SlideShare a Scribd company logo
1 of 100
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI VĂN SƠN
BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI BẰNG CHẾ ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI VĂN SƠN
BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI BẰNG CHẾ ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG)
Chuyên nghành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Trịnh Quốc Toản
Hà Nội - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã
thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Bùi Văn Sơn
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ
QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI BẰNG CHẾ ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm ngƣời chƣa thành niên và ngƣời chƣa
thành niên phạm tội 9
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên 9
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên phạm tội 12
1.2. Sự cần thiết bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành
niên phạm tội bằng chế định hình phạt trong Luật hình sự
Việt Nam 17
1.3. Khái quát lịch sử Luật hình sự Việt Nam quy định hình phạt
đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội 25
1.3.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng tám năm 1945 đến trước khi ban
hành Bộ luật Hình sự năm 1985 25
1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến trước
khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 27
1.4. Những quy định cơ bản của pháp luật quốc tế về bảo vệ
quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên phạm tội 30
1.5. Pháp luật hình sự một số nƣớc về bảo vệ quyền con ngƣời của
ngƣời chƣa thành niên phạm tội 33
Chƣơng 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TRONG BỘ
LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN
CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM
TỘI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 38
2.1. Các quy định về hình phạt trong Bộ luật Hình sự năm 1999
áp dụng đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội 38
2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt của Tòa án nhân dân tỉnh Hà
Giang về bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên
phạm tội 45
2.3. Một số tồn tại, hạn chế, vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng
hình phạt về bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành
niên phạm tội và nguyên nhân của nó 59
Chƣơng 3: NHU CẦU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI
CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG 66
3.1. Nhu cầu hoàn thiện các quy định về hình phạt trong Bộ luật
Hình sự năm 1999 để bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa
thành niên phạm tội 66
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định về hình phạt trong
Bộ luật Hình sự năm 1999 về bảo vệ quyền con ngƣời của
ngƣời chƣa thành niên phạm tội 71
3.3. Chế định hình phạt trong Bộ luật Hình sự năm 2015 dƣới góc
độ bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên phạm
tội và một số kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng 77
3.3.1 Chế định hình phạt trong Bộ luật Hình sự năm 2015 dưới
góc độ bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên
phạm tội 77
3.3.2. Một số kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng 80
KẾT LUẬN CHUNG 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật Hình sự
CRC Công ước về quyền trẻ em
EU Khối liên minh châu âu
HP Hiến pháp
HĐXX Hội đồng xét xử
LHS Luật hình sự
NCTN Người chưa thành niên
ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
ICESCR Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
LHQ Liên hợp quốc, Liên hiệp quốc
PLHS Pháp luật hình sự
Quy tắc Bắc Kinh Những quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về
việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên
TAND Tòa án nhân dân
TTHS Tố tụng hình sự
TNHS Trách nhiệm hình sự
UDHR Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
UNICEF Quỹ nhi đồng liên hiệp quốc
UNFPA Quỹ dân số thế giới
VPPL Vi phạm pháp luật
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
WHO Tổ chức y tế thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng: 1.1 Quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một
số quốc gia trên thế giới
14
Bảng: 2.1 Thống kê tỷ lệ tội phạn là NCTN so với tổng số tội
phạm khác bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét
xử giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015
48
Bảng: 2.2 Thống kê tội danh của NCTN phạm tội bị Tòa án
nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử (từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi) giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015
49
Bảng: 2.3 Thống kê tội danh của NCTN phạm tội bị Tòa án
nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử (từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi) giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015
49
Bảng: 2.4 Thống kê thực tiễn áp dụng hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân
dân tỉnh Hà Giang xét xử giai đoạn từ năm 2011
đến năm 2015
50
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người đã được Đại Hội Đồng Liên
Hợp Quốc (LHQ) thông qua và tuyên bố tại Nghị quyết số 217A (III) ngày 10
tháng 12 năm 1948, trong đó có yếu tố cốt yếu là các quyền con người phải
được bảo vệ bằng Nhà nước pháp quyền. Đó là chuẩn mực chung cho tất cả các
dân tộc và các quốc gia hướng tới và thúc đẩy sự tôn trọng đối với những quyền
và sự tự do cơ bản của con người. Bên cạnh đó LHQ thông qua mở cho các
nước ký phê chuẩn và gia nhập Công ước về quyền trẻ em. Việt Nam là nước
thứ hai trên thế giới và nước Châu Á đầu tiên đã ký vào ngày 26 tháng 01 năm
1990 và phê chuẩn ngày 20 tháng 02 năm 1990. Lịch sử Nhà nước Việt Nam đã
ghi nhận quyền con người ngay khi giành được độc lập năm 1945, đó là việc
hiến định vấn đề quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 1946,
sau đó tiếp tục khẳng định, mở rộng trong các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992
và mới đây nhất là Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục kế thừa và phát triển các
thiết chế bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Ghi nhận một cách trang
trọng, khẳng định rõ ràng Nhà nước Việt Nam đảm bảo các quyền con người,
quyền công dân ngay tại Chương II đó là “Quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ
bản của công dân”, trong đó cụ thể tại Điều 14 quy định "Ở nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo
Hiến pháp và pháp luật…" [35, tr.26]. Đó là nền tảng để Nhà nước ta cụ thể hóa
hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền con người, quyền công dân bằng
các thiết chế Tư pháp phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế và xây dựng nhà
nước pháp quyền, đặc biệt là hệ thống pháp luật hình sự.
Pháp luật hình sự Việt Nam quy định chế định hình phạt để áp dụng đối
với người chưa thành niên (NCTN) phạm tội là biện pháp cưỡng chế nghiêm
2
khắc nhất của Nhà nước, buộc đối tượng này phải chịu trách nhiệm đối với
những hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ gây ra, đồng thời những quy định
đó cũng là hành lang, cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền con người đối với NCTN
phạm tội một cách tốt nhất. Hay nói cách khác chế định hình phạt trong Luật
hình sự Việt Nam để bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội là một chế
định đặc biệt. Tính chất đặc biệt ở chỗ chế định hình phạt được quy định nhẹ
hơn so với người đã thành niên phạm tội có các tình tiết tương đương. Sở dĩ
NCTN được hưởng chính sách giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của Nhà nước khi
có hành vi phạm tội vì họ có đặc điểm về nhân thân, họ chưa phát triển đầy đủ
về thể chất, tâm sinh lý, chưa thể nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi mà mình thực hiện. Nhận thức của họ còn thiếu chín chắn dễ bị
kích động, bị lôi kéo nếu ở môi trường xấu và không được chăm sóc giáo dục
chu đáo dẫn đến vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, so với người đã thành niên ý
thức phạm tội của NCTN nói chung chưa sâu sắc, họ dễ tiếp thu sự giáo dục của
xã hội, nhà trường và gia đình để từ bỏ con đường phạm tội. Luật nhân quyền
quốc tế và hệ thống pháp luật Việt Nam coi đây là một trong những nhóm dễ
bị tổn thương và cần có chính sách pháp luật đặc biệt để bảo vệ các quyền,
lợi ích hợp pháp của họ [21]. Chính vì thế quy định chế định hình phạt trong
Luật hình sự Việt Nam áp dụng đối với NCTN phạm tội phải nhẹ hơn so với
người đã thành niên nhằm bảo vệ quyền con người đối với NCTN phạm tội
một cách tốt nhất.
Nhằm hạn chế tối đa những hành vi xâm phạm đến các quyền con người
của NCTN phạm tội, trong các giai đoạn lịch sử pháp luật hình sự nước ta đã có
rất nhiều quy định chặt chẽ về nguyên tắc cũng như trình tự, thủ tục tố tụng.
Đặc biệt là giai đoạn xét xử và áp dụng hình phạt của Tòa án nhân dân đối với
NCTN phạm tội phải đảm bảo tôn chỉ, mục đích đó là “Chủ yếu nhằm giáo dục,
giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích
cho xã hội”. Tuy nhiên, trên thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân (TAND) áp
3
dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội cũng còn bộc lộ nhiều điểm bất cập,
chưa tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc cơ bản như “Áp dụng hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội chỉ được thực hiện trong trường hợp cần thiết
và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội…”. Ngoài ra khi phạm tội
nhóm đối tượng này cũng rất khó có khả năng và điều kiện để bảo vệ quyền, lợi
ích chính đáng của mình đã được pháp luật hình sự Việt Nam quy định. Đồng
thời họ cũng rất dễ bị cơ quan tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng
vô tình hoặc cố ý xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Những xâm
phạm này có thể gây ra những hậu quả khó lường, khó có thể khắc phục bởi nó
liên quan trực tiếp đến tương lai của NCTN.
Việc các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khi xử lý
hành vi vi phạm pháp luật đối với NCTN phạm tội có vì mục đích chủ yếu
nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công
dân có ích cho xã hội hay không; Có phù hợp với tình hình thực tế, với những
hành vi nguy hiểm mà họ đã gây ra hay không; Họ có được hưởng đầy đủ các
chính sách giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của Nhà nước quy định hay không...;
Đó chính là vấn đề cần phải được quan tâm nghiên cứu nhằm bảo đảm các quy
định pháp luật hình sự, các chế định hình phạt đối với NCTN thật sự phù hợp,
để họ có cơ hội được sửa chữa, khắc phục những sai lầm và được phát triển hài
hòa, toàn diện. Do vậy, việc nghiên cứu các chế định hình phạt trong Luật hình
sự và đánh giá qua thực tiễn xét xử của TAND là một điều hết sức cần thiết
nhằm bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội một cách tốt nhất.
Trong đề tài này, tác giả đi sâu nghiên cứu Bảo vệ quyền con người của
NCTN phạm tội bằng chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam. Phân tích,
khái quát lịch sử hình thành và phát triển của chế định hình phạt đối với NCTN
phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử đối với NCTN
phạm tội ở địa bàn tỉnh Hà Giang, trong giai đoạn 5 năm trở lại đây (2011 -
2015). Trên cơ sở đó kiến nghị việc hoàn thiện pháp luật hình sự đối với NCTN,
4
tìm giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng về mặt thực tiễn nhằm góp phần bảo vệ
quyền con người của người của NCTN phạm tội. Đây cũng là lý do để học viên
quyết định lựa chọn đề tài: Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên
phạm tội bằng chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam (qua thực tiễn
xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang) làm Luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Bảo đảm quyền con người của NCTN nói chung, bảo đảm quyền con
người của NCTN phạm tội và việc áp dụng hình phạt trong xét xử án hình sự, đã
được nhiều nhà khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn nghiên cứu. Có nhiều
công trình khoa học được công bố, có một số luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ,
một số giáo trình giảng dạy, bài viết trên các tạp chí dưới các góc độ và mức độ
khác nhau, cụ thể như:
* Dưới góc độ luận án tiễn sĩ, luận văn thạc sĩ luật học: Có các công
trình “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam”của tác giả Trần Hưng Bình, Luận án tiến sỹ luật
học năm 2013, Học viện khoa học xã hội - Viện hàm lâm khoa học xã hội Việt
Nam; “Hình phạt tù có thời hạn, áp dụng đối với người chưa thành niên phạm
tội theo Luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền, Luận văn
thạc sỹ luật học năm 2012, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; "Bảo vệ
quyền của người chưa thành niên trong Tư pháp hình sự Việt Nam" của tác giả
Nguyễn Thị Thanh, Luận văn thạc sỹ luật học năm 2008, Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội...
* Dưới góc độ đề tài khoa học, bài viết trên báo, tạp chí: Có nhiều tài
liệu đề cập đến như: Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Khoa
luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội 2009;
Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự, Khoa luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, Trung tâm nghiên cứu quyền con người - quyền công dân và
Trung tâm nghiên cứu tội phạm học và tư pháp hình sự, Nxb Đại Học Quốc Gia
5
Hà Nội, Hà Nội 2011; Việt Nam và các văn kiện quốc tế về quyền trẻ em, Nxb
Chính Trị Quốc Gia - Ủy Ban bảo vệ và chăm sóc Trẻ em Việt Nam, Hà Nội
1997; Số chuyên đề Bảo đảm quyền con người và quyền công dân bằng các
thiết chế Tư pháp, Bộ Tư pháp, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà
Nội 2014; Đồng tác giả Lê Cảm và Đỗ Thị Phượng "Tư pháp hình sự đối với
người chưa thành niên, những khía cạnh pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội
phạm học và so sánh luật học" các số 20, 21, 22, năm 2004; “Chính sách hình
sự đối với người chưa thành niên phạm tội - Nhìm từ phương diện tội phạm học
và trách nhiệm xã hội" của ThS. Lê Minh Thắng, Tạp chí dân chủ và pháp luật,
số 12 năm 2011; “Hiến pháp năm 2013 với chế định bảo đảm quyền con người
về Tư pháp hình sự" của TS. Phạm Văn Hùng, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16
tháng 8 năm 2014; “Hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về hình phạt áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội" của ThS. Lương Ngọc Trâm,
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 19 tháng 10 năm 2014 ...
Như vậy, các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề về
quyền con người của NCTN trong các chính sách hình sự Việt Nam. Tuy nhiên,
về phương diện nghiên cứu chuyên sâu về quyền con người của NCTN phạm tội
bằng chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử của
TAND trên một địa bàn cụ thể thì vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức.
Vì lý do đó, đề tài nghiên cứu dựa trên thực tiễn xét xử của TAND tỉnh Hà Giang,
giai đoạn 05 năm (2011 - 2015) để từ đó đưa ra các kiến nghị giải pháp hoàn thiện
và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội, nhằm bảo vệ
quyền con người của NCTN phạm tội là việc làm cần thiết có ý nghĩa cả về lý luận
và thực tiễn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của Luận văn đó là làm sáng tỏ về mặt lý luận, những vấn đề
pháp lý của hệ thống pháp luật Việt Nam có liên quan đến chế định hình phạt
6
trong Luật hình sự Việt Nam đối với NCTN phạm tội, và các văn kiện Luật
nhân quyền quốc tế về lĩnh vực này. Đồng thời xem xét thực tiễn áp dụng
những quy định nêu trên tại địa bàn tỉnh Hà Giang. Trên cơ sở đó đưa ra những
nhận xét, đánh giá, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự
và nâng cao hiệu quả áp dụng vào việc bảo vệ quyền của NCTN phạm tội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đi sâu vào việc giải quyết các vấn đề làm sáng tỏ khái niệm,
đặc điểm về NCTN và NCTN phạm tội; Phân tích, so sánh, nhận xét, đánh giá
các quy định đối với NCTN phạm tội theo quy định của Luật nhân quyền quốc
tế và pháp luật Việt Nam về tính phù hợp, hợp lý và tương thích. Nghiên cứu
thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật đối với việc bảo vệ quyền con
người của NCTN phạm tội. Trách nhiệm bảo vệ quyền con người của NCTN
phạm tội, phân biệt bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội trong các giai
đoạn tố tụng khác. Trên cơ sở đó Luận văn chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại
trong thực tiễn để đề xuất một số kiến nghị, các giải pháp hoàn thiện các quy
định của pháp luật hình sự và việc áp dụng nhằm bảo vệ quyền con người của
NCTN phạm tội.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng
về nhà nước và pháp luật. Nhất là quan điểm của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm
2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng
6 năm 2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Ngoài ra Luận văn
cũng kế thừa có chọn lọc những vấn đề lý luận và thực tiễn đã được các nhà
nghiên cứu đi trước đưa ra, những tài liệu, công trình đã được công bố trên các
7
tài liệu, bài viết, tạp trí của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như:
Phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy luận lôgic, phương pháp hệ thống,
thống kê xã hội học...; Các phương pháp nghiên cứu được kết hợp giữa lý luận
và thực tiễn để rút ra kết luận khoa học của mình đối với vấn đề nghiên cứu.
5. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của Luận văn đúng như tên gọi của đề
tài: Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên phạm tội bằng chế
định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam (qua thực tiễn xét xử của Tòa án
nhân dân tỉnh Hà Giang).
Đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm 02 vấn đề chính:
- Các vấn đề chung về quyền con người của NCTN phạm tội bằng chế
định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam.
- Các vấn đề thực tiễn áp dụng các chế định hình phạt đối với NCTN
phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. (Qua thực tiễn xét xử
của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang) giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015.
6. Kết quả nghiên cứu
Thứ nhất: Thông qua việc nghiên cứu các quy định của Luật nhân quyền
quốc tế và quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. Luận văn làm sáng tỏ
những vấn đề chung cơ bản của chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt
Nam đối với việc bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội. Nhận xét, đánh
giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật đối với việc bảo vệ quyền con
người của NCTN phạm tội tại tỉnh Hà Giang.
Thứ hai: Thông qua việc đánh giá thực trạng, tổng hợp kết quả nghiên
cứu. Luận văn đưa ra đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật hình sự về bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội, các
biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với đối với NCTN phạm tội
trên thực tế.
8
Luận văn có thể dùng làm tài liệu thảm khảo trong quá trình nghiên cứu
xây dựng sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện các chế định hình phạt trong Luật hình
sự Việt Nam đối với NCTN phạm tội. Ngoài ra có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo, nghiên cứu, học tập..., qua đó góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng, chống tội phạm do NCTN thực hiện, cũng như việc bảo vệ tốt nhất
quyền con người của NCTN phạm tội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về bảo vệ quyền con người của người
chưa thành niên phạm tội bằng chế định hình phạt trong
Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định về hình phạt trong Bộ luật Hình sự năm 1999
với việc bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên
phạm tội và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Nhu cầu và một số giải pháp kiến nghị hoàn thiện các quy
định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về bảo vệ quyền con
người của người chưa thành niên phạm tội và nâng cao hiệu
quả áp dụng.
9
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI
CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
BẰNG CHẾ ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm ngƣời chƣa thành niên và ngƣời chƣa
thành niên phạm tội
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên
Mỗi con người từ khi sinh ra đến khi trưởng thành đều có quá trình phát
triển và được chia thành nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, trong đó có một
giai đoạn đặc biệt để có bước phát triển nhảy vọt cả về thể chất và tâm hồn, đó
là thời kỳ được gọi là ngƣời chƣa thành niên. Khi nói đến NCTN chúng ta
thường hiểu rằng đó là người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách
(thể chất và tinh thần), chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân.
Đó là thời kỳ gắn liền với những thay đổi về tâm sinh lý mà bất kỳ người đã
thành niên nào cũng phải trải qua. Đây là thời kỳ chuyển tiếp mà NCTN không
hẳn là trẻ em, nhưng cũng không phải là người đã thành niên.
Thuật ngữ NCTN thường được dùng phổ biến ở tất cả các nước trên thế
giới cũng như ở các ngành khoa học khác nhau, nhưng khi nói đến khái niệm về
NCTN thì đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Ngay cả trong văn bản pháp
luật thực định cũng có những tên gọi khác nhau như “Người chưa thành niên;
trẻ vị thành niên hoặc trẻ em”. Trên phương diện luật pháp quốc tế khái niệm
NCTN được đề cập tại các văn kiện pháp lý quan trọng và nó trở thành giá trị
chuẩn mực chung cho tất cả các dân tộc, các quốc gia muốn hướng tới nhằm
thúc đẩy sự tôn trọng để bảo vệ quyền con người của NCTN. Cụ thể các văn
kiện quốc tế như:
Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em (CRC) tại Điều 1 quy
định "Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi,
10
trừ trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm
hơn" [29, tr.26]. Như vậy, theo CRC trẻ em được xác định là người dưới 18
tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn. Còn theo
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) lứa tuổi 10 - 19 tuổi là độ tuổi vị thành niên;
thanh niên trẻ là lứa tuổi 19 - 24 tuổi. Chương trình Sức khỏe sinh sản/Sức khỏe
tình dục vị thành niên - thanh niên của khối Liên minh Châu Âu (EU) và Quỹ
Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA) lấy độ tuổi 15 - 24 tuổi.
Bên cạnh đó Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về việc áp dụng pháp
luật đối với NCTN (Quy tắc Bắc Kinh) cũng nêu rõ "Người chưa thành niên là
trẻ em hay người ít tuổi tuỳ theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xét xử vì
phạm pháp theo một phương thức khác với việc xét xử người lớn" [27, số 2.2,
mục a]. Quy tắc Bắc Kinh chỉ quy định các tiêu chuẩn tối thiểu và nó hoàn toàn
tôn trọng tính riêng của mỗi quốc gia khi quy định giới hạn độ tuổi của NCTN
phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của quốc gia đó.
Tuy nhiên, trên thực tế các văn kiện pháp lý quốc tế đều thống nhất định
nghĩa khái niệm NCTN là người dưới 18 tuổi. Bởi lẽ đây là giai đoạn trẻ em
phát triển lên người lớn, và đặc điểm chính của NCTN trong giai đoạn này là
chưa phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần, tâm sinh lý và nhân cách; Chưa
đủ khả năng để sử dụng quyền và gánh vác nghĩa vụ pháp lý như người đã
thành niên. Do vậy, pháp luật ở mỗi quốc gia quy định riêng độ tuổi cụ thể của
NCTN phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội để có hệ thống pháp luật phù hợp.
Ở Việt Nam, định nghĩa, khái niệm NCTN theo Từ điển Tiếng Việt –
Viện ngôn ngữ học viết "Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy
đủ, toàn diện về thể lực, trí lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ
quyền và nghĩa vụ công dân" [49, tr.55].
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, tùy theo từng lĩnh vực điều chỉnh
của từng ngành luật mà nhà làm luật đưa ra khái niệm NCTN cũng khác nhau
11
cụ thể như:
+ Điều 18 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định "Người từ đủ 18 tuổi trở
lên là người thành niên, người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên" [31];
+ Điều 119 Bộ luật Lao động năm 2002 quy định "Người lao động chưa
thành niên là người lao động dưới 18 tuổi" [33];
+ Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định "Trẻ em quy
định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi" [30];
+ Điều 12 BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định
"Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm; Người từ đủ 14
tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng" [32]; Điều 68 BLHS quy
định "Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu
TNHS theo những quy định của chương này..." [32].
Từ những phân tích trên có thể thấy rất nhiều quy định khác nhau về việc
xác định cụ thể thời điểm bắt đầu, kết thúc của thời kỳ NCTN, vì mỗi góc độ
tiếp cận khác nhau thì quan niệm về NCTN theo đó cũng khác nhau. Nhưng tựu
chung quan niệm của các ngành luật đều đồng nhất ý kiến NCTN là người chưa
trưởng thành về thể chất và trí tuệ. Đặc điểm đặc trưng về lứa tuổi là sự phát
triển chưa đầy đủ, các em đang trong quá trình hình thành, phát triển tâm sinh
lý, nhận thức còn non nớt, hạn chế, kinh nghiệm sống ít ỏi, hành động thường
bồng bột, xốc nổi, nhẹ dạ, thiếu kinh nghiệm, dễ va vấp bởi môi trường sống
xung quanh tác động.
Nhưng nói về khái niệm NCTN thì chúng ta có thể dựa theo quy định tại
Điều 18 BLDS và Điều 119 BLLĐ là hai Bộ luật chung, phổ biến để thống nhất
về quan điểm đưa ra định nghĩa, khái niệm "Người chưa thành niên là người
dưới 18 tuổi". Khái niệm này hoàn toàn phù hợp với CRC.
12
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên phạm tội
Khái niệm NCTN phạm tội không những mang tính pháp lý mà còn có ý
nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc. Khái niệm này phụ thuộc vào sự tồn tại của mỗi
xã hội và sự phát triển về thể chất, tinh thần của con người sống trong xã hội
đó, nó phản ánh thông qua ý chí của giai cấp thống trị. Trong các văn bản Quốc
tế và các chương trình của LHQ về vấn đề trẻ em sử dụng đồng thời cả hai khái
niệm trẻ em và người chưa thành niên. Hệ thống pháp luật ở tất cả các quốc gia
trên thế giới khi quy định NCTN phạm tội đều chú ý tới độ tuổi của họ, và nỗ
lực tìm mọi cách bảo đảm hệ thống pháp luật liên quan đến NCTN phạm tội
tuân thủ theo đúng luật quốc tế về quyền con người. Bên cạnh đó Công ước còn
có tính ràng buộc, tập hợp các quy tắc, hướng dẫn đã được cộng đồng quốc tế
thông qua để quy định chi tiết việc áp dụng pháp luật với NCTN. Đây là những
nguyên tắc và tiêu chuẩn mà nhiều quốc gia thành viên đã đồng ý và nêu rõ
trong các tuyên ngôn, nguyên tắc, quy tắc và các hướng dẫn chuẩn. Mặc dù
những văn bản này không có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý với các quốc
gia thành viên, nhưng chúng được xây dựng từ pháp luật quốc tế và được đông
đảo các nước trên thế giới đồng tình ủng hộ. Do vậy, các văn bản chủ yếu mang
tính khuyến nghị, định hướng đối với các quốc gia thành viên, góp phần thực
hiện Công ước quốc tế về quyền trẻ em [23, tr.424-429].
- Tại Nga, Bộ luật Hình sự liên bang quy định tuổi chịu trách nhiệm hình
sự ở Điều 20 đó là "Người đủ 16 tuổi vào thời điểm phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự; Người đủ 14 tuổi vào thời điểm phạm tội phải chịu trách nhiệm
hình sự về các tội tại các điều 105; 111; 112; 126; 131; 132; 158; 161; 162;
163; 166; 167; 205; 206; 207; 213; 214; 226; 229; 267 [9, tr.40].
- Tại Pháp, Điều 122.8 Bộ luật Hình sự quy định "Những người chưa
thành niên nhận thức được hành vi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với các
tội phạm nghiêm trọng, các tội ít nghiêm trọng hoặc các tội phạm nhỏ…”; LHS
13
Pháp cũng quy định các biện pháp giáo dục có thể được tuyên đối với những
NCTN từ 10 đến 18 tuổi, quy định hình phạt đối với NCTN từ 13 đến 18 tuổi,
có tính đến độ tuổi khi cân nhắc giảm hình phạt [9, tr.47].
- Tại Mỹ, có 13 tiểu bang đã thiết lập độ tuổi tối thiểu khoảng từ 6 đến 12
tuổi, và hầu hết các bang đều dựa vào pháp luật chung của nhà nước.
- Pháp luật của các nước Bắc Âu lại quy định tuổi chịu trách nhiệm hình
sự là 15, thanh thiếu niên dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu được áp dụng hệ thống
tư pháp là các dịch vụ xã hội, còn việc giam giữ là phương án cuối cùng.
- Tại Nhật Bản có hệ thống Tòa án gia đình để xét xử đối với người phạm
tội dưới 20 tuổi, chứ không được xét xử chung trong hệ thống tòa án hình sự.
- Tại Trung Quốc lại quy định trẻ em từ 14 đến 18 tuổi được xử lý bằng
hệ thống tư pháp vị thành niên.
- Còn ở Việt Nam, Điều 12 BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm
2009 quy định "1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm;
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội
phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng" [32].
Theo quy định của Luật hình sự (LHS) Việt Nam thì NCTN phải chịu
trách nhiệm hình sự (TNHS) là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi; Người từ
đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, một người
chưa đủ 14 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội dù cố ý hay vô ý và gây
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, hoặc từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi phạm
tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng do vô ý đều
không phải chịu TNHS. Quy định NCTN phạm tội trong LHS là cụ thể hóa
TNHS về các nguyên tắc bình đẳng trong LHS, nhưng đồng thời nó cũng là cơ
sở để bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội qua việc Tòa án xét xử và
quyết định hình phạt đối với họ.
14
Bảng 1.1: Quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
của một số quốc gia trên thế giới
Hoa kỳ 7
Ấn Độ 7
Bangladesh 7
Pakistan 7
Nam Phi 7
Vương quốc Anh (Scotland) 8
Indonesia 8
Ethiopia 9
Iram 9
Vương quốc Anh (Anh) 10
Vương quốc Anh (xứ Wales) 10
Ukraine 10
Hàn Quốc 12
Uganda 12
Pháp 13
Ba Lan 13
Liên bang Nga 14
Đức 14
Ý 14
Trung Quốc 14
Nhật Bản 14
Ai cập 15
Argentina 16
Brazil 18
Colmbia 18
Peru 18
(Nguồn: TAND Tối cao)
Nhìm vào Bảng biểu quy định độ tuổi chịu TNHS của mỗi quốc gia có
thể nói hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia tùy thuộc vào từng điều kiện kinh
tế - xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ nhất định; sự đánh giá về trình
độ phát triển và nhận thức xã hội để có thể quy định độ tuổi chịu TNHS đối với
NCTN phạm tội nhằm đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả trên thực
tiễn của mỗi quốc gia đó.
Một hoạt động mà các quốc gia trên toàn cầu đang nỗ lực thực hiện là
15
tìm mọi cách bảo đảm hệ thống pháp luật liên quan đến NCTN phạm tội tuân
thủ theo đúng Luật quốc tế về quyền con người. Kể từ năm 1989 các nước trên
thế giới đã và đang đưa những nguyên tắc quốc tế vào các luật và chính sách
quốc gia, đã có nhiều văn bản quốc tế về quyền con người đối với trẻ em và
NCTN ra đời. Trong các văn bản quốc tế và các chương trình của LHQ về trẻ
em luôn sử dụng đồng thời cả hai khái niệm trẻ em và NCTN, việc tăng cường
bảo vệ các quyền của trẻ em nói chung, NCTN phạm tội nói riêng là một khía
cạnh quan trọng trong hoạt động của các cơ quan và chương trình của LHQ.
Đối với pháp luật hình sự Việt Nam quy định độ tuổi chịu TNHS đầy đủ
là từ đủ 16 tuổi trở lên, còn độ tuổi chịu TNHS hạn chế là độ tuổi từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi và được quy định cụ thể trong Điều 12 BLHS. Chúng ta có thể
hiểu về mặt lý luận BLHS quy định người chưa đủ mười 14 tuổi sẽ không phải
chịu TNHS về bất kể hành vi nguy hiểm nào mà họ đã gây ra cho xã hội. Vì
người chưa đủ 14 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, trí tuệ, chưa
nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội mà mình đã gây ra. Họ chưa
đủ khả năng để tự chủ hành động của mình, nên họ không bị coi là có lỗi về
hành vi nguy hiểm của mình gây ra, tức là họ không hội tụ đầy đủ yếu tố cấu
thành tội phạm do BLHS quy định, do vậy họ không phải chịu TNHS (loại trừ
trách nhiệm hình sự). Đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16
phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm
trọng. Bởi đây được coi là độ tuổi chưa có năng lực TNHS đầy đủ, đó là lứa
tuổi đang phát triển về tâm sinh lý và nhân cách, còn non nớt về nhận thức và
tinh thần, nên dễ bị ảnh hưởng của môi trường sống. Hành vi của NCTN thường
bồng bột, thiếu suy nghĩ, thậm chí không cần suy nghĩ về hậu quả của hành vi
mình thực hiện. Do đó, họ cũng phải chịu TNHS về một số tội phạm “Rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng” chứ họ không phải chịu
TNHS đối với tất cả các loại tội phạm mà họ gây ra.
Tuy Điều 12 BLHS quy định (1. Người đủ từ 16 tuổi trở lên phải chịu
16
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa
đủ 16 phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội đặc biệt nghiêm trọng) [32], song BLHS cũng có một chương riêng quy định
đối với NCTN phạm tội (Chương X từ Điều 68 đến Điều 77). Trong đó tại Điều
68 quy định nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội đó là “Người chưa thành
niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo những
quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung
Bộ luật không trái quy định của Chương này” [32]. Quy định trên là sự thể hiện
chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với NCTN phạm tội, thể hiện
chính sách bảo vệ quyền con người đối với NCTN phạm tội.
Khái niệm NCTN phạm tội (hay vi phạm pháp luật hình sự) là người
dưới 18 tuổi đã thực hiện, hoặc bị tố cáo là đã thực hiện một hành vi vi phạm
pháp luật. Khái niệm này bao gồm cả những NCTN bị áp dụng các biện pháp
hành chính và hình sự. Trong các văn bản pháp luật quốc tế, đôi khi những đối
tượng này còn được gọi là “Trẻ em làm trái pháp luật”. Xét về khía cạch quy
định trong Luật hình sự Việt Nam thì chúng ta có thể hiểu khái niệm NCTN
phạm tội bao gồm “Những người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 18 tuổi
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong LHS là tội
phạm” [16, tr.458]. Như vậy, Bộ luật hình sự chưa đưa ra khái niệm cụ thể về
NCTN phạm tội, mà chỉ đưa ra các quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự đối với NCTN phạm tội và các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng dựa trên một số đặc điểm sau để xác định NCTN phạm tội đó là:
- Có hành vi phạm tội do NCTN thực hiện.
- Người thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu TNHS tương ứng với
loại tội phạm và lỗi gây ra tội phạm.
- Người đó thực tế phải chịu TNHS sau khi các cơ quan có thẩm quyền
cân nhắc tính cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà không thể áp dụng các biện
pháp tư pháp khác để quản lý, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
17
Trong lĩnh vực nghiên cứu về NCTN phạm tội, đồng tác giả Lê Cảm và
Đỗ Thị Phượng có cuốn “Tội phạm hình sự đối với người chưa thành niên -
những khía cạch pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh luật
học”, tại Phần I - Những khía cạnh pháp lý hình sự đã đưa ra khái niệm về
NCTN phạm tội như sau "Người chưa thành niên phạm tội là người đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do hạn
chế bởi đặc điểm tâm - sinh lý và có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm" [19, tr.18]. Có thể nói, đây là một
khái niệm hoàn chỉnh nhất về NCTN phạm tội cho đến thời điểm hiện nay được
các nhà khoa học nghiên cứu.
1.2. Sự cần thiết bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên
phạm tội bằng chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam
Về nhận thức chung thì quyền con người được hiểu là một phạm trù đa
diện, do đó có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người (nhân quyền).
Mỗi định nghĩa về quyền con người là một sự biểu hiện khác nhau ở góc độ
nhìn nhận về vấn đề nhân quyền sao cho phù hợp với sự nhìn nhận của người
đó. Ở cấp độ quốc tế, khái niệm quyền con người lần đầu tiên được tổ chức
Liên Hợp Quốc chính thức thừa nhận vào năm 1948 với sự kiện ra đời của
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người. Trong đó, quyền con người được
Văn phòng Cao ủy LHQ khẳng định “Quyền con người là những bảo đảm pháp
lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành
động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do
cơ bản của con người” [24, tr.48]. Như vậy, quyền con người dù được nhìn
nhận dưới góc độ nào đều được hiểu là những quyền tự nhiên cơ bản của con
người, không thể bị tước đoạt, chiếm giữ bởi bất cứ ai và bất cứ thế lực nào.
Ở Việt Nam, đã có một số cơ quan và các chuyên gia nghiên cứu từng
đưa những định nghĩa khác nhau về quyền con người. Nhưng xét chung có một
định nghĩa về quyền con người đang được sử dụng phổ biến trong giảng dạy,
18
nghiên cứu về nhân quyền ở nước ta hiện nay đó là Giáo trình lý luận và pháp
luật về quyền con người của Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, trong đó
khái niệm quyền con người được đưa ra "Là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên,
vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các
thỏa thuận pháp lý quốc tế" [23, tr.38].
Như vậy, có thể hiểu quyền con người vừa là "chuẩn mực tuyệt đối"
mang tính phổ biến, vừa là "sản phẩm tổng hợp của một quá trình lịch sử lâu
dài luôn luôn tiến hóa và phát triển". Quyền con người là những chuẩn mực
được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Những chuẩn mực này là kết
tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại và chỉ áp dụng đối với con người
và cho tất cả mọi người. Thông qua những chuẩn mực đó, mọi thành viên trong
gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều kiện phát triển
đầy đủ các năng lực cá nhân với tư cách là một con người. Khẳng định quyền
con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội
và trong mọi giai đoạn lịch sử [23, tr.38].
Mỗi cá nhân con người là một chủ thể cơ bản của quyền con người. Tuy
nhiên trong một số trường hợp chủ thể của quyền con người còn là các nhóm
như nhóm dân tộc thiểu số, chủng tộc, tôn giáo...; Nói như vậy, trẻ em nói
chung và NCTN nói riêng đều là những chủ thể của quyền con người, nhưng vị
thế của các em trong việc tự bảo vệ và thụ hưởng các quyền này như thế nào lại
là vấn đề được cộng đồng quốc tế quan tâm đặc biệt. Việt Nam là một trong
những nước đi đầu trong việc bảo vệ quyền con người nói chung và bảo vệ
quyền con người đối với trẻ em nói riêng, điều đó đã được khẳng định tại bản
HP đầu tiên năm 1946 của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã ghi nhận các
quyền thiêng liêng của con người. Tiếp đó là HP năm 1959, 1980, 1992 không
chỉ thừa nhận và bảo đảm đầy đủ các quyền con người, quyền công dân phù
hợp với luật pháp quốc tế mà còn khẳng định rõ “Nhà nước Việt Nam là nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, có trách nhiệm bảo đảm và không
19
ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân”. Đặc biệt quyền con
người đã được HP năm 2013 khẳng định cụ thể, rõ ràng và trân trọng hơn tại
chương II đó là "Quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân",
đây là một khẳng định cụ thể, rõ ràng về quan điểm, đường lối chính trị của
Việt Nam nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân một cách tốt nhất.
Quay lại lịch sử, một sự kiện có ý nghĩa nhất thế kỷ 20 diễn ra vào ngày
10 tháng 12 năm 1948. Đại hội đồng LHQ đã chính thức thông qua bản Tuyên
ngôn Thế giới về quyền con người. Đó là tiền đề, cơ sở cho một loạt các hiệp
ước quốc tế khác mang tính toàn cầu và khu vực. UDHR thôi thúc mọi người
trên toàn thế giới khẳng định các quyền của bản thân, ngoài việc thừa nhận
nhân phẩm và giá trị của những người khác, thì nguyên lý xuyên suốt toàn bộ
UDHR được nêu trong Điều 1 đó là "Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng
về phẩm giá và các quyền..." [24]. Những mệnh đề mở đầu của các văn kiện
pháp lý quốc tế UDHR, ICCPR, ICESR thường bắt đầu bằng câu "Mọi người có
quyền..., hay bất cứ người nào đều có quyền...”; đó là sự thừa nhận một cách
chắc chắn các chủ thể của quyền con người đều bình đẳng các quyền và tự do
đã được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người. Lời
mở đầu của Hiến chương Liên Hợp Quốc đã khẳng định "Chúng ta, các thành
viên của Liên Hợp Quốc khẳng định quyết tâm...; Thực sự tin tưởng vào những
quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người...".
Các văn kiện quốc tế về quyền con người đều xác định “Trẻ em là đối
tượng cần được bảo vệ đặc biệt và được hưởng những quyền con người đặc
thù”. Bởi đó là lứa tuổi đang phát triển về tâm sinh lý và nhân cách, còn non
nớt về nhận thức và tinh thần, nên dễ bị ảnh hưởng của môi trường sống.
UDHR nêu rõ "... Các bà mẹ và trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc và
giúp đỡ đặc biệt. Mọi trẻ em dù sinh ra trong hay ngoài giá thú, đều phải được
sự bảo trợ xã hội như nhau" [23, Điều 25]. Nhu cầu chăm sóc đặc biệt đối với
trẻ em được nói rõ trong tuyên bố Giơnevơ về quyền trẻ em năm 1924 đó là
20
"Trẻ em cần được bảo vệ đặc biệt, chăm sóc do dễ bị tổn thương và cũng khẳng
định lại việc cần bảo vệ về mặt pháp lý và các mặt khác đối với trẻ em trước và
sau khi ra đời, đến tầm quan trọng của việc tôn trọng các giá trị văn hóa của
cộng đồng của trẻ em và vai trò thiết yếu của hợp tác quốc tế trong việc bảo
đảm quyền trẻ em".
ICESCR có quy định "Cần áp dụng những biện pháp bảo vệ và trợ giúp
đặc biệt đối với mọi trẻ em và thanh thiếu niên mà không có bất kỳ sự phân biệt
đối xử nào vì các lý do xuất thân hoặc các điều kiện khác..." [25, Điều 10].
ICCPR nhấn mạnh "Mọi trẻ em không phân biệt chủng tộc, mầu da, giới
tính ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản hoặc dòng dõi
đều có quyền được hưởng những biện pháp bảo hộ của gia đình, xã hội..." [26,
Điều 24].
Trong văn kiện quốc tế quan trọng nhất về quyền trẻ em (CRC). Không
chỉ nêu ra định nghĩa trẻ em mà còn nêu các nguyên tắc cơ bản trong việc bảo
vệ quyền con người của nhóm đối tượng này. CRC khẳng định trẻ em là chủ thể
của quyền chứ quyền trẻ em không phải xuất phát từ ban phát hay thương hại
của lòng từ thiện thuần túy. Trẻ em là nhóm dễ bị tổn thương nhất trong nhóm
dễ bị tổn thương, có những nhu cầu đặc biệt do vậy có quyền được hưởng sự
chăm sóc, đối xử và bảo vệ đặc biệt. Có thể nói CRC đã bao quát được hầu hết
các khía cạnh của quyền trẻ em và xác định rõ nghĩa vụ của các quốc gia thành
viên trong việc đảm bảo quyền của trẻ em và mối quan hệ giữa quyền con
người và quyền trẻ em. Với những mục đính và phương châm là dành những gì
có lợi ích tốt nhất cho trẻ em [29, tr.23-63]. CRC ghi nhận do trẻ em cần được
bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước
cũng như sau khi ra đời, và trẻ em có các quyền tối thiểu đó là:
- Quyền không phân biệt đối xử.
- Quyền được sống và phát triển.
- Quyền được có họ tên khi ra đời.
21
- Quyền lợi ích tốt nhất.
- Quyền được sống với cha mẹ.
- Quyền được chăm sóc sức khỏe.
- Quyền được học tập.
- Quyền được tự do ngôn luận.
- Quyền tự do kết giao.
- Quyền được bảo vệ riêng tư.
- Quyền được thông tin phù hợp với lứa tuổi.
- Quyền được chăm sóc đặc biệt.
- Quyền được bảo vệ và chống lại sự ngược đãi.
- Quyền được vui chơi, giải trí các hoạt động văn hóa.
- Quyền được bảo vệ và chống lại sự lạm dụng và bóc lột tình dục.
- Quyền được bảo vệ và chống lại sử dụng ma túy.
- Quyền được bảo vệ ngăn ngừa buôn bán và bắt cóc.
- Quyền được bảo vệ chống lại sự tra tấn, đối xử tàn bạo.
- Quyền được trợ giúp pháp lý, hưởng đặc thù các biện pháp tư pháp...
Những Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng
pháp luật đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) được thông qua
ngày 29 tháng 11 năm 1985 quy định:
 Các quốc gia thành viên phải tìm cách tăng cường hạnh phúc của
NCTN và gia đình trên cơ sở phù hợp với lợi ích chung của từng
quốc gia.
 Các quốc gia thành viên phải cố gắng phát triển những điều kiện
đảm bảo cho NCTN có một cuộc sống ý nghĩa trong cộng đồng.
Những điều kiện này sẽ thúc đẩy quá trình phát triển và giáo dục
cá nhân càng tránh xa tội phạm càng tốt trong quãng đời mà
NCTN dễ có những hành vi sai lệch.
 Phải quan tâm đầy đủ đến các biện pháp tích cực huy động tất cả
22
các nguồn có thể, bao gồm gia đình, những người tình nguyện và
các nhóm cộng đồng khác cũng như trường học và các tổ chức
khác trong cộng đồng với mục đích tăng cường hạnh phúc cho
NCTN nhằm giảm sự can thiệp của pháp luật và xử lý NCTN vi
phạm một cách có hiệu quả, công bằng và nhân đạo.
 Pháp luật áp dụng đối với NCTN phải được coi là một phần hợp
thành của quá trình phát triển quốc gia ở mỗi nước, trong khuân
khổ toàn diện của công bằng xã hội đối với tất cả thanh thiếu
niên, vì vậy đồng thời góp vào việc bảo vệ lớp trẻ và duy trì trật
tự hòa bình trong xã hội.
 Những Quy tắc này phải được thực hiện trong bối cảnh những
điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa hiện hành ở mỗi quốc gia
thành viên.
 Các cơ quan quản lý pháp luật với NCTN phải được phát triển và
điều hành một cách có hệ thống để nâng cao và duy trì năng lực
của những người tham gia làm các công việc này, kể cả những
phương pháp, cách giải quyết và thái độ của họ [27, tr.104].
Những khái quát của Quy tắc Bắc Kinh nêu trên liên quan tới chính sách
xã hội toàn diện nói chung và nhằm hướng tới tăng phúc lợi đối với NCTN,
những quy định này hướng đến các cơ quan pháp luật nhằm giảm tới mức tối
thiểu nhu cầu xử lý đối với NCTN để giảm tác hại có thể có do bất cứ sự xử lý
nào gây ra. Những biện pháp chăm nom NCTN trước khi phạm pháp và những
điều tiên quyết cơ bản về chính sách đề ra nhằm phòng tránh việc có nhu cầu
vận dụng Quy tắc này. Quy định việc áp dụng pháp luật đối với NCTN là bộ
phận hợp thành của pháp luật xã hội nói chung về sự cần thiết phải cải tiến
thường xuyên việc áp dụng pháp luật đối với NCTN vi phạm pháp luật.
Ở Việt Nam, NCTN được quy định là người dưới 18 tuổi, còn trẻ em là
người dưới 16 tuổi. Tuy khái niệm về NCTN và trẻ em chưa được đồng nhất,
23
nhưng tất cả chúng ta đều hiểu trẻ em là NCTN, nên các quyền trẻ em cũng
chính là quyền của NCTN. Còn trong phạm vi CRC thì bất kể người nào dưới
18 tuổi đều được coi là trẻ em mà Việt Nam lại là một trong các thành viên của
CRC. Do vậy, tất cả NCTN nói chung và NCTN phạm tội nói riêng ở Việt Nam
đều phải được hưởng các quyền và lợi ích pháp lý đã được nêu trong CRC mà
Việt Nam đã tham gia ký kết và tôn trọng thực hiện.
Đặc biệt Quy tắc Bắc Kinh đã khẳng định và nhấn mạnh tại điểm 1.4
những nguyên tắc chung đó là “Pháp luật áp dụng đối với NCTN phải được coi
là một phần hợp thành của quá trình phát triển quốc gia ở mỗi nước, trong
khuân khổ toàn diện của công bằng xã hội đối với tất cả thanh thiếu niên, vì vậy
đồng thời góp vào việc bảo vệ lớp trẻ và duy trì trật tự hòa bình trong xã hội”
[27]. Điều đó có nghĩa mỗi quốc gia trong quá trình phát triển của mình luôn
phải quan tâm, coi trọng đến hệ thống pháp luật áp dụng đối với tất cả thanh
thiếu niên và coi đó là một phần hợp thành của quá trình phát triển đất nước,
cũng như góp phần bảo vệ lớp trẻ và duy trì trật tự xã hội. Hay tại điểm 1.6
cũng quy định “Các cơ quan quản lý pháp luật với NCTN phải được phát triển
và điều hành một cách có hệ thống để nâng cao và duy trì năng lực của những
người tham gia làm các công việc này, kể cả những phương pháp, cách giải
quyết và thái độ của họ” [27]. Điều này đã khẳng định chắc chắn rằng NCTN
phạm tội vì bất lỳ lý do gì, hành vi nguy hiểm cho xã hội đến đâu thì họ vẫn có
quyền con người và họ phải được hưởng các chính sách ưu đãi đặc biệt của Nhà
nước trong việc áp dụng pháp luật đối với NCTN để góp phần vào bảo vệ lớp
trẻ. Những người tham gia các công việc bảo vệ pháp luật phải mang tính chất
giáo dục, phòng ngừa ngăn chặn và giúp đỡ NCTN phạm tội để họ sửa chữa
những sai lầm chứ không phải mục đích chính là xử lý bằng hình thức pháp luật
như đối với người đã thành niên.
Vậy khái niệm bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội bằng chế
định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam là gì?
24
Dựa trên những phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm đó là “Bảo vệ
quyền con người của người chưa thành niên phạm tội bằng chế định hình
phạt trong Luật Hình sự Việt Nam là việc Nhà nước thông qua Bộ luật Hình
sự quy định và ghi nhận về mặt pháp lý một cách rõ ràng và đầy đủ các chế
định đặc biệt nhằm bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên
phạm tội một cách tốt nhất. Đảm bảo các hình phạt áp dụng đối với người
chưa thành niên phải nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm tội có các
tình tiết tương đương, với mục đích giúp đỡ họ sửa chữa những sai lầm và
phát triển lành mạnh trở thành công dân có ích cho xã hội”.
Các quy định của pháp luật hình sự hay chế định hình phạt trong LHS
luôn có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng trong bất kỳ một nhà nước pháp quyền
nào đối với việc bảo vệ các quyền con người nói chung, đặc biệt đối với việc
bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội nói riêng. Đó là sự khẳng định,
thừa nhận những giá trị xã hội cao quý của con người trong một nền văn minh
nhằm tránh khỏi sự xâm hại tùy tiện của một số người có thẩm quyền trong bộ
máy công quyền nhà nước khi thực thi nhiệm vụ do vô ý hoặc cố ý lạm dụng
chức vụ, quyền hạn để áp dụng, vi phạm các quy định của pháp luật hình sự
xâm hại đến quyền con người nói chung, quyền con người của NCTN phạm tội
nói riêng.
Việc Nhà nước quy định chế định hình phạt trong BLHS để áp dụng đối
với NCTN phạm tội là cần thiết trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Vì đây
là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong nhóm dễ bị tổn thương, là những
đối tượng đang phát triển về tâm sinh lý và nhân cách, còn non nớt về nhận thức
và tinh thần, nên dễ bị ảnh hưởng của môi trường sống. Hành vi của NCTN
thường bồng bột, thiếu suy nghĩ, thậm chí không cần suy nghĩ về hậu quả của
hành vi mình thực hiện, nhưng khi phạm tội họ lại không tự mình bảo vệ các
quyền và hưởng đầy đủ các quyền con người đối với NCTN phạm tội, quyền lợi
ích của họ dễ bị xâm hại. Do vậy cần thiết phải có quy định chặt chẽ và có cơ
25
chế giám sát để bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội được tốt hơn [16,
tr.257-259].
1.3. Khái quát lịch sử Luật hình sự Việt Nam quy định hình phạt đối
với ngƣời chƣa thành niên phạm tội
1.3.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng tám năm 1945 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1985
Cách mạng tháng tám năm 1945 thành công đã đánh dấu một chiến thắng
vĩ đại của dân tộc Việt Nam và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa. Quyền con người, quyền công dân được khẳng định tại chính nội dung Bản
Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại soạn thảo và đọc trước
công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trưởng Ba Đình) ngày 02
tháng 9 năm 1945 “…mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa ban
cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó có quyền sống,
quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc…”. Bản tuyên ngôn trên chính là Bác Hồ
dựa trên Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền; Tuyên ngôn độc lập của hợp
chủng quốc Hoa Kỳ và được tái khảng định trong bản tuyên ngôn Dân quyền và
Nhân quyền của nước Pháp. Còn ở Việt Nam sau bản tuyên ngôn độc lập thể
hiện rõ về nhân quyền thì đến năm 1946 quyền con người, quyền công dân đã
chính thức được ghi nhận trong văn bản pháp lý cao nhất, đó là việc hiến định
quyền con người trong bản HP đầu tiên năm 1946. Đây là cuội nguồn cơ sở cho
hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng
chuyển sang một bước ngoặt lớn trong quá trình vận động và phát triển hoàn
thiện [24].
Từ sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến trước khi BLHS năm 1985 là
một giai đoạn khó khăn khi Nhà nước phải thực hiện hai nhiệm vụ lớn là xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc, và tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ ở miền nam nhằm thống nhất đất nước. Thời kỳ này công tác xây dựng
pháp luật của Nhà nước ta nói chung, cũng như quy định về quyền con người
26
của NCTN phạm tội nói riêng bằng các chính sách hình sự còn rất nhiều hạn
chế, các quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ quyền con
người hay quyền con người của NCTN phạm tội còn rất ít, hầu hết các quy
phạm pháp luật về quyền của NCTN phạm tội không được tập hợp một cách có
hệ thống mà nằm ở rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau. Giai đoạn này
Nhà nước chủ yếu tập trung xây dựng và ban hành các sắc lệnh, quy định để xét
xử trừng phạt những tay sai đắc lực cho thực dân Pháp, Nhật, đế quốc Mỹ.
Những đối tượng nguy hiểm cho nền dân chủ cộng hòa, những loại việt gian,
phản động, phản quốc, những kẻ man trá, đầu cơ bóc lột...; Nhà nước thường
ban hành những Sắc lệnh để hướng dẫn điều chỉnh từng lĩnh vực riêng biệt,
thậm trí pháp luật về quyền con người của NCTN phạm tội còn thường được đề
cập trong các báo cáo tổng kết có tính chất hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn
của ngành Tòa án. Pháp luật hình sự Nhà nước ta thời kỳ này cũng chưa được
xây dựng thành bộ luật riêng, vì thế mà quyền con người của NCTN phạm tội
không có tính đặc thù, tính riêng biệt cho nhóm đối tượng này. Có thể nói pháp
luật hình sự Việt Nam giai đoạn này mới bước đầu xử lý tội phạm và người
phạm tội có phân hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt, nhưng những quy định
trong văn bản pháp luật cũng nêu rõ khái niệm về người vị thành niên. Theo đó
được hiểu “Người chưa thành niên là con trai hay con gái chưa đủ 18 tuổi”.
Tuy nhiên, nó lại được quy định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật hình sự
khác nhau nên việc thực hiện còn chưa được thống nhất và gặp nhiều khó khăn,
hạn chế trong quá trình áp dụng vào thực tiễn.
Tuy pháp luật hình sự thời kỳ này chủ yếu tập trung quy định để xét xử
các hành vi xâm hại đến Nhà nước, nhưng cũng đã chú trọng đề cao việc bảo vệ
các quyền cơ bản của con người nói chung. Văn bản pháp luật hình sự đã quy
định một cách cụ thể về giới hạn độ tuổi chịu TNHS, quy định về TNHS có tính
chất giảm nhẹ và có tính chất giáo dục là chính, đồng thời cũng quy định trách
nhiệm của các cơ quan, những người có thẩm quyền trách nhiệm trong việc
27
giáo dục NCTN phạm tội. Ngoài những văn bản chung thì thời điểm này đặc
biệt còn có các văn bản của TAND Tối cao hướng dẫn việc đảm bảo thực hiện
các quyền của NCTN phạm tội như: Thông tư số 06/TATC ngày 19 tháng 9
năm 1967 của Tòa án nhân dân Tối cao về đảm bảo quyền bào chữa của bị can,
bị cáo; Bản rút kinh nghiệm số 607/NKPL ngày 13 tháng 9 năm 1973 của Tòa
án nhân dân Tối cao về việc viết bản án sơ thẩm và phúc thẩm; Thông tư số
16/TATC ngày 27 tháng 9 năm 1974 hướng dẫn trình tự, thủ tục sơ thẩm về
hình sự…; Do chưa có BLHS và BLTTHS nên các quy định về hoạt động xét
xử về NCTN phạm tội nói chung vẫn phải dựa vào đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước.
Có thể nói pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến trước
khi BLHS năm 1985 về bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội có đánh
dấu một bước phát triển, đã quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với NCTN phạm tội; đã thể hiện việc
coi trọng đến việc bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội dưới dạng văn
bản quy phạm pháp luật như sắc lệnh, thông tư, bản báo cáo rút kinh nghiệm…;
Tuy nhiên, những quy định của văn bản pháp luật trong việc bảo vệ quyền con
người của NCTN phạm tội trong giai đoạn này còn thiếu thống nhất, chưa được
đồng bộ và chưa có những quy định rõ ràng để bảo vệ quyền con người của
NCTN phạm tội. Mỗi văn bản lại quy định một vấn đề riêng biệt do vậy dễ dẫn
đến việc áp dụng tùy tiện ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền con người của
NCTN phạm tội.
1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến trước
khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999
Là thời kỳ Nhà nước Việt Nam đã được thống nhất độc lập. Đảng và Nhà
nước đã luôn thể hiện đường lối, chính sách nhất quán quan tâm, chú trọng đến
các điều ước quốc tế về quyền con người. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất
bằng việc gia nhập và phê chuẩn 7 điều ước quốc tế quan trọng về quyền con
28
người do Liên Hợp Quốc thông qua [23, tr.405].
Đó là sự thể hiện quyết tâm của Nhà nước trong hoạt động pháp lý và
thực tiễn về thúc đẩy bảo vệ các quyền con người. Riêng đối với việc bảo vệ
quyền con người của NCTN phạm tội thì đây là thời kỳ đã đánh dấu một bước
ngoặt lớn trong hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam, đó là việc Quốc hội thông
qua và ban hành BLHS năm 1985. Đã được chú trọng và cụ thể hóa ghi nhận
trong bộ luật mang tính hệ thống về quyền con người của NCTN phạm tội.
BLHS năm 1985 đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc phân biệt tội phạm với các
hành vi nguy hiểm cho xã hội khác nhưng không phải là tội phạm. BLHS năm
1985 đã sửa đổi nhiều quy định trước đó về quyền con người của NCTN phạm
tội và bổ sung một số quy định mới cụ thể cho đối tượng này đó là:
- Quy định cụ thể hơn về độ tuổi chịu TNHS;
- Quy định về chính sách hình sự với những nội dung tiến bộ, việc xử lý
hành vi của NCTN phạm tội đã chú trọng đến việc chủ yếu nhằm giáo dục, giúp
đỡ họ sửa chữa sai lầm để trở thành những công dân có ích cho xã hội;
- Quy định cụ thể và giới hạn các loại hình phạt đối với NCTN phạm tội,
trường hợp cần thiết mà phải đưa NCTN ra xét xử thì chỉ áp dụng một trong
những hình phạt đó là cảnh cáo, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn.
Không được xử hình phạt tù chung thân hoặc từ hình đối với NCTN phạm tội
dù họ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng đến đâu;
- Quy định các biện pháp tư pháp có tính chất giáo dục, phòng ngừa là
chính và buộc phải chịu thử thách hoặc đưa vào Trường giáo dưỡng;
- Quy định cụ thể về các nguyên tắc khi quyết định hình phạt đối với
NCTN phạm tội.
BLHS năm 1985 đã quy định rõ về nguyên tắc áp dụng đối với NCTN
phạm tội, các loại hình phạt được xắp xếp từ nhẹ đến nặng, các căn cứ quyết
định hình phạt, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS, quyết định hình
phạt dưới mức thấp nhất của điều luật quy định…; Đây là cơ sở pháp lý nhằm
29
bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội một cách tốt nhất, nó là cơ sở cho
Tòa án quyết định được loại và mức độ hình phạt tương xứng với tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. BLHS năm 1985 cũng quy định
mang tính chất đặc thù việc áp dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội để đảm
bảo khi xét xử Tòa án tạo điều kiện tốt nhất cho đối tượng này được bảo vệ
quyền lợi một cách đầy đủ và tạo điều kiện cho họ được sửa chữa, cải tạo trở
thành người có ích cho xã hội.
Ngoài việc đảm bảo quyền con người của NCTN phạm tội bằng các quy
định trong BLHS năm 1985, thì thời kỳ này Nhà nước ta cũng ban hành
BLTTHS năm 1988 nhằm thay thế các văn bản hướng dẫn trước đây quy định
về trình tự, thủ tục tố tụng hình sự đối với NCTN phạm tội đó là:
- Quyền của NCTN phạm tội được thể hiện trong quy định người tiến
hành tố tụng;
- Quyền của NCTN phạm tội được thể hiện trong quy định về áp dụng
biện pháp ngăn chặn như việc bắt, tạm giữ, tạm giam;
- Quyền của NCTN phạm tội được thể hiện trong quy định về bào chữa;
- Quyền của NCTN phạm tội được thể hiện trong quy định tham gia tố
tụng của gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội;
- Quyền của NCTN phạm tội được thể hiện trong quy định về xét xử…
Mặc dù BLHS năm 1985 ban hành đã cơ bản đáp ứng được tình hình đấu
tranh phòng chống tội phạm nói chung và bảo vệ quyền con người của NCTN
phạm tội nói riêng. Song quá trình áp dụng vào thực tiễn đã bộc lộ nhiều bất
cập, nhất là việc áp dụng vào thực tiễn xét xử của TAND đối với đối tượng này.
BLHS năm 1985 có tới bốn lần sửa đổi, bổ sung để khắc phục những hạn chế
những quy định của pháp luật trong việc bảo vệ quyền con người nói chung và
bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội nói riêng nhưng vẫn chưa đáp ứng
yêu cầu thực tiễn của xã hội. Do đó, Nhà nước đã chú ý đến việc xây dựng cụ
thể, chặt chẽ và đầy đủ hơn, đã sửa đổi, bổ sung và ban hành một số đạo luật
30
mới trong đó có BLHS năm 1999 nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh và phòng,
chống tội phạm trong tình hình mới.
1.4. Những quy định cơ bản của pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền
con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên phạm tội
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” đó là sự khẳng định và thừa nhận
trẻ em được coi là tương lai của đất nước, một đất nước có phồn thịnh được hay
không là nhờ vào thế hệ ấy. Trẻ em là độ tuổi ăn chưa no, lo chưa tới nên rất
cần sự cưu mang, đùm bọc, che chở, dạy dỗ của người lớn để hình thành nên
những nhân cách tốt đẹp, có ích cho xã hội. Nhưng phải đến đầu thế kỷ thứ XX
thuật ngữ pháp lý này mới được đề cập sau những biến cố thế giới, nhất là cuộc
chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) đã khiến rất nhiều trẻ em Châu Âu
rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không nơi nương tự, đói khát, bệnh tật...,
từ đó đã thúc đẩy việc thành lập các tổ chức cứu trợ trẻ em đầu tiên trên thế giới
ở Anh và Thụy Điển vào năm 1919, trong đó kêu gọi thừa nhận và bảo vệ các
quyền của trẻ em. Trên cơ sở đó đến năm 1924 bản Tuyên ngôn Giơnevơ về
quyền trẻ em đã được Hội Quốc liên thông qua, đã đánh dấu một bước ngoặt
trong nhận thức và hành động về việc bảo vệ trẻ em trên thế giới [21, tr.23, 24].
Sự ra đời khái niệm Quyền trẻ em đã mở rộng cơ sở trong việc bảo vệ
trẻ em từ khía cạnh đạo đức, xã hội sang khía cạnh pháp lý. Trong đó Luật nhân
quyền quốc tế xác định trẻ em là một trong nhóm xã hội dễ bị tổn thương nhất
và luôn được cộng đồng quốc tế quan tâm bảo vệ. Những quyền đặc thù, đặc
biệt về chăm sóc, giáo dục và bảo vệ đối với trẻ em đã được ghi nhận ngay tại
UDHR, ICCPR, ICESCR, UNICEF và một văn kiện pháp lý riêng biệt về
quyền trẻ em đã được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 20 tháng 11
năm 1989 và đó được gọi là Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em
(CRC) có thể nói đây là văn kiện quốc tế toàn diện nhất về quyền trẻ em. Hay
những quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về áp dụng pháp luật đối
với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh); Hướng dẫn của LHQ về phòng
31
ngừa phạm pháp ở NCTN (Hướng dẫn Riat); Quy tắc của LHQ về bảo vệ
NCTN bị tước tự do (Quy tắc 1991) [23, tr.200-226].
Trên cơ sở những văn kiện pháp lý quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em, từ đó
đến nay một hoạt động mà các nước trên toàn cầu đang nỗ lực thực hiện là tìm
mọi cách bảo đảm quyền con người của NCTN phạm tội tuân thủ theo đúng
luật quốc tế về quyền con người bằng hệ thống tư pháp đối với NCTN phạm tội.
Các nước trên thế giới đã và đang đưa những nguyên tắc quốc tế vào các luật và
chính sách quốc gia để tăng cường bảo vệ các quyền của NCTN nói chung và
bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội nói riêng. Điều 1 CRC xác định rõ
"Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với
trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn" [29]. Trong một số văn bản, khái
niệm trẻ em được gọi là NCTN hoặc thanh thiếu niên. Tuy nhiên, trong quan hệ
với pháp luật và thực thi pháp luật, trẻ em thường được gọi là NCTN.
- Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về việc áp dụng pháp luật đối với
NCTN (Quy tắc Bắc Kinh), được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 29 tháng
11 năm 1985 nêu rõ "Người chưa thành niên là trẻ em hay người ít tuổi tuỳ theo
từng hệ thống pháp luật có thể bị xét xử vì phạm pháp theo một phương thức
khác với việc xét xử người lớn" [27, số 2.2 mục a].
- Quy tắc tối thiểu phổ biến của LHQ về bảo vệ người chưa thành niên bị
tước quyền tự do thông qua ngày 14 tháng 12 năm 1990 nêu cụ thể "Người
chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải
được pháp luật xác định và không được tước quyền tự do của người chưa thành
niên" [27, số 2.1 mục a].
Như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng. Quyền con người của NCTN phạm
tội, trước hết cũng được hưởng các quyền cơ bản của con người nói chung và
đặc biệt họ còn được hưởng những quyền trong hoạt động tư pháp, những quy
định của pháp luật đảm bảo cho họ tự bảo vệ mình khỏi bị xâm hại bởi các chủ
thể tiến hành tố tụng như quyền không bị tra tấn, quyền được tôn trọng danh dự
32
nhân phẩm, tính mạng, quyền không bị tước tự do, quyền được bảo chữa và đặc
biệt là quyền được xét xử công bằng. Đây là một trong những mảng rất quan
trọng của luật pháp quốc tế về quyền con người và còn được gọi là quyền con
người trong hoạt động tố tụng. Quy tắc Bắc Kinh chỉ ra những mục đích của
việc áp dụng pháp luật với NCTN và đảm bảo rằng bất cứ sự xử lý nào đối với
NCTN phạm tội phải luôn xem xét tới điều kiện hoàn cảnh của NCTN và mức
độ của tội phạm. Trong quy tắc này, bao gồm những quy định cụ thể điều chỉnh
nhiều giai đoạn khác nhau của việc áp dụng tư pháp với NCTN.
Các quy định này nhấn mạnh rằng việc đưa các em vào cơ sở quản lý,
giáo dục tập trung chỉ được coi là biện pháp cuối cùng, chỉ nên áp dụng trong
một thời gian tối thiểu, cần thiết. Liên quan đến thủ tục xét xử quy tắc này cho
rằng “Một trẻ em bị quy là phạm tội được hưởng quyền xử lý đúng theo luật
định và quyền được hưởng sự đối xử đặc biệt, kể cả sự cần thiết phải tiến hành
tố tụng trong một bầu không khí hiểu biết" [27, tr.52]. Tầm quan trọng về sự có
mặt của cha mẹ, tôn trọng những điều riêng tư của các em trong tố tụng; Yêu
cầu phải có những người được đào tạo chuyên sâu tham gia tố tụng để giải
quyết vụ án. Sự tôn trọng các quyền của NCTN cũng là một bộ phận khăng khít
của công tác quản lý, giáo dục NCTN phạm tội. Các quy định đặc biệt nhấn
mạnh sự liên hệ giữa NCTN với gia đình, tôn trọng nhân phẩm của các em và
quyền NCTN được đối xử công bằng.
Dựa trên những quy định của luật pháp quốc tế về NCTN, các quốc gia
trên thế giới đã xây dựng các quy định về NCTN nói chung và NCTN phạm tội
nói riêng, các chế tài xử lý NCTN phạm tội phù hợp với điều kiện kinh tế, văn
hoá - xã hội, phong tục, tập quán, pháp luật của mỗi nước. Các tiêu chuẩn nêu
ra là rất linh hoạt, nếu được áp dụng một cách thiện chí theo cách thức phù hợp
nhất với hoàn cảnh kinh tế, xã hội, văn hoá của từng quốc gia. Chúng sẽ là một
công cụ hữu hiệu giúp cải thiện cuộc sống, tránh việc đẩy các em tới chỗ vi
phạm pháp luật và chống lại xã hội.
33
1.5. Pháp luật hình sự một số nƣớc về bảo vệ quyền con ngƣời của
ngƣời chƣa thành niên phạm tội
* Tại Nga: Điều 20 Bộ luật Hình sự liên bang quy định tuổi chịu trách
nhiệm hình sự đó là: 1. Người đủ 16 tuổi vào thời điểm phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự; 2. Người đủ 14 tuổi vào thời điểm phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự về các tội: giết người (Đ.105); cố ý gây thương tích nặng làm
suy yếu sức khỏe (Đ.111); cố ý gây thương tích nặng vừa (Đ.112); bắt cóc
(Đ.126) hiếp dâm (Đ.131); hành động cưỡng bức tình dục (Đ.132); trộm cắp
(Đ.158); cướp (Đ.161); cướp bóc (Đ.162); tham gia tổ chức tội phạm (Đ.163);
chiếm giữ trái phép xe hơi hoặc phương tiện giao thông khác không có mục
đích chiếm đoạt (Đ.166); cố ý huỷ hoại hoặc làm hư hỏng tài sản trong các
trường hợp tăng nặng (khoản 2, Đ.167); khủng bố (Đ.205); bắt giữ con tin
(Đ.206); cố ý cung cấp thông tin giả tạo về hành vi khủng bố (Đ.207); côn đồ
có nhiều tình tiết tăng nặng (khoản 2 và 3, Đ.213); phá hoại các công trình văn
hóa (Đ.214); chiếm đoạt hoặc sở hữu vũ khí, đạn dược, vật liệu nổ và thiết bị
gây nổ (Đ.226); chiếm đoạt hoặc cưỡng đoạt các chất ma tuý hoặc các tiền chất
(Đ.229); làm hư hỏng phương tiện vận tải hoặc đường dây thông tin (Đ.267); 3.
Nếu người chưa thành niên đã đủ tuổi quy định tại các khoản 1 và 2 điều này,
nhưng do tâm lý chậm phát triển không phải là rối loạn tâm thần mà không thể
nhận thức đầy đủ tính chất thực tế và tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của
mình hoặc không thể hoàn toàn điều khiển được hành vi nguy hiểm cho xã hội,
thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Pháp luật hình sự Liên bang Nga cũng quy định các loại hình phạt áp
dụng đối với NCTN tại Điều 88 gồm "Phạt tiền; Tước quyền tham gia vào một
số hoạt động nhất định; Lao động bắt buộc; Lao động cải tạo; Phạt giam; Tù
có thời hạn", và hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với NCTN phạm tội
không quá 10 năm [9, tr.40-46].
* Tại Thái Lan: Trẻ em từ 7 đến 14 tuổi nếu phạm tội cũng bị xét xử và
34
có thể chịu hình phạt tù theo quy định tại Điều 72 BLHS Thái Lan, nhưng Toà
án sẽ quyết định biện pháp xử lý đặc biệt bằng cách đưa vào một trường cải tạo
hoặc gửi trẻ em đó cho một người hay một cơ quan nào mà Toà án thấy có khả
năng thích hợp với việc cải tạo, giáo dục trẻ em đó (Điều 74 BLHS Thái Lan).
NCTN từ 14 đến 17 tuổi có thể bị phạt và được hưởng hình phạt đặc biệt. Đối
với nhóm tội phạm trên pháp luật hình sự Thái Lan quy định trước khi xét xử,
tuyên án Toà án phải xem xét kỹ hoàn cảnh, nhân thân và môi trường của người
đó (Điều 75 BLHS Thái Lan). Hội đồng xét xử NCTN phạm tội gồm 2 thẩm
phán chuyên nghiệp, 2 hội thẩm nhân dân và bắt buộc phải có 1 là nữ. Phiên toà
xét xử NCTN phải được xử kín, trong đó phải có mặt người bào chữa, cha mẹ
hoặc người giám hộ. Thủ tục tố tụng của Toà án NCTN cũng đòi hỏi phải có
cán bộ chuyên sâu hơn như các nhà tâm lý, y tế, giám sát, công tác xã hội. Mục
đích tố tụng với NCTN là tạo cho họ một cơ hội để sửa chữa, thay đổi hành vi
và mong muốn sau cùng là giúp họ trở thành những công dân tốt cho xã hội chứ
không nhằm vào mục đích xử phạt các em như xử phạt người lớn.
Ngoài những quy định hình phạt trong LHS ở Thái Lan về bảo vệ quyền
con người của NCTN phạm tội, thì Nhà nước Thái Lan đã thành lập Toà án
NCTN Trung ương vào ngày 28 tháng 01 năm 1952. Với mục đích dành cho trẻ
em và những NCTN dưới 18 tuổi một biện pháp xử lý đặc biệt khi họ vi phạm
pháp luật hình sự [52].
* Tại Nhật Bản: Có Luật NCTN với mục đích là không trừng phạt những
NCTN phạm tội mà "Giúp đỡ cho họ phát triển tốt, tiến hành những biện pháp
bảo vệ để thay đổi tính cách của NCTN phạm tội và tạo ra một môi trường giáo
dục để điều chỉnh NCTN đã chót mắc phải sai lầm". Luật NCTN của Nhật Bản
cho phép NCTN khi bị đưa ra xét xử tại Toà án gia đình được có một hoặc hai
người đại diện. Người đại diện không nhất thiết phải là luật sư bào chữa như
trong phiên toà xét xử người đã thành niên, mà có thể là giáo viên hoặc người
làm công tác xã hội...; Luật không quy định chi tiết các bước tiếp theo cần tiến
35
hành như thế nào mà chỉ đưa ra chung chung rằng Toà án gia đình phải tiến
hành xét xử trên cơ sở "Chân tình, có lợi cho NCTN, mọi cố gắng để bảo vệ cho
được những thuộc tính cao đẹp nhất của NCTN và để cho NCTN có niềm tin". Việc
xét xử cần tiến hành công khai, công tố viên không có quyền tham gia xét xử tại các
Toà án gia đình. Tuy nhiên, thẩm phán có thể cho phép công tố viên tham dự và khi
cần thiết có thể yêu cầu công tố viên tiến hành điều tra thêm [52].
* Tại Trung Quốc: Bộ luật Hình sự năm 1979 của Trung Quốc quy định
“không áp dụng hình phạt tử hình đối với những người chưa đủ 18 tuổi vào
thời điểm thực hiện hành vi phạm tội” [Đ.44]. Tuy nhiên, người từ đủ 16 tuổi
nhưng chưa đủ 18 tuổi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng vẫn có thể bị kết án tử
hình và bản án tử hình sẽ được (treo) trong thời hạn hai năm. Đây là quy định
khá độc đáo giúp tội phạm có cơ hội sống. Theo đó, nếu phạm nhân thực sự hối
hận về hành vi phạm tội của mình thì khi hết hai năm, án tử hình sẽ được giảm
xuống thành tù chung thân. Nếu phạm nhân vừa thực sự hối hận, vừa lập được
thành tích đáng ca ngợi, hình phạt sẽ được giảm xuống tù có thời hạn với mức
tối thiểu là 15 năm và tối đa là 20 năm, tính từ sau khi hết thời hạn hai năm.
Tuy nhiên, điều luật này không còn ý nghĩa đối với NCTN phạm tội bởi
lẽ Điều 49 Bộ luật Hình sự sửa đổi của Trung Quốc đã cấm áp dụng hình phạt
tử hình đối với người chưa đủ 18 tuổi vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội.
Sửa đổi này phù hợp với yêu cầu quốc tế, bởi nước này đã phê chuẩn Công ước
Quốc tế về quyền trẻ em vào ngày 31 tháng 01 năm 1992 và Quy tắc tối thiểu
phổ biến của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật đối với NCTN (Quy tắc
Bắc Kinh) [52].
* Tại Hà Lan: Luật hình sự của Hà Lan quy định, khi NCTN phạm tội,
người ta cân nhắc và áp dụng các chế tài thay thế và chỉ được phép tiến hành
theo thủ tục tố tụng hình sự khi không còn cơ hội nào để có thể áp dụng chế tài
thay thế. Các chế tài thay thế áp dụng đối với NCTN không chỉ thay thế hình
phạt tù mà còn thay thế cả những hình phạt truyền thống đang tồn tại như hình
36
phạt tiền hay án treo. Có hai loại chế tài thay thế khác nhau được áp dụng với
NCTN, đó là các dự án công tác (dịch vụ của cộng đồng đối với NCTN) và các
dự án đào tạo.
Mục tiêu chung của các chế tài thay thế là tăng cường hệ thống giáo dục
và hệ thống quản lý xét xử NCTN giúp cho các em hạn chế tái phạm. Bởi lẽ,
việc bỏ tù hay tống giam không đem lại sự thay đổi hành vi của các em theo
hướng tốt nếu không muốn nói là có tác động ngược lại do sự tách biệt tạm thời
môi trường tốt của gia đình, nhà trường và xã hội. Mặt khác, chế tài thay thế
còn góp một phần tích cực vào hệ thống giáo dục cải tạo đối với NCTN bởi
những nguyên tắc cụ thể đã được chú trọng trong quá trình giáo dục cải tạo của
từng đối tượng vi phạm. Các chế tài thay thế có thể áp dụng thay thế cho tất cả
các loại tội phạm do NCTN gây ra [52].
* Tại Hoa Kỳ: Năm 1988, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ bãi bỏ án tử hình đối
với người dưới 16 tuổi phạm tội. Tính đến năm 2000, có 38 bang ở Hoa Kỳ áp
dụng hình phạt tử hình, trong đó có 23 bang cho phép tử hình người dưới 18
tuổi phạm tội. Về sau, còn 19 bang áp dụng hình phạt tử hình dành cho người
dưới 18 tuổi. Khoản 5 Điều 6 Công ước Quốc tế về quyền dân sự và chính trị
(có hiệu lực năm 1976) quy định "không được phép tuyên án tử hình với người
phạm tội dưới 18 tuổi". Hoa Kỳ đã ký công ước này nhưng lại bảo lưu điều
khoản trên. Nhiều quốc gia đã lên tiếng phản đối, yêu cầu Hoa Kỳ rút bảo lưu
nhưng nước này vẫn từ chối. Tháng 3 năm 2005, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ mới
quyết định sửa luật theo hướng cấm tử hình người thực hiện hành vi phạm tội
khi chưa đủ 18 tuổi [51].
Như vậy, có thể thấy rằng, ở mỗi quốc gia, tuỳ thuộc vào sự phát triển
kinh tế - xã hội, lịch sử lập pháp, truyền thống và các yếu tố về tâm sinh lý của
con người, cũng như về tình hình phạm tội và yêu cầu đấu tranh phòng, chống
tội phạm ở NCTN mà có những quy định về độ tuổi, mức chịu TNHS, thủ tục,
cách thức xử lý hành vi phạm tội đối với NCTN phạm tội khác nhau. Song
37
không thể phủ nhận một điều, đó là mục đích xem xét, xử lý hành vi phạm tội
của NCTN nhằm tạo điều kiện tốt nhất để các em sửa chữa sai lầm, phấn đấu
trở thành người có ích cho xã hội. Pháp luật của các nước đều hướng tới việc
bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội từ mọi góc độ.
38
Chƣơng 2
CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM
1999 VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI CHƢA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Các quy định về hình phạt trong Bộ luật Hình sự năm 1999 áp
dụng đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội
Trước những đòi hỏi cấp bách trong công cuộc đấu tranh phòng, chống
tội phạm trong tình hình mới, nhất là việc quy định của pháp luật hình sự nhằm
bảo đảm quyền con người nói chung và đảm bảo quyền con người của NCTN
phạm tội nói riêng sao cho phù hợp với tình hình trong nước cũng như quốc tế
khi BLHS năm 1985 đã không còn phù hợp. Trên cơ sở các luận điểm văn bản
của Đảng, Nhà nước và Chính phủ về tư tưởng chỉ đạo cơ bản có tính chất định
hướng cho việc sửa đổi BLHS năm 1985 như Tờ trình của Chính phủ về dự án
BLHS sửa đổi trước Quốc hội khóa X kỳ họp thứ năm từ ngày 04 tháng 5 đến
11 tháng 6 năm 1999 đã phân tích rõ:
Một là: BLHS năm 1999 phải đảm bảo được sự thể chế hóa đường lối đổi
mới của Đảng về chính sách hình sự nói chung trên tất cả các lĩnh vực sinh hoạt
của xã hội và của Nhà nước (Về kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh, quốc
phòng, đối ngoại...);
Hai là: BLHS năm 1999 phải dựa trên các căn cứ xác thực của việc tổng
kết thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, và thực tiễn áp dụng
PLHS hiện hành (BLHS năm 1985) nói riêng, nhất là thực tiễn xét xử;
Ba là: BLHS năm 1999 phải thể hiện rõ sự kết hợp hai yếu tố tính dân
tộc và tính hiện đại;
Bốn là: BLHS năm 1999 phải thể hiện rõ tinh thần chủ động đấu tranh
chống và ngăn ngừa tội phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, các
cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội, những người có chức vụ và toàn thể
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY

More Related Content

What's hot

Luận án: Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp l...
Luận án: Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp l...Luận án: Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp l...
Luận án: Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp l...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

What's hot (16)

Quyền con người của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự
Quyền con người của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sựQuyền con người của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự
Quyền con người của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự
 
Luận văn: Giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi theo luật
Luận văn: Giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi theo luậtLuận văn: Giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi theo luật
Luận văn: Giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi theo luật
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luậtHình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
 
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khácTội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
 
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAYĐề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
 
Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
Luận văn: Tội giao cấu đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
 
Luận văn: Bảo đảm pháp lý tố tụng hình sự về quyền con người
Luận văn: Bảo đảm pháp lý tố tụng hình sự về quyền con ngườiLuận văn: Bảo đảm pháp lý tố tụng hình sự về quyền con người
Luận văn: Bảo đảm pháp lý tố tụng hình sự về quyền con người
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt NamLuận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam
 
Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTBiện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận án: Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp l...
Luận án: Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp l...Luận án: Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp l...
Luận án: Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp l...
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
 

Similar to Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY

Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfBảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại thành phố Hồ ...
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại thành phố Hồ ...Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại thành phố Hồ ...
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại thành phố Hồ ...anh hieu
 

Similar to Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY (20)

Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfBảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
 
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAYBÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ Người chưa thành niên phạm tội, HAY
 
Quyền con người của người chưa thành niên trong điều tra, HOT
Quyền con người của người chưa thành niên trong điều tra, HOTQuyền con người của người chưa thành niên trong điều tra, HOT
Quyền con người của người chưa thành niên trong điều tra, HOT
 
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Hình Phạt Tù Có Thời Hạn Đối Với Người C...
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Hình Phạt Tù Có Thời Hạn Đối Với Người C...Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Hình Phạt Tù Có Thời Hạn Đối Với Người C...
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Hình Phạt Tù Có Thời Hạn Đối Với Người C...
 
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Hình Phạt Tù Có Thời Hạn Đối Với Người C...
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Hình Phạt Tù Có Thời Hạn Đối Với Người C...Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Hình Phạt Tù Có Thời Hạn Đối Với Người C...
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thạc Sĩ Hình Phạt Tù Có Thời Hạn Đối Với Người C...
 
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAYQuyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAY
 
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTQuyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dânLuận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
 
Luận án: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAY
Luận án: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAYLuận án: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAY
Luận án: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAY
 
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAY
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAYLuận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAY
Luận văn: Tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, HAY
 
Luận văn Luật: Biện pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn Luật: Biện pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn Luật: Biện pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn Luật: Biện pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tại Vĩnh PhúcLuận văn: Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tại Vĩnh Phúc
 
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Quyền của người bị kết án phạt tù ở Việt Nam, HAY - Gửi miễn phí qua...
 
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...
 
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sựLuận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
Luận án: Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự
 
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại thành phố Hồ ...
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại thành phố Hồ ...Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại thành phố Hồ ...
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại thành phố Hồ ...
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
 
Luận Văn Thạc Sĩ Hình Phạt Tù Có Thời Hạn Đối Với Người Chưa Thành Niên Ph...
Luận Văn Thạc Sĩ Hình Phạt Tù Có Thời Hạn Đối Với Người Chưa Thành Niên Ph...Luận Văn Thạc Sĩ Hình Phạt Tù Có Thời Hạn Đối Với Người Chưa Thành Niên Ph...
Luận Văn Thạc Sĩ Hình Phạt Tù Có Thời Hạn Đối Với Người Chưa Thành Niên Ph...
 
Luận văn thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự, HAY
Luận văn thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự, HAYLuận văn thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự, HAY
Luận văn thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự, HAY
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (19)

Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 

Quyền con người của người chưa thành niên phạm tội, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI VĂN SƠN BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI BẰNG CHẾ ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2016
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI VĂN SƠN BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI BẰNG CHẾ ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG) Chuyên nghành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Trịnh Quốc Toản Hà Nội - 2016
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Bùi Văn Sơn
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI BẰNG CHẾ ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm ngƣời chƣa thành niên và ngƣời chƣa thành niên phạm tội 9 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên 9 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên phạm tội 12 1.2. Sự cần thiết bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên phạm tội bằng chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam 17 1.3. Khái quát lịch sử Luật hình sự Việt Nam quy định hình phạt đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội 25 1.3.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 25 1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 27 1.4. Những quy định cơ bản của pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên phạm tội 30
  • 5. 1.5. Pháp luật hình sự một số nƣớc về bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên phạm tội 33 Chƣơng 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 38 2.1. Các quy định về hình phạt trong Bộ luật Hình sự năm 1999 áp dụng đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội 38 2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang về bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên phạm tội 45 2.3. Một số tồn tại, hạn chế, vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng hình phạt về bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên phạm tội và nguyên nhân của nó 59 Chƣơng 3: NHU CẦU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG 66 3.1. Nhu cầu hoàn thiện các quy định về hình phạt trong Bộ luật Hình sự năm 1999 để bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên phạm tội 66 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định về hình phạt trong Bộ luật Hình sự năm 1999 về bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên phạm tội 71 3.3. Chế định hình phạt trong Bộ luật Hình sự năm 2015 dƣới góc độ bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên phạm
  • 6. tội và một số kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng 77 3.3.1 Chế định hình phạt trong Bộ luật Hình sự năm 2015 dưới góc độ bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên phạm tội 77 3.3.2. Một số kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng 80 KẾT LUẬN CHUNG 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
  • 7. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật Hình sự CRC Công ước về quyền trẻ em EU Khối liên minh châu âu HP Hiến pháp HĐXX Hội đồng xét xử LHS Luật hình sự NCTN Người chưa thành niên ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị ICESCR Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội LHQ Liên hợp quốc, Liên hiệp quốc PLHS Pháp luật hình sự Quy tắc Bắc Kinh Những quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên TAND Tòa án nhân dân TTHS Tố tụng hình sự TNHS Trách nhiệm hình sự UDHR Tuyên ngôn thế giới về quyền con người UNICEF Quỹ nhi đồng liên hiệp quốc UNFPA Quỹ dân số thế giới VPPL Vi phạm pháp luật VKSND Viện kiểm sát nhân dân WHO Tổ chức y tế thế giới
  • 8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng: 1.1 Quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một số quốc gia trên thế giới 14 Bảng: 2.1 Thống kê tỷ lệ tội phạn là NCTN so với tổng số tội phạm khác bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 48 Bảng: 2.2 Thống kê tội danh của NCTN phạm tội bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử (từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi) giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 49 Bảng: 2.3 Thống kê tội danh của NCTN phạm tội bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử (từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi) giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 49 Bảng: 2.4 Thống kê thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 50
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tuyên ngôn thế giới về quyền con người đã được Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc (LHQ) thông qua và tuyên bố tại Nghị quyết số 217A (III) ngày 10 tháng 12 năm 1948, trong đó có yếu tố cốt yếu là các quyền con người phải được bảo vệ bằng Nhà nước pháp quyền. Đó là chuẩn mực chung cho tất cả các dân tộc và các quốc gia hướng tới và thúc đẩy sự tôn trọng đối với những quyền và sự tự do cơ bản của con người. Bên cạnh đó LHQ thông qua mở cho các nước ký phê chuẩn và gia nhập Công ước về quyền trẻ em. Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới và nước Châu Á đầu tiên đã ký vào ngày 26 tháng 01 năm 1990 và phê chuẩn ngày 20 tháng 02 năm 1990. Lịch sử Nhà nước Việt Nam đã ghi nhận quyền con người ngay khi giành được độc lập năm 1945, đó là việc hiến định vấn đề quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 1946, sau đó tiếp tục khẳng định, mở rộng trong các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và mới đây nhất là Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục kế thừa và phát triển các thiết chế bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Ghi nhận một cách trang trọng, khẳng định rõ ràng Nhà nước Việt Nam đảm bảo các quyền con người, quyền công dân ngay tại Chương II đó là “Quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân”, trong đó cụ thể tại Điều 14 quy định "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật…" [35, tr.26]. Đó là nền tảng để Nhà nước ta cụ thể hóa hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền con người, quyền công dân bằng các thiết chế Tư pháp phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền, đặc biệt là hệ thống pháp luật hình sự. Pháp luật hình sự Việt Nam quy định chế định hình phạt để áp dụng đối với người chưa thành niên (NCTN) phạm tội là biện pháp cưỡng chế nghiêm
  • 10. 2 khắc nhất của Nhà nước, buộc đối tượng này phải chịu trách nhiệm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ gây ra, đồng thời những quy định đó cũng là hành lang, cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền con người đối với NCTN phạm tội một cách tốt nhất. Hay nói cách khác chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam để bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội là một chế định đặc biệt. Tính chất đặc biệt ở chỗ chế định hình phạt được quy định nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm tội có các tình tiết tương đương. Sở dĩ NCTN được hưởng chính sách giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của Nhà nước khi có hành vi phạm tội vì họ có đặc điểm về nhân thân, họ chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lý, chưa thể nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện. Nhận thức của họ còn thiếu chín chắn dễ bị kích động, bị lôi kéo nếu ở môi trường xấu và không được chăm sóc giáo dục chu đáo dẫn đến vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, so với người đã thành niên ý thức phạm tội của NCTN nói chung chưa sâu sắc, họ dễ tiếp thu sự giáo dục của xã hội, nhà trường và gia đình để từ bỏ con đường phạm tội. Luật nhân quyền quốc tế và hệ thống pháp luật Việt Nam coi đây là một trong những nhóm dễ bị tổn thương và cần có chính sách pháp luật đặc biệt để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của họ [21]. Chính vì thế quy định chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam áp dụng đối với NCTN phạm tội phải nhẹ hơn so với người đã thành niên nhằm bảo vệ quyền con người đối với NCTN phạm tội một cách tốt nhất. Nhằm hạn chế tối đa những hành vi xâm phạm đến các quyền con người của NCTN phạm tội, trong các giai đoạn lịch sử pháp luật hình sự nước ta đã có rất nhiều quy định chặt chẽ về nguyên tắc cũng như trình tự, thủ tục tố tụng. Đặc biệt là giai đoạn xét xử và áp dụng hình phạt của Tòa án nhân dân đối với NCTN phạm tội phải đảm bảo tôn chỉ, mục đích đó là “Chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội”. Tuy nhiên, trên thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân (TAND) áp
  • 11. 3 dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội cũng còn bộc lộ nhiều điểm bất cập, chưa tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc cơ bản như “Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội chỉ được thực hiện trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội…”. Ngoài ra khi phạm tội nhóm đối tượng này cũng rất khó có khả năng và điều kiện để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình đã được pháp luật hình sự Việt Nam quy định. Đồng thời họ cũng rất dễ bị cơ quan tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng vô tình hoặc cố ý xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Những xâm phạm này có thể gây ra những hậu quả khó lường, khó có thể khắc phục bởi nó liên quan trực tiếp đến tương lai của NCTN. Việc các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khi xử lý hành vi vi phạm pháp luật đối với NCTN phạm tội có vì mục đích chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội hay không; Có phù hợp với tình hình thực tế, với những hành vi nguy hiểm mà họ đã gây ra hay không; Họ có được hưởng đầy đủ các chính sách giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của Nhà nước quy định hay không...; Đó chính là vấn đề cần phải được quan tâm nghiên cứu nhằm bảo đảm các quy định pháp luật hình sự, các chế định hình phạt đối với NCTN thật sự phù hợp, để họ có cơ hội được sửa chữa, khắc phục những sai lầm và được phát triển hài hòa, toàn diện. Do vậy, việc nghiên cứu các chế định hình phạt trong Luật hình sự và đánh giá qua thực tiễn xét xử của TAND là một điều hết sức cần thiết nhằm bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội một cách tốt nhất. Trong đề tài này, tác giả đi sâu nghiên cứu Bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội bằng chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam. Phân tích, khái quát lịch sử hình thành và phát triển của chế định hình phạt đối với NCTN phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử đối với NCTN phạm tội ở địa bàn tỉnh Hà Giang, trong giai đoạn 5 năm trở lại đây (2011 - 2015). Trên cơ sở đó kiến nghị việc hoàn thiện pháp luật hình sự đối với NCTN,
  • 12. 4 tìm giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng về mặt thực tiễn nhằm góp phần bảo vệ quyền con người của người của NCTN phạm tội. Đây cũng là lý do để học viên quyết định lựa chọn đề tài: Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên phạm tội bằng chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam (qua thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang) làm Luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Bảo đảm quyền con người của NCTN nói chung, bảo đảm quyền con người của NCTN phạm tội và việc áp dụng hình phạt trong xét xử án hình sự, đã được nhiều nhà khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn nghiên cứu. Có nhiều công trình khoa học được công bố, có một số luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, một số giáo trình giảng dạy, bài viết trên các tạp chí dưới các góc độ và mức độ khác nhau, cụ thể như: * Dưới góc độ luận án tiễn sĩ, luận văn thạc sĩ luật học: Có các công trình “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”của tác giả Trần Hưng Bình, Luận án tiến sỹ luật học năm 2013, Học viện khoa học xã hội - Viện hàm lâm khoa học xã hội Việt Nam; “Hình phạt tù có thời hạn, áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền, Luận văn thạc sỹ luật học năm 2012, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; "Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong Tư pháp hình sự Việt Nam" của tác giả Nguyễn Thị Thanh, Luận văn thạc sỹ luật học năm 2008, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội... * Dưới góc độ đề tài khoa học, bài viết trên báo, tạp chí: Có nhiều tài liệu đề cập đến như: Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội 2009; Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm nghiên cứu quyền con người - quyền công dân và Trung tâm nghiên cứu tội phạm học và tư pháp hình sự, Nxb Đại Học Quốc Gia
  • 13. 5 Hà Nội, Hà Nội 2011; Việt Nam và các văn kiện quốc tế về quyền trẻ em, Nxb Chính Trị Quốc Gia - Ủy Ban bảo vệ và chăm sóc Trẻ em Việt Nam, Hà Nội 1997; Số chuyên đề Bảo đảm quyền con người và quyền công dân bằng các thiết chế Tư pháp, Bộ Tư pháp, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội 2014; Đồng tác giả Lê Cảm và Đỗ Thị Phượng "Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên, những khía cạnh pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh luật học" các số 20, 21, 22, năm 2004; “Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội - Nhìm từ phương diện tội phạm học và trách nhiệm xã hội" của ThS. Lê Minh Thắng, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 12 năm 2011; “Hiến pháp năm 2013 với chế định bảo đảm quyền con người về Tư pháp hình sự" của TS. Phạm Văn Hùng, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16 tháng 8 năm 2014; “Hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội" của ThS. Lương Ngọc Trâm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 19 tháng 10 năm 2014 ... Như vậy, các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề về quyền con người của NCTN trong các chính sách hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, về phương diện nghiên cứu chuyên sâu về quyền con người của NCTN phạm tội bằng chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử của TAND trên một địa bàn cụ thể thì vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức. Vì lý do đó, đề tài nghiên cứu dựa trên thực tiễn xét xử của TAND tỉnh Hà Giang, giai đoạn 05 năm (2011 - 2015) để từ đó đưa ra các kiến nghị giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội, nhằm bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội là việc làm cần thiết có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của Luận văn đó là làm sáng tỏ về mặt lý luận, những vấn đề pháp lý của hệ thống pháp luật Việt Nam có liên quan đến chế định hình phạt
  • 14. 6 trong Luật hình sự Việt Nam đối với NCTN phạm tội, và các văn kiện Luật nhân quyền quốc tế về lĩnh vực này. Đồng thời xem xét thực tiễn áp dụng những quy định nêu trên tại địa bàn tỉnh Hà Giang. Trên cơ sở đó đưa ra những nhận xét, đánh giá, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng vào việc bảo vệ quyền của NCTN phạm tội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn đi sâu vào việc giải quyết các vấn đề làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm về NCTN và NCTN phạm tội; Phân tích, so sánh, nhận xét, đánh giá các quy định đối với NCTN phạm tội theo quy định của Luật nhân quyền quốc tế và pháp luật Việt Nam về tính phù hợp, hợp lý và tương thích. Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật đối với việc bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội. Trách nhiệm bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội, phân biệt bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội trong các giai đoạn tố tụng khác. Trên cơ sở đó Luận văn chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn để đề xuất một số kiến nghị, các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự và việc áp dụng nhằm bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về nhà nước và pháp luật. Nhất là quan điểm của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Ngoài ra Luận văn cũng kế thừa có chọn lọc những vấn đề lý luận và thực tiễn đã được các nhà nghiên cứu đi trước đưa ra, những tài liệu, công trình đã được công bố trên các
  • 15. 7 tài liệu, bài viết, tạp trí của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy luận lôgic, phương pháp hệ thống, thống kê xã hội học...; Các phương pháp nghiên cứu được kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để rút ra kết luận khoa học của mình đối với vấn đề nghiên cứu. 5. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của Luận văn đúng như tên gọi của đề tài: Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên phạm tội bằng chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam (qua thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang). Đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm 02 vấn đề chính: - Các vấn đề chung về quyền con người của NCTN phạm tội bằng chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam. - Các vấn đề thực tiễn áp dụng các chế định hình phạt đối với NCTN phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. (Qua thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang) giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015. 6. Kết quả nghiên cứu Thứ nhất: Thông qua việc nghiên cứu các quy định của Luật nhân quyền quốc tế và quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. Luận văn làm sáng tỏ những vấn đề chung cơ bản của chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam đối với việc bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội. Nhận xét, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật đối với việc bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội tại tỉnh Hà Giang. Thứ hai: Thông qua việc đánh giá thực trạng, tổng hợp kết quả nghiên cứu. Luận văn đưa ra đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội, các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với đối với NCTN phạm tội trên thực tế.
  • 16. 8 Luận văn có thể dùng làm tài liệu thảm khảo trong quá trình nghiên cứu xây dựng sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện các chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam đối với NCTN phạm tội. Ngoài ra có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập..., qua đó góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm do NCTN thực hiện, cũng như việc bảo vệ tốt nhất quyền con người của NCTN phạm tội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn bao gồm 3 chương như sau: Chương 1: Một số vấn đề chung về bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên phạm tội bằng chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Các quy định về hình phạt trong Bộ luật Hình sự năm 1999 với việc bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên phạm tội và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Nhu cầu và một số giải pháp kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên phạm tội và nâng cao hiệu quả áp dụng.
  • 17. 9 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI BẰNG CHẾ ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, đặc điểm ngƣời chƣa thành niên và ngƣời chƣa thành niên phạm tội 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên Mỗi con người từ khi sinh ra đến khi trưởng thành đều có quá trình phát triển và được chia thành nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, trong đó có một giai đoạn đặc biệt để có bước phát triển nhảy vọt cả về thể chất và tâm hồn, đó là thời kỳ được gọi là ngƣời chƣa thành niên. Khi nói đến NCTN chúng ta thường hiểu rằng đó là người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách (thể chất và tinh thần), chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Đó là thời kỳ gắn liền với những thay đổi về tâm sinh lý mà bất kỳ người đã thành niên nào cũng phải trải qua. Đây là thời kỳ chuyển tiếp mà NCTN không hẳn là trẻ em, nhưng cũng không phải là người đã thành niên. Thuật ngữ NCTN thường được dùng phổ biến ở tất cả các nước trên thế giới cũng như ở các ngành khoa học khác nhau, nhưng khi nói đến khái niệm về NCTN thì đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Ngay cả trong văn bản pháp luật thực định cũng có những tên gọi khác nhau như “Người chưa thành niên; trẻ vị thành niên hoặc trẻ em”. Trên phương diện luật pháp quốc tế khái niệm NCTN được đề cập tại các văn kiện pháp lý quan trọng và nó trở thành giá trị chuẩn mực chung cho tất cả các dân tộc, các quốc gia muốn hướng tới nhằm thúc đẩy sự tôn trọng để bảo vệ quyền con người của NCTN. Cụ thể các văn kiện quốc tế như: Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em (CRC) tại Điều 1 quy định "Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi,
  • 18. 10 trừ trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn" [29, tr.26]. Như vậy, theo CRC trẻ em được xác định là người dưới 18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn. Còn theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) lứa tuổi 10 - 19 tuổi là độ tuổi vị thành niên; thanh niên trẻ là lứa tuổi 19 - 24 tuổi. Chương trình Sức khỏe sinh sản/Sức khỏe tình dục vị thành niên - thanh niên của khối Liên minh Châu Âu (EU) và Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA) lấy độ tuổi 15 - 24 tuổi. Bên cạnh đó Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về việc áp dụng pháp luật đối với NCTN (Quy tắc Bắc Kinh) cũng nêu rõ "Người chưa thành niên là trẻ em hay người ít tuổi tuỳ theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xét xử vì phạm pháp theo một phương thức khác với việc xét xử người lớn" [27, số 2.2, mục a]. Quy tắc Bắc Kinh chỉ quy định các tiêu chuẩn tối thiểu và nó hoàn toàn tôn trọng tính riêng của mỗi quốc gia khi quy định giới hạn độ tuổi của NCTN phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của quốc gia đó. Tuy nhiên, trên thực tế các văn kiện pháp lý quốc tế đều thống nhất định nghĩa khái niệm NCTN là người dưới 18 tuổi. Bởi lẽ đây là giai đoạn trẻ em phát triển lên người lớn, và đặc điểm chính của NCTN trong giai đoạn này là chưa phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần, tâm sinh lý và nhân cách; Chưa đủ khả năng để sử dụng quyền và gánh vác nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên. Do vậy, pháp luật ở mỗi quốc gia quy định riêng độ tuổi cụ thể của NCTN phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội để có hệ thống pháp luật phù hợp. Ở Việt Nam, định nghĩa, khái niệm NCTN theo Từ điển Tiếng Việt – Viện ngôn ngữ học viết "Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân" [49, tr.55]. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, tùy theo từng lĩnh vực điều chỉnh của từng ngành luật mà nhà làm luật đưa ra khái niệm NCTN cũng khác nhau
  • 19. 11 cụ thể như: + Điều 18 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định "Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên, người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên" [31]; + Điều 119 Bộ luật Lao động năm 2002 quy định "Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi" [33]; + Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định "Trẻ em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi" [30]; + Điều 12 BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định "Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm; Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng" [32]; Điều 68 BLHS quy định "Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu TNHS theo những quy định của chương này..." [32]. Từ những phân tích trên có thể thấy rất nhiều quy định khác nhau về việc xác định cụ thể thời điểm bắt đầu, kết thúc của thời kỳ NCTN, vì mỗi góc độ tiếp cận khác nhau thì quan niệm về NCTN theo đó cũng khác nhau. Nhưng tựu chung quan niệm của các ngành luật đều đồng nhất ý kiến NCTN là người chưa trưởng thành về thể chất và trí tuệ. Đặc điểm đặc trưng về lứa tuổi là sự phát triển chưa đầy đủ, các em đang trong quá trình hình thành, phát triển tâm sinh lý, nhận thức còn non nớt, hạn chế, kinh nghiệm sống ít ỏi, hành động thường bồng bột, xốc nổi, nhẹ dạ, thiếu kinh nghiệm, dễ va vấp bởi môi trường sống xung quanh tác động. Nhưng nói về khái niệm NCTN thì chúng ta có thể dựa theo quy định tại Điều 18 BLDS và Điều 119 BLLĐ là hai Bộ luật chung, phổ biến để thống nhất về quan điểm đưa ra định nghĩa, khái niệm "Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi". Khái niệm này hoàn toàn phù hợp với CRC.
  • 20. 12 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên phạm tội Khái niệm NCTN phạm tội không những mang tính pháp lý mà còn có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc. Khái niệm này phụ thuộc vào sự tồn tại của mỗi xã hội và sự phát triển về thể chất, tinh thần của con người sống trong xã hội đó, nó phản ánh thông qua ý chí của giai cấp thống trị. Trong các văn bản Quốc tế và các chương trình của LHQ về vấn đề trẻ em sử dụng đồng thời cả hai khái niệm trẻ em và người chưa thành niên. Hệ thống pháp luật ở tất cả các quốc gia trên thế giới khi quy định NCTN phạm tội đều chú ý tới độ tuổi của họ, và nỗ lực tìm mọi cách bảo đảm hệ thống pháp luật liên quan đến NCTN phạm tội tuân thủ theo đúng luật quốc tế về quyền con người. Bên cạnh đó Công ước còn có tính ràng buộc, tập hợp các quy tắc, hướng dẫn đã được cộng đồng quốc tế thông qua để quy định chi tiết việc áp dụng pháp luật với NCTN. Đây là những nguyên tắc và tiêu chuẩn mà nhiều quốc gia thành viên đã đồng ý và nêu rõ trong các tuyên ngôn, nguyên tắc, quy tắc và các hướng dẫn chuẩn. Mặc dù những văn bản này không có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý với các quốc gia thành viên, nhưng chúng được xây dựng từ pháp luật quốc tế và được đông đảo các nước trên thế giới đồng tình ủng hộ. Do vậy, các văn bản chủ yếu mang tính khuyến nghị, định hướng đối với các quốc gia thành viên, góp phần thực hiện Công ước quốc tế về quyền trẻ em [23, tr.424-429]. - Tại Nga, Bộ luật Hình sự liên bang quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự ở Điều 20 đó là "Người đủ 16 tuổi vào thời điểm phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự; Người đủ 14 tuổi vào thời điểm phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội tại các điều 105; 111; 112; 126; 131; 132; 158; 161; 162; 163; 166; 167; 205; 206; 207; 213; 214; 226; 229; 267 [9, tr.40]. - Tại Pháp, Điều 122.8 Bộ luật Hình sự quy định "Những người chưa thành niên nhận thức được hành vi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm nghiêm trọng, các tội ít nghiêm trọng hoặc các tội phạm nhỏ…”; LHS
  • 21. 13 Pháp cũng quy định các biện pháp giáo dục có thể được tuyên đối với những NCTN từ 10 đến 18 tuổi, quy định hình phạt đối với NCTN từ 13 đến 18 tuổi, có tính đến độ tuổi khi cân nhắc giảm hình phạt [9, tr.47]. - Tại Mỹ, có 13 tiểu bang đã thiết lập độ tuổi tối thiểu khoảng từ 6 đến 12 tuổi, và hầu hết các bang đều dựa vào pháp luật chung của nhà nước. - Pháp luật của các nước Bắc Âu lại quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự là 15, thanh thiếu niên dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu được áp dụng hệ thống tư pháp là các dịch vụ xã hội, còn việc giam giữ là phương án cuối cùng. - Tại Nhật Bản có hệ thống Tòa án gia đình để xét xử đối với người phạm tội dưới 20 tuổi, chứ không được xét xử chung trong hệ thống tòa án hình sự. - Tại Trung Quốc lại quy định trẻ em từ 14 đến 18 tuổi được xử lý bằng hệ thống tư pháp vị thành niên. - Còn ở Việt Nam, Điều 12 BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định "1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm; 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng" [32]. Theo quy định của Luật hình sự (LHS) Việt Nam thì NCTN phải chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi; Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, một người chưa đủ 14 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội dù cố ý hay vô ý và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, hoặc từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng do vô ý đều không phải chịu TNHS. Quy định NCTN phạm tội trong LHS là cụ thể hóa TNHS về các nguyên tắc bình đẳng trong LHS, nhưng đồng thời nó cũng là cơ sở để bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội qua việc Tòa án xét xử và quyết định hình phạt đối với họ.
  • 22. 14 Bảng 1.1: Quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một số quốc gia trên thế giới Hoa kỳ 7 Ấn Độ 7 Bangladesh 7 Pakistan 7 Nam Phi 7 Vương quốc Anh (Scotland) 8 Indonesia 8 Ethiopia 9 Iram 9 Vương quốc Anh (Anh) 10 Vương quốc Anh (xứ Wales) 10 Ukraine 10 Hàn Quốc 12 Uganda 12 Pháp 13 Ba Lan 13 Liên bang Nga 14 Đức 14 Ý 14 Trung Quốc 14 Nhật Bản 14 Ai cập 15 Argentina 16 Brazil 18 Colmbia 18 Peru 18 (Nguồn: TAND Tối cao) Nhìm vào Bảng biểu quy định độ tuổi chịu TNHS của mỗi quốc gia có thể nói hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia tùy thuộc vào từng điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ nhất định; sự đánh giá về trình độ phát triển và nhận thức xã hội để có thể quy định độ tuổi chịu TNHS đối với NCTN phạm tội nhằm đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả trên thực tiễn của mỗi quốc gia đó. Một hoạt động mà các quốc gia trên toàn cầu đang nỗ lực thực hiện là
  • 23. 15 tìm mọi cách bảo đảm hệ thống pháp luật liên quan đến NCTN phạm tội tuân thủ theo đúng Luật quốc tế về quyền con người. Kể từ năm 1989 các nước trên thế giới đã và đang đưa những nguyên tắc quốc tế vào các luật và chính sách quốc gia, đã có nhiều văn bản quốc tế về quyền con người đối với trẻ em và NCTN ra đời. Trong các văn bản quốc tế và các chương trình của LHQ về trẻ em luôn sử dụng đồng thời cả hai khái niệm trẻ em và NCTN, việc tăng cường bảo vệ các quyền của trẻ em nói chung, NCTN phạm tội nói riêng là một khía cạnh quan trọng trong hoạt động của các cơ quan và chương trình của LHQ. Đối với pháp luật hình sự Việt Nam quy định độ tuổi chịu TNHS đầy đủ là từ đủ 16 tuổi trở lên, còn độ tuổi chịu TNHS hạn chế là độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và được quy định cụ thể trong Điều 12 BLHS. Chúng ta có thể hiểu về mặt lý luận BLHS quy định người chưa đủ mười 14 tuổi sẽ không phải chịu TNHS về bất kể hành vi nguy hiểm nào mà họ đã gây ra cho xã hội. Vì người chưa đủ 14 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, trí tuệ, chưa nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội mà mình đã gây ra. Họ chưa đủ khả năng để tự chủ hành động của mình, nên họ không bị coi là có lỗi về hành vi nguy hiểm của mình gây ra, tức là họ không hội tụ đầy đủ yếu tố cấu thành tội phạm do BLHS quy định, do vậy họ không phải chịu TNHS (loại trừ trách nhiệm hình sự). Đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Bởi đây được coi là độ tuổi chưa có năng lực TNHS đầy đủ, đó là lứa tuổi đang phát triển về tâm sinh lý và nhân cách, còn non nớt về nhận thức và tinh thần, nên dễ bị ảnh hưởng của môi trường sống. Hành vi của NCTN thường bồng bột, thiếu suy nghĩ, thậm chí không cần suy nghĩ về hậu quả của hành vi mình thực hiện. Do đó, họ cũng phải chịu TNHS về một số tội phạm “Rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng” chứ họ không phải chịu TNHS đối với tất cả các loại tội phạm mà họ gây ra. Tuy Điều 12 BLHS quy định (1. Người đủ từ 16 tuổi trở lên phải chịu
  • 24. 16 trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng) [32], song BLHS cũng có một chương riêng quy định đối với NCTN phạm tội (Chương X từ Điều 68 đến Điều 77). Trong đó tại Điều 68 quy định nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội đó là “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái quy định của Chương này” [32]. Quy định trên là sự thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với NCTN phạm tội, thể hiện chính sách bảo vệ quyền con người đối với NCTN phạm tội. Khái niệm NCTN phạm tội (hay vi phạm pháp luật hình sự) là người dưới 18 tuổi đã thực hiện, hoặc bị tố cáo là đã thực hiện một hành vi vi phạm pháp luật. Khái niệm này bao gồm cả những NCTN bị áp dụng các biện pháp hành chính và hình sự. Trong các văn bản pháp luật quốc tế, đôi khi những đối tượng này còn được gọi là “Trẻ em làm trái pháp luật”. Xét về khía cạch quy định trong Luật hình sự Việt Nam thì chúng ta có thể hiểu khái niệm NCTN phạm tội bao gồm “Những người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong LHS là tội phạm” [16, tr.458]. Như vậy, Bộ luật hình sự chưa đưa ra khái niệm cụ thể về NCTN phạm tội, mà chỉ đưa ra các quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với NCTN phạm tội và các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng dựa trên một số đặc điểm sau để xác định NCTN phạm tội đó là: - Có hành vi phạm tội do NCTN thực hiện. - Người thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu TNHS tương ứng với loại tội phạm và lỗi gây ra tội phạm. - Người đó thực tế phải chịu TNHS sau khi các cơ quan có thẩm quyền cân nhắc tính cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà không thể áp dụng các biện pháp tư pháp khác để quản lý, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
  • 25. 17 Trong lĩnh vực nghiên cứu về NCTN phạm tội, đồng tác giả Lê Cảm và Đỗ Thị Phượng có cuốn “Tội phạm hình sự đối với người chưa thành niên - những khía cạch pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh luật học”, tại Phần I - Những khía cạnh pháp lý hình sự đã đưa ra khái niệm về NCTN phạm tội như sau "Người chưa thành niên phạm tội là người đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do hạn chế bởi đặc điểm tâm - sinh lý và có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm" [19, tr.18]. Có thể nói, đây là một khái niệm hoàn chỉnh nhất về NCTN phạm tội cho đến thời điểm hiện nay được các nhà khoa học nghiên cứu. 1.2. Sự cần thiết bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên phạm tội bằng chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam Về nhận thức chung thì quyền con người được hiểu là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người (nhân quyền). Mỗi định nghĩa về quyền con người là một sự biểu hiện khác nhau ở góc độ nhìn nhận về vấn đề nhân quyền sao cho phù hợp với sự nhìn nhận của người đó. Ở cấp độ quốc tế, khái niệm quyền con người lần đầu tiên được tổ chức Liên Hợp Quốc chính thức thừa nhận vào năm 1948 với sự kiện ra đời của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người. Trong đó, quyền con người được Văn phòng Cao ủy LHQ khẳng định “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [24, tr.48]. Như vậy, quyền con người dù được nhìn nhận dưới góc độ nào đều được hiểu là những quyền tự nhiên cơ bản của con người, không thể bị tước đoạt, chiếm giữ bởi bất cứ ai và bất cứ thế lực nào. Ở Việt Nam, đã có một số cơ quan và các chuyên gia nghiên cứu từng đưa những định nghĩa khác nhau về quyền con người. Nhưng xét chung có một định nghĩa về quyền con người đang được sử dụng phổ biến trong giảng dạy,
  • 26. 18 nghiên cứu về nhân quyền ở nước ta hiện nay đó là Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người của Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, trong đó khái niệm quyền con người được đưa ra "Là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế" [23, tr.38]. Như vậy, có thể hiểu quyền con người vừa là "chuẩn mực tuyệt đối" mang tính phổ biến, vừa là "sản phẩm tổng hợp của một quá trình lịch sử lâu dài luôn luôn tiến hóa và phát triển". Quyền con người là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Những chuẩn mực này là kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại và chỉ áp dụng đối với con người và cho tất cả mọi người. Thông qua những chuẩn mực đó, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực cá nhân với tư cách là một con người. Khẳng định quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử [23, tr.38]. Mỗi cá nhân con người là một chủ thể cơ bản của quyền con người. Tuy nhiên trong một số trường hợp chủ thể của quyền con người còn là các nhóm như nhóm dân tộc thiểu số, chủng tộc, tôn giáo...; Nói như vậy, trẻ em nói chung và NCTN nói riêng đều là những chủ thể của quyền con người, nhưng vị thế của các em trong việc tự bảo vệ và thụ hưởng các quyền này như thế nào lại là vấn đề được cộng đồng quốc tế quan tâm đặc biệt. Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc bảo vệ quyền con người nói chung và bảo vệ quyền con người đối với trẻ em nói riêng, điều đó đã được khẳng định tại bản HP đầu tiên năm 1946 của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã ghi nhận các quyền thiêng liêng của con người. Tiếp đó là HP năm 1959, 1980, 1992 không chỉ thừa nhận và bảo đảm đầy đủ các quyền con người, quyền công dân phù hợp với luật pháp quốc tế mà còn khẳng định rõ “Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, có trách nhiệm bảo đảm và không
  • 27. 19 ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân”. Đặc biệt quyền con người đã được HP năm 2013 khẳng định cụ thể, rõ ràng và trân trọng hơn tại chương II đó là "Quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân", đây là một khẳng định cụ thể, rõ ràng về quan điểm, đường lối chính trị của Việt Nam nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân một cách tốt nhất. Quay lại lịch sử, một sự kiện có ý nghĩa nhất thế kỷ 20 diễn ra vào ngày 10 tháng 12 năm 1948. Đại hội đồng LHQ đã chính thức thông qua bản Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người. Đó là tiền đề, cơ sở cho một loạt các hiệp ước quốc tế khác mang tính toàn cầu và khu vực. UDHR thôi thúc mọi người trên toàn thế giới khẳng định các quyền của bản thân, ngoài việc thừa nhận nhân phẩm và giá trị của những người khác, thì nguyên lý xuyên suốt toàn bộ UDHR được nêu trong Điều 1 đó là "Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và các quyền..." [24]. Những mệnh đề mở đầu của các văn kiện pháp lý quốc tế UDHR, ICCPR, ICESR thường bắt đầu bằng câu "Mọi người có quyền..., hay bất cứ người nào đều có quyền...”; đó là sự thừa nhận một cách chắc chắn các chủ thể của quyền con người đều bình đẳng các quyền và tự do đã được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người. Lời mở đầu của Hiến chương Liên Hợp Quốc đã khẳng định "Chúng ta, các thành viên của Liên Hợp Quốc khẳng định quyết tâm...; Thực sự tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người...". Các văn kiện quốc tế về quyền con người đều xác định “Trẻ em là đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt và được hưởng những quyền con người đặc thù”. Bởi đó là lứa tuổi đang phát triển về tâm sinh lý và nhân cách, còn non nớt về nhận thức và tinh thần, nên dễ bị ảnh hưởng của môi trường sống. UDHR nêu rõ "... Các bà mẹ và trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt. Mọi trẻ em dù sinh ra trong hay ngoài giá thú, đều phải được sự bảo trợ xã hội như nhau" [23, Điều 25]. Nhu cầu chăm sóc đặc biệt đối với trẻ em được nói rõ trong tuyên bố Giơnevơ về quyền trẻ em năm 1924 đó là
  • 28. 20 "Trẻ em cần được bảo vệ đặc biệt, chăm sóc do dễ bị tổn thương và cũng khẳng định lại việc cần bảo vệ về mặt pháp lý và các mặt khác đối với trẻ em trước và sau khi ra đời, đến tầm quan trọng của việc tôn trọng các giá trị văn hóa của cộng đồng của trẻ em và vai trò thiết yếu của hợp tác quốc tế trong việc bảo đảm quyền trẻ em". ICESCR có quy định "Cần áp dụng những biện pháp bảo vệ và trợ giúp đặc biệt đối với mọi trẻ em và thanh thiếu niên mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vì các lý do xuất thân hoặc các điều kiện khác..." [25, Điều 10]. ICCPR nhấn mạnh "Mọi trẻ em không phân biệt chủng tộc, mầu da, giới tính ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản hoặc dòng dõi đều có quyền được hưởng những biện pháp bảo hộ của gia đình, xã hội..." [26, Điều 24]. Trong văn kiện quốc tế quan trọng nhất về quyền trẻ em (CRC). Không chỉ nêu ra định nghĩa trẻ em mà còn nêu các nguyên tắc cơ bản trong việc bảo vệ quyền con người của nhóm đối tượng này. CRC khẳng định trẻ em là chủ thể của quyền chứ quyền trẻ em không phải xuất phát từ ban phát hay thương hại của lòng từ thiện thuần túy. Trẻ em là nhóm dễ bị tổn thương nhất trong nhóm dễ bị tổn thương, có những nhu cầu đặc biệt do vậy có quyền được hưởng sự chăm sóc, đối xử và bảo vệ đặc biệt. Có thể nói CRC đã bao quát được hầu hết các khía cạnh của quyền trẻ em và xác định rõ nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong việc đảm bảo quyền của trẻ em và mối quan hệ giữa quyền con người và quyền trẻ em. Với những mục đính và phương châm là dành những gì có lợi ích tốt nhất cho trẻ em [29, tr.23-63]. CRC ghi nhận do trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời, và trẻ em có các quyền tối thiểu đó là: - Quyền không phân biệt đối xử. - Quyền được sống và phát triển. - Quyền được có họ tên khi ra đời.
  • 29. 21 - Quyền lợi ích tốt nhất. - Quyền được sống với cha mẹ. - Quyền được chăm sóc sức khỏe. - Quyền được học tập. - Quyền được tự do ngôn luận. - Quyền tự do kết giao. - Quyền được bảo vệ riêng tư. - Quyền được thông tin phù hợp với lứa tuổi. - Quyền được chăm sóc đặc biệt. - Quyền được bảo vệ và chống lại sự ngược đãi. - Quyền được vui chơi, giải trí các hoạt động văn hóa. - Quyền được bảo vệ và chống lại sự lạm dụng và bóc lột tình dục. - Quyền được bảo vệ và chống lại sử dụng ma túy. - Quyền được bảo vệ ngăn ngừa buôn bán và bắt cóc. - Quyền được bảo vệ chống lại sự tra tấn, đối xử tàn bạo. - Quyền được trợ giúp pháp lý, hưởng đặc thù các biện pháp tư pháp... Những Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) được thông qua ngày 29 tháng 11 năm 1985 quy định:  Các quốc gia thành viên phải tìm cách tăng cường hạnh phúc của NCTN và gia đình trên cơ sở phù hợp với lợi ích chung của từng quốc gia.  Các quốc gia thành viên phải cố gắng phát triển những điều kiện đảm bảo cho NCTN có một cuộc sống ý nghĩa trong cộng đồng. Những điều kiện này sẽ thúc đẩy quá trình phát triển và giáo dục cá nhân càng tránh xa tội phạm càng tốt trong quãng đời mà NCTN dễ có những hành vi sai lệch.  Phải quan tâm đầy đủ đến các biện pháp tích cực huy động tất cả
  • 30. 22 các nguồn có thể, bao gồm gia đình, những người tình nguyện và các nhóm cộng đồng khác cũng như trường học và các tổ chức khác trong cộng đồng với mục đích tăng cường hạnh phúc cho NCTN nhằm giảm sự can thiệp của pháp luật và xử lý NCTN vi phạm một cách có hiệu quả, công bằng và nhân đạo.  Pháp luật áp dụng đối với NCTN phải được coi là một phần hợp thành của quá trình phát triển quốc gia ở mỗi nước, trong khuân khổ toàn diện của công bằng xã hội đối với tất cả thanh thiếu niên, vì vậy đồng thời góp vào việc bảo vệ lớp trẻ và duy trì trật tự hòa bình trong xã hội.  Những Quy tắc này phải được thực hiện trong bối cảnh những điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa hiện hành ở mỗi quốc gia thành viên.  Các cơ quan quản lý pháp luật với NCTN phải được phát triển và điều hành một cách có hệ thống để nâng cao và duy trì năng lực của những người tham gia làm các công việc này, kể cả những phương pháp, cách giải quyết và thái độ của họ [27, tr.104]. Những khái quát của Quy tắc Bắc Kinh nêu trên liên quan tới chính sách xã hội toàn diện nói chung và nhằm hướng tới tăng phúc lợi đối với NCTN, những quy định này hướng đến các cơ quan pháp luật nhằm giảm tới mức tối thiểu nhu cầu xử lý đối với NCTN để giảm tác hại có thể có do bất cứ sự xử lý nào gây ra. Những biện pháp chăm nom NCTN trước khi phạm pháp và những điều tiên quyết cơ bản về chính sách đề ra nhằm phòng tránh việc có nhu cầu vận dụng Quy tắc này. Quy định việc áp dụng pháp luật đối với NCTN là bộ phận hợp thành của pháp luật xã hội nói chung về sự cần thiết phải cải tiến thường xuyên việc áp dụng pháp luật đối với NCTN vi phạm pháp luật. Ở Việt Nam, NCTN được quy định là người dưới 18 tuổi, còn trẻ em là người dưới 16 tuổi. Tuy khái niệm về NCTN và trẻ em chưa được đồng nhất,
  • 31. 23 nhưng tất cả chúng ta đều hiểu trẻ em là NCTN, nên các quyền trẻ em cũng chính là quyền của NCTN. Còn trong phạm vi CRC thì bất kể người nào dưới 18 tuổi đều được coi là trẻ em mà Việt Nam lại là một trong các thành viên của CRC. Do vậy, tất cả NCTN nói chung và NCTN phạm tội nói riêng ở Việt Nam đều phải được hưởng các quyền và lợi ích pháp lý đã được nêu trong CRC mà Việt Nam đã tham gia ký kết và tôn trọng thực hiện. Đặc biệt Quy tắc Bắc Kinh đã khẳng định và nhấn mạnh tại điểm 1.4 những nguyên tắc chung đó là “Pháp luật áp dụng đối với NCTN phải được coi là một phần hợp thành của quá trình phát triển quốc gia ở mỗi nước, trong khuân khổ toàn diện của công bằng xã hội đối với tất cả thanh thiếu niên, vì vậy đồng thời góp vào việc bảo vệ lớp trẻ và duy trì trật tự hòa bình trong xã hội” [27]. Điều đó có nghĩa mỗi quốc gia trong quá trình phát triển của mình luôn phải quan tâm, coi trọng đến hệ thống pháp luật áp dụng đối với tất cả thanh thiếu niên và coi đó là một phần hợp thành của quá trình phát triển đất nước, cũng như góp phần bảo vệ lớp trẻ và duy trì trật tự xã hội. Hay tại điểm 1.6 cũng quy định “Các cơ quan quản lý pháp luật với NCTN phải được phát triển và điều hành một cách có hệ thống để nâng cao và duy trì năng lực của những người tham gia làm các công việc này, kể cả những phương pháp, cách giải quyết và thái độ của họ” [27]. Điều này đã khẳng định chắc chắn rằng NCTN phạm tội vì bất lỳ lý do gì, hành vi nguy hiểm cho xã hội đến đâu thì họ vẫn có quyền con người và họ phải được hưởng các chính sách ưu đãi đặc biệt của Nhà nước trong việc áp dụng pháp luật đối với NCTN để góp phần vào bảo vệ lớp trẻ. Những người tham gia các công việc bảo vệ pháp luật phải mang tính chất giáo dục, phòng ngừa ngăn chặn và giúp đỡ NCTN phạm tội để họ sửa chữa những sai lầm chứ không phải mục đích chính là xử lý bằng hình thức pháp luật như đối với người đã thành niên. Vậy khái niệm bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội bằng chế định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam là gì?
  • 32. 24 Dựa trên những phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm đó là “Bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên phạm tội bằng chế định hình phạt trong Luật Hình sự Việt Nam là việc Nhà nước thông qua Bộ luật Hình sự quy định và ghi nhận về mặt pháp lý một cách rõ ràng và đầy đủ các chế định đặc biệt nhằm bảo vệ quyền con người của người chưa thành niên phạm tội một cách tốt nhất. Đảm bảo các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phải nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm tội có các tình tiết tương đương, với mục đích giúp đỡ họ sửa chữa những sai lầm và phát triển lành mạnh trở thành công dân có ích cho xã hội”. Các quy định của pháp luật hình sự hay chế định hình phạt trong LHS luôn có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng trong bất kỳ một nhà nước pháp quyền nào đối với việc bảo vệ các quyền con người nói chung, đặc biệt đối với việc bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội nói riêng. Đó là sự khẳng định, thừa nhận những giá trị xã hội cao quý của con người trong một nền văn minh nhằm tránh khỏi sự xâm hại tùy tiện của một số người có thẩm quyền trong bộ máy công quyền nhà nước khi thực thi nhiệm vụ do vô ý hoặc cố ý lạm dụng chức vụ, quyền hạn để áp dụng, vi phạm các quy định của pháp luật hình sự xâm hại đến quyền con người nói chung, quyền con người của NCTN phạm tội nói riêng. Việc Nhà nước quy định chế định hình phạt trong BLHS để áp dụng đối với NCTN phạm tội là cần thiết trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Vì đây là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong nhóm dễ bị tổn thương, là những đối tượng đang phát triển về tâm sinh lý và nhân cách, còn non nớt về nhận thức và tinh thần, nên dễ bị ảnh hưởng của môi trường sống. Hành vi của NCTN thường bồng bột, thiếu suy nghĩ, thậm chí không cần suy nghĩ về hậu quả của hành vi mình thực hiện, nhưng khi phạm tội họ lại không tự mình bảo vệ các quyền và hưởng đầy đủ các quyền con người đối với NCTN phạm tội, quyền lợi ích của họ dễ bị xâm hại. Do vậy cần thiết phải có quy định chặt chẽ và có cơ
  • 33. 25 chế giám sát để bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội được tốt hơn [16, tr.257-259]. 1.3. Khái quát lịch sử Luật hình sự Việt Nam quy định hình phạt đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội 1.3.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 Cách mạng tháng tám năm 1945 thành công đã đánh dấu một chiến thắng vĩ đại của dân tộc Việt Nam và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Quyền con người, quyền công dân được khẳng định tại chính nội dung Bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại soạn thảo và đọc trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trưởng Ba Đình) ngày 02 tháng 9 năm 1945 “…mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó có quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc…”. Bản tuyên ngôn trên chính là Bác Hồ dựa trên Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền; Tuyên ngôn độc lập của hợp chủng quốc Hoa Kỳ và được tái khảng định trong bản tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của nước Pháp. Còn ở Việt Nam sau bản tuyên ngôn độc lập thể hiện rõ về nhân quyền thì đến năm 1946 quyền con người, quyền công dân đã chính thức được ghi nhận trong văn bản pháp lý cao nhất, đó là việc hiến định quyền con người trong bản HP đầu tiên năm 1946. Đây là cuội nguồn cơ sở cho hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng chuyển sang một bước ngoặt lớn trong quá trình vận động và phát triển hoàn thiện [24]. Từ sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến trước khi BLHS năm 1985 là một giai đoạn khó khăn khi Nhà nước phải thực hiện hai nhiệm vụ lớn là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc, và tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền nam nhằm thống nhất đất nước. Thời kỳ này công tác xây dựng pháp luật của Nhà nước ta nói chung, cũng như quy định về quyền con người
  • 34. 26 của NCTN phạm tội nói riêng bằng các chính sách hình sự còn rất nhiều hạn chế, các quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ quyền con người hay quyền con người của NCTN phạm tội còn rất ít, hầu hết các quy phạm pháp luật về quyền của NCTN phạm tội không được tập hợp một cách có hệ thống mà nằm ở rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau. Giai đoạn này Nhà nước chủ yếu tập trung xây dựng và ban hành các sắc lệnh, quy định để xét xử trừng phạt những tay sai đắc lực cho thực dân Pháp, Nhật, đế quốc Mỹ. Những đối tượng nguy hiểm cho nền dân chủ cộng hòa, những loại việt gian, phản động, phản quốc, những kẻ man trá, đầu cơ bóc lột...; Nhà nước thường ban hành những Sắc lệnh để hướng dẫn điều chỉnh từng lĩnh vực riêng biệt, thậm trí pháp luật về quyền con người của NCTN phạm tội còn thường được đề cập trong các báo cáo tổng kết có tính chất hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn của ngành Tòa án. Pháp luật hình sự Nhà nước ta thời kỳ này cũng chưa được xây dựng thành bộ luật riêng, vì thế mà quyền con người của NCTN phạm tội không có tính đặc thù, tính riêng biệt cho nhóm đối tượng này. Có thể nói pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn này mới bước đầu xử lý tội phạm và người phạm tội có phân hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt, nhưng những quy định trong văn bản pháp luật cũng nêu rõ khái niệm về người vị thành niên. Theo đó được hiểu “Người chưa thành niên là con trai hay con gái chưa đủ 18 tuổi”. Tuy nhiên, nó lại được quy định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật hình sự khác nhau nên việc thực hiện còn chưa được thống nhất và gặp nhiều khó khăn, hạn chế trong quá trình áp dụng vào thực tiễn. Tuy pháp luật hình sự thời kỳ này chủ yếu tập trung quy định để xét xử các hành vi xâm hại đến Nhà nước, nhưng cũng đã chú trọng đề cao việc bảo vệ các quyền cơ bản của con người nói chung. Văn bản pháp luật hình sự đã quy định một cách cụ thể về giới hạn độ tuổi chịu TNHS, quy định về TNHS có tính chất giảm nhẹ và có tính chất giáo dục là chính, đồng thời cũng quy định trách nhiệm của các cơ quan, những người có thẩm quyền trách nhiệm trong việc
  • 35. 27 giáo dục NCTN phạm tội. Ngoài những văn bản chung thì thời điểm này đặc biệt còn có các văn bản của TAND Tối cao hướng dẫn việc đảm bảo thực hiện các quyền của NCTN phạm tội như: Thông tư số 06/TATC ngày 19 tháng 9 năm 1967 của Tòa án nhân dân Tối cao về đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo; Bản rút kinh nghiệm số 607/NKPL ngày 13 tháng 9 năm 1973 của Tòa án nhân dân Tối cao về việc viết bản án sơ thẩm và phúc thẩm; Thông tư số 16/TATC ngày 27 tháng 9 năm 1974 hướng dẫn trình tự, thủ tục sơ thẩm về hình sự…; Do chưa có BLHS và BLTTHS nên các quy định về hoạt động xét xử về NCTN phạm tội nói chung vẫn phải dựa vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Có thể nói pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi BLHS năm 1985 về bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội có đánh dấu một bước phát triển, đã quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với NCTN phạm tội; đã thể hiện việc coi trọng đến việc bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội dưới dạng văn bản quy phạm pháp luật như sắc lệnh, thông tư, bản báo cáo rút kinh nghiệm…; Tuy nhiên, những quy định của văn bản pháp luật trong việc bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội trong giai đoạn này còn thiếu thống nhất, chưa được đồng bộ và chưa có những quy định rõ ràng để bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội. Mỗi văn bản lại quy định một vấn đề riêng biệt do vậy dễ dẫn đến việc áp dụng tùy tiện ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội. 1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 Là thời kỳ Nhà nước Việt Nam đã được thống nhất độc lập. Đảng và Nhà nước đã luôn thể hiện đường lối, chính sách nhất quán quan tâm, chú trọng đến các điều ước quốc tế về quyền con người. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất bằng việc gia nhập và phê chuẩn 7 điều ước quốc tế quan trọng về quyền con
  • 36. 28 người do Liên Hợp Quốc thông qua [23, tr.405]. Đó là sự thể hiện quyết tâm của Nhà nước trong hoạt động pháp lý và thực tiễn về thúc đẩy bảo vệ các quyền con người. Riêng đối với việc bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội thì đây là thời kỳ đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam, đó là việc Quốc hội thông qua và ban hành BLHS năm 1985. Đã được chú trọng và cụ thể hóa ghi nhận trong bộ luật mang tính hệ thống về quyền con người của NCTN phạm tội. BLHS năm 1985 đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc phân biệt tội phạm với các hành vi nguy hiểm cho xã hội khác nhưng không phải là tội phạm. BLHS năm 1985 đã sửa đổi nhiều quy định trước đó về quyền con người của NCTN phạm tội và bổ sung một số quy định mới cụ thể cho đối tượng này đó là: - Quy định cụ thể hơn về độ tuổi chịu TNHS; - Quy định về chính sách hình sự với những nội dung tiến bộ, việc xử lý hành vi của NCTN phạm tội đã chú trọng đến việc chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm để trở thành những công dân có ích cho xã hội; - Quy định cụ thể và giới hạn các loại hình phạt đối với NCTN phạm tội, trường hợp cần thiết mà phải đưa NCTN ra xét xử thì chỉ áp dụng một trong những hình phạt đó là cảnh cáo, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn. Không được xử hình phạt tù chung thân hoặc từ hình đối với NCTN phạm tội dù họ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng đến đâu; - Quy định các biện pháp tư pháp có tính chất giáo dục, phòng ngừa là chính và buộc phải chịu thử thách hoặc đưa vào Trường giáo dưỡng; - Quy định cụ thể về các nguyên tắc khi quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội. BLHS năm 1985 đã quy định rõ về nguyên tắc áp dụng đối với NCTN phạm tội, các loại hình phạt được xắp xếp từ nhẹ đến nặng, các căn cứ quyết định hình phạt, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS, quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của điều luật quy định…; Đây là cơ sở pháp lý nhằm
  • 37. 29 bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội một cách tốt nhất, nó là cơ sở cho Tòa án quyết định được loại và mức độ hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. BLHS năm 1985 cũng quy định mang tính chất đặc thù việc áp dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội để đảm bảo khi xét xử Tòa án tạo điều kiện tốt nhất cho đối tượng này được bảo vệ quyền lợi một cách đầy đủ và tạo điều kiện cho họ được sửa chữa, cải tạo trở thành người có ích cho xã hội. Ngoài việc đảm bảo quyền con người của NCTN phạm tội bằng các quy định trong BLHS năm 1985, thì thời kỳ này Nhà nước ta cũng ban hành BLTTHS năm 1988 nhằm thay thế các văn bản hướng dẫn trước đây quy định về trình tự, thủ tục tố tụng hình sự đối với NCTN phạm tội đó là: - Quyền của NCTN phạm tội được thể hiện trong quy định người tiến hành tố tụng; - Quyền của NCTN phạm tội được thể hiện trong quy định về áp dụng biện pháp ngăn chặn như việc bắt, tạm giữ, tạm giam; - Quyền của NCTN phạm tội được thể hiện trong quy định về bào chữa; - Quyền của NCTN phạm tội được thể hiện trong quy định tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội; - Quyền của NCTN phạm tội được thể hiện trong quy định về xét xử… Mặc dù BLHS năm 1985 ban hành đã cơ bản đáp ứng được tình hình đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội nói riêng. Song quá trình áp dụng vào thực tiễn đã bộc lộ nhiều bất cập, nhất là việc áp dụng vào thực tiễn xét xử của TAND đối với đối tượng này. BLHS năm 1985 có tới bốn lần sửa đổi, bổ sung để khắc phục những hạn chế những quy định của pháp luật trong việc bảo vệ quyền con người nói chung và bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội nói riêng nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn của xã hội. Do đó, Nhà nước đã chú ý đến việc xây dựng cụ thể, chặt chẽ và đầy đủ hơn, đã sửa đổi, bổ sung và ban hành một số đạo luật
  • 38. 30 mới trong đó có BLHS năm 1999 nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh và phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. 1.4. Những quy định cơ bản của pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên phạm tội “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” đó là sự khẳng định và thừa nhận trẻ em được coi là tương lai của đất nước, một đất nước có phồn thịnh được hay không là nhờ vào thế hệ ấy. Trẻ em là độ tuổi ăn chưa no, lo chưa tới nên rất cần sự cưu mang, đùm bọc, che chở, dạy dỗ của người lớn để hình thành nên những nhân cách tốt đẹp, có ích cho xã hội. Nhưng phải đến đầu thế kỷ thứ XX thuật ngữ pháp lý này mới được đề cập sau những biến cố thế giới, nhất là cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) đã khiến rất nhiều trẻ em Châu Âu rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không nơi nương tự, đói khát, bệnh tật..., từ đó đã thúc đẩy việc thành lập các tổ chức cứu trợ trẻ em đầu tiên trên thế giới ở Anh và Thụy Điển vào năm 1919, trong đó kêu gọi thừa nhận và bảo vệ các quyền của trẻ em. Trên cơ sở đó đến năm 1924 bản Tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em đã được Hội Quốc liên thông qua, đã đánh dấu một bước ngoặt trong nhận thức và hành động về việc bảo vệ trẻ em trên thế giới [21, tr.23, 24]. Sự ra đời khái niệm Quyền trẻ em đã mở rộng cơ sở trong việc bảo vệ trẻ em từ khía cạnh đạo đức, xã hội sang khía cạnh pháp lý. Trong đó Luật nhân quyền quốc tế xác định trẻ em là một trong nhóm xã hội dễ bị tổn thương nhất và luôn được cộng đồng quốc tế quan tâm bảo vệ. Những quyền đặc thù, đặc biệt về chăm sóc, giáo dục và bảo vệ đối với trẻ em đã được ghi nhận ngay tại UDHR, ICCPR, ICESCR, UNICEF và một văn kiện pháp lý riêng biệt về quyền trẻ em đã được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1989 và đó được gọi là Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em (CRC) có thể nói đây là văn kiện quốc tế toàn diện nhất về quyền trẻ em. Hay những quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh); Hướng dẫn của LHQ về phòng
  • 39. 31 ngừa phạm pháp ở NCTN (Hướng dẫn Riat); Quy tắc của LHQ về bảo vệ NCTN bị tước tự do (Quy tắc 1991) [23, tr.200-226]. Trên cơ sở những văn kiện pháp lý quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em, từ đó đến nay một hoạt động mà các nước trên toàn cầu đang nỗ lực thực hiện là tìm mọi cách bảo đảm quyền con người của NCTN phạm tội tuân thủ theo đúng luật quốc tế về quyền con người bằng hệ thống tư pháp đối với NCTN phạm tội. Các nước trên thế giới đã và đang đưa những nguyên tắc quốc tế vào các luật và chính sách quốc gia để tăng cường bảo vệ các quyền của NCTN nói chung và bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội nói riêng. Điều 1 CRC xác định rõ "Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn" [29]. Trong một số văn bản, khái niệm trẻ em được gọi là NCTN hoặc thanh thiếu niên. Tuy nhiên, trong quan hệ với pháp luật và thực thi pháp luật, trẻ em thường được gọi là NCTN. - Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về việc áp dụng pháp luật đối với NCTN (Quy tắc Bắc Kinh), được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 29 tháng 11 năm 1985 nêu rõ "Người chưa thành niên là trẻ em hay người ít tuổi tuỳ theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xét xử vì phạm pháp theo một phương thức khác với việc xét xử người lớn" [27, số 2.2 mục a]. - Quy tắc tối thiểu phổ biến của LHQ về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do thông qua ngày 14 tháng 12 năm 1990 nêu cụ thể "Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật xác định và không được tước quyền tự do của người chưa thành niên" [27, số 2.1 mục a]. Như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng. Quyền con người của NCTN phạm tội, trước hết cũng được hưởng các quyền cơ bản của con người nói chung và đặc biệt họ còn được hưởng những quyền trong hoạt động tư pháp, những quy định của pháp luật đảm bảo cho họ tự bảo vệ mình khỏi bị xâm hại bởi các chủ thể tiến hành tố tụng như quyền không bị tra tấn, quyền được tôn trọng danh dự
  • 40. 32 nhân phẩm, tính mạng, quyền không bị tước tự do, quyền được bảo chữa và đặc biệt là quyền được xét xử công bằng. Đây là một trong những mảng rất quan trọng của luật pháp quốc tế về quyền con người và còn được gọi là quyền con người trong hoạt động tố tụng. Quy tắc Bắc Kinh chỉ ra những mục đích của việc áp dụng pháp luật với NCTN và đảm bảo rằng bất cứ sự xử lý nào đối với NCTN phạm tội phải luôn xem xét tới điều kiện hoàn cảnh của NCTN và mức độ của tội phạm. Trong quy tắc này, bao gồm những quy định cụ thể điều chỉnh nhiều giai đoạn khác nhau của việc áp dụng tư pháp với NCTN. Các quy định này nhấn mạnh rằng việc đưa các em vào cơ sở quản lý, giáo dục tập trung chỉ được coi là biện pháp cuối cùng, chỉ nên áp dụng trong một thời gian tối thiểu, cần thiết. Liên quan đến thủ tục xét xử quy tắc này cho rằng “Một trẻ em bị quy là phạm tội được hưởng quyền xử lý đúng theo luật định và quyền được hưởng sự đối xử đặc biệt, kể cả sự cần thiết phải tiến hành tố tụng trong một bầu không khí hiểu biết" [27, tr.52]. Tầm quan trọng về sự có mặt của cha mẹ, tôn trọng những điều riêng tư của các em trong tố tụng; Yêu cầu phải có những người được đào tạo chuyên sâu tham gia tố tụng để giải quyết vụ án. Sự tôn trọng các quyền của NCTN cũng là một bộ phận khăng khít của công tác quản lý, giáo dục NCTN phạm tội. Các quy định đặc biệt nhấn mạnh sự liên hệ giữa NCTN với gia đình, tôn trọng nhân phẩm của các em và quyền NCTN được đối xử công bằng. Dựa trên những quy định của luật pháp quốc tế về NCTN, các quốc gia trên thế giới đã xây dựng các quy định về NCTN nói chung và NCTN phạm tội nói riêng, các chế tài xử lý NCTN phạm tội phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hoá - xã hội, phong tục, tập quán, pháp luật của mỗi nước. Các tiêu chuẩn nêu ra là rất linh hoạt, nếu được áp dụng một cách thiện chí theo cách thức phù hợp nhất với hoàn cảnh kinh tế, xã hội, văn hoá của từng quốc gia. Chúng sẽ là một công cụ hữu hiệu giúp cải thiện cuộc sống, tránh việc đẩy các em tới chỗ vi phạm pháp luật và chống lại xã hội.
  • 41. 33 1.5. Pháp luật hình sự một số nƣớc về bảo vệ quyền con ngƣời của ngƣời chƣa thành niên phạm tội * Tại Nga: Điều 20 Bộ luật Hình sự liên bang quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự đó là: 1. Người đủ 16 tuổi vào thời điểm phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự; 2. Người đủ 14 tuổi vào thời điểm phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội: giết người (Đ.105); cố ý gây thương tích nặng làm suy yếu sức khỏe (Đ.111); cố ý gây thương tích nặng vừa (Đ.112); bắt cóc (Đ.126) hiếp dâm (Đ.131); hành động cưỡng bức tình dục (Đ.132); trộm cắp (Đ.158); cướp (Đ.161); cướp bóc (Đ.162); tham gia tổ chức tội phạm (Đ.163); chiếm giữ trái phép xe hơi hoặc phương tiện giao thông khác không có mục đích chiếm đoạt (Đ.166); cố ý huỷ hoại hoặc làm hư hỏng tài sản trong các trường hợp tăng nặng (khoản 2, Đ.167); khủng bố (Đ.205); bắt giữ con tin (Đ.206); cố ý cung cấp thông tin giả tạo về hành vi khủng bố (Đ.207); côn đồ có nhiều tình tiết tăng nặng (khoản 2 và 3, Đ.213); phá hoại các công trình văn hóa (Đ.214); chiếm đoạt hoặc sở hữu vũ khí, đạn dược, vật liệu nổ và thiết bị gây nổ (Đ.226); chiếm đoạt hoặc cưỡng đoạt các chất ma tuý hoặc các tiền chất (Đ.229); làm hư hỏng phương tiện vận tải hoặc đường dây thông tin (Đ.267); 3. Nếu người chưa thành niên đã đủ tuổi quy định tại các khoản 1 và 2 điều này, nhưng do tâm lý chậm phát triển không phải là rối loạn tâm thần mà không thể nhận thức đầy đủ tính chất thực tế và tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình hoặc không thể hoàn toàn điều khiển được hành vi nguy hiểm cho xã hội, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Pháp luật hình sự Liên bang Nga cũng quy định các loại hình phạt áp dụng đối với NCTN tại Điều 88 gồm "Phạt tiền; Tước quyền tham gia vào một số hoạt động nhất định; Lao động bắt buộc; Lao động cải tạo; Phạt giam; Tù có thời hạn", và hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với NCTN phạm tội không quá 10 năm [9, tr.40-46]. * Tại Thái Lan: Trẻ em từ 7 đến 14 tuổi nếu phạm tội cũng bị xét xử và
  • 42. 34 có thể chịu hình phạt tù theo quy định tại Điều 72 BLHS Thái Lan, nhưng Toà án sẽ quyết định biện pháp xử lý đặc biệt bằng cách đưa vào một trường cải tạo hoặc gửi trẻ em đó cho một người hay một cơ quan nào mà Toà án thấy có khả năng thích hợp với việc cải tạo, giáo dục trẻ em đó (Điều 74 BLHS Thái Lan). NCTN từ 14 đến 17 tuổi có thể bị phạt và được hưởng hình phạt đặc biệt. Đối với nhóm tội phạm trên pháp luật hình sự Thái Lan quy định trước khi xét xử, tuyên án Toà án phải xem xét kỹ hoàn cảnh, nhân thân và môi trường của người đó (Điều 75 BLHS Thái Lan). Hội đồng xét xử NCTN phạm tội gồm 2 thẩm phán chuyên nghiệp, 2 hội thẩm nhân dân và bắt buộc phải có 1 là nữ. Phiên toà xét xử NCTN phải được xử kín, trong đó phải có mặt người bào chữa, cha mẹ hoặc người giám hộ. Thủ tục tố tụng của Toà án NCTN cũng đòi hỏi phải có cán bộ chuyên sâu hơn như các nhà tâm lý, y tế, giám sát, công tác xã hội. Mục đích tố tụng với NCTN là tạo cho họ một cơ hội để sửa chữa, thay đổi hành vi và mong muốn sau cùng là giúp họ trở thành những công dân tốt cho xã hội chứ không nhằm vào mục đích xử phạt các em như xử phạt người lớn. Ngoài những quy định hình phạt trong LHS ở Thái Lan về bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội, thì Nhà nước Thái Lan đã thành lập Toà án NCTN Trung ương vào ngày 28 tháng 01 năm 1952. Với mục đích dành cho trẻ em và những NCTN dưới 18 tuổi một biện pháp xử lý đặc biệt khi họ vi phạm pháp luật hình sự [52]. * Tại Nhật Bản: Có Luật NCTN với mục đích là không trừng phạt những NCTN phạm tội mà "Giúp đỡ cho họ phát triển tốt, tiến hành những biện pháp bảo vệ để thay đổi tính cách của NCTN phạm tội và tạo ra một môi trường giáo dục để điều chỉnh NCTN đã chót mắc phải sai lầm". Luật NCTN của Nhật Bản cho phép NCTN khi bị đưa ra xét xử tại Toà án gia đình được có một hoặc hai người đại diện. Người đại diện không nhất thiết phải là luật sư bào chữa như trong phiên toà xét xử người đã thành niên, mà có thể là giáo viên hoặc người làm công tác xã hội...; Luật không quy định chi tiết các bước tiếp theo cần tiến
  • 43. 35 hành như thế nào mà chỉ đưa ra chung chung rằng Toà án gia đình phải tiến hành xét xử trên cơ sở "Chân tình, có lợi cho NCTN, mọi cố gắng để bảo vệ cho được những thuộc tính cao đẹp nhất của NCTN và để cho NCTN có niềm tin". Việc xét xử cần tiến hành công khai, công tố viên không có quyền tham gia xét xử tại các Toà án gia đình. Tuy nhiên, thẩm phán có thể cho phép công tố viên tham dự và khi cần thiết có thể yêu cầu công tố viên tiến hành điều tra thêm [52]. * Tại Trung Quốc: Bộ luật Hình sự năm 1979 của Trung Quốc quy định “không áp dụng hình phạt tử hình đối với những người chưa đủ 18 tuổi vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội” [Đ.44]. Tuy nhiên, người từ đủ 16 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng vẫn có thể bị kết án tử hình và bản án tử hình sẽ được (treo) trong thời hạn hai năm. Đây là quy định khá độc đáo giúp tội phạm có cơ hội sống. Theo đó, nếu phạm nhân thực sự hối hận về hành vi phạm tội của mình thì khi hết hai năm, án tử hình sẽ được giảm xuống thành tù chung thân. Nếu phạm nhân vừa thực sự hối hận, vừa lập được thành tích đáng ca ngợi, hình phạt sẽ được giảm xuống tù có thời hạn với mức tối thiểu là 15 năm và tối đa là 20 năm, tính từ sau khi hết thời hạn hai năm. Tuy nhiên, điều luật này không còn ý nghĩa đối với NCTN phạm tội bởi lẽ Điều 49 Bộ luật Hình sự sửa đổi của Trung Quốc đã cấm áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa đủ 18 tuổi vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội. Sửa đổi này phù hợp với yêu cầu quốc tế, bởi nước này đã phê chuẩn Công ước Quốc tế về quyền trẻ em vào ngày 31 tháng 01 năm 1992 và Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật đối với NCTN (Quy tắc Bắc Kinh) [52]. * Tại Hà Lan: Luật hình sự của Hà Lan quy định, khi NCTN phạm tội, người ta cân nhắc và áp dụng các chế tài thay thế và chỉ được phép tiến hành theo thủ tục tố tụng hình sự khi không còn cơ hội nào để có thể áp dụng chế tài thay thế. Các chế tài thay thế áp dụng đối với NCTN không chỉ thay thế hình phạt tù mà còn thay thế cả những hình phạt truyền thống đang tồn tại như hình
  • 44. 36 phạt tiền hay án treo. Có hai loại chế tài thay thế khác nhau được áp dụng với NCTN, đó là các dự án công tác (dịch vụ của cộng đồng đối với NCTN) và các dự án đào tạo. Mục tiêu chung của các chế tài thay thế là tăng cường hệ thống giáo dục và hệ thống quản lý xét xử NCTN giúp cho các em hạn chế tái phạm. Bởi lẽ, việc bỏ tù hay tống giam không đem lại sự thay đổi hành vi của các em theo hướng tốt nếu không muốn nói là có tác động ngược lại do sự tách biệt tạm thời môi trường tốt của gia đình, nhà trường và xã hội. Mặt khác, chế tài thay thế còn góp một phần tích cực vào hệ thống giáo dục cải tạo đối với NCTN bởi những nguyên tắc cụ thể đã được chú trọng trong quá trình giáo dục cải tạo của từng đối tượng vi phạm. Các chế tài thay thế có thể áp dụng thay thế cho tất cả các loại tội phạm do NCTN gây ra [52]. * Tại Hoa Kỳ: Năm 1988, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ bãi bỏ án tử hình đối với người dưới 16 tuổi phạm tội. Tính đến năm 2000, có 38 bang ở Hoa Kỳ áp dụng hình phạt tử hình, trong đó có 23 bang cho phép tử hình người dưới 18 tuổi phạm tội. Về sau, còn 19 bang áp dụng hình phạt tử hình dành cho người dưới 18 tuổi. Khoản 5 Điều 6 Công ước Quốc tế về quyền dân sự và chính trị (có hiệu lực năm 1976) quy định "không được phép tuyên án tử hình với người phạm tội dưới 18 tuổi". Hoa Kỳ đã ký công ước này nhưng lại bảo lưu điều khoản trên. Nhiều quốc gia đã lên tiếng phản đối, yêu cầu Hoa Kỳ rút bảo lưu nhưng nước này vẫn từ chối. Tháng 3 năm 2005, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ mới quyết định sửa luật theo hướng cấm tử hình người thực hiện hành vi phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi [51]. Như vậy, có thể thấy rằng, ở mỗi quốc gia, tuỳ thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội, lịch sử lập pháp, truyền thống và các yếu tố về tâm sinh lý của con người, cũng như về tình hình phạm tội và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm ở NCTN mà có những quy định về độ tuổi, mức chịu TNHS, thủ tục, cách thức xử lý hành vi phạm tội đối với NCTN phạm tội khác nhau. Song
  • 45. 37 không thể phủ nhận một điều, đó là mục đích xem xét, xử lý hành vi phạm tội của NCTN nhằm tạo điều kiện tốt nhất để các em sửa chữa sai lầm, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội. Pháp luật của các nước đều hướng tới việc bảo vệ quyền con người của NCTN phạm tội từ mọi góc độ.
  • 46. 38 Chƣơng 2 CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Các quy định về hình phạt trong Bộ luật Hình sự năm 1999 áp dụng đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội Trước những đòi hỏi cấp bách trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, nhất là việc quy định của pháp luật hình sự nhằm bảo đảm quyền con người nói chung và đảm bảo quyền con người của NCTN phạm tội nói riêng sao cho phù hợp với tình hình trong nước cũng như quốc tế khi BLHS năm 1985 đã không còn phù hợp. Trên cơ sở các luận điểm văn bản của Đảng, Nhà nước và Chính phủ về tư tưởng chỉ đạo cơ bản có tính chất định hướng cho việc sửa đổi BLHS năm 1985 như Tờ trình của Chính phủ về dự án BLHS sửa đổi trước Quốc hội khóa X kỳ họp thứ năm từ ngày 04 tháng 5 đến 11 tháng 6 năm 1999 đã phân tích rõ: Một là: BLHS năm 1999 phải đảm bảo được sự thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng về chính sách hình sự nói chung trên tất cả các lĩnh vực sinh hoạt của xã hội và của Nhà nước (Về kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh, quốc phòng, đối ngoại...); Hai là: BLHS năm 1999 phải dựa trên các căn cứ xác thực của việc tổng kết thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, và thực tiễn áp dụng PLHS hiện hành (BLHS năm 1985) nói riêng, nhất là thực tiễn xét xử; Ba là: BLHS năm 1999 phải thể hiện rõ sự kết hợp hai yếu tố tính dân tộc và tính hiện đại; Bốn là: BLHS năm 1999 phải thể hiện rõ tinh thần chủ động đấu tranh chống và ngăn ngừa tội phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội, những người có chức vụ và toàn thể