phạm tại TP Hà Nội, HAYLuận văn: Phòng ngừa tình hình tội phạm tại TP Hà Nội, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội phạm tại TP Hà Nội, HAY
 
LUẬN VĂN LUẬT HỌC PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM, T...
LUẬN VĂN LUẬT HỌC PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM, T...LUẬN VĂN LUẬT HỌC PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM, T...
LUẬN VĂN LUẬT HỌC PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM, T...
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Recently uploaded

Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshareTẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
HuyBo25
 

Recently uploaded (20)

Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh AnPhân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌCLuận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
 
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
 
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
 
Tăng trưởng tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công...
Tăng trưởng tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công...Tăng trưởng tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công...
Tăng trưởng tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công...
 
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌCTIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft WordTrích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
 
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
 
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
 
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshareTẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
 
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
 

Luận văn: Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em tỉnh Quảng Nam

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THANH THẢO CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA TRẺ EM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THANH THẢO CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA TRẺ EM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8 38 01 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS TRẦN VĂN ĐỘ HÀ NỘI, năm 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thanh Thảo
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................................1 CHƯƠNG 1. CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM TRẺ EM..........................................................................................................7 1.1. Khái niệm các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em....................................................7 1.2. Cơ sở quy định các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em..........................................10 1.3. Các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em ..........................15 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM TRẺ EM Ở TỈNH QUẢNG NAM.................26 2.1. Thực trạng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em ...............26 2.2. Thực tiễn xét xử các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em ở tỉnh Quảng Nam .........37 CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM TRẺ EM.................................56 3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng xét xử các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em.........56 3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em................................................................................................................................61 KẾT LUẬN................................................................................................................72 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự BVTE : Bảo vệ trẻ em CTTP : Cấu thành tội phạm CULHQVQTE : Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em ĐCS : Đảng cộng sản LTTHS : Luật tố tụng hình sự NCTN : Người chưa thành niên PLHS : Pháp luật hình sự TAND : Toà án nhân dân TNHS : Trách nhiệm hình sự TTATXH : Trật tự an toàn xã hội VAHS : Vụ án hình sự VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa XPNP : Xâm phạm nhân phẩm XPNPTE : Xâm phạm nhân phẩm trẻ em
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trẻ em là thế hệ mầm non - tương lai của đất nước, cần được chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trong những điều kiện tốt nhất bởi gia đình, nhà trường và xã hội. Pháp luật Nhà nước CHXHCN Việt Nam luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến trẻ em, xem trẻ em là nguồn hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời trang bị hành lang pháp luật để BVTE khỏi sự xâm hại, đặc biệt là xâm hại nhân phẩm. Theo Tổng cục Thống kê, đến năm 2018 quy mô dân số nước ta đạt 96.963.958 người, trong đó trẻ em dưới 16 tuổi khoảng 34,23 triệu người, chiếm 33,2% dân số. Với xu hướng cơ cấu dân số trẻ, sự phát triển của trẻ em càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Do đó, công tác chăm sóc, giáo dục và BVTE luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển con người [48]. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng đó mang lại những thành tựu to lớn về kinh tế, xã hội. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong suốt hai thập kỷ qua, đời sống nhân dân đang ngày một nâng cao, nhận thức và hành động trong công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của toàn xã hội đã có những chuyển biến mạnh mẽ. Công tác lập pháp và giám sát về BVTE của Quốc hội được tăng cường. CULHQVQTE và Luật trẻ em 2016 đang đi vào cuộc sống. Môi trường, điều kiện sống và phát triển của trẻ em ngày càng được cải thiện nhờ những giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được, trong những năm qua, những thách thức đối với vấn đề bảo vệ trẻ em lại đang diễn ra phức tạp trên cả 3 cấp độ: BVTE đang bị xâm hại; BVTE có nguy cơ bị xâm hại và BVTE ở cộng đồng. Tình trạng trẻ em bị lạm dụng và xâm hại về thể chất, tinh thần, nhân phẩm với chiều hướng ngày càng gia tăng và phức tạp. Nghị quyết số 09, ngày 31 tháng 7 năm 1998 của Chính Phủ về tăng cường công tác phòng chống tội phạm
  • 7. 2 trong tình hình mới đã nêu XPNPTE là một trong những loại phạm tội gây ra rất hậu quả nghiêm trọng, khiến dư luận xã hội quan tâm, lo lắng, nên cần tập trung giải quyết [9]. Vì vậy, đấu tranh phòng chống tội phạm XPNPTE được xác định là 1 trong 4 đề án được quan tâm giải quyết. Quảng Nam là tỉnh thuộc vùng đồng bằng duyên hải miền Trung, phía Bắc tiếp giáp với trung tâm hành chính, kinh tế lớn thành phố Đà Nẵng, tình hình tội phạm XPNPTE trong một thập kỷ (từ 2008-2018) vừa qua diễn biến khá phức tạp, số lượng các vụ án tăng nhanh, từ 25 vụ 36 bị cáo trong năm 2008 đã tăng lên 36 vụ 47 bị cáo trong năm 2018 với tính chất và mức độ ngày càng nghiêm trọng. Diễn biến gia tăng về số vụ phạm tội một mặt phản ánh công tác đấu tranh, khởi tố điều tra, truy tố và xét xử các vụ án XPNPTE trong những năm qua tại Quảng Nam đã có những tiến bộ, nhưng mặt khác cũng cho thấy tình hình tội phạm XPNPTE đã và đang diễn biến phức tạp, điều đó cũng có nghĩa là công tác đấu tranh, phòng ngừa, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án XPNPTE gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại và còn một số hạn chế, chưa thực sự chủ động trong việc ngăn chặn và và kiểm soát tội phạm XPNPTE. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn công tác ngành Tòa án, Học viên thấy rằng vấn đề xâm phạm nhân phẩm của trẻ em đang là điểm nóng trong xã hội cần được quan tâm. Vì vậy, học viên quyết định chọn đề tài “Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm đề tài nghiên cứu khoa học và luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật học của Học viện khoa học xã hội . 2. Tình hình nghiên cứu đề tài * Các sách chuyên khảo: - “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)”, GS. TSKH. Lê Cảm chủ biên, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001 [13]. - Trường Đại học Luật Hà Nội, “Giáo trình luật hình sự Việt Nam”, NXB. CAND, Hà Nội, 2009 [12]. - “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm)”, của ThS.Đinh Văn Quế, Nxb. TP.HCM, năm 2002, tái bản năm 2010 [24].
  • 8. 3 - Bình luận khoa học “Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)” của GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, 2014 [52]. - So sánh đối chiếu Bộ luật hình sự 1999, 2015 và Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2017 của NXB Hồng Đức, Hà Nội năm 2017 [37]. * Dưới góc độ đề tài khoa học và Luận án tiến sỹ, Luận văn thạc sỹ: - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp khoa “tội phạm xâm hại tình dục trẻ em tại Hà Nội- thực trạng và một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, ngăn chặn của lực lượng Cảnh sát Hình sự Công an thành phố Hà Nội” của Hoàng Tâm, Nguyễn Nhật Quang, Bùi Tiến Đạt năm 2004 [39]. - Luận án tiến sĩ Luật học: "Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người theo pháp luật hình sự Việt Nam", của tác giả Vũ Hải Anh, Học viện khoa học xã hội, năm 2017 [1]. - Luận văn thạc sỹ luật học: “Các tội xâm hại tình dục trẻ em trong Luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Hương, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2014 [17]. - Luận văn thạc sỹ luật học: “Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người theo Luật hình sự Việt Nam, trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk” của tác giả Nguyễn Đình Cương, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2015 [11]. - Luận văn thạc sỹ luật học: “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người trong Luật hình sự Việt Nam, trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Yên Bái” của tác giả Lê Thái Hưng, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2015 [16]. - Luận văn thạc sỹ luật học: "Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn tỉnh Thái Nguyên)”, của tác giả Dương Văn Thịnh, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2016 [40]. - Luận văn thạc sỹ luật học: "Tội mua dâm người dưới 18 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam" của tác giả Nguyễn Hồng Nhung, Viện hàn lâm, khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, năm 2018 [23].
  • 9. 4 Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản về tình hình các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em. Nhưng đối với việc nghiên cứu các tội phạm về XPNPTE tại một địa phương cụ thể, thì chưa có một công trình nào nghiên cứu đặc biệt là đề tài “Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, phân tích các quy định của PLHS Việt Nam và đánh giá thực tiễn xét xử VAHS về các tội phạm XPNPTE trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm việc xác định tội danh và áp dụng hình phạt đối với các tội phạm XPNPTE theo PLHS Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu, phân tích khái niệm và dấu hiệu pháp lý của các tội phạm XPNPTE, phân biệt từng tội phạm XPNPTE với nhau. - Nghiên cứu và phân tích về lịch sử phát triển của pháp luật Việt Nam tháng 8 năm 1945 đến ngày 01.01.2018, khi BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực) về “Các tội phạm xâm phạm nhân phẩm trẻ em”. - So sánh những quy định của PLHS Việt Nam với một số nước trên thế giới về các tội phạm XPNPTE. - Đánh giá thực tiễn xét xử các VAHS về các tội phạm XPNPTE ở tỉnh Quảng Nam, trong đó tập trung nghiên cứu, phân tích việc định tội danh và áp dụng hình phạt. - Đưa ra các giải pháp đảm bảo việc định tội danh và áp dụng hình phạt đối với các tội phạm XPNPTE. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu các vấn đề lý luận, quy định của PLHS Việt Nam về các tội phạm XPNPTE từ tháng 8 năm 1945 đến nay. Trong đó luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về các tội phạm XPNPTE trong BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung
  • 10. 5 2009), so sánh với quy định về các tội phạm XPNPTE trong BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017, có hiệu lực từ ngày 01.01.2018). Đồng thời, nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về “Các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em” ở tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2008 - 2018. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu thực tiễn thụ lý xét xử các tội phạm XPNPTE tại Tòa án nhân dân các cấp tỉnh Quảng Nam từ năm 2008 đến năm 2018 và những văn bản quy phạm pháp luật về thụ lý và xét xử các vụ án XPNPTE trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến năm 2018. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận: Luận văn nghiên cứu trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về Nhà nước và pháp luật, về đấu tranh, phòng chống tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm con người nói chung và các tội phạm XPNPTE nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở kết hợp giữa phương pháp nghiên cứu lý thuyết và phương pháp nghiên cứu thực tiễn lấy phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng thông qua đó có sự phân tích, tổng hợp theo từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Ngoài ra luận văn cũng sử dụng các phương pháp của các bộ môn khoa học khác như phương pháp lịch sử, so sánh, hệ thống hóa, logic và thống kê kết hợp với khảo sát thực tế. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm đa dạng thêm cơ sở lý luận và góp ý kiến để nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về “Các tội phạm xâm phạm nhân phẩm trẻ em”. Bên cạnh đó cũng có thể sử dụng Luận văn này làm tài liệu học tập và nghiên cứu. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn góp phần nâng cao hiệu quả xét xử các VAHS nói chung và các tội phạm XPNPTE nói riêng. Bên cạnh đó có thể dùng làm tài liệu để trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung những chế định của pháp luật liên quan đến các tội phạm XPNPTE trong pháp luật hình sự Việt Nam.
  • 11. 6 7. Kết cấu của luận văn Luận văn được cấu thành bởi các bộ phận như sau: Mở đầu Chương 1: Các vấn đề lý luận về các tội phạm xâm phạm nhân phẩm trẻ em Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn xét xử các tội phạm xâm phạm nhân phẩm trẻ em ở tỉnh Quảng Nam Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng xét xử xét xử các tội phạm xâm phạm nhân phẩm trẻ em. Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo Phụ lục
  • 12. 7 CHƯƠNG 1 CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM TRẺ EM 1.1. Khái niệm các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em 1.1.1. Khái niệm trẻ em trong pháp luật hình sự Việt Nam Quá trình phát triển về thể chất và tâm sinh lý của con người từ khi được sinh ra đến khi chết đi trải qua các giai đoạn khác nhau, trong đó giai đoạn trẻ em là thời kỳ phát triển đầu tiên trong cuộc đời mỗi con người. Theo quy định tại Điều 1 CULHQVQTE 1989 thì: “Trong phạm vi Công ước này trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn” [19, tr.14]. Nghĩa là, các quốc gia phê chuẩn hoặc tham gia Công ước này đều phải tuân thủ theo quy định về độ tuổi của trẻ em là dưới 18 tuổi. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn CULHQVQTE Trở thành thành viên của Công ước, hệ thống pháp luật trong nước đã quy định độ tuổi của trẻ em là dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, cho đến nay trong nền khoa học pháp lý nước ta có thể nói chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh và thống nhất về trẻ em, cụ thể là trong việc xác định ranh giới lứa tuổi của trẻ em. Ở Việt Nam vấn đề quy định độ tuổi được coi là "Trẻ em" được quy định tại Luật trẻ em 2016, quy định tại Điều 1 “Trẻ em là người dưới 16 tuổi” [36]. Trên thực tế, ở mỗi một ngành luật chuyên ngành khác nhau thì tùy theo mức độ tiếp cận mà có những quy định liên quan đến độ tuổi và các quyền và nghĩa vụ của trẻ em là khác nhau, như: BLHS 2015; Luật Lao động 2012, Luật Thanh niên 2005, BLDS 2015, Luật Giáo dục 2009 (dự thảo sửa đổi 2018), Luật Quốc tịch 2008 (sửa đổi bổ sung 2017) cũng có những quy định lứa tuổi được coi là trẻ em phù hợp với góc độ tiếp cận của ngành luật đó…. Khái niệm "Trẻ em" không được quy định cụ thể trong Pháp luật hình sự Việt Nam nhưng tại các Điều luật có liên quan nhà làm luật đưa ra nhiều lối tư duy khác
  • 13. 8 nhau để định nghĩa về trẻ em; tương ứng với mỗi CTTP, khái niệm“Trẻ em” cũng được mô tả không giống nhau và để có thể đưa ra một khái niệm về trẻ em, trước hết cần tìm hiểu những đặc điểm tâm sinh lý và xã hội, pháp lý của lứa tuổi này. Các nghiên cứu khoa học ghi nhận lứa tuổi trẻ em có các đặc điểm như sau: - Về thể chất: Phân kỳ phát triển cơ thể thì giai đoạn trẻ em trải qua nhiều thời kỳ. Thời kỳ sơ sinh (từ lúc lọt lòng đến 01 tháng tuổi); thời kỳ bú mẹ (từ 1 - 12 tháng tuổi); thời kỳ răng sữa (từ 12- 60 tháng tuổi); thời kỳ thiếu niên (từ 7- 15 tuổi); thời kỳ dậy thì (lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông). Như vậy, trẻ em là giai đoạn chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, các cơ quan trong cơ thể đang trong quá trình xác lập, phân định và hoàn thiện về chức năng sinh lý, do đó sức đề kháng và khả năng chống chọi với các tác động bất lợi của môi trường, điều kiện sống của trẻ còn thấp hơn so với người trưởng thành. Vì vậy, những tác động xấu của môi trường lên cơ thể trẻ em thường gây nên những hậu quả bất lợi cho sự phát triển bình thường của cơ thể, thậm chí gây ra những di chứng cho giai đoạn phát triển tiếp theo. - Về tâm lý: Lứa tuổi trẻ em là thời kỳ lĩnh hội, tiếp nhận những tác động của môi trường và điều kiện sống, những kinh nghiệm xã hội, lịch sử để định hình lên những phẩm chất tâm lý nói chung và đặc điểm nhân cách nói riêng. Những phẩm chất, đặc điểm này ở trẻ được hình thành qua quá trình giáo dục ở gia đình, nhà trường và sự tác động của môi trường xã hội xung quanh trẻ. Khi đã được định hình, chúng có ảnh hưởng rất lớn trong giai đoạn phát triển tiếp theo. Nên ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực của môi trường sống là nhân tố quan trọng, trực tiếp tác động tới quá trình hình thành phẩm chất tâm lý và nhân cách ở trẻ em. - Đặc điểm về xã hội - pháp lý: Vì chưa phát triển hoàn thiện về thể chất, tâm lý, trẻ không có hoặc chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Nghĩa là, bằng hành vi của mình, trẻ không thể, hoặc chưa thể xác lập được một cách đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình khi tham gia các quan hệ dân sự. Nên cần có người giám hộ đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ, đồng thời gánh chịu thay những hậu quả pháp lý do hành vi của trẻ gây nên ở lứa tuổi này, hoạt động xã hội của trẻ
  • 14. 9 em chủ yếu vẫn trong phạm vi nhà trường và sinh hoạt tại nơi cư trú. Trẻ thường sống phụ thuộc gia đình, tuy nhiên do các lý do khác nhau mà có cháu phải tự lập kiếm sống, không được đi học, thiếu sự chăm sóc, giáo dục và bảo vệ của gia đình và nhà trường. Từ các đặc điểm nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về trẻ em như sau:“Trẻ em là người dưới 16 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tâm lý, không có hoặc chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, thiếu khả năng tự bảo vệ nên dễ bị tội phạm xâm hại, cần có sự bảo vệ đặc biệt của pháp luật”. Theo học viên khái niệm về Trẻ em trong PLHS Việt Nam là: "Trẻ em trong pháp luật hình sự Việt Nam là người từ khi sinh ra đến dưới 16 tuổi". 1.1.2. Khái niệm nhân phẩm trẻ em Nhân phẩm con người là gì? Nhân phẩm là giá trị làm người của mỗi cá nhân, do vậy nhân phẩm không những phụ thuộc vào mỗi cá nhân mà nó còn phụ thuộc vào quan niệm của xã hội và của giai cấp. Ở mỗi con người chúng ta luôn có những phẩm chất nhất định, những phẩm chất này làm nên giá trị của cá nhân (con người), gọi là nhân phẩm, là toàn bộ những phẩm giá, giá trị làm người của mỗi con cá nhân. Từ những phân tích đánh giá nêu trên về Khái niệm nhân phẩm và Khái niệm trẻ em được quy định tại Điều 1 Luật trẻ em Việt Nam 2016. Học viên xin mạnh dạn đưa ra Khái niệm nhân phẩm trẻ em: "Nhân phẩm trẻ em là phẩm giá, giá trị tinh thần, lương tâm trong sáng của người dưới 16 tuổi". 1.1.3. Khái niệm các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em Tội phạm là gì? Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội và chịu các hình phạt theo quy định của BLHS - Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 [28]. Khái niệm các tội phạm XPNPTE được nghiên cứu nhằm để chỉ một nhóm hành vi tội phạm cụ thể, xâm hại quyền, lợi ích một loại đối tượng cụ thể là trẻ em. Các loại hành vi XPNPTE được quy định tại các Điều luật cụ thể như: Hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142 BLHS); Dâm ô với người dưới 16 tuổi (Điều 146 BLHS); Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13
  • 15. 10 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS); Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144 BLHS); Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147 BLHS) và Mua dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Vậy tội phạm XPNPTE nghĩa là người phạm tội đã thực hiện những hành vi như: cố ý cưỡng bức, lợi dụng sự kém hiểu biết trẻ em để xâm phạm đến nhân phẩm của trẻ em. Từ những phân tích trên đây, học viên xin đưa ra khái niệm về các tội phạm XPNPTE như sau: “Các tội phạm xâm phạm nhân phẩm trẻ em là các hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người không ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến các quyền, lợi ích cấu thành nhân phẩm của trẻ em”. Tội phạm nói chung và các tội phạm XPNPTE nói riêng diễn ra trên thực tế rất đa dạng, xâm hại đến nhiều loại khách thể khác nhau, BLHS 2015 không đặt ra một chương riêng về tội phạm XPNPTE, nhưng căn cứ vào các tiêu chí khác nhau có thể phân chia các tội phạm XPNPTE thành hai nhóm như sau: Nhóm thứ nhất, các tội được quy định bằng Điều luật cụ thể: Tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi" (Điều 142); tội “Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” (Điều 144); tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dùng khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" (Điều 145); tội "Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi" (Điều 146) và tội "Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm" (Điều 147) v.v. [28]. Nhóm thứ hai, các tội quy định XPNPTE là tình tiết định khung tăng nặng: Tội "Mua bán người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục" (điểm b khoản 1 Điều 151); Tội“Mua dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”(điểm b, khoản 2, Điều 329). 1.2. Cơ sở quy định các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em 1.2.1. Cơ sở chính trị - xã hội - Chăm lo, giáo dục và BVTE luôn là một ưu tiên trong chiến lược phát triển con người ở nước ta. Đảng và Nhà nước luôn xác định chăm lo cho thế hệ trẻ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, là mục tiêu của mọi thời kỳ cách mạng và mang dấu ấn đặc thù của tư tưởng Hồ Chí Minh, Người nói: “Bồi dưỡng thế hệ cách
  • 16. 11 mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” và: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Tại Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, đặc biệt là Chỉ thị số 197/CT-TW 19/3/1960 về công tác thiếu niên, nhi đồng của Đảng - lần đầu tiên công tác thiếu niên, nhi đồng được đề cập một cách toàn diện và đầy đủ trong một văn kiện của Đảng, thể hiện mối quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta đối với việc đào tạo, bồi dưỡng lớp người mới phục vụ cho sự nghiệp xây dựng XHCN. Từ đó đến nay Đảng đã có rất nhiều chỉ thị về công tác thiếu niên, nhi đồng. Đến năm 1979 Đảng và Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em - đây chính là nền tảng pháp lý đầu tiên để BVTE. Đại hội Đảng lần thứ tư (1986), Đảng và Nhà nước ta tiến hành công cuộc đổi mới trên nhiều phương diện, trong đó chính thức nhắc đến các quy định pháp luật về quyền trẻ em. Như vậy nghĩa vấn đề BVTE cũng là một bộ phận quan trọng của công cuộc đổi mới này. Từ đó, quyền trẻ em với tư cách là quyền con người được thảo luận công khai và rộng rãi và được ghi nhận, quy định cụ thể các quyền của trẻ em trong pháp luật Việt Nam. Đầu tiên về thành tựu lập pháp, hàng loạt các văn bản có hiệu lực pháp lý cao đó ra đời, nhằm thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng về trẻ em vào trong hệ thống pháp luật cho phù hợp với điều kiện mới, đó là BLHS 1985, Luật Hôn nhân gia đình 1986, Luật Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân 1988. Đặc biệt là khi CUQTVQTE ra đời, nhằm cụ thể hoá các quy định của Công ước vào hệ thống pháp luật quốc gia, Nhà nước ta đã ban hành Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em 1991, Luật Phổ cập giáo dục tiểu học 1991, Luật Giáo dục 1998. Ngày 30/5/1994 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã ra Chỉ thị số 38/CT-TW về “tăng cường công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em”; phát động “tháng hành động vì trẻ em” từ ngày 15/5 đến ngày 30/6 hàng năm. Sau khi sơ kết 04 năm thực hiện chỉ thị 38/CT- TW, Bộ Chính trị đã ra Thông tri số 04/TT-TW về: “tăng cường lãnh đạo công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”. Trong giai đoạn hiện nay, công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em đặt trước những thách thức mới, Đảng đã ban hành những văn bản quan trọng giúp định
  • 17. 12 hướng hành động cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Ngày 28 tháng 6 năm 2000 Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 55, trong đó trong tâm nêu rõ các cơ sở Đảng phải nâng cao công tác BVTE. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hiện nay nhiều Chương trình hành động Quốc gia vì trẻ em trên các lĩnh vực như giáo dục, y tế, dinh dưỡng được tổ chức thực hiện, ví dụ như “Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2001- 2010”; “Chương trình hành động quốc gia vỡ trẻ em giai đoạn 2001-2010”; Chiến lược chăm sóc sức khoẻ sinh sản quốc gia 2001-2010”. Như vây, Chủ tịch Hồ Chí Minh và ĐCS Việt Nam đã thấy rõ vai trò của trẻ em trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Cho nên Đảng và Nhà nước qua nhiều giai đoạn lịch sử, luôn coi trọng BVTE bà đề ra những đường lối, chính sách cụ thể tạo nên một quá trình đồng bộ, nhất quán và toàn diện hướng tới một chế độ chính trị, pháp lý hoàn chỉnh cho công tác BVTE. 1.2.2. Cơ sở pháp lý - Ngày 20/02/1990 Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã phê chuẩn CULHVQTE 1989. Từ đó hệ thống pháp luật quốc gia ở nước ta đã tích cực “nội luật hoá” tinh thần và nội dung của Công ước này. Hàng loạt văn bản pháp luật quan trọng như Hiến pháp; Luật trẻ em; Luật Quốc tịch; Luật Phổ cập giáo dục tiểu học; Luật Lao động; Luật Dân sự, được ban hành và sửa đổi, đều quan tâm thích đáng đến quyền lợi của trẻ em. Có thể tìm hiểu quyền trẻ em được quy định trong một số ngành luật sau: Hiến pháp là đạo luật gốc, quy định những vấn đề quan trọng mang tính nguyên tắc, làm cơ sở cho các ngành luật khác. Các quyền cơ bản nhất của trẻ em đã được quy định trong Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013, chẳng hạn như khoản 1 Điều 37 Hiến pháp 2013 quy định: "Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em". Tại Điều 5 Luật trẻ em Việt Nam năm 2016 đã quy định tập trung nhất về các quyền cơ bản của trẻ em và trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và xã hội trong việc
  • 18. 13 bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em như: Không được phân biệt đối xử đối với trẻ em … Và tại Điều 6 Luật này lại quy định các hành vi bị nghiêm cấm: Không xâm hại tình dục trẻ em…; Còn tại Chương II của Luật trẻ em đã dành 24 Điều (từ Điều 12 đến Điều 36) để quy định các quyền dành cho trẻ em như: quyền được khai sinh và có quốc tịch .v.v. Còn tại Chương III và Chương IV của thì về trách nhiệm chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em; thực hiện quyền của trẻ em; các hành vi bị nghiêm cấm; trách nhiệm quản lý Nhà nước về bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em.v.v.. Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình. Trong Luật này, trẻ em được sự bảo hộ pháp lý đặc biệt. Điều 2 Luật này quy định Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con; Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm BVTE. Điều 68 và 69 quy định cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con. Các Điều 75; 76; 77 Luật này ghi nhận về quyền có tài sản riêng, việc quản lý tài sản riêng và định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên. Tại Điều 90 quy định về quyền nhận cha, mẹ của con. Qua những quy định trên, ta thấy trong chính sách pháp luật nước ta, quyền của trẻ em luôn được đề cao, tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Xuất phát từ truyền thống, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, với bản chất ưu việt của Nhà nước XHCN, hệ thống pháp luật nước ta đã quy định một cách thống nhất và đồng bộ về quyền của trẻ em, cũng như quy định trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức và mọi công dân bảo đảm cho các quyền của trẻ em được thực hiện trên thực tế, hợp với những chuẩn mực giá trị nhân văn của nhân loại. 1.2.3. Cơ sở thực tiễn Vì trẻ em là con người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể chất cũng như tâm sinh lý, nên khi trẻ bị XPNP sẽ dẫn đến những hậu quả rất nghiêm trọng tác động trực tiếp đến tâm sinh lý của trẻ em khiến trẻ em dễ bị mặc cảm, phát triển không bình thường, khó hoà nhập với xã hội, tổn thương về sức khoẻ thể chất, và gây ra những tổn thương nặng nề về tinh thần ... nhất là đối với trẻ em nữ bị xâm
  • 19. 14 hại tình dục có thể làm nạn nhân có thai khi chưa phát triển đầy đủ thể trạng và chưa có sự hiểu biết về sức khỏe sinh sản dẫn đến việc phải nạo phá thai ngoài ý muốn hoặc sinh ra những em bé phát triển không bình thường. Những trường hợp XPNPTE đi kèm với bạo lực có thể dẫn tới tử vong. Theo số liệu thống kê, dân số Việt Nam tính đến hết năm 2018 có 96.963.958 người, trong đó trẻ em dưới 16 tuổi khoảng 34,23 triệu người, chiếm 33,2% dân số [48]. Ý thức được tầm quan trọng của công tác BVTE, Chính phủ đã tích cực đề ra nhiều giải pháp để hạn chế sự lạm phát trong các loại tội phạm có đương sự là trẻ em nói chung và các tội phạm XPNPTE nói riêng. Nhưng do tình hình tội phạm XPNPTE có xu hương ngày diễn biến phức tạp do sự phát triển của khoa học công nghệ, điện tử tin học giúp cho tội phạm dễ dàng trong việc đưa ra những vỏ bọc ngụy trang, che dấu tinh vi các thủ đoạn phạm tội và phương thức tiếp cận để lôi kéo, dụ dỗ trẻ em thậm chí sau khi tội phạm XPNPTE đã có những hành vi dùng mạng xã hội (Internet) để không chế các em. Do vậy đòi hỏi công tác nghiên cứu lập pháp nhất là trong lĩnh vực hình sự cần phải đượcr sửa đổi, bổ sung, thay thế kịp thì mới có thể góp phần nhanh chóng xử lý và có chế tài đủ mạnh đối với tội phạm XPNPTE. 1.2.4. Hội nhập quốc tế Từ năm 1986 đến nay nước ta đã tích cực mở rộng mối quan hệ với nhiều quốc gia trên thế giới như Mỹ, Pháp, Trung Quốc …, không còn bó hẹp trong phạm vi các nước XHCN. Đặc biệt là việc sau khi Việt Nam ký kết CUQTVQTE, Chính Phủ Việt Nam đã nhanh chóng đưa quyền trẻ em vào hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề mà CUQTVQTE và luật pháp quốc tế liên quan đến quyền trẻ em tuy đã được quy định trong Luật trẻ em 2016 và một số Luật khác của Việt Nam nhưng chỉ mang tính nguyên tắc, chưa được thể hiện một cách cụ thể và thiếu các quy định về biện pháp thúc đẩy thực hiện, dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau và rất khó thống nhất trong việc thể chế hóa trong các văn bản hướng dẫn thực hiện luật. Một số vấn đề quan trọng liên quan đến thực hiện quyền
  • 20. 15 được bảo vệ, quyền tham gia của trẻ em mới được cộng đồng quốc tế đề cập đến trong thời gian từ 2008 đến nay và đang được thực hiện ở Việt Nam chưa được đề cập đầy đủ. Pháp luật về các tội phạm XPNPTE là phương tiện để thực hiện sự cam kết và hòa nhập giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, bảo đảm việc bảo vệ quyền trẻ em ở mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Trong điều kiện hiện nay, nhiều nội dung cụ thể của quyền trẻ em cũng như việc bảo vệ quyền trẻ em đòi hỏi phải có sự đấu tranh, hợp tác giải quyết, phối hợp của nhiều quốc gia hoặc cộng đồng quốc tế. Những nội dung này đều là những vấn đề đòi hỏi cần có sự hợp tác, phối hợp của các quốc gia với nhau trong cộng đồng thế giới. 1.3. Các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em 1.3.1. Khách thể của tội phạm: Tội phạm XPNPTE xâm hại trực tiếp đến quyền bất khả XPNP, danh dự, quyền tự do, quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, quyền được phát triển và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của trẻ em được pháp luật bảo hộ; gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bình thường về thể chất, tâm, sinh lý, thậm chí gây ra hậu quả là những di chứng nguy hại cho quá trình phát triển tiếp theo của các em; đi ngược lại đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em; gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với tình hình TTATXH. Khách thể trực tiếp của mỗi một tội phạm XPNPTE cụ thể được xác định căn cứ vào quyền, lợi ích cụ thể bị hành vi phạm tội đó xâm hại. Như hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục của người dưới 16 tuổi (trẻ em). Đối tượng của tội phạm (bị hại) là người dưới 16 tuổi. Tuy nhiên, tuỳ theo tội phạm cụ thể mà độ tuổi bị hại có khác nhau: đối tượng của tội hiếp dâm, tội dâm ô, tôi sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiếu dâm là người dưới 16 tuổi; đối tượng của tội cưỡng dâm, tội giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục, tôi mua dâm là người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi…
  • 21. 16 1.3.2. Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của tội phạm XPNPTE thường diễn ra dưới dạng hành động phạm tội. Trên thực tế, hành vi xâm hại rất đa dạng, tội phạm thường được thực hiện bằng bạo lực; bằng thủ đoạn lợi dụng sự non nớt, chưa phát triển hoàn thiện về thể lực và trí lực, tình trạng không thể tự vệ được của trẻ em (người dưới 16 tuổi), thủ đoạn lợi dụng điều kiện hoàn cảnh khách quan thuận lợi, trẻ em không có người bảo vệ. Trong số các tội XPNPTE có nhiều tội mang tính bạo lực, đó có thể là hành vi đối xử tàn ác, bạo hành đối với trẻ em gây đau đớn về thể xác, khủng hoảng về tinh thần như bắt trói, đánh đập, bỏ đói…; dùng sức mạnh vật chất tác động lên cơ thể trẻ em (như vật ngã, khoá trói, giữ chân tay…) để đè bẹp sự kháng cự vốn đã rất yếu ớt của trẻ; đe doạ dùng vũ lực (như dùng lời nói, cử chỉ, động tác…) uy hiếp tinh thần, gây ra cho trẻ sự sợ hãi khiếp đảm; hoặc dùng các thủ đoạn khác (như đầu độc, cho uống thuốc mê, chất kích thích…) để đẩy trẻ em lâm vào tình trạng không thể kháng cự nhằm thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi dạng này thường gặp trong các vụ án hiếp dâm người dưới 16 tuổi, cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; Lợi dụng sự yếu đuối, non nớt, thiếu kinh nghiệm sống của trẻ em để lừa gạt, dụ dỗ, cưỡng ép, gây áp lực tâm lý làm trẻ khiếp sợ buộc phải khuất phục để tội phạm diễn ra như trong các vụ án dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi bán dâm; giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, mua bán người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục.v.v. Có trường hợp còn dùng các thủ đoạn tạo hoàn cảnh đẩy trẻ em lệ thuộc vào chúng, khống chế trẻ em đang lệ thuộc hoặc đang trong tình trạng quẫn bách để thực hiện tội phạm như: Lệ thuộc về vật chất giữa người nuôi dưỡng và người được nuôi dưỡng; về mặt xã hội như giáo viên với học sinh, giữa bố mẹ và con, thầy thuốc với bệnh nhân; còn tình trạng quẫn bách của trẻ như không nơi nương tựa, khó khăn đặc biệt về cuộc sống mà nếu không có sự giúp đỡ, hỗ trợ của người khác sẽ rất khó khăn trong việc duy trì cuộc sống. Hành vi dạng này thường thấy trong
  • 22. 17 các vụ án cưỡng người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, mua dâm người từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi Hậu quả của tội phạm XPNPTE được thể hiện dưới các dạng thiệt hại về thể chất và tinh thần. Trong đó về thể chất sẽ tổn hại đến sức khoẻ của trẻ, tác động tiêu cực đến sự phát triển bình thường về thể chất, sinh lý của trẻ em, trong nhiều trường hợp tội phạm gây ra và để lại những di chứng nguy hại cho giai đoạn phát triển thể chất tiếp theo của trẻ. Còn về tinh thần sẽ tác động gây ra những thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, gây hiệu ứng tâm lý tiêu cực cho sự phát triển bình thường tâm lý trẻ thơ, cản trở việc thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp khác của trẻ em. 1.3.3. Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm XPNPTE là con người cụ thể, đã thực hiện hành vi nguy hiểm được quy định trong BLHS một cách cố ý, không ở trong tình trạng không có năng lực TNHS và đạt độ tuổi theo quy định của Bộ luật này. Về độ tuổi chịu TNHS của chủ thể tội phạm XPNPTE, theo quy định chung của BLHS 2015 thì: - Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 18 tuổi phải chịu TNHS về các tội "Hiếp dâm người dưới 16 tuổi" - Điều 142, tội "Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" - Điều 144, tội "Mua bán người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục" - Điều 151, khoản 1 điểm b; tội "Mua bán người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục" - Điều 151, khoản 1 điểm b. - Người từ đủ 18 tuổi trở lên phải chịu TNHS đối với các tội phạm XPNPTE, gồm "Hiếp dâm người dưới 16 tuổi" - Điều 142, tội "Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" - Điều 145; tội "Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi" - Điều 146; tội "Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm" - Điều 147 và tội "Mua dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" - Điều 329, khoản 2, điểm b. Về điều kiện của chủ thể, trong các tội phạm XPNPTE có 01 tội đòi hỏi chủ thể của tội phạm phải có dấu hiệu là người có quyền hành nhất định đối với trẻ em bị lệ thuộc (chủ thể đặc biệt), đó là “Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
  • 23. 18 tuổi”- Điều 144 BLHS 2015. Còn lại ở các tội khác, chủ thể của tội phạm chỉ cần đạt được những dấu hiệu chung theo quy định của pháp luật. 1.3.4. Mặt chủ quan của tội phạm: Trong mặt chủ quan của tội phạm XPNPTE, người phạm tội thường thực hiện tội phạm với hình thức lỗi cố ý trực tiếp, nghĩa là nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Ví dụ như người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi, trong trường hợp này, đối tượng biết việc làm của mình là gây nguy hại đến sức khoẻ, sự phát triển lành mạnh của trẻ em, biết rõ hành vi đó là trái pháp luật, song người phạm tội vẫn mong muốn thực hiện được hành vi giao cấu để thoả mãn dục vọng. Hậu quả trẻ em bị xâm hại là điều người phạm tội mong muốn xảy ra. Khoa học Luật hình sự còn coi trường hợp này là lỗi cố ý xác định, dựa trên mức độ cụ thể của sự hình dung của người phạm tội về hậu quả nguy hiểm mà hành vi phạm tội của họ gây ra. Ngoài ra, phạm tội với hình thức lỗi cố ý gián tiếp cũng tương đối phổ biến trong các vụ án XPNPTE. Ở trường hợp này người thực hiện hành vi phạm tội có đủ khả năng nhận thức được hành vi này tạo ra mối nguy hiểm cho đối tượng là trẻ em, đương nhiên biết được hậu quả sẽ xảy ra nhưng vẫn để mặc cho hậu quả xảy ra. Ví dụ: Người đủ 18 tuổi mua dâm người từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, hậu quả làm người bán dâm bị xâm hại nhân phẩm. Khi mua dâm có thể người mua dâm không nhận thực được người bán dâm là trẻ em hay là người đã thành niên, nhưng người mua dâm nhận thức được việc mua bán là xâm hại đến nhân phẩm của con người nhưng do đã thỏa thuận và những ham muốn tình dục và vật chất từ hai phía nên vẫn thực hiện hành vi mua bán dâm. Sau này người mua dâm mới biết người bán dâm cho mình chưa đủ 16 tuổi, nên đã gián tiếp XPNPTE. Tội phạm XPNPTE khi thực hiện thường chứa đựng những động cơ, mục đích khác nhau của người phạm tội. Do tội phạm này chủ yếu được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội luôn xác định mục đích cần đạt được trước khi thực hiện tội phạm. Có thể thấy trong nhiều tội, người phạm tội có mục đích là để thoả mãn những nhu cầu cá nhân và chính những nhu cầu này là nguyên nhân trực tiếp dẫn
  • 24. 19 đến hành vi XPNPTE, nhất là trong nhóm tội phạm xâm hại tình dục, thì động cơ thúc đẩy người phạm tội thực hiện tội phạm luôn là để thoả mãn sinh lý, dục vọng bản năng; trong các vụ mua bán người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục thì mục đích là vì vụ lợi. 1.3.5. Về hình phạt: Vì đối tượng tác động của tội phạm là trẻ em (người dưới 16 tuổi) nên chính sách hình sự đối với loại tội phạm này ở nước ta rất nghiêm khắc. Hình phạt đối với tội phạm XPNPTE thường là rất cao, chẳng hạn "Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi", tại khoản 3 Điều 144 BLHS 2015 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình; "Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi", có khung hình phạt phạt cao nhất là chung thân - khoản 3 Điều 144; các tội "Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" - khoản 3 Điều 145 và tội "Mua dâm người từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi" - điểm a, khoản 3 Điều 329 có khung hình phạt cao nhất đến 15 năm tù; Các tội "Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi" - khoản 3 Điều 146; tội "Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm" - khoản 3 Điều 147 đều có khung hình phạt cao nhất lên đến 12 năm tù. Từ phân tích trên ta thấy hầu hết các tội phạm XPNPTE là tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Do vậy ngoài hình phạt chính BLHS 2015 còn quy định hình phạt bổ sung đối với các tội XPNPTE như các hình phạt: Cấm đảm nhiệm chức vụ; cấm hành nghề hoặc làm những công việc nhất định từ 1 đến 5 năm hoặc phạt tiền từ 10 triệu đến 50 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.v.v. 1.4. Luật hình sự một số nước về các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em 1.4.1. Bộ luật Hình sự Canada Bộ luật hình sự Canada quy định các tội phạm XPNPTE trong phần V về các tội phạm về tình dục, đạo đức và gây rối loạn trật tự. Qua nghiên cứu và so sánh, học viên nhận thấy có một số điểm đáng lưu ý là: - Một là, BLHS Canada quy định 02 hành vi về nội dung XPNPTE:
  • 25. 20 + Xâm phạm tình dục: Điều 151. Người nào vì mục đích tình dục, trực tiếp hoặc gián tiếp, tiếp xúc bằng một phần cơ thể mình hoặc thông qua một vật lên bất kỳ phần nào của cơ thể người dưới 16 tuổi …[17, tr.20] + Mời chào tiếp xúc tình dục: Điều 152. Người nào, vì mục đích tình dục, mời chào, lôi kéo hoặc xúi giục và cơ thể người dưới 16 tuổi [17, tr.20]. - Hai là, BLHS Canada đã quy định rõ đối tượng của tội phạm chỉ có thể là người dưới 16 tuổi. Khi so sánh với quy định của pháp luật Việt Nam, ta thấy rằng điểm chung của 2 Bộ luật là đối tượng của tội phạm được giới hạn ở độ tuổi 16, tuy nhiên pháp luật Việt Nam quy định rõ hơn khi chia thành 02 đối tượng là trẻ em dưới 13 tuổi và trẻ em từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi. Như vậy khác biệt ở cả việc quy định TNHS, trong khi BLHS Canada quy định TNHS chung khi phạm tội đối với người dưới 16 tuổi thì trong pháp luật Việt Nam, TNHS của người phạm tội đối với trẻ em dưới 13 tuổi sẽ nghiêm khắc hơn đối với người phạm tội với trẻ em từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi. - Ba là, về hình phạt áp dụng đối với người phạm tội, BLHS Canada quy định hình phạt đối với loại tội này có khung hình phạt thấp nhất là phạt tù 14 ngày, cao nhất là phạt tù 10 năm. - Bốn là, BLHS Canada quy định 02 trường hợp ngoại lệ đối với người thực hiện hành vi vi phạm với người khởi hiện ở các độ tuổi sau: + Đối với người khởi kiện ở độ tuổi 12 hoặc 13: có thể biện hộ là người khởi kiện đã đồng ý với hành vi cấu thành trách nhiệm nếu người phạm tội: (a) nhiều hơn người khởi kiện không đến 2 tuổi, (b) không được giao trông nom hoặc có quyền đối với người khởi kiện; không phải là người mà người khởi kiện có mối quan hệ phụ thuộc và không có mối quan hệ bóc lột đối với người khởi kiện. + Đối với người khởi kiện ở độ tuổi 14 hoặc 15: có thể biện hộ là người khởi kiện đã đồng ý với hành vi cấu thành trách nhiệm nếu: (a) người phạm tội nhiều hơn người khởi kiện không đến 5 tuổi và không được giao trông nom hoặc có quyền đối với người khởi kiện; không phải là người mà người khởi kiện có mối quan hệ phụ
  • 26. 21 thuộc và không có mối quan hệ bóc lột đối với người khởi kiện. (b) bị cáo đã kết hôn với người khởi kiện. [17, tr.21] - Năm là, BLHS Canada quy định 02 trường hợp ngoại trừ như sau: + Ngoại trừ đối với trường hợp chuyển tiếp: Bị cáo lớn hơn người khởi kiện từ 5 tuổi trở lên (chỉ áp dụng với trường hợp người khởi kiện ở độ tuổi 14 hoặc 15): có thể biện hộ là người khởi kiện đã đồng ý với hành vi cấu thành trách nhiệm nếu: (1) người phạm tội là vợ/chồng của người khởi kiện theo thông luật hoặc đang chung sống như vợ chồng với thời gian ít hơn 1 năm và họ đã có hoặc mong muốn có con như kết quả của mối quan hệ này, (2) bị cáo không được giao trông nom hoặc có quyền đối với người khởi kiện; không phải là người mà người khởi kiện có mối quan hệ phụ thuộc và không có mối quan hệ bóc lột đối với người khởi kiện [17, tr.21] + Ngoại trừ đối với người bị buộc tội ở độ tuổi 12 hoặc 13 tuổi sẽ không bị xét xử về tội phạm này trừ trường hợp người đó được giao trông nom hoặc có quyền đối với người khởi kiện, là người mà người khởi kiện có mối quan hệ phụ thuộc hoặc có mối quan hệ bóc lột đối với người khởi kiện [17, tr.21]. - Sáu là, BLHS Canada quy định việc sai lầm về tuổi của người khởi kiện: Không thể biện hộ đối với trách nhiệm về tội này là người phạm tội tin rằng người khởi kiện đã 16 tuổi hoặc lớn hơn vào thời điểm phạm tội trừ trường hợp người phạm tội đã thực hiện tất cả các biện pháp hợp lý để xác định tuổi của người khởi kiện. 1.4.2. Bộ luật Hình sự Thụy Điển Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định các tội phạm XPNPTE trong Chương 6 về các tội về tình dục, học viên nhận thấy có một số điểm đáng lưu ý là: - Một là, BLHS Thụy Điển quy định 7 hành vi về nội dung XPNPTE, gồm: Giao cấu với trẻ em, hiếp dâm trẻ em, bóc lột tình dục trẻ em, lạm dụng tình dục trẻ em, bóc lột trẻ em trình diễn khiêu dâm, mua dâm trẻ em và quấy rối tình dục. - Hai là, về đối tượng của tội phạm: quy định 03 đối tượng gồm trẻ em dưới 15 tuổi, trẻ em từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi và trẻ em dưới 18 tuổi. Người nào
  • 27. 22 phạm tội đối với trẻ em dưới 15 tuổi hoặc trẻ em từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi thì bị xử lý về các tội giao cấu với trẻ em, hiếp dâm trẻ em, bóc lột tình dục trẻ em, lạm dụng tình dục trẻ em, bóc lột trẻ em trình diễn khiêu dâm và quấy rối tình dục. Còn người nào xúi giục trẻ em dưới 18 tuổi thực hiện hành vi tình dục hoặc để cho người khác thực hiện hành vi tình dục với mình để nhận thù lao, nếu không thuộc những trường hợp khác đã được quy định trong Chương này thì bị xử lý về tội mua dâm trẻ em. - Ba là, về hình phạt áp dụng đối với người phạm tội thì khung hình phạt thấp nhất là phạt tiền, cao nhất là phạt tù 10 năm. - Bốn là, BLHS Thụy Điển quy định những trường hợp ngoại lệ như sau: Người thực hiện những hành vi sau sẽ không bị truy cứu TNHS nếu không có chênh lệch quá lớn về độ tuổi và mức độ phát triển giữa người thực hiện hành vi và trẻ em cũng như có căn cứ cho rằng hành vi đó không mang tính chất lạm dụng trẻ em: (1) Giao cấu hoặc có các hành vi tình dục khác tương ứng với hành vi giao cấu với trẻ em dưới 15 tuổi hoặc trẻ em là con đẻ từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi hoặc với người mà người phạm tội có trách nhiệm trông nom, nuôi dưỡng hoặc có quan hệ thân thiết hoặc người mà người phạm tội chịu trách nhiệm chăm sóc hoặc giám sát theo quyết định của nhà chức trách thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. (2) Người nào thực hiện hành vi khác ngoài những hành vi nêu trên với trẻ em dưới 15 tuổi. (3) Người nào khuyến khích hoặc bóc lột trẻ em dưới 15 tuổi thực hiện hoặc tham gia vào việc trình diễn khiêu dâm. (4) Người nào đụng chạm vào thân thể trẻ em dưới 15 tuổi, ... nếu không thuộc những trường hợp khác đã được quy định. - Năm là, giống như PLHS Việt Nam, BLHS Thụy Điển quy định người phạm tội phải chịu TNHS ngay cả khi người phạm tội không biết rõ độ tuổi của nạn nhân (trẻ em)… - Sáu là, giống như BLHS Thủy Điển, BLHS Việt Nam 2015 đã lần đầu tiên quy định Điều 147 về tội "Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm"; Còn Thụy Điển là tội "Bóc lột trẻ em trình diễn khiêu dâm". [17, tr.22-23].
  • 28. 23 1.4.3. Bộ luật Hình sự Liên bang Nga Bộ luật hình sự Nga quy định các tội phạm XPNPTE trong Chương 18 về các tội xâm phạm tự do tình dục, học viên nhận thấy có một số điểm như sau: - Một là, BLHS Nga quy định 02 hành vi về nội dung XPNPTE, đó là: hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu và thực hiện các hoạt động tình dục khác với người chưa đủ 16 tuổi và dâm ô. - Hai là, quy định có 03 đối tượng của tội phạm: chưa đủ 12 tuổi, chưa đủ 14 tuổi và dưới 16 tuổi. Tùy thuộc độ tuổi của người bị hại dưới 12 tuổi, dưới 14 tuổi hay dưới 16 tuổi mà mức độ hình phạt áp dụng giảm dần. - Ba là, về hình phạt áp dụng đối với người phạm tội thì khung hình phạt thấp nhất là phạt tiền, cao nhất là phạt tù 20 năm. - Bốn là, BLHS Nga quy định 01 trường hợp ngoại lệ đối với người thực hiện hành vi vi phạm với người bị hại như sau: Người mà lần đầu phạm tội giao cấu, đồng tính nam hoặc đồng tính nữ do người đủ 18 tuổi thực hiện với người khác đã biết là chưa đủ 16 tuổi sẽ được tòa án miễn chấp hành hình phạt nếu xác định được rằng người này và hành vi phạm tội đã thực hiện không còn nguy hiểm cho xã hội nữa vì đã kết hôn với người bị hại [17, tr. 23,24]. 1.4.4. Bộ luật Hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Bộ luật hình sự Trung Quốc quy định các tội phạm XPNPTE trong Chương 4 về tội xâm phạm quyền tự do thân thể, quyền dân chủ của công dân. Nghiên cứu những quy định trong BLHS Trung Quốc, thấy có một số điểm đáng lưu ý là: - Một là, BLHS Trung Quốc chỉ quy định 01 hành vi về nội dung XHNPTE, đó là: Giao cấu với trẻ em gái. - Hai là, BLHS Trung Quốc chỉ quy định 01 đối tượng của tội phạm là trẻ em gái dưới 14 tuổi và quy định “Giao cấu với trẻ em gái chưa đủ 14 tuổi, coi như phạm tội hiếp dâm, bị xử phạt nặng”. - Ba là, về hình phạt áp dụng đối với người phạm tội thì khung hình phạt thấp nhất là phạt tù 3 năm, cao nhất là tử hình [17, tr. 24,25].
  • 29. 24 Điểm khác biệt của BLHS Trung Quốc theo như học viên đã nghiên cứu và nhậ xét là: Luật Trung Quốc chỉ quy định đối tượng của tội phạm XPNPTE chỉ có thể là con gái. 1.4.5. Bộ luật Hình sự Cộng hòa Liên bang Đức Bộ Luật Hình Sự Đức quy định các tội phạm XPNPTE trong Chương 13, nghiên cứu những quy định trong BLHS Đức, thấy có một số điểm đáng lưu ý là: - Một là, BLHS Đức chỉ quy định 01 hành vi về nội dung XPNPTE, đó là: Lạm dụng tình dục trẻ em. Hành vi này được quy định tại 3 Điều về lạm dụng tình dục trẻ em, lạm dụng tình dục trẻ em nghiêm trọng và lạm dụng tình dục trẻ em với hậu quả chết người. - Hai là, giống như Trung Quốc, BLHS Đức chỉ quy định 01 đối tượng của tội phạm là người dưới 14 tuổi nhưng ở đây, BLHS Đức quy định đối tượng rộng hơn khi quy định là “người”, nghĩa là có thể là cả trẻ em trai và trẻ em gái. - Ba là, về hình phạt áp dụng đối với người phạm tội thì khung hình phạt thấp nhất là phạt tù 06 tháng, cao nhất là phạt tù 10 năm [17, tr. 25]. Sau khi tìm hiểu một số quy định của Bộ luật hình sự các quốc gia ở châu Âu cũng như châu Á có thể thấy rằng, trẻ em luôn nhận được sự quan tâm chăm sóc đặc biệt từ phía các nhà chức trách. Vì vậy, đa phần ở các nước đều quy định chương mục, điều khoản riêng dành cho loại tội phạm liên quan đến nhân phẩm trẻ em. Ở Việt Nam cũng vậy, chính vì đối tượng bị xâm phạm là nhân phẩm trẻ em nên việc quy định các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em là một nội dung rất được chú trọng trong Bộ luật hình sự. Để xây dựng một bộ luật nhằm bảo đảm quyền lợi của trẻ em cần dựa trên nền tảng kế thừa tinh hoa văn hóa dân tộc và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài. So sánh giữa các bộ luật với Bộ luật hình sự Việt Nam thì BLHS Việt Nam quy định các hành vi xâm phạm nhân phẩm trẻ em có điểm chung với BLHS Thụy Điển (giao cấu với trẻ em, hiếp dâm trẻ em, bóc lột trẻ em trình diễn khiêu dâm…) , về đối tượng của tội phạm lại có điểm tương đồng với BLHS Canada (người dưới 16 tuổi), về hình phạt lại có nét giống của BLHS Trung Quốc (khung hình phạt cao nhất là tử hình). Tuy nhiên, BLHS Việt Nam vẫn có
  • 30. 25 những cái riêng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước để vận dụng một cách có hiệu quả trên thực tế nhưng như vậy vẫn chưa đủ. Theo học viên, ở các nước có quy định các trường hợp ngoại lệ cũng như loại trừ rất hay và khoa học vừa bảo vệ quyền lợi cho người bị hại vừa không bất lợi cho bị cáo nên cần học tập. Việt Nam đang từng bước hội nhập quốc tế nên những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm nhân phẩm của trẻ em cũng phải được hoàn thiện một cách đầy đủ, có hệ thống phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế. Tiểu kết Chương 1 Ở chương này, học viên tập trung nghiên cứu một số vấn đề chung về các tội phạm XPNPTE theo PLLHS Việt Nam, bao gồm khái niệm các tội phạm XPNPTE; cơ sở quy định các tội XPNPTE; phân tích các dấu hiệu pháp lý của các tội phạm XPNPTE và so sánh những quy định của PLHS Việt Nam về các tội phạm XPNPTE đối với PLHS của một số nước như Canada, Thụy Điển, Nga, Trung Quốc, Đức. Qua nghiên cứu ta thấy rằng trẻ em luôn là đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự và sự phát triển bình thường về mặt tâm sinh lý. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác đấu tranh phòng chống và xử lý loại tội phạm này. Ở Chương II học viên sẽ nghiên cứu về thực trạng pháp luật và thực tiễn xét xử các tội phạm XPNPTE ở tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2008-2018.
  • 31. 26 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM TRẺ EM Ở TỈNH QUẢNG NAM 2.1. Thực trạng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em 2.1.1. Khái quát quy định pháp luật hình sự về các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em giai đoạn sau cách mạng tháng 8/1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự 2015 2.1.1.1. Các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em trong pháp luật hình sự từ sau CMT8/1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 Trước khi Cách mạng tháng 8/1945 thành công Nhà nước Việt Nam trải qua các triều đại phong kiến và thực dân phong kiến đều đã ban hành một số Đạo luật, trong đó ghi nhận nội dung để trường trị các loại tội phạm XPNPTE, có thể kể đến Quốc triều hình luật (Luật hình triều Lê - Bộ luật thành văn đầu tiên). Điều 404 Bộ luật này quy định: Trong mọi trường hợp cứ giao cấu (gian dâm) với trẻ em dưới 12 tuổi là phạm tội hiếp dâm. Hay Bộ luật Gia Long 1815 (còn gọi là Hoàng Việt luật lệ). Tại Điều 330 cũng quy định: Hiếp dâm (Cưỡng gian) trẻ em thì bị tử hình, trong đó nếu trẻ em dưới dưới 10 tuổi thì người phạm tội xẽ bị chém chết, còn trẻ em dưới 12 tuổi thì người phạm tội sẽ bị treo cổ. Còn khi thực dân pháp xâm lược nước ta đất nước chia cắt làm ba miền: bắc kỳ, trung kỳ, nam kỳ, mỗi miền sử dụng những quy định pháp luật khác nhau. Ở Bắc kỳ ngày 02/12/1921 quan toàn quyền Sarraut ban hành nghị định áp dụng luật hình sự tại bắc kỳ bao gồm 328 điều, trong đó từ điều 198 đến Điều 205 quy định và trừng trị nghiêm khắc các tội XPNPTE. Ở Trung kỳ, có Luật Hoàng việt luật lệ (1933) trong đó tại Điều 303 quy định: Hiếp dâm (phạm gian) trẻ em chưa đủ 15 tuổi sẽ bị phạt đến 10 tù. Học viên thấy rằng từ xưa giai cấp thống trị dù ít hay nhiều cũng đã quan tâm đến trẻ em, qua việc đã có những quy định BVTE khỏi XPNPTE và trừng trị nghiêm kẻ phạm tội.
  • 32. 27 Ngày 02/9/1945 khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà được thành lập qua bản tuyên ngôn độc lập, từ năm 1945 đến năm 1954 vì đất nước vừa xây dựng chính quyền ở miền bắc vừa đấu tranh chống thực dân Pháp ở miền Nam nên ta vẫn sử dụng luật cũ. Năm 1960 TAND tối cao ra Chỉ thị số 1024 ngày 15/6/1960 hướng dẫn xử lý tội hiếp dâm nhằm khắc phục khuynh hướng xem nhẹ tính chất nghiêm trọng của loại tội này, nhất là khuynh hướng coi nhẹ tội hiếp dâm trẻ em nhưng nội dung hướng dẫn còn chưa đầy đủ. Theo đó tại trước năm 1966 thì Ngành Tòa án thường xuyên hướng dẫn áp dụng xét xử các tội XPNPTE theo hướng xử lý một số hình thức phạm tội mới mà luật cũ chưa hề quy định như tội cưỡng dâm…. Phải đến năm 1967 TAND tối cao mới ban hành Chỉ thị số 329 để thay thế Chỉ thị số 1024 thì mới chính thức ghi nhận 04 tội phạm XPNPTE gồm: Tội Hiếp dâm, tội cưỡng dâm, tội giao cấu và tội dâm ô người dưới 16 tuổ. Báo cáo tổng kết năm 1968 của Nghành Tòa án đã kịp thời bổ sung hình thức dâm ô mới xâm phạm thuần phong mĩ tục và trật tự trị an cần phải trừng trị là đồng tình dâm ô, bao gồm cả giao cấu nơi công cộng hoặc có đông người tham gia. Năm 1976 Chính phủ ký sắc lệnh số 03, tại Điều 5 quy định về tội xâm phạm đến thân thể và nhân phẩm của công dân. Để hướng dẫn thi hành sắc luật trên, tháng 4/1976 Bộ tư pháp đã ban hành thông tư số 03/BTP, chỉ rõ các hành vi xâm phạm tình dục bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, thông gian với gái vị thành niên, dâm ô… Hai văn bản pháp luật trên trở thành văn bản pháp luật chung cho cả nước [17, tr 14,15,16]. 2.1.1.2. Các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em trong Bộ luật hình sự 1985 Ngày 27/6/1985, Bộ luật hình sự năm 1985 chính thức được thông qua và hơn nửa năm sau thì có hiệu lực thi hành. Bộ luật có 3 điều luật quy định tội XPNPTE là tội hiếp dâm (Điều 112), tội cưỡng dâm (Điều 113), tội giao cấu với người dưới 16 tuổi (Điều 114). Từ khi ra đời đến trước khi có BLHS 1999 thì BLHS 1985 đã có 4 lần sửa đổi, bổ sung năm 1989, 1991,1992 và 1997. Trong lần sửa đổi, bổ sung lần thứ 4 BLHS 1985 đã bổ sung 04 điều về các tội XPNPTE. Cụ thể: bổ sung tội hiếp
  • 33. 28 dâm trẻ em (Điều 112a); tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 113a); tội mua dâm NCTN (Điều 202a) và tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 202b). 2.1.1.3. Các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em trong Bộ luật hình sự 1999 Tình hình tội phạm có những chuyển biến tích cực hay tiêu cực phụ thuộc vào điều kiện kinh tế chính trị xã hội của đất nước trong giai đoạn đó. Nhiều tội phạm mới xuất hiện, tình chất nguy hiểm của nhiều tội phạm tăng đồng thời tính nguy hiểm của nhiều tội phạm cũng không còn. Do đó các quy định của PLHS cũng phải thay đổi để phù hợp với tình hình tội phạm trong điều kiện đất nước thay đổi. Trong phạm vi của luận văn này học viên chỉ đề cập đến những thay đổi trong nhóm tội XPNPTE. Thời gian càng về sau nhóm tội phạm XPNPTE diễn ra hết sức phức tạp. Do đó PLHS với vai trò là công cụ đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm XPNPTE nói riêng cần phải sửa đổi bổ sung để các quy định pháp luật phù hợp hơn với điều kiện mới. BLHS 1999 ra đời thay thế cho BLHS 1985. BLHS 1999 của nước CHXHCN Việt Nam được quốc hội khoá X thông qua ngày 21/12/1999 có hiệu lực ngày 01/7/2000. Một số tình tiết định khung tăng nặng trong một số Điều luật cũ được tách ra thành cấu thành cơ bản của tội mới. Ví dụ: tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114 BLHS) được tách ra từ tội cưỡng dâm NCTN (Điều 113a BLHS 1985) căn cứ vào độ tuổi của trẻ. Sự thay đổi này là phù hợp với tình hình thực tế và thể hiện sự quan tâm hơn của nhà nước ta đối với việc BVTE. Tội hiếp dâm (Điều 111 BLHS 1999) so với BLHS năm 1985 đã bỏ tình tiết "có nhiều tình tiết..."; quy định thêm các dấu hiệu đó là "đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân"; bổ sung một số tình tiết định khung như "đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc; đối với nhiều người; gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% (khoản 2); gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội (khoản 3). Về quy định của tội giao cấu với trẻ em (Điều 115) bỏ tình tiết "có nhiều tình tiết..."; bổ sung một số
  • 34. 29 tình tiết định khung hình phạt; ở khoản 2 thêm tình tiết "đối với nhiều người" và thay tình tiết "gây tổn hại nặng cho sức khoẻ của nạn nhân" bằng tình tiết "gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; ở khoản 3 thêm tình tiết "biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội và gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên". Đối với tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 116) bỏ tình tiết "có nhiều tình tiết..."; thêm tình tiết định khung ở khoản 3 là "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" và thêm khoản 4 quy định hình phạt bổ sung [17, tr. 16,17,18]. Và nếu như trong BLHS 1985 tội dâm ô với trẻ em được quy định tại chương VIII các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng thì đến BLHS 1999 tội dâm ô với trẻ em được chuyển đến chương XII các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người. Hành vi dâm ô đối với trẻ em đã xâm phạm đến con người, chủ thể của hành vi này đã coi con người như phương tiện để thoả mãn một cách bất hợp pháp nhu cầu tình dục của mình. Tuy nhiên không phải bất cứ quan hệ xã hội nào bị xâm phạm đều được coi là khách thể trực tiếp. Trong trường hợp nhiều quan hệ xã hội cùng bị gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại thì quan hệ xã hội được coi là khách thế trực tiếp là quan hệ xã hội mà sự gây thiệt hại cho quan hệ xã hội đó khi căn cứ vào tất cả các mặt như tính chất quan trọng của quan hệ xã hội, mức độ bị gây thiệt hại, mục đích chủ quan của người phạm tội… thể hiện đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi [17, tr.18]. Sự thay đổi này là cần thiết và phù hợp bởi lẽ hành vi dâm ô với trẻ em là một hành vi mang tính nguy hiểm cao cho trẻ em. Nó xâm phạm đến sự phát triển bình thường về mặt tâm sinh lý của trẻ em, và quyền được bảo vệ về nhân phẩm danh dự của trẻ em. Xã hội tiếp tục có nhiều thay đổi, nhiều tội phạm mới xuất hiện như trong lĩnh vực công nghệ thông tin, môi trường, chứng khoán; nhiều quy định không còn phù hợp với cuộc sống ngày nay như hình phạt tử hình trong một số điều luật, mức phạt tiền… nên BLHS 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009, có hiệu lực ngày 01/01/2010. Nhưng trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, lần sửa đổi, bổ
  • 35. 30 sung này không ảnh hưởng đến nội dung của các điều luật quy định các tội XPNPTE nên học viên vẫn dựa vào các quy định của BLHS 1999. 2.1.2. Các tội xâm phạm nhân phẩm trẻ em trong Bộ luật hình sự 2015 Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 (sửa đổi bổ sung 2000) đã đánh dấu một bước quan trọng trong kỹ thuật lập pháp của Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi BLHS vẫn còn nhiều điểm vướng mắc, bất cập so với đòi hỏi của đất nước. Chính vì vậy, ngày 27/11/2015 Nhà nước ta đã ban hành BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung 2017), có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01.01.2018. BLHS 2015 thể hiện nhiều điểm mới trong chính sách hình sự của Việt Nam; sửa đổi, bổ sung nhiều quy định nhằm phù hợp với sự thay đổi của kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo đảm cơ bản quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp 2013. Trong đó BVTE được BLHS 2015 trú trọng và đã có những thay đổi và bổ sung nhằm tạo cơ sở pháp lý xử lý các tội XPNPTE, cụ thể như sau: Dễ nhận thấy, so sánh với BLHS 1999, cụm từ “trẻ em” không còn được sử dụng trong BLHS 2015, thay vào đó, nhà làm luật đã chi tiết hóa độ tuổi của nhóm đối tượng này, đó là “người dưới 16 tuổi”. Ví dụ như tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112) thành tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114) thành tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144)… Như vậy, BLHS 2015 có sự tương thích với LTE 2016 khi thống nhất độ tuổi trẻ em là người dưới 16 tuổi. Tương tự, chủ thể là người đã thành niên trong các điều luật cũng được thay thế bằng “người đủ 18 tuổi” như tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145); tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146). Việc quy định cụ thể, rõ ràng về tuổi của nạn nhân cũng như người thực hiện tội phạm đã một phần nào đó khắc phục được những ý kiến trái chiều về khái niệm “trẻ em”, “NCTN”, “người đã thành niên” trong BLHS năm 1999. BLHS 2015 đã quy định một tội danh mới tại Điều 147 "Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm". So sánh với BLHS 1999, BLHS 2015 đã bổ sung một số dấu hiệu định tội và định khung tăng nặng trong cấu thành các tội XPNPTE, cụ thể:
  • 36. 31 Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142 BLHS 2015) – Về tình tiết định tội: + Bên cạnh hành vi giao cấu đã được quy định tại Điều 112 BLHS 1999, BLHS 2015 đã bổ sung thêm tình tiết “thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác”, không chỉ trong tội phạm này mà còn các tội từ Điều 144 đến 146. + Bộ luật hình sự 2015 đã bổ sung đối tượng tác động “người dưới 13 tuổi” vào tình tiết định tội. Trước đây, cách hiểu về khoản 4 Điều 112 BLHS 1999 “Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình” chưa có sự thống nhất, có quan điểm cho rằng đây là cấu thành tội phạm tăng nặng nhưng cũng có nhiều ý kiến cho rằng đó là cấu thành tội phạm cơ bản thứ hai. Như vậy, với quy định này, nhà làm luật đã thể hiện rõ hành vi giao cấu với người dưới 13 tuổi là tình tiết định tội. Đây là một điểm tiến bộ trong BLHS 2015 nhằm đảm bảo nguyên tắc phân hóa TNHS, đồng thời giải quyết được vấn đề gây tranh cãi nếu như theo Điều 112 BLHS 1999 khi người có thủ đoạn “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác” lại ít nguy hiểm hơn hành vi giao cấu, trong nhiều trường hợp còn là giao cấu thuận tình với người dưới 13 tuổi hoặc nạn nhân nói dối về độ tuổi của mình… – Về tình tiết định khung tăng nặng: + Điểm c khoản 2 Điều 142 đã thay đổi tình tiết “gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 61%” tại điểm c khoản 2 Điều 112 BLHS 1999 thành “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%”, tương tự tại điểm d khoản 3 “61% trở lên”. Việc nhà làm luật bổ sung thêm dấu hiệu “gây thương tích” đã bao quát được những trường hợp xảy ra trong thực tế, tránh nhầm lẫn như chúng ta đã dùng lâu nay; đồng thời, tạo sự thống nhất với Điều 134 - Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và Thông tư 20/TT-BYT của Bộ Y tế về quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.
  • 37. 32 + Bổ sung tình tiết “gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%” tại điểm d khoản 2 Điều 142 hoặc tương tự tại điểm đ khoản 3 “46% trở lên”. Trong trường hợp này, hành vi của người phạm tội hoặc gây rối loạn tâm thần, hoặc gây rối loạn hành vi cho nạn nhân. Quy định như vậy đã khắc phục được thiếu sót của BLHS 1999 khi không bao quát được hậu quả của tội phạm, do nạn nhân của tội phạm này không chỉ bị tổn thương sức khỏe mà còn bị tổn hại về tinh thần. Đặc biệt, Thông tư 20/TT-BYT 2014 đã giải quyết được vấn đề mà từ lâu các nhà nghiên cứu đã đặt ra, là làm sao để xác định được những tổn thương về tâm thần. Đây là một quy định mới mà theo người nghiên cứu đánh giá là kịp thời để có thể xử lí những hậu quả trong thực tế có thể xảy ra. + Các tình tiết quy định tại điểm c khoản 3 Điều 112 BLHS 1999 “phạm tội nhiều lần” và điểm d khoản 3 “đối với nhiều người” đã được giảm nhẹ khung hình phạt và chi tiết hơn khi được quy định tại khoản 2 thành “phạm tội 02 lần trở lên” (điểm e) và “đối với 02 người trở lên” (điểm g). Sự quy định chi tiết này làm cho việc áp dụng pháp luật được thực hiện một cách nhất quán với các tình tiết tương tự tại BLHS 2015. + Bổ sung tình tiết mới “phạm tội đối với người dưới 10 tuổi” là tình tiết định khung tăng nặng tại điểm c khoản 3 Điều 142 BLHS với mức hình phạt là tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Việc quy định tình tiết này làm tình tiết định khung tăng nặng là cần thiết, phù hợp với lý luận cũng như thực tiễn, thể hiện rõ sự phân hóa về độ tuổi của đối tượng tác động khi chủ thể thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi: một là người dưới 10 tuổi, hai là người từ đủ 10 tuổi đến dưới 13 tuổi. Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi - Điều 144 BLHS 2015, đã có những quy định mới về tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Nhìn chung, về dấu hiệu định tội, BLHS 2015 không có quy định khác với BLHS 1999, trừ bổ sung thêm trường hợp nạn nhân phải miễn cưỡng “thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác” bên cạnh hành vi giao cấu và một số tình tiết khung tăng nặng tương tự với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
  • 38. 33 Tội Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS 2015) – Về tình tiết định tội: Luật 2015 quy định “nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này” để loại trừ khả năng người phạm tội vừa thực hiện hành vi quy định tại Điều 145 BLHS nhưng đồng thời cũng có những tình tiết khác đi kèm đủ điều kiện cấu thành các tội theo Điều 142 hoặc 144. – Về tình tiết định khung tăng nặng: Luật 2015 đã quy định tình tiết mới “đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh” (điểm e khoản 2 Điều 145). Đây là tình tiết được quy định trong một số tội trong nhóm các tội xâm phạm tình dục trẻ em và đã xảy ra trong thực tế, và là một sự bổ sung kịp thời nhằm dự liệu hết các trường hợp có thể phát sinh. – Về hình phạt bổ sung, đã quy định thêm hình phạt bổ sung cho tội danh này tại khoản 4, theo đó, “người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”. Quy định này đã hỗ trợ hình phạt chính, thể hiện sự nghiêm khắc hơn đối với tội phạm này, đồng thời tương thích với quy định của các tội XPNPTE khác. Tội Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146 BLHS 2015) – Về tình tiết định tội: Luật 2015 đã quy định hành vi dâm ô phải không nhằm mục đích giao cấu … nhưng vẫn chưa làm rõ được khái niệm dâm ô mầ vẫn theo cách hiểu được hướng dẫn tại Bản hướng dẫn số 329 năm 1967 của Ngành tòa án do vậy theo học viên vẫn nên thống nhất áp dụng theo phần chú giải của Ban soạn thảo BLHS 2015 thì “hành vi dâm ô được coi là hành vi đụng chạm vào những bộ phận nhạy cảm của trẻ em hoặc buộc trẻ em đụng chạm vào những bộ phận nhạy cảm của người phạm tội”. Tuy nhiên cách hiểu này cũng dễ dẫn đến nhầm lẫn giữa hành vi quan hệ tình dục khác với hành vi dâm ô. Những hành vi nào được xem là dâm ô? Liệu còn hành vi dâm ô trẻ em nữa không nếu ghi nhận hành vi quan hệ tình dục khác trong BLHS 2015? Đây là những câu hỏi cần văn bản hướng dẫn kịp thời để tránh sự tùy tiện trong thực tiễn áp dụng.
  • 39. 34 – Về tình tiết định khung tăng nặng, nhà làm luật đã không sử dụng các tình tiết không rõ ràng như “gây hậu quả nghiêm trọng” hoặc “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” như trong BLHS 1999 mà thay vào đó đã bổ sung một số tình tiết, cụ thể như “phạm tội có tổ chức” (điểm a khoản 2), “gây rối loạn hoạt động tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%” (điểm đ khoản 2) và “gây rối loạn hoạt động tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%” (điểm a khoản 3); “làm nạn nhân tự sát” (điểm b khoản 3). Những tình tiết này có nhiều điểm tương đồng so với các XPNP khác, là cơ sở pháp lí chi tiết khi định khung hình phạt. Tội Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm Điều 147 BLHS 2015: Đây là một trong những hành vi mới, được hình sự hóa tại BLHS 2015. Quy định tội phạm này không chỉ nội luật hóa một số công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia như CULHQVQTE và Nghị định thư bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em, Công ước số 182 nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất của Tổ chức Lao động quốc tế; mà còn giúp tạo ra cơ sở pháp lý để giải quyết những trường hợp xảy ra trong thực tế, đặc biệt khi việc xâm hại tình dục trẻ em dưới nhiều hình thức khác nhau. Một số dấu hiệu đáng chú ý tại Điều 147 BLHS 2015: – Chủ thể và nạn nhân của tội phạm: Khoản 1 Điều 147 quy định chủ thể của tội phạm này phải là người đủ 18 tuổi trở lên. Theo học viên quy định như vậy là chính xác bởi người đã thành niên phát triển đầy đủ về nhận thức, đủ khả năng để nhận thức được hành vi này nguy hiểm cho xã hội, xâm hại trực tiếp đến khách thể được luật hình sự bảo vệ, cụ thể là sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ em. Nạn nhân (bị hại) của tội phạm ở đây là người dưới 16 tuổi, theo đúng tinh thần nội dung các điều luật trước liên quan đến XPNPTE. Ý chí của trẻ em ở đây có thể hiểu là có thể đồng ý hoặc không đồng ý với hành vi này, tuy nhiên người phạm tội đã lợi dụng sự non nớt của các em để thực hiện hành vi phạm tội.
  • 40. 35 – Mặt khách quan của tội phạm, từ quy định của Điều luật, hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau: + Quan điểm thứ nhất cho rằng, có thể hiểu “người phạm tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm phải hội đủ một trong hai yếu tố cấu thành của tội phạm này: Thứ nhất, người phạm tội phải đủ 18 tuổi trở lên và không phân biệt là nam hay nữ mà có hành vi lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi trình diễn khiêu dâm. Thứ hai, người phạm tội phải là người trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm dưới bất kỳ hình thức nào. + Quan điểm thứ hai, điều luật này quy định hai hành vi: thứ nhất người đủ 18 tuổi trở lên có hành vi lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi trình diễn khiêu dâm hoặc người đủ 18 tuổi trở lên có hành vi lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm dưới mọi hình thức. Học viên đồng tình với quan điểm thứ hai. Theo đó, người bị truy cứu TNHS đối với tội danh này phải bằng thủ đoạn lôi kéo, dụ dỗ ép buộc người dưới 16 tuổi trình diễn khiêu dâm hoặc cũng thủ đoạn đó khiến người dưới 16 tuổi trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm. Chính những hành vi này mới đảm bảo được tính nguy hiểm của hành vi, đồng thời bảo vệ được đối tượng mà nhà làm luật muốn hướng đến, đó là trẻ em, cụ thể hơn là người dưới 16 tuổi. Tuy nhiên, nếu thực sự hiểu theo cách này, thì tên Điều luật cũng cần cân nhắc, bởi hành vi lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi trực tiếp chứng kiến việc trình diễn khiêu dâm có phù hợp với tên tội “Sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm” hay không? Một vấn đề khác cũng cần được nhà làm luật giải thích, đó là hiểu như thế nào về “trình diễn khiêu dâm”, “trực tiếp chứng kiến” và “dưới mọi hình thức”. Về khái niệm khiêu dâm, theo Nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước về quyền trẻ em có thể hiểu “là bất cứ sự thể hiện nào, dù bằng bất kỳ phương tiện gì, việc trẻ em tham gia vào các hoạt động tình dục một cách rõ ràng, thật hoặc mô phỏng, hoặc bất kỳ sự thể hiện nào về những bộ phận sinh dục của trẻ em nhằm các mục đích tình dục” (Khoản 3 Điều 2). Khái niệm này cũng đã được ghi nhận trong một số văn bản pháp luật của Việt Nam như tại khoản 5 Điều 3 Nghị định 178/2004/NĐ-CP quy
  • 41. 36 định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm “là hành vi dùng cử chỉ, hành động, hình ảnh, âm thanh gây kích thích ham muốn tình dục” hay “là hành vi dùng hình ảnh, ngôn ngữ, âm thanh, hành động khêu gợi, kích thích dâm ô, ham muốn tình dục trái với truyền thống đạo đức, thuần phong mỹ tục dân tộc Việt Nam bao gồm: mô tả bộ phận sinh dục, khỏa thân, mô tả khỏa thân hoặc không khỏa thân nhưng kích thích tình dục, mô tả nhu cầu tình dục, thủ dâm dưới mọi hình thức” (khoản 1 Điều 3 Thông tư số 09/2010/TT-BVHTTDL quy định chi tiết thi hành một số quy định tại Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa); tuy nhiên, “trình diễn khiêu dâm” chưa được định nghĩa trong bất kì điều ước quốc tế nào Việt Nam tham gia hay văn bản pháp luật nào của nước ta. “Trực tiếp chứng kiến” có thể hiểu là người chứng kiến có mặt ngay tại nơi trình diễn khiêu dâm đó, tuy nhiên, với sự phát triển vũ bão của công nghệ, nếu việc trình diễn khiêu dâm đó được phát trực tiếp qua mạng Internet, qua các ứng dụng video trực tuyến thịnh hành như livestream của Facebook, facetime thì có được coi là trực tiếp chứng kiến hay không? “Dưới mọi hình thức” ở đây là hình thức chứng kiến hay hình thức trình diễn khiêu dâm? Đây là những câu hỏi để các cơ quan chức năng đưa giải thích để tránh những cách hiểu khác nhau về nội dung Điều luật. - Đường lối xử lí: Điều luật quy định 03 khung hình phạt, ít nhất là 6 tháng tù (khoản 1) đến 12 năm tù (khoản 3). Ngoài một số tình tiết định khung tăng nặng đã phân tích trước đó, điều luật còn bổ sung một tình tiết mới đó là “có mục đích thương mại” (điểm đ khoản 2). Một người sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm nhằm thu lợi bất chính bao gồm tiền hoặc lợi ích vật chất khác thì sẽ phải chịu tình tiết định khung tăng nặng này. Bên cạnh các hình phạt chính là các hình phạt bổ sung như sau: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm và nếu xét thấy cần thiết các cơ quan tiến hành tố tụng có thể bị áp dụng bất kỳ hình phạt nào trên đây. Đối với tội Mua dâm người dưới 18 tuổi So với Điều 256 BLHS 1999, Điều 329 BLHS 2015, mặc điểm b khoản 2 của 02