SlideShare a Scribd company logo
1 of 81
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ HỒNG VÂN
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội, năm 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ HỒNG VÂN
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số : 60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ
Hà Nội, năm 2017
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LẬP PHÁP VỀ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI ............ 6
1.1 Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội..................................................................................................... 6
1.2 Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội..................................................................................31
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN
LONG BIÊN – THÀNH PHỐ HÀ NỘI...........................................................37
2.1. Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về quyết định hình
phạt đối với người chưa thành niên phạm tội....................................................37
2.2 Thực tiễn quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội từ
thực tiễn quận Long Biên – Thành phố Hà Nội..............................................48
Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN LONG BIÊN - THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...............................................61
3.1 Hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự...............................................62
3.2. Các giải pháp khác....................................................................................65
KẾT LUẬN.....................................................................................................69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................72
LỜI CAM ĐOAN
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i.
C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ
trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè
trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Hoàng Thị Hồng Vân
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ Luật hình sự
TAND : Tòa án nhân dân
NCTN : Người chưa thành niên.
HĐXX : Hội đồng xét xử
TNHS : Trách nhiệm hình sự
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1: Kết quả xét xử các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên phạm tội
tính từ tháng 10 năm 2011 đến hết tháng 9 năm 2016 (đơn vị: số bị cáo). ……...50
Bảng 3.2: Thống kê các loại tội đã xét xử có bị cáo là người chưa thành niên tính
từ tháng 10 năm 2011 đến hết tháng 9 năm 2016………………………………. 52
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tuổi trẻ là tương lai của đất nước, là nhân tố quan trọng trong việc phát
triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Tuy nhiên, trong những năm gần đây,
tình hình tội phạm ở nước ta có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp,
đặc biệt là tội phạm do NCTN thực hiện. Số vụ, số đối tượng là NCTN phạm
tội hàng năm có xu hướng tăng lên. Thành phần đối tượng, lĩnh vực phạm tội
ngày càng đa dạng hơn, tính chất hành vi phạm tội và hậu quả gây ra ngày
càng nguy hiểm, nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của NCTN không còn đơn
giản chỉ do bồng bột, thiếu suy nghĩ mà đã có sự tính toán, chuẩn bị kỹ càng
và khá tinh vi, thậm chí đã hình thành các băng nhóm tội phạm có tổ chức.
Hậu quả của vấn đề là vô cùng lớn và gây nên nhiều lo lắng trong xã hội.
Xuất phát từ đặc điểm về tâm lý, giới tính, lứa tuổi của NCTN: Đó là
những người chưa thật sự trưởng thành, chưa phát triển đầy đủ về tâm, sinh
lý; khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ còn nhiều hạn chế. Họ dễ
bị kích động, dụ dỗ vào việc thực hiện tội phạm, nhưng cũng dễ uốn nắn, cải
tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội. Do đó pháp luật hình sự đã có
những quy định riêng đối với người chưa thành niên phạm tội để xử lý phù
hợp đối với đối tượng này.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với việc giải quyết tội phạm
nói chung và tội phạm do người chưa thành niên thực hiện chính là tìm ra mọi
giải pháp nhằm làm giảm bớt những hoạt động phạm pháp, không để những
việc sai trái ấy xảy ra chứ không chỉ đơn thuần là xử một vụ án hay trừng phạt
một tội phạm nào đó. Phải đưa ra những phương pháp nhằm tìm kiếm nguyên
nhân, điều kiện để căn cứ vào đó có những giải pháp thích hợp nhằm giảm bớt
tình trạng người chưa thành niên phạm tội.
2
Có thể khẳng định, đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội
phạm do NCTN thực hiện nói riêng không phải là nhiệm vụ của riêng cá nhân,
cơ quan, tổ chức nào mà là nhiệm vụ chung của Nhà nước và toàn thể xã hội.
Phòng ngừa, ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội phải huy động được lực
lượng đông đảo toàn xã hội tham gia, phải phát động được sức mạnh tổng hợp
của các chủ thể, triệt để khai thác và đẩy mạnh quan hệ phối hợp giữa các cơ
quan bảo vệ pháp luật trong phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội.
Mặc dù đường lối xử lý hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
đã được quy định rõ ràng trong chương X của Bộ luật hình sự 1999 cũng như
trong các bộ luật hình sự trước đây, nhưng việc quyết định hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội trong thực tiễn cho thấy do chưa được nhận thức
một cách khách quan, thấu đáo nên vẫn còn nhiều sai sót. Nhằm đưa ra một cái
nhìn toàn diện, đúng đắn của việc quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác xét xử, đặc
biệt là quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, với lý do đó
học viên xin lựa chọn đề tài “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Long Biên –
Thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay có rất nhiều các công trình khoa học đã nghiên cứu về vấn đề
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, đáng chú ý là:
Luận văn Thạc sỹ của Thạc sỹ Nguyễn Thị Hương về: “Quyết định hình phạt
đối với người chưa thành niên phạm tội”, Luận án Tiến sỹ của Tiến sỹ Hoàng
Minh Đức về: “Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở
Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sỹ của Thạc sỹ Trần Đức Ninh về:
“Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội qua thực tiễn
xét xử tại Tòa án quân sự thủ đô Hà Nội”…
3
Các bài viết, công trình nghiên cứu trên đã phân tích, giải quyết và làm rõ
được một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội trong tố tụng hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, sau khi Bộ
Luật tố tụng hình sự năm 2003 ra đời vẫn chưa có nghiên cứu nào về áp dụng
hình phạt của từng địa phương, đặc biệt là trên địa bàn quận Long Biên – Thành
phố Hà Nội. Do hầu hết các công trình trên đều đề cập và nghiên cứu vấn đề tr-
ước khi Bộ luật ra đời nên việc đánh giá tình hình chưa có cơ sở thực tiễn. Trong
khi đó, vấn đề xét xử án hình sự đối với những vụ án mà có bị cáo là người chưa
thành niên là một trong những vấn đề hết sức quan trọng. Bởi ngoài việc quyết
định hình phạt một cách tương xứng với hành vi phạm tội, đủ sức răn đe và
phòng ngừa tội phạm thì việc quyết định hình phạt còn phải nêu cao tính chất
giáo dục họ sửa chữa lỗi lầm, phát triển nhận thức lành mạnh và tạo điều kiện để
người chưa thành niên sớm hòa nhập được xã hội sau khi thi hành hình phạt.
Do đó, việc nghiên cứu vấn đề quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội trên địa bàn này là hết sức có ý nghĩa, đáp ứng tốt
yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm và công cuộc cải cách tư pháp của
quận Long Biên nói riêng và Thành phố Hà Nội nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn và đánh giá thực trạng của việc
quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn quận
Long Biên Làm để làm rõ những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội, thực trạng quy định pháp luật cũng như thực
tiễn hoạt động tố tụng, làm sáng tỏ những hạn chế và đưa ra giải pháp, kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả của việc quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội,
vừa đủ tính răn đe, vừa thể hiện sự nhân đạo của pháp luật hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4
Thứ nhất, xây dựng các khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa để làm rõ những
lý luận về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội.
Thứ hai, phân tích các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành và so
sánh với Bộ luật hình sự năm 2015 về các vấn đề liên quan đến quyết định
hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội.
Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng quyết đinh hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội qua thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân quận
Long Biên – Thành phố Hà Nội.
Thứ tư, phân tích đánh giá những kết quả đạt được, hạn chế, nguyên
nhân, vướng mắc trong việc quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội. Rút ra nguyên nhân của những hạn chế yếu kém từ đó làm cơ
sở cho việc nêu lên những giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của việc
quyết định hình phạt, những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự và tăng cường hiệu quả trong việc quyết định hình phạt
đối với NCTN phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của việc quyết
định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của
pháp luật hình sự về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội trong phạm vi địa bàn quận Long Biên - thành phố Hà Nội giai đoạn từ
năm 2011 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
5
nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học xã hội và khoa học pháp lý cụ thể phù hợp với yêu
cầu của từng vấn đề nghiên cứu như: phương pháp phân tích tài liệu, nghiên
cứu lịch sử, tổng hợp, so sánh, thống kê tư pháp…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Tăng cường nhận thức đúng đắn của những người tiến hành tố tụng,
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và các cá nhân khác
(đặc biệt là trên địa bàn thành phố Hà Nội) về bản chất, căn cứ, nguyên tắc, ý
nghĩa của việc quy định và áp dụng các quy định về quyết định hình phạt đối
với người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về quyết định hình
phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trong tố tụng hình sự, góp phần
nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng,
trong đó có cơ quan xét xử tại quận Long Biên – Thành phố Hà Nội.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Danh
mục bảng, Luận văn gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội.
Chương 2: Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
theo pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 3: Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội từ thực tiễn quận Long Biên – Thành phố Hà Nội.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LẬP PHÁP VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
1.1 Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội
1.1.1 Cơ sở thực tiễn
1.1.1.1 Khái niệm người chưa thành niên
Theo pháp luật quốc tế, cụ thể là Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ
em năm 1989 quy định : “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là
người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy
định tuổi thành niên sớm hơn” [5] . Bên cạnh đó, Quy tắc Bắc Kinh do Đại
hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14/12/1990 cũng là một văn bản
pháp luật quốc tế đề cập “Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi” [1].
Ngoài ra còn nhiều văn bản quốc tế khác cũng có quy định hoặc đề cập rằng
“ Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”.
Tuy nhiên Ở mỗi quốc gia trên thế giới, tùy thuộc vào sự phát triển
kinh tế - xã hội, lịch sử lập pháp, truyền thống và các yếu tố về tâm – sinh lý
của con người mà có những quy định về độ tuổi chưa thành niên khác nhau.
Ví dụ như Úc, Ấn Độ, Philippines, Brazil, Croatia và Colombia, người chưa
thành niên được xác định là dưới 18 tuổi. Trong khi đó Nhật Bản, Đài
Loan, Thái Lan và Hàn Quốc quy định người chưa thành niên là người dưới
20 tuổi.
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định một cách
thống nhất trong hệ thống pháp luật, từ Hiến Pháp cho đến các Bộ luật như:
Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự năm, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân
sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật
7
khác. Tất cả các văn bản pháp luật này đều quy định tuổi của người chưa
thành niên là dưới 18 tuổi.
Điều 21 Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định: “ Người chưa thành niên
là người chưa đủ 18 tuổi” [24]
Điều 161 Bộ luật lao động quy định: “Người lao động chưa thành niên
là người chưa đủ 18 tuổi” [25]
Đặc trưng cơ bản của nhóm người chưa thành niên biểu hiện trước hết
ở những biến đổi thường xuyên, liên tục của ba mặt cơ bản: thể chất – tâm lý,
tình cảm, nhận thức – hành vi. Ở nhóm tuổi này, họ có sự thay đổi mạnh mẽ
về mặt thể chất, là giai đoạn chuyển biến từ một đứa trẻ để trở thành người
lớn khỏe mạnh. Đây cũng là giai đoạn thay đổi nhanh chóng nhất về mặt tâm
lý, tình cảm, nhận thức. Các nhà tâm lý học đều đã nghiên cứu nhiều về sự đa
dạng và phức tạp trong tình cảm, tâm lý cũng như nội tâm bên trong của
người chưa thành niên. Họ muốn khẳng định, muốn thể hiện bản thân, muốn
gây sự chú ý của người khác đến bản thân họ. Có thể nói, đây là giai đoạn có
nhiều biến động nhất trong quá trình phát triển về mặt tâm – sinh lý, lối sống
cũng như nhân cách của mỗi người.
Ở vào độ tuổi chưa thành niên, người ta dễ dàng hành động mà không
cần có sự cân nhắc, tính toán chín chắn. Người chưa thành niên có thể là
những người vị tha, độ lượng, có thể hy sinh thân mình để làm những điều tốt
đẹp. Bên cạnh đó, họ cũng là người dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo vào những
hành vi xấu như cờ bạc, trộm cắp, đánh nhau mà không nhận biết được để khi
trưởng thành lại khó để từ bỏ những thói quen, những tệ nạn xấu này.
Như vậy có thể khái quát lại: Người chưa thành niên là những người
dưới 18 tuổi, chưa phát triển đầy đủ và hoàn thiện về thể chất – tâm sinh lý,
chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ
của công dân.
8
1.1.1.2 Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam
Không phải từ khi sinh ra con người đã có năng lực TNHS. Như vậy
năng lực TNHS chỉ hình thành khi con người đã đạt đến một đổ tuổi nhất định
và năng lực đó sẽ tiếp tục hoàn thiện và phát triển trong những giai đoạn tiếp
theo của cuộc đời con người. Khi đạt đến độ tuổi đó, con người nói chung sẽ
có năng lực TNHS, trừ một số trường hợp đặc biệt (bị mắc bênh tâm thần
hoặc các bệnh khác làm rối loạn tâm thần).
Luật hình sự của các nước dựa trên cơ sở kết quả các công trình nghiên
cứu, khảo sát về tâm lý cũng như căn cứ vào chính sách hình sự của mình mà
quy định tuổi bắt đầu có năng lực TNHS và tuổi có năng lực TNHS đầy đủ.
Pháp luật hình sự Việt Nam có quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm” [22]
Như vậy, Nhà nước ta đã xác định trong Bộ luật hình sự từ đủ 14 đến
dưới 16 tuổi là tuổi bắt đầu có năng lực TNHS và từ đủ 16 tuổi trở lên là tuổi
có năng lực TNHS đầy đủ. Chỉ những người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi trở
lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự, người chưa thành niên chưa đủ 14 tuổi
không phải chịu trách nhiệm hình sự (được miễn trách nhiệm hình sự). Điều
này được giải thích bởi lý do: Người chưa đủ 14 tuổi, trí tuệ chưa phát triển
một cách đầy đủ nên chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành
vi của mình, chưa đủ khả năng tự chủ khi hành động nên họ không bị coi là có
lỗi về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. Một hành vi không có
lỗi sẽ không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên họ không phải chịu trách nhiệm
hình sự. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi được coi là người chưa có năng
lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Do đó họ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự
9
về một số loại tội phạm có tính nguy hiểm lớn cho xã hội. Quy định này thể
hiện chính sách nhân đạo trong pháp luật hình sự của Đảng và Nhà nước.
1.1.2 Cơ sở lý luận
1.1.2.1 Lý luận về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
Khái niệm
Quyết định hình phạt là một trong các khái niệm cơ bản và quan trọng
của Luật hình sự Việt Nam. Đây là một trong những khái niệm thể hiện tập
trung bản chất giai cấp và chính sách hình sự của Nhà nước ta. Trong lịch sử
pháp luật Việt Nam, ban đầu người ta gọi khái niệm quyết định hình phạt với
thuật ngữ “Lượng hình”. Sau khi Bộ Luật hình sự năm 1985 ban hành và có
hiệu lực, thuật ngữ “Lượng hình” được thay thế bằng thuật ngữ “Quyết định
hình phạt” và thuật ngữ này được sử dụng cho đến nay.
Mặc dù là một khái niệm quan trong nhưng cho tới nay vẫn chưa có
một văn bản nào quy định khái niệm về Quyết định hình phạt. Khái niệm này
chỉ được nghiên cứu dưới góc độ là một khái niệm khoa học luật hình sự mà
chưa được quy định trong hệ thống văn bản pháp lý hình sự có tính chất chính
thống.
Một số người nhận thức quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn
loại hình phạt cụ thể (bao gồm cả hình phạt chính và có thể có thể cả hình
phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng cho
người phạm tội. Thời gian gần đây, khái niệm quyết định hình phạt này mở
rộng còn bao gồm các hoạt động: Xác định người phạm tội có được miễn
trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt không; Xác định khung hình phạt;
Xác định loại và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi khung hình phạt hoặc
dưới khung đó.
Từ những quan điểm nêu trên, có thể đưa ra khái niệm quyết định hình
phạt như sau: “Quyết định hình phạt là hoạt động tư duy của Thẩm phán và
10
Hội thẩm nhân dân lựa chọn loại hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính
và có thể cả hình phạt bổ sung, biện pháp chấp hành hình phạt hoặc miễn hình
phạt, các biện pháp tư pháp)… với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để
áp dụng cho chính cá nhân người phạm tội trong phạm vi giới hạn của khung
hình phạt do luật định, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội hoặc miễn hình phạt cho người phạm tội theo quy định
của Bộ Luật hình sự”.
Bộ luật hình sự năm 2015 đã có thay đổi về cách gọi đối với đối tượng
người chưa thành niên phạm tội. Thay vì cách gọi “người chưa thành niên
phạm tội” từ Bộ Luật hình sự năm 1985 đến Bộ Luật hình sự năm 1999, Bộ
Luật hình sự năm 2015 đã thay cụm từ “người chưa thành niên” bằng cụm từ
“người dưới 18 tuổi”. Việc đổi mới này khiến việc xác định và áp dụng pháp
luật đối với đối tượng này được cụ thể, rõ ràng và đồng bộ hơn. Nhưng về bản
chất thì không thay đổi.
Đối với người chưa thành niên phạm tội, quyết định hình phạt là việc
Tòa án lựa chọn loại hình phạt với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để
áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội.
Đây là một trường hợp quyết định đặc biệt được thể hiện ở việc hình
phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được giảm nhẹ hơn so
với người thành niên đã phạm tội. Mức hình phạt đối với người chưa thành
niên ở các độ tuổi cũng phải được giảm nhẹ hơn so với người đã thành niên
phạm tội. Và đối với người chưa thành niên phạm tội khi quyết định hình phạt
phải tuân thủ theo những quy định chung, đồng thời còn thực hiện theo những
quy định riêng của BLHS.
Ý nghĩa của quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội
11
Việc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội có ý
nghĩa quan trọng trong công tác phòng chống tội phạm, thể hiện ở các điểm
sau:
Một là, hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của luật hình sự. Hình phạt áp dụng
với người chưa thành niên phạm tội là một dạng của trách nhiệm hình sự,
được sử dụng như là một công cụ để trừng trị, cải tạo và giáo dục người phạm
tội. Hình phạt chỉ có thể xuất hiện khi có sự việc phạm tội do người chưa
thành niên thực hiện. Vì vậy, việc quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội là một trong những biện pháp giáo dục giúp họ trở thành
những công dân có ích cho xã hội. Mục đích giáo dục cải tạo thể hiện đường
lối xử lý, thể hiện ở biện pháp giáo dục cải tạo, thể hiện ở hình phạt và quyết
định hình phạt, thể hiện ở việc chấp hành hình phạt.
Khi quyết định hình phạt Tòa án phải tuân thủ các nguyên tắc xử lí đối
với người chưa thành niên phạm tội. Nghĩa là, việc áp dụng hình phạt phải
vừa đảm bảo mục đích giáo dục, răn đe những hành vi lệch chuẩn đồng thời
còn làm rõ cho họ thấy sai phạm, tự giác sửa chữa với sự giúp đỡ của gia
đình, nhà trường và xã hội. Hình phạt chỉ là biện pháp cuối cùng khi biện
pháp khác không phát huy tác dụng. Đây là điểm khác nhau về mục đích của
quyết định hình phạt giữa người thành niên và người chưa thành niên sửa
chữa sai lầm, phát triển lành mạnh mới phát huy tác dụng.
Hai là, quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội là
việc thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước. Chính sách hình sự đối với
người chưa thành niên là đường lối, nguyên tắc pháp lý hình sự trong việc đấu
tranh với tội phạm là người chưa thành niên. Chính sách này thể hiện ở đường
lối xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội; thể hiện qua các biện pháp
cưỡng chế về hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội; thể hiện qua
12
việc quyết định hình phạt và xóa án tích đối với người chưa thành niên phạm
tội. Chung quy lại, chính sách hình sự của nhà nước với mục đích lớn hơn là
nhằm cải tạo, tạo điều iện tốt nhất để người chưa thành niên phạm tội sửa
chữa sai lầm, tái hòa nhập cộng đồng, phấn đấu trở thành người có ích cho gia
đình, xã hội là điều quan trọng nhất.
1.1.2.2 Các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội
Quyết định hình phạt là một khâu quan trọng của quá trình áp dụng
pháp luật hình sự nhằm đảm bảo bản án được tuyên đúng pháp luật, công
bằng vì vậy, quyết định hình phạt đòi hỏi Tòa án không những tuân thủ triệt
để các nguyên tắc của luật hình sự mà còn tuân thủ các nguyên tắc quyết định
hình phạt.
Nguyên tắc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội là những tư tưởng mang tính chỉ đạo, định hướng, đồng thời đóng vai trò
kim chỉ nam cho cơ quan và người tiến hành tố tụng trong việc áp dụng các
quy định của Bộ luật hình sự để xử lý người chưa thành niên phạm tội. Việc
quyết định hình phạt phải dựa vào các nguyên tắc sau: Nguyên tắc pháp chế
xã hội chủ nghĩa; Nguyên tắc nhân đạo; Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt;
Nguyên tắc công bằng.
Thứ nhất: Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện
trong quyết định hình phạt đối với người phạm tội thể hiện ở chỗ, Tòa án
phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Luật Hình sự. Đây là một
nguyên tắc vô cùng quan trọng vì nếu vi phạm nguyên tắc này khi quyết định
hình phạt sẽ có thể dẫn tới vi phạm các nguyên tắc khác và như vậy, sẽ quyết
định một hình phạt không công bằng, làm cho mục đích của hình phạt không
đạt được.
13
Nội dung của nguyên tắc này đòi hỏi việc áp dụng hình phạt chỉ đối
với hành vi phạm tội đã được quy định cụ thể trong luật. Điều 2 BLHS hiện
hành ghi rõ: “Chỉ người nào phạm tội đã được luật hình sự quy định mới
phải chịu TNHS ” [22]. Điều đó khẳng định cơ sở của việc áp dụng hình phạt
là việc thực hiện tội phạm của người có lỗi. Việc luật hình sự nước ta bỏ
nguyên tắc “tương tự” trong lĩnh vực hình sự là một việc có ý nghĩa chính
trị- pháp lý vô cùng to lớn. Nó càng củng cố và tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa và là cơ sở vững chắc cho việc quyết định hình phạt.
Theo nguyên tắc pháp chế, quyết định hình phạt là thẩm quyền của
Tòa án. Đây là thẩm quyền đặc biệt của Tòa án, chỉ có Tòa án là cơ quan duy
nhất nhân danh nhà nước có quyền tuyên một hình phạt đối với bị cáo. Tại
phiên Tòa xét xử, sau khi thẩm vấn, so sánh, đánh giá tài liệu, chứng cứ đi
đến kết luận hành vi của bị cáo có đầy đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm cụ
thể, Tòa án sẽ quyết định một hình phạt cụ thể với một mức nhất định trong
bản án xét xử. Điều 26 BLHS quy định: “ Hình phạt được quy định trong Bộ
luật hình sự và do Tòa án quyết định” [22]. Khi quyết định hình phạt, Tòa án
phải tuân theo trình tự và các điều kiện áp dụng các loại hình phạt cụ thể và
chỉ có thể tuyên những hình phạt được quy định trong luật. Ví dụ, khi quyết
định hình phạt đối với vị cáo là NCTN, Tòa án không được xử phạt chung
thân hoặc tử hình NCTN phạm tội mà chỉ có thể cân nhắc, xem xét, lựa chọn
các hình phạt gồm có cảnh cáo, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn hoặc
các biện pháp tư pháp khác như: đưa vào trường giáo dưỡng, cải tạo tại xã,
phường, thị trấn.
Một đòi hỏi nữa của nguyên tắc pháp chế là khi quyết định hình phạt,
Tòa án phải tuân theo trình tự và các điều kiện áp dụng các loại hình phạt cụ
thể, và chỉ có thể tuyên những hình phạt được quy định trong luật. Nguyên
tắc pháp chế đòi hỏi khi tuyên một hình phạt phải có căn cứ, có tính xác
14
định, có căn cứ lập luận và bắt buộc có lý do. Muốn vậy đòi hỏi Tòa án phải
nghiên cứu kỹ và làm sáng tỏ các tính tiết có trong vụ án để làm căn cứ cho
việc quyết định hình phạt, những tình tiết đó chỉ là những tình tiết đã
được thẩm vấn, kiểm tra trong quá trình xét xử và được Hội đồng xét xử
đánh giá, nhân xét và còn chỉ rõ lý do của việc quyết định hình phạt. Tính
xác định của hình phạt trong bản án buộc tội thể hiện ở chỗ hình phạt được
quyết định đối với bị cáo phải cụ thể về loại hình phạt và thời hạn. Tòa án lựa
chọn loại và mức độ hình phạt một mặt phải đúng pháp luật, mặt khác phải
phù hợp với các nguyên tắc khác, phù hợp với các tình tiết giảm nhẹ và tăng
nặng TNHS, có như vậy mới đảm bảo được tính hợp lý của việc quyết định
hình phạt và là một yêu cầu của nguyên tắc pháp chế.
Thứ hai: Nguyên tắc nhân đạo.
Nguyên tắc nhân đạo trong việc quyết định hình phạt nói chung thể
hiện tập trung nhất ở chỗ khi quyết định hình phạt, Tòa án phải cân nhắc một
cách tổng thể thống nhất, biện chứng, hài hoà, hợp lý các lợi ích xã hội, lợi
ích của Nhà nước và cả lợi ích của người phạm tội. Bởi vì không thể nói đến
nhân đạo được nếu khi quyết định hình phạt mà quá đề cao lợi ích của Nhà
nước, của xã hội mà hạ thấp, xem thường lợi ích của người phạm tội hoặc
ngược lại. Luật hình sự quy định các quy phạm giảm nhẹ TNHS và hình phạt
đối với người phạm tội ít nguy hiểm cho xã hội và những người phạm tội lần
đầu, những người thật thà khai báo, tố giác đồng bọn, lấy công chuộc tội, ăn
năn hối cải, tự nguyện bồi thường thiệt hại đã gây ra. Đối với những người
này, nguyên tắc nhân đạo thể hiện khi quyết hình phạt tuỳ theo các tình tiết
của vụ án cụ thể, mức phạt tù do luật quy định và nhân thân người phạm tội,
Tòa án có thể cho bị cáo hưởng án treo, khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ có
thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất hoặc chuyển sang loại hình phạt
khác thuộc loại nhẹ hơn. Ngay cả đối với người phạm tội nguy hiểm nhưng
15
khi quyết định hình phạt, nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi Tòa án phải lựa chọn
một biện pháp nghiêm khắc thích hợp nhằm giáo dục, cải tạo họ trở thành
người lao động có ích cho xã hội. C. Mác viết: “Cả lịch sử lẫn ý chí đều xác
nhận như nhau cái sự thật là: sự tàn nhẫn, không đếm xỉa tới bất kỳ sự khác
nhau nào, làm cho sự trừng phạt trở nên hoàn toàn vô hiệu, bởi vì sự tàn
nhẫn thủ tiêu sự trừng phạt với tư cách là kết quả của pháp luật”. [40]
Nguyên tắc nhân đạo còn thể hiện ở việc hạn chế sự trừng trị. Điều đó
có nghĩa là trong vụ án, Tòa án có thể tuyên một trong những mức cho phép
đối với bị cáo: mức cần thiết tối thiểu, mức cao hơn cần thiếu tối thiểu, mức
tối đa thì ở một góc độ nhân đạo, Tòa án nên tuyên mức hình phạt cần thiết
tối thiểu. Trong mọi trường hợp đều không cho phép Tòa án quyết định hình
phạt quá mức cần thiết.
Đặc biệt đối với NCTN phạm tội, nguyên tắc nhân đạo trong quyết
định hình phạt được xuyên xuốt trong chính sách hình sự và đường lối xử lý.
Xuất phát từ quan điểm NCTN là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và
tinh thần, chưa có đủ khả năng để cân nhắc hành vi của mình, thiếu kinh
nghiệm xã hội và dễ bị tác động của môi trường xung quanh, vì vậy, BLHS
năm 1999 đã xây dựng một Chương riêng áp dụng đối với họ theo hướng
giảm nhẹ TNHS so với người đã thành niên phạmtội.
Tóm lại, xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo, luật hình sự quy định
đường lối giải quyết đối với NCTN phạm tội, trong đó có việc quyết định
hình phạt nhằm mục đích giáo dục, cải tạo họ sớm tái hoà nhập với xã hội và
cộng đồng. Biện pháp giáo dục phòng ngừa phải được coi là biện pháp được
ưu tiên áp dụng khi xử lý NCTN phạm tội. Điều đó thể hiện lòng tin vào khả
năng cải tạo, giáo dục NCTN phạm tội dưới chế độ ta, đồng thời thấm nhuần
đạo lý của ông cha ta coi cái thiện, cái ác không phải là bản tính vốn sẵn có
của mỗi người từ lúc sinh ra mà về cơ bản tính thiện ác trong mỗi con người
16
được hình thành từ trong môi trường xã hội và sâu xa hơn nữa là mỗi con
người dù có lỗi lầm đến đâu đều có khả năng phục thiện thông qua con
đường giáo dục thích hợp.
Thứ ba: Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt
Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc cá thể hoá hình phạt khi quyết định
hình phạt thể hiện ở chỗ, khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào
các quy định của pháp luật hình sự và ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa, cân
nhắc tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm
tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt trong quyết định hình phạt được thể
hiện rõ trong các quy định về đồng phạm, Điều 3 BLHS 1999 quy định:
“...Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối,
lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất
chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng.
Khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người
đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại gây ra.
3. Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì có
thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức xã
hội hoặc gia đình giám sát, giáo dục…”[22]
Nguyên tắc cá thể hoá còn được nhà làm luật thể hiện tại điều 8
BLHS, cụ thể là hình phạt được áp dụng đối với những tội ít nghiêm trọng,
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng là khác nhau. Ngoài
ra, nội dung của nguyên tắc này cũng được thể hiện ở các điều luật quy định
các giai đoạn phạm tội, đồng phạm, hệ thống các hình phạt và các điều kiện
áp dụng chúng cũng như việc quy định khung chế tài trong điều luật ở phần
17
các tội phạm cụ thể.
Thứ tư: Nguyên tắc công bằng
Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc công bằng trong việc quyết định hình
phạt thể hiện ở loại và mức hình phạt do Tòa án tuyên phải tương xứng với
tội phạm đã thực hiện, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, không phân biệt dân tộc, giới tính, dân tộc, địa vị kinh tế, tín
ngưỡng, tôn giáo....
Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là trong những điều kiện giống
nhau, tội phạm càng nghiêm trọng thì hình phạt càng nghiêm khắc và ngược
lại. Theo Mác, phải “làm cho sự trừng phạt trở thành hiệu quả thực tế của
việc phạm tội. Dưới con mắt của kẻ phạm tội, sự trừng phạt phải là kết quả
tất yếu của hành vi của chính người đó, do đó phải là hành vi của chính
người đó. Giới hạn của hành vi của y là giới hạn của sự trừng phạt” [40].
Đồng thời, mọi người phạm tội đều phải chịu trách nhiệm một cách bình
đẳng trước luật hình sự không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo,
chính kiến, nghề nghiệp, địa vị xã hội và tình trạng tài sản... Điều này được
khẳng định tại đoạn 1 khoản 2 Điều 3 BLHS năm 1999: “Mọi người phạm
tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc tín
ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội”[22]
Nguyên tắc công bằng còn đòi hỏi toà án phải thống nhất trong việc
đánh giá các căn cứ của quyết định hình phạt để đảm bảo quyết định hình
phạt công bằng đối với các trường hợp phạm tội có các tình tiết tương
đương. Đồng thời, Toà án phải xem xét tất cả các tình tiết trong vụ án, tránh
tình trạng bỏ sót tình tiết nào dẫn đến việc quyết định hình phạt không thoả
đáng đối với bị cáo.Việc cần nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội.
các đặc điểm nhân thân người phạm tội và các tình tiết khác có trong vụ án
phải đặt trong một thể thống nhất biện chứng mới đảm bảo được tính công
18
bằng của hình phạt. Nếu quá nhấn mạnh, coi trọng đến một yếu tố nào đó mà
bỏ qua hoặc xem nhẹ yếu tố còn lại thì khó có thể quyết định hình phạt một
cách công bằng, khó đạt được mục đích và hiệu quả của hình phạt.
Nguyên tắc công bằng còn đòi hỏi hình phạt được tuyên cần phải phản
ánh một cách đúng đắn dư luận xã hội, ý thức pháp luật và đạo đức xã hội
của chúng ta, phải có đủ sức thuyết phục mọi người ở tính đúng đắn, tính
công bằng trong chính sách xét xử của Nhà nước.
Các nguyên tắc trên có tính độc lập tương đối và cùng tồn tại với nhau.
Nhưng mặt khác, các nguyên tắc trên cũng có những phần, những nội dung
ăn nhập với nhau, bổ sung, tác động qua lại và ăn nhập với nhau tạo thành
một thể thống nhất.
1.1.2.3 Các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội
Với nhận thức người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn
phát triển đầy đủ về nhân cách, về thể trạng tâm lý, sinh lý còn bị hạn chế về
nhận thức, dễ chịu ảnh hưởng của môi trường xung quanh, dễ bị kích động, dễ
dẫn đến có hành vi vi phạm pháp luật, mà ở mức độ cao là hành vi phạm tội.
Vì vậy, Điều 69 Bộ luật hình sự 1999 đã đặt ra những nguyên tắc riêng khi xử
lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên.
Nguyên tắc thứ nhất : Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ
yếu nhằm giáo dục , giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh để trở
thành công dân có ích cho xã hội.
Đây là nguyên tắc bao trùm và mang tính chất chỉ đạo, chi phối nội
dung các nguyên tắc còn lại trong xử lý người chưa thành niên phạm tội, thể
hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với việc là lấy giáo dục
làm nền tảng chứ không nặng về trừng phạt. Trong quá trình xử lý và áp dụng
biện pháp hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, những người tiến
hành tố tụng phải cân nhắc thận trọng để đảm bảo được mục đích giáo dục,
19
uốn nắn, răn đe các hành vi lệch lạc, làm cho người chưa thành niên phạm tội
thấy rõ những sai phạm của mình và tự giác sửa chữa với sự giúp đỡ của gia
đình, nhà trường và xã hội.
Để thực hiện được nguyên tắc này, trong mọi trường hợp điều tra, truy tố
và xét xử hành vi phạm tội của NCTN đòi hỏi các cơ quan tư pháp phải xác định
khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi mà họ thực hiện, tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội. Từ đó giúp
người chưa thành niên nhận thức rõ lỗi của mình, sửa chữa để trở thành công dân
có ích cho xã hội. Đồng thời cũng qua đó giúp cơ quan tư pháp quyết định việc
có truy cứu trách nhiệm hình sự với họ không hay xác định các biện pháp khác
đấu tranh để ngăn ngừa hiện tượng tội phạm ở người chưa thành niên. Cụ thể
hóa nội dung này, các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng với người chưa
thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục họ. Các biện pháp trừng trị nghiêm
khắc hơn chỉ áp dụng với họ trong trường hợp phạm tội có tính chất, mức độ
nguy hiểm cao cho xã hội.
Tinh thần của Bộ Luật hình sự 2015 được nâng cao hơn so với BLHS
1999 theo hướng đề cao nguyên tắc đảm bảo lợi ích tốt nhất cho đối tượng
này khi xử lý hình sự: “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm
lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục,
giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích
cho xã hội. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi,
khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.” [26]
Đây là một nguyên tắc có ý nghĩa định hướng cho cán bộ tiến hành tố
tụng khi quyết định lựa chọn biện pháp xử lý cụ thể đối với NCTN, nhằm tìm ra
biện pháp phù hợp nhất.
20
Nguyên tắc thứ hai: Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn
trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm
trọng gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ
quan, tổ chức nhận giám sát giáo dục.
Như Chương I của Luận văn đã thể hiện, TNHS được hiểu là trách
nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi
phạm tội của mình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nếu xét thấy không
cần phải truy cứu TNHS đối với người phạm tội, không cần buộc họ phải chịu
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc, nhất là hình phạt mà vẫn đảm bảo được
yêu cầu giáo dục người phạm tội để họ trở thành người có ích cho xã hội, răn
đe và phòng ngừa tội phạm thì Nhà nước cho NCTN phạm tội được miễn
TNHS khi họ thỏa mãn các điều kiện theo quy định.
Việc miễn TNHS đối với NCTN phạm tội được thực hiện khi họ thoả
mãn 04 điều kiện sau:
- Tội phạm thực hiện là tội ít nghiêm trọng (là tội phạm gây nguy hại
không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt với tội là đến ba
năm tù) hoặc tội nghiêm trọng (là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt với tội là đến bảy năm tù);
- Gây thiệt hại không lớn
- Có nhiều tình tiết giảm nhẹ (tức là phải có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở
lên quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999);
- Được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
Nguyên tắc này thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước với NCTN phạm tội,
mở ra khả năng cho người chưa thành niên phạm tội được miễn TNHS lớn hơn
người thành niên. Một trong những nguyên tắc quan trọng trong việc xử lý
NCTN phạm tội đó là phải bảo đảm lợi ích tốt nhất cho họ. Vì vậy, việc lựa chọn
phương pháp xử lý phù hợp với tâm sinh lý, lứa tuổi, tạo môi trường phát triển
21
bình thường cho NTCN là vô cùng quan trong. Trong nhiều trường hợp, việc áp
dụng các biện pháp xử lý nằm ngoài hệ thống tư pháp chính thức, mang tính răn
đe, giáo dục xã hội để áp dụng đối với NCTN mang lại hiệu quả mong muốn và
phòng ngừa tội phạm vị thành niên cũng như đảm bảo lợi ích cộng đồng.
BLHS 2015 đã quy định lại những nội dung miễn TNHS đối với NCTN
phạm tội, theo đó đề cập cụ thể và chi tiết hơn đối với từng độ tuổi và từng loại
tội phạm, được ghi nhận cụ thể tại khoản 2 Điều 91 BLHS 2015. Với việc quy
định chi tiết, cụ thể như vậy sẽ tạo điều kiện cho các cơ quan áp dụng pháp luật
được rõ ràng, tránh được việc áp dụng chồng chéo, không thống nhất.
Nguyên tắc thứ ba: Việc truy cứu TNHS với người chưa thành niên
phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ chỉ trong trường hợp cần thiết và phải
căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm nhân thân và
những yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Khi xét xử, nếu thấy không cần
thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Toà
án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp.
Nguyên tắc này thể hiện tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc trong chính sách
pháp luật của Nhà nước ta. Yêu cầu của nguyên tắc này là chỉ trong trường hợp
cần thiết thì mới truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt đối với NCTN phạm
tội. Ngay cả khi cần thiết phải truy cứu TNHS đối với NCTN phạm tội, thì
không có nghĩa là áp dụng hình phạt đối với họ, mà có thể áp dụng các biện
pháp tư pháp, thậm chí miễn hình phạt cho họ nếu có căn cứ. Khi truy cứu
TNHS và áp dụng hình phạt đối với họ bao giờ cũng phải căn cứ vào ba căn
cứ sau:
- Tính chất của hành vi phạm tội là đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hại
lớn...
- Người chưa thành niên phạm tội có nhân thân xấu, đã từng có tiền án,
tiền sự...
22
- Yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm (những biện pháp giáo dục
phòng ngừa không đủ hiệu lực để giáo dục, cải tạo người chưa thành niên
phạm tội mà cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với họ).
Nguyên tắc này bổ sung cho nguyên tắc thứ nhất nhằm hạn chế trường
hợp NCTN phạm tội chỉ cần áp dụng biện pháp xử lý khác nhưng lại bị truy
cứu trách nhiệm hình sự và đặc biệt là bị áp dụng hình phạt. Nguyên tắc này
đòi hỏi Tòa án phải lựa chọn việc có áp dụng hình phạt đối với người chưa
thành niên hay không, nếu có căn cứ để Tòa án không cần áp dụng hình phạt
đối với người chưa thành niên phạm tội thì áp dụng hiện pháp tư pháp. Hình
phạt chỉ đặt ra khi đó là biện pháp cuối cùng nhằm hạn chế tác động tiêu cực
của chế tài hình sự, đặc biệt là hình phạt đối với NCTN phạm tội. Những
trường hợp mà tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cũng như nhân thân
người phạm tội thể hiện cần phải truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt hay
biện pháp tư pháp thì Tòa án vẫn phải lựa chọn biện pháp này.
BLHS 2015 đã bổ sung thêm căn cứ những đặc điểm về nhân thân
trong việc truy cứu TNHS đối với NCTN phạm tội.
Nguyên tắc thứ tư: Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình về người
chưa thành niên phạm tội. Không áp dụng hình phạt tiền với người chưa thành
niên phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Không áp dụng hình phạt bổ sung
với người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội tương ứng. Án đã tuyên với người
chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, thì không tính để xác định tái
phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Về nguyên tắc này, việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu
nhằm giáp dục cải tạo họ nên không áp dụng các hình phạt nghiêm khắc nhất đối
với họ. Đối với hình phạt tù có thời hạn, BLHS đã phân hóa người chưa thành
niên thành hai đối tượng: Người đủ từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi được xử lý nhẹ
23
hơn người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Với các đối tượng nêu trên, nhà làm
luật tách ra thành hai trường hợp. Trường hợp điều luật quy định hình phạt tù
chung thân, tử hình và trường hợp điều luật quy định hình phạt tù có thời hạn
tương ứng với mức hình phạt khác nhau theo từng độ tuổi cũng như yêu cầu đấu
tranh phòng chống tội phạm.
Quy định này thể hiện sự tiến bộ về quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội, hạn chế việc áp dụng các hình phạt tước đi quyền tự
do của người chưa thành niên phạm tội và tước đi tự do là không cần thiết.
Hình phạt tiền là một hình phạt khó có khả năng thực thi trong thực tế đối
với NCTN ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi do ở độ tuổi này, NCTN
phạm tội chưa có thu nhập hay tài sản riêng. Do đó, điểm mới và tiến bộ của
BLHS 2015 đã bãi bỏ quy định: “Không áp dụng hình phạt tiền đối với người
chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi”[22] để phù
hợp với thực tế khách quan và đảm bảo sự phát triển bình thường, không
thành khiến đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi là trẻ em.
1.1.2.4 Các căn cứ quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
Các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cơ bản có tính
nguyên tắc do luật hình sự quy định hoặc do giải thích luật mà có, buộc Tòa
án phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với tội phạm.
Để quyết định một hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý đối
với người chưa thành niên phạm tội, khi áp dụng các chế tài của pháp luật
hình sự, Tòa án ngoài việc phải nhận thức đúng đắn mục đích và ý nghĩa của
các loại hình phạt, tuân thủ các nguyên tắc quyết định hình phạt còn đòi hỏi
phải dựa vào những căn cứ nhất định – đó là các căn cứ quyết định hình phạt.
Căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi, yêu cầu cơ bản và mang
tính nguyên tắc, buộc phải tuân thủ khi quyết định hình phạt nhằm làm cho
việc quyết định hình phạt được khách quan, đúng đắn, công bằng và phù hợp
24
đối với bị cáo. Nếu như các nguyên tắc quyết định hình phạt là những tư
tưởng chỉ đạo, định hướng hoạt động của Tòa án khi áp dụng chế tài luật hình
sự đối với tội phạm thì các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi mà
Tòa án phải dựa vào đó để quyết định một hình phạt nhằm đảm bảo sự hợp lý,
công bằng đối với người thực hiện hành vi phạm tội.
Theo Điều 45 BLHS hiện hành thì căn cứ quyết định hình phạt gồm:
Các quy định của Bộ luật hình sự; Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội; Nhân thân người phạm tội; Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách
nhiệm hình sự. Những nội dung này mang tính bắt buộc đối với Tòa án, cụ
thể là Thẩm phán trực tiếp xét xử vụ án. Điều này có nghĩa trong mọi trường
hợp trước khi ra quyết định hình phạt, Thẩm phán phải căn cứ vào các yếu tố
để đưa ra quyết định hình phạt một cách đúng đắn nhất.
Đối với NCTN phạm tội cũng phải tuân thủ các nguyên tắc trên khi
quyết định hình phạt. Tuy nhiên bên cạnh những quy định chung về căn cứ
quyết định hình phạt như trên, đối với NCTN cũng có những quy định đặc thù
riêng.
Thứ nhất, căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự
Những quy định của BLHS về quyết định hình phạt gồm: Các tình tiết
giảm nhẹ TNHS (Điều 46); Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ
luật (Điều 47); Các tình tiết tăng nặng TNHS (Điều 48); Quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 50); Tổng hợp hình phạt của nhiều
bản án (Điều 51); Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt (Điều 52); Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng
phạm (Điều 53)....và căn cứ vào các điều, khoản quy định tội danh và khung
hình phạt tương ứng tại phần Các tội phạm của BLHS.
Đối với NCTN phạm tội, khi quyết định hình phạt vừa phải căn cứ vào
các quy định trên, vừa phải căn cứ vào quy định đối với NCTN phạm tội tại
25
Chương X của BLHS gồm: Nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội (Điều
69); Các biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội (Điều 70);
Các hình phạt áp dụng đối với NCTN phạm tội (Điều 71); Phạt tiền (Điều 72);
Cải tạo không giam giữ (Điều 73); Tù có thời hạn (Điều 74)...
Như vậy, khi quyết định hình phạt, Tòa án càn căn cứ vào tất cả các
quy định của Bộ luật hình sự ở dạng thống nhất, tổng thể của chúng. Trong
bản án cũng phải chỉ rõ những quy định của Bộ luật hình sự liên quan trực
tiếp đến việc quyết định hình phạt cụ thể đối với một bị cáo cụ thể. Các quy
định của Bộ luật hình sự là căn cứ cơ bản nhất của việc quyết định hình phạt.
Thứ hai, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội và mức độ nguy hiểm là dấu
hiệu để xác định ranh giới giữa tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật
khác. Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là
thuộc tính khách quan của một loại tội phạm nhất định, được xác định bởi
tổng thể các dấu hiệu cấu thành tội phạm. Nó bị quyết định bởi ý nghĩa, tầm
quan trọng, tính chất và giá trị của các mối quan hệ xã hội mà tội phạm đó
xâm hại (khách thể của tội phạm). Nếu chỉ dựa vào các quy định của BLHS,
ta mới chỉ xác định được phạm vi hình phạt áp dụng cho bị cáo. Để có thể xác
đinh mức hình phạt cụ thể trong giới hạn khung hình phạt tương xứng với
hành vi phạm tội thì phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội. Khi quyết định hình phạt Tòa án phải chỉ ra trong bản
án những tình tiết cụ thể chứng minh tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm cụ thể, Tòa án dựa vào đó và cùng với tình tiết khác để cân
nhắc một cách tổng thể, từ đó chọn loại và mức hình phạt cụ thể đối với bị
cáo. Khi xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cụ
th. Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội phụ thuộc vào một
26
số yếu tố như: Tính chất và mức độ hậu quả đã gây ra, mức độ lỗi, tính chất
của động cơ phạm tội...
Đối với NCTN phạm tội, khi áp dụng căn cứ này Tòa án còn phải xác
định mức độ nhận thức, động cơ, hoàn cảnh phạm tội của NCTN đối với hành
vi nguy hiểm cho xã hội mà họ gây ra để lựa chọn hình phạt nhẹ hơn so với
người đã thành niên. Tuy nhiên việc áp dụng căn cứ này đối với NCTN phạm
tội cũng đồng thời phải tuân thủ theo các quy định của BLHS.
Thứ ba, căn cứ vào nhân thân người phạm tội
Để hình phạt đã tuyên xứng với hành vi bị cáo, phù hợp khả năng cải
tạo, giáo dục của bị cáo cũng như hoàn cảnh của họ, Thẩm phán ra quyết định
hình phạt phải căn cứ cả vào nhân thân của người phạm tội bởi nó không chỉ
phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà còn phản
ánh khả năng cải tạo, giáo dục của người phạm tội cũng như hoàn cảnh đặc
biệt của họ.
Pháp luật hình sự Việt Nam quy định khi quyết định hình phạt, Tòa án
phải cân nhắc nhân thân người phạm tội, tức là muốn nói đến việc cân nhắc
nội dung cụ thể của nhân thân người phạm tội cụ thể trong từng vụ án cụ thể.
Các đặc điểm, đặc tính của nhân thân người phạm tội cụ thể bao giờ cũng có
nội dung cụ thể. Bởi vậy trong từng vụ án cụ thể, Tòa án phải xác định và chỉ
rõ những tình tiết cụ thể chứng minh mức độ nguy hiểm cho xã hội của nhân
thân người phạm tội, bao gồm cả đặc điểm xấu lẫn đặc điểm tốt của người
phạm tội để quyết định hình phạt.
Đối với NCTN phạm tội, phải xem xét những đặc điểm thuộc về nhân
thân của họ như: Đã có tiền án, tiền sự chưa; Hoàn cảnh gia đình như thế nào
(hộ nghèo, cha hoăn mẹ là người có công, liệt sỹ...); Có vợ (chồng), con cái
chưa? Có là trụ cột gia đình không? Có là người dân tộc thiểu số không?
Trình độ văn hóa học hết lớp mấy?...
27
Việc cân nhắc và đánh giá những đặc điểm thuộc về nhân thân NCTN
phạm tội là một vấn đề có tính nguyên tắc trong bất kỳ vụ án hình sự nào mà
người phạm tội là NCTN nói riêng và đối với tất cả các tội phạm nói chung.
Đó là những căn cứ có sức thuyết phục để Tòa án quyết định hình phạt này
hay hình phạt khác.
Thứ tư, căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS
Khi quyết định hình phạt, pháp luật hình sự Việt Nam quy định Tòa án
không những phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm đã thực hiện, nhân thân người phạm tội, mà còn phải cân nhắc đến các
tính tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Luật không quy định cụ
thể các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự có ảnh hưởng đến
mức nào đối với việc quyết định hình phạt. Ý nghĩa của từng tình tiết giảm
nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể, vào
từng người phạm tội cụ thể. Bởi vậy, Tòa án có vai trò rất quan trọng trong
việc đánh giá, cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trong việc quyết
định hình phạt.
Trong thực tiễn lập pháp hình sự, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng
TNHS đã được các nhà làm luật cân nhắc và ở mức độ nhất định, đã thể hiện
vào các tội phạm cụ thể. Tuy nhiên, một điều rõ ràng rằng cuộc sống hết sức
đa dạng và hành vi phạm tội cũng được thực hiện trong những trường hợp
khác nhau là khác nhau bởi con người có nhân thân và điều kiện và hoàn
cảnh khác nhau. Hơn nữa, mỗi tình tiết tăng nặng giảm nhẹ TNHS lại có
những ảnh hưởng khác nhau trong những trường hợp phạm tội cụ thể, thậm
chí có những tình tiết chỉ có thể ảnh hưởng đối với hành vi phạm tội này lại
không có ý nghĩa đối với hành vi phạm tội khác hoặc cùng một hành vi lại có
ý nghĩa đối với người phạm tội này mà lại không có ý nghĩa đối với người
phạm tội khác. Nhà làm luật không thể tiên liệu hết được tất cả các dữ kiện
28
đó để cân nhắc, tính toán cụ thể mức độ ảnh hưởng của tất các tình tiết giảm
nhẹ, tăng nặng TNHS vào từng tội phạm cụ thể. Vì vậy, trong những trường
hợp có thể xác định được, nhà làm luật đã đưa các tình tiết giảm nhẹ hoặc
tăng nặng thành dấu hiệu định tội hoặc định khung. Đồng thời, đưa các tình
tiết giảm nhẹ và tăng nặng thành các điều khoản độc lập ở Phần chung của
BLHS để Tòa án cân nhắc, đánh giá trong từng trường hợp phạm tội cụ thể
và đối với từng bị cáo cụ thể. Ngoài ra, dựa trên nguyên tắc nhân đạo, có lợi
cho bị cáo, BLHS cho phép Tòa án khi quyết định hình phạt có thể coi các
tình tiết chưa được tiên liệu trong luật cũng là tình tiết giảm nhẹ TNHS cho
bị cáo. Tuy nhiên, Tòa án chỉ được áp dụng các tình tiết tăng nặng trong
phạm vi các tình tiết đã được liệt kê tại Điều 48 BLHS. Đồng thời, các tình
tiết nào đã được coi là tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt thì không
được coi là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS của tội đó.
Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS được đánh giá, cân nhắc
trong quá trình quyết định hình phạt phải được ghi cụ thể trong bản án để
cho hình phạt được tuyên có sức thuyết phục và có căn cứ hơn, đồng thời tạo
điều kiện thuận lợi cho Tòa án cấp trên khi kiểm tra tính có căn cứ và tính
hợp lý của bản án.
Đây là các căn cứ quyết định hình phạt độc lập so với các căn cứ ở trên,
buộc Thẩm phán ra quyết định hình phạt phải cân nhắc các tình tiết này (nếu
có) trong mối liên hệ với toàn bộ vụ án giúp cho việc vận dụng đúng các căn
cứ khác. Việc căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ vẫn phải dựa trên
các quy định của BLHS.
Như vậy quy định về căn cứ quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội đã thể hiện rõ mục đích giáo dục, cải tạo là chủ yếu. Đây
là cơ sở pháp lý để Tòa án lựa chọn loại mà mức hình phạt cụ thể áp dụng đối
với họ. Các căn cứ này vừa đảm bảo được nguyên tắc bình đẳng trước pháp
29
luật lại vừa tạo nên nét đặc thù trong chính sách hình sự của Nhà nước ta đối
với NCTN phạm tội.
1.1.2.5 Các loại hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước
nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Căn cứ vào
đặc điểm của NCTN và xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo XHCN, khác với hệ
thống hình phạt áp dụng đối với người đã thành niên quy định tại Điều 28
BLHS 1999 bao gồm: “Hình phạt chính bao gồm: Cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo
không giam giữ; trục xuất; tù có thời hạn; tù chung thân; tử hình. Hình phạt
bổ sung gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định; cấm cư trú; quản chế; trước một số quyền công dân; tịch thu tài
sản; phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính; trục xuất khi không áp
dụng là hình phạt chính”[22]. Điều 71 BLHS 1999 quy định NCTN chỉ bị áp
dụng một trong các hình phạt sau đối với mỗi tội phạm: “1. Cảnh cáo; 2. Phạt
tiền; 3. Cải tạo không giam giữ; 4. Tù có thời hạn.” [22]
Như vậy hệ thống hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội được thu hẹp hơn và chỉ bao gồm những loại hình phạt nhẹ hơn
trong hệ thống hình phạt. Việc quy định chỉ có một hình phạt tước tự do (tù có
thời hạn) đã thể hiện rõ mục đích giáo dục là chính, thể hiện sự nhân đạo của
pháp luật và việc áp dụng những hình phạt này còn tạo điều kiện để họ giáo
dục để họ trở thành công dân có ích cho xã hội.
Hình phạt cảnh cáo: Đây là hình phạt nhẹ nhất trong hệ thống hình
phạt, được áp dụng đối với cả người đã thành niên và NCTN phạm tội ít
nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình
phạt. Hình phạt này không có khả năng gây ra những thiệt hại về tài sản hoặc
những hạn chế nhất định về thể chất cho người phạm tội. Tuy nhiên, với tính
chất là sự khiển trách công khai của Nhà nước, cảnh cáo gây ra những thiệt
30
hại nhất định về mặt tinh thần đối với người phạm tội, từ đó tác động đến ý
thức của họ, giáo dục và răn đe họ không phạm tội mới.
Hình phạt tiền: Đây là hình phạt chính áp dụng với NCTN phạm tội
nhằm tước đi những quyền lợi vật chất của họ để cải tạo và giáo dục họ trở
thành công dân có ích cho xã hội. Điều 72 BLHS 1999 quy định NCTN phạm
tội bị phạt tiền khi có đủ hai điều kiện: Họ là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi, có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Phải chứng minh được nội dung này
thì đủ điều kiện để áp dụng hình phạt. Mức phạt tiền NCTN không thấp hơn
một triệu đồng và không quá ½ mức tiền phạt mà điều luật quy định áp dụng
với người phạm tội nói chung.
Hình phạt cải tạo không giam giữ: Đây là hình phạt chính có nội dung
giáo dục sâu sắc và thể hiện tính nhân văn khi không buộc người bị áp dụng
hình phạt này phải cách ly khỏi xã hội mà chỉ cần chịu sử quản lý, giám sát
của chính quyền địa phương, gia đình, nơi làm việc của NCTN phạm tội. Để
được áp dụng hình phạt này cần đáp ứng hai điều kiện: Hành vi phạm tội của
họ thuộc vào tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng; có nơi làm việc hoặc nơi
cư trú rõ ràng.
NCTN bị phạt cải tạo không giam giữ phải thực hiện các nghĩa vụ như:
Chấp hành pháp luật của Nhà nước và chính quyền địa phương; Tuân thủ quy
định của cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục; Tham gia
lao động, học tập, sửa chữa sai lầm của mình trước đây. Khi áp dụng hình
phạt này đối với người chưa thành niên phạm tội, Tòa án không được khấu trừ
thu nhập của họ. Thời gian cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành
niên phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định.
Hình phạt tù có thời hạn: Tù có thời hạn là hình phạt cách ly người
phạm tội ra khỏi xã hội để giáo dục, cải tạo họ trở thành công dân có ích cho
xã hội. Đây được xem là hình phạt nghiêm khắc nhất áp dụng đối với NCTN
31
phạm tội, bị áp dụng khi NCTN phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt
nghiêm trọng.
Người chưa thành niên phạm tội được giam riêng, được học tập văn
hóa và học nghề trong thời gian chấp hành hình phạt, đảm bảo hiệu quả của
giáo dục và cải tạo, tạo điều kiện cho họ tái hòa nhập cộng đồng sau khi mãn
hạn tù.
1.2 Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về quyết định hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội.
1.2.1 Pháp luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội từ thời kỳ phong kiến đến trước năm 1985
Có thể khẳng định rằng tội phạm nói chung cũng như tội phạm do NCTN
thực hiện nói riêng tồn tại từ rất lâu đời trong lịch sử. Pháp luật Việt Nam thời kỳ
phong kiến đã có những quy định riêng về tội phạm và hình phạt đối với NCTN
phạm tội. Tư tưởng nhân đạo là tư tưởng xuyên suốt trong lịch sử phát triển của
dân tộc Việt Nam.
Dưới thời Hậu Lê có Bộ Luật Hồng Đức được đánh giá là điển hình và
hoàn thiện nhất. Trong Bộ Luật này, nhà lập pháp triều Lê đã quy định việc áp
dụng hồi tố đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều 17 Bộ Luật Hồng Đức
Quy định: “... Khi còn nhỏ mà phạm tội, khi lớn mới phát giác tội thì xử theo
luật tuổi nhỏ” [18, tr.41]. Điều này cho thấy các nhà lập pháp triều Lê đã rất
quan tâm đến thời điểm phạm tội sao cho việc xử lý người chưa thành niên phạm
tội theo hướng có lợi khi áp dụng pháp luật. Để xử lý người chưa thành niên
phạm tội, nhà làm luật đã phân biệt khả năng và mức độ trách nhiệm hình sự của
họ. Theo đó, lứa tuổi 15 tuổi trở xuống phạm tội lưu đồ trở xuống được chuộc
bằng tiền; 10 tuổi trở xuống phạm tội trộm, đánh người bị thương thì cũng cho
chuộc tội, việc nầy thì không buộc tội; 7 tuổi trở xuống dù phạm tử tội cũng
không áp dụng hình phạt. [18, tr.41]
32
Tuy là pháp luật của giai cấp cầm quyền nhưng cũng có thể thấy những
quy định trên đều thể hiện tính nhân đạo và tư tưởng pháp lý tiến bộ, bảo đảm cả
quyền của người chưa thành niên. Đường lối chung trong việc xử lý người chưa
thành niên phạm tội trong Bộ Luật Hồng Đức là hạn chế việc áp dụng các chế tài
hình sự hoặc theo hướng giảm nhẹ hình phạt so với người đã thành niên trong
trường hợp tương tự. Bộ Luật Hồng Đức đã thể hiện rõ nét trách nhiệm của xã
hội, của người đứng đầu nhà nước phong kiến, nhất là của gia đình đối với
những người dưới 16 tuổi – đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội. Đây chính
là một trong những điểm tiến bộ, nhân đạo của pháp luật thời Hậu Lê.
Kế thừa những giá trị lập pháp của cha ông trong thời kỳ phong kiến,
pháp luật hình sự Việt Nam từ thời kỳ Pháp thuộc đến trước năm 1985 đã có
những tiến bộ đáng kể dành cho người chưa thành niên. Theo đó, cùng với sự ra
đời của các Sắc luật, sắc lệnh, Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư... của Nhà nước ta
trước khi Bộ Luật Hình sự 1985 ra đời thì việc quyết định hình phạt đối với
người chưa thành niên cũng dựa trên những quy định cá biệt. Trong chuyên đề
sơ kết kinh nghiệm về xét xử các vụ án về người chưa thành niên phạm tội gửi
kèm theo Công văn số 37-NCPL ngày 16/01/1976 của TAND Tối cao có thể
hiện: “Trong trường hợp xâm phạm tính mạng, sức khỏe người khác, gây ảnh
hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an, mức án tối đa không quá 10 năm tù, trừ
trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, ở lứa tuổi xấp xỉ 14 tuổi và ở những nơi tình
hình trị an đặc biệt phức tạp, cần phải ngăn chặn những hành động tương tự đang
có chiều hướng phát triển thì cũng có thể xử phạt cao hơn chút ít” [29]. “Đối với
lứa tuổi 14 và 15 thì chỉ bị xử phạt về hình sự trong những trường hợp phạm tội
nghiêm trọng là trường hợp mà can phạm ở lứa tuổi đó có thể nhận thức tương
đối đầy đủ về tính chất nguy hiểm và chống đối xã hội của các hành vi đó”. [29]
Về mặt lượng hình: “Đối với những trường hợp người chưa thành niên từ
14 tuổi đến 15 tuổi phạm tội nghiêm trọng cần thiết phải xử phạt về hình sự và
33
xử phạt tù giam thì nói chung phải xử nhẹ hơn so với người chưa thành niên ở
lứa tuổi 16-17 phạm tội trong điểu kiện tương đương và vì thế cũng chỉ nên xử
tới mức cao nhất là mười lăm năm tù...”[29]
1.2.2. Pháp luật Việt Nam về quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội thời kỳ từ năm 1985 đến trước khi Bộ luật hình sự 1999 ra đời.
Phát triển các nguyên tắc mang tính nhân văn, có lợi khi quyết định
hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội như pháp luật hình sự trước
đó đã thể hiện, Bộ Luật hình sự năm 1985 - Bộ Luật hình sự đầu tiên của
nước Việt Nam đã có một chương riêng (chương VII) quy định về xử lý hình
sự đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều 60 Bộ Luật hình sự 1985 có
quy định về các biện pháp tư pháp và hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội, theo đó:
“1- Các biện pháp tư pháp có tính chất giáo dục, phòng ngừa do Toà án
quyết định gồm có:
- Buộc phải chịu thử thách;
- Đưa vào trườnggiáo dưỡng.
2- Các hìnhphạt gồm có:
- Cảnh cáo;
- Cải tạokhông giam giữ;
- Tù có thời hạn ”. [21]
Như vậy có ba hình phạt chính mà Tòa án có thể áp dụng đối với người
chưa thành niên phạm tội. Tuy nhiên Tòa án chỉ áp dụng hình phạt nào khi trong
điều luật quy định.
Việc quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên
phạm tội được thực hiện ở Điều 64:
“ 1- Nếu điều luật quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử
hình, thì mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 16
34
tuổi trở lên khi phạm tội là hai mươi năm tù và đối với người đủ 14 tuổi trở lên
nhưng chưa đủ16 tuổi khi phạm tội là mười lăm năm tù.
2- Nếu điều luật quy định hình phạt cao nhất là hai mươi năm tù thì mức
hình phạt cao nhấtáp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là không quá
mười hai năm tù”. [21]
Đối với tổng hợp hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Điều
65 thể hiện:
“1- Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi thì
hình phạt chung không được vượt mức hình phạt cao nhất quy định ở Điều 64.
2- Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi thì hình
phạt chung áp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội”. [21]
So với các quy định của pháp luật hình sự trước năm 1985 thì các quy
định trong Bộ Luật hình sự năm 1985 về quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội có một số điểm mới sau đây:
- Các quy định về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên
được quy định trong chương độc lập về Trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Tòa án cân nhắc cả các
quy định ở các chương khác nữa.
- Nếu như trước đây người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi xấp xỉ 14
cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt thì nay độ tuổi
thấp nhất phải là từ đủ 14 tuổi.
- Người chưa thành niên không bị áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc
tử hình. Người chưa thành niên bị áp dụng hình phạt tù ở mức thấp hơn so với
người đã trưởng thành trong điều kiện tương tự.
35
Kết luận Chương 1
Trong chương 1, luận văn đã tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và lập pháp về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội, bao gồm:
1. Làm rõ khái niệm người chưa thành niên theo quy định của pháp luật
quốc tế, quy định của pháp luật một số quốc gia và pháp luật Việt Nam, theo
đó khái niệm người chưa thành niên được hiểu: “Người chưa thành niên là
những người dưới 18 tuổi, chưa phát triển đầy đủ và hoàn thiện về thể chất –
tâm sinh lý, chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, chưa có đầy đủ quyền
lợi và nghĩa vụ của công dân”. Làm rõ đặc trưng cơ bản của người chưa thành
niên bao gồm các đặc điểm về thể chất – tâm lý, tình cảm, nhận thức – hành
vi.
2. Làm sáng rõ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự
Việt Nam, theo đó “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng. Còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
về mọi tội phạm”.
3. Chương 1 của Luận văn cũng đã đưa ra và phân tích những cơ sở lý
luận về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, bao
gồm khái niệm quyết định hình phạt, các nguyên tắc quyết định hình phạt, các
căn cứ quyết định hình phạt và các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành
niên phạm tội. Đây là tiền đề lý luận quan trọng trong việc nghiên cứu cũng
như áp dụng pháp luật đối với việc quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội. Qua việc phân tích các nguyên tắc, các căn cứ và việc
quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội, tác giả cũng đã chỉ ra những
mặt ưu điểm, hạn chế trong pháp luật hiện hành đối với vấn đề quyết định
hình phạt đối với NCTN phạm tội. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã đưa ra những
36
điểm mới tiến bộ, phù hợp và khắc phục được những khó khăn trong việc áp
dụng pháp luật về quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội trong Bộ luật
hình sự năm 2015 so với Bộ luật hình sự năm 1999.
4. Chương I của Luận văn cũng đã phân tích làm rõ vấn đề quyết định
hình phạt đối với NCTN phạm tội thể hiện trong những văn bản mang tính chất
pháp lý trước khi Bộ Luật Hình sự 1985 ra đời và cũng làm rõ những vấn đề
tương tự trong BLHS 1985. Tất cả đều thể hiện tinh thần quyết định hình phạt
đối với NCTN phạm tội theo hướng giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm chứ
không nhằm mục đích trừng trị họ.
Bốn vấn đề nêu trên được đánh giá là những tiền đề lý luận và cơ sở
quan trọng để tác giả vận dụng, đi sâu vào tìm hiểu và làm rõ vấn đề quyết
định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự
Việt Nam hiện hành.
37
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN
LONG BIÊN – THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về quyết định
hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội.
2.1.1 Quyết định hình phạt tù có thời hạn
Như đã trình bày ở trên, quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với
NCTN chỉ được áp dụng khi NCTN phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc
biệt nghiêm trọng. Khi áp dụng hình phạt này cần tuân theo quy định tại Điều
74 BLHS 1999, cụ thể:
“1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều
luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có
thời hạn thì mức hình phạt ca c o nhất được áp dụng không quá ba phần
tư mức phạt tù mà điều luật quy định;
2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều
luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời
hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức
phạt tù mà điều luật quy định”.[22]
Theo Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/05/2006 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của
BLHS thì việc tính ¾ hoặc ½ mức hình phạt tù đối với người chưa thành niên
từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi khi quyết định hình phạt như sau : Trước hết
cần phải xem người phạm tội đó là người đã thành niên. Sau đó, Tòa án xác
38
định mức phạt tù tương xứng với tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi
phạm tội như đối với trường hợp phạm tội là người đã thành niên. Tiếp đó,
căn cứ vào mức hình phạt dự kiến áp dụng với người chưa thành niên để xác
định ¾ hoặc ½ mức hình phạt sẽ áp dụng đối với người chưa thành niên.
Dự thảo BLHS 2015 nhấn mạnh thêm việc áp dụng hình phạt tù có thời
hạn đối với NCTN phạm tội: “Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo
dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn,
Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án
áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn
thích hợp ngắn nhất”. [26]
2.1.2 Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là quyết định
hình phạt trong trường hợp bị cáo đã phạm hai tội trở lên. Những tội đó chưa
bị đưa ra xét xử chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS và bị đưa ra xét xử cùng
một lần. Khi quyết định hình phạt trong trường hợp này, Thẩm phán ra quyết
định hình phạt phải tuân thủ những quy định chung về quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án và tuân
thủ những quy định riêng đối với NCTN phạm tội, cụ thể là Điều 75 BLHS về
Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội:
“Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18
tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp
dụng như sau:
1. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi, thì
hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại
Điều 74 của Bộ luật này;
39
2. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình
phạt chung áp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội.” [22]
Để tổng hợp hình phạt trong trường hợp này, trước hết Toàn án cũng
phải quyết định hình phạt đối với từng tội. Nếu các tội bị xét xử trong cùng
một lần, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội, sau đó căn cứ vào Điều
50 và Điều 75 của BLHS 1999 để tổng hợp hình phạt.
Thực tiễn nghiên cứu về vấn đề này cho thấy Điều 75 của BLHS 1999
cũng bộc lộ nhiều hạn chế: Chỉ quy định nguyên tắc tổng hợp hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội có tội thực hiện trước khi người đó 18 tuổi, có tội
thực hiện sau khi người đó 18 tuổi mà chưa có quy định về tổng hợp hình phạt
trong trường hợp các tội đều thực hiện trước khi người đó 18 tuổi (trường hợp
các tội được thực hiện khi người đó đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và trường hợp
có tội thực hiện khi người đó đủ 14 đến dưới 16, có tội thực hiện sau khi
người đó đủ 16 tuổi); Khái niệm tội nặng nhất quy định tại Điều 75 của BLHS
1999 rất khó xác định trên thực tế, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố
tụng trong quá trình tổng hợp hình phạt. Vì vậy, BLHS 2015 đã cụ thể hóa
quy định tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội hơn so với
BLHS 1999, theo đó quy định rõ nguyên tắc tổng hợp hình phạt trong trường
hợp phạm nhiều tội đối với người dưới 18 tuổi: “Khi xét xử cùng một lần
người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội thì Tòa án quyết định hình phạt đối với
từng tội và tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại Bộ luật hình sự năm
2015” [26]. Quy định rõ mức hình phạt cao nhất được áp dụng đối với từng
hình phạt cụ thể: “Nếu hình phạt chung là cải tạo không giam giữ thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 03 năm. Nếu hình phạt chung là
tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không được vượt quá
18 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội và 12 năm
đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội”.[26]
40
Đối với người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước
khi đủ 16 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi, thì việc tổng hợp hình
phạt áp dụng như sau:
+ Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi
người đó đủ 16 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt đã tuyên đối với tội
được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức
hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi theo quy định
nêu trên.
+ Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi người
đó đủ 16 tuổi nặng hơn mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện
trước khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao
nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi theo quy định nêu trên.
- Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18
tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp
dụng như sau:
+ Nếu mức hình phạt Toà án tuyên đối với tội được thực hiện khi người
đó chưa đủ 18 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt áp dụng đối với tội
được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được
vượt quá mức hình phạt cao nhất theo quy định nêu trên.
+ Nếu mức hình phạt Toà án tuyên đối với tội được thực hiện khi người
đó đã đủ 18 tuổi nặng hơn mức hình phạt áp dụng đối với tội thực hiện khi
người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đủ
18 tuổi trở lên phạm tội.
2.1.3 Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
Tổng hợp hình phạt của nhiểu bản án tức là trên cơ sở có nhiều bản án
phải thi hành, Tòa án sẽ tổng hợp hình phạt chung cho bị cáo thể hiện trong
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

More Related Content

What's hot

What's hot (19)

Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAYLuận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
 
Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTBiện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Bào chữa theo pháp luật cho người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đLuận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túyLuận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
 
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tộiChính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt NamLuận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCMLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật tại TPHCM
 
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCMLuận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
 
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niênLuận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTQuyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOTLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
 
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAYLuận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
 
Áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiÁp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 

Similar to Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của người chưa thành niên phạm tội - Gửi miễn ph...
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của người chưa thành niên phạm tội - Gửi miễn ph...Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của người chưa thành niên phạm tội - Gửi miễn ph...
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của người chưa thành niên phạm tội - Gửi miễn ph...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại thành phố Hồ ...
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại thành phố Hồ ...Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại thành phố Hồ ...
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại thành phố Hồ ...anh hieu
 
Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình Sự
Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình SựLuận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình Sự
Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình SựDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Hình phạt cho người chưa thành niên phạm tội tại Quảng Ngãi, 9đ - Gửi miễn ph...
Hình phạt cho người chưa thành niên phạm tội tại Quảng Ngãi, 9đ - Gửi miễn ph...Hình phạt cho người chưa thành niên phạm tội tại Quảng Ngãi, 9đ - Gửi miễn ph...
Hình phạt cho người chưa thành niên phạm tội tại Quảng Ngãi, 9đ - Gửi miễn ph...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620 (20)

Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội
Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tộiHình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội
Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của người chưa thành niên phạm tội - Gửi miễn ph...
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của người chưa thành niên phạm tội - Gửi miễn ph...Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của người chưa thành niên phạm tội - Gửi miễn ph...
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của người chưa thành niên phạm tội - Gửi miễn ph...
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
 
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTChính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận án: Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình ...
 
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAYLuận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Luận văn: Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HAY
 
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAYQuyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAY
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAY
 
Luận văn: Giảm nhẹ TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Giảm nhẹ TNHS đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Giảm nhẹ TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Giảm nhẹ TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại thành phố Hồ ...
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại thành phố Hồ ...Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại thành phố Hồ ...
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại thành phố Hồ ...
 
Ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội trong điều tra vụ án
Ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội trong điều tra vụ ánNgăn chặn người chưa thành niên phạm tội trong điều tra vụ án
Ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội trong điều tra vụ án
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
 
Áp dụng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Áp dụng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tộiÁp dụng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
Áp dụng pháp luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình Sự
Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình SựLuận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình Sự
Luận Văn Thạc Sĩ Luật Hình Sự Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Hình Sự
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Hình phạt cho người chưa thành niên phạm tội tại Quảng Ngãi, 9đ - Gửi miễn ph...
Hình phạt cho người chưa thành niên phạm tội tại Quảng Ngãi, 9đ - Gửi miễn ph...Hình phạt cho người chưa thành niên phạm tội tại Quảng Ngãi, 9đ - Gửi miễn ph...
Hình phạt cho người chưa thành niên phạm tội tại Quảng Ngãi, 9đ - Gửi miễn ph...
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạmLuận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm
 
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tại tỉnh Bình Định
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tại tỉnh Bình ĐịnhLuận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tại tỉnh Bình Định
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tại tỉnh Bình Định
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 

Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Hà Nội, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ HỒNG VÂN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội, năm 2017
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ HỒNG VÂN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ Hà Nội, năm 2017
  • 3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LẬP PHÁP VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI ............ 6 1.1 Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội..................................................................................................... 6 1.2 Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội..................................................................................31 Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN LONG BIÊN – THÀNH PHỐ HÀ NỘI...........................................................37 2.1. Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội....................................................37 2.2 Thực tiễn quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội từ thực tiễn quận Long Biên – Thành phố Hà Nội..............................................48 Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN LONG BIÊN - THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...............................................61 3.1 Hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự...............................................62 3.2. Các giải pháp khác....................................................................................65 KẾT LUẬN.....................................................................................................69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................72
  • 4. LỜI CAM ĐOAN T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Hoàng Thị Hồng Vân
  • 5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ Luật hình sự TAND : Tòa án nhân dân NCTN : Người chưa thành niên. HĐXX : Hội đồng xét xử TNHS : Trách nhiệm hình sự
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 3.1: Kết quả xét xử các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên phạm tội tính từ tháng 10 năm 2011 đến hết tháng 9 năm 2016 (đơn vị: số bị cáo). ……...50 Bảng 3.2: Thống kê các loại tội đã xét xử có bị cáo là người chưa thành niên tính từ tháng 10 năm 2011 đến hết tháng 9 năm 2016………………………………. 52
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tuổi trẻ là tương lai của đất nước, là nhân tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình hình tội phạm ở nước ta có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp, đặc biệt là tội phạm do NCTN thực hiện. Số vụ, số đối tượng là NCTN phạm tội hàng năm có xu hướng tăng lên. Thành phần đối tượng, lĩnh vực phạm tội ngày càng đa dạng hơn, tính chất hành vi phạm tội và hậu quả gây ra ngày càng nguy hiểm, nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của NCTN không còn đơn giản chỉ do bồng bột, thiếu suy nghĩ mà đã có sự tính toán, chuẩn bị kỹ càng và khá tinh vi, thậm chí đã hình thành các băng nhóm tội phạm có tổ chức. Hậu quả của vấn đề là vô cùng lớn và gây nên nhiều lo lắng trong xã hội. Xuất phát từ đặc điểm về tâm lý, giới tính, lứa tuổi của NCTN: Đó là những người chưa thật sự trưởng thành, chưa phát triển đầy đủ về tâm, sinh lý; khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ còn nhiều hạn chế. Họ dễ bị kích động, dụ dỗ vào việc thực hiện tội phạm, nhưng cũng dễ uốn nắn, cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội. Do đó pháp luật hình sự đã có những quy định riêng đối với người chưa thành niên phạm tội để xử lý phù hợp đối với đối tượng này. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với việc giải quyết tội phạm nói chung và tội phạm do người chưa thành niên thực hiện chính là tìm ra mọi giải pháp nhằm làm giảm bớt những hoạt động phạm pháp, không để những việc sai trái ấy xảy ra chứ không chỉ đơn thuần là xử một vụ án hay trừng phạt một tội phạm nào đó. Phải đưa ra những phương pháp nhằm tìm kiếm nguyên nhân, điều kiện để căn cứ vào đó có những giải pháp thích hợp nhằm giảm bớt tình trạng người chưa thành niên phạm tội.
  • 8. 2 Có thể khẳng định, đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm do NCTN thực hiện nói riêng không phải là nhiệm vụ của riêng cá nhân, cơ quan, tổ chức nào mà là nhiệm vụ chung của Nhà nước và toàn thể xã hội. Phòng ngừa, ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội phải huy động được lực lượng đông đảo toàn xã hội tham gia, phải phát động được sức mạnh tổng hợp của các chủ thể, triệt để khai thác và đẩy mạnh quan hệ phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật trong phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội. Mặc dù đường lối xử lý hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội đã được quy định rõ ràng trong chương X của Bộ luật hình sự 1999 cũng như trong các bộ luật hình sự trước đây, nhưng việc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trong thực tiễn cho thấy do chưa được nhận thức một cách khách quan, thấu đáo nên vẫn còn nhiều sai sót. Nhằm đưa ra một cái nhìn toàn diện, đúng đắn của việc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả trong công tác xét xử, đặc biệt là quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, với lý do đó học viên xin lựa chọn đề tài “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Long Biên – Thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sỹ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay có rất nhiều các công trình khoa học đã nghiên cứu về vấn đề Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, đáng chú ý là: Luận văn Thạc sỹ của Thạc sỹ Nguyễn Thị Hương về: “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội”, Luận án Tiến sỹ của Tiến sỹ Hoàng Minh Đức về: “Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sỹ của Thạc sỹ Trần Đức Ninh về: “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội qua thực tiễn xét xử tại Tòa án quân sự thủ đô Hà Nội”…
  • 9. 3 Các bài viết, công trình nghiên cứu trên đã phân tích, giải quyết và làm rõ được một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trong tố tụng hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, sau khi Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003 ra đời vẫn chưa có nghiên cứu nào về áp dụng hình phạt của từng địa phương, đặc biệt là trên địa bàn quận Long Biên – Thành phố Hà Nội. Do hầu hết các công trình trên đều đề cập và nghiên cứu vấn đề tr- ước khi Bộ luật ra đời nên việc đánh giá tình hình chưa có cơ sở thực tiễn. Trong khi đó, vấn đề xét xử án hình sự đối với những vụ án mà có bị cáo là người chưa thành niên là một trong những vấn đề hết sức quan trọng. Bởi ngoài việc quyết định hình phạt một cách tương xứng với hành vi phạm tội, đủ sức răn đe và phòng ngừa tội phạm thì việc quyết định hình phạt còn phải nêu cao tính chất giáo dục họ sửa chữa lỗi lầm, phát triển nhận thức lành mạnh và tạo điều kiện để người chưa thành niên sớm hòa nhập được xã hội sau khi thi hành hình phạt. Do đó, việc nghiên cứu vấn đề quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn này là hết sức có ý nghĩa, đáp ứng tốt yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm và công cuộc cải cách tư pháp của quận Long Biên nói riêng và Thành phố Hà Nội nói chung. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn và đánh giá thực trạng của việc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn quận Long Biên Làm để làm rõ những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thực trạng quy định pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động tố tụng, làm sáng tỏ những hạn chế và đưa ra giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội, vừa đủ tính răn đe, vừa thể hiện sự nhân đạo của pháp luật hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
  • 10. 4 Thứ nhất, xây dựng các khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa để làm rõ những lý luận về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Thứ hai, phân tích các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành và so sánh với Bộ luật hình sự năm 2015 về các vấn đề liên quan đến quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng quyết đinh hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội qua thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân quận Long Biên – Thành phố Hà Nội. Thứ tư, phân tích đánh giá những kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân, vướng mắc trong việc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Rút ra nguyên nhân của những hạn chế yếu kém từ đó làm cơ sở cho việc nêu lên những giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của việc quyết định hình phạt, những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và tăng cường hiệu quả trong việc quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của việc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. 4.2 Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trong phạm vi địa bàn quận Long Biên - thành phố Hà Nội giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
  • 11. 5 nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội và khoa học pháp lý cụ thể phù hợp với yêu cầu của từng vấn đề nghiên cứu như: phương pháp phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử, tổng hợp, so sánh, thống kê tư pháp… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Tăng cường nhận thức đúng đắn của những người tiến hành tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và các cá nhân khác (đặc biệt là trên địa bàn thành phố Hà Nội) về bản chất, căn cứ, nguyên tắc, ý nghĩa của việc quy định và áp dụng các quy định về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trong tố tụng hình sự, góp phần nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có cơ quan xét xử tại quận Long Biên – Thành phố Hà Nội. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Danh mục bảng, Luận văn gồm 3 chương với kết cấu như sau: Chương 1: Những vấn đề chung về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Chương 2: Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam. Chương 3: Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội từ thực tiễn quận Long Biên – Thành phố Hà Nội.
  • 12. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LẬP PHÁP VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 1.1 Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội 1.1.1 Cơ sở thực tiễn 1.1.1.1 Khái niệm người chưa thành niên Theo pháp luật quốc tế, cụ thể là Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 quy định : “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn” [5] . Bên cạnh đó, Quy tắc Bắc Kinh do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 14/12/1990 cũng là một văn bản pháp luật quốc tế đề cập “Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi” [1]. Ngoài ra còn nhiều văn bản quốc tế khác cũng có quy định hoặc đề cập rằng “ Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”. Tuy nhiên Ở mỗi quốc gia trên thế giới, tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội, lịch sử lập pháp, truyền thống và các yếu tố về tâm – sinh lý của con người mà có những quy định về độ tuổi chưa thành niên khác nhau. Ví dụ như Úc, Ấn Độ, Philippines, Brazil, Croatia và Colombia, người chưa thành niên được xác định là dưới 18 tuổi. Trong khi đó Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan và Hàn Quốc quy định người chưa thành niên là người dưới 20 tuổi. Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định một cách thống nhất trong hệ thống pháp luật, từ Hiến Pháp cho đến các Bộ luật như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự năm, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật
  • 13. 7 khác. Tất cả các văn bản pháp luật này đều quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi. Điều 21 Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định: “ Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi” [24] Điều 161 Bộ luật lao động quy định: “Người lao động chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi” [25] Đặc trưng cơ bản của nhóm người chưa thành niên biểu hiện trước hết ở những biến đổi thường xuyên, liên tục của ba mặt cơ bản: thể chất – tâm lý, tình cảm, nhận thức – hành vi. Ở nhóm tuổi này, họ có sự thay đổi mạnh mẽ về mặt thể chất, là giai đoạn chuyển biến từ một đứa trẻ để trở thành người lớn khỏe mạnh. Đây cũng là giai đoạn thay đổi nhanh chóng nhất về mặt tâm lý, tình cảm, nhận thức. Các nhà tâm lý học đều đã nghiên cứu nhiều về sự đa dạng và phức tạp trong tình cảm, tâm lý cũng như nội tâm bên trong của người chưa thành niên. Họ muốn khẳng định, muốn thể hiện bản thân, muốn gây sự chú ý của người khác đến bản thân họ. Có thể nói, đây là giai đoạn có nhiều biến động nhất trong quá trình phát triển về mặt tâm – sinh lý, lối sống cũng như nhân cách của mỗi người. Ở vào độ tuổi chưa thành niên, người ta dễ dàng hành động mà không cần có sự cân nhắc, tính toán chín chắn. Người chưa thành niên có thể là những người vị tha, độ lượng, có thể hy sinh thân mình để làm những điều tốt đẹp. Bên cạnh đó, họ cũng là người dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo vào những hành vi xấu như cờ bạc, trộm cắp, đánh nhau mà không nhận biết được để khi trưởng thành lại khó để từ bỏ những thói quen, những tệ nạn xấu này. Như vậy có thể khái quát lại: Người chưa thành niên là những người dưới 18 tuổi, chưa phát triển đầy đủ và hoàn thiện về thể chất – tâm sinh lý, chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của công dân.
  • 14. 8 1.1.1.2 Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam Không phải từ khi sinh ra con người đã có năng lực TNHS. Như vậy năng lực TNHS chỉ hình thành khi con người đã đạt đến một đổ tuổi nhất định và năng lực đó sẽ tiếp tục hoàn thiện và phát triển trong những giai đoạn tiếp theo của cuộc đời con người. Khi đạt đến độ tuổi đó, con người nói chung sẽ có năng lực TNHS, trừ một số trường hợp đặc biệt (bị mắc bênh tâm thần hoặc các bệnh khác làm rối loạn tâm thần). Luật hình sự của các nước dựa trên cơ sở kết quả các công trình nghiên cứu, khảo sát về tâm lý cũng như căn cứ vào chính sách hình sự của mình mà quy định tuổi bắt đầu có năng lực TNHS và tuổi có năng lực TNHS đầy đủ. Pháp luật hình sự Việt Nam có quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm” [22] Như vậy, Nhà nước ta đã xác định trong Bộ luật hình sự từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi là tuổi bắt đầu có năng lực TNHS và từ đủ 16 tuổi trở lên là tuổi có năng lực TNHS đầy đủ. Chỉ những người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự, người chưa thành niên chưa đủ 14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự (được miễn trách nhiệm hình sự). Điều này được giải thích bởi lý do: Người chưa đủ 14 tuổi, trí tuệ chưa phát triển một cách đầy đủ nên chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình, chưa đủ khả năng tự chủ khi hành động nên họ không bị coi là có lỗi về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. Một hành vi không có lỗi sẽ không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên họ không phải chịu trách nhiệm hình sự. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi được coi là người chưa có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Do đó họ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự
  • 15. 9 về một số loại tội phạm có tính nguy hiểm lớn cho xã hội. Quy định này thể hiện chính sách nhân đạo trong pháp luật hình sự của Đảng và Nhà nước. 1.1.2 Cơ sở lý luận 1.1.2.1 Lý luận về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội Khái niệm Quyết định hình phạt là một trong các khái niệm cơ bản và quan trọng của Luật hình sự Việt Nam. Đây là một trong những khái niệm thể hiện tập trung bản chất giai cấp và chính sách hình sự của Nhà nước ta. Trong lịch sử pháp luật Việt Nam, ban đầu người ta gọi khái niệm quyết định hình phạt với thuật ngữ “Lượng hình”. Sau khi Bộ Luật hình sự năm 1985 ban hành và có hiệu lực, thuật ngữ “Lượng hình” được thay thế bằng thuật ngữ “Quyết định hình phạt” và thuật ngữ này được sử dụng cho đến nay. Mặc dù là một khái niệm quan trong nhưng cho tới nay vẫn chưa có một văn bản nào quy định khái niệm về Quyết định hình phạt. Khái niệm này chỉ được nghiên cứu dưới góc độ là một khái niệm khoa học luật hình sự mà chưa được quy định trong hệ thống văn bản pháp lý hình sự có tính chất chính thống. Một số người nhận thức quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt cụ thể (bao gồm cả hình phạt chính và có thể có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng cho người phạm tội. Thời gian gần đây, khái niệm quyết định hình phạt này mở rộng còn bao gồm các hoạt động: Xác định người phạm tội có được miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt không; Xác định khung hình phạt; Xác định loại và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi khung hình phạt hoặc dưới khung đó. Từ những quan điểm nêu trên, có thể đưa ra khái niệm quyết định hình phạt như sau: “Quyết định hình phạt là hoạt động tư duy của Thẩm phán và
  • 16. 10 Hội thẩm nhân dân lựa chọn loại hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung, biện pháp chấp hành hình phạt hoặc miễn hình phạt, các biện pháp tư pháp)… với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng cho chính cá nhân người phạm tội trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt do luật định, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội hoặc miễn hình phạt cho người phạm tội theo quy định của Bộ Luật hình sự”. Bộ luật hình sự năm 2015 đã có thay đổi về cách gọi đối với đối tượng người chưa thành niên phạm tội. Thay vì cách gọi “người chưa thành niên phạm tội” từ Bộ Luật hình sự năm 1985 đến Bộ Luật hình sự năm 1999, Bộ Luật hình sự năm 2015 đã thay cụm từ “người chưa thành niên” bằng cụm từ “người dưới 18 tuổi”. Việc đổi mới này khiến việc xác định và áp dụng pháp luật đối với đối tượng này được cụ thể, rõ ràng và đồng bộ hơn. Nhưng về bản chất thì không thay đổi. Đối với người chưa thành niên phạm tội, quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội. Đây là một trường hợp quyết định đặc biệt được thể hiện ở việc hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được giảm nhẹ hơn so với người thành niên đã phạm tội. Mức hình phạt đối với người chưa thành niên ở các độ tuổi cũng phải được giảm nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm tội. Và đối với người chưa thành niên phạm tội khi quyết định hình phạt phải tuân thủ theo những quy định chung, đồng thời còn thực hiện theo những quy định riêng của BLHS. Ý nghĩa của quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội
  • 17. 11 Việc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong công tác phòng chống tội phạm, thể hiện ở các điểm sau: Một là, hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của luật hình sự. Hình phạt áp dụng với người chưa thành niên phạm tội là một dạng của trách nhiệm hình sự, được sử dụng như là một công cụ để trừng trị, cải tạo và giáo dục người phạm tội. Hình phạt chỉ có thể xuất hiện khi có sự việc phạm tội do người chưa thành niên thực hiện. Vì vậy, việc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội là một trong những biện pháp giáo dục giúp họ trở thành những công dân có ích cho xã hội. Mục đích giáo dục cải tạo thể hiện đường lối xử lý, thể hiện ở biện pháp giáo dục cải tạo, thể hiện ở hình phạt và quyết định hình phạt, thể hiện ở việc chấp hành hình phạt. Khi quyết định hình phạt Tòa án phải tuân thủ các nguyên tắc xử lí đối với người chưa thành niên phạm tội. Nghĩa là, việc áp dụng hình phạt phải vừa đảm bảo mục đích giáo dục, răn đe những hành vi lệch chuẩn đồng thời còn làm rõ cho họ thấy sai phạm, tự giác sửa chữa với sự giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội. Hình phạt chỉ là biện pháp cuối cùng khi biện pháp khác không phát huy tác dụng. Đây là điểm khác nhau về mục đích của quyết định hình phạt giữa người thành niên và người chưa thành niên sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh mới phát huy tác dụng. Hai là, quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội là việc thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước. Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên là đường lối, nguyên tắc pháp lý hình sự trong việc đấu tranh với tội phạm là người chưa thành niên. Chính sách này thể hiện ở đường lối xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội; thể hiện qua các biện pháp cưỡng chế về hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội; thể hiện qua
  • 18. 12 việc quyết định hình phạt và xóa án tích đối với người chưa thành niên phạm tội. Chung quy lại, chính sách hình sự của nhà nước với mục đích lớn hơn là nhằm cải tạo, tạo điều iện tốt nhất để người chưa thành niên phạm tội sửa chữa sai lầm, tái hòa nhập cộng đồng, phấn đấu trở thành người có ích cho gia đình, xã hội là điều quan trọng nhất. 1.1.2.2 Các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội Quyết định hình phạt là một khâu quan trọng của quá trình áp dụng pháp luật hình sự nhằm đảm bảo bản án được tuyên đúng pháp luật, công bằng vì vậy, quyết định hình phạt đòi hỏi Tòa án không những tuân thủ triệt để các nguyên tắc của luật hình sự mà còn tuân thủ các nguyên tắc quyết định hình phạt. Nguyên tắc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội là những tư tưởng mang tính chỉ đạo, định hướng, đồng thời đóng vai trò kim chỉ nam cho cơ quan và người tiến hành tố tụng trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự để xử lý người chưa thành niên phạm tội. Việc quyết định hình phạt phải dựa vào các nguyên tắc sau: Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; Nguyên tắc nhân đạo; Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt; Nguyên tắc công bằng. Thứ nhất: Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện trong quyết định hình phạt đối với người phạm tội thể hiện ở chỗ, Tòa án phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Luật Hình sự. Đây là một nguyên tắc vô cùng quan trọng vì nếu vi phạm nguyên tắc này khi quyết định hình phạt sẽ có thể dẫn tới vi phạm các nguyên tắc khác và như vậy, sẽ quyết định một hình phạt không công bằng, làm cho mục đích của hình phạt không đạt được.
  • 19. 13 Nội dung của nguyên tắc này đòi hỏi việc áp dụng hình phạt chỉ đối với hành vi phạm tội đã được quy định cụ thể trong luật. Điều 2 BLHS hiện hành ghi rõ: “Chỉ người nào phạm tội đã được luật hình sự quy định mới phải chịu TNHS ” [22]. Điều đó khẳng định cơ sở của việc áp dụng hình phạt là việc thực hiện tội phạm của người có lỗi. Việc luật hình sự nước ta bỏ nguyên tắc “tương tự” trong lĩnh vực hình sự là một việc có ý nghĩa chính trị- pháp lý vô cùng to lớn. Nó càng củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và là cơ sở vững chắc cho việc quyết định hình phạt. Theo nguyên tắc pháp chế, quyết định hình phạt là thẩm quyền của Tòa án. Đây là thẩm quyền đặc biệt của Tòa án, chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất nhân danh nhà nước có quyền tuyên một hình phạt đối với bị cáo. Tại phiên Tòa xét xử, sau khi thẩm vấn, so sánh, đánh giá tài liệu, chứng cứ đi đến kết luận hành vi của bị cáo có đầy đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm cụ thể, Tòa án sẽ quyết định một hình phạt cụ thể với một mức nhất định trong bản án xét xử. Điều 26 BLHS quy định: “ Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết định” [22]. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải tuân theo trình tự và các điều kiện áp dụng các loại hình phạt cụ thể và chỉ có thể tuyên những hình phạt được quy định trong luật. Ví dụ, khi quyết định hình phạt đối với vị cáo là NCTN, Tòa án không được xử phạt chung thân hoặc tử hình NCTN phạm tội mà chỉ có thể cân nhắc, xem xét, lựa chọn các hình phạt gồm có cảnh cáo, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn hoặc các biện pháp tư pháp khác như: đưa vào trường giáo dưỡng, cải tạo tại xã, phường, thị trấn. Một đòi hỏi nữa của nguyên tắc pháp chế là khi quyết định hình phạt, Tòa án phải tuân theo trình tự và các điều kiện áp dụng các loại hình phạt cụ thể, và chỉ có thể tuyên những hình phạt được quy định trong luật. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi khi tuyên một hình phạt phải có căn cứ, có tính xác
  • 20. 14 định, có căn cứ lập luận và bắt buộc có lý do. Muốn vậy đòi hỏi Tòa án phải nghiên cứu kỹ và làm sáng tỏ các tính tiết có trong vụ án để làm căn cứ cho việc quyết định hình phạt, những tình tiết đó chỉ là những tình tiết đã được thẩm vấn, kiểm tra trong quá trình xét xử và được Hội đồng xét xử đánh giá, nhân xét và còn chỉ rõ lý do của việc quyết định hình phạt. Tính xác định của hình phạt trong bản án buộc tội thể hiện ở chỗ hình phạt được quyết định đối với bị cáo phải cụ thể về loại hình phạt và thời hạn. Tòa án lựa chọn loại và mức độ hình phạt một mặt phải đúng pháp luật, mặt khác phải phù hợp với các nguyên tắc khác, phù hợp với các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS, có như vậy mới đảm bảo được tính hợp lý của việc quyết định hình phạt và là một yêu cầu của nguyên tắc pháp chế. Thứ hai: Nguyên tắc nhân đạo. Nguyên tắc nhân đạo trong việc quyết định hình phạt nói chung thể hiện tập trung nhất ở chỗ khi quyết định hình phạt, Tòa án phải cân nhắc một cách tổng thể thống nhất, biện chứng, hài hoà, hợp lý các lợi ích xã hội, lợi ích của Nhà nước và cả lợi ích của người phạm tội. Bởi vì không thể nói đến nhân đạo được nếu khi quyết định hình phạt mà quá đề cao lợi ích của Nhà nước, của xã hội mà hạ thấp, xem thường lợi ích của người phạm tội hoặc ngược lại. Luật hình sự quy định các quy phạm giảm nhẹ TNHS và hình phạt đối với người phạm tội ít nguy hiểm cho xã hội và những người phạm tội lần đầu, những người thật thà khai báo, tố giác đồng bọn, lấy công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường thiệt hại đã gây ra. Đối với những người này, nguyên tắc nhân đạo thể hiện khi quyết hình phạt tuỳ theo các tình tiết của vụ án cụ thể, mức phạt tù do luật quy định và nhân thân người phạm tội, Tòa án có thể cho bị cáo hưởng án treo, khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất hoặc chuyển sang loại hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Ngay cả đối với người phạm tội nguy hiểm nhưng
  • 21. 15 khi quyết định hình phạt, nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi Tòa án phải lựa chọn một biện pháp nghiêm khắc thích hợp nhằm giáo dục, cải tạo họ trở thành người lao động có ích cho xã hội. C. Mác viết: “Cả lịch sử lẫn ý chí đều xác nhận như nhau cái sự thật là: sự tàn nhẫn, không đếm xỉa tới bất kỳ sự khác nhau nào, làm cho sự trừng phạt trở nên hoàn toàn vô hiệu, bởi vì sự tàn nhẫn thủ tiêu sự trừng phạt với tư cách là kết quả của pháp luật”. [40] Nguyên tắc nhân đạo còn thể hiện ở việc hạn chế sự trừng trị. Điều đó có nghĩa là trong vụ án, Tòa án có thể tuyên một trong những mức cho phép đối với bị cáo: mức cần thiết tối thiểu, mức cao hơn cần thiếu tối thiểu, mức tối đa thì ở một góc độ nhân đạo, Tòa án nên tuyên mức hình phạt cần thiết tối thiểu. Trong mọi trường hợp đều không cho phép Tòa án quyết định hình phạt quá mức cần thiết. Đặc biệt đối với NCTN phạm tội, nguyên tắc nhân đạo trong quyết định hình phạt được xuyên xuốt trong chính sách hình sự và đường lối xử lý. Xuất phát từ quan điểm NCTN là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, chưa có đủ khả năng để cân nhắc hành vi của mình, thiếu kinh nghiệm xã hội và dễ bị tác động của môi trường xung quanh, vì vậy, BLHS năm 1999 đã xây dựng một Chương riêng áp dụng đối với họ theo hướng giảm nhẹ TNHS so với người đã thành niên phạmtội. Tóm lại, xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo, luật hình sự quy định đường lối giải quyết đối với NCTN phạm tội, trong đó có việc quyết định hình phạt nhằm mục đích giáo dục, cải tạo họ sớm tái hoà nhập với xã hội và cộng đồng. Biện pháp giáo dục phòng ngừa phải được coi là biện pháp được ưu tiên áp dụng khi xử lý NCTN phạm tội. Điều đó thể hiện lòng tin vào khả năng cải tạo, giáo dục NCTN phạm tội dưới chế độ ta, đồng thời thấm nhuần đạo lý của ông cha ta coi cái thiện, cái ác không phải là bản tính vốn sẵn có của mỗi người từ lúc sinh ra mà về cơ bản tính thiện ác trong mỗi con người
  • 22. 16 được hình thành từ trong môi trường xã hội và sâu xa hơn nữa là mỗi con người dù có lỗi lầm đến đâu đều có khả năng phục thiện thông qua con đường giáo dục thích hợp. Thứ ba: Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc cá thể hoá hình phạt khi quyết định hình phạt thể hiện ở chỗ, khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự và ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa, cân nhắc tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt trong quyết định hình phạt được thể hiện rõ trong các quy định về đồng phạm, Điều 3 BLHS 1999 quy định: “...Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng. Khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra. 3. Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức xã hội hoặc gia đình giám sát, giáo dục…”[22] Nguyên tắc cá thể hoá còn được nhà làm luật thể hiện tại điều 8 BLHS, cụ thể là hình phạt được áp dụng đối với những tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng là khác nhau. Ngoài ra, nội dung của nguyên tắc này cũng được thể hiện ở các điều luật quy định các giai đoạn phạm tội, đồng phạm, hệ thống các hình phạt và các điều kiện áp dụng chúng cũng như việc quy định khung chế tài trong điều luật ở phần
  • 23. 17 các tội phạm cụ thể. Thứ tư: Nguyên tắc công bằng Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc công bằng trong việc quyết định hình phạt thể hiện ở loại và mức hình phạt do Tòa án tuyên phải tương xứng với tội phạm đã thực hiện, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, không phân biệt dân tộc, giới tính, dân tộc, địa vị kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo.... Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là trong những điều kiện giống nhau, tội phạm càng nghiêm trọng thì hình phạt càng nghiêm khắc và ngược lại. Theo Mác, phải “làm cho sự trừng phạt trở thành hiệu quả thực tế của việc phạm tội. Dưới con mắt của kẻ phạm tội, sự trừng phạt phải là kết quả tất yếu của hành vi của chính người đó, do đó phải là hành vi của chính người đó. Giới hạn của hành vi của y là giới hạn của sự trừng phạt” [40]. Đồng thời, mọi người phạm tội đều phải chịu trách nhiệm một cách bình đẳng trước luật hình sự không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo, chính kiến, nghề nghiệp, địa vị xã hội và tình trạng tài sản... Điều này được khẳng định tại đoạn 1 khoản 2 Điều 3 BLHS năm 1999: “Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội”[22] Nguyên tắc công bằng còn đòi hỏi toà án phải thống nhất trong việc đánh giá các căn cứ của quyết định hình phạt để đảm bảo quyết định hình phạt công bằng đối với các trường hợp phạm tội có các tình tiết tương đương. Đồng thời, Toà án phải xem xét tất cả các tình tiết trong vụ án, tránh tình trạng bỏ sót tình tiết nào dẫn đến việc quyết định hình phạt không thoả đáng đối với bị cáo.Việc cần nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội. các đặc điểm nhân thân người phạm tội và các tình tiết khác có trong vụ án phải đặt trong một thể thống nhất biện chứng mới đảm bảo được tính công
  • 24. 18 bằng của hình phạt. Nếu quá nhấn mạnh, coi trọng đến một yếu tố nào đó mà bỏ qua hoặc xem nhẹ yếu tố còn lại thì khó có thể quyết định hình phạt một cách công bằng, khó đạt được mục đích và hiệu quả của hình phạt. Nguyên tắc công bằng còn đòi hỏi hình phạt được tuyên cần phải phản ánh một cách đúng đắn dư luận xã hội, ý thức pháp luật và đạo đức xã hội của chúng ta, phải có đủ sức thuyết phục mọi người ở tính đúng đắn, tính công bằng trong chính sách xét xử của Nhà nước. Các nguyên tắc trên có tính độc lập tương đối và cùng tồn tại với nhau. Nhưng mặt khác, các nguyên tắc trên cũng có những phần, những nội dung ăn nhập với nhau, bổ sung, tác động qua lại và ăn nhập với nhau tạo thành một thể thống nhất. 1.1.2.3 Các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội Với nhận thức người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách, về thể trạng tâm lý, sinh lý còn bị hạn chế về nhận thức, dễ chịu ảnh hưởng của môi trường xung quanh, dễ bị kích động, dễ dẫn đến có hành vi vi phạm pháp luật, mà ở mức độ cao là hành vi phạm tội. Vì vậy, Điều 69 Bộ luật hình sự 1999 đã đặt ra những nguyên tắc riêng khi xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên. Nguyên tắc thứ nhất : Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục , giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh để trở thành công dân có ích cho xã hội. Đây là nguyên tắc bao trùm và mang tính chất chỉ đạo, chi phối nội dung các nguyên tắc còn lại trong xử lý người chưa thành niên phạm tội, thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với việc là lấy giáo dục làm nền tảng chứ không nặng về trừng phạt. Trong quá trình xử lý và áp dụng biện pháp hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, những người tiến hành tố tụng phải cân nhắc thận trọng để đảm bảo được mục đích giáo dục,
  • 25. 19 uốn nắn, răn đe các hành vi lệch lạc, làm cho người chưa thành niên phạm tội thấy rõ những sai phạm của mình và tự giác sửa chữa với sự giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội. Để thực hiện được nguyên tắc này, trong mọi trường hợp điều tra, truy tố và xét xử hành vi phạm tội của NCTN đòi hỏi các cơ quan tư pháp phải xác định khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ thực hiện, tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội. Từ đó giúp người chưa thành niên nhận thức rõ lỗi của mình, sửa chữa để trở thành công dân có ích cho xã hội. Đồng thời cũng qua đó giúp cơ quan tư pháp quyết định việc có truy cứu trách nhiệm hình sự với họ không hay xác định các biện pháp khác đấu tranh để ngăn ngừa hiện tượng tội phạm ở người chưa thành niên. Cụ thể hóa nội dung này, các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng với người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục họ. Các biện pháp trừng trị nghiêm khắc hơn chỉ áp dụng với họ trong trường hợp phạm tội có tính chất, mức độ nguy hiểm cao cho xã hội. Tinh thần của Bộ Luật hình sự 2015 được nâng cao hơn so với BLHS 1999 theo hướng đề cao nguyên tắc đảm bảo lợi ích tốt nhất cho đối tượng này khi xử lý hình sự: “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.” [26] Đây là một nguyên tắc có ý nghĩa định hướng cho cán bộ tiến hành tố tụng khi quyết định lựa chọn biện pháp xử lý cụ thể đối với NCTN, nhằm tìm ra biện pháp phù hợp nhất.
  • 26. 20 Nguyên tắc thứ hai: Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát giáo dục. Như Chương I của Luận văn đã thể hiện, TNHS được hiểu là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nếu xét thấy không cần phải truy cứu TNHS đối với người phạm tội, không cần buộc họ phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc, nhất là hình phạt mà vẫn đảm bảo được yêu cầu giáo dục người phạm tội để họ trở thành người có ích cho xã hội, răn đe và phòng ngừa tội phạm thì Nhà nước cho NCTN phạm tội được miễn TNHS khi họ thỏa mãn các điều kiện theo quy định. Việc miễn TNHS đối với NCTN phạm tội được thực hiện khi họ thoả mãn 04 điều kiện sau: - Tội phạm thực hiện là tội ít nghiêm trọng (là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt với tội là đến ba năm tù) hoặc tội nghiêm trọng (là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt với tội là đến bảy năm tù); - Gây thiệt hại không lớn - Có nhiều tình tiết giảm nhẹ (tức là phải có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999); - Được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục. Nguyên tắc này thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước với NCTN phạm tội, mở ra khả năng cho người chưa thành niên phạm tội được miễn TNHS lớn hơn người thành niên. Một trong những nguyên tắc quan trọng trong việc xử lý NCTN phạm tội đó là phải bảo đảm lợi ích tốt nhất cho họ. Vì vậy, việc lựa chọn phương pháp xử lý phù hợp với tâm sinh lý, lứa tuổi, tạo môi trường phát triển
  • 27. 21 bình thường cho NTCN là vô cùng quan trong. Trong nhiều trường hợp, việc áp dụng các biện pháp xử lý nằm ngoài hệ thống tư pháp chính thức, mang tính răn đe, giáo dục xã hội để áp dụng đối với NCTN mang lại hiệu quả mong muốn và phòng ngừa tội phạm vị thành niên cũng như đảm bảo lợi ích cộng đồng. BLHS 2015 đã quy định lại những nội dung miễn TNHS đối với NCTN phạm tội, theo đó đề cập cụ thể và chi tiết hơn đối với từng độ tuổi và từng loại tội phạm, được ghi nhận cụ thể tại khoản 2 Điều 91 BLHS 2015. Với việc quy định chi tiết, cụ thể như vậy sẽ tạo điều kiện cho các cơ quan áp dụng pháp luật được rõ ràng, tránh được việc áp dụng chồng chéo, không thống nhất. Nguyên tắc thứ ba: Việc truy cứu TNHS với người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm nhân thân và những yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Toà án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp. Nguyên tắc này thể hiện tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc trong chính sách pháp luật của Nhà nước ta. Yêu cầu của nguyên tắc này là chỉ trong trường hợp cần thiết thì mới truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt đối với NCTN phạm tội. Ngay cả khi cần thiết phải truy cứu TNHS đối với NCTN phạm tội, thì không có nghĩa là áp dụng hình phạt đối với họ, mà có thể áp dụng các biện pháp tư pháp, thậm chí miễn hình phạt cho họ nếu có căn cứ. Khi truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt đối với họ bao giờ cũng phải căn cứ vào ba căn cứ sau: - Tính chất của hành vi phạm tội là đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hại lớn... - Người chưa thành niên phạm tội có nhân thân xấu, đã từng có tiền án, tiền sự...
  • 28. 22 - Yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm (những biện pháp giáo dục phòng ngừa không đủ hiệu lực để giáo dục, cải tạo người chưa thành niên phạm tội mà cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với họ). Nguyên tắc này bổ sung cho nguyên tắc thứ nhất nhằm hạn chế trường hợp NCTN phạm tội chỉ cần áp dụng biện pháp xử lý khác nhưng lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự và đặc biệt là bị áp dụng hình phạt. Nguyên tắc này đòi hỏi Tòa án phải lựa chọn việc có áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên hay không, nếu có căn cứ để Tòa án không cần áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội thì áp dụng hiện pháp tư pháp. Hình phạt chỉ đặt ra khi đó là biện pháp cuối cùng nhằm hạn chế tác động tiêu cực của chế tài hình sự, đặc biệt là hình phạt đối với NCTN phạm tội. Những trường hợp mà tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cũng như nhân thân người phạm tội thể hiện cần phải truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt hay biện pháp tư pháp thì Tòa án vẫn phải lựa chọn biện pháp này. BLHS 2015 đã bổ sung thêm căn cứ những đặc điểm về nhân thân trong việc truy cứu TNHS đối với NCTN phạm tội. Nguyên tắc thứ tư: Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình về người chưa thành niên phạm tội. Không áp dụng hình phạt tiền với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Không áp dụng hình phạt bổ sung với người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội tương ứng. Án đã tuyên với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Về nguyên tắc này, việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáp dục cải tạo họ nên không áp dụng các hình phạt nghiêm khắc nhất đối với họ. Đối với hình phạt tù có thời hạn, BLHS đã phân hóa người chưa thành niên thành hai đối tượng: Người đủ từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi được xử lý nhẹ
  • 29. 23 hơn người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Với các đối tượng nêu trên, nhà làm luật tách ra thành hai trường hợp. Trường hợp điều luật quy định hình phạt tù chung thân, tử hình và trường hợp điều luật quy định hình phạt tù có thời hạn tương ứng với mức hình phạt khác nhau theo từng độ tuổi cũng như yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Quy định này thể hiện sự tiến bộ về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, hạn chế việc áp dụng các hình phạt tước đi quyền tự do của người chưa thành niên phạm tội và tước đi tự do là không cần thiết. Hình phạt tiền là một hình phạt khó có khả năng thực thi trong thực tế đối với NCTN ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi do ở độ tuổi này, NCTN phạm tội chưa có thu nhập hay tài sản riêng. Do đó, điểm mới và tiến bộ của BLHS 2015 đã bãi bỏ quy định: “Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi”[22] để phù hợp với thực tế khách quan và đảm bảo sự phát triển bình thường, không thành khiến đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi là trẻ em. 1.1.2.4 Các căn cứ quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội Các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cơ bản có tính nguyên tắc do luật hình sự quy định hoặc do giải thích luật mà có, buộc Tòa án phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với tội phạm. Để quyết định một hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý đối với người chưa thành niên phạm tội, khi áp dụng các chế tài của pháp luật hình sự, Tòa án ngoài việc phải nhận thức đúng đắn mục đích và ý nghĩa của các loại hình phạt, tuân thủ các nguyên tắc quyết định hình phạt còn đòi hỏi phải dựa vào những căn cứ nhất định – đó là các căn cứ quyết định hình phạt. Căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi, yêu cầu cơ bản và mang tính nguyên tắc, buộc phải tuân thủ khi quyết định hình phạt nhằm làm cho việc quyết định hình phạt được khách quan, đúng đắn, công bằng và phù hợp
  • 30. 24 đối với bị cáo. Nếu như các nguyên tắc quyết định hình phạt là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng hoạt động của Tòa án khi áp dụng chế tài luật hình sự đối với tội phạm thì các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi mà Tòa án phải dựa vào đó để quyết định một hình phạt nhằm đảm bảo sự hợp lý, công bằng đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Theo Điều 45 BLHS hiện hành thì căn cứ quyết định hình phạt gồm: Các quy định của Bộ luật hình sự; Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; Nhân thân người phạm tội; Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự. Những nội dung này mang tính bắt buộc đối với Tòa án, cụ thể là Thẩm phán trực tiếp xét xử vụ án. Điều này có nghĩa trong mọi trường hợp trước khi ra quyết định hình phạt, Thẩm phán phải căn cứ vào các yếu tố để đưa ra quyết định hình phạt một cách đúng đắn nhất. Đối với NCTN phạm tội cũng phải tuân thủ các nguyên tắc trên khi quyết định hình phạt. Tuy nhiên bên cạnh những quy định chung về căn cứ quyết định hình phạt như trên, đối với NCTN cũng có những quy định đặc thù riêng. Thứ nhất, căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự Những quy định của BLHS về quyết định hình phạt gồm: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS (Điều 46); Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật (Điều 47); Các tình tiết tăng nặng TNHS (Điều 48); Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 50); Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (Điều 51); Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt (Điều 52); Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm (Điều 53)....và căn cứ vào các điều, khoản quy định tội danh và khung hình phạt tương ứng tại phần Các tội phạm của BLHS. Đối với NCTN phạm tội, khi quyết định hình phạt vừa phải căn cứ vào các quy định trên, vừa phải căn cứ vào quy định đối với NCTN phạm tội tại
  • 31. 25 Chương X của BLHS gồm: Nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội (Điều 69); Các biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội (Điều 70); Các hình phạt áp dụng đối với NCTN phạm tội (Điều 71); Phạt tiền (Điều 72); Cải tạo không giam giữ (Điều 73); Tù có thời hạn (Điều 74)... Như vậy, khi quyết định hình phạt, Tòa án càn căn cứ vào tất cả các quy định của Bộ luật hình sự ở dạng thống nhất, tổng thể của chúng. Trong bản án cũng phải chỉ rõ những quy định của Bộ luật hình sự liên quan trực tiếp đến việc quyết định hình phạt cụ thể đối với một bị cáo cụ thể. Các quy định của Bộ luật hình sự là căn cứ cơ bản nhất của việc quyết định hình phạt. Thứ hai, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội và mức độ nguy hiểm là dấu hiệu để xác định ranh giới giữa tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là thuộc tính khách quan của một loại tội phạm nhất định, được xác định bởi tổng thể các dấu hiệu cấu thành tội phạm. Nó bị quyết định bởi ý nghĩa, tầm quan trọng, tính chất và giá trị của các mối quan hệ xã hội mà tội phạm đó xâm hại (khách thể của tội phạm). Nếu chỉ dựa vào các quy định của BLHS, ta mới chỉ xác định được phạm vi hình phạt áp dụng cho bị cáo. Để có thể xác đinh mức hình phạt cụ thể trong giới hạn khung hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội thì phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Khi quyết định hình phạt Tòa án phải chỉ ra trong bản án những tình tiết cụ thể chứng minh tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cụ thể, Tòa án dựa vào đó và cùng với tình tiết khác để cân nhắc một cách tổng thể, từ đó chọn loại và mức hình phạt cụ thể đối với bị cáo. Khi xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cụ th. Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội phụ thuộc vào một
  • 32. 26 số yếu tố như: Tính chất và mức độ hậu quả đã gây ra, mức độ lỗi, tính chất của động cơ phạm tội... Đối với NCTN phạm tội, khi áp dụng căn cứ này Tòa án còn phải xác định mức độ nhận thức, động cơ, hoàn cảnh phạm tội của NCTN đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ gây ra để lựa chọn hình phạt nhẹ hơn so với người đã thành niên. Tuy nhiên việc áp dụng căn cứ này đối với NCTN phạm tội cũng đồng thời phải tuân thủ theo các quy định của BLHS. Thứ ba, căn cứ vào nhân thân người phạm tội Để hình phạt đã tuyên xứng với hành vi bị cáo, phù hợp khả năng cải tạo, giáo dục của bị cáo cũng như hoàn cảnh của họ, Thẩm phán ra quyết định hình phạt phải căn cứ cả vào nhân thân của người phạm tội bởi nó không chỉ phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà còn phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục của người phạm tội cũng như hoàn cảnh đặc biệt của họ. Pháp luật hình sự Việt Nam quy định khi quyết định hình phạt, Tòa án phải cân nhắc nhân thân người phạm tội, tức là muốn nói đến việc cân nhắc nội dung cụ thể của nhân thân người phạm tội cụ thể trong từng vụ án cụ thể. Các đặc điểm, đặc tính của nhân thân người phạm tội cụ thể bao giờ cũng có nội dung cụ thể. Bởi vậy trong từng vụ án cụ thể, Tòa án phải xác định và chỉ rõ những tình tiết cụ thể chứng minh mức độ nguy hiểm cho xã hội của nhân thân người phạm tội, bao gồm cả đặc điểm xấu lẫn đặc điểm tốt của người phạm tội để quyết định hình phạt. Đối với NCTN phạm tội, phải xem xét những đặc điểm thuộc về nhân thân của họ như: Đã có tiền án, tiền sự chưa; Hoàn cảnh gia đình như thế nào (hộ nghèo, cha hoăn mẹ là người có công, liệt sỹ...); Có vợ (chồng), con cái chưa? Có là trụ cột gia đình không? Có là người dân tộc thiểu số không? Trình độ văn hóa học hết lớp mấy?...
  • 33. 27 Việc cân nhắc và đánh giá những đặc điểm thuộc về nhân thân NCTN phạm tội là một vấn đề có tính nguyên tắc trong bất kỳ vụ án hình sự nào mà người phạm tội là NCTN nói riêng và đối với tất cả các tội phạm nói chung. Đó là những căn cứ có sức thuyết phục để Tòa án quyết định hình phạt này hay hình phạt khác. Thứ tư, căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS Khi quyết định hình phạt, pháp luật hình sự Việt Nam quy định Tòa án không những phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, nhân thân người phạm tội, mà còn phải cân nhắc đến các tính tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Luật không quy định cụ thể các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự có ảnh hưởng đến mức nào đối với việc quyết định hình phạt. Ý nghĩa của từng tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể, vào từng người phạm tội cụ thể. Bởi vậy, Tòa án có vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá, cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trong việc quyết định hình phạt. Trong thực tiễn lập pháp hình sự, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS đã được các nhà làm luật cân nhắc và ở mức độ nhất định, đã thể hiện vào các tội phạm cụ thể. Tuy nhiên, một điều rõ ràng rằng cuộc sống hết sức đa dạng và hành vi phạm tội cũng được thực hiện trong những trường hợp khác nhau là khác nhau bởi con người có nhân thân và điều kiện và hoàn cảnh khác nhau. Hơn nữa, mỗi tình tiết tăng nặng giảm nhẹ TNHS lại có những ảnh hưởng khác nhau trong những trường hợp phạm tội cụ thể, thậm chí có những tình tiết chỉ có thể ảnh hưởng đối với hành vi phạm tội này lại không có ý nghĩa đối với hành vi phạm tội khác hoặc cùng một hành vi lại có ý nghĩa đối với người phạm tội này mà lại không có ý nghĩa đối với người phạm tội khác. Nhà làm luật không thể tiên liệu hết được tất cả các dữ kiện
  • 34. 28 đó để cân nhắc, tính toán cụ thể mức độ ảnh hưởng của tất các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS vào từng tội phạm cụ thể. Vì vậy, trong những trường hợp có thể xác định được, nhà làm luật đã đưa các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng thành dấu hiệu định tội hoặc định khung. Đồng thời, đưa các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng thành các điều khoản độc lập ở Phần chung của BLHS để Tòa án cân nhắc, đánh giá trong từng trường hợp phạm tội cụ thể và đối với từng bị cáo cụ thể. Ngoài ra, dựa trên nguyên tắc nhân đạo, có lợi cho bị cáo, BLHS cho phép Tòa án khi quyết định hình phạt có thể coi các tình tiết chưa được tiên liệu trong luật cũng là tình tiết giảm nhẹ TNHS cho bị cáo. Tuy nhiên, Tòa án chỉ được áp dụng các tình tiết tăng nặng trong phạm vi các tình tiết đã được liệt kê tại Điều 48 BLHS. Đồng thời, các tình tiết nào đã được coi là tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS của tội đó. Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS được đánh giá, cân nhắc trong quá trình quyết định hình phạt phải được ghi cụ thể trong bản án để cho hình phạt được tuyên có sức thuyết phục và có căn cứ hơn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án cấp trên khi kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp lý của bản án. Đây là các căn cứ quyết định hình phạt độc lập so với các căn cứ ở trên, buộc Thẩm phán ra quyết định hình phạt phải cân nhắc các tình tiết này (nếu có) trong mối liên hệ với toàn bộ vụ án giúp cho việc vận dụng đúng các căn cứ khác. Việc căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ vẫn phải dựa trên các quy định của BLHS. Như vậy quy định về căn cứ quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội đã thể hiện rõ mục đích giáo dục, cải tạo là chủ yếu. Đây là cơ sở pháp lý để Tòa án lựa chọn loại mà mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với họ. Các căn cứ này vừa đảm bảo được nguyên tắc bình đẳng trước pháp
  • 35. 29 luật lại vừa tạo nên nét đặc thù trong chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với NCTN phạm tội. 1.1.2.5 Các loại hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Căn cứ vào đặc điểm của NCTN và xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo XHCN, khác với hệ thống hình phạt áp dụng đối với người đã thành niên quy định tại Điều 28 BLHS 1999 bao gồm: “Hình phạt chính bao gồm: Cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ; trục xuất; tù có thời hạn; tù chung thân; tử hình. Hình phạt bổ sung gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; trước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính; trục xuất khi không áp dụng là hình phạt chính”[22]. Điều 71 BLHS 1999 quy định NCTN chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đối với mỗi tội phạm: “1. Cảnh cáo; 2. Phạt tiền; 3. Cải tạo không giam giữ; 4. Tù có thời hạn.” [22] Như vậy hệ thống hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được thu hẹp hơn và chỉ bao gồm những loại hình phạt nhẹ hơn trong hệ thống hình phạt. Việc quy định chỉ có một hình phạt tước tự do (tù có thời hạn) đã thể hiện rõ mục đích giáo dục là chính, thể hiện sự nhân đạo của pháp luật và việc áp dụng những hình phạt này còn tạo điều kiện để họ giáo dục để họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Hình phạt cảnh cáo: Đây là hình phạt nhẹ nhất trong hệ thống hình phạt, được áp dụng đối với cả người đã thành niên và NCTN phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt. Hình phạt này không có khả năng gây ra những thiệt hại về tài sản hoặc những hạn chế nhất định về thể chất cho người phạm tội. Tuy nhiên, với tính chất là sự khiển trách công khai của Nhà nước, cảnh cáo gây ra những thiệt
  • 36. 30 hại nhất định về mặt tinh thần đối với người phạm tội, từ đó tác động đến ý thức của họ, giáo dục và răn đe họ không phạm tội mới. Hình phạt tiền: Đây là hình phạt chính áp dụng với NCTN phạm tội nhằm tước đi những quyền lợi vật chất của họ để cải tạo và giáo dục họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Điều 72 BLHS 1999 quy định NCTN phạm tội bị phạt tiền khi có đủ hai điều kiện: Họ là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Phải chứng minh được nội dung này thì đủ điều kiện để áp dụng hình phạt. Mức phạt tiền NCTN không thấp hơn một triệu đồng và không quá ½ mức tiền phạt mà điều luật quy định áp dụng với người phạm tội nói chung. Hình phạt cải tạo không giam giữ: Đây là hình phạt chính có nội dung giáo dục sâu sắc và thể hiện tính nhân văn khi không buộc người bị áp dụng hình phạt này phải cách ly khỏi xã hội mà chỉ cần chịu sử quản lý, giám sát của chính quyền địa phương, gia đình, nơi làm việc của NCTN phạm tội. Để được áp dụng hình phạt này cần đáp ứng hai điều kiện: Hành vi phạm tội của họ thuộc vào tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng; có nơi làm việc hoặc nơi cư trú rõ ràng. NCTN bị phạt cải tạo không giam giữ phải thực hiện các nghĩa vụ như: Chấp hành pháp luật của Nhà nước và chính quyền địa phương; Tuân thủ quy định của cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục; Tham gia lao động, học tập, sửa chữa sai lầm của mình trước đây. Khi áp dụng hình phạt này đối với người chưa thành niên phạm tội, Tòa án không được khấu trừ thu nhập của họ. Thời gian cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định. Hình phạt tù có thời hạn: Tù có thời hạn là hình phạt cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội để giáo dục, cải tạo họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Đây được xem là hình phạt nghiêm khắc nhất áp dụng đối với NCTN
  • 37. 31 phạm tội, bị áp dụng khi NCTN phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Người chưa thành niên phạm tội được giam riêng, được học tập văn hóa và học nghề trong thời gian chấp hành hình phạt, đảm bảo hiệu quả của giáo dục và cải tạo, tạo điều kiện cho họ tái hòa nhập cộng đồng sau khi mãn hạn tù. 1.2 Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. 1.2.1 Pháp luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội từ thời kỳ phong kiến đến trước năm 1985 Có thể khẳng định rằng tội phạm nói chung cũng như tội phạm do NCTN thực hiện nói riêng tồn tại từ rất lâu đời trong lịch sử. Pháp luật Việt Nam thời kỳ phong kiến đã có những quy định riêng về tội phạm và hình phạt đối với NCTN phạm tội. Tư tưởng nhân đạo là tư tưởng xuyên suốt trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam. Dưới thời Hậu Lê có Bộ Luật Hồng Đức được đánh giá là điển hình và hoàn thiện nhất. Trong Bộ Luật này, nhà lập pháp triều Lê đã quy định việc áp dụng hồi tố đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều 17 Bộ Luật Hồng Đức Quy định: “... Khi còn nhỏ mà phạm tội, khi lớn mới phát giác tội thì xử theo luật tuổi nhỏ” [18, tr.41]. Điều này cho thấy các nhà lập pháp triều Lê đã rất quan tâm đến thời điểm phạm tội sao cho việc xử lý người chưa thành niên phạm tội theo hướng có lợi khi áp dụng pháp luật. Để xử lý người chưa thành niên phạm tội, nhà làm luật đã phân biệt khả năng và mức độ trách nhiệm hình sự của họ. Theo đó, lứa tuổi 15 tuổi trở xuống phạm tội lưu đồ trở xuống được chuộc bằng tiền; 10 tuổi trở xuống phạm tội trộm, đánh người bị thương thì cũng cho chuộc tội, việc nầy thì không buộc tội; 7 tuổi trở xuống dù phạm tử tội cũng không áp dụng hình phạt. [18, tr.41]
  • 38. 32 Tuy là pháp luật của giai cấp cầm quyền nhưng cũng có thể thấy những quy định trên đều thể hiện tính nhân đạo và tư tưởng pháp lý tiến bộ, bảo đảm cả quyền của người chưa thành niên. Đường lối chung trong việc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Bộ Luật Hồng Đức là hạn chế việc áp dụng các chế tài hình sự hoặc theo hướng giảm nhẹ hình phạt so với người đã thành niên trong trường hợp tương tự. Bộ Luật Hồng Đức đã thể hiện rõ nét trách nhiệm của xã hội, của người đứng đầu nhà nước phong kiến, nhất là của gia đình đối với những người dưới 16 tuổi – đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội. Đây chính là một trong những điểm tiến bộ, nhân đạo của pháp luật thời Hậu Lê. Kế thừa những giá trị lập pháp của cha ông trong thời kỳ phong kiến, pháp luật hình sự Việt Nam từ thời kỳ Pháp thuộc đến trước năm 1985 đã có những tiến bộ đáng kể dành cho người chưa thành niên. Theo đó, cùng với sự ra đời của các Sắc luật, sắc lệnh, Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư... của Nhà nước ta trước khi Bộ Luật Hình sự 1985 ra đời thì việc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên cũng dựa trên những quy định cá biệt. Trong chuyên đề sơ kết kinh nghiệm về xét xử các vụ án về người chưa thành niên phạm tội gửi kèm theo Công văn số 37-NCPL ngày 16/01/1976 của TAND Tối cao có thể hiện: “Trong trường hợp xâm phạm tính mạng, sức khỏe người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an, mức án tối đa không quá 10 năm tù, trừ trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, ở lứa tuổi xấp xỉ 14 tuổi và ở những nơi tình hình trị an đặc biệt phức tạp, cần phải ngăn chặn những hành động tương tự đang có chiều hướng phát triển thì cũng có thể xử phạt cao hơn chút ít” [29]. “Đối với lứa tuổi 14 và 15 thì chỉ bị xử phạt về hình sự trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng là trường hợp mà can phạm ở lứa tuổi đó có thể nhận thức tương đối đầy đủ về tính chất nguy hiểm và chống đối xã hội của các hành vi đó”. [29] Về mặt lượng hình: “Đối với những trường hợp người chưa thành niên từ 14 tuổi đến 15 tuổi phạm tội nghiêm trọng cần thiết phải xử phạt về hình sự và
  • 39. 33 xử phạt tù giam thì nói chung phải xử nhẹ hơn so với người chưa thành niên ở lứa tuổi 16-17 phạm tội trong điểu kiện tương đương và vì thế cũng chỉ nên xử tới mức cao nhất là mười lăm năm tù...”[29] 1.2.2. Pháp luật Việt Nam về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội thời kỳ từ năm 1985 đến trước khi Bộ luật hình sự 1999 ra đời. Phát triển các nguyên tắc mang tính nhân văn, có lợi khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội như pháp luật hình sự trước đó đã thể hiện, Bộ Luật hình sự năm 1985 - Bộ Luật hình sự đầu tiên của nước Việt Nam đã có một chương riêng (chương VII) quy định về xử lý hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều 60 Bộ Luật hình sự 1985 có quy định về các biện pháp tư pháp và hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, theo đó: “1- Các biện pháp tư pháp có tính chất giáo dục, phòng ngừa do Toà án quyết định gồm có: - Buộc phải chịu thử thách; - Đưa vào trườnggiáo dưỡng. 2- Các hìnhphạt gồm có: - Cảnh cáo; - Cải tạokhông giam giữ; - Tù có thời hạn ”. [21] Như vậy có ba hình phạt chính mà Tòa án có thể áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Tuy nhiên Tòa án chỉ áp dụng hình phạt nào khi trong điều luật quy định. Việc quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội được thực hiện ở Điều 64: “ 1- Nếu điều luật quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 16
  • 40. 34 tuổi trở lên khi phạm tội là hai mươi năm tù và đối với người đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ16 tuổi khi phạm tội là mười lăm năm tù. 2- Nếu điều luật quy định hình phạt cao nhất là hai mươi năm tù thì mức hình phạt cao nhấtáp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là không quá mười hai năm tù”. [21] Đối với tổng hợp hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Điều 65 thể hiện: “1- Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình phạt chung không được vượt mức hình phạt cao nhất quy định ở Điều 64. 2- Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội”. [21] So với các quy định của pháp luật hình sự trước năm 1985 thì các quy định trong Bộ Luật hình sự năm 1985 về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội có một số điểm mới sau đây: - Các quy định về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên được quy định trong chương độc lập về Trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Tòa án cân nhắc cả các quy định ở các chương khác nữa. - Nếu như trước đây người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi xấp xỉ 14 cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt thì nay độ tuổi thấp nhất phải là từ đủ 14 tuổi. - Người chưa thành niên không bị áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình. Người chưa thành niên bị áp dụng hình phạt tù ở mức thấp hơn so với người đã trưởng thành trong điều kiện tương tự.
  • 41. 35 Kết luận Chương 1 Trong chương 1, luận văn đã tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và lập pháp về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, bao gồm: 1. Làm rõ khái niệm người chưa thành niên theo quy định của pháp luật quốc tế, quy định của pháp luật một số quốc gia và pháp luật Việt Nam, theo đó khái niệm người chưa thành niên được hiểu: “Người chưa thành niên là những người dưới 18 tuổi, chưa phát triển đầy đủ và hoàn thiện về thể chất – tâm sinh lý, chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của công dân”. Làm rõ đặc trưng cơ bản của người chưa thành niên bao gồm các đặc điểm về thể chất – tâm lý, tình cảm, nhận thức – hành vi. 2. Làm sáng rõ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam, theo đó “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm”. 3. Chương 1 của Luận văn cũng đã đưa ra và phân tích những cơ sở lý luận về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, bao gồm khái niệm quyết định hình phạt, các nguyên tắc quyết định hình phạt, các căn cứ quyết định hình phạt và các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội. Đây là tiền đề lý luận quan trọng trong việc nghiên cứu cũng như áp dụng pháp luật đối với việc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Qua việc phân tích các nguyên tắc, các căn cứ và việc quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội, tác giả cũng đã chỉ ra những mặt ưu điểm, hạn chế trong pháp luật hiện hành đối với vấn đề quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã đưa ra những
  • 42. 36 điểm mới tiến bộ, phù hợp và khắc phục được những khó khăn trong việc áp dụng pháp luật về quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 2015 so với Bộ luật hình sự năm 1999. 4. Chương I của Luận văn cũng đã phân tích làm rõ vấn đề quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội thể hiện trong những văn bản mang tính chất pháp lý trước khi Bộ Luật Hình sự 1985 ra đời và cũng làm rõ những vấn đề tương tự trong BLHS 1985. Tất cả đều thể hiện tinh thần quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội theo hướng giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm chứ không nhằm mục đích trừng trị họ. Bốn vấn đề nêu trên được đánh giá là những tiền đề lý luận và cơ sở quan trọng để tác giả vận dụng, đi sâu vào tìm hiểu và làm rõ vấn đề quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.
  • 43. 37 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN LONG BIÊN – THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1. Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. 2.1.1 Quyết định hình phạt tù có thời hạn Như đã trình bày ở trên, quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với NCTN chỉ được áp dụng khi NCTN phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Khi áp dụng hình phạt này cần tuân theo quy định tại Điều 74 BLHS 1999, cụ thể: “1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt ca c o nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định; 2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định”.[22] Theo Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/05/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS thì việc tính ¾ hoặc ½ mức hình phạt tù đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi khi quyết định hình phạt như sau : Trước hết cần phải xem người phạm tội đó là người đã thành niên. Sau đó, Tòa án xác
  • 44. 38 định mức phạt tù tương xứng với tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội như đối với trường hợp phạm tội là người đã thành niên. Tiếp đó, căn cứ vào mức hình phạt dự kiến áp dụng với người chưa thành niên để xác định ¾ hoặc ½ mức hình phạt sẽ áp dụng đối với người chưa thành niên. Dự thảo BLHS 2015 nhấn mạnh thêm việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với NCTN phạm tội: “Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất”. [26] 2.1.2 Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là quyết định hình phạt trong trường hợp bị cáo đã phạm hai tội trở lên. Những tội đó chưa bị đưa ra xét xử chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS và bị đưa ra xét xử cùng một lần. Khi quyết định hình phạt trong trường hợp này, Thẩm phán ra quyết định hình phạt phải tuân thủ những quy định chung về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án và tuân thủ những quy định riêng đối với NCTN phạm tội, cụ thể là Điều 75 BLHS về Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội: “Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau: 1. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74 của Bộ luật này;
  • 45. 39 2. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội.” [22] Để tổng hợp hình phạt trong trường hợp này, trước hết Toàn án cũng phải quyết định hình phạt đối với từng tội. Nếu các tội bị xét xử trong cùng một lần, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội, sau đó căn cứ vào Điều 50 và Điều 75 của BLHS 1999 để tổng hợp hình phạt. Thực tiễn nghiên cứu về vấn đề này cho thấy Điều 75 của BLHS 1999 cũng bộc lộ nhiều hạn chế: Chỉ quy định nguyên tắc tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội có tội thực hiện trước khi người đó 18 tuổi, có tội thực hiện sau khi người đó 18 tuổi mà chưa có quy định về tổng hợp hình phạt trong trường hợp các tội đều thực hiện trước khi người đó 18 tuổi (trường hợp các tội được thực hiện khi người đó đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và trường hợp có tội thực hiện khi người đó đủ 14 đến dưới 16, có tội thực hiện sau khi người đó đủ 16 tuổi); Khái niệm tội nặng nhất quy định tại Điều 75 của BLHS 1999 rất khó xác định trên thực tế, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình tổng hợp hình phạt. Vì vậy, BLHS 2015 đã cụ thể hóa quy định tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội hơn so với BLHS 1999, theo đó quy định rõ nguyên tắc tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội đối với người dưới 18 tuổi: “Khi xét xử cùng một lần người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội thì Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015” [26]. Quy định rõ mức hình phạt cao nhất được áp dụng đối với từng hình phạt cụ thể: “Nếu hình phạt chung là cải tạo không giam giữ thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 03 năm. Nếu hình phạt chung là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không được vượt quá 18 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội và 12 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội”.[26]
  • 46. 40 Đối với người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau: + Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi người đó đủ 16 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi theo quy định nêu trên. + Nếu mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện sau khi người đó đủ 16 tuổi nặng hơn mức hình phạt đã tuyên đối với tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi thì hình phạt chung không vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi theo quy định nêu trên. - Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau: + Nếu mức hình phạt Toà án tuyên đối với tội được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi nặng hơn hoặc bằng mức hình phạt áp dụng đối với tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất theo quy định nêu trên. + Nếu mức hình phạt Toà án tuyên đối với tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi nặng hơn mức hình phạt áp dụng đối với tội thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội. 2.1.3 Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án Tổng hợp hình phạt của nhiểu bản án tức là trên cơ sở có nhiều bản án phải thi hành, Tòa án sẽ tổng hợp hình phạt chung cho bị cáo thể hiện trong