SlideShare a Scribd company logo
1 of 86
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN MINH THẢO
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN MINH THẢO
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRỊNH TIẾN VIỆT
Hà Nội, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương” là công trình
nghiên cứu khoa học do bản thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học
của PGS.TS. Trịnh Tiến Việt. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong luận
văn này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình
nghiên cứu nào trước đây. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn có kế thừa
các quan điểm, ý kiến khoa học của những nhà nghiên cứu đã từng thực hiện
về vấn đề tư pháp người chưa thành niên (người dưới 18 tuổi) và những thông
tin này khi được sử dụng đến đều được thể hiện một cách trung thực, có trích
dẫn nguồn đầy đủ trong luận văn.
Học viên
Trần Minh Thảo
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ............................6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội ....................................................................................6
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về áp dụng hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội............................................................................17
1.3. Các yếu tố tác động đến áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội ...........................................................................................................................35
Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI
18 TUỔI PHẠM TỘI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG ........40
2.1. Khái quát tình hình áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.........................................................................40
2.2. Thực trạng áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Tòa án
nhân dân tỉnh Bình Dương.....................................................................................44
2.3. Kết quả áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, những vướng
mắc, bất cập và nguyên nhân.................................................................................58
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG HÌNH PHẠT ĐỐI
VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH
BÌNH DƯƠNG ........................................................................................................67
3.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội ..................................................................................67
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân tỉnh Bình Dương.............................................69
KẾT LUẬN..............................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật Hình sự.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội ngày càng
tăng không chỉ về mặt số lượng mà tính chất các vụ án cũng ngày càng nghiêm
trọng hơn. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội là một việc khá phức tạp bởi
người dưới 18 tuổi khả năng nhận thức pháp luật còn hạn chế, hành vi của họ
thường mang tính bộc phát do bị lôi kéo hoặc bị kích động, họ chưa đủ khả năng
làm chủ hành động của mình. Hơn nữa, họ còn một tương lai dài phía trước. Do đó,
không thể áp dụng các biện pháp xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội giống với
những người đã thành niên.
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) đã
có những quy định xử lý riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Những quy định
này thể hiện chính sách pháp luật hình sự của Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội với mục đích chính là “cải tạo và giáo dục”. Tuy nhiên, tình hình người
dưới 18 tuổi phạm tội không có dấu hiệu giảm đi mà ngày càng tăng về số lượng
cũng như mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội.
Phạm luật hình sự với chế tài hình phạt là công cụ sắc bén, hữu hiệu trong
công cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, duy trì trật tự, an toàn xã hội, giáo dục ý thức chấp hành và tuân
theo pháp luật cho các chủ thể trong xã hội.
Bên cạnh đó, chính sách hình sự thể hiện rõ bản chất nhân đạo và dân chủ của
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Các quy định của hình phạt
mang tính chất răn đe cũng mang tính giáo dục, cải tạo, khoan hồng. Chế định hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã thể hiện rõ điều này khi các quy định
được xây dựng trên cơ sở những đặc thù tâm sinh lý và sự phát triển về nhận thức
của chủ thể là người dưới 18 tuổi phạm tội.
BLHS năm 2015 là bước phát triển mới so với các quy định của pháp luật hình
sự trước đây về trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong đó
cụ thể hóa các hình phạt và áp dụng triệt để nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình
2
sự phù hợp với đặc thù của chủ thể phạm tội này. Đặc biệt, khái niệm người dưới 18
tuổi phạm tội là khái niệm mới thay thế cho khái niệm người chưa thành niên phạm
tội trước đây. Do đó, rất cần được nghiên cứu về khái niệm cũng như các quy định
của BLHS năm 2015 về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để
có cách hiểu, áp dụng thống nhất và đồng bộ quy định nhằm đảm bảo tính nghiêm
minh, công bằng của pháp luật.
Về mặt thực tiễn, BLHS năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018
nên việc tổng kết, đánh giá từ thực tiễn để có những giải pháp phù hợp, góp phần
hiệu quả hơn trong việc thực hiện, áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội trong BLHS năm 2015 nói chung và cụ thể là Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương là cần thiết. Hiện tại, chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về nội
dung này. Do đó, học viên chọn đề tài: “Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương” để nghiên cứu làm
luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật hình sự và Tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến vấn đề người chưa thành niên (nay là người dưới 18 tuổi) phạm
tội, qua quá trình nghiên cứu, học viên thấy rằng đã có các công trình nghiên cứ như
sau: Đào Thị Nga, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội,
Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học luật Hà Nội, 1997; Trần Văn Dũng,
Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học luật Hà Nội, 2003; Nguyễn Minh
Khuê, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc
sĩ luật học, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006; Trịnh Thị Yến, Quyết định
hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội, Luận văn thạc sĩ luật học,
Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; Đỗ Ngọc Thùy, Hình phạt tù đối với
người chưa thành niên phạm tội – Lý luận và thực tiễn áp dụng, Luận văn thạc sĩ
luật học, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; Nguyễn Thị Thu Huyền, Hình
phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình
sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012;
3
Tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn Thành phố Hà Nội –
Thực trạng và giải pháp, Nxb. Công an nhân dân Hà Nội năm 2007; Trường Đại
học luật Hà Nội , Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân năm
2000 (GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên); Lương Ngọc Trâm (2014), “Hoàn thiện
quy định pháp luật hình sự về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội”, Tạp chí Tòa án nhân dân; PGS.TS. Trầm Văn Luyện, Những điểm mới
về chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 12/2000; Ths. Đặng Thanh Sơn, Pháp luật Việt Nam về tư pháp người chưa
thành niên, số chuyên đề của Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, tháng 12/2008; Ths.
Đinh Văn Quế, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp
chí Tòa án nhân dân số 6/2007; Ths. Đoàn Tấn Minh, Bàn về phạm vi sử dụng thuật
ngữ “ Người chưa thành niên phạm tội”,Tạp chí Tòa án nhân dân số 9/2008; TS.
Trịnh Tiến Việt, Những khía cạnh pháp lý hình sự về các hình phạt và biện pháp tư
pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân số
7, 8/2010; TS. Trần Văn Dũng, Quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa
thành niên phạm tội, Tạp chí luật học, số 5/2000; PGS.TS Dương Tuyết Miên,
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí luật học, số
4/2002; TS. Trương Minh Mạnh, Phân loại tội phạm với việc quy định trách nhiệm
hình sự của người chưa thành niên, Tạp chí Kiểm sát, số 8/2002; Ths. Trương Hồng
Sơn, Một số quy định của pháp luật quốc tế và một số quốc gia về vấn đề quyền của
người chưa thành niên phạm tội; Tạp chí điện tử ngày 20 tháng 8 năm 2009
(http://hvcsnd.edu.vn/)...
Các công trình nghiên cứu trên phần lớn đã xây dựng được cơ sở lý luận và cơ
sở pháp lý đối với trách nhiệm hình sự, quyết định áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên về cơ bản chưa
nghiên cứu, cập nhật được các quy định mới trong BLHS năm 2015 về áp dụng
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Thêm vào đó, không có công trình
nào nghiên cứu về thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Vì vậy, công trình nghiên cứu: “Áp
4
dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương” của luận văn này đảm bảo tính mới của luận văn Thạc sĩ và
không bị trùng với bất kỳ công trình nào đã nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ về mặt lý luận đối với việc áp dụng hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; đánh giá thực tiễn áp dụng và các giải
pháp hoàn thiện pháp luật, bảo đảm áp dụng đúng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
Nhiệm vụ của Luận văn là phân tích, làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung và
ý nghĩa của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi; đánh giá các quy định
của BLHS năm 2015 về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nêu
những kết quả, hạn chế, chỉ ra các nguyên nhân của hạn chế trong áp dụng hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương;
đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là áp dụng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội theo quy định của BLHS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Từ đối tượng nghiên cứu trên, luận văn có phạm vi nghiên cứu như sau:
- Phạm vi nội dung: những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Phạm vi không gian: Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
- Phạm vi thời gian: từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về hình phạt và cải tạo con người, về pháp luật nói
5
chung, chính sách hình sự nói riêng, đặc biệt là các quan điểm, tư tưởng về cải tạo,
giáo dục, phòng ngừa tội phạm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cũng như việc
áp dụng hình phạt đối với chủ thể tội phạm này.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học pháp lý như:
phân tích, tổng hợp và thống kê, phương pháp so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Đề tài tìm hiểu về các loại hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội, căn cứ áp dụng từng loại hình phạt theo quy định của BLHS hiện hành và
việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Dương. Trên cơ sở đó, đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật, bảo đảm áp dụng đúng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội
Chương 2: Thực trạng áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của áp dụng hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm người dưới 18 tuổi phạm tội
BLHS năm 2015 sử dụng thuật ngữ “người dưới 18 tuổi”, việc thay đổi từ
người chưa thành niên sang người dưới 18 tuổi không có nghĩa là nghĩa của hai
thuật ngữ này khác nhau. Thuật ngữ người dưới 18 tuổi và người chưa thành niên
đều có ý nghĩa như nhau. Khái niệm người dưới 18 tuổi khác với khái niệm trẻ em,
theo quy định tại Điều 1 của Luật Trẻ em năm 2016 thì: “Trẻ em là người dưới 16
tuổi”.
Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần,
chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật như là đối với
người đã thành niên.
Khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mỗi người là khác nhau, được
hình thành từ lúc sinh ra và tích lũy dần trong cuộc sống và sinh hoạt. Lứa tuổi dưới
18 là tuổi trong gia đoạn phát triển về tâm sinh lý cũng như thể chất mạnh mẽ nhất.
Đây là lứa tuổi cần được sự bảo vệ và che chở đặc biệt nhất.
Tâm lý người chưa đủ 18 tuổi nói chung và người dưới 18 tuổi phạm tội nói
riêng có sự khác biệt đáng kể, những người đã đủ hoặc trên 18 tuổi thường có nhận
thức, trưởng thành hơn người dưới 18 tuổi.
Xuất phát từ đặc điểm tâm, sinh lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và yêu
cầu của các Công ước quốc tế của Liên Hợp quốc về trẻ em, pháp luật hình sự Việt
Nam có những quy định riêng có tính chất khoan hồng khi xử lý trách nhiệm hình
sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích tối đa cho họ.
Điều 12 của BLHS năm 2015 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như
sau:
7
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm,
trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các
điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249,
250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.
Như vậy, theo quy định tại Điều 12 của BLHS năm 2015 thì người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định trong luật, còn người từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
Theo quy định tại Điều 12 của BLHS năm 2015 thì độ tuổi bắt đầu chịu trách
nhiệm hình sự là từ đủ 14 tuổi. Do đó, người dưới 18 tuổi phạm tội được hiểu là
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi vào thời điểm người đó thực hiện tội phạm.
* Về căn cứ xác định tuổi của người dưới 18 tuổi:
Tuổi của một người được xác định từ thời điểm người đó được sinh ra. Căn cứ
vào các loại giấy tờ có giá trị pháp lý gắn với nhân thân của người đó (như giấy
chứng sinh, giấy khai sinh, chứng minh nhân dân, các loại văn bằng,…) mà các cơ
quan tư pháp xác định độ tuổi của một người. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp
không thu thập được, hoặc không xác nhận được cơ sở pháp lý của các loại giấy tờ,
thì các cơ quan tư pháp sẽ phải xác định ngày sinh của người phạm tội theo nguyên
tắc có lợi cho họ.
Theo khoản 2 Điều 417 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trong trường hợp
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã áp dụng mọi biện pháp hợp pháp mà
vẫn không xác định được chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của người bị buộc tội,
người bị hại được xác định trong 5 trường hợp như sau:
+ Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy
ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.
+ Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì
lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh.
8
+ Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày,
tháng thì lấy ngày cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh.
+ Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì
lấy ngày cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.
+ Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để
xác định tuổi.
Về thời điểm tính tuổi: ngày xác định độ tuổi của người phạm tội được tính từ
khi thực hiện hành vi phạm tội, bởi về nguyên tắc xác định năng lực của chủ thể là
xác định vào thời điểm thực hiện hành vi. Vì vậy, tuổi được xác định vào thời điểm
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tức là, hành vi phạm tội đã xảy ra vào thời
điểm nào thì sẽ xác nhận độ tuổi của người phạm tội ở thời điểm đó. Trong trường
hợp hành vi phạm tội kéo dài và liên tục, có nhiều hành vi được thực hiện ở các thời
điểm khác nhau, khi xác định độ tuổi thực hiện hành vi phạm tội có thể gặp trường
hợp có hành vi thực hiện khi chưa đủ tuổi, có hành vi thực hiện khi đã đủ tuổi.
Trong trường hợp này, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ lấy độ tuổi ở hành vi cuối để
xem xét trách nhiệm của họ.
Tóm lại, người dưới 18 tuổi phạm tội được hiểu là người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi vào thời điểm người đó thực hiện tội phạm.
* Đặc điểm của người dưới 18 tuổi phạm tội:
Người dưới 18 tuổi là đối tượng cần được sự quan tâm đúng mực của toàn xã
hội. Nghiên cứu đặc điểm người dưới 18 tuổi phạm tội dưới góc độ tâm sinh lý đặt
trong mối quan hệ giữa các yếu tố gia đình, nhà trường và xã hội là việc hết sức cần
thiết và quan trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề quyết định hình phạt đối với
bản thân họ.
- Thứ nhất, về trạng thái cảm xúc, người dưới 18 tuổi là những người chưa
phát triển toàn diện cả về thể chất cũng như nhận thức. Sự phát triển không cân
bằng của hệ tim mạch, tuyến nội tiết cũng như các bộ phận khác dễ đưa họ tới
những cơn xúc động mạnh, nóng nảy vô cớ, sự kích động, dễ bị lôi kéo… dẫn tới
những hành vi bất bình thường. Đây là giai đoạn diễn ra những biến đổi đặc biệt, sự
9
phát triển của cơ thể dẫn đến tình trạng mất cân bằng tạm thời trong cảm xúc của
người dưới 18 tuổi. Trên thực tế, trạng thái thần kinh, trạng thái cảm xúc không cân
bằng có thể là yếu tố gây nên các hành vi lệch chuẩn của các em. Có không ít các
trường hợp vì những mâu thuẫn nhỏ nhưng vì không thể kiềm chế, làm chủ được
bản thân nên các em đã phạm phải những hành động sai lầm dẫn đến những hành vi
phạm tội.
- Thứ hai, về các nhu cầu của bản thân như nhu cầu độc lập, nhu cầu khám
phá cái mới: Đặc điểm tâm lý dễ nhận thấy ở lứa tuổi này là sự biểu hiện của nhu
cầu độc lập, được hiểu là việc cá nhân tự hành động và tự quyết định theo ý kiến
riêng của bản thân mà không muốn bị ảnh hưởng bởi người khác, thể hiện trước hết
trong các hoạt động học tập, giao tiếp với bạn bè… Các em mong muốn tự quyết
định cách thức và thời gian học tập, muốn được mọi người tôn trọng, đặc biệt là về
nghệ thuật, thời trang, các em thường chạy theo những xu hướng, trào lưu mới được
du nhập từ nước ngoài. Đây là một nhu cầu tất yếu của người dưới 18 tuổi. Tuy
nhiên, nó có thể là nguyên nhân dẫn tới các hành vi phạm tội trong một số các
trường hợp. Ở người dưới 18 tuổi phạm tội, nhu cầu độc lập của họ trở nên thái quá,
thể hiện ra bên ngoài dưới dạng như ngang bướng, cố chấp, bảo thủ, gây gỗ, sử
dụng các hành vi bạo lực để chứng tỏ bản thân, không hiếm các bạn trai, khi muốn
chứng tỏ bản thân mà không ngại sử dụng bạo lực, thậm chí một va chạm nhỏ có
thể dẫn tới những hành vi bạo lực vô cùng nguy hiểm. Mặt khác, người dưới 18 tuổi
nói chung và dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng đang dần dần hoàn thiện bản thân,
cùng với đó là sự tò mò, mong muốn khám phá, học hỏi từ thế giới xung quanh
nhằm nâng cao tri thức, mở rộng khả năng nhận thức về xã hội về cả thế giới quan
và nhân sinh quan để có kinh nghiệm sống. Trong thời đại công nghệ thông tin phát
triển như vũ bão thì khao khát hiểu biết của các em không chỉ trong phạm vi đất
nước mình mà còn cả các quốc gia khác. Khi đó, nếu các em tìm tòi, thử nghiệm
những cái thiếu lành mạnh, trái chuẩn mực xã hội thì sẽ dẫn tới hành vi phạm tội
của các em. Theo một nghiên cứu về người dưới 18 tuổi phạm tội ma túy thì quá
trình phạm tội có thể bắt nguồn từ nhiều lý do, một trong số đó là tò mò, hiếu động,
10
có xu hướng tìm kiếm những cái mới lạ. Nhu cầu bản thân có quyết định rất lớn khi
người dưới 18 tuổi tham gia vào các quan hệ xã hội. Nếu không biết cân bằng giữa
nhu cầu cá nhân và các chuẩn mực xã hội thì người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi
phạm tội là một điều tất yếu.
- Thứ ba, nhận thức và quan niệm pháp luật của người dưới 18 tuổi phạm tội
chưa hình thành đầy đủ hoặc bị lệch lạc theo suy nghĩ chủ quan của họ. Khác với
người trưởng thành, người dưới 18 tuổi thường hành động mà không thể lường
trước hết hậu quả của hành vi. Chẳng hạn như khi tham gia giao thông thì dàn hàng
ba, hàng tư gây ắt tắc giao thông, không đội mũ bảo hiểm hay chạy xe mà không đủ
tuổi… Mặt khác, không ít các em cho rằng, những yêu cầu và đòi hỏi của chuẩn
mực luật pháp chỉ được quy định trong các văn bản pháp luật và hoàn toàn mang
tính hình thức còn hành động thì phải căn cứ vào nhu cầu cụ thể của cá nhân thì mới
thể hiện được sự tự do trong cuộc sống. Nhận thức pháp luật không đúng đắn, lệch
chuẩn là nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của các em. Thực tế cho thấy nhiều
người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng lại
không biết rằng mình phạm tội, không thấy hết tính nguy hiểm và hậu quả của hành
vi đó mà cho rằng hành vi của mình là hợp pháp.
Trên đây là một số phân tích về đặc điểm tâm sinh lý chung của người dưới 18
tuổi phạm tội. Với những đặc điểm trên, khi quy định về hình phạt và quyết định
hình phạt, Đảng và Nhà nước cần có đường lối, chính sách đúng đắn, cân nhắc đến
khả năng nhận thức còn hạn chế của họ để có các biện pháp cưỡng chế phù hợp,
không được nghiêm khắc hơn người đủ 18 tuổi phạm tội, đặt mục đích giáo dục, cải
tạo lên hàng đầu, làm cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền thay thế các hình phạt
bằng các biện pháp riêng nhằm tạo điều kiện để người dưới 18 tuổi phạm tội tái hòa
nhập cộng đồng, tránh tình trạng mặc cảm, tự ti dẫn đến tái phạm tội. Đặc biệt là
cân nhắc hơn nữa các biện pháp xử lý chuyển hướng đối với họ. Chỉ có như vậy thì
việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội mới phát huy được hết
hiệu quả của nó.
11
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội.
Để có thể xây dựng được khái niệm áp dụng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội chúng ta phải đi từ khái niệm áp dụng pháp luật.
Theo lý luận chung về pháp luật thì: “Áp dụng pháp luật là hoạt động mang
tính quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi những cơ quan nhà nước, nhà chức
trách có thẩm quyền hoặc các tổ chức xã hội được nhà nước ủy quyền, thông qua
trình tự thủ tục chặt chẽ mà pháp luật quy định nhằm cá biệt hóa những quy phạm
pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể”[46,
tr.188].
Dựa trên khái niệm về áp dụng pháp luật nêu trên và những đặc điểm cơ bản
của hình phạt, chúng ta có thể xây dựng khái niệm áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi như sau:
Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là một hình thức của
áp dụng pháp luật do Tòa án tiến hành và áp dụng những quy phạm pháp luật hình
sự về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cụ thể để giải quyết các vụ án
hình sự theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
* Đặc điểm áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội:
- Thứ nhất, chủ thể có thẩm quyền áp dụng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội là Tòa án.
Khoản 1 Điều 102 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ
quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp”. Do đó, chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền áp dụng hình phạt đối với người bị
kết án.
- Thứ hai, đối tượng bị áp dụng hình phạt là người dưới 18 tuổi phạm tội cụ
thể và trong trường hợp phạm tội cụ thể.
Mục đích của áp dụng hình phạt là cá biệt hoá các quy định về hình phạt trong
những điều kiện cụ thể. Thông qua hoạt động áp dụng hình phạt đối với người dưới
12
18 tuổi phạm tội, các quy định về hình phạt sẽ được cá biệt hoá cho người dưới 18
tuổi cụ thể cho mỗi trường hợp cụ thể.
- Thứ ba, nội dung áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi là áp dụng
các quy định về hình phạt đối với người người dưới 18 tuổi phạm tội và áp dụng các
quy định về khoan hồng liên quan đến việc hình phạt như: miễn hình phạt, miễn
chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt .v.v…
Tuy nhiên, khi áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cần phải
đảm bảo các quy định tại Chương XII của BLHS năm 2015 “Những quy định đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội” như nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội
(Điều 91 của BLHS năm 2015), mức hình hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội.
- Thứ tư, áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm
lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ
họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.
Đặc điểm này là sự cụ thể hóa nguyên tắc xử lý hình sự đối với người dưới 18
tuổi phạm tội được quy định tại khoản 1 Điều 91 của BLHS năm 2015. Hình phạt là
một trong các biện pháp xử lý hình sự được áp dụng đối với người bị kết án phạt tù
nói chung và người dưới 18 tuổi nói riêng. Khi áp dụng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội thì hình phạt phải đảm bảo mục đích xử lý theo quy định tại khoản 1 Điều
91 của BLHS năm 2015.
- Thứ năm, áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là hoạt
động đòi hỏi tính sáng tạo (sự sáng tạo trong phạm vi quy định của pháp luật hình
sự).
Khi áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Tòa án phải
nghiên cứu thật kỹ trường hợp phạm tội, xác định chính xác hình phạt của nó để từ
đó lựa chọn hình phạt cụ thể và ra quyết định áp dụng hình phạt và tổ chức hình
phạt. Trong trường hợp hình phạt được quy định trong BLHS chưa rõ ràng thì phải
vận dụng sáng tạo các nguyên tắc của luật hình sự để áp dụng hình phạt. Để thực
13
hiện được điều đó đòi hỏi Hội đồng xét xử phải có ý thức pháp luật cao, có tri thức
tổng hợp, có kinh nghiệm phong phú, có đạo đức và có tay nghề cao.
- Thứ sáu, trình tự, thủ tục áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phải
được tuân thủ trình tự, thủ tục luật định.
Việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm không thể tiến hành
một cách tùy tiện, không thể tự ý thay đổi hay chấm dứt theo ý chí của Tòa án mà
phải được diễn ra trên những cơ sở, trong những điều kiện và phải tuân thủ theo
trình tự, thủ tục được quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nói chung và
quy định riêng khi áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Việc
thực hiện không đúng, không đầy đủ những trình tự, thủ tục đã được quy định sẽ là
nguyên nhân dẫn đến áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có thể
trở nên vô hiệu, vi phạm nguyên tắc pháp chế.
1.1.3. Nội dung của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Nội dung của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là các
trường hợp áp dụng pháp luật liên quan đến hình phạt và các biện pháp miễn, giảm
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, bao gồm: quyết định hình phạt,
quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, tổng
hợp hình phạt, áp dụng án treo, tha tù trước thời hạn có điều kiện, miễn hình phạt,
miễn chấp hành hình phạt, giảm mức hình phạt đã tuyên.
Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi là việc Tòa án lựa chọn loại
hình phạt và mức hình phạt cụ thể được quy định trong BLHS để áp dụng đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội. Đây là hình thức áp dụng hình phạt chủ yếu đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội.
Trong luật hình sự Việt Nam, việc quyết định hình phạt đối với người dưới 18
tuổi dựa vào các căn cứ quyết định hình phạt (Điều 50 BLHS) và nguyên tắc xử lý
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (Điều 91 BLHS). Quyết định hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội bao gồm: quyết định các hình phạt được áp dụng đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội như: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù
có thời hạn (Điều 98 BLHS); quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm
14
tội, phạm tội chưa đạt (Điều 102 BLHS); các trường hợp quyết định hình phạt khác
chung cho cả người trên 18 tuổi và dưới 18 tuổi phạm tội như: quyết định hình phạt
dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (Điều 54 BLHS), quyết định hình phạt
trong trường hợp đồng phạm (Điều 58 BLHS).
Tổng hợp hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là việc Tòa án xác
định hình phạt chung cho người dưới 18 tuổi phạm tội bị kết án.
Việc tổng hợp hình phạt phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định. Đó là
nguyên tắc thu hút, nguyên tắc cộng hình phạt và nguyên tắc cùng tồn tại. Việc tổng
hợp hình phạt đối với người dưới 18 tuổi dựa trên ba nguyên tắc: nguyên tắc thu
hút, nguyên tắc cộng hình phạt và nguyên tắc cùng tồn tại.
Các trường hợp tổng hợp hình phạt đối với người dưới 18 tuổi theo luật hình
sự Việt Nam bao gồm: tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều
103 BLHS); tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (Điều 104 BLHS).
Án treo, là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án
áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân
của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp
hành hình phạt tù.
Với tư cách là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, người dưới
18 tuổi nếu bị phạt tù không quá 3 năm có thể được tòa án lựa chọn cách thức chấp
hành là tự cải tạo giáo dục theo quy định về chế độ thi hành án treo thay vì buộc họ
phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ. Việc tòa án lựa chọn cách thức chấp
hành trong trường hợp này là hoạt động áp dụng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội.
Trong luật hình sự Việt Nam, án treo được quy định áp dụng chung đối với
trên 18 tuổi và người dưới 18 tuổi phạm tội (Điều 65 BLHS).
Tha tù trước thời hạn có điều kiện là biện pháp được Tòa án áp dụng đối với
người đang chấp hành án phạt tù khi có đủ các điều kiện theo quy định của BLHS,
xét thấy không cần buộc họ phải tiếp tục chấp hành án phạt tù tại cơ sở giam giữ.
15
Về bản chất, tha tù trước thời hạn có điều kiện là biện pháp miễn chấp hành
hình phạt tù có thời hạn có điều kiện. Tương tự như với án treo, áp dụng biện pháp
này cũng là một hình thức áp dụng hình phạt.
Trong luật hình sự Việt Nam, biện pháp tha tù trước hạn có điều kiện áp dụng
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại Điều 106 BLHS.
Miễn hình phạt là trường hợp không buộc người phạm tội phải chịu hình phạt
về tội phạm mà người đó đã thực hiện.
BLHS năm 2015 quy định biện pháp miễn hình phạt chung đối với cả người
trên 18 tuổi và người dưới 18 tuổi phạm tội tại Điều 59 BLHS.
Miễn chấp hành hình phạt là không buộc người bị kết án phải chấp hành toàn
bộ hoặc phần hình phạt còn lại đã tuyên.
BLHS năm 2015 quy định biện pháp miễn chấp hành hình phạt áp dụng riêng
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Điều 106 BLHS.
- Giảm hình phạt là giảm một phần hình phạt đã tuyên cho người bị kết án.
BLHS năm 2015 quy định biện pháp giảm mức hình phạt đã tuyên áp dụng
riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Điều 106 BLHS.
Tóm lại, các trường hợp áp dụng hình phạt với người dưới 18 tuổi phạm tội
bao gồm không chỉ quyết định hình phạt mà nó còn áp dụng các biện pháp khoan
hồng liên quan đến hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Hệ
thống các trường hợp này tạo nên sự đa dạng về biện pháp xử lý hình sự đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân hóa và cá thể hóa
hình phạt đối họ, đảm bảo nguyên tắc xử lý hình sự khi áp dụng đối với người dưới
18 tuổi phạm tội là “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt
nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa
chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội” (khoản 1
Điều 91 BLHS.)
1.1.4. Ý nghĩa của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi là hoạt động quan trọng cụ thể
hóa nguyên tắc của Luật hình sự và chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi
16
phạm tội. Ngoài ra, nó còn có ý nghĩa quan trọng để có thể đạt được mục đích của
hình phạt. Mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của hình phạt có đạt
được hay không và đạt được ở mức độ nào phụ thuộc rất nhiều vào việc áp dụng
hình phạt
- Ý nghĩa chính trị - xã hội: Các hành vi phạm tội của người phạm tội nói
chung, của người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng đã tác động xấu đến xã hội, xâm
phạm đến các khách thể được Luật Hình sự bảo vệ. Việc áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi nói riêng, người phạm tội nói chung nhằm đảm bảo tính nghiêm
minh của pháp luật, đảm bảo xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc
áp dụng hình phạt với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm mục đích chủ yếu nhằm
mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành
công dân có ích cho xã hội thể hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối
xử nhân văn, khoan hồng với người phạm tội là người dưới 18 tuổi. Điều này tạo
niềm tin cho người dân vào tính nghiêm minh của pháp luật, vào uy tín của các cơ
quan công quyền góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
* Ý nghĩa pháp lý: Việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội đúng đắn, hợp lý, phù hợp với hành vi và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi bên cạnh có ý nghĩa quan trọng về chính trị - xã hội thì còn có ý nghĩa sâu
sắc về pháp lý. Ý nghĩa pháp lý của việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội thể hiện ở chỗ thông qua việc áp dụng hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội, chủ thể có thẩm quyền phát hiện những điểm hợp lý, tích cực của
quy định pháp luật hình sự, tố tụng hình sự trong áp dụng hình phạt, vừa phát hiện
những điểm bất cập, vướng mắc, chưa hợp lý trong quy định pháp luật hình sự, tố
tụng hình sự về áp dụng hình phạt cho người dưới 18 tuổi pháp tội. Từ đó, giúp cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tổng kết hoạt động xét xử, ban hành án lệ
cũng như đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật.
* Ý nghĩa giáo dục, phòng ngừa: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội ngoài ý nghĩa răn đe, trừng trị người phạm tội thì ý nghĩa chủ yếu là
17
nhằm giáo dục người phạm tội và để ngăn ngừa hành vi phạm tội tiếp theo của
người phạm tội. Từ đó, giúp người phạm tội nhận thức được sai lầm cũng như
phòng ngừa các chủ thể khác không thực hiện hành vi phạm tội tương tự.
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về áp dụng hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Cơ sở pháp lý về việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
là các quy định của BLHS về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Khi áp dụng hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào các qui định của BLHS để lựa
chọn loại hình phạt với mức hình phạt cụ thể để áp dụng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội. Đây là yêu cầu của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong áp dụng
hình phạt.
Các qui định của BLHS là căn cứ áp dụng hình phạt bao gồm các qui định ở
Phần thứ nhất – Những qui định chung (Phần chung) và các qui định ở Chương XII
Phần chung của BLHS có tính nguyên tắc chung cho việc áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội. Và ở Phần thứ hai - các tội phạm (Phần các tội phạm)
là qui định về hình phạt đối với tội phạm mà người dưới 18 tuổi đã phạm tội.
Cơ sở thực tế của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là
những tình tiết của vụ án, những nhu cầu, đòi hỏi thực tế có thật (đáng tin cậy). Nếu
ra quyết định áp dụng hình phạt mà không căn cứ vào những cơ sở thực tế đáng tin
cậy hoặc không có thật thì sẽ có thể áp dụng hình phạt nhầm, sai hoặc không có tính
thuyết phục.
1.2.1. Nguyên tắc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Khi áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, ngoài các quy
định về hình phạt trong Phần chung BLHS, Tòa án còn căn cứ vào các quy định về
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định từ Điều 90 đến Điều
104 Chương XII của BLHS năm 2015.
Điều 91 của BLHS năm 2015 quy định nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18
tuổi phạm tội thể hiện chính sách hình sự nhân đạo và khoan hồng của Nhà nước
nhằm đảm bảo mục đích chủ yếu là giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi phạm tội
18
sửa chữa sai lầm, đồng thời định hướng đối với các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng trong quá trình xử lý đối với các đối tượng đặc biệt này cụ thể:
Nguyên tắc thứ nhất là “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm
lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ
họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội”
[27, tr.65]. Nguyên tắc này bảo đảm lợi ích tố nhất và chủ yếu nhằm mục đích giáo
dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi phạm tội là torng mọi tình huống, mọi trường hợp
cơ quan tiến hành tố tụng và ngưới tiến hành tố tụng phải tạo mọi điều kiện và áp
dụng phi trừng trị đối với họ. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ
vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Yêu cầu của nguyên tắc này là
giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi phạm tội sửa chữa sai lầm, phát triển lành
mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Do đó, việc áp dụng hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi cũng phải thể hiện sao cho bảo đảm việc giúp đỡ họ sửa
chữa sai lâm, chứ không nhằm trừng trị. Cho nên, ngay từ khi khởi tố, điều tra, cơ
quan điều tra không chỉ áp dụng các biện pháp lý có lợi nhất, đồng thời phải quán
triệt tinh thần là: nếu không cần thiết bãt giữ, tạm giữ tạm giam đối với họ thì không
được áp dụng cac biện phap này. Mặt khác, phải bảo đảm các quyền theo quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự đối với họ như: phải cố người bao chữa ngay từ khi bị
bắt; nếu trường hợp buộc phải bắt giữ để ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội
thì sau khi bị bắt, nếu có người bảo lĩnh hoặc thấy việc cho tại ngoại không ảnh
hưởng cho xã hội thì cương quyết phải cho tại ngoại [23, tr.369].
Nguyên tắc thứ hai là, “Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn
hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có
thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại
Mục 2 Chương này [27, tr.66]:
19
+ Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội
nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134; Điều 141; Điều 171; Điều 248;
Điều 249; Điều 250; Điều 251; Điều 252 của BLHS năm 2015.
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng tội do cố ý
quy định tại khoản 2 Điều 12 của BLHS năm 2015, trừ trường hợp quy định tại
Điều 123; Điều 134; Điều 141; Điều 142; Điều 144; Điều 150; Điều 151; Điều 168;
Điều 171; Điều 248; Điều 249; Điều 250; Điều 251; Điều 252 của Bộ luật này.
+ Người dưới 18 tuổi là người giúp sức bị rủ rê, lôi kéo, người thực hiện
không tích cực… nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án.
Nguyên tắc thứ ba là, “Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi
phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về
nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu
của việc phòng ngừa tội phạm” [27, tr.66]. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp
dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ được thực hiện trong trường
hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội,
căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ và phải bảo đảm yêu cầu của việc
phòng ngừa tội phạm. Yêu cầu này nhằm bảo đảm để đạt được mục đích đặt ra là
“chủ yếu nhằm giáo dục giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm”. Để xác định trường hợp nào
là cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào loại tội phạm mà họ thực hiện, tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm cùng những
yếu tố khác: (như nhân thân, sự ăn năn hối cải của người phạm tội, yêu cầu của
cuộc đấu tranh chống, phòng ngừa tội phạm chính sách hình sự của Nhà nước trong
từng giai đoạn…) và các tình tiết khác của vụ án.
Nguyên tắc thứ tư là, “Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một
trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo
dục, phòng ngừa” [27, tr.66]. Nội dung nguyên tắc này đòi hỏi Tòa án chỉ áp dụng
20
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm
hình sự hoặc áp dụng một trong các biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, tại
trường giáo dưỡng nhưng không có hiệu quả. Như vậy, trước khi Tòa án áp dụng
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi thì phải áp dụng các biện pháp không phải là
hình phạt trước. Tuy nhiên, trên thực tế Tòa án chỉ cân nhắc và xem xét tính chất,
mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để quyết định có
áp dụng hình phạt hay không. Nếu xét thấy không cần áp dụng hình phạt thì mới áp
dụng các biện pháp giáo dục khác.
Nguyên tắc thứ năm là, “Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội” [27, tr.67]. Đây là nguyên tắc xử lý, đồng thời cũng là
căn cứ quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Mục đích xử lý
người dưới 18 tuổi phạm tội “chủ yếu nhằm giáo dục giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm”.
Vì vậy, không cho phép xử phạt tù chung thân hoặc tử hình (là những hình phạt
nghiêm khắc nhất) đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Nguyên tắc thứ sáu là, “Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác
không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho
người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với
người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” [27, tr.67].
Nguyên tắc này cho thấy, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không
có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Trong trường hợp này Tòa án cho họ được hưởng
mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương
ứng (Điều 101) và với thời hạn thích hợp ngắn nhất. Trong mọi trường hợp Tòa án
không được áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Khi
Tòa án quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Tòa án sẽ quyết
định hình phạt tù nhẹ hơn mức hình phạt đối với người đủ 18 tuổi trở lên.
21
Nguyên tắc thứ bảy là, “Án đã tuyên đối với người khi chưa đủ 16 tuổi thì
không tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm” [27, tr.67]. Việc không quy
định đối với người chưa đủ 16 tuồi bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiêm cũng
là thê hiện nguyên tắc không coi việc trừng trị là mục đích đối với người chưa đủ 16
tuổi, không thành kiến đối với người dưới 16 tuổi và tạo điều kiện cho các em phát
triển bình thường trong cuộc sống trước mắt và lâu dài, vì đối với người chưa đủ 16
tuổi còn cả một tương lai phía trước. Nguyên tắc này nhằm tạo điều kiện thuận lợi
nhất để người dưới 18 tuổi sớm hòa nhập với cộng đồng, tránh sự thành kiến của xã
hội và sự mặc cảm của bản thân người dưới 18 tuổi về hành vi phạm tội mà họ đã bị
kết án trong quá khứ.
1.2.2. Quy định về hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội
Nội dung áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi là áp dụng các quy
định về hình phạt đối với người người dưới 18 tuổi phạm tội và áp dụng các quy
định về khoan hồng liên quan đến hình phạt như: miễn hình phạt, miễn chấp hành
hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt .v.v… Do đó, áp dụng hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội gồm các trường hợp sau:
1.2.2.1. Hình phạt cảnh cáo
Hình phạt cảnh cáo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là hình phạt chính, có
mức trách nhiệm hình sự nhẹ nhất nhưng có tính giáo dục sâu sắc, thể hiện sự khiển
trách công khai của Nhà nước đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và hành vi phạm
tội của họ. Cảnh cáo có khả năng tác động một cách mạnh mẽ đến ý thức người
dưới 18 tuổi phạm tội, giáo dục, răn đe để họ không phạm tội mới, đạt được mục
đích của hình phạt.
Người dưới 18 tuổi bị phạt cảnh cáo khi phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều
tình tiết giảm nhẹ nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự.
Như vậy, người phạm tội được áp dụng hình phạt cảnh cáo nếu có đủ các điều
kiện như sau:
22
- Thứ nhất, tội phạm mà người dưới 18 tuổi thực hiện phải là tội ít nghiêm
trọng.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 9 của BLHS năm 2015 quy định: “Tội
phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội
ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm”.
Nhìn chung, việc xác định tội phạm ít nghiêm trọng không phải căn cứ vào
mức cao nhất của hình phạt đối với tội đó mà chỉ căn cứ vào mức cao nhất của
khung hình phạt. Một tội phạm được quy định trong một điều luật có thể có một
khung hình phạt nhưng cũng có thể có nhiều khung hình phạt [23, tr.170, 171].
- Thứ hai, có nhiều tình tiết giảm nhẹ.
Có nhiều tính tiết giảm nhẹ có nghĩa là có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ trở lên.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 34 của BLHS năm 2015, không bắt buộc
tình tiết giảm nhẹ này phải thuộc khoản 1 hay khoản 2 Điều 51 của BLHS năm
2015. Do đó, về lý thuyết thì không nhất thiết người dưới 18 tuổi phạm tội phải có
hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015 mà
có thể chỉ có một tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 và một tình tiết giảm nhẹ ở khoản 2,
thậm chí cả hai tình tiết đều được quy định tại khoản 2 Điều 51 của BLHS năm
2015.
- Thứ ba, không thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự.
Để áp dụng hình phạt cảnh cáo thì điều kiện thứ ba người phạm tội dưới 18
tuổi không thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự.
Như vậy, cảnh cáo là một hình phạt có nội dung khiển trách công khai của
Nhà nước do Tòa án áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Có thể khẳng
định so với các hình phạt chính khác, cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất vì nó không
tước bỏ hoặc hạn chế bất cứ quyền lợi nào của người dưới 18 tuổi phạm tội mà chỉ
lên án về tinh thần đối với họ. Nội dung của hình phạt cảnh cáo chỉ thể hiện ở việc
Tòa án tuyên bản án có tội đối với người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội và
Tòa án sẽ nhân danh Nhà nước lên án người bị kết án về việc họ đã thực hiện hành
23
vi phạm tội. Hậu quả pháp lý duy nhất mà hình phạt cảnh cáo mang lại cho người
dưới 18 tuổi phạm tội là họ phải chịu án tích trong thời hạn 06 tháng (chỉ đối với
người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi). Tuy nhiên, hình phạt này cũng gây ra cho
người dưới 18 tuổi phạm tội những tổn thất nhất định về mặt tinh thần, kể cả việc
họ phải mang án tích.
1.2.2.2. Hình phạt tiền
Điều 99 của BLHS năm 2015 quy định về hình phạt tiền với tư cách là hình
phạt chính áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội. Hình phạt
tiền là việc buộc người phạm tội phải nộp một khoản tiền nhất định theo quy định
của pháp luật để sung quỹ nhà nước. Theo quy định này khi xét thấy không cần áp
dụng hình phạt khác mà mục đích của hình phạt vẫn đạt được thì Tòa án áp dụng
hình phạt tiền đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu người phạm tội thỏa mãn
đầy đủ các điều kiện sau:
- Một là, người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
- Hai là, người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng.
Quy định này là rất phù hợp với thực tế xử lý trách nhiệm hình sự đối với
người dưới 18 tuổi, góp phần đa dạng hóa các hình phạt. Đồng thời, trong thời điểm
hiện tại có nhiều người dưới 18 tuổi có thu nhập hay tài sản riêng và có thể tự chịu
trách nhiệm bằng tài sản của mình.
Chính sách hình sự của nước ta luôn muốn hạn chế áp dụng các hình phạt tước
quyền tự do của con người, đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì “Tòa án
chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét
thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng
ngừa” [27, tr.67].
Do đó, việc áp dụng hình phạt tước đi quyền lợi về tài sản có thể tái tạo được
mà vẫn đảm bảo được mục đích giáo dục người phạm tội như hình phạt tiền là rất
cần thiết.
24
Hình phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
nhằm tước đi quyền lợi vật chất của họ để cải tạo và giáo dục họ trở thành công dân
có ích cho xã hội.
Căn cứ theo quy định tại Điều 35 và Điều 99 của BLHS năm 2015 thì người
dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt tiền khi có đủ các điều kiện như sau:
- Một là, người dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng
hoặc người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường,
trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác theo quy định của
BLHS năm 2015.
- Hai là, người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và có thu nhập hoặc tài
sản riêng; người dưới 18 tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu hình
phạt tiền. Bởi lẽ, ở độ tuổi này vấn đề tài chính của người phạm tội vẫn còn lệ thuộc
hoàn toàn vào gia đình, ít có trường hợp có thu nhập hoặc tài sản riêng nên nếu áp
dụng hình phạt này đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi sẽ không đảm bảo
tính khả thi. Mặt khác, việc áp dụng hình phạt này sẽ đem lại gánh nặng cho gia
đình, không đúng với tính chất “cá thể hóa trách nhiệm hình sự”, không đảm bảo
được mục đích và hiệu quả của hình phạt này nên nhà làm luật không cho phép áp
dụng hình phạt tiền đối với đối tượng này.
Bên cạnh đó, chỉ áp dụng hình phạt tiền đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên nếu
có thu nhập hoặc có tài sản riêng điều này vừa đảm bảo tính khả thi của hình phạt,
vừa tạo thêm điều kiện để Tòa án áp dụng linh hoạt các hình phạt, giảm bớt các
trường hợp xử phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tài sản riêng của người
dưới 18 tuổi ở đây là tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của người đó có được do lao
động, được thừa kế, được tặng cho… Thu nhập của người dưới 18 tuổi là thu nhập
thực tế từ hợp đồng lao động, từ hoạt động sản xuất kinh doanh, có thể là thu nhập
thường xuyên hoặc không thường xuyên.
- Thứ ba, mức phạt tiền đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không quá ½ mức
tiền phạt mà điều luật quy định. Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất
và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xem xét đến tình hình tài sản của
25
người phạm tội, sự biến động của giá cả, nhưng không được thấp hơn 1.000.000
đồng.
Khi xác định mức phạt cụ thể, Tòa án sẽ căn cứ vào tính chất và mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội, để quyết định một mức tiền phạt như đối với người từ
đủ 18 tuổi trở lên, sau đó chia đôi số tiền phạt để quyết định mức phạt cụ thể đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội. Nếu sau khi phạt tiền người dưới 18 tuổi phải lâm vào
hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn thì Tòa
án có thể xem xét quyết định giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt tiền còn lại.
1.2.2.3. Hình phạt cải tạo không giam giữ
Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính có nội dung giáo dục sâu sắc khi
không buộc người được áp dụng hình phạt này phải cách ly khỏi đời sống xã hội.
Họ vẫn có thể thực hiện công việc thường ngày và sống trong môi trường gia đình
và xã hội như trước đây nhưng được đặt dưới sự giám sát của cơ quan, tổ chức hoặc
chính quyền địa phương nơi người đó làm việc hoặc cư trú.
Hình phạt cải tạo không giam giữ không chỉ là hình phạt được áp dụng cho
người dưới 18 tuổi phạm tội. Loại hình phạt này cũng được áp dụng đối với người
phạm tội từ đủ 18 tuổi trở lên. Do đó, khi Tòa án quyết định áp dụng hình phạt cải
tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phải căn cứ vào Điều 36 BLHS năm
2015 về cải tạo không giam giữ, đồng thời căn cứ vào Điều 100 của BLHS năm
2015 quy định việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18
tuổi [23, tr.383].
Cơ sở để áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ chủ yếu căn cứ vào hai yếu
tố là tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và điều kiện về khả năng có thể tự
cải tạo của người phạm tội. Theo đó, hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ có thể
được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi khi đáp ứng được các điều kiệu như sau:
- Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng,
phạm tội nghiêm trọng hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất
26
nghiêm trọng. Như vậy, việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc các trường hợp:
+ Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý.
+ Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội
nghiêm trọng có thể là cố ý hoặc vô ý.
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng có thể là cố
ý hoặc vô ý [27, tr.72].
- Chỉ được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội
có nơi làm việc ổn định, thường xuyên và có nơi cư trú rõ ràng. Riêng đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ cần điều
kiện là có nơi cư trú rõ ràng, vì theo quy định tại khoản 2 Điều 100 của BLHS khi
áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội,
không khấu trừ thu nhập của người đó nên việc xác định người phạm tội có nơi làm
việc ổn định là không cần thiết, mà chỉ cần xác định người phạm tội có nơi cư trú rõ
ràng là được.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật Cư trú năm 2006 thì: “Nơi cư trú của
công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của
công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú”. Đối với nơi cư trú của người dưới 18
tuổi được xác định như sau: Nơi cư trú của cha, mẹ; nếu cha, mẹ có nơi cư trú khác
nhau thì nơi cư trú của người dưới 18 tuổi là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà người
dưới 18 tuổi thường xuyên chung sống; Người dưới 18 tuổi có thể có nơi cư trú
khác với nơi cư trú của cha, mẹ nếu được cha, mẹ đồng ý hoặc pháp luật có quy
định.
- Hình phạt cải tạo không giam giữ được Tòa án áp dụng khi xét thấy không
cần thiết phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội. Khi xem xét điều kiện này Tòa
án cần phân tích, đánh giá một cách toàn diện những tình tiết có ảnh hưởng đến tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, những đặc điểm về
nhân thân của người phạm tội có khả năng ảnh hưởng đến khả năng tự cải tạo, giáo
dục họ, đảm bảo cho họ tự cải tạo sẽ không gây nguy hiểm cho xã hội. Đồng thời,
27
phải xem xét đến yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Thông thường, Tòa án áp
dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội có mức độ nhẹ, phạm
tội lần đầu, có ý thức sửa đổi sai lầm.
Khi người dưới 18 tuổi phạm tội đã thỏa mãn các điều kiện nêu trên thì Tòa án
có thể xem xét quyết định áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với họ.
Thời gian và phương pháp áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội được quy định gồm:
+ Theo quy định tại khoản 1 Điều 36 của BLHS năm 2015 thì hình phạt cải
tạo không giam giữ được áp dụng có thời gian từ 06 tháng đến 03 năm. Tuy nhiên,
đây là quy định áp dụng chung đối với mọi cá nhân phạm tội, riêng đối với người
dưới 18 tuổi thì “Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định” [27, tr.73]. Như vậy,
thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội vẫn phải đảm
bảo mức tối thiểu là 06 tháng nhưng cao nhất là 01 năm 06 tháng.
Ngoài ra, khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18
tuổi phạm thì Tòa án cần chú ý đến các quy định:
- Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội, thì không khấu trừ thu nhập của người đó [27, tr.72].
Theo quy định tại khoản 3 Điều 36 của BLHS năm 2015 thì đối với người đủ
18 tuổi trở lên, trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số
nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu
nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ Nhà nước. Tuy nhiên, đối với người dưới 18
tuổi thì Tòa án sẽ không khấu trừ thu nhập của họ. Quy định này, xuất phát từ thực
tế rằng ở độ tuổi này việc tham gia lao động, tạo ra thu nhập còn rất hạn chế, phần
lớn chủ thể này đều phụ thuộc vào kinh tế của gia đình nên việc khấu trừ thu nhập
của họ là thiếu tính khả thi, không thể hiện tinh thần nhân đạo của Nhà nước.
- Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam
được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm
giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ [27, tr.27].
28
Như vậy, trong trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng đã bị tạm giữ,
tạm giam trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì khi quyết định thời hạn cải tạo
không giam giữ, Tòa án phải khấu trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam.
Nói chung, để hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội đạt hiệu quả cao, tránh tái phạm thì vai trò của gia đình người
bị kết án đóng vài trò vô cùng quan trọng. Những người dưới 18 tuổi phải chịu cải
tạo không giam giữ nếu đã đạt được tiến bộ đáng kể và họ đã hoàn thành một phần
tư thời gian do Tòa án quy định để giảm hình phạt. Nếu họ lập công hoặc mắc bệnh
hiểm nghèo thì họ sẽ được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành hình phạt
còn lại.
1.2.2.3. Hình phạt tù có thời hạn
Tù có thời hạn là hình phạt tước quyền tự do của người bị kết án, buộc họ phải
cách ly khỏi cuộc sống xã hội và chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một
thời gian nhất định.
Hình phạt tù có thời hạn là loại hình phạt thể hiện tính cưỡng chế nghiêm khắc
cao hơn so với các hình phạt khác như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ.
Khi người phạm tội bị áp dụng hình phạt này đồng nghĩa với việc họ bị tước quyền
tự do và một số quyền công dân khác, bị cách ly khỏi gia đình, xã hội, phải lao động
cải tạo tại trại giam trong một thời gian được xác định trong bản án đã có hiệu lực
pháp luật. Chế độ cải tạo cũng như việc chấp hành hình phạt tù có thời hạn theo
Luật Thi hành án hình sự và Nghị định hướng dẫn cụ thể.
Theo quy tắc 19 của Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp
dụng pháp luật đối với người dưới 18 tuổi (còn gọi là quy tắc Bắc Kinh) được Đại
hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 29 tháng 11 năm 1985 đưa ra nguyên tắc cơ
bản là: “Việc đưa trẻ em vào trại giam là phương pháp giải quyết cuối cùng và
trong thời hạn cần thiết tối thiểu”. Tòa án chỉ đưa ra hạn chế tự do cá nhân đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội, khi họ bị xét xử về hành vi rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng, có dùng bạo lực để chống lại người khác hay ngoan cố gây ra những
hành vi nghiêm trọng khác mà không còn hướng giải quyết nào [53, tr.178]
29
Theo pháp luật hình sự Việt Nam thì: “Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời
hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp
giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được
hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội
tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất” [27, tr.67].
Như vậy, chính sách hình sự của Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội là hạn chế áp dụng hình phạt tù. Chỉ trong những trường hợp người dưới 18 tuổi
phạm tội gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, có nhiều tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự, có nhân thân xấu và môi trường sống không thuận lợi cho
việc cải tạo, giáo dục để người dưới 18 tuổi tự cải tạo ngoài xã hội và việc áp dụng
các hình phạt không tước tự do khác không đảm bảo hiệu quả công tác phòng ngừa
tội phạm thì mới phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội. Việc BLHS quy định hạn chế áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội đã thể hiện nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước ta đối
với đối tượng này.
Bên cạnh đó, đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì BLHS năm 2015 quy
định không được áp dụng hình phạt tù chung thân và tử hình. Do đó, có thể khẳng
định đây là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống các hình phạt đối với chủ thể
này.
Theo quy định tại Điều 101 của BLHS năm 2015 thì mức hình phạt tù đối với
người dưới 18 tuổi được chia ra thành 02 nhóm sau:
- Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi:
+ Khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân
hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù.
+ Nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba
phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.
- Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi:
30
+ Khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân
hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù.
+ Nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá
một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định [19, tr.214].
Tuy nhiên, quy định nêu trên chỉ xác định mức hình phạt tù cao nhất đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội là 18 năm hoặc 12 năm tùy thuộc từng nhóm tuổi mà
không quy định mức tối thiểu là bao nhiêu tháng. Việc xác định thời hạn tối thiểu
chấp hành hình phạt tù phải được tuân thủ theo quy định tại khoản 1 Điều 38 của
BLHS năm 2015 “mức tối thiểu là 03 tháng”.
Ngoài ra, trong trường hợp người bị kết án bị tạm giữ, tạm giam trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử thì “Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời
hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù” [27,
tr.29].
Từ những phân tích nêu trên cho thấy hình phạt tù có thời hạn là hình phạt
nghiêm khắc nhất có thể áp dụng đối với người dưới 18 tuổi. Hình phạt này được áp
dụng khi người dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Trong trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm
trọng, cần thiết áp dụng hình phạt nhưng không có đủ điều kiện áp dụng các hình
phạt khác như cảnh cáo, phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ thì cũng áp dụng
hình phạt tù có thời hạn. Tuy nhiên, về mức độ áp dụng hình phạt tù so với người
đủ 18 tuổi phạm tội thì người dưới 18 tuổi luôn được hưởng mức án nhẹ hơn và với
thời hạn thích hợp ngắn nhất.
1.2.3. Quy định về tổng hợp hình phạt, miễn hình phạt, giảm mức hình phạt đã
tuyên
1.2.3.1. Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội.
Phạm nhiều tội là trường hợp người đã phạm nhiều tội khác nhau được quy
định trong luật hình sự mà những tội này chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự, chưa bị kết án lần nào, nay bị Tòa án đưa ra xét xử cùng một lần về các tội
phạm [48, tr.89].
31
BLHS năm 2015 đã quy định rõ ràng, đầy đủ về tổng hợp hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội, theo hướng quy định nguyên tắc chung về tổng hợp
hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Với
chính sách hình sự đặc biệt, quyết định hình phạt trong trường hợp người dưới 18
tuổi phạm nhiều tội cũng mang những đặc trưng riêng khi tổng hợp hình phạt. Theo
đó, Điều 103 của BLHS năm 2015 xác định có ba trường hợp đặc biệt khi tổng hợp
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội.
- Thứ nhất, khoản 1 Điều 103 của BLHS năm 2015 đã xác định nguyên tắc và
giới hạn tổng hợp hình phạt khi các tội họ thực hiện đều nằm trong giới hạn từ 14
đến 16 tuổi, hoặc đều nằm trong giới hạn từ 16 tuổi đến 18 tuổi: “Khi xét xử cùng
một lần người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội thì Tòa án quyết định hình phạt đối với
từng tội và tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này…”.
Theo đó, nếu hình phạt chung là cải tạo không giam giữ thì mức hình phạt cao nhất
được áp dụng không quá 03 năm. Nếu hình phạt chung là tù có thời hạn thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không được vượt quá 18 năm đối với người từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội và 12 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi khi phạm tội.
Có thể thấy rằng nhóm từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi được khoan hồng nhiều
hơn, bên cạnh đó thì khoản 1 Điều 103 của BLHS năm 2015 không quy định mức
tối đa của hình phạt tiền. Và giống với người đủ 18 tuổi trở lên, nếu người dưới 18
tuổi bị áp dụng hình thành hình phạt chung mà không khống chế mức tối đa (điểm
đ, khoản 1 Điều 55 phạt tiền thì không tổng hợp với các hình phạt khác mà các
khoản tiền phạt được cộng lại của BLHS năm 2015 [33, tr.27, 28].
- Thứ hai, khoản 2 Điều 103 của BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định về tổng
hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi
người phạm tội đủ 16 tuổi, có tội được thực hiện sau khi người phạm tội đủ 16 tuổi.
Theo đó thì việc tổng hợp hình phạt được thực hiện như sau:
+ Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi người đó
đủ 16 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện
32
sau khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối
với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi theo khoản 1 Điều này, tức là không được
vượt quá 03 năm nếu hình phạt chung là cải tạo không giam giữ và 12 năm nếu hình
phạt chung là tù có thời hạn.
+ Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi người đó đủ
16 tuổi nặng hơn mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi đủ 16
tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi theo khoản 1 Điều này, tức là không được vượt quá 03
năm đối với hình phạt chung là cải tạo không giam giữ và 18 năm đối với hình phạt
chung là tù có thời hạn.
- Thứ ba, khoản 3 Điều 103 của BLHS năm 2015 quy định về tổng hợp hình
phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi người phạm
tội đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi người phạm tội đủ 18 tuổi đã có sự sửa
đổi cho phù hợp với thực tiễn của hình phạt. Theo đó, việc tổng hợp hình phạt được
thực hiện như sau:
+ Nếu mức hình phạt Tòa án tuyên đối với tội được thực hiện khi người đó
chưa đủ 18 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt áp dụng đối với tội được thực
hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình
phạt cao nhất quy định tại khoản 1 Điều này;
+ Nếu mức hình phạt Tòa án tuyên đối với tội được thực hiện khi người đó đã
đủ 18 tuổi nặng hơn mức hình phạt áp dụng đối với tội thực hiện khi người đó chưa
đủ 18 tuổi thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm
tội.
1.2.3.2. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
Đối với trường hợp người dưới 18 tuổi đang chấp hành một bản án nhưng lại
bị đưa ra xét xử về một tội đã phạm trước khi có bản án này hoặc một tội thực hiện
sau khi có bản án thì thực hiện theo nguyên tắc chung như đối với người thành niên.
Tuy nhiên, mức tối đa của hình phạt chung bị khống chế như tổng hợp hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội đã nêu trên. Cụ thể, Điều 104 của BLHS năm 2015
33
quy định về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đối với người dưới 18 tuổi như
sau:
Việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp một người đang phải chấp hành
một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước hoặc sau khi có bản án này, được
thực hiện theo quy định tại Điều 55 và Điều 56 của Bộ luật này.
Hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại
Điều 103 của Bộ luật này.
1.2.3.3. Miễn hình phạt
Người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt
nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự [27, tr.43].
Theo quy định tại Điều 59 BLHS năm 2015, người phạm tội có thể được miễn
hình phạt trong trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản
1, khoản 2 Điều 54, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức được
miễn trách nhiệm hình sự.
Như vậy, người phạm bất cứ tội gì cũng có thể được miễn hình phạt, không
phân biệt tội đó là tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hay tội
đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, điều kiện để người được miễn hình phạt lại
không cụ thể, ngoài điều kiện về tình tiết giảm nhẹ và nếu chỉ căn cứ vào tình tiết
giảm nhẹ thì người phạm tội chỉ có thể được quyết định hình phạt dưới mức thấp
nhất của khung hình phạt theo quy định tại Điêu 54 BLHS chứ chưa thể được miễn
hình phạt. Vì vậy, người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ mới chỉ là một điêu
kiện cần mà chưa đủ, phải có thêm điều kiện khác, mà điêu kiện này mới có ý nghĩa
quyết định có cho miễn hình phạt hay không, đó là “đáng được khoan hồng đặc biệt,
nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự”.
Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51
BLHS là phải có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và các tình tiết đó phải được quy
định tại khoản 1 Điều 54. Điều kiện này hoàn toàn giống với điều kiện đê người
phạm tội được áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, vấn đề
34
còn lại là xác định điều kiện “đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức
được miễn trách nhiệm hình sự”. Có thể nói người phạm tội được miễn hình phạt là
người có điều kiện để miễn trách nhiệm hình sự nhưng chưa được miễn trách nhiệm
hình sự.
Người phạm tội được miễn hình phạt, nhất thiết phải có những điêu kiện về
trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, nhưng vì tính chât và mức độ nghiêm trọng
của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết khác của vụ án mà
không thể miễn trách nhiệm hình sự đối với họ thì mới miễn hình phạt [23, tr.332]
1.2.3.4. Giảm mức hình phạt đã tuyên
Các quy định về giảm mức hình phạt đã tuyên đối với người dưới 18 tuổi được
áp dụng trong những trường hợp khác nhau tùy thuộc vào loại hình phạt mà họ đang
phải chấp hành: (i) người phạm tội có tiến bộ; (ii) người phạm tội lập công hoặc
mắc bệnh hiểm nghèo, và (iii) người phạm tội lâm vào hoàn cảnh kinh tế khó khăn
kéo dài.
* Giảm mức hình phạt đã tuyên trong trường hợp người dưới 18 tuổi bị áp
dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù có thời hạn.
- Trường hợp người phạm tội có tiến bộ.
So với người thành niên, thì các quy định về giảm mức hình phạt đã tuyên đối
với người dưới 18 tuổi bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù có thời hạn được
khoan hồng nhiều hơn ở các khía cạnh sau. Thứ nhất, người dưới 18 tuổi được xét
giảm sớm hơn, khi đã chấp hành được một phần tư thời hạn đã tuyên. Thứ hai, đối với
mỗi lần xét giảm, họ có thể được giảm nhiều hơn, tối đa đến 04 năm. Thứ ba, thời gian
tối thiểu họ phải chấp hành hình phạt ngắn hơn, tối thiểu là hai phần năm mức hình
phạt đã tuyên (khoản 1 Điều 105 của BLHS năm 2015).
- Trường hợp người phạm tội lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo.
Trong trường hợp lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, người dưới 18 tuổi có
thể được xét giảm ngay khi có các sự kiện pháp lý này xảy ra và có thể được miễn
chấp hành toàn bộ phần hình phạt còn lại (khoản 2 Điều 105 của BLHS năm 2015).
35
* Giảm mức hình phạt đã tuyên trong trường hợp người dưới 18 tuổi bị áp
dụng hình phạt tiền.
Việc giảm mức hình phạt đã tuyên đối với người dưới 18 tuổi bị áp dụng hình
phạt tiền chỉ được áp dụng trong trường hợp họ lập công lớn hoặc lâm vào hoàn
cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau.
Trong những trường hợp đã nêu, họ có thể được giảm hoặc miễn chấp hành toàn bộ
phần tiền phạt còn lại (khoản 3 Điều 105 của BLHS năm 2015).
* Cần lưu ý rằng, việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
theo các quy định tại Chương XII của BLHS năm 2015 là những quy định về hình
phạt được áp dụng riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, bên cạnh đó người
chưa thành niên phạm tội còn có thể áp dụng hình phạt khác nếu không trái với các
quy định tại Chương XII của BLHS năm 2015.Chẳng hạn: các quy định về miễn
chấp hành hình phạt (Điều 62 của BLHS năm 2015), giảm hình phạt đã tuyên (Điều
63 BLHS), hoãn chấp hành hình phạt tù (Điều 67 của BLHS năm 2015), tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt tù (Điều 68 của BLHS năm 2015) … được áp dụng chung
cho cả người đã thành niên và người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, luận văn chỉ
giới hạn nghiên cứu việc áp dụng hình phạt chỉ áp dụng riêng cho người dưới 18
tuổi phạm tội.
1.3. Các yếu tố tác động đến áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội
Như đã nghiên cứu ở Mục 1.1, áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội được hiểu là một hình thức của áp dụng pháp luật do Tòa án tiến hành và
áp dụng những quy phạm pháp luật hình sự về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội cụ thể để giải quyết các vụ án hình sự theo một trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định.
Từ khái niệm này, chúng ta thấy có các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi như sau:
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạtLuận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
 
Luận văn: Giáo dục, tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Giáo dục, tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Giáo dục, tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Giáo dục, tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy tại Đà Nẵng, 9đ
Phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy tại Đà Nẵng, 9đPhòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy tại Đà Nẵng, 9đ
Phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy tại Đà Nẵng, 9đ
 
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sựLuận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOTLuận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
 
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự tại Hà NộiLuận văn: Tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tội phạm về cờ bạc theo pháp luật Hình sự tại Hà Nội
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí MinhLuận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luậtLuận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng NinhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOTLuận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAYLuận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 

Similar to Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (20)

Áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiÁp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiÁp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đNgăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
Ngăn chặn bắt, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, 9đ
 
Thủ Tục Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Dưới 18 Tuổi, 9 điểm
Thủ Tục Xét Xử Sơ Thẩm  Vụ Án Hình Sự Dưới 18 Tuổi, 9 điểmThủ Tục Xét Xử Sơ Thẩm  Vụ Án Hình Sự Dưới 18 Tuổi, 9 điểm
Thủ Tục Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Dưới 18 Tuổi, 9 điểm
 
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiPhân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiNguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Bào chữa chỉ định theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Bào chữa chỉ định theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tộiBào chữa chỉ định theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Bào chữa chỉ định theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn p...
 
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiÁp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luậtHình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
 
Luận văn: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổi
Luận văn: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổiLuận văn: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổi
Luận văn: Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có bị can dưới 18 tuổi
 
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAYLuận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
 
Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội
Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tộiHình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội
Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tại tỉnh Bình Định
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tại tỉnh Bình ĐịnhLuận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tại tỉnh Bình Định
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tại tỉnh Bình Định
 
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự mà bị cáo dưới 18 tuổi
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự mà bị cáo dưới 18 tuổiLuận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự mà bị cáo dưới 18 tuổi
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự mà bị cáo dưới 18 tuổi
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đ
Luận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đLuận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đ
Luận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đ
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 

Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN MINH THẢO ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN MINH THẢO ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRỊNH TIẾN VIỆT Hà Nội, năm 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương” là công trình nghiên cứu khoa học do bản thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Trịnh Tiến Việt. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn có kế thừa các quan điểm, ý kiến khoa học của những nhà nghiên cứu đã từng thực hiện về vấn đề tư pháp người chưa thành niên (người dưới 18 tuổi) và những thông tin này khi được sử dụng đến đều được thể hiện một cách trung thực, có trích dẫn nguồn đầy đủ trong luận văn. Học viên Trần Minh Thảo
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ............................6 1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ....................................................................................6 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội............................................................................17 1.3. Các yếu tố tác động đến áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ...........................................................................................................................35 Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG ........40 2.1. Khái quát tình hình áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.........................................................................40 2.2. Thực trạng áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.....................................................................................44 2.3. Kết quả áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, những vướng mắc, bất cập và nguyên nhân.................................................................................58 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG ........................................................................................................67 3.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ..................................................................................67 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân tỉnh Bình Dương.............................................69 KẾT LUẬN..............................................................................................................75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự.
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội ngày càng tăng không chỉ về mặt số lượng mà tính chất các vụ án cũng ngày càng nghiêm trọng hơn. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội là một việc khá phức tạp bởi người dưới 18 tuổi khả năng nhận thức pháp luật còn hạn chế, hành vi của họ thường mang tính bộc phát do bị lôi kéo hoặc bị kích động, họ chưa đủ khả năng làm chủ hành động của mình. Hơn nữa, họ còn một tương lai dài phía trước. Do đó, không thể áp dụng các biện pháp xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội giống với những người đã thành niên. Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) đã có những quy định xử lý riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Những quy định này thể hiện chính sách pháp luật hình sự của Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội với mục đích chính là “cải tạo và giáo dục”. Tuy nhiên, tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội không có dấu hiệu giảm đi mà ngày càng tăng về số lượng cũng như mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Phạm luật hình sự với chế tài hình phạt là công cụ sắc bén, hữu hiệu trong công cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, duy trì trật tự, an toàn xã hội, giáo dục ý thức chấp hành và tuân theo pháp luật cho các chủ thể trong xã hội. Bên cạnh đó, chính sách hình sự thể hiện rõ bản chất nhân đạo và dân chủ của Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Các quy định của hình phạt mang tính chất răn đe cũng mang tính giáo dục, cải tạo, khoan hồng. Chế định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã thể hiện rõ điều này khi các quy định được xây dựng trên cơ sở những đặc thù tâm sinh lý và sự phát triển về nhận thức của chủ thể là người dưới 18 tuổi phạm tội. BLHS năm 2015 là bước phát triển mới so với các quy định của pháp luật hình sự trước đây về trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong đó cụ thể hóa các hình phạt và áp dụng triệt để nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình
  • 7. 2 sự phù hợp với đặc thù của chủ thể phạm tội này. Đặc biệt, khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội là khái niệm mới thay thế cho khái niệm người chưa thành niên phạm tội trước đây. Do đó, rất cần được nghiên cứu về khái niệm cũng như các quy định của BLHS năm 2015 về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để có cách hiểu, áp dụng thống nhất và đồng bộ quy định nhằm đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật. Về mặt thực tiễn, BLHS năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 nên việc tổng kết, đánh giá từ thực tiễn để có những giải pháp phù hợp, góp phần hiệu quả hơn trong việc thực hiện, áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong BLHS năm 2015 nói chung và cụ thể là Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương là cần thiết. Hiện tại, chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về nội dung này. Do đó, học viên chọn đề tài: “Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương” để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật hình sự và Tố tụng hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Liên quan đến vấn đề người chưa thành niên (nay là người dưới 18 tuổi) phạm tội, qua quá trình nghiên cứu, học viên thấy rằng đã có các công trình nghiên cứ như sau: Đào Thị Nga, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học luật Hà Nội, 1997; Trần Văn Dũng, Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học luật Hà Nội, 2003; Nguyễn Minh Khuê, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006; Trịnh Thị Yến, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; Đỗ Ngọc Thùy, Hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội – Lý luận và thực tiễn áp dụng, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; Nguyễn Thị Thu Huyền, Hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012;
  • 8. 3 Tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn Thành phố Hà Nội – Thực trạng và giải pháp, Nxb. Công an nhân dân Hà Nội năm 2007; Trường Đại học luật Hà Nội , Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân năm 2000 (GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên); Lương Ngọc Trâm (2014), “Hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội”, Tạp chí Tòa án nhân dân; PGS.TS. Trầm Văn Luyện, Những điểm mới về chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2000; Ths. Đặng Thanh Sơn, Pháp luật Việt Nam về tư pháp người chưa thành niên, số chuyên đề của Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, tháng 12/2008; Ths. Đinh Văn Quế, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân số 6/2007; Ths. Đoàn Tấn Minh, Bàn về phạm vi sử dụng thuật ngữ “ Người chưa thành niên phạm tội”,Tạp chí Tòa án nhân dân số 9/2008; TS. Trịnh Tiến Việt, Những khía cạnh pháp lý hình sự về các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân số 7, 8/2010; TS. Trần Văn Dũng, Quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí luật học, số 5/2000; PGS.TS Dương Tuyết Miên, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí luật học, số 4/2002; TS. Trương Minh Mạnh, Phân loại tội phạm với việc quy định trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên, Tạp chí Kiểm sát, số 8/2002; Ths. Trương Hồng Sơn, Một số quy định của pháp luật quốc tế và một số quốc gia về vấn đề quyền của người chưa thành niên phạm tội; Tạp chí điện tử ngày 20 tháng 8 năm 2009 (http://hvcsnd.edu.vn/)... Các công trình nghiên cứu trên phần lớn đã xây dựng được cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý đối với trách nhiệm hình sự, quyết định áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên về cơ bản chưa nghiên cứu, cập nhật được các quy định mới trong BLHS năm 2015 về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Thêm vào đó, không có công trình nào nghiên cứu về thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Vì vậy, công trình nghiên cứu: “Áp
  • 9. 4 dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương” của luận văn này đảm bảo tính mới của luận văn Thạc sĩ và không bị trùng với bất kỳ công trình nào đã nghiên cứu trước đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ về mặt lý luận đối với việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; đánh giá thực tiễn áp dụng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật, bảo đảm áp dụng đúng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Nhiệm vụ của Luận văn là phân tích, làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi; đánh giá các quy định của BLHS năm 2015 về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nêu những kết quả, hạn chế, chỉ ra các nguyên nhân của hạn chế trong áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương; đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của BLHS. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Từ đối tượng nghiên cứu trên, luận văn có phạm vi nghiên cứu như sau: - Phạm vi nội dung: những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. - Phạm vi không gian: Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương - Phạm vi thời gian: từ năm 2014 đến năm 2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về hình phạt và cải tạo con người, về pháp luật nói
  • 10. 5 chung, chính sách hình sự nói riêng, đặc biệt là các quan điểm, tư tưởng về cải tạo, giáo dục, phòng ngừa tội phạm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cũng như việc áp dụng hình phạt đối với chủ thể tội phạm này. Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học pháp lý như: phân tích, tổng hợp và thống kê, phương pháp so sánh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Đề tài tìm hiểu về các loại hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, căn cứ áp dụng từng loại hình phạt theo quy định của BLHS hiện hành và việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Trên cơ sở đó, đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, bảo đảm áp dụng đúng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Chương 2: Thực trạng áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
  • 11. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI 1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm người dưới 18 tuổi phạm tội BLHS năm 2015 sử dụng thuật ngữ “người dưới 18 tuổi”, việc thay đổi từ người chưa thành niên sang người dưới 18 tuổi không có nghĩa là nghĩa của hai thuật ngữ này khác nhau. Thuật ngữ người dưới 18 tuổi và người chưa thành niên đều có ý nghĩa như nhau. Khái niệm người dưới 18 tuổi khác với khái niệm trẻ em, theo quy định tại Điều 1 của Luật Trẻ em năm 2016 thì: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật như là đối với người đã thành niên. Khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mỗi người là khác nhau, được hình thành từ lúc sinh ra và tích lũy dần trong cuộc sống và sinh hoạt. Lứa tuổi dưới 18 là tuổi trong gia đoạn phát triển về tâm sinh lý cũng như thể chất mạnh mẽ nhất. Đây là lứa tuổi cần được sự bảo vệ và che chở đặc biệt nhất. Tâm lý người chưa đủ 18 tuổi nói chung và người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng có sự khác biệt đáng kể, những người đã đủ hoặc trên 18 tuổi thường có nhận thức, trưởng thành hơn người dưới 18 tuổi. Xuất phát từ đặc điểm tâm, sinh lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và yêu cầu của các Công ước quốc tế của Liên Hợp quốc về trẻ em, pháp luật hình sự Việt Nam có những quy định riêng có tính chất khoan hồng khi xử lý trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích tối đa cho họ. Điều 12 của BLHS năm 2015 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:
  • 12. 7 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. 2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này. Như vậy, theo quy định tại Điều 12 của BLHS năm 2015 thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định trong luật, còn người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Theo quy định tại Điều 12 của BLHS năm 2015 thì độ tuổi bắt đầu chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 14 tuổi. Do đó, người dưới 18 tuổi phạm tội được hiểu là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi vào thời điểm người đó thực hiện tội phạm. * Về căn cứ xác định tuổi của người dưới 18 tuổi: Tuổi của một người được xác định từ thời điểm người đó được sinh ra. Căn cứ vào các loại giấy tờ có giá trị pháp lý gắn với nhân thân của người đó (như giấy chứng sinh, giấy khai sinh, chứng minh nhân dân, các loại văn bằng,…) mà các cơ quan tư pháp xác định độ tuổi của một người. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp không thu thập được, hoặc không xác nhận được cơ sở pháp lý của các loại giấy tờ, thì các cơ quan tư pháp sẽ phải xác định ngày sinh của người phạm tội theo nguyên tắc có lợi cho họ. Theo khoản 2 Điều 417 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã áp dụng mọi biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của người bị buộc tội, người bị hại được xác định trong 5 trường hợp như sau: + Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh. + Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh.
  • 13. 8 + Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh. + Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh. + Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi. Về thời điểm tính tuổi: ngày xác định độ tuổi của người phạm tội được tính từ khi thực hiện hành vi phạm tội, bởi về nguyên tắc xác định năng lực của chủ thể là xác định vào thời điểm thực hiện hành vi. Vì vậy, tuổi được xác định vào thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tức là, hành vi phạm tội đã xảy ra vào thời điểm nào thì sẽ xác nhận độ tuổi của người phạm tội ở thời điểm đó. Trong trường hợp hành vi phạm tội kéo dài và liên tục, có nhiều hành vi được thực hiện ở các thời điểm khác nhau, khi xác định độ tuổi thực hiện hành vi phạm tội có thể gặp trường hợp có hành vi thực hiện khi chưa đủ tuổi, có hành vi thực hiện khi đã đủ tuổi. Trong trường hợp này, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ lấy độ tuổi ở hành vi cuối để xem xét trách nhiệm của họ. Tóm lại, người dưới 18 tuổi phạm tội được hiểu là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi vào thời điểm người đó thực hiện tội phạm. * Đặc điểm của người dưới 18 tuổi phạm tội: Người dưới 18 tuổi là đối tượng cần được sự quan tâm đúng mực của toàn xã hội. Nghiên cứu đặc điểm người dưới 18 tuổi phạm tội dưới góc độ tâm sinh lý đặt trong mối quan hệ giữa các yếu tố gia đình, nhà trường và xã hội là việc hết sức cần thiết và quan trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề quyết định hình phạt đối với bản thân họ. - Thứ nhất, về trạng thái cảm xúc, người dưới 18 tuổi là những người chưa phát triển toàn diện cả về thể chất cũng như nhận thức. Sự phát triển không cân bằng của hệ tim mạch, tuyến nội tiết cũng như các bộ phận khác dễ đưa họ tới những cơn xúc động mạnh, nóng nảy vô cớ, sự kích động, dễ bị lôi kéo… dẫn tới những hành vi bất bình thường. Đây là giai đoạn diễn ra những biến đổi đặc biệt, sự
  • 14. 9 phát triển của cơ thể dẫn đến tình trạng mất cân bằng tạm thời trong cảm xúc của người dưới 18 tuổi. Trên thực tế, trạng thái thần kinh, trạng thái cảm xúc không cân bằng có thể là yếu tố gây nên các hành vi lệch chuẩn của các em. Có không ít các trường hợp vì những mâu thuẫn nhỏ nhưng vì không thể kiềm chế, làm chủ được bản thân nên các em đã phạm phải những hành động sai lầm dẫn đến những hành vi phạm tội. - Thứ hai, về các nhu cầu của bản thân như nhu cầu độc lập, nhu cầu khám phá cái mới: Đặc điểm tâm lý dễ nhận thấy ở lứa tuổi này là sự biểu hiện của nhu cầu độc lập, được hiểu là việc cá nhân tự hành động và tự quyết định theo ý kiến riêng của bản thân mà không muốn bị ảnh hưởng bởi người khác, thể hiện trước hết trong các hoạt động học tập, giao tiếp với bạn bè… Các em mong muốn tự quyết định cách thức và thời gian học tập, muốn được mọi người tôn trọng, đặc biệt là về nghệ thuật, thời trang, các em thường chạy theo những xu hướng, trào lưu mới được du nhập từ nước ngoài. Đây là một nhu cầu tất yếu của người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, nó có thể là nguyên nhân dẫn tới các hành vi phạm tội trong một số các trường hợp. Ở người dưới 18 tuổi phạm tội, nhu cầu độc lập của họ trở nên thái quá, thể hiện ra bên ngoài dưới dạng như ngang bướng, cố chấp, bảo thủ, gây gỗ, sử dụng các hành vi bạo lực để chứng tỏ bản thân, không hiếm các bạn trai, khi muốn chứng tỏ bản thân mà không ngại sử dụng bạo lực, thậm chí một va chạm nhỏ có thể dẫn tới những hành vi bạo lực vô cùng nguy hiểm. Mặt khác, người dưới 18 tuổi nói chung và dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng đang dần dần hoàn thiện bản thân, cùng với đó là sự tò mò, mong muốn khám phá, học hỏi từ thế giới xung quanh nhằm nâng cao tri thức, mở rộng khả năng nhận thức về xã hội về cả thế giới quan và nhân sinh quan để có kinh nghiệm sống. Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như vũ bão thì khao khát hiểu biết của các em không chỉ trong phạm vi đất nước mình mà còn cả các quốc gia khác. Khi đó, nếu các em tìm tòi, thử nghiệm những cái thiếu lành mạnh, trái chuẩn mực xã hội thì sẽ dẫn tới hành vi phạm tội của các em. Theo một nghiên cứu về người dưới 18 tuổi phạm tội ma túy thì quá trình phạm tội có thể bắt nguồn từ nhiều lý do, một trong số đó là tò mò, hiếu động,
  • 15. 10 có xu hướng tìm kiếm những cái mới lạ. Nhu cầu bản thân có quyết định rất lớn khi người dưới 18 tuổi tham gia vào các quan hệ xã hội. Nếu không biết cân bằng giữa nhu cầu cá nhân và các chuẩn mực xã hội thì người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội là một điều tất yếu. - Thứ ba, nhận thức và quan niệm pháp luật của người dưới 18 tuổi phạm tội chưa hình thành đầy đủ hoặc bị lệch lạc theo suy nghĩ chủ quan của họ. Khác với người trưởng thành, người dưới 18 tuổi thường hành động mà không thể lường trước hết hậu quả của hành vi. Chẳng hạn như khi tham gia giao thông thì dàn hàng ba, hàng tư gây ắt tắc giao thông, không đội mũ bảo hiểm hay chạy xe mà không đủ tuổi… Mặt khác, không ít các em cho rằng, những yêu cầu và đòi hỏi của chuẩn mực luật pháp chỉ được quy định trong các văn bản pháp luật và hoàn toàn mang tính hình thức còn hành động thì phải căn cứ vào nhu cầu cụ thể của cá nhân thì mới thể hiện được sự tự do trong cuộc sống. Nhận thức pháp luật không đúng đắn, lệch chuẩn là nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của các em. Thực tế cho thấy nhiều người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng lại không biết rằng mình phạm tội, không thấy hết tính nguy hiểm và hậu quả của hành vi đó mà cho rằng hành vi của mình là hợp pháp. Trên đây là một số phân tích về đặc điểm tâm sinh lý chung của người dưới 18 tuổi phạm tội. Với những đặc điểm trên, khi quy định về hình phạt và quyết định hình phạt, Đảng và Nhà nước cần có đường lối, chính sách đúng đắn, cân nhắc đến khả năng nhận thức còn hạn chế của họ để có các biện pháp cưỡng chế phù hợp, không được nghiêm khắc hơn người đủ 18 tuổi phạm tội, đặt mục đích giáo dục, cải tạo lên hàng đầu, làm cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền thay thế các hình phạt bằng các biện pháp riêng nhằm tạo điều kiện để người dưới 18 tuổi phạm tội tái hòa nhập cộng đồng, tránh tình trạng mặc cảm, tự ti dẫn đến tái phạm tội. Đặc biệt là cân nhắc hơn nữa các biện pháp xử lý chuyển hướng đối với họ. Chỉ có như vậy thì việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội mới phát huy được hết hiệu quả của nó.
  • 16. 11 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Để có thể xây dựng được khái niệm áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chúng ta phải đi từ khái niệm áp dụng pháp luật. Theo lý luận chung về pháp luật thì: “Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi những cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hoặc các tổ chức xã hội được nhà nước ủy quyền, thông qua trình tự thủ tục chặt chẽ mà pháp luật quy định nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể”[46, tr.188]. Dựa trên khái niệm về áp dụng pháp luật nêu trên và những đặc điểm cơ bản của hình phạt, chúng ta có thể xây dựng khái niệm áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi như sau: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là một hình thức của áp dụng pháp luật do Tòa án tiến hành và áp dụng những quy phạm pháp luật hình sự về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cụ thể để giải quyết các vụ án hình sự theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. * Đặc điểm áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội: - Thứ nhất, chủ thể có thẩm quyền áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là Tòa án. Khoản 1 Điều 102 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Do đó, chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền áp dụng hình phạt đối với người bị kết án. - Thứ hai, đối tượng bị áp dụng hình phạt là người dưới 18 tuổi phạm tội cụ thể và trong trường hợp phạm tội cụ thể. Mục đích của áp dụng hình phạt là cá biệt hoá các quy định về hình phạt trong những điều kiện cụ thể. Thông qua hoạt động áp dụng hình phạt đối với người dưới
  • 17. 12 18 tuổi phạm tội, các quy định về hình phạt sẽ được cá biệt hoá cho người dưới 18 tuổi cụ thể cho mỗi trường hợp cụ thể. - Thứ ba, nội dung áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi là áp dụng các quy định về hình phạt đối với người người dưới 18 tuổi phạm tội và áp dụng các quy định về khoan hồng liên quan đến việc hình phạt như: miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt .v.v… Tuy nhiên, khi áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cần phải đảm bảo các quy định tại Chương XII của BLHS năm 2015 “Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” như nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội (Điều 91 của BLHS năm 2015), mức hình hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. - Thứ tư, áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Đặc điểm này là sự cụ thể hóa nguyên tắc xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại khoản 1 Điều 91 của BLHS năm 2015. Hình phạt là một trong các biện pháp xử lý hình sự được áp dụng đối với người bị kết án phạt tù nói chung và người dưới 18 tuổi nói riêng. Khi áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì hình phạt phải đảm bảo mục đích xử lý theo quy định tại khoản 1 Điều 91 của BLHS năm 2015. - Thứ năm, áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo (sự sáng tạo trong phạm vi quy định của pháp luật hình sự). Khi áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Tòa án phải nghiên cứu thật kỹ trường hợp phạm tội, xác định chính xác hình phạt của nó để từ đó lựa chọn hình phạt cụ thể và ra quyết định áp dụng hình phạt và tổ chức hình phạt. Trong trường hợp hình phạt được quy định trong BLHS chưa rõ ràng thì phải vận dụng sáng tạo các nguyên tắc của luật hình sự để áp dụng hình phạt. Để thực
  • 18. 13 hiện được điều đó đòi hỏi Hội đồng xét xử phải có ý thức pháp luật cao, có tri thức tổng hợp, có kinh nghiệm phong phú, có đạo đức và có tay nghề cao. - Thứ sáu, trình tự, thủ tục áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phải được tuân thủ trình tự, thủ tục luật định. Việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm không thể tiến hành một cách tùy tiện, không thể tự ý thay đổi hay chấm dứt theo ý chí của Tòa án mà phải được diễn ra trên những cơ sở, trong những điều kiện và phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục được quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nói chung và quy định riêng khi áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Việc thực hiện không đúng, không đầy đủ những trình tự, thủ tục đã được quy định sẽ là nguyên nhân dẫn đến áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có thể trở nên vô hiệu, vi phạm nguyên tắc pháp chế. 1.1.3. Nội dung của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Nội dung của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là các trường hợp áp dụng pháp luật liên quan đến hình phạt và các biện pháp miễn, giảm hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, bao gồm: quyết định hình phạt, quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, tổng hợp hình phạt, áp dụng án treo, tha tù trước thời hạn có điều kiện, miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt, giảm mức hình phạt đã tuyên. Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể được quy định trong BLHS để áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Đây là hình thức áp dụng hình phạt chủ yếu đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong luật hình sự Việt Nam, việc quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi dựa vào các căn cứ quyết định hình phạt (Điều 50 BLHS) và nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (Điều 91 BLHS). Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội bao gồm: quyết định các hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn (Điều 98 BLHS); quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm
  • 19. 14 tội, phạm tội chưa đạt (Điều 102 BLHS); các trường hợp quyết định hình phạt khác chung cho cả người trên 18 tuổi và dưới 18 tuổi phạm tội như: quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (Điều 54 BLHS), quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm (Điều 58 BLHS). Tổng hợp hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là việc Tòa án xác định hình phạt chung cho người dưới 18 tuổi phạm tội bị kết án. Việc tổng hợp hình phạt phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định. Đó là nguyên tắc thu hút, nguyên tắc cộng hình phạt và nguyên tắc cùng tồn tại. Việc tổng hợp hình phạt đối với người dưới 18 tuổi dựa trên ba nguyên tắc: nguyên tắc thu hút, nguyên tắc cộng hình phạt và nguyên tắc cùng tồn tại. Các trường hợp tổng hợp hình phạt đối với người dưới 18 tuổi theo luật hình sự Việt Nam bao gồm: tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 103 BLHS); tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (Điều 104 BLHS). Án treo, là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù. Với tư cách là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, người dưới 18 tuổi nếu bị phạt tù không quá 3 năm có thể được tòa án lựa chọn cách thức chấp hành là tự cải tạo giáo dục theo quy định về chế độ thi hành án treo thay vì buộc họ phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ. Việc tòa án lựa chọn cách thức chấp hành trong trường hợp này là hoạt động áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong luật hình sự Việt Nam, án treo được quy định áp dụng chung đối với trên 18 tuổi và người dưới 18 tuổi phạm tội (Điều 65 BLHS). Tha tù trước thời hạn có điều kiện là biện pháp được Tòa án áp dụng đối với người đang chấp hành án phạt tù khi có đủ các điều kiện theo quy định của BLHS, xét thấy không cần buộc họ phải tiếp tục chấp hành án phạt tù tại cơ sở giam giữ.
  • 20. 15 Về bản chất, tha tù trước thời hạn có điều kiện là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có thời hạn có điều kiện. Tương tự như với án treo, áp dụng biện pháp này cũng là một hình thức áp dụng hình phạt. Trong luật hình sự Việt Nam, biện pháp tha tù trước hạn có điều kiện áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại Điều 106 BLHS. Miễn hình phạt là trường hợp không buộc người phạm tội phải chịu hình phạt về tội phạm mà người đó đã thực hiện. BLHS năm 2015 quy định biện pháp miễn hình phạt chung đối với cả người trên 18 tuổi và người dưới 18 tuổi phạm tội tại Điều 59 BLHS. Miễn chấp hành hình phạt là không buộc người bị kết án phải chấp hành toàn bộ hoặc phần hình phạt còn lại đã tuyên. BLHS năm 2015 quy định biện pháp miễn chấp hành hình phạt áp dụng riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Điều 106 BLHS. - Giảm hình phạt là giảm một phần hình phạt đã tuyên cho người bị kết án. BLHS năm 2015 quy định biện pháp giảm mức hình phạt đã tuyên áp dụng riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Điều 106 BLHS. Tóm lại, các trường hợp áp dụng hình phạt với người dưới 18 tuổi phạm tội bao gồm không chỉ quyết định hình phạt mà nó còn áp dụng các biện pháp khoan hồng liên quan đến hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Hệ thống các trường hợp này tạo nên sự đa dạng về biện pháp xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân hóa và cá thể hóa hình phạt đối họ, đảm bảo nguyên tắc xử lý hình sự khi áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội” (khoản 1 Điều 91 BLHS.) 1.1.4. Ý nghĩa của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi là hoạt động quan trọng cụ thể hóa nguyên tắc của Luật hình sự và chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi
  • 21. 16 phạm tội. Ngoài ra, nó còn có ý nghĩa quan trọng để có thể đạt được mục đích của hình phạt. Mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của hình phạt có đạt được hay không và đạt được ở mức độ nào phụ thuộc rất nhiều vào việc áp dụng hình phạt - Ý nghĩa chính trị - xã hội: Các hành vi phạm tội của người phạm tội nói chung, của người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng đã tác động xấu đến xã hội, xâm phạm đến các khách thể được Luật Hình sự bảo vệ. Việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi nói riêng, người phạm tội nói chung nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc áp dụng hình phạt với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm mục đích chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội thể hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối xử nhân văn, khoan hồng với người phạm tội là người dưới 18 tuổi. Điều này tạo niềm tin cho người dân vào tính nghiêm minh của pháp luật, vào uy tín của các cơ quan công quyền góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. * Ý nghĩa pháp lý: Việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đúng đắn, hợp lý, phù hợp với hành vi và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi bên cạnh có ý nghĩa quan trọng về chính trị - xã hội thì còn có ý nghĩa sâu sắc về pháp lý. Ý nghĩa pháp lý của việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thể hiện ở chỗ thông qua việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, chủ thể có thẩm quyền phát hiện những điểm hợp lý, tích cực của quy định pháp luật hình sự, tố tụng hình sự trong áp dụng hình phạt, vừa phát hiện những điểm bất cập, vướng mắc, chưa hợp lý trong quy định pháp luật hình sự, tố tụng hình sự về áp dụng hình phạt cho người dưới 18 tuổi pháp tội. Từ đó, giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tổng kết hoạt động xét xử, ban hành án lệ cũng như đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật. * Ý nghĩa giáo dục, phòng ngừa: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ngoài ý nghĩa răn đe, trừng trị người phạm tội thì ý nghĩa chủ yếu là
  • 22. 17 nhằm giáo dục người phạm tội và để ngăn ngừa hành vi phạm tội tiếp theo của người phạm tội. Từ đó, giúp người phạm tội nhận thức được sai lầm cũng như phòng ngừa các chủ thể khác không thực hiện hành vi phạm tội tương tự. 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Cơ sở pháp lý về việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là các quy định của BLHS về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Khi áp dụng hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào các qui định của BLHS để lựa chọn loại hình phạt với mức hình phạt cụ thể để áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Đây là yêu cầu của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong áp dụng hình phạt. Các qui định của BLHS là căn cứ áp dụng hình phạt bao gồm các qui định ở Phần thứ nhất – Những qui định chung (Phần chung) và các qui định ở Chương XII Phần chung của BLHS có tính nguyên tắc chung cho việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Và ở Phần thứ hai - các tội phạm (Phần các tội phạm) là qui định về hình phạt đối với tội phạm mà người dưới 18 tuổi đã phạm tội. Cơ sở thực tế của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là những tình tiết của vụ án, những nhu cầu, đòi hỏi thực tế có thật (đáng tin cậy). Nếu ra quyết định áp dụng hình phạt mà không căn cứ vào những cơ sở thực tế đáng tin cậy hoặc không có thật thì sẽ có thể áp dụng hình phạt nhầm, sai hoặc không có tính thuyết phục. 1.2.1. Nguyên tắc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Khi áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, ngoài các quy định về hình phạt trong Phần chung BLHS, Tòa án còn căn cứ vào các quy định về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định từ Điều 90 đến Điều 104 Chương XII của BLHS năm 2015. Điều 91 của BLHS năm 2015 quy định nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thể hiện chính sách hình sự nhân đạo và khoan hồng của Nhà nước nhằm đảm bảo mục đích chủ yếu là giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi phạm tội
  • 23. 18 sửa chữa sai lầm, đồng thời định hướng đối với các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình xử lý đối với các đối tượng đặc biệt này cụ thể: Nguyên tắc thứ nhất là “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội” [27, tr.65]. Nguyên tắc này bảo đảm lợi ích tố nhất và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi phạm tội là torng mọi tình huống, mọi trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng và ngưới tiến hành tố tụng phải tạo mọi điều kiện và áp dụng phi trừng trị đối với họ. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Yêu cầu của nguyên tắc này là giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi phạm tội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Do đó, việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi cũng phải thể hiện sao cho bảo đảm việc giúp đỡ họ sửa chữa sai lâm, chứ không nhằm trừng trị. Cho nên, ngay từ khi khởi tố, điều tra, cơ quan điều tra không chỉ áp dụng các biện pháp lý có lợi nhất, đồng thời phải quán triệt tinh thần là: nếu không cần thiết bãt giữ, tạm giữ tạm giam đối với họ thì không được áp dụng cac biện phap này. Mặt khác, phải bảo đảm các quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự đối với họ như: phải cố người bao chữa ngay từ khi bị bắt; nếu trường hợp buộc phải bắt giữ để ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội thì sau khi bị bắt, nếu có người bảo lĩnh hoặc thấy việc cho tại ngoại không ảnh hưởng cho xã hội thì cương quyết phải cho tại ngoại [23, tr.369]. Nguyên tắc thứ hai là, “Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này [27, tr.66]:
  • 24. 19 + Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134; Điều 141; Điều 171; Điều 248; Điều 249; Điều 250; Điều 251; Điều 252 của BLHS năm 2015. + Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng tội do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của BLHS năm 2015, trừ trường hợp quy định tại Điều 123; Điều 134; Điều 141; Điều 142; Điều 144; Điều 150; Điều 151; Điều 168; Điều 171; Điều 248; Điều 249; Điều 250; Điều 251; Điều 252 của Bộ luật này. + Người dưới 18 tuổi là người giúp sức bị rủ rê, lôi kéo, người thực hiện không tích cực… nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án. Nguyên tắc thứ ba là, “Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm” [27, tr.66]. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ được thực hiện trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ và phải bảo đảm yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Yêu cầu này nhằm bảo đảm để đạt được mục đích đặt ra là “chủ yếu nhằm giáo dục giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm”. Để xác định trường hợp nào là cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào loại tội phạm mà họ thực hiện, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm cùng những yếu tố khác: (như nhân thân, sự ăn năn hối cải của người phạm tội, yêu cầu của cuộc đấu tranh chống, phòng ngừa tội phạm chính sách hình sự của Nhà nước trong từng giai đoạn…) và các tình tiết khác của vụ án. Nguyên tắc thứ tư là, “Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa” [27, tr.66]. Nội dung nguyên tắc này đòi hỏi Tòa án chỉ áp dụng
  • 25. 20 hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng một trong các biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, tại trường giáo dưỡng nhưng không có hiệu quả. Như vậy, trước khi Tòa án áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi thì phải áp dụng các biện pháp không phải là hình phạt trước. Tuy nhiên, trên thực tế Tòa án chỉ cân nhắc và xem xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để quyết định có áp dụng hình phạt hay không. Nếu xét thấy không cần áp dụng hình phạt thì mới áp dụng các biện pháp giáo dục khác. Nguyên tắc thứ năm là, “Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” [27, tr.67]. Đây là nguyên tắc xử lý, đồng thời cũng là căn cứ quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Mục đích xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội “chủ yếu nhằm giáo dục giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm”. Vì vậy, không cho phép xử phạt tù chung thân hoặc tử hình (là những hình phạt nghiêm khắc nhất) đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Nguyên tắc thứ sáu là, “Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” [27, tr.67]. Nguyên tắc này cho thấy, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Trong trường hợp này Tòa án cho họ được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng (Điều 101) và với thời hạn thích hợp ngắn nhất. Trong mọi trường hợp Tòa án không được áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Khi Tòa án quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Tòa án sẽ quyết định hình phạt tù nhẹ hơn mức hình phạt đối với người đủ 18 tuổi trở lên.
  • 26. 21 Nguyên tắc thứ bảy là, “Án đã tuyên đối với người khi chưa đủ 16 tuổi thì không tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm” [27, tr.67]. Việc không quy định đối với người chưa đủ 16 tuồi bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiêm cũng là thê hiện nguyên tắc không coi việc trừng trị là mục đích đối với người chưa đủ 16 tuổi, không thành kiến đối với người dưới 16 tuổi và tạo điều kiện cho các em phát triển bình thường trong cuộc sống trước mắt và lâu dài, vì đối với người chưa đủ 16 tuổi còn cả một tương lai phía trước. Nguyên tắc này nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để người dưới 18 tuổi sớm hòa nhập với cộng đồng, tránh sự thành kiến của xã hội và sự mặc cảm của bản thân người dưới 18 tuổi về hành vi phạm tội mà họ đã bị kết án trong quá khứ. 1.2.2. Quy định về hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Nội dung áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi là áp dụng các quy định về hình phạt đối với người người dưới 18 tuổi phạm tội và áp dụng các quy định về khoan hồng liên quan đến hình phạt như: miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt .v.v… Do đó, áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội gồm các trường hợp sau: 1.2.2.1. Hình phạt cảnh cáo Hình phạt cảnh cáo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là hình phạt chính, có mức trách nhiệm hình sự nhẹ nhất nhưng có tính giáo dục sâu sắc, thể hiện sự khiển trách công khai của Nhà nước đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và hành vi phạm tội của họ. Cảnh cáo có khả năng tác động một cách mạnh mẽ đến ý thức người dưới 18 tuổi phạm tội, giáo dục, răn đe để họ không phạm tội mới, đạt được mục đích của hình phạt. Người dưới 18 tuổi bị phạt cảnh cáo khi phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự. Như vậy, người phạm tội được áp dụng hình phạt cảnh cáo nếu có đủ các điều kiện như sau:
  • 27. 22 - Thứ nhất, tội phạm mà người dưới 18 tuổi thực hiện phải là tội ít nghiêm trọng. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 9 của BLHS năm 2015 quy định: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm”. Nhìn chung, việc xác định tội phạm ít nghiêm trọng không phải căn cứ vào mức cao nhất của hình phạt đối với tội đó mà chỉ căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt. Một tội phạm được quy định trong một điều luật có thể có một khung hình phạt nhưng cũng có thể có nhiều khung hình phạt [23, tr.170, 171]. - Thứ hai, có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Có nhiều tính tiết giảm nhẹ có nghĩa là có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ trở lên. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 34 của BLHS năm 2015, không bắt buộc tình tiết giảm nhẹ này phải thuộc khoản 1 hay khoản 2 Điều 51 của BLHS năm 2015. Do đó, về lý thuyết thì không nhất thiết người dưới 18 tuổi phạm tội phải có hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015 mà có thể chỉ có một tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 và một tình tiết giảm nhẹ ở khoản 2, thậm chí cả hai tình tiết đều được quy định tại khoản 2 Điều 51 của BLHS năm 2015. - Thứ ba, không thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự. Để áp dụng hình phạt cảnh cáo thì điều kiện thứ ba người phạm tội dưới 18 tuổi không thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự. Như vậy, cảnh cáo là một hình phạt có nội dung khiển trách công khai của Nhà nước do Tòa án áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Có thể khẳng định so với các hình phạt chính khác, cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất vì nó không tước bỏ hoặc hạn chế bất cứ quyền lợi nào của người dưới 18 tuổi phạm tội mà chỉ lên án về tinh thần đối với họ. Nội dung của hình phạt cảnh cáo chỉ thể hiện ở việc Tòa án tuyên bản án có tội đối với người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội và Tòa án sẽ nhân danh Nhà nước lên án người bị kết án về việc họ đã thực hiện hành
  • 28. 23 vi phạm tội. Hậu quả pháp lý duy nhất mà hình phạt cảnh cáo mang lại cho người dưới 18 tuổi phạm tội là họ phải chịu án tích trong thời hạn 06 tháng (chỉ đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi). Tuy nhiên, hình phạt này cũng gây ra cho người dưới 18 tuổi phạm tội những tổn thất nhất định về mặt tinh thần, kể cả việc họ phải mang án tích. 1.2.2.2. Hình phạt tiền Điều 99 của BLHS năm 2015 quy định về hình phạt tiền với tư cách là hình phạt chính áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội. Hình phạt tiền là việc buộc người phạm tội phải nộp một khoản tiền nhất định theo quy định của pháp luật để sung quỹ nhà nước. Theo quy định này khi xét thấy không cần áp dụng hình phạt khác mà mục đích của hình phạt vẫn đạt được thì Tòa án áp dụng hình phạt tiền đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu người phạm tội thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau: - Một là, người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. - Hai là, người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Quy định này là rất phù hợp với thực tế xử lý trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi, góp phần đa dạng hóa các hình phạt. Đồng thời, trong thời điểm hiện tại có nhiều người dưới 18 tuổi có thu nhập hay tài sản riêng và có thể tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Chính sách hình sự của nước ta luôn muốn hạn chế áp dụng các hình phạt tước quyền tự do của con người, đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì “Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa” [27, tr.67]. Do đó, việc áp dụng hình phạt tước đi quyền lợi về tài sản có thể tái tạo được mà vẫn đảm bảo được mục đích giáo dục người phạm tội như hình phạt tiền là rất cần thiết.
  • 29. 24 Hình phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm tước đi quyền lợi vật chất của họ để cải tạo và giáo dục họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Căn cứ theo quy định tại Điều 35 và Điều 99 của BLHS năm 2015 thì người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt tiền khi có đủ các điều kiện như sau: - Một là, người dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác theo quy định của BLHS năm 2015. - Hai là, người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và có thu nhập hoặc tài sản riêng; người dưới 18 tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu hình phạt tiền. Bởi lẽ, ở độ tuổi này vấn đề tài chính của người phạm tội vẫn còn lệ thuộc hoàn toàn vào gia đình, ít có trường hợp có thu nhập hoặc tài sản riêng nên nếu áp dụng hình phạt này đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi sẽ không đảm bảo tính khả thi. Mặt khác, việc áp dụng hình phạt này sẽ đem lại gánh nặng cho gia đình, không đúng với tính chất “cá thể hóa trách nhiệm hình sự”, không đảm bảo được mục đích và hiệu quả của hình phạt này nên nhà làm luật không cho phép áp dụng hình phạt tiền đối với đối tượng này. Bên cạnh đó, chỉ áp dụng hình phạt tiền đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên nếu có thu nhập hoặc có tài sản riêng điều này vừa đảm bảo tính khả thi của hình phạt, vừa tạo thêm điều kiện để Tòa án áp dụng linh hoạt các hình phạt, giảm bớt các trường hợp xử phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tài sản riêng của người dưới 18 tuổi ở đây là tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của người đó có được do lao động, được thừa kế, được tặng cho… Thu nhập của người dưới 18 tuổi là thu nhập thực tế từ hợp đồng lao động, từ hoạt động sản xuất kinh doanh, có thể là thu nhập thường xuyên hoặc không thường xuyên. - Thứ ba, mức phạt tiền đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không quá ½ mức tiền phạt mà điều luật quy định. Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xem xét đến tình hình tài sản của
  • 30. 25 người phạm tội, sự biến động của giá cả, nhưng không được thấp hơn 1.000.000 đồng. Khi xác định mức phạt cụ thể, Tòa án sẽ căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, để quyết định một mức tiền phạt như đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên, sau đó chia đôi số tiền phạt để quyết định mức phạt cụ thể đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Nếu sau khi phạt tiền người dưới 18 tuổi phải lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn thì Tòa án có thể xem xét quyết định giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt tiền còn lại. 1.2.2.3. Hình phạt cải tạo không giam giữ Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính có nội dung giáo dục sâu sắc khi không buộc người được áp dụng hình phạt này phải cách ly khỏi đời sống xã hội. Họ vẫn có thể thực hiện công việc thường ngày và sống trong môi trường gia đình và xã hội như trước đây nhưng được đặt dưới sự giám sát của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương nơi người đó làm việc hoặc cư trú. Hình phạt cải tạo không giam giữ không chỉ là hình phạt được áp dụng cho người dưới 18 tuổi phạm tội. Loại hình phạt này cũng được áp dụng đối với người phạm tội từ đủ 18 tuổi trở lên. Do đó, khi Tòa án quyết định áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phải căn cứ vào Điều 36 BLHS năm 2015 về cải tạo không giam giữ, đồng thời căn cứ vào Điều 100 của BLHS năm 2015 quy định việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi [23, tr.383]. Cơ sở để áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ chủ yếu căn cứ vào hai yếu tố là tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và điều kiện về khả năng có thể tự cải tạo của người phạm tội. Theo đó, hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ có thể được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi khi đáp ứng được các điều kiệu như sau: - Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất
  • 31. 26 nghiêm trọng. Như vậy, việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc các trường hợp: + Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý. + Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng có thể là cố ý hoặc vô ý. + Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng có thể là cố ý hoặc vô ý [27, tr.72]. - Chỉ được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội có nơi làm việc ổn định, thường xuyên và có nơi cư trú rõ ràng. Riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ cần điều kiện là có nơi cư trú rõ ràng, vì theo quy định tại khoản 2 Điều 100 của BLHS khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, không khấu trừ thu nhập của người đó nên việc xác định người phạm tội có nơi làm việc ổn định là không cần thiết, mà chỉ cần xác định người phạm tội có nơi cư trú rõ ràng là được. Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật Cư trú năm 2006 thì: “Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú”. Đối với nơi cư trú của người dưới 18 tuổi được xác định như sau: Nơi cư trú của cha, mẹ; nếu cha, mẹ có nơi cư trú khác nhau thì nơi cư trú của người dưới 18 tuổi là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà người dưới 18 tuổi thường xuyên chung sống; Người dưới 18 tuổi có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của cha, mẹ nếu được cha, mẹ đồng ý hoặc pháp luật có quy định. - Hình phạt cải tạo không giam giữ được Tòa án áp dụng khi xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội. Khi xem xét điều kiện này Tòa án cần phân tích, đánh giá một cách toàn diện những tình tiết có ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, những đặc điểm về nhân thân của người phạm tội có khả năng ảnh hưởng đến khả năng tự cải tạo, giáo dục họ, đảm bảo cho họ tự cải tạo sẽ không gây nguy hiểm cho xã hội. Đồng thời,
  • 32. 27 phải xem xét đến yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Thông thường, Tòa án áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội có mức độ nhẹ, phạm tội lần đầu, có ý thức sửa đổi sai lầm. Khi người dưới 18 tuổi phạm tội đã thỏa mãn các điều kiện nêu trên thì Tòa án có thể xem xét quyết định áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với họ. Thời gian và phương pháp áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định gồm: + Theo quy định tại khoản 1 Điều 36 của BLHS năm 2015 thì hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng có thời gian từ 06 tháng đến 03 năm. Tuy nhiên, đây là quy định áp dụng chung đối với mọi cá nhân phạm tội, riêng đối với người dưới 18 tuổi thì “Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định” [27, tr.73]. Như vậy, thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội vẫn phải đảm bảo mức tối thiểu là 06 tháng nhưng cao nhất là 01 năm 06 tháng. Ngoài ra, khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm thì Tòa án cần chú ý đến các quy định: - Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, thì không khấu trừ thu nhập của người đó [27, tr.72]. Theo quy định tại khoản 3 Điều 36 của BLHS năm 2015 thì đối với người đủ 18 tuổi trở lên, trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ Nhà nước. Tuy nhiên, đối với người dưới 18 tuổi thì Tòa án sẽ không khấu trừ thu nhập của họ. Quy định này, xuất phát từ thực tế rằng ở độ tuổi này việc tham gia lao động, tạo ra thu nhập còn rất hạn chế, phần lớn chủ thể này đều phụ thuộc vào kinh tế của gia đình nên việc khấu trừ thu nhập của họ là thiếu tính khả thi, không thể hiện tinh thần nhân đạo của Nhà nước. - Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ [27, tr.27].
  • 33. 28 Như vậy, trong trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng đã bị tạm giữ, tạm giam trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì khi quyết định thời hạn cải tạo không giam giữ, Tòa án phải khấu trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam. Nói chung, để hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đạt hiệu quả cao, tránh tái phạm thì vai trò của gia đình người bị kết án đóng vài trò vô cùng quan trọng. Những người dưới 18 tuổi phải chịu cải tạo không giam giữ nếu đã đạt được tiến bộ đáng kể và họ đã hoàn thành một phần tư thời gian do Tòa án quy định để giảm hình phạt. Nếu họ lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì họ sẽ được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành hình phạt còn lại. 1.2.2.3. Hình phạt tù có thời hạn Tù có thời hạn là hình phạt tước quyền tự do của người bị kết án, buộc họ phải cách ly khỏi cuộc sống xã hội và chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời gian nhất định. Hình phạt tù có thời hạn là loại hình phạt thể hiện tính cưỡng chế nghiêm khắc cao hơn so với các hình phạt khác như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ. Khi người phạm tội bị áp dụng hình phạt này đồng nghĩa với việc họ bị tước quyền tự do và một số quyền công dân khác, bị cách ly khỏi gia đình, xã hội, phải lao động cải tạo tại trại giam trong một thời gian được xác định trong bản án đã có hiệu lực pháp luật. Chế độ cải tạo cũng như việc chấp hành hình phạt tù có thời hạn theo Luật Thi hành án hình sự và Nghị định hướng dẫn cụ thể. Theo quy tắc 19 của Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật đối với người dưới 18 tuổi (còn gọi là quy tắc Bắc Kinh) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 29 tháng 11 năm 1985 đưa ra nguyên tắc cơ bản là: “Việc đưa trẻ em vào trại giam là phương pháp giải quyết cuối cùng và trong thời hạn cần thiết tối thiểu”. Tòa án chỉ đưa ra hạn chế tự do cá nhân đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, khi họ bị xét xử về hành vi rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, có dùng bạo lực để chống lại người khác hay ngoan cố gây ra những hành vi nghiêm trọng khác mà không còn hướng giải quyết nào [53, tr.178]
  • 34. 29 Theo pháp luật hình sự Việt Nam thì: “Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất” [27, tr.67]. Như vậy, chính sách hình sự của Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là hạn chế áp dụng hình phạt tù. Chỉ trong những trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, có nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhân thân xấu và môi trường sống không thuận lợi cho việc cải tạo, giáo dục để người dưới 18 tuổi tự cải tạo ngoài xã hội và việc áp dụng các hình phạt không tước tự do khác không đảm bảo hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm thì mới phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Việc BLHS quy định hạn chế áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã thể hiện nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước ta đối với đối tượng này. Bên cạnh đó, đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì BLHS năm 2015 quy định không được áp dụng hình phạt tù chung thân và tử hình. Do đó, có thể khẳng định đây là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống các hình phạt đối với chủ thể này. Theo quy định tại Điều 101 của BLHS năm 2015 thì mức hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi được chia ra thành 02 nhóm sau: - Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi: + Khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù. + Nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định. - Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi:
  • 35. 30 + Khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù. + Nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định [19, tr.214]. Tuy nhiên, quy định nêu trên chỉ xác định mức hình phạt tù cao nhất đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là 18 năm hoặc 12 năm tùy thuộc từng nhóm tuổi mà không quy định mức tối thiểu là bao nhiêu tháng. Việc xác định thời hạn tối thiểu chấp hành hình phạt tù phải được tuân thủ theo quy định tại khoản 1 Điều 38 của BLHS năm 2015 “mức tối thiểu là 03 tháng”. Ngoài ra, trong trường hợp người bị kết án bị tạm giữ, tạm giam trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì “Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù” [27, tr.29]. Từ những phân tích nêu trên cho thấy hình phạt tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc nhất có thể áp dụng đối với người dưới 18 tuổi. Hình phạt này được áp dụng khi người dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, cần thiết áp dụng hình phạt nhưng không có đủ điều kiện áp dụng các hình phạt khác như cảnh cáo, phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ thì cũng áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Tuy nhiên, về mức độ áp dụng hình phạt tù so với người đủ 18 tuổi phạm tội thì người dưới 18 tuổi luôn được hưởng mức án nhẹ hơn và với thời hạn thích hợp ngắn nhất. 1.2.3. Quy định về tổng hợp hình phạt, miễn hình phạt, giảm mức hình phạt đã tuyên 1.2.3.1. Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội. Phạm nhiều tội là trường hợp người đã phạm nhiều tội khác nhau được quy định trong luật hình sự mà những tội này chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị kết án lần nào, nay bị Tòa án đưa ra xét xử cùng một lần về các tội phạm [48, tr.89].
  • 36. 31 BLHS năm 2015 đã quy định rõ ràng, đầy đủ về tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, theo hướng quy định nguyên tắc chung về tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Với chính sách hình sự đặc biệt, quyết định hình phạt trong trường hợp người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội cũng mang những đặc trưng riêng khi tổng hợp hình phạt. Theo đó, Điều 103 của BLHS năm 2015 xác định có ba trường hợp đặc biệt khi tổng hợp hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội. - Thứ nhất, khoản 1 Điều 103 của BLHS năm 2015 đã xác định nguyên tắc và giới hạn tổng hợp hình phạt khi các tội họ thực hiện đều nằm trong giới hạn từ 14 đến 16 tuổi, hoặc đều nằm trong giới hạn từ 16 tuổi đến 18 tuổi: “Khi xét xử cùng một lần người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội thì Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này…”. Theo đó, nếu hình phạt chung là cải tạo không giam giữ thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 03 năm. Nếu hình phạt chung là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không được vượt quá 18 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội và 12 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội. Có thể thấy rằng nhóm từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi được khoan hồng nhiều hơn, bên cạnh đó thì khoản 1 Điều 103 của BLHS năm 2015 không quy định mức tối đa của hình phạt tiền. Và giống với người đủ 18 tuổi trở lên, nếu người dưới 18 tuổi bị áp dụng hình thành hình phạt chung mà không khống chế mức tối đa (điểm đ, khoản 1 Điều 55 phạt tiền thì không tổng hợp với các hình phạt khác mà các khoản tiền phạt được cộng lại của BLHS năm 2015 [33, tr.27, 28]. - Thứ hai, khoản 2 Điều 103 của BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định về tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi người phạm tội đủ 16 tuổi, có tội được thực hiện sau khi người phạm tội đủ 16 tuổi. Theo đó thì việc tổng hợp hình phạt được thực hiện như sau: + Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi người đó đủ 16 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện
  • 37. 32 sau khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi theo khoản 1 Điều này, tức là không được vượt quá 03 năm nếu hình phạt chung là cải tạo không giam giữ và 12 năm nếu hình phạt chung là tù có thời hạn. + Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi người đó đủ 16 tuổi nặng hơn mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi theo khoản 1 Điều này, tức là không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt chung là cải tạo không giam giữ và 18 năm đối với hình phạt chung là tù có thời hạn. - Thứ ba, khoản 3 Điều 103 của BLHS năm 2015 quy định về tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi người phạm tội đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi người phạm tội đủ 18 tuổi đã có sự sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn của hình phạt. Theo đó, việc tổng hợp hình phạt được thực hiện như sau: + Nếu mức hình phạt Tòa án tuyên đối với tội được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt áp dụng đối với tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại khoản 1 Điều này; + Nếu mức hình phạt Tòa án tuyên đối với tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi nặng hơn mức hình phạt áp dụng đối với tội thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội. 1.2.3.2. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án Đối với trường hợp người dưới 18 tuổi đang chấp hành một bản án nhưng lại bị đưa ra xét xử về một tội đã phạm trước khi có bản án này hoặc một tội thực hiện sau khi có bản án thì thực hiện theo nguyên tắc chung như đối với người thành niên. Tuy nhiên, mức tối đa của hình phạt chung bị khống chế như tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội đã nêu trên. Cụ thể, Điều 104 của BLHS năm 2015
  • 38. 33 quy định về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đối với người dưới 18 tuổi như sau: Việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước hoặc sau khi có bản án này, được thực hiện theo quy định tại Điều 55 và Điều 56 của Bộ luật này. Hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 103 của Bộ luật này. 1.2.3.3. Miễn hình phạt Người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự [27, tr.43]. Theo quy định tại Điều 59 BLHS năm 2015, người phạm tội có thể được miễn hình phạt trong trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 54, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự. Như vậy, người phạm bất cứ tội gì cũng có thể được miễn hình phạt, không phân biệt tội đó là tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hay tội đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, điều kiện để người được miễn hình phạt lại không cụ thể, ngoài điều kiện về tình tiết giảm nhẹ và nếu chỉ căn cứ vào tình tiết giảm nhẹ thì người phạm tội chỉ có thể được quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo quy định tại Điêu 54 BLHS chứ chưa thể được miễn hình phạt. Vì vậy, người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ mới chỉ là một điêu kiện cần mà chưa đủ, phải có thêm điều kiện khác, mà điêu kiện này mới có ý nghĩa quyết định có cho miễn hình phạt hay không, đó là “đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự”. Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS là phải có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và các tình tiết đó phải được quy định tại khoản 1 Điều 54. Điều kiện này hoàn toàn giống với điều kiện đê người phạm tội được áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, vấn đề
  • 39. 34 còn lại là xác định điều kiện “đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự”. Có thể nói người phạm tội được miễn hình phạt là người có điều kiện để miễn trách nhiệm hình sự nhưng chưa được miễn trách nhiệm hình sự. Người phạm tội được miễn hình phạt, nhất thiết phải có những điêu kiện về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, nhưng vì tính chât và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết khác của vụ án mà không thể miễn trách nhiệm hình sự đối với họ thì mới miễn hình phạt [23, tr.332] 1.2.3.4. Giảm mức hình phạt đã tuyên Các quy định về giảm mức hình phạt đã tuyên đối với người dưới 18 tuổi được áp dụng trong những trường hợp khác nhau tùy thuộc vào loại hình phạt mà họ đang phải chấp hành: (i) người phạm tội có tiến bộ; (ii) người phạm tội lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, và (iii) người phạm tội lâm vào hoàn cảnh kinh tế khó khăn kéo dài. * Giảm mức hình phạt đã tuyên trong trường hợp người dưới 18 tuổi bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù có thời hạn. - Trường hợp người phạm tội có tiến bộ. So với người thành niên, thì các quy định về giảm mức hình phạt đã tuyên đối với người dưới 18 tuổi bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù có thời hạn được khoan hồng nhiều hơn ở các khía cạnh sau. Thứ nhất, người dưới 18 tuổi được xét giảm sớm hơn, khi đã chấp hành được một phần tư thời hạn đã tuyên. Thứ hai, đối với mỗi lần xét giảm, họ có thể được giảm nhiều hơn, tối đa đến 04 năm. Thứ ba, thời gian tối thiểu họ phải chấp hành hình phạt ngắn hơn, tối thiểu là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên (khoản 1 Điều 105 của BLHS năm 2015). - Trường hợp người phạm tội lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo. Trong trường hợp lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, người dưới 18 tuổi có thể được xét giảm ngay khi có các sự kiện pháp lý này xảy ra và có thể được miễn chấp hành toàn bộ phần hình phạt còn lại (khoản 2 Điều 105 của BLHS năm 2015).
  • 40. 35 * Giảm mức hình phạt đã tuyên trong trường hợp người dưới 18 tuổi bị áp dụng hình phạt tiền. Việc giảm mức hình phạt đã tuyên đối với người dưới 18 tuổi bị áp dụng hình phạt tiền chỉ được áp dụng trong trường hợp họ lập công lớn hoặc lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau. Trong những trường hợp đã nêu, họ có thể được giảm hoặc miễn chấp hành toàn bộ phần tiền phạt còn lại (khoản 3 Điều 105 của BLHS năm 2015). * Cần lưu ý rằng, việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo các quy định tại Chương XII của BLHS năm 2015 là những quy định về hình phạt được áp dụng riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, bên cạnh đó người chưa thành niên phạm tội còn có thể áp dụng hình phạt khác nếu không trái với các quy định tại Chương XII của BLHS năm 2015.Chẳng hạn: các quy định về miễn chấp hành hình phạt (Điều 62 của BLHS năm 2015), giảm hình phạt đã tuyên (Điều 63 BLHS), hoãn chấp hành hình phạt tù (Điều 67 của BLHS năm 2015), tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù (Điều 68 của BLHS năm 2015) … được áp dụng chung cho cả người đã thành niên và người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu việc áp dụng hình phạt chỉ áp dụng riêng cho người dưới 18 tuổi phạm tội. 1.3. Các yếu tố tác động đến áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Như đã nghiên cứu ở Mục 1.1, áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được hiểu là một hình thức của áp dụng pháp luật do Tòa án tiến hành và áp dụng những quy phạm pháp luật hình sự về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cụ thể để giải quyết các vụ án hình sự theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Từ khái niệm này, chúng ta thấy có các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi như sau: