SlideShare a Scribd company logo
1 of 98
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THU HUYỀN
Téi kh«ng chÊp hµnh ¸n
theo LuËt h×nh sù ViÖt Nam
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THU HUYỀN
Téi kh«ng chÊp hµnh ¸n
theo LuËt h×nh sù ViÖt Nam
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN NGỌC CHÍ
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
NGUYỄN THỊ THU HUYỀN
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI KHÔNG CHẤP
HÀNH ÁN.......................................................................................10
1.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI KHÔNG CHẤP
HÀNH ÁN.......................................................................................10
1.1.1. Khái niệm Tội không chấp hành án ..................................................10
1.1.2. Một số đặc điểm của Tội không chấp hành án..................................15
1.2. SỰ CẦN THIẾT VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUI ĐỊNH TỘI
KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM...21
1.2.1. Sự cần thiết của việc qui định Tội không chấp hành án trong
Luật hình sự Việt nam .....................................................................21
1.2.2. Ý nghĩa của việc qui định Tội không chấp hành án trong luật hình sự ..22
1.3. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY...23
1.3.1. Tội không chấp hành án trƣớc khi có Bộ Luật hình sự 1985..........23
1.3.2. Tội không chấp hành án theo quy định của Bộ luật hình sự 1985 .......24
1.3.3. Tội không chấp hành án theo Bộ luật hình sự năm 1999................25
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ
TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN .................................................28
2.1. TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ 1999, PHÂN BIỆT VỚI MỘT SỐ TỘI KHÁC....28
2.1.1. Khách thể.........................................................................................28
2.1.2. Mặt khách quan................................................................................32
2.1.3. Chủ thể.............................................................................................41
2.1.4. Mặt chủ quan ...................................................................................44
2.1.5. Phân biệt Tội không chấp hành án với một số tội phạm khác có
liên quan...........................................................................................46
2.2. HÌNH PHẠT VÀ CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP ............................53
2.2.1. Hình phạt..........................................................................................53
2.2.2. Các biện pháp tƣ pháp .....................................................................56
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN..........58
3.1. THỰC TRẠNG XỬ LÝ TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN............58
3.2. CƠ SỞ CỦA CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ
LÝ TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN..............................................68
3.2.1. Hiến pháp 2013 - Cơ sở Hiến định cho việc quy định Tội không
chấp hành án.....................................................................................68
3.2.2. Xuất phát từ tình hình tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp nói
chung và Tội không chấp hành án hiện nay ở Việt Nam ................71
3.3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT..........................................................71
3.3.1. Những định hƣớng chung................................................................72
3.3.2. Đề xuất sửa đổi, bổ sung điều luật quy định về Tội không chấp
hành án đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự .................................74
3.4. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN ....................................................78
3.4.1. Tăng cƣờng công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật.........78
3.4.2. Đẩy mạnh công tác hƣớng dẫn và áp dụng pháp luật......................78
3.4.3. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lƣợng của đội ngũ cán
bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp ..........................................................79
3.4.4. Tăng cƣờng sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan đến việc
giải quyết các vụ án .........................................................................81
3.4.5. Tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động
tƣ pháp, các cơ quan tƣ pháp và cán bộ thuộc cơ quan tƣ pháp......81
3.4.6. Xây dựng án lệ.................................................................................83
3.4.7. Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tƣ pháp........84
KẾT LUẬN....................................................................................................85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................87
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
CTTP: Cấu thành tội phạm
QHNQ: Quan hệ nhân quả
TNHS: Trách nhiệm hình sự
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Thống kê khung hình phạt tù có thời hạn Điều 304
BLHS 1999 55
Bảng 3.1: Số liệu tình hình xét xử tội phạm trên toàn quốc từ năm
2011-2015 63
Bảng 3.2: Số liệu các vụ án xâm phạm hoạt động tƣ pháp đã bị khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử trong 05 năm 2011 -2015 64
Bảng 3.3: Số liệu các vụ án Tội không chấp hành án đã bị khởi tố,
xét xử 05 năm 2011 -2015 65
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống các cơ quan nhà nƣớc, các cơ quan tƣ pháp giữ vị trí
quan trọng đặc biệt, là công cụ đắc lực để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Hoạt động của các cơ quan tƣ pháp là điều kiện cần thiết để
đảm bảo duy trì công lý nói chung cũng nhƣ để đảm bảo sự hoạt động của các
cơ quan nhà nƣớc khác. Với tính chất quan trọng nhƣ vậy, hoạt động của các
cơ quan tƣ pháp cần thiết phải đƣợc bảo vệ bằng luật hình sự trong những
trƣờng hợp nhất định. Hoạt động của các cơ quan tƣ pháp có ý nghĩa quan
trọng trong hoạt động chung của bộ máy nhà nƣớc, nó không chỉ góp phần
bảo đảm cho hoạt động của xã hội (Nhƣ việc đấu tranh chống các loại tội
phạm nhằm bảo đảm an ninh – trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà
nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của mọi tổ chức và công dân), mà còn góp
phần vào công tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm, giáo dục công dân ý
thức tuân thủ pháp luật. Đây là lý do đòi hỏi phải có những biện pháp cần
thiết cũng nhƣ các quy phạm pháp luật phù hợp bảo đảm cho hoạt động đúng
đắn của các cơ quan tƣ pháp, chống lại mọi hành vi xâm hại việc thực hiện
chức năng của các cơ quan này.
Điều 106 của Hiến pháp 2013 đã nêu rõ: "Bản án, quyết định của Tòa án
nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân
tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành"
[37, Điều 106]. Bản án, quyết định của Tòa án đƣợc thi hành chính là lúc công
lý đƣợc thực hiện trong cuộc sống. Nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm mục
đích cảm hoá tƣ tƣởng, giáo dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng lao động nhằm
mục đích làm cho ngƣời thụ án trở thành một công dân tốt cho xã hội và góp
phần răn đe, ngăn ngừa chung, các phần dân sự trong bản án hình sự, hôn
2
nhân gia đình, dân sự, kinh tế... đƣợc thực hiện góp phần nâng cao nhận thức
của mọi công dân, tổ chức xã hội về sự công bằng của xã hội cũng nhƣ ý thức
trách nhiệm của mọi ngƣời trong việc tuân thủ pháp luật. Việc chấp hành bản
án là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, chấp hành bản
án, quyết định của tòa án có mối quan hệ hữu cơ với giai đoạn khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử. Nếu việc chấp hành bản án không đƣợc thực thi thì toàn bộ
hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trƣớc đó cũng trở nên vô nghĩa.
Nếu nhƣ một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không đƣợc
chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm thì trật tự kỷ cƣơng xã hội bị vi
phạm, quyền lực Nhà nƣớc bị xem thƣờng. Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu
lực của các bản án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu khách quan trong
hoạt động quản lý Nhà nƣớc.
Tội không chấp hành án đƣợc quy định trong chƣơng các tội xâm phạm
hoạt động tƣ pháp (Điều 304) của Bộ luật hình sự năm 1999. Hành vi không
chấp hành án là hành vi xâm hại đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ
pháp. Chính vì vậy, Tội không chấp hành án đã gây những tổn hại không nhỏ
đến việc thực hiện chức năng và uy tín của các cơ quan tƣ pháp.
Hiện nay, tình hình tội phạm nói chung và Tội không chấp hành bản án
nói riêng đang ngày càng diễn biến phức tạp. Đặc biệt là Tội không chấp hành
bản án đang có chiều hƣớng gia tăng, điều này đã gây bức xúc trong dƣ luận.
Thực tiễn cho thấy nhiều tổ chức, cá nhân vì chạy theo lợi nhuận đã thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng về việc không chấp hành án. Những
hành vi này cần bị xử lý hình sự để răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung, đáp
ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh đối với tội phạm nói chung và Tội
không chấp hành án nói riêng.
Mặc dù đã đƣợc quy định thành một điều luật riêng (Điều 304) tại Bộ
luật Hình sự năm 1999, điều này đã tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan tiến
3
hành tố tụng trong việc áp dụng pháp luật đối với loại tội phạm này, nhƣng
trên thực tiễn thi hành đã chỉ ra, bên cạnh mặt tích cực còn bộc lộ những hạn
chế nhƣ: a. Qua theo dõi các địa phƣơng thì thấy rằng, rất ít các vụ việc không
chấp hành án đƣợc xử lý hình sự theo quy định tại Điều 304 Bộ luật Hình sự.
Trên thực tế hành vi không chấp hành án vẫn xảy ra mà chƣa bị xử lý về hình
sự dẫn đến bỏ lọt tội phạm. b. Nhiều bản án về tội phạm này chƣa đúng với
tính chất mức độ phạm tội ảnh hƣởng đến tính nghiêm minh của pháp luật, tạo
ra sự mất bình đẳng trong xã hội làm mất lòng tin của nhân dân vào hệ thống
pháp luật hình sự; c. Hình phạt áp dụng đối với ngƣời phạm tội chƣa phản ánh
đúng với tính chất phạm tội của họ, chƣa đảm bảo chính sách xử lý nghiêm
minh đối với các trƣờng hợp phạm tội có tính chất nghiêm trọng hơn, gây khó
khăn cho các cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng thống nhất
quá trình xử lý vụ việc; d. Các hành vi cấu thành Tội không chấp hành án còn
quy định chƣa đầy đủ, ví dụ nhƣ: hành vi tẩu tán tài sản.
Những hạn chế nêu trên đã gây ra các hậu quả xã hội nhƣ: làm giảm
hiệu lực thi hành của các quyết định và bản án đã có hiệu lực của tòa án, đồng
thời làm vô hiệu hóa các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Từ đó
gây ra những bức xúc trong dƣ luận, giảm sút lòng tin trong nhân dân đối với
pháp luật hình sự, tạo tiền lệ chây ỳ, coi thƣờng việc chấp hành các bản án đã
có hiệu lực thi hành. Những hành vi này cần bị xử lý hình sự để răn đe, giáo
dục, phòng ngừa chung, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh đối với tội
phạm nói chung và Tội không chấp hành án nói riêng.
Thực trạng đó do nhiều nguyên nhân nhƣ: thực tế chƣa có tiền lệ, nên
loại tội phạm này còn xa lạ với cơ quan tố tụng, nhiều nơi còn tâm lý e ngại
hoặc bỏ mặc, trong đó có qui định của pháp luật về tội phạm chƣa phù hợp, cụ
thể: Tội không chấp hành án lần đầu tiên đã đƣợc quy định thành một tội danh
độc lập trong BLHS 1999, nhƣng chỉ quy định chế tài mà chƣa có hƣớng dẫn
4
cụ thể về các yếu tố cấu thành tội danh không chấp hành án và thế nào là ''đã
bị áp dụng biện pháp cƣỡng chế cần thiết'' (hiện tại toàn bộ chƣơng các tội
xâm phạm hoạt động tƣ pháp trong đó có tội danh không chấp hành án của Bộ
luật hình sự đều chƣa có hƣớng dẫn) nên khó cho các cơ quan tố tụng trong
việc khởi tố, truy tố, điều tra và xét xử.
Sự phát triển, bổ sung và đề cao quyền con ngƣời, quyền cơ bản của
công dân trong Hiến pháp 2013 đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các
quy định của Bộ luật hình sự hiện hành. Quyền con ngƣời cần đƣợc bảo đảm
thông qua hệ thống các cơ quan tƣ pháp nhƣ quyền làm chủ, quyền bảo vệ tài
sản, quyền đƣợc bảo đảm về tính mạng, danh dự, nhân phẩm...đƣợc thông qua
hệ thống các cơ quan tƣ pháp
Việc chấp hành bản án là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết
một vụ án, chấp hành bản án, quyết định của tòa án có mối quan hệ hữu cơ
với giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu việc chấp hành bản án
không đƣợc thực thi thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử
trƣớc đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu nhƣ một bản án, quyết định của Tòa án
có hiệu lực pháp luật không đƣợc chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm
thì trật tự kỷ cƣơng xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nƣớc bị xem thƣờng.
Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án là
một yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý Nhà nƣớc.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng
cao hiệu quả áp dụng xử lý Tội không chấp hành án là cần thiết nên tác giả
chọn đề tài “Tội không chấp hành án theo Luật hình sự Việt Nam” làm
luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Do Tội không chấp hành án có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ
các hoạt động của các cơ quan tƣ pháp, đồng thời là điều kiện cần thiết để
5
đảm bảo duy trì công lý nói chung cũng nhƣ để đảm bảo hoạt động của các
cơ quan nhà nƣớc, nên ở trong và ngoài nƣớc đã có nhiều công trình nghiên
cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh, phƣơng diện
khác nhau về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp, trong đó có Tội không
chấp hành án.
Trong những năm qua, việc nghiên cứu các tội xâm phạm hoạt động tƣ
pháp nói chung và Tội không chấp hành án đã thu hút đƣợc sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu đã đƣợc công bố nhƣ:
- Trần Minh Hƣởng, Đặng Thu hiền: “Tìm hiểu các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp”, Nhà xuất bản văn hóa Dân tộc, năm 2002;
- Phạm Thanh Bình, Nguyễn Vạn Nguyên: “Các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1997;
- Nguyễn Ngọc Điệp, Hồ Thị Nệ: “Tìm hiểu các tội hoạt động tư pháp
trong Bộ Luật Hình sự năm 1999”, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2001;
- Nguyễn Tất Viễn, Luận án Phí tiến sĩ Luật học: “Đảm bảo quyền con
người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam”, năm 1996;
- Nguyễn Huy Hoàn, Luận án tiến sĩ Luật học: “Đảm bảo quyền con
người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, năm 2005;
- Đề tài nghiên cứu khoa học: “Thực trạng các tội xâm phạm hoạt động
tư pháp và trách nhiệm của Viện Kiểm sát nhân dân các cấp trong cuộc đấu
tranh chống các tội phạm này”, Chủ nhiệm Đề tài Bùi Đức Long, cơ quan
chủ trì: Trƣờng Cao đẳng Kiểm sát, 1998.
Ngoài ra Tội không chấp hành án còn đƣợc nhiều các nhà nghiên cứu
khoa học, các đồng chí trực tiếp làm công tác tƣ pháp có nhiều trao đổi trên
các báo Pháp Luật, báo chuyên ngành, tại các hội nghị tổng kết và trong các
Giáo trình Luật hình sự của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình của
Khoa Luật trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội.
6
Các tác giả chủ yếu đề cập đến trách nhiệm hình sự, tìm hiểu và bình
luận về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp trong Luật Hình sự Việt Nam,
đảm bảo quyền con ngƣời trong hoạt động tƣ pháp ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay, hoặc nghiên cứu các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp với tƣ
cách là đối tƣợng hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân, chƣa có công trình
khoa học nào nghiên cứu sâu về riêng Tội không chấp án theo quy định của
luật hình sự Việt Nam.
Nhƣ vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng
định việc nghiên cứu đề tài "Tội không chấp hành án theo luật hình sự Việt
Nam” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những yếu tố cơ bản của Tội không chấp hành
án, qua đó thấy đƣợc những tồn tại, hạn chế và rút ra phƣơng pháp đúng đắn
thiết yếu trong đấu tranh phòng chống tội phạm không chấp hành án. Đồng
thời cho ta thấy đƣợc tình hình diễn biến của loại tội phạm này và có biện
pháp đúng đắn để ngăn chặn và đi đến đẩy lùi tội phạm. Qua đó thấy đƣợc
việc đấu tranh phòng chống tội phạm là trách nhiệm của toàn xã hội, cần có
sự phối hợp của các cơ quan, ban ngành nhằm tạo nên sức mạnh để đẩy lùi tội
phạm này góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tạo sự
tin tƣởng của nhân dân đối với hệ thống các cơ quan tƣ pháp.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn này nghiên cứu các quy định của pháp luật về Tội
không chấp hành án dƣới khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng chúng trong
thực tiễn, từ đó luận văn đƣa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định
về Tội không chấp hành án trong luật hình sự Việt Nam, cũng nhƣ đề xuất
những giải pháp nâng cao hiệu quả của tội này trong thực tiễn áp dụng.
7
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Trên cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả trong nƣớc
về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp nói chung và Tội không chấp hành án
nói riêng, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về Tội không
chấp hành án nhƣ: Khái niệm, đặc điểm pháp lý của Tội không chấp hành án;
phân biệt Tội không chấp hành án với Tội không thi hành án;
- Khái quát sự phát triển của chế định Tội không chấp hành án trong
lịch sử pháp luật hình sự của nƣớc ta từ năm 1945 đến nay để rút ra những
nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu các quy định cụ thể về Tội không chấp hành án trong Bộ
luật hình sự hiện hành của Việt Nam, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định Tội không chấp
hành án, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc
áp dụng và những nguyên nhân cơ bản của nó;
- Từ đó đề xuất những định hƣớng và giải pháp hoàn thiện các quy định
về Tội không chấp hành án trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành, cũng
nhƣ những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng của tội này trong thực tiễn.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề sau:
Trên cơ sở nghiên cứu quy định về Tội không chấp hành án trong lịch
sử phát triển của pháp luật hình sự Việt nam kết hợp với việc nghiên cứu đánh
giá tình hình áp dụng Tội không chấp hành án trong thực tiễn xét xử của Tòa
án các cấp và những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị
những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng Tội
không chấp hành án trong thực tiễn.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng Tội không chấp
hành án trong 05 năm (2011- 2015).
8
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-Xít, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
Nhà nƣớc và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tƣ pháp đƣợc thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-
NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về
Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, luận văn đã sử dụng các phƣơng
pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ: phƣơng pháp phân tích
và tổng hợp; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu; phƣơng pháp diễn dịch; phƣơng
pháp quy nạp; phƣơng pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri
thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc nghiên
cứu trong luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phƣơng diện
lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở
cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về Tội không chấp hành án, mà trong đó
giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới Tội
không chấp hành án trong luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản
của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong nƣớc về Tội không chấp
hành án để xây dựng nên khái niệm Tội không chấp hành án, bảo đảm tính
chính xác, khoa học, đồng thời chỉ ra các đặc điểm cơ bản của tội không chấp
hành bản án trong mối tƣơng quan so sánh với một số chế định khác;
- Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành
và phát triển của Tội không chấp hành án trong luật hình sự Việt Nam từ năm
1945 cho đến nay;
9
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ tình hình áp dụng quy định về Tội
không chấp hành án của Tòa án các cấp; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn
áp dụng Tội không chấp hành án, cũng nhƣ những nguyên nhân cơ bản của
các tồn tại, hạn chế đó;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất các định hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao
hiệu quả áp dụng Tội không chấp hành án trong giai đoạn xây dựng Nhà nƣớc
pháp quyền và cải cách tƣ pháp hiện nay ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm: ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chƣơng, có kết cấu nhƣ sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về Tội không chấp hành án.
Chương 2. Đặc điểm pháp lý về Tội không chấp hành án theo quy định
của Bộ luật hình sự năm 1999.
Chương 3. Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả xử
lý Tội không chấp hành án.
10
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN
1.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI KHÔNG CHẤP
HÀNH ÁN
1.1.1. Khái niệm Tội không chấp hành án
Tội không chấp hành án là một tội đƣợc quy định trong Bộ Luật hình
sự Việt Nam năm 1999. “Tội phạm là một chế định cơ bản, quan trọng nhất
trong luật hình sự, là sơ sở cho việc xác định một hành vi có phải là tội phạm
hay không. Đã có nhiều định nghĩa khoa học về tội phạm ở những cách tiếp
cận và quan điểm khác nhau” [23]. Khái niệm tội phạm đƣợc hình thành
trong quá trình phát triển, hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam. Trong Bộ
luật hình sự năm 1985, khái niệm này đã phản ánh một cách khá đầy đủ các
quy định về tội phạm và xác định cụ thể hành vi nào là tội phạm. Tuy nhiên
do sự phát triển của xã hội khái niệm tội phạm cũng đƣợc sửa đổi cho phù
hợp với hoàn cảnh thực tế, trên cơ sở kế thừa và phát huy những nguyên tắc,
chế định hình sự pháp luật của nƣớc ta, Bộ luật hình sự 1999 đã sửa đổi khái
niệm về tội phạm có tính khoa học thể hiện tập trung nhất quan điểm của Nhà
nƣớc ta về tội phạm.
Tội không chấp hành án là một trong các tội xâm phạm hoạt động tƣ
pháp. Hiện nay, pháp luật Việt Nam chƣa có quy định nào định nghĩa hoặc
hƣớng dẫn chính thức về khái niệm “Hoạt động tƣ pháp”, mà tồn tại nhiều
quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng hoạt động tƣ pháp bao gồm hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng nhƣ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án;
của những ngƣời tiến hành tố tụng nhƣ Thủ trƣởng Cơ quan điều tra, Điều tra
viên, Viện trƣởng, Phó thủ trƣởng Cơ quan Cơ quan điều tra, Điều tra viên,
11
Viện trƣởng, Phó viện trƣởng Viện kiểm sát, kiểm sát viên; Chánh án, Phó
Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm và Thƣ ký Tòa án.
Quan điểm thứ hai cho rằng hoạt động tƣ pháp còn bao gồm các chủ
thể đƣợc giao tiến hành một số hoạt động tố tụng nhƣ: Hải quan, Kiểm lâm,
Bộ đội Biên phòng, Kiểm sát biển; Cơ quan thi hành án (dân sự và hình sự).
Quan điểm thứ ba cho rằng, khái niệm hoạt động tƣ pháp phải hiểu theo
nghĩa rộng, bao gồm ba dạng hoạt động: hoạt động tƣ pháp trong lĩnh vực tố
tụng (tƣ pháp – tố tụng), hoạt động tƣ pháp trong lĩnh vực hành chính (tƣ
pháp – hành chính) và hoạt động bổ trợ tƣ pháp.
Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, khái niệm “hoạt động tƣ pháp”
chỉ nên hiểu theo nghĩa là “hoạt động tố tụng”, tức là hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án do các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và Thi
hành án; của những ngƣời tiến hành tố tụng nhƣ: Thủ trƣởng Cơ quan điều
tra, Điều tra viên, Viện trƣởng, Phó Viện trƣởng Viện Kiểm sát, Kiểm sát
viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thƣ ký Tòa án,
Chấp hành viên thực hiện.
Điều 292 BLHS 1999 qui định: “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp
là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra,
kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” [30, Điều 292].
Các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp là hành vi nguy hiểm cho xã hội
xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của lĩnh vực tƣ pháp, nhƣng tính chất,
phạm vi của tƣ pháp có cách tiếp cận khác nhau, do đó quan niệm về tƣ pháp
ở các nƣớc cũng khác nhau. Ở nƣớc ta, khái niệm tƣ pháp đƣợc hiểu theo
nghĩa rộng là một hệ thống các thiết chế, các tổ chức bảo vệ pháp luật, duy trì,
bảo đảm công lý, công bằng xã hội, trong đó hoạt động xét xử của cơ quan
nhà nƣớc có thẩm quyền là Tòa án giữ vai trò, vị trí quan trọng, là khâu trung
12
tâm.Vì vậy, khi nói tới Tòa án là nói tới biểu tƣợng điển hình của việc tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật, là nơi biểu hiện rõ nhất bản chất của pháp luật.
Hoạt động xét xử của Tòa án, thông qua những thủ tục tố tụng nhất định, đối
với những vụ việc vi phạm pháp luật, tranh chấp của các chủ thể trong đời
sống xã hội, nhằm bảo vệ pháp luật, duy trì, bảo đảm công lý, công bằng xã
hội. Vì vậy, toàn bộ các hoạt động điều tra, truy tố và các hoạt động bổ trợ tƣ
pháp (Giám định, Luật sƣ, Công chứng, Hộ tịch, Tƣ vấn pháp luật...) đều
nhằm phục vụ cho quá trình làm sáng tỏ chân lý, tìm ra sự thật của các vụ
việc đã diễn ra trên thực tế, để trên cơ sở đó, Tòa án đƣa ra phán quyết theo
qui định của pháp luật. Kết thúc giai đoạn xét xử, Tòa án quyết định những
vấn đề thuộc về nội dung vụ án, xác định trách nhiệm pháp lý và chế tài thích
hợp cho từng đối tƣợng cụ thể, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà
nƣớc, cơ quan, tổ chức và của công dân. Các bản án và quyết định xét xử của
Tòa án không những nhân danh Nhà nƣớc mà còn thể hiện quyền lực tối cao
của pháp quyền có hiệu lực thi hành, Điều 106 của Hiến pháp 2013 đã nêu rõ:
"Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ
quan nhà nước, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu
quan phải nghiêm chỉnh chấp hành" [37, Điều 106]. Vì vậy, các bản án và
quyết định của Tòa án phải đƣợc nghiêm chỉnh chấp hành thì lúc đó kết quả
của các cơ quan tiến hành tố tụng mới đƣợc thực thi trên thực tế.
Hoạt động tƣ pháp là hoạt động của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Toà án và Cơ quan thi hành án trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án đối với các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và giải
quyết các quan hệ pháp luật khác đƣợc phát sinh theo quy định của pháp luật,
nhằm bảo vệ các quyền của Nhà nƣớc, của các tổ chức, của công dân. Hoạt
động tƣ pháp là hoạt động quyền lực Nhà nƣớc do các cơ quan tƣ pháp thực
hiện. Các hoạt động này do ngƣời đại diện của các cơ quan tƣ pháp nhân danh
Nhà nƣớc trực tiếp thực hiện theo chức danh đƣợc bổ nhiệm.
13
Nhƣ vậy, theo qui định của BLHS 1999, hoạt động tƣ pháp là hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, do đó xâm phạm đến sự đúng đắn
của các hoạt động này đƣợc coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức
phải xử lý bằng chế tài hình sự.
Chủ thể của các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp chủ yếu là cán bộ
thuộc các cơ quan tƣ pháp. Hiện nay, chƣa có văn bản quy phạm pháp luật
nào hƣớng dẫn cụ thể thế nào là cơ quan tƣ pháp. Tuy nhiên, từ định nghĩa về
hoạt động tƣ pháp đã định nghĩa ở trên có thể hiểu cơ quan tƣ pháp là các cơ
quan Nhà nƣớc trực tiếp thực hiện quyền tƣ pháp trong quyền lực nhà nƣớc
bao gồm Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra, Cơ quan
thi hành án. Trong cơ quan tƣ pháp có nhiều cán bộ, công chức thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ nhất định nhƣ các cán bộ thực hiện các hoạt động tƣ
pháp, các cán bộ thực hiện chức năng quản lý, các công chức giúp việc khác.
Cán bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp đƣợc bổ nhiệm theo điều kiện và cách thức
điều luật quy định.
Ngoài ra, chủ thể các tội phạm hoạt động tƣ pháp còn là những
ngƣời khác, trong một số trƣờng hợp nhất định mà hành vi phạm tội của
họ liên quan đến hoạt động tƣ pháp, nhƣ: Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc
trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử (Điều 311), Tội che giấu tội
phạm (Điều 313) [30].
Dựa vào đặc điểm của chủ thể tội phạm thì ta chia các tội xâm phạm
hoạt động tƣ pháp thành bốn nhóm, trong đó Tội không chấp hành án thuộc
nhóm các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà chủ thể là đối tƣợng của các
bản án hoặc quyết định của cơ quan tƣ pháp đƣợc quy định tại các Điều 304
và 311 BLHS 1999
Đối với hình thức lỗi của các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp đƣợc
thực hiện chủ yếu bằng hình thức lỗi cố ý và bảo gồm cả hình thức hành động
phạm tội cũng nhƣ không hành động phạm tội.
14
Các hành vi nguy hiểm cho xã hội trong các tội xâm phạm hoạt động tƣ
pháp có thể biểu hiện dƣới dạng hành động nhƣ bức cung, dùng nhục hình, ra
bản án trái pháp luật, trốn khỏi nơi giam; hoặc dƣới dạng không hành động
nhƣ: không truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời có tội, thiếu trách nhiệm để
ngƣời bị giam, giữ trốn, không chấp hành án.
Tội không chấp hành án là một trong các tội xâm phạm hoạt động tƣ
pháp, nên nó cũng xâm hại đến khách thể loại của nhóm tội phạm này là sự
đúng đắn trong hoạt động tƣ pháp, bao gồm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án. Tội không chấp hành án hành án có mối liên hệ logic với các
tội phạm khác trong chƣơng các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp, tạo thành
một tổng thể hoàn chỉnh trừng trị những hành vi xâm phạm đến tính đúng đắn
trong quá tình giải quyết vụ án.
Từ những phân tích trên cho thấy, có thể đƣa ra khái niệm không chấp
hành án nhƣ sau: không chấp hành án là hành vi của những người có khả
năng, điều kiện để chấp hành án nhưng cố ý không chấp hành bản án, quyết
định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật đối với họ.
Qua khái niệm không chấp hành án cho thấy đó chính là hành vi không
chấp hành bản án, quyết định của tòa án mà bản án và quyết định của tòa án là
kết quả hoạt động tƣ pháp trong việc giải quyết các vụ án. Nhƣng đó chƣa
phải là kết quả cuối cùng của hoạt động tƣ pháp. Bản án cũng nhƣ các quyết
định của tòa án chỉ có ý nghĩa thực sự khi đƣợc chấp hành. Hành vi cố ý
không chấp hành bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật
không chỉ trực tiếp xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan thi hành án
mà còn vô hiệu hóa kết quả của các hoạt động tƣ pháp đã đƣợc thực hiện.
Từ khái niệm trên cho thấy hành vi không chấp hành án chính là không
chấp hành bản án. Về mặt lý luận cho đến nay chƣa có tác giả nào đề cập một
cách toàn diện về nội hàm của khái niệm bản án, quyết định của Tòa án, vì có
15
thể mọi ngƣời quan niệm pháp luật quy định về vấn đề này khá rõ ràng. Tuy
nhiên, trong thực tiễn pháp lý, khái niệm bản án, quyết định của Tòa án đôi
khi có những quan điểm khác nhau từ phía những ngƣời tiến hành và tham gia
tố tụng, có trƣờng hợp làm ảnh hƣởng đến quyền lợi của bị cáo, các bên
đƣơng sự...Ví dụ nhƣ: khi Hội đồng xét xử đã tuyên án, việc thẩm phán chủ
tọa ra văn bản bổ sung những thiếu sót về số liệu, hoặc ra quyết định đính
chính một số nội dung, chi tiết nhƣ thực tiễn đã xảy ra, có đƣợc coi những tại
liệu đó là “ một phần” của bản án, quyết định của Tòa án hay không ? Bản
thân văn bản “ Trích sao bản án quyết định” có đóng dấu và chữ ký của Thẩm
phán chủ tọa, hoặc bản sao y do văn phòng của Toà án chứng thực có phải là
chính bản án, quyết định hay không ?..Mặt khác, ảnh hƣởng của bản án, quyết
định đối với số phận, tính mạng, tài sản của công dân, pháp nhân là rất lớn
nên theo quan điểm của tác giả, qua nghiên cứu các quy định pháp lý hiện
hành trong tố tụng hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và hành chính thì khái
niệm chung về bản án, quyết định của Tòa án đƣợc hiểu là văn bản pháp lý
được Tòa án có thẩm quyền tuyên xử hoặc quyết định theo một trình tự tố
tụng do luật định về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi hoặc
quan hệ pháp luật phát sinh từ một vụ án cụ thể.
Từ những phân tích trên, có thể đƣa ra khái niệm Tội không chấp hành
án nhƣ sau: “Tội không chấp hành án là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS cố ý không chấp hành bản
án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng
biện pháp cưỡng chế cần thiết”.
1.1.2. Một số đặc điểm của Tội không chấp hành án
Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 đã định nghĩa khái niệm tội phạm:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ luật
hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
16
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa [30, Điều 8].
Từ định nghĩa này có thể định nghĩa khái quát tội phạm nhƣ sau: Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải
chịu hình phạt.
Điều 304 quy định tội Không chấp hành án thuộc Chƣơng XXII các tội
xâm phạm hoạt động tƣ pháp BLHS 1999 nhƣ sau: “Người nào cố ý không
chấp hành bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc
dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết, thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm” [30, Điều 304].
Cũng giống nhƣ các tội phạm khác, Tội không chấp hành án là hành vi
nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý. Tuy nhiên, so với các loại
tội phạm khác, Tội không chấp hành án có những đặc điểm riêng nhƣ sau:
Thứ nhất, Tính nguy hiểm cho xã hội
Không chấp hành án là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải đƣợc
hình sự hóa. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là dấu hiệu cơ bản nói lên
bản chất chính trị, xã hội của tội phạm, dấu hiệu này đƣợc coi là dấu hiệu nội
dung quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Một hành vi sở dĩ bị quy
định trong luật hình sự là tội phạm và phải chịu TNHS vì nó có tính nguy
hiểm cho xã hội do đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các
quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ. Tầm quan trọng của quan hệ xã hội
do tính chất của quan hệ đó trong các thang giá trị xã hội do giai cấp thống trị
17
thiết lập. Do đó, tính chất của quan hệ xã hội có thể bị thay đổi ở những xã
hội khác nhau hoặc ngay trong một chế độ xã hội nhƣng ở những thời kỳ khác
nhau thì tính chất của quan hệ xã hội cũng có thể thay đổi. Điều đó đòi hỏi
nhà làm luật khi xem xét tính chất quan trọng của quan hệ xã hội để đánh giá
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phải dựa trên hoàn cảnh lịch sử cụ thể,
xuất phát từ lợi ích giai cấp, trên lập trƣờng giai cấp. Tuy nhiên, tính chất
quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm hại không thể là yếu tố duy nhất phản
ánh mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà chỉ khi đƣợc kết
hợp với những yếu tố khác nó mới phản ánh hành vi là nguy hiểm đã đến mức
coi là tội phạm và cần phải xử lý bằng chế tài hình sự hay không. Tính nguy
hiểm cho xã hội đƣợc phản ánh ở hai đại lƣợng: tính chất và mức độ nguy
hiểm của hành vi. Tính chất của hành vi là đặc tính về "chất" của thiệt hại,
đƣợc xác định căn cứ vào tính chất của quan hệ xã hội bị thiệt hại, quan hệ
xã hội càng quan trọng thì tính chất của thiệt hại càng nghiêm trọng. Mức độ
của thiệt hại là đặc tính về "lƣợng" của thiệt hại, tùy theo từng loại thiệt hại
mà mức độ đó đƣợc biểu hiện khác nhau. Vì vậy, tính chất và mức độ của
thiệt hại là một căn cứ để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi,
khi kết hợp với các căn cứ khác nó phản ánh một hành vi là nguy hiểm
"đáng kể" hay "không đáng kể" cho xã hội, tạo cơ sở để nhà làm luật tội
phạm hóa và phi tội phạm hóa.
Tội Không chấp hành án đƣợc qui định tại Điều 304 Bộ luật hình sự
1999 thì hành vi này tính nguy hiểm cho xã hội của nó đƣợc thể hiện ở chỗ:
Hành vi không chấp hành án đã xâm hại đến kết quả hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng nhƣ: Điều tra, truy tố, xét xử. Một trong những bộ
phận của hoạt động tƣ pháp trong quá trình giải quyết vụ án. Tƣ pháp là một
trong ba nhánh quyền lực của một nhà nƣớc, việc duy trì, củng cố, phát triển
quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của bất
18
kỳ chính thể nào. Trong nhà nƣớc pháp quyền, tƣ pháp không những là biểu
tƣợng mà còn là thiết chế để bảo vệ công lý, tƣ pháp bảo đảm cho công lý
đƣợc thực thi. Vì vậy, tƣ pháp đòi hỏi phải có sự công tâm, vô tƣ, khách quan
nhất là sự chuẩn mực, mọi phán quyết cũng nhƣ thi hành các phán quyết đó
cần phải thực thi một cách đầy đủ, không phụ thuộc vào bất kỳ một áp lực xã
hội nào. Để bảo vệ những yêu cầu này của hoạt động tƣ pháp, trong số các
công cụ nhà nƣớc sử dụng thì pháp luật hình sự với chế tài nghiêm khắc đƣợc
coi là ngƣời gác cửa cuối cùng và quan trọng nhất. Trong điều kiện cải cách
tƣ pháp, hội nhập quốc tế đƣợc tiến hành thì yêu cầu bảo đảm thực hiện
nghiêm chỉnh, đầy đủ phán quyết của tòa án lại cần phải đƣợc tăng cƣờng;
hành vi không chấp hành án không những chỉ xâm hại đến khách thể loại của
các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà còn xâm hại đến sự đúng đắn trong
hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng mà kết quả của nó là sự phán
quyết của tòa án, với tƣ cách là khách thể trực tiếp của tội phạm, cũng nhƣ
xâm hại đến quyền lợi của nhà nƣớc và quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân đƣợc luật hình sự bảo vệ. Chấp hành án đƣợc hiểu là việc thực hiện
bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế, đó là văn bản pháp lý của Tòa án
nhân danh Nhà nƣớc tuyên tại phiên tòa, giải quyết về các vấn đề trong vụ án
hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính. Việc
chấp hành bản án, quyết định của Tòa án có hiệu quả, một mặt bảo đảm thực
hiện quyền tƣ pháp của Nhà nƣớc, thể hiện sự tôn trọng của xã hội và công
dân đối với phán quyết của cơ quan nhân danh Nhà nƣớc là Tòa án, mặt khác
nó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà
nƣớc, tổ chức và công dân đã bị xâm hại. Vì vậy không chấp hành án đã xâm
hại đến những quan hệ nói trên đƣợc pháp luật hình sự bảo vệ.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định không chấp hành án là hành
vi nguy hiểm cho xã hội đến mức độ “đáng kể” và bị coi là tội phạm và cần
19
thiết phải bị trừng trị bằng chế tài hình sự. Tội không chấp hành án đƣợc thực
hiện bởi hành vi nguy hiểm cho hội với biểu hiện: a.“Không hành động” nhƣ
không thi hành quyết định của bản án và các quyết định khác của Tòa án mà
họ có nghĩa vụ phải thi hành; b.“hành động” nhƣ bỏ trốn, tránh mặt lúc lực
lƣợng thi hành lệnh cƣỡng chế... Đồng thời hành vi này phải đã bị áp dụng
các biện pháp cƣỡng chế cần thiết điều này có nghĩa hành vi này chỉ bị coi là
phạm tội nếu sau khi đã bị áp dụng những biện pháp cƣỡng chế mà vẫn tiếp
tục không chịu chấp hành. Việc quy định tính nguy hiểm cho xã hội của Tội
không chấp hành án là căn cứ để phân biệt tội phạm này với các hành vi vi
phạm khác và là cơ sở để đánh giá mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít của
hành vi phạm tội và qua đó giúp cho việc cá thể hóa TNHS đƣợc chính xác.
Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này và cũng
không phải là tình tiết là yếu tố định khung hình phạt vì tội phạm này chỉ có
một khung hình phạt.
Thứ hai, Tính có lỗi
Lỗi là thái độ chủ quan của con ngƣời đối với hành vi nguy hiểm cho
xã hội của mình và đối với hậu quả của hành vi đó thể hiện dƣới dạng cố ý
hoặc vô ý. Hai mặt khách quan và chủ quan của tội phạm có liên hệ chặt chẽ
với nhau. Không thể có hành vi nguy hiểm cho xã hội mà không có lỗi của
ngƣời phạm tội. Tội không chấp hành án đƣợc thực hiện bởi lỗi cố ý, không
có lỗi vô ý bởi ngƣời phạm tội biết đƣợc hành vi không chấp hành bản án
hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng các
biện pháp cƣỡng chế cần thiết nhƣng ngƣời phạm tội vẫn tiếp tục không chấp
hành bản án hoặc quyết đó. Theo qui định của Điều 304 BLHS 1999 chủ thể
của không chấp hành án là chủ thể đặc biệt, chỉ có những ngƣời có nghĩa vụ
phải chấp hành các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật mới có
thể là chủ thể của tội phạm này. Họ có thể là bị cáo trong vụ án hình sự hoặc
20
là đƣơng sự của vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính, kinh doanh
thƣơng mại.
Thứ ba, Tính trái pháp luật
Hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ đƣợc coi là tội phạm nếu nó đƣợc
quy định trong luật hình sự. Nhƣ vậy tính trái pháp luật cũng là dấu hiệu đặc
biệt quan trọng. Những hành vi đƣợc coi là trái pháp luật cũng đồng thời là
hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong Luật hình sự. Quy định
tính trái pháp luật hình sự là cơ sở và đảm bảo quyền tự do dân chủ của công
dân không bị những hành vi xử lý tùy tiện vi phạm, thúc đẩy cơ quan lập
pháp kịp thời sửa đổi, bổ sung luật phù hợp với sự thay đổi tình hình kinh tế,
chính trị, văn hoá - xã hội. Tính trái pháp luật hình sự tuy chỉ là dấu hiệu về
mặt hình thức pháp lý, phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu về
mặt nội dung chính trị, xã hội của tội phạm nhƣng vẫn có tính độc lập tƣơng
đối và có ý nghĩa quan trọng và là dấu hiệu đƣợc xác định bởi dấu hiệu tính
nguy hiểm cho xã hội.
Nhƣ đã phân tích ở trên hành vi không chấp hành án là hành vi nguy
hiểm cho xã hội và đƣợc quy định trong BLHS (Điều 304) và nó trái pháp
luật hình sự hay nói cách khác nó đƣợc quy định trong BLHS.
Thứ tư, Tính phải chịu hình phạt
Tính phải chịu hình phạt có nghĩa là bất cứ một hành vi phạm tội nào
cũng đều bị đe dọa phải chịu một hình phạt. Chỉ có hành vi phạm tội mới
phải chịu hình phạt, tội càng nghiêm trọng thì hình phạt áp dụng càng
nghiêm khắc.
Tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu kèm theo của dấu hiệu tính nguy
hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã hội và
tính trái pháp luật hình sự là cơ sở để cụ thể hóa tính phải chịu hình phạt, tính
nguy hiểm cho xã hội càng lớn thì hình phạt càng cao. Cũng vì tính nguy
21
hiểm cho xã hội của tội phạm mà bất cứ hành vi phạm tội nào cũng có thể bị
đe dọa áp dụng hình phạt.
Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội không
chấp hành án, Điều 304 qui định đối với tội phạm này, nhà làm luật chỉ quy
định một trƣờng hợp phạm tội, một khung hình phạt đó là phạt cải tạo không
giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, không có tình
tiết định khung hình phạt tăng nặng. Ngoài ra ngƣời phạm tội còn bị áp dụng
các biện pháp tƣ pháp khác theo quy định của pháp luật
1.2. SỰ CẦN THIẾT VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUI ĐỊNH TỘI KHÔNG
CHẤP HÀNH ÁN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.2.1. Sự cần thiết của việc qui định Tội không chấp hành án trong
Luật hình sự Việt nam
Trong hệ thống các cơ quan nhà nƣớc, các cơ quan tƣ pháp nói chung
và Tòa án nói riêng giữ vị trí đặc biệt quan trọng, là công cụ đắc lực để bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công lý, giữ gìn trật tự, kỷ cƣơng xã hội, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tội không chấp hành án là một tội đƣợc quy định trong chƣơng XXII
Bộ luật hình sự (Chƣơng Các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp). Các tội trong
chƣơng này là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến
hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp, bao gồm cơ quan điều tra, kiểm
sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nƣớc và quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.
Bản án và các quyết định của tòa án là kết quả của hoạt động tƣ pháp
trong việc giải quyết các vụ án. Nhƣng đó chƣa phải là kết quả cuối cùng của
hoạt động tƣ pháp. Bản án cũng nhƣ các quyết định của tòa án chỉ có ý nghĩa
thực sự khi đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh và triệt để. Hành vi cố ý không
chấp hành bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật không
22
chỉ trực tiếp xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan thi hành án mà còn
vô hiệu hóa kết quả của các hoạt động tƣ pháp đã đƣợc thực hiện trƣớc đó.
Xâm hại đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Quy định Tội không chấp hành án trong Bộ luật hình sự Việt Nam là
vấn đề hết sức quan trọng là một giai đoạn cơ bản để áp dụng pháp luật hình
sự, các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử là nhằm giúp cho việc định tội đƣợc
chính xác. Quy định Tội không chấp hành án còn là cơ sở pháp lý để phân
biệt hành vi của tội phạm này với hành vi của tội phạm khác đảm bảo thực
hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, đây là nguyên tắc cơ bản, xuyên
suốt toàn bộ các hoạt động xây dựng cũng nhƣ áp dụng luật hình sự đảm bảo
nhằm xử lý đúng ngƣời, đúng tội; không xử oan ngƣời vô tội, không kết tội
oan, không bỏ lọt tội phạm. Nhƣ vậy, quy định Tội không chấp hành án có ý
nghĩa thống nhất về mặt nhận thúc
Chính vì những lý do trên cho thấy việc quy định Tội không chấp hành
án trong Bộ luật hình sự năm 1999 của Việt Nam là cần thiết và cấp bách.
1.2.2. Ý nghĩa của việc qui định Tội không chấp hành án trong luật
hình sự
Thực tế hiện nay, có nhiều bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật đã
có hiệu lực pháp luật nhƣng vẫn chƣa đƣợc thi hành bởi nhiều nguyên nhân,
có nguyên nhân xuất phát từ phía ngƣời chấp hành án, có nguyên nhân xuất
phát từ phía các cơ quan thi hành pháp luật và cũng có nguyên nhân bắt
nguồn từ các quy định của pháp luật đã làm cho hiệu lực quản lý của Nhà
nƣớc bằng pháp luật bị giảm sút. Trƣớc thực trạng đó, đặt ra một câu làm nhƣ
thế nào để các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án phải
đƣợc đƣa ra thi hành triệt để, đó đang trở thành vấn đề đáng lo ngại của các
cơ quan thực thi pháp luật nói riêng và là mối quan tâm của xã hội nói chung.
Tội không chấp hành án là một tội đƣợc quy định trong nhóm các tội
xâm phạm hoạt động tƣ pháp, đặc trƣng của chúng là khách thể bị xâm hại là
23
các quan hệ xã hội đƣợc hình thành trong quá trình hoạt động nghiệp vụ của
các cơ quan tiến hành tố tụng và một số cơ quan tƣ pháp nhƣ Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan thi hành án đƣợc pháp luật hình sự bảo vệ.
Qua những phân tích trên ta thấy, việc quy định Tội không chấp hành
án có những ý nghĩa sau:
Bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nƣớc, của các tổ chức xã hội và các
quyền lợi ích hợp pháp khác của công dân, đề cao tính nghiêm minh và hiệu
lực của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Bảo đảm cho sự hoạt động đúng đắn của cơ quan tƣ pháp, tạo điều kiện
cho công tác đấu tranh phòng và chống các tội phạm đƣợc thực hiện một cách
có hiệu quả.
Giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao tinh thần tự giác của công
dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Hỗ trợ cho các biện pháp khác trong công cuộc xây dựng xã hội tiên
tiến văn minh, thiệt lập kỷ cƣơng xã hội.
Việc quy định Tội không chấp hành án trong Luật hình sự là để phòng
ngừa tội phạm này xảy ra, mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và
thực tiễn, góp phần phát triển và hoàn thiện hệ thống Bộ luật hình sự, góp
phần làm rõ thực trạng cơ cấu, diễn biến của tình trạng phạm tội và dự đoán
xu hƣớng của nó trong tƣơng lai. Từ đó đề ra biện pháp phòng ngừa trong
thực tế đấu tranh phòng chống tội phạm.
1.3. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN THEO
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY
1.3.1. Tội không chấp hành án trước khi có Bộ Luật hình sự 1985
Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam từ năm 1945 đến
nay cho thấy quy định về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp nói chung và
Tội không chấp hành án đƣợc quy định phong phú và đa dạng, có sự kế thừa
24
và bổ sung hoàn thiện qua từng thời kỳ. Trƣớc khi có Bộ luật hình sự đầu tiên
(Bộ Luật Hình Sự năm 1985) đã có một số hành vi xâm phạm hoạt động tƣ
pháp đƣợc quy định trong các văn bản pháp luật đơn hành. Ví dụ: Hành vi bắt
giam ngƣời trái phép đƣợc quy định trong Luật số 103 ngày 10/5/1957; hành
vi bao che các tội phản cách mạng đƣợc quy định trong Pháp lệnh trừng trị
các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967.... Việc quy định nhóm tội này nói
chung và và Tội không chấp hành án nói riêng trƣớc khi có Bộ luật Hình sự
đầu tiên, còn thiếu nhiều, tản mạn và không mang tính đồng bộ.
1.3.2. Tội không chấp hành án theo quy định của Bộ luật hình sự 1985
Để khắc phục tình trạng trên, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh
chống các hành vi xâm phạm đến hoạt động của các cơ quan tƣ pháp, Bộ luật
Hình sự năm 1985 đã có một chƣơng riêng ở phần các tội phạm quy định về
các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp. Đó là chƣơng X với 19 điều từ Điều 230
đến Điều 248. Trong 19 điều luật này có 17 điều quy định 20 tội thuộc nhóm
tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp, nhƣng chƣa quy định Tội không chấp hành
án thành một điều độc lập. Từ đây dấu hiệu pháp lý đặc trƣng của từng tội
phạm mới đƣợc xác lập làm cơ sở giải quyết các tội phạm này.
Điều 230 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: các tội xâm phạm hoạt
động tƣ pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ
quan điều tra, viện kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi
của nhà nƣớc, của các tổ chức xã hội và công dân. Điều 240 Bộ luật hình sự
năm 1985 quy định tội “không chấp hành án, tội cản trở việc thi hành án”. Xét
về thực tế đây là hai tội độc lập nhƣng lại quy định ở hai khoản khác nhau của
một tội danh. Việc quy định nhƣ vậy đã bộc lộ một số hạn chế nhất định:a.
Chủ thể của Tội không chấp hành án là chủ thể đặc biệt đó là những ngƣời có
nghĩa vụ phải chấp hành các bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp
luật, nhƣng họ không thực hiện, nó trực tiếp xâm hại tới hoạt động đúng đắn
25
của các cơ quan tƣ pháp. Chủ thể của Tội cản trở việc thi hành án cũng là chủ
thể đặc biệt, nhƣng là ngƣời có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan tƣ pháp
hoặc trong cơ quan tổ chức khác. Hành vi cản trở việc thi hành án trực tiếp
xâm hại đến hoạt động của cơ quan thi hành án; b. Xét về kỹ thuật lập pháp,
thì nhà làm luật quy định nhƣ vậy là không khoa học. Bởi lẽ, trong một điều
luật khoản 1 quy định một tội, khoản 2 quy định một tội khác làm cho tƣởng
nhầm là tội “cản trở việc thi hành án” là tình tiết định khung hình phạt tăng
nặng của tội “không chấp hành án”; c. Quy định nhƣ vậy không đáp ứng đƣợc
yêu cầu đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong điều kiện xây dựng, hội nhập
và phát triển.
1.3.3. Tội không chấp hành án theo Bộ luật hình sự năm 1999
Bộ luật hình sự năm 1999 đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21/12/1999, có hiệu lực
từ ngày 01/7/200. Ngày 19/6/2009, tại kỳ họp thứ 5 khóa XII của Quốc hội đã
thông qua Luật số 37/2009/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật hình sự
năm 1999, có hiệu lực thi hành vào ngày 01/01/2010. Tội không chấp hành án
đƣợc quy định trong chƣơng XXII các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp từ Điều
292 đến điều 314. Trong đó Điều 292 BLHS quy định vê khái niệm hoạt động
tƣ pháp “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm
hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án
trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, công dân” [30, Điều 292]. Các điều còn lại quy định các tội phạm.
So với Chƣơng X Bộ luật hình sự năm 1985 thì các tội xâm phạm hoạt
động tƣ pháp quy định tại Chƣơng XXII Bộ luật hình sự năm 1999 đƣợc sửa
đổi, bổ sung thêm bốn tội. Cụ thể, Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự
ngƣời có tội (Điều 294), Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 296), Tội
không thi hành án (Điều 305), Tội đánh tháo ngƣời bị giam giữ, ngƣời đang bị
26
dẫn giải, ngƣời đang bị xét xử (Điều 312). Một số hành vi trƣớc đây chƣa bị
coi là tội phạm, thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định là tội phạm nhƣ: hành
vi không truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời có tội; hành vi ra quyết định trái
pháp luật của ngƣời có thẩm quyền trong Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Cơ
quan thi hành án; hành vi đánh tháo ngƣời bị giam, giữ, ngƣời đang bị dẫn
giải, ngƣời đang bị xét xử. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1999 cũng loại trừ
trách nhiệm hình sự một số hành vi mà Bộ luật hình sự năm 1985 quy định là
tội phạm nhƣ: hành vi không tố giác tội phạm của ông, bà, cha, mẹ, con, cháu,
anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của ngƣời phạm tội, (trừ hành vi không tố
giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội đặc biệt nghiêm trọng đƣợc
quy định tại Điều 313 Bộ luật hình sự). Đối với các tội phạm cụ thể cũng
đƣợc bổ sung các tình tiết là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt mà Bộ
luật hình sự năm 1985 chƣa quy định. Về đƣờng lối xử lý, nói chung các tội
xâm phạm hoạt động tƣ pháp quy định tại chƣơng XXII Bộ luật hình sự năm
1999 đều có mức hình phạt nặng hơn so với Bộ luật hình sự năm 1985. Hình
phạt bổ sung đƣợc quy định ngay trong điều luật.
Thấy rõ sự bất hợp lý về quy định Tội không chấp hành án theo quy
định tại điều 240 Bộ luật hình sự năm 1985, nên khi ban hành Bộ luật hình sự
năm 1999 nhà làm luật đã quy định hai tội ở hai điều luật khác nhau. Tội
không chấp hành án đƣợc quy định tại Chƣơng XXII Bộ luật hình sự năm
1999 đã đƣợc quy định thành một tội danh độc lập và quy định các tình tiết là
yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt mà Bộ luật hình sự năm 1985 chƣa
quy định. So với Điều 240 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 304 Bộ luật
hình sự năm 1999 quy định về tội phạm này, về cơ bản không có sửa đổi, bổ
sung gì lớn. Trừ việc chuyển khoản 2 của Điều 240 thành tội “cản trở việc thi
hành án” là tội phạm độc lập, thì Điều 304 chỉ sửa đổi, bổ sung mức hình phạt
cải tạo không giam giữ từ một năm lên ba năm, còn lại vẫn giữ nguyên nhƣ
khoản 1 Điều 240 Bộ luật hình sự năm 1985.
27
Tội không chấp hành án trong Bộ luật hình sự năm 1999 là kết quả của
nhiều lần sửa đổi và bổ sung trên cơ sở tổng kết thực tiễn áp dụng và thi hành
các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án.
Việc sửa đổi, bổ sung Tội không chấp hành án tại Điều 304 BLHS năm
1999 đã đáp ứng đƣợc nhiệm vụ cải cách nền tƣ pháp trong sạch, vững mạnh
theo các Nghị quyết của Đảng về xây dựng các cơ quan tƣ pháp. Việc quy
định Tội không chấp hành án nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội phải đƣợc
xử lý kịp thời góp phần ngăn ngừa các hành vi vi phạm xảy ra. Việc quy định
Tội không chấp hành án thành một tội phạm riêng trong chƣơng các tội xâm
phạm hoạt động tƣ pháp đã tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng
trong việc áp dụng pháp luật cũng nhƣ các quy định về tình tiết định tội danh
của Tội không chấp hành án.
28
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ
TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN
2.1. TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ 1999, PHÂN BIỆT VỚI MỘT SỐ TỘI KHÁC
Tội không chấp hành án là một tội đƣợc quy định trong chƣơng các tội
xâm phạm hoạt động tƣ pháp. Điều 304 BLHS năm 1999 quy định “Tội
không chấp hành án là hành vi cố ý không chấp hành bản án hoặc quyết định
của tòa án đã có hiệu lực pháp luật, mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng
chế cần thiết” [30, Điều 304].
Từ quy định này có thể hiểu các dấu hiệu pháp lý đặc trƣng của bốn
yếu tố cấu thành tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp nói
chung và Tội không chấp hành án bao gồm:
2.1.1. Khách thể
Trong bất cứ chế độ xã hội có giai cấp nào, nhà nƣớc cũng đều xác lập,
bảo vệ, củng cố và thúc đẩy sự phát triển của những quan hệ xã hội phù hợp
với lợi ích của giai cấp thống trị bằng sự hỗ trợ của các quy phạm pháp luật,
trong đó có những quy phạm pháp luật hình sự. Các hành vi vi phạm pháp
luật nói chung cũng nhƣ tội phạm nói riêng đều là những hành vi về hình thức
mâu thuẫn với quy phạm pháp luật và về nội dung gây thiệt hại ở những mức
độ khác nhau cho các quan hệ xã hội đã đƣợc nhà nƣớc xác lập.
Trong hệ thống những quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp
thống trị, các quan hệ xã hội có ý nghĩa khác nhau đối với sự củng cố và phát
triển của xã hội và đƣợc nhà nƣớc bảo vệ bằng những loại quy phạm pháp luật
khác nhau với những biện pháp cƣỡng chế khác nhau. Khách thể bảo vệ của luật
hình sự là những quan hệ xã hội đƣợc nhà nƣớc xác định cần đƣợc bảo vệ bằng
29
những quy phạm pháp luật hình sự. Những quan hệ xã hội đó sẽ là khách thể của
tội phạm trong trƣờng hợp chúng bị gây thiệt hại hoặc bị đe dọa gây thiệt hại ở
mức độ nhất định. Nhƣ vậy có thể định nghĩa: “Khách thể của tội phạm là quan
hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại” [43, tr. 62].
Theo luật hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội đƣợc coi là khách
thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội đã đƣợc xác định trong
Điều 8 của BLHS. Hành vi bị coi là tội phạm, theo luật hình sự Việt Nam,
phải là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã
hội đã đƣợc xác định đó. Nhƣng nhƣ vậy không có nghĩa hành vi gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội này trong mọi trƣờng hợp
đều bị coi là tội phạm mà chỉ trong những trƣờng hợp nhất định, đó là những
trƣờng hợp đã đƣợc cụ thể hóa trong BLHS.
Việc nghiên cứu khách thể của tội phạm có ý nghĩa về nhiều mặt, kể cả
trong công tác lập pháp và trong thực tiễn áp dụng. Chỉ có thể nhận thức một
cách đầy đủ nhiệm vụ của luật hình sự, bản chất chống đối xã hội của tội
phạm trên cơ sở nghiên cứu nội dung của các quan hệ xã hội là khách thể bảo
vệ của luật hình sự (và do vậy có thể là khách thể của tội phạm). Việc xây
dựng hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự, đặc biệt là các quy phạm Phần
các tội phạm đều phải bắt đầu bằng sự xác định phạm vi những quan hệ xã hội
đƣợc coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự.
Khách thể của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp: là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quyền lợi
của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân qua việc xâm
phạm bằng những hình thức khác nhau đến hoạt động đúng đắn của các cơ
quan tƣ pháp. Nhƣ vậy, đối tƣợng mà hành vi tội phạm là nhằm vào những
hoạt động bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa cũng nhƣ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa nói
chung của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án [28].
30
Với việc xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp
này, hành vi phạm tội của nhóm tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp đồng thời
còn xâm phạm đến nhiều quan hệ xã hội khác đƣợc luật hình sự bảo vệ.
Nhiều loại hành vi phạm tội trong nhóm tội này còn có ảnh hƣởng xấu tới
uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật, hạn chế hiệu quả đấu tranh phòng
chống tội phạm.
Khách thể của Tội không chấp hành án
Tội không chấp hành án trƣớc hết là tội phạm đƣợc quy định trong
BLHS, nó gây thiệt hại cho quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ, việc
nghiên cứu khách thể của Tội không chấp hành án có ý nghĩa về nhiều mặt
nhƣ công tác lập pháp và trong thực tiễn áp dụng, xây dựng các quy phạm
pháp luật đối với các tội phạm cụ thể. Trong thực tiễn áp dụng hình sự việc
xác định khách thể của Tội không chấp hành án là điều kiện phải kiểm tra khi
xác định THHS.
Theo quy định của pháp luật thì bản án và quyết định của Toà án đã có
hiệu lực pháp luật phải đƣợc thi hành và phải đƣợc các cơ quan, tổ chức và
mọi công dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan trong phạm vi
trách nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của
Toà án và phải chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật về việc chấp hành đó. Trong
phạm vi trách nhiệm của mình, các cơ quan nhà nƣớc, chính quyền xã,
phƣờng, thị trấn, tổ chức và công dân phải phối hợp với cơ quan, tổ chức có
nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Các cơ quan nhà nƣớc,
chính quyền xã, phƣờng, thị trấn có trách nhiệm tạo điều kiện và thực hiện
yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết
định của Tòa án. Nhƣ vậy, việc chấp hành bản án hoặc quyết định của Toà án
là khâu cuối cùng của quá trình tố tụng. Nếu bản án hoặc quyết định của Toà
án có hiệu lực pháp luật không đƣợc thi hành thì toàn bộ kết quả của quá trình
31
tố tụng không có ý nghĩa. Tội không chấp hành án cũng là tội xâm phạm đến
hoạt động bình thƣờng của các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời xâm
phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá
nhân. Đối tƣợng tác động của tội phạm này lại chính là các bản án và quyết
định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Bản án của Toà án là một văn bản tố
tụng do Thẩm phán, Hội thẩm nhân danh nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ban hành bao gồm: bản án hình sự, bản án dân sự, bản án hôn nhân
và gia đình, bản án kinh tế, bản án lao động và bản án hành chính...; các quyết
định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Tuy
tên văn bản là “quyết định” nhƣng toàn bộ nội dung của nó không khác gì bản
án. Quyết định của Toà án cũng là một văn bản tố tụng có thể Hội đồng xét
xử ban hành nhƣng cũng có thể chỉ do một Thẩm phán ban hành nhƣ: quyết
định hoà giải thành, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết
định kê biên tài sản, quyết định thi hành án phạt tù, quyết định bắt buộc chữa
bệnh.v.v… Tuy nhiên, trong những quyết định của Toà án không phải quyết
định nào cũng là đối tƣợng tác động của tội phạm này mà còn có các quyết
định khác nhƣ: quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung, quyết định đƣa
vụ án ra xét xử; quyết định tạm đình chỉ vụ án; quyết định gia hạn thời hạn
chuẩn bị xét xử; quyết định thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, thƣ ký Toà án…
Những quyết định này không phải là đối tƣợng tác động của tội phạm này.
Bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bao gồm:
- Những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng
cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm;
- Những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
- Những quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
- Các quyết định tuy chƣa có hiệu lực pháp luật nhƣng theo quy định của
pháp luật về thi hành án dân sự thì các quyết định này phải đƣợc thi hành ngay
32
nhƣ “Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp
thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại
làm việc” [38, tr.25]. Bản án hoặc quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật
chỉ là đối tƣợng tác động của tội phạm này khi bản án hoặc quyết định đó
thuộc trách nhiệm của những ngƣời phải có nghĩa vụ thi hành, còn bản án
hoặc quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật mà trách nhiệm thi hành là
của cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng thì không phải là đối
tƣợng tác động của tội phạm này. Ví dụ: trƣờng hợp bị cáo đang bị tạm giam
mà Tòa án quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình
sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là tù giam hoặc phạt tù
nhƣng cho hƣởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời
hạn đã tạm giam, nhƣng ngƣời có thẩm quyền không trả tự do cho ngƣời bị
giam, giữ thì bản án hoặc quyết định đó của Tòa án lại là đối tƣợng tác động
của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ ngƣời trái pháp luật.
2.1.2. Mặt khách quan
Bất cứ tội phạm nào khi xảy ra cũng đều có những biểu hiện diễn ra
hoặc tồn tại bên ngoài mà con ngƣời có thể trực tiếp nhận biết đƣợc. Đó là:
hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội,
cũng nhƣ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên
ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công cụ, phƣơng tiện, phƣơng
pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội...). Nhƣ vậy mặt khách quan của
tội phạm là “ mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội
phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan” [43, tr.71].
Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố của tội phạm.
Không có mặt khách quan thì cũng không có các yếu tố khác của tội phạm và
do vậy cũng không có tội phạm.
Việc nghiên cứu những tình tiết thuộc mặt khách quan của tội phạm có
33
những ý nghĩa thực tiễn sau: trong các CTTP cơ bản, dấu hiệu hành vi thuộc
mặt khách quan và có thể một số nội dung biểu hiện khác của mặt khách quan
đƣợc phản ánh là dấu hiệu bặt buộc; trong CTTP tăng nặng của một số tội
phạm, biểu hiện của mặt khách quan (hậu quả, phƣơng tiện, công cụ, thủ đoạn
phạm tội..) đƣợc phản ánh là dấu hiệu định khung; trong những tình tiết giảm
nhẹ hoặc tăng nặng TNHS đƣợc quy định trong BLHS có nhiều tình tiết thuộc
mặt khách quan của tội phạm; việc nghiên cứu những tình tiết thuộc mặt
khách quan của tội phạm trong nhiều trƣờng hợp có ý nghĩa trong việc xác
định mặt chủ quan của tội phạm, trƣớc hết là xác định lỗi cũng nhƣ đánh giá
mức độ lỗi của ngƣời phạm tội.
Hành vi khách quan của tội phạm
Khái niệm hành vi trong luật hình sự: là những“biểu hiện”của con
người ra ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức cụ thể nhằm đạt
những mục đích có chủ định và mong muốn [43, tr.73].
Theo luật hình sự Việt nam, hành vi khách quan của tội phạm có ba đặc
điểm sau: Hành vi khách quan của tội phạm phải có tính nguy hiểm cho xã
hội; hành vi khách quan của tội phạm là hoạt động có ý thức và ý chí; hành vi
khách quan của tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự.
Hình thức thể hiện của hành vi
Hành vi khách quan có thể đƣợc thực hiện qua hành động hoặc không
hành động. Hành động (phạm tội) là hình thức của hành vi khách quan làm
biến đổi tình trạng bình thƣờng của đối tƣợng tác động của tội phạm, gây thiệt
cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm.
Không hành động (phạm tội) là hình thức của hành vi khách quan làm
biến đổi tình trạng bình thƣờng của đối tƣợng tác động của tội phạm, gây thiệt
hại cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp
luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm.
34
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội
Tính nguy hiểm khách quan của tội phạm là ở chỗ, tội phạm đã gây
thiệt hại hoặc đe dạo gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội đƣợc luật hình
sự bảo vệ. Sự gây thiệt hại này là một trong những nội dung biểu hiện của
yếu tố mặt khách quan của tội phạm. Đó là hậu quả nguy hiểm cho xã hội
– hậu quả của hành vi khách quan. Nhƣ vậy, “hậu quả của tội phạm là
thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo
vệ của luật hình sự” [43, tr. 80]. Mà hậu quả nguy hiểm cho xã hội là
những thiệt hại gây ra cho quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ, thể
hiện dƣới các dạng: thiệt hại về vật chất; thiệt hại về thể chất; thiệt hại về
tinh thần và các biến đổi khác.
Việc nghiên cứu hậu quả của tội phạm có những ý nghĩa thực tiễn sau:
Đối với tội có CTTP vật chất, việc xác định hậu quả của tội phạm có ý nghĩa
đối với việc định tội; đối với trƣờng hợp CTTP tăng nặng có dấu hiệu phản
ánh hậu quả (hoặc mức độ hậu quả), việc xác định hậu quả của tội phạm có ý
nghĩa đối với việc định khung hình phạt; đối với trƣờng hợp khác, việc xác
định mức độ hậu quả cũng luôn cần thiết vì đó là căn cứ để đánh giá mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội và do vậy là căn cứ để quyết định hình phạt.
Quan hệ nhân quả trong luật hình sự
Nếu coi hành vi khách quan là nội dung biểu hiện thứ nhất và hậu quả
nguy hiểm cho xã hội là nội dung biểu hiện thứ hai thì nội dung biểu hiện thứ
ba của yếu tố mặt khách quan là mối QHNQ giữa hành vi nguy hiểm cho xã
hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đây là mối quan hệ khách quan luôn
luôn tồn tại giữa hành vi khách quan và hậu quả của hành vi khách quan. Nhƣ
vậy, việc định tội theo CTTP loại này không chỉ đòi hỏi phải xác định hậu quả
nguy hiểm cho xã hội mà còn đòi hỏi phải xác định cả mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Qua phân tích trên
35
cho thấy, con ngƣời chỉ phải chịu TNHS về hậu quả nguy hiểm cho xã hội
nếu hậu quả nguy hiểm đó do chính hành vi khách quan của họ gây ra hay nói
cách khác nếu giữa hành vi khách quan đã thực hiện của họ và hậu quả nguy
hiểm đó có QHNQ với nhau.
Đối với tội có CTTP hình thức, hậu quả tuy không phải là dấu hiệu bắt
buộc của mặt khách quan nhƣng việc xác định hậu quả vẫn có vẫn có ý nghĩa
quan trọng trong việc quyết định hình phạt. Vì vậy khi xác định hình phạt
cũng cần phải xác định mối QHNQ giữa hành vi khách quan và hậu quả thực
tế đã xảy ra.
Những nội dung biểu hiện khác của mặt khách quan của tội phạm
Ngoài những nội dung biểu hiện của mặt khách quan ở trên, mặt
khách quan của tội phạm còn có những biểu hiện khác đó là: Phƣơng tiện
phạm tội là những đối tƣợng đƣợc chủ thể của tội phạm sử dụng để thực
hiện hành vi phạm tội của mình. Công cụ phạm tội, là dạng cụ thể của
phƣơng tiện phạm tội; Phƣơng pháp, thủ đoạn phạm tội là cách thức sử dụng
công cụ, phƣơng tiện. Phƣơng pháp, thủ đoạn phạm tội không phải là dấu
hiệu bắt buộc của tất cả CTTP.
Từ sự phân tích trên cho thấy, việc xác định tính chất của thủ đoạn phạm
tội có thể có ý nghĩa trong định tội hoặc trong việc định khung hình phạt.
Hành vi khách quan của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Hành vi phạm tội của các tội thuộc nhóm tội xâm phạm hoạt động tƣ
pháp là hành vi vi phạm các quy định của pháp luật trong lĩnh vực hoạt động
tƣ pháp. Đó là các quy định của pháp luật, yêu cầu các cơ quan điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án phải tuân thủ trong hoạt động của mình cũng nhƣ các
quy định khác đảm bảo cho mọi hoạt động của các cơ quan này đƣợc thực
hiện đúng. Các quy định đó có thể thuộc về luật nội dung hoặc luật hình thức,
thuộc các lĩnh vực hình sự, hôn nhân và gia đình, lao động, hành chính, đất
đai.... Hành vi phạm tội của nhóm tội này có thể chia thành 4 nhóm sau:
36
Thứ nhất, Hành vi vi phạm pháp luật của ngƣời hoạt động tƣ pháp;
Thứ hai, Hành vi vi phạm pháp luật của ngƣời thuộc các cơ quan
hoặc các tổ chức bổ trợ tƣ pháp nhƣ cơ quan giám định, công chứng, tổ
chức luật sƣ...;
Thứ ba, Hành vi vi phạm pháp luật của công dân có nghĩa vụ phải thực
hiện các phán quyết của cơ quan xét xử hoặc các quyết định cƣỡng chế của
các cơ quan tƣ pháp khác đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng,
không đầy đủ các nghĩa vụ đó;
Thứ tư, Hành vi của công dân trong những trƣờng hợp nhất định có
trách nhiệm phải tạo điều kiện, giúp đỡ các cơ quan tƣ pháp thực hiện nhiệm
vụ của mình nhƣng không thực hiện trách nhiệm pháp lý đó;
Thứ năm, Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc bằng các thủ đoạn
khác tác động đến hoạt động tƣ pháp nhằm làm các hoạt động đó đƣợc thực
hiện sai với quy định của pháp luật...
Hành vi khách quan của Tội không chấp hành án
Từ những phân tích trên cho thấy hành vi của Tội không chấp hành án
thuộc nhóm hành vi thứ ba đó là nhóm hành vi vi phạm pháp luật của công dân
có nghĩa vụ phải thực hiện các phán quyết của cơ quan xét xử hoặc các quyết
định cƣỡng chế của các cơ quan tƣ pháp khác đã không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ đó. Xâm phạm các hoạt động
đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp: cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án.
Hành vi khách quan của Tội không chấp hành án là ngƣời phạm tội
thực hiện hành vi thuộc dạng “không hành động”. Không hành động là không
làm một việc mà có nghĩa vụ phải làm và có thể làm đƣợc. Ngƣời phạm tội
không chấp hành án là không thi hành quyết định của bản án và các quyết
định khác của Toà án mà họ có nghĩa vụ phải thi hành nhƣ: không nộp tiền
bồi thƣờng cho Cơ quan thi hành án để bồi thƣờng cho ngƣời bị hại theo bản
37
án đã tuyên, không giao nộp tài sản “do phạm tội mà có” mà bản án quyết
định tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nƣớc; không giao nhà, đất mà theo bản án
nhà đất đó phải giao cho ngƣời khác; không góp phí tổn nuôi con chung sau
khi ly hôn; không chịu cấp dƣỡng cho ngƣời đƣợc cấp dƣỡng theo quyết định
của bản án.v.v… Tuy nhiên, hành vi không chấp hành bản án có thể kèm theo
một số hành vi khác là hành động nhƣ: bỏ trốn, tránh mặt lúc lực lƣợng thi
hành lệnh cƣỡng chế, khoá cửa không cho lực lƣợng thi hành án đến thi hành,
thậm chí có hành vi chống đối, lăng mạ, hành hung cán bộ thi hành án; tẩu tán
tài sản đã bị kê biên. v.v… nhƣng tất cả các hành vi này cũng chỉ là những thủ
đoạn nhằm mục đích là để không chấp hành bản án hoặc quyết định của Toà
án. Những hành vi này có thể có những hành vi cấu thành một tội phạm khác
nhƣ: tội chống ngƣời thi hành công vụ, tội cố ý gây thƣơng tích, tội vi phạm việc
niêm phong, kê biên tài sản. v.v… Nếu những hành vi là thủ đoạn để không chấp
hành bản án cấu thành tội phạm độc lập thì tùy trƣờng hợp mà ngƣời phạm tội có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội không chấp hành án và tội phạm
tƣơng ứng do thực hiện thủ đoạn không chấp hành bản án gây ra.
Hậu quả của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi phạm tội của nhóm tội xâm
phạm hoạt động tƣ pháp gây ra hoặc có thể gây ra bao gồm thiệt hại cho hoạt
động tƣ pháp và các thiệt hại khác. Những thiệt hại này không đƣợc phản ánh
trong tất cả các CTTP là dấu hiệu định tội. Trong nhiều CTTP cơ bản, dấu
hiệu hậu quả đƣợc quy định dƣới dạng chung nhất là “hậu quả nghiêm trọng”.
Trong các CTTP cơ bản khác, dấu hiệu hậu quả không đƣợc quy định là dấu
hiệu định tội.
Hậu quả của Tội không chấp hành án
Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này và cũng
không phải là tình tiết là yếu tố định khung hình phạt vì tội phạm này chỉ có
một khung hình phạt. Tuy nhà làm luật không quy định hậu quả là dấu hiệu
38
bắt buộc của cấu thành tội phạm này, nhƣng không vì thế mà cho rằng, hành
vi không chấp hành án không gây ra hậu quả. Bản án hoặc quyết định của Toà
án không đƣợc thi hành theo quy định của pháp luật là đã gây ra hậu quả rồi.
Tuy nhiên, có thể sau đó (sau khi truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời không
chấp hành án), bản án hoặc quyết định của Toà án vẫn đƣợc thi hành nhƣng
hành vi không chấp hành án vẫn cấu thành tội phạm.
Các dấu hiệu khách quan khác của Tội không chấp hành án
Đối với Tội không chấp hành án, ngoài hành vi khách quan trên nhà
làm luật còn quy định một dấu hiệu khách quan nếu thiếu nó thì hành vi
không chấp hành án chƣa cấu thành tội phạm, đó là: “mặc dù đã bị áp dụng
biện pháp cƣỡng chế cần thiết”.
Những biện pháp cƣỡng chế cần thiết là để ngƣời có nghĩa vụ chấp
hành phải chấp hành nhƣng vẫn cố tình không chấp hành. Những biện pháp
đó thƣờng là các biện pháp cƣỡng chế đƣợc quy định trong Luật Thi hành án
dân sự, Luật Xử phạm vi phạm hành chính và những văn bản quy phạm pháp
luật dƣới luật nhƣ: Nghị định, Thông tƣ.... VD nhƣ: Xử lý hành chính về hành
vi không chấp hành án; quyết định kê biên tài sản, niêm phong tài sản, đã
khấu trừ tiền lƣơng; phong toả tài khoản, buộc rời khỏi nhà để giao nhà cho
ngƣời khác nhƣng không chịu rời khỏi nhà. v.v…. Những biện pháp cƣỡng
chế phải là những biện pháp đúng pháp luật và đƣợc coi là cần thiết mà ngƣời
phải chấp hành án không chấp hành thì mới coi là Tội không chấp hành án.
Nếu những biện pháp cƣỡng chế là biện pháp không đúng pháp luật hoặc tuy
đúng pháp luật nhƣng xét thấy không cần thiết mà ngƣời bị áp dụng các biện
pháp này không chấp hành thì cũng không coi là đã áp dụng biện pháp cƣỡng
chế cần thiết. VD: Chi cục Thi hành án dân sự huyện N tỉnh H đã thụ lý đơn
yêu cầu thi hành bản án DSPT về chia tài sản thừa kế giữa ngƣời đƣợc thi
hành án là anh Chu Văn Đ (huyện B, tỉnh H) và ngƣời phải thi hành án là bà
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY

More Related Content

What's hot

BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...OnTimeVitThu
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Luận văn: Đánh giá công chức theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Luận văn: Đánh giá công chức theo pháp luật Việt Nam hiện nayLuận văn: Đánh giá công chức theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Luận văn: Đánh giá công chức theo pháp luật Việt Nam hiện nayViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

What's hot (20)

Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HOTLuận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOTLuận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
 
Luận văn: Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam
Luận văn: Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt NamLuận văn: Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam
Luận văn: Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam
 
Luận văn: Thanh tra chuyên ngành về nội vụ tỉnh Nam Định, HAY
Luận văn: Thanh tra chuyên ngành về nội vụ tỉnh Nam Định, HAYLuận văn: Thanh tra chuyên ngành về nội vụ tỉnh Nam Định, HAY
Luận văn: Thanh tra chuyên ngành về nội vụ tỉnh Nam Định, HAY
 
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật trên tỉnh Quảng Ninh, HOT
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật trên tỉnh Quảng Ninh, HOTLuận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật trên tỉnh Quảng Ninh, HOT
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật trên tỉnh Quảng Ninh, HOT
 
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Đề tài: Vai trò của án lệ và thực tiễn xét xử trong pháp luật, HOT
Đề tài: Vai trò của án lệ và thực tiễn xét xử trong pháp luật, HOTĐề tài: Vai trò của án lệ và thực tiễn xét xử trong pháp luật, HOT
Đề tài: Vai trò của án lệ và thực tiễn xét xử trong pháp luật, HOT
 
Đề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOT
Đề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOTĐề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOT
Đề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOT
 
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luậtLuận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOTĐề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh niên đô thị, HAY
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh niên đô thị, HAYLuận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh niên đô thị, HAY
Luận văn: Phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh niên đô thị, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động, HAY
Luận văn: Pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động, HAYLuận văn: Pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động, HAY
Luận văn: Pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động, HAY
 
Luận văn: Đánh giá công chức theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Luận văn: Đánh giá công chức theo pháp luật Việt Nam hiện nayLuận văn: Đánh giá công chức theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Luận văn: Đánh giá công chức theo pháp luật Việt Nam hiện nay
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà NẵngLuận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
 

Similar to Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY

Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều traHoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều traDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

Similar to Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY (20)

Đề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOTĐề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
 
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều traHoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
 
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAYLuận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
 
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự tạI TPHCM
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự tạI TPHCMLuận văn: Vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự tạI TPHCM
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự tạI TPHCM
 
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
 
Luận văn: Hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự, HOTLuận văn: Hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự, HOT
 
Luận văn: Hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự, HOTLuận văn: Hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Hoạt động sau phiên tòa xét xử vụ án hình sự, HOT
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư phápLuận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
 
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOTLuận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
 
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
 
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Luận văn: Thi hành án dân sự liên quan đến Phật giáo, HOT
Luận văn: Thi hành án dân sự liên quan đến Phật giáo, HOTLuận văn: Thi hành án dân sự liên quan đến Phật giáo, HOT
Luận văn: Thi hành án dân sự liên quan đến Phật giáo, HOT
 
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAYLuận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
 
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOTLuận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietNguyễn Quang Huy
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docxasdnguyendinhdang
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfXem Số Mệnh
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...ChuThNgnFEFPLHN
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phươnghazzthuan
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptPhamThiThuThuy1
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdfltbdieu
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnKabala
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxTrnHiYn5
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnKabala
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoidnghia2002
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emTrangNhung96
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 

Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THU HUYỀN Téi kh«ng chÊp hµnh ¸n theo LuËt h×nh sù ViÖt Nam LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THU HUYỀN Téi kh«ng chÊp hµnh ¸n theo LuËt h×nh sù ViÖt Nam Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - 2016
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN NGUYỄN THỊ THU HUYỀN
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN.......................................................................................10 1.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN.......................................................................................10 1.1.1. Khái niệm Tội không chấp hành án ..................................................10 1.1.2. Một số đặc điểm của Tội không chấp hành án..................................15 1.2. SỰ CẦN THIẾT VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUI ĐỊNH TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM...21 1.2.1. Sự cần thiết của việc qui định Tội không chấp hành án trong Luật hình sự Việt nam .....................................................................21 1.2.2. Ý nghĩa của việc qui định Tội không chấp hành án trong luật hình sự ..22 1.3. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY...23 1.3.1. Tội không chấp hành án trƣớc khi có Bộ Luật hình sự 1985..........23 1.3.2. Tội không chấp hành án theo quy định của Bộ luật hình sự 1985 .......24 1.3.3. Tội không chấp hành án theo Bộ luật hình sự năm 1999................25 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN .................................................28 2.1. TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999, PHÂN BIỆT VỚI MỘT SỐ TỘI KHÁC....28
  • 5. 2.1.1. Khách thể.........................................................................................28 2.1.2. Mặt khách quan................................................................................32 2.1.3. Chủ thể.............................................................................................41 2.1.4. Mặt chủ quan ...................................................................................44 2.1.5. Phân biệt Tội không chấp hành án với một số tội phạm khác có liên quan...........................................................................................46 2.2. HÌNH PHẠT VÀ CÁC BIỆN PHÁP TƢ PHÁP ............................53 2.2.1. Hình phạt..........................................................................................53 2.2.2. Các biện pháp tƣ pháp .....................................................................56 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN..........58 3.1. THỰC TRẠNG XỬ LÝ TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN............58 3.2. CƠ SỞ CỦA CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN..............................................68 3.2.1. Hiến pháp 2013 - Cơ sở Hiến định cho việc quy định Tội không chấp hành án.....................................................................................68 3.2.2. Xuất phát từ tình hình tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp nói chung và Tội không chấp hành án hiện nay ở Việt Nam ................71 3.3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT..........................................................71 3.3.1. Những định hƣớng chung................................................................72 3.3.2. Đề xuất sửa đổi, bổ sung điều luật quy định về Tội không chấp hành án đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự .................................74 3.4. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN ....................................................78 3.4.1. Tăng cƣờng công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật.........78 3.4.2. Đẩy mạnh công tác hƣớng dẫn và áp dụng pháp luật......................78 3.4.3. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lƣợng của đội ngũ cán bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp ..........................................................79
  • 6. 3.4.4. Tăng cƣờng sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan đến việc giải quyết các vụ án .........................................................................81 3.4.5. Tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động tƣ pháp, các cơ quan tƣ pháp và cán bộ thuộc cơ quan tƣ pháp......81 3.4.6. Xây dựng án lệ.................................................................................83 3.4.7. Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tƣ pháp........84 KẾT LUẬN....................................................................................................85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................87
  • 7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự CTTP: Cấu thành tội phạm QHNQ: Quan hệ nhân quả TNHS: Trách nhiệm hình sự XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  • 8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 2.1: Thống kê khung hình phạt tù có thời hạn Điều 304 BLHS 1999 55 Bảng 3.1: Số liệu tình hình xét xử tội phạm trên toàn quốc từ năm 2011-2015 63 Bảng 3.2: Số liệu các vụ án xâm phạm hoạt động tƣ pháp đã bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trong 05 năm 2011 -2015 64 Bảng 3.3: Số liệu các vụ án Tội không chấp hành án đã bị khởi tố, xét xử 05 năm 2011 -2015 65
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong hệ thống các cơ quan nhà nƣớc, các cơ quan tƣ pháp giữ vị trí quan trọng đặc biệt, là công cụ đắc lực để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Hoạt động của các cơ quan tƣ pháp là điều kiện cần thiết để đảm bảo duy trì công lý nói chung cũng nhƣ để đảm bảo sự hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc khác. Với tính chất quan trọng nhƣ vậy, hoạt động của các cơ quan tƣ pháp cần thiết phải đƣợc bảo vệ bằng luật hình sự trong những trƣờng hợp nhất định. Hoạt động của các cơ quan tƣ pháp có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động chung của bộ máy nhà nƣớc, nó không chỉ góp phần bảo đảm cho hoạt động của xã hội (Nhƣ việc đấu tranh chống các loại tội phạm nhằm bảo đảm an ninh – trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của mọi tổ chức và công dân), mà còn góp phần vào công tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm, giáo dục công dân ý thức tuân thủ pháp luật. Đây là lý do đòi hỏi phải có những biện pháp cần thiết cũng nhƣ các quy phạm pháp luật phù hợp bảo đảm cho hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp, chống lại mọi hành vi xâm hại việc thực hiện chức năng của các cơ quan này. Điều 106 của Hiến pháp 2013 đã nêu rõ: "Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành" [37, Điều 106]. Bản án, quyết định của Tòa án đƣợc thi hành chính là lúc công lý đƣợc thực hiện trong cuộc sống. Nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm mục đích cảm hoá tƣ tƣởng, giáo dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng lao động nhằm mục đích làm cho ngƣời thụ án trở thành một công dân tốt cho xã hội và góp phần răn đe, ngăn ngừa chung, các phần dân sự trong bản án hình sự, hôn
  • 10. 2 nhân gia đình, dân sự, kinh tế... đƣợc thực hiện góp phần nâng cao nhận thức của mọi công dân, tổ chức xã hội về sự công bằng của xã hội cũng nhƣ ý thức trách nhiệm của mọi ngƣời trong việc tuân thủ pháp luật. Việc chấp hành bản án là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, chấp hành bản án, quyết định của tòa án có mối quan hệ hữu cơ với giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu việc chấp hành bản án không đƣợc thực thi thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trƣớc đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu nhƣ một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không đƣợc chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm thì trật tự kỷ cƣơng xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nƣớc bị xem thƣờng. Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý Nhà nƣớc. Tội không chấp hành án đƣợc quy định trong chƣơng các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp (Điều 304) của Bộ luật hình sự năm 1999. Hành vi không chấp hành án là hành vi xâm hại đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp. Chính vì vậy, Tội không chấp hành án đã gây những tổn hại không nhỏ đến việc thực hiện chức năng và uy tín của các cơ quan tƣ pháp. Hiện nay, tình hình tội phạm nói chung và Tội không chấp hành bản án nói riêng đang ngày càng diễn biến phức tạp. Đặc biệt là Tội không chấp hành bản án đang có chiều hƣớng gia tăng, điều này đã gây bức xúc trong dƣ luận. Thực tiễn cho thấy nhiều tổ chức, cá nhân vì chạy theo lợi nhuận đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng về việc không chấp hành án. Những hành vi này cần bị xử lý hình sự để răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh đối với tội phạm nói chung và Tội không chấp hành án nói riêng. Mặc dù đã đƣợc quy định thành một điều luật riêng (Điều 304) tại Bộ luật Hình sự năm 1999, điều này đã tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan tiến
  • 11. 3 hành tố tụng trong việc áp dụng pháp luật đối với loại tội phạm này, nhƣng trên thực tiễn thi hành đã chỉ ra, bên cạnh mặt tích cực còn bộc lộ những hạn chế nhƣ: a. Qua theo dõi các địa phƣơng thì thấy rằng, rất ít các vụ việc không chấp hành án đƣợc xử lý hình sự theo quy định tại Điều 304 Bộ luật Hình sự. Trên thực tế hành vi không chấp hành án vẫn xảy ra mà chƣa bị xử lý về hình sự dẫn đến bỏ lọt tội phạm. b. Nhiều bản án về tội phạm này chƣa đúng với tính chất mức độ phạm tội ảnh hƣởng đến tính nghiêm minh của pháp luật, tạo ra sự mất bình đẳng trong xã hội làm mất lòng tin của nhân dân vào hệ thống pháp luật hình sự; c. Hình phạt áp dụng đối với ngƣời phạm tội chƣa phản ánh đúng với tính chất phạm tội của họ, chƣa đảm bảo chính sách xử lý nghiêm minh đối với các trƣờng hợp phạm tội có tính chất nghiêm trọng hơn, gây khó khăn cho các cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng thống nhất quá trình xử lý vụ việc; d. Các hành vi cấu thành Tội không chấp hành án còn quy định chƣa đầy đủ, ví dụ nhƣ: hành vi tẩu tán tài sản. Những hạn chế nêu trên đã gây ra các hậu quả xã hội nhƣ: làm giảm hiệu lực thi hành của các quyết định và bản án đã có hiệu lực của tòa án, đồng thời làm vô hiệu hóa các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Từ đó gây ra những bức xúc trong dƣ luận, giảm sút lòng tin trong nhân dân đối với pháp luật hình sự, tạo tiền lệ chây ỳ, coi thƣờng việc chấp hành các bản án đã có hiệu lực thi hành. Những hành vi này cần bị xử lý hình sự để răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh đối với tội phạm nói chung và Tội không chấp hành án nói riêng. Thực trạng đó do nhiều nguyên nhân nhƣ: thực tế chƣa có tiền lệ, nên loại tội phạm này còn xa lạ với cơ quan tố tụng, nhiều nơi còn tâm lý e ngại hoặc bỏ mặc, trong đó có qui định của pháp luật về tội phạm chƣa phù hợp, cụ thể: Tội không chấp hành án lần đầu tiên đã đƣợc quy định thành một tội danh độc lập trong BLHS 1999, nhƣng chỉ quy định chế tài mà chƣa có hƣớng dẫn
  • 12. 4 cụ thể về các yếu tố cấu thành tội danh không chấp hành án và thế nào là ''đã bị áp dụng biện pháp cƣỡng chế cần thiết'' (hiện tại toàn bộ chƣơng các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp trong đó có tội danh không chấp hành án của Bộ luật hình sự đều chƣa có hƣớng dẫn) nên khó cho các cơ quan tố tụng trong việc khởi tố, truy tố, điều tra và xét xử. Sự phát triển, bổ sung và đề cao quyền con ngƣời, quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp 2013 đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành. Quyền con ngƣời cần đƣợc bảo đảm thông qua hệ thống các cơ quan tƣ pháp nhƣ quyền làm chủ, quyền bảo vệ tài sản, quyền đƣợc bảo đảm về tính mạng, danh dự, nhân phẩm...đƣợc thông qua hệ thống các cơ quan tƣ pháp Việc chấp hành bản án là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, chấp hành bản án, quyết định của tòa án có mối quan hệ hữu cơ với giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu việc chấp hành bản án không đƣợc thực thi thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trƣớc đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu nhƣ một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không đƣợc chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm thì trật tự kỷ cƣơng xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nƣớc bị xem thƣờng. Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý Nhà nƣớc. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng xử lý Tội không chấp hành án là cần thiết nên tác giả chọn đề tài “Tội không chấp hành án theo Luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Do Tội không chấp hành án có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ các hoạt động của các cơ quan tƣ pháp, đồng thời là điều kiện cần thiết để
  • 13. 5 đảm bảo duy trì công lý nói chung cũng nhƣ để đảm bảo hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc, nên ở trong và ngoài nƣớc đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh, phƣơng diện khác nhau về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp, trong đó có Tội không chấp hành án. Trong những năm qua, việc nghiên cứu các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp nói chung và Tội không chấp hành án đã thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu đã đƣợc công bố nhƣ: - Trần Minh Hƣởng, Đặng Thu hiền: “Tìm hiểu các tội xâm phạm hoạt động tư pháp”, Nhà xuất bản văn hóa Dân tộc, năm 2002; - Phạm Thanh Bình, Nguyễn Vạn Nguyên: “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1997; - Nguyễn Ngọc Điệp, Hồ Thị Nệ: “Tìm hiểu các tội hoạt động tư pháp trong Bộ Luật Hình sự năm 1999”, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2001; - Nguyễn Tất Viễn, Luận án Phí tiến sĩ Luật học: “Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam”, năm 1996; - Nguyễn Huy Hoàn, Luận án tiến sĩ Luật học: “Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, năm 2005; - Đề tài nghiên cứu khoa học: “Thực trạng các tội xâm phạm hoạt động tư pháp và trách nhiệm của Viện Kiểm sát nhân dân các cấp trong cuộc đấu tranh chống các tội phạm này”, Chủ nhiệm Đề tài Bùi Đức Long, cơ quan chủ trì: Trƣờng Cao đẳng Kiểm sát, 1998. Ngoài ra Tội không chấp hành án còn đƣợc nhiều các nhà nghiên cứu khoa học, các đồng chí trực tiếp làm công tác tƣ pháp có nhiều trao đổi trên các báo Pháp Luật, báo chuyên ngành, tại các hội nghị tổng kết và trong các Giáo trình Luật hình sự của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình của Khoa Luật trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội.
  • 14. 6 Các tác giả chủ yếu đề cập đến trách nhiệm hình sự, tìm hiểu và bình luận về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp trong Luật Hình sự Việt Nam, đảm bảo quyền con ngƣời trong hoạt động tƣ pháp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, hoặc nghiên cứu các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp với tƣ cách là đối tƣợng hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân, chƣa có công trình khoa học nào nghiên cứu sâu về riêng Tội không chấp án theo quy định của luật hình sự Việt Nam. Nhƣ vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Tội không chấp hành án theo luật hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. 3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những yếu tố cơ bản của Tội không chấp hành án, qua đó thấy đƣợc những tồn tại, hạn chế và rút ra phƣơng pháp đúng đắn thiết yếu trong đấu tranh phòng chống tội phạm không chấp hành án. Đồng thời cho ta thấy đƣợc tình hình diễn biến của loại tội phạm này và có biện pháp đúng đắn để ngăn chặn và đi đến đẩy lùi tội phạm. Qua đó thấy đƣợc việc đấu tranh phòng chống tội phạm là trách nhiệm của toàn xã hội, cần có sự phối hợp của các cơ quan, ban ngành nhằm tạo nên sức mạnh để đẩy lùi tội phạm này góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tạo sự tin tƣởng của nhân dân đối với hệ thống các cơ quan tƣ pháp. 3.2. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn này nghiên cứu các quy định của pháp luật về Tội không chấp hành án dƣới khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng chúng trong thực tiễn, từ đó luận văn đƣa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về Tội không chấp hành án trong luật hình sự Việt Nam, cũng nhƣ đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của tội này trong thực tiễn áp dụng.
  • 15. 7 3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Trên cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả trong nƣớc về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp nói chung và Tội không chấp hành án nói riêng, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về Tội không chấp hành án nhƣ: Khái niệm, đặc điểm pháp lý của Tội không chấp hành án; phân biệt Tội không chấp hành án với Tội không thi hành án; - Khái quát sự phát triển của chế định Tội không chấp hành án trong lịch sử pháp luật hình sự của nƣớc ta từ năm 1945 đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá; - Nghiên cứu các quy định cụ thể về Tội không chấp hành án trong Bộ luật hình sự hiện hành của Việt Nam, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá; - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định Tội không chấp hành án, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân cơ bản của nó; - Từ đó đề xuất những định hƣớng và giải pháp hoàn thiện các quy định về Tội không chấp hành án trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành, cũng nhƣ những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng của tội này trong thực tiễn. 3.4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề sau: Trên cơ sở nghiên cứu quy định về Tội không chấp hành án trong lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Việt nam kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng Tội không chấp hành án trong thực tiễn xét xử của Tòa án các cấp và những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng Tội không chấp hành án trong thực tiễn. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng Tội không chấp hành án trong 05 năm (2011- 2015).
  • 16. 8 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-Xít, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tƣ pháp đƣợc thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, luận văn đã sử dụng các phƣơng pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ: phƣơng pháp phân tích và tổng hợp; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu; phƣơng pháp diễn dịch; phƣơng pháp quy nạp; phƣơng pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc nghiên cứu trong luận văn. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phƣơng diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về Tội không chấp hành án, mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới Tội không chấp hành án trong luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Tổng hợp các quan điểm khoa học trong nƣớc về Tội không chấp hành án để xây dựng nên khái niệm Tội không chấp hành án, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời chỉ ra các đặc điểm cơ bản của tội không chấp hành bản án trong mối tƣơng quan so sánh với một số chế định khác; - Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành và phát triển của Tội không chấp hành án trong luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay;
  • 17. 9 - Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ tình hình áp dụng quy định về Tội không chấp hành án của Tòa án các cấp; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn áp dụng Tội không chấp hành án, cũng nhƣ những nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn chế đó; - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất các định hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng Tội không chấp hành án trong giai đoạn xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền và cải cách tƣ pháp hiện nay ở Việt Nam. 6. Kết cấu của luận văn Luận văn bao gồm: ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chƣơng, có kết cấu nhƣ sau: Chương 1. Một số vấn đề lý luận về Tội không chấp hành án. Chương 2. Đặc điểm pháp lý về Tội không chấp hành án theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999. Chương 3. Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý Tội không chấp hành án.
  • 18. 10 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN 1.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN 1.1.1. Khái niệm Tội không chấp hành án Tội không chấp hành án là một tội đƣợc quy định trong Bộ Luật hình sự Việt Nam năm 1999. “Tội phạm là một chế định cơ bản, quan trọng nhất trong luật hình sự, là sơ sở cho việc xác định một hành vi có phải là tội phạm hay không. Đã có nhiều định nghĩa khoa học về tội phạm ở những cách tiếp cận và quan điểm khác nhau” [23]. Khái niệm tội phạm đƣợc hình thành trong quá trình phát triển, hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam. Trong Bộ luật hình sự năm 1985, khái niệm này đã phản ánh một cách khá đầy đủ các quy định về tội phạm và xác định cụ thể hành vi nào là tội phạm. Tuy nhiên do sự phát triển của xã hội khái niệm tội phạm cũng đƣợc sửa đổi cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế, trên cơ sở kế thừa và phát huy những nguyên tắc, chế định hình sự pháp luật của nƣớc ta, Bộ luật hình sự 1999 đã sửa đổi khái niệm về tội phạm có tính khoa học thể hiện tập trung nhất quan điểm của Nhà nƣớc ta về tội phạm. Tội không chấp hành án là một trong các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp. Hiện nay, pháp luật Việt Nam chƣa có quy định nào định nghĩa hoặc hƣớng dẫn chính thức về khái niệm “Hoạt động tƣ pháp”, mà tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng hoạt động tƣ pháp bao gồm hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nhƣ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; của những ngƣời tiến hành tố tụng nhƣ Thủ trƣởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trƣởng, Phó thủ trƣởng Cơ quan Cơ quan điều tra, Điều tra viên,
  • 19. 11 Viện trƣởng, Phó viện trƣởng Viện kiểm sát, kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm và Thƣ ký Tòa án. Quan điểm thứ hai cho rằng hoạt động tƣ pháp còn bao gồm các chủ thể đƣợc giao tiến hành một số hoạt động tố tụng nhƣ: Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội Biên phòng, Kiểm sát biển; Cơ quan thi hành án (dân sự và hình sự). Quan điểm thứ ba cho rằng, khái niệm hoạt động tƣ pháp phải hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm ba dạng hoạt động: hoạt động tƣ pháp trong lĩnh vực tố tụng (tƣ pháp – tố tụng), hoạt động tƣ pháp trong lĩnh vực hành chính (tƣ pháp – hành chính) và hoạt động bổ trợ tƣ pháp. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, khái niệm “hoạt động tƣ pháp” chỉ nên hiểu theo nghĩa là “hoạt động tố tụng”, tức là hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án do các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và Thi hành án; của những ngƣời tiến hành tố tụng nhƣ: Thủ trƣởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trƣởng, Phó Viện trƣởng Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thƣ ký Tòa án, Chấp hành viên thực hiện. Điều 292 BLHS 1999 qui định: “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” [30, Điều 292]. Các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của lĩnh vực tƣ pháp, nhƣng tính chất, phạm vi của tƣ pháp có cách tiếp cận khác nhau, do đó quan niệm về tƣ pháp ở các nƣớc cũng khác nhau. Ở nƣớc ta, khái niệm tƣ pháp đƣợc hiểu theo nghĩa rộng là một hệ thống các thiết chế, các tổ chức bảo vệ pháp luật, duy trì, bảo đảm công lý, công bằng xã hội, trong đó hoạt động xét xử của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền là Tòa án giữ vai trò, vị trí quan trọng, là khâu trung
  • 20. 12 tâm.Vì vậy, khi nói tới Tòa án là nói tới biểu tƣợng điển hình của việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, là nơi biểu hiện rõ nhất bản chất của pháp luật. Hoạt động xét xử của Tòa án, thông qua những thủ tục tố tụng nhất định, đối với những vụ việc vi phạm pháp luật, tranh chấp của các chủ thể trong đời sống xã hội, nhằm bảo vệ pháp luật, duy trì, bảo đảm công lý, công bằng xã hội. Vì vậy, toàn bộ các hoạt động điều tra, truy tố và các hoạt động bổ trợ tƣ pháp (Giám định, Luật sƣ, Công chứng, Hộ tịch, Tƣ vấn pháp luật...) đều nhằm phục vụ cho quá trình làm sáng tỏ chân lý, tìm ra sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, để trên cơ sở đó, Tòa án đƣa ra phán quyết theo qui định của pháp luật. Kết thúc giai đoạn xét xử, Tòa án quyết định những vấn đề thuộc về nội dung vụ án, xác định trách nhiệm pháp lý và chế tài thích hợp cho từng đối tƣợng cụ thể, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nƣớc, cơ quan, tổ chức và của công dân. Các bản án và quyết định xét xử của Tòa án không những nhân danh Nhà nƣớc mà còn thể hiện quyền lực tối cao của pháp quyền có hiệu lực thi hành, Điều 106 của Hiến pháp 2013 đã nêu rõ: "Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành" [37, Điều 106]. Vì vậy, các bản án và quyết định của Tòa án phải đƣợc nghiêm chỉnh chấp hành thì lúc đó kết quả của các cơ quan tiến hành tố tụng mới đƣợc thực thi trên thực tế. Hoạt động tƣ pháp là hoạt động của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và Cơ quan thi hành án trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và giải quyết các quan hệ pháp luật khác đƣợc phát sinh theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ các quyền của Nhà nƣớc, của các tổ chức, của công dân. Hoạt động tƣ pháp là hoạt động quyền lực Nhà nƣớc do các cơ quan tƣ pháp thực hiện. Các hoạt động này do ngƣời đại diện của các cơ quan tƣ pháp nhân danh Nhà nƣớc trực tiếp thực hiện theo chức danh đƣợc bổ nhiệm.
  • 21. 13 Nhƣ vậy, theo qui định của BLHS 1999, hoạt động tƣ pháp là hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, do đó xâm phạm đến sự đúng đắn của các hoạt động này đƣợc coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức phải xử lý bằng chế tài hình sự. Chủ thể của các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp chủ yếu là cán bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp. Hiện nay, chƣa có văn bản quy phạm pháp luật nào hƣớng dẫn cụ thể thế nào là cơ quan tƣ pháp. Tuy nhiên, từ định nghĩa về hoạt động tƣ pháp đã định nghĩa ở trên có thể hiểu cơ quan tƣ pháp là các cơ quan Nhà nƣớc trực tiếp thực hiện quyền tƣ pháp trong quyền lực nhà nƣớc bao gồm Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án. Trong cơ quan tƣ pháp có nhiều cán bộ, công chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ nhất định nhƣ các cán bộ thực hiện các hoạt động tƣ pháp, các cán bộ thực hiện chức năng quản lý, các công chức giúp việc khác. Cán bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp đƣợc bổ nhiệm theo điều kiện và cách thức điều luật quy định. Ngoài ra, chủ thể các tội phạm hoạt động tƣ pháp còn là những ngƣời khác, trong một số trƣờng hợp nhất định mà hành vi phạm tội của họ liên quan đến hoạt động tƣ pháp, nhƣ: Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử (Điều 311), Tội che giấu tội phạm (Điều 313) [30]. Dựa vào đặc điểm của chủ thể tội phạm thì ta chia các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp thành bốn nhóm, trong đó Tội không chấp hành án thuộc nhóm các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà chủ thể là đối tƣợng của các bản án hoặc quyết định của cơ quan tƣ pháp đƣợc quy định tại các Điều 304 và 311 BLHS 1999 Đối với hình thức lỗi của các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp đƣợc thực hiện chủ yếu bằng hình thức lỗi cố ý và bảo gồm cả hình thức hành động phạm tội cũng nhƣ không hành động phạm tội.
  • 22. 14 Các hành vi nguy hiểm cho xã hội trong các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp có thể biểu hiện dƣới dạng hành động nhƣ bức cung, dùng nhục hình, ra bản án trái pháp luật, trốn khỏi nơi giam; hoặc dƣới dạng không hành động nhƣ: không truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời có tội, thiếu trách nhiệm để ngƣời bị giam, giữ trốn, không chấp hành án. Tội không chấp hành án là một trong các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp, nên nó cũng xâm hại đến khách thể loại của nhóm tội phạm này là sự đúng đắn trong hoạt động tƣ pháp, bao gồm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Tội không chấp hành án hành án có mối liên hệ logic với các tội phạm khác trong chƣơng các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp, tạo thành một tổng thể hoàn chỉnh trừng trị những hành vi xâm phạm đến tính đúng đắn trong quá tình giải quyết vụ án. Từ những phân tích trên cho thấy, có thể đƣa ra khái niệm không chấp hành án nhƣ sau: không chấp hành án là hành vi của những người có khả năng, điều kiện để chấp hành án nhưng cố ý không chấp hành bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật đối với họ. Qua khái niệm không chấp hành án cho thấy đó chính là hành vi không chấp hành bản án, quyết định của tòa án mà bản án và quyết định của tòa án là kết quả hoạt động tƣ pháp trong việc giải quyết các vụ án. Nhƣng đó chƣa phải là kết quả cuối cùng của hoạt động tƣ pháp. Bản án cũng nhƣ các quyết định của tòa án chỉ có ý nghĩa thực sự khi đƣợc chấp hành. Hành vi cố ý không chấp hành bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật không chỉ trực tiếp xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan thi hành án mà còn vô hiệu hóa kết quả của các hoạt động tƣ pháp đã đƣợc thực hiện. Từ khái niệm trên cho thấy hành vi không chấp hành án chính là không chấp hành bản án. Về mặt lý luận cho đến nay chƣa có tác giả nào đề cập một cách toàn diện về nội hàm của khái niệm bản án, quyết định của Tòa án, vì có
  • 23. 15 thể mọi ngƣời quan niệm pháp luật quy định về vấn đề này khá rõ ràng. Tuy nhiên, trong thực tiễn pháp lý, khái niệm bản án, quyết định của Tòa án đôi khi có những quan điểm khác nhau từ phía những ngƣời tiến hành và tham gia tố tụng, có trƣờng hợp làm ảnh hƣởng đến quyền lợi của bị cáo, các bên đƣơng sự...Ví dụ nhƣ: khi Hội đồng xét xử đã tuyên án, việc thẩm phán chủ tọa ra văn bản bổ sung những thiếu sót về số liệu, hoặc ra quyết định đính chính một số nội dung, chi tiết nhƣ thực tiễn đã xảy ra, có đƣợc coi những tại liệu đó là “ một phần” của bản án, quyết định của Tòa án hay không ? Bản thân văn bản “ Trích sao bản án quyết định” có đóng dấu và chữ ký của Thẩm phán chủ tọa, hoặc bản sao y do văn phòng của Toà án chứng thực có phải là chính bản án, quyết định hay không ?..Mặt khác, ảnh hƣởng của bản án, quyết định đối với số phận, tính mạng, tài sản của công dân, pháp nhân là rất lớn nên theo quan điểm của tác giả, qua nghiên cứu các quy định pháp lý hiện hành trong tố tụng hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và hành chính thì khái niệm chung về bản án, quyết định của Tòa án đƣợc hiểu là văn bản pháp lý được Tòa án có thẩm quyền tuyên xử hoặc quyết định theo một trình tự tố tụng do luật định về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi hoặc quan hệ pháp luật phát sinh từ một vụ án cụ thể. Từ những phân tích trên, có thể đƣa ra khái niệm Tội không chấp hành án nhƣ sau: “Tội không chấp hành án là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS cố ý không chấp hành bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết”. 1.1.2. Một số đặc điểm của Tội không chấp hành án Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 đã định nghĩa khái niệm tội phạm: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
  • 24. 16 hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [30, Điều 8]. Từ định nghĩa này có thể định nghĩa khái quát tội phạm nhƣ sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Điều 304 quy định tội Không chấp hành án thuộc Chƣơng XXII các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp BLHS 1999 nhƣ sau: “Người nào cố ý không chấp hành bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm” [30, Điều 304]. Cũng giống nhƣ các tội phạm khác, Tội không chấp hành án là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý. Tuy nhiên, so với các loại tội phạm khác, Tội không chấp hành án có những đặc điểm riêng nhƣ sau: Thứ nhất, Tính nguy hiểm cho xã hội Không chấp hành án là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải đƣợc hình sự hóa. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là dấu hiệu cơ bản nói lên bản chất chính trị, xã hội của tội phạm, dấu hiệu này đƣợc coi là dấu hiệu nội dung quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Một hành vi sở dĩ bị quy định trong luật hình sự là tội phạm và phải chịu TNHS vì nó có tính nguy hiểm cho xã hội do đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ. Tầm quan trọng của quan hệ xã hội do tính chất của quan hệ đó trong các thang giá trị xã hội do giai cấp thống trị
  • 25. 17 thiết lập. Do đó, tính chất của quan hệ xã hội có thể bị thay đổi ở những xã hội khác nhau hoặc ngay trong một chế độ xã hội nhƣng ở những thời kỳ khác nhau thì tính chất của quan hệ xã hội cũng có thể thay đổi. Điều đó đòi hỏi nhà làm luật khi xem xét tính chất quan trọng của quan hệ xã hội để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phải dựa trên hoàn cảnh lịch sử cụ thể, xuất phát từ lợi ích giai cấp, trên lập trƣờng giai cấp. Tuy nhiên, tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm hại không thể là yếu tố duy nhất phản ánh mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà chỉ khi đƣợc kết hợp với những yếu tố khác nó mới phản ánh hành vi là nguy hiểm đã đến mức coi là tội phạm và cần phải xử lý bằng chế tài hình sự hay không. Tính nguy hiểm cho xã hội đƣợc phản ánh ở hai đại lƣợng: tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi. Tính chất của hành vi là đặc tính về "chất" của thiệt hại, đƣợc xác định căn cứ vào tính chất của quan hệ xã hội bị thiệt hại, quan hệ xã hội càng quan trọng thì tính chất của thiệt hại càng nghiêm trọng. Mức độ của thiệt hại là đặc tính về "lƣợng" của thiệt hại, tùy theo từng loại thiệt hại mà mức độ đó đƣợc biểu hiện khác nhau. Vì vậy, tính chất và mức độ của thiệt hại là một căn cứ để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, khi kết hợp với các căn cứ khác nó phản ánh một hành vi là nguy hiểm "đáng kể" hay "không đáng kể" cho xã hội, tạo cơ sở để nhà làm luật tội phạm hóa và phi tội phạm hóa. Tội Không chấp hành án đƣợc qui định tại Điều 304 Bộ luật hình sự 1999 thì hành vi này tính nguy hiểm cho xã hội của nó đƣợc thể hiện ở chỗ: Hành vi không chấp hành án đã xâm hại đến kết quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nhƣ: Điều tra, truy tố, xét xử. Một trong những bộ phận của hoạt động tƣ pháp trong quá trình giải quyết vụ án. Tƣ pháp là một trong ba nhánh quyền lực của một nhà nƣớc, việc duy trì, củng cố, phát triển quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của bất
  • 26. 18 kỳ chính thể nào. Trong nhà nƣớc pháp quyền, tƣ pháp không những là biểu tƣợng mà còn là thiết chế để bảo vệ công lý, tƣ pháp bảo đảm cho công lý đƣợc thực thi. Vì vậy, tƣ pháp đòi hỏi phải có sự công tâm, vô tƣ, khách quan nhất là sự chuẩn mực, mọi phán quyết cũng nhƣ thi hành các phán quyết đó cần phải thực thi một cách đầy đủ, không phụ thuộc vào bất kỳ một áp lực xã hội nào. Để bảo vệ những yêu cầu này của hoạt động tƣ pháp, trong số các công cụ nhà nƣớc sử dụng thì pháp luật hình sự với chế tài nghiêm khắc đƣợc coi là ngƣời gác cửa cuối cùng và quan trọng nhất. Trong điều kiện cải cách tƣ pháp, hội nhập quốc tế đƣợc tiến hành thì yêu cầu bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh, đầy đủ phán quyết của tòa án lại cần phải đƣợc tăng cƣờng; hành vi không chấp hành án không những chỉ xâm hại đến khách thể loại của các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà còn xâm hại đến sự đúng đắn trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng mà kết quả của nó là sự phán quyết của tòa án, với tƣ cách là khách thể trực tiếp của tội phạm, cũng nhƣ xâm hại đến quyền lợi của nhà nƣớc và quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân đƣợc luật hình sự bảo vệ. Chấp hành án đƣợc hiểu là việc thực hiện bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế, đó là văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nƣớc tuyên tại phiên tòa, giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính. Việc chấp hành bản án, quyết định của Tòa án có hiệu quả, một mặt bảo đảm thực hiện quyền tƣ pháp của Nhà nƣớc, thể hiện sự tôn trọng của xã hội và công dân đối với phán quyết của cơ quan nhân danh Nhà nƣớc là Tòa án, mặt khác nó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nƣớc, tổ chức và công dân đã bị xâm hại. Vì vậy không chấp hành án đã xâm hại đến những quan hệ nói trên đƣợc pháp luật hình sự bảo vệ. Từ những phân tích trên, có thể khẳng định không chấp hành án là hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức độ “đáng kể” và bị coi là tội phạm và cần
  • 27. 19 thiết phải bị trừng trị bằng chế tài hình sự. Tội không chấp hành án đƣợc thực hiện bởi hành vi nguy hiểm cho hội với biểu hiện: a.“Không hành động” nhƣ không thi hành quyết định của bản án và các quyết định khác của Tòa án mà họ có nghĩa vụ phải thi hành; b.“hành động” nhƣ bỏ trốn, tránh mặt lúc lực lƣợng thi hành lệnh cƣỡng chế... Đồng thời hành vi này phải đã bị áp dụng các biện pháp cƣỡng chế cần thiết điều này có nghĩa hành vi này chỉ bị coi là phạm tội nếu sau khi đã bị áp dụng những biện pháp cƣỡng chế mà vẫn tiếp tục không chịu chấp hành. Việc quy định tính nguy hiểm cho xã hội của Tội không chấp hành án là căn cứ để phân biệt tội phạm này với các hành vi vi phạm khác và là cơ sở để đánh giá mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít của hành vi phạm tội và qua đó giúp cho việc cá thể hóa TNHS đƣợc chính xác. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này và cũng không phải là tình tiết là yếu tố định khung hình phạt vì tội phạm này chỉ có một khung hình phạt. Thứ hai, Tính có lỗi Lỗi là thái độ chủ quan của con ngƣời đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả của hành vi đó thể hiện dƣới dạng cố ý hoặc vô ý. Hai mặt khách quan và chủ quan của tội phạm có liên hệ chặt chẽ với nhau. Không thể có hành vi nguy hiểm cho xã hội mà không có lỗi của ngƣời phạm tội. Tội không chấp hành án đƣợc thực hiện bởi lỗi cố ý, không có lỗi vô ý bởi ngƣời phạm tội biết đƣợc hành vi không chấp hành bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng các biện pháp cƣỡng chế cần thiết nhƣng ngƣời phạm tội vẫn tiếp tục không chấp hành bản án hoặc quyết đó. Theo qui định của Điều 304 BLHS 1999 chủ thể của không chấp hành án là chủ thể đặc biệt, chỉ có những ngƣời có nghĩa vụ phải chấp hành các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Họ có thể là bị cáo trong vụ án hình sự hoặc
  • 28. 20 là đƣơng sự của vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính, kinh doanh thƣơng mại. Thứ ba, Tính trái pháp luật Hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ đƣợc coi là tội phạm nếu nó đƣợc quy định trong luật hình sự. Nhƣ vậy tính trái pháp luật cũng là dấu hiệu đặc biệt quan trọng. Những hành vi đƣợc coi là trái pháp luật cũng đồng thời là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong Luật hình sự. Quy định tính trái pháp luật hình sự là cơ sở và đảm bảo quyền tự do dân chủ của công dân không bị những hành vi xử lý tùy tiện vi phạm, thúc đẩy cơ quan lập pháp kịp thời sửa đổi, bổ sung luật phù hợp với sự thay đổi tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội. Tính trái pháp luật hình sự tuy chỉ là dấu hiệu về mặt hình thức pháp lý, phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu về mặt nội dung chính trị, xã hội của tội phạm nhƣng vẫn có tính độc lập tƣơng đối và có ý nghĩa quan trọng và là dấu hiệu đƣợc xác định bởi dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội. Nhƣ đã phân tích ở trên hành vi không chấp hành án là hành vi nguy hiểm cho xã hội và đƣợc quy định trong BLHS (Điều 304) và nó trái pháp luật hình sự hay nói cách khác nó đƣợc quy định trong BLHS. Thứ tư, Tính phải chịu hình phạt Tính phải chịu hình phạt có nghĩa là bất cứ một hành vi phạm tội nào cũng đều bị đe dọa phải chịu một hình phạt. Chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt, tội càng nghiêm trọng thì hình phạt áp dụng càng nghiêm khắc. Tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu kèm theo của dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự là cơ sở để cụ thể hóa tính phải chịu hình phạt, tính nguy hiểm cho xã hội càng lớn thì hình phạt càng cao. Cũng vì tính nguy
  • 29. 21 hiểm cho xã hội của tội phạm mà bất cứ hành vi phạm tội nào cũng có thể bị đe dọa áp dụng hình phạt. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội không chấp hành án, Điều 304 qui định đối với tội phạm này, nhà làm luật chỉ quy định một trƣờng hợp phạm tội, một khung hình phạt đó là phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, không có tình tiết định khung hình phạt tăng nặng. Ngoài ra ngƣời phạm tội còn bị áp dụng các biện pháp tƣ pháp khác theo quy định của pháp luật 1.2. SỰ CẦN THIẾT VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUI ĐỊNH TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.2.1. Sự cần thiết của việc qui định Tội không chấp hành án trong Luật hình sự Việt nam Trong hệ thống các cơ quan nhà nƣớc, các cơ quan tƣ pháp nói chung và Tòa án nói riêng giữ vị trí đặc biệt quan trọng, là công cụ đắc lực để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công lý, giữ gìn trật tự, kỷ cƣơng xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tội không chấp hành án là một tội đƣợc quy định trong chƣơng XXII Bộ luật hình sự (Chƣơng Các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp). Các tội trong chƣơng này là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp, bao gồm cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nƣớc và quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Bản án và các quyết định của tòa án là kết quả của hoạt động tƣ pháp trong việc giải quyết các vụ án. Nhƣng đó chƣa phải là kết quả cuối cùng của hoạt động tƣ pháp. Bản án cũng nhƣ các quyết định của tòa án chỉ có ý nghĩa thực sự khi đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh và triệt để. Hành vi cố ý không chấp hành bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật không
  • 30. 22 chỉ trực tiếp xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan thi hành án mà còn vô hiệu hóa kết quả của các hoạt động tƣ pháp đã đƣợc thực hiện trƣớc đó. Xâm hại đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Quy định Tội không chấp hành án trong Bộ luật hình sự Việt Nam là vấn đề hết sức quan trọng là một giai đoạn cơ bản để áp dụng pháp luật hình sự, các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử là nhằm giúp cho việc định tội đƣợc chính xác. Quy định Tội không chấp hành án còn là cơ sở pháp lý để phân biệt hành vi của tội phạm này với hành vi của tội phạm khác đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, đây là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt toàn bộ các hoạt động xây dựng cũng nhƣ áp dụng luật hình sự đảm bảo nhằm xử lý đúng ngƣời, đúng tội; không xử oan ngƣời vô tội, không kết tội oan, không bỏ lọt tội phạm. Nhƣ vậy, quy định Tội không chấp hành án có ý nghĩa thống nhất về mặt nhận thúc Chính vì những lý do trên cho thấy việc quy định Tội không chấp hành án trong Bộ luật hình sự năm 1999 của Việt Nam là cần thiết và cấp bách. 1.2.2. Ý nghĩa của việc qui định Tội không chấp hành án trong luật hình sự Thực tế hiện nay, có nhiều bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật đã có hiệu lực pháp luật nhƣng vẫn chƣa đƣợc thi hành bởi nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân xuất phát từ phía ngƣời chấp hành án, có nguyên nhân xuất phát từ phía các cơ quan thi hành pháp luật và cũng có nguyên nhân bắt nguồn từ các quy định của pháp luật đã làm cho hiệu lực quản lý của Nhà nƣớc bằng pháp luật bị giảm sút. Trƣớc thực trạng đó, đặt ra một câu làm nhƣ thế nào để các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án phải đƣợc đƣa ra thi hành triệt để, đó đang trở thành vấn đề đáng lo ngại của các cơ quan thực thi pháp luật nói riêng và là mối quan tâm của xã hội nói chung. Tội không chấp hành án là một tội đƣợc quy định trong nhóm các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp, đặc trƣng của chúng là khách thể bị xâm hại là
  • 31. 23 các quan hệ xã hội đƣợc hình thành trong quá trình hoạt động nghiệp vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng và một số cơ quan tƣ pháp nhƣ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan thi hành án đƣợc pháp luật hình sự bảo vệ. Qua những phân tích trên ta thấy, việc quy định Tội không chấp hành án có những ý nghĩa sau: Bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nƣớc, của các tổ chức xã hội và các quyền lợi ích hợp pháp khác của công dân, đề cao tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm cho sự hoạt động đúng đắn của cơ quan tƣ pháp, tạo điều kiện cho công tác đấu tranh phòng và chống các tội phạm đƣợc thực hiện một cách có hiệu quả. Giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao tinh thần tự giác của công dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Hỗ trợ cho các biện pháp khác trong công cuộc xây dựng xã hội tiên tiến văn minh, thiệt lập kỷ cƣơng xã hội. Việc quy định Tội không chấp hành án trong Luật hình sự là để phòng ngừa tội phạm này xảy ra, mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, góp phần phát triển và hoàn thiện hệ thống Bộ luật hình sự, góp phần làm rõ thực trạng cơ cấu, diễn biến của tình trạng phạm tội và dự đoán xu hƣớng của nó trong tƣơng lai. Từ đó đề ra biện pháp phòng ngừa trong thực tế đấu tranh phòng chống tội phạm. 1.3. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY 1.3.1. Tội không chấp hành án trước khi có Bộ Luật hình sự 1985 Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam từ năm 1945 đến nay cho thấy quy định về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp nói chung và Tội không chấp hành án đƣợc quy định phong phú và đa dạng, có sự kế thừa
  • 32. 24 và bổ sung hoàn thiện qua từng thời kỳ. Trƣớc khi có Bộ luật hình sự đầu tiên (Bộ Luật Hình Sự năm 1985) đã có một số hành vi xâm phạm hoạt động tƣ pháp đƣợc quy định trong các văn bản pháp luật đơn hành. Ví dụ: Hành vi bắt giam ngƣời trái phép đƣợc quy định trong Luật số 103 ngày 10/5/1957; hành vi bao che các tội phản cách mạng đƣợc quy định trong Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967.... Việc quy định nhóm tội này nói chung và và Tội không chấp hành án nói riêng trƣớc khi có Bộ luật Hình sự đầu tiên, còn thiếu nhiều, tản mạn và không mang tính đồng bộ. 1.3.2. Tội không chấp hành án theo quy định của Bộ luật hình sự 1985 Để khắc phục tình trạng trên, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh chống các hành vi xâm phạm đến hoạt động của các cơ quan tƣ pháp, Bộ luật Hình sự năm 1985 đã có một chƣơng riêng ở phần các tội phạm quy định về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp. Đó là chƣơng X với 19 điều từ Điều 230 đến Điều 248. Trong 19 điều luật này có 17 điều quy định 20 tội thuộc nhóm tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp, nhƣng chƣa quy định Tội không chấp hành án thành một điều độc lập. Từ đây dấu hiệu pháp lý đặc trƣng của từng tội phạm mới đƣợc xác lập làm cơ sở giải quyết các tội phạm này. Điều 230 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, viện kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà nƣớc, của các tổ chức xã hội và công dân. Điều 240 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tội “không chấp hành án, tội cản trở việc thi hành án”. Xét về thực tế đây là hai tội độc lập nhƣng lại quy định ở hai khoản khác nhau của một tội danh. Việc quy định nhƣ vậy đã bộc lộ một số hạn chế nhất định:a. Chủ thể của Tội không chấp hành án là chủ thể đặc biệt đó là những ngƣời có nghĩa vụ phải chấp hành các bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nhƣng họ không thực hiện, nó trực tiếp xâm hại tới hoạt động đúng đắn
  • 33. 25 của các cơ quan tƣ pháp. Chủ thể của Tội cản trở việc thi hành án cũng là chủ thể đặc biệt, nhƣng là ngƣời có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan tƣ pháp hoặc trong cơ quan tổ chức khác. Hành vi cản trở việc thi hành án trực tiếp xâm hại đến hoạt động của cơ quan thi hành án; b. Xét về kỹ thuật lập pháp, thì nhà làm luật quy định nhƣ vậy là không khoa học. Bởi lẽ, trong một điều luật khoản 1 quy định một tội, khoản 2 quy định một tội khác làm cho tƣởng nhầm là tội “cản trở việc thi hành án” là tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của tội “không chấp hành án”; c. Quy định nhƣ vậy không đáp ứng đƣợc yêu cầu đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong điều kiện xây dựng, hội nhập và phát triển. 1.3.3. Tội không chấp hành án theo Bộ luật hình sự năm 1999 Bộ luật hình sự năm 1999 đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21/12/1999, có hiệu lực từ ngày 01/7/200. Ngày 19/6/2009, tại kỳ họp thứ 5 khóa XII của Quốc hội đã thông qua Luật số 37/2009/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật hình sự năm 1999, có hiệu lực thi hành vào ngày 01/01/2010. Tội không chấp hành án đƣợc quy định trong chƣơng XXII các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp từ Điều 292 đến điều 314. Trong đó Điều 292 BLHS quy định vê khái niệm hoạt động tƣ pháp “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” [30, Điều 292]. Các điều còn lại quy định các tội phạm. So với Chƣơng X Bộ luật hình sự năm 1985 thì các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp quy định tại Chƣơng XXII Bộ luật hình sự năm 1999 đƣợc sửa đổi, bổ sung thêm bốn tội. Cụ thể, Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời có tội (Điều 294), Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 296), Tội không thi hành án (Điều 305), Tội đánh tháo ngƣời bị giam giữ, ngƣời đang bị
  • 34. 26 dẫn giải, ngƣời đang bị xét xử (Điều 312). Một số hành vi trƣớc đây chƣa bị coi là tội phạm, thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định là tội phạm nhƣ: hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời có tội; hành vi ra quyết định trái pháp luật của ngƣời có thẩm quyền trong Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án; hành vi đánh tháo ngƣời bị giam, giữ, ngƣời đang bị dẫn giải, ngƣời đang bị xét xử. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1999 cũng loại trừ trách nhiệm hình sự một số hành vi mà Bộ luật hình sự năm 1985 quy định là tội phạm nhƣ: hành vi không tố giác tội phạm của ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của ngƣời phạm tội, (trừ hành vi không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội đặc biệt nghiêm trọng đƣợc quy định tại Điều 313 Bộ luật hình sự). Đối với các tội phạm cụ thể cũng đƣợc bổ sung các tình tiết là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt mà Bộ luật hình sự năm 1985 chƣa quy định. Về đƣờng lối xử lý, nói chung các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp quy định tại chƣơng XXII Bộ luật hình sự năm 1999 đều có mức hình phạt nặng hơn so với Bộ luật hình sự năm 1985. Hình phạt bổ sung đƣợc quy định ngay trong điều luật. Thấy rõ sự bất hợp lý về quy định Tội không chấp hành án theo quy định tại điều 240 Bộ luật hình sự năm 1985, nên khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 nhà làm luật đã quy định hai tội ở hai điều luật khác nhau. Tội không chấp hành án đƣợc quy định tại Chƣơng XXII Bộ luật hình sự năm 1999 đã đƣợc quy định thành một tội danh độc lập và quy định các tình tiết là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt mà Bộ luật hình sự năm 1985 chƣa quy định. So với Điều 240 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 304 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội phạm này, về cơ bản không có sửa đổi, bổ sung gì lớn. Trừ việc chuyển khoản 2 của Điều 240 thành tội “cản trở việc thi hành án” là tội phạm độc lập, thì Điều 304 chỉ sửa đổi, bổ sung mức hình phạt cải tạo không giam giữ từ một năm lên ba năm, còn lại vẫn giữ nguyên nhƣ khoản 1 Điều 240 Bộ luật hình sự năm 1985.
  • 35. 27 Tội không chấp hành án trong Bộ luật hình sự năm 1999 là kết quả của nhiều lần sửa đổi và bổ sung trên cơ sở tổng kết thực tiễn áp dụng và thi hành các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án. Việc sửa đổi, bổ sung Tội không chấp hành án tại Điều 304 BLHS năm 1999 đã đáp ứng đƣợc nhiệm vụ cải cách nền tƣ pháp trong sạch, vững mạnh theo các Nghị quyết của Đảng về xây dựng các cơ quan tƣ pháp. Việc quy định Tội không chấp hành án nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội phải đƣợc xử lý kịp thời góp phần ngăn ngừa các hành vi vi phạm xảy ra. Việc quy định Tội không chấp hành án thành một tội phạm riêng trong chƣơng các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp đã tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc áp dụng pháp luật cũng nhƣ các quy định về tình tiết định tội danh của Tội không chấp hành án.
  • 36. 28 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN 2.1. TỘI KHÔNG CHẤP HÀNH ÁN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999, PHÂN BIỆT VỚI MỘT SỐ TỘI KHÁC Tội không chấp hành án là một tội đƣợc quy định trong chƣơng các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp. Điều 304 BLHS năm 1999 quy định “Tội không chấp hành án là hành vi cố ý không chấp hành bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật, mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết” [30, Điều 304]. Từ quy định này có thể hiểu các dấu hiệu pháp lý đặc trƣng của bốn yếu tố cấu thành tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp nói chung và Tội không chấp hành án bao gồm: 2.1.1. Khách thể Trong bất cứ chế độ xã hội có giai cấp nào, nhà nƣớc cũng đều xác lập, bảo vệ, củng cố và thúc đẩy sự phát triển của những quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị bằng sự hỗ trợ của các quy phạm pháp luật, trong đó có những quy phạm pháp luật hình sự. Các hành vi vi phạm pháp luật nói chung cũng nhƣ tội phạm nói riêng đều là những hành vi về hình thức mâu thuẫn với quy phạm pháp luật và về nội dung gây thiệt hại ở những mức độ khác nhau cho các quan hệ xã hội đã đƣợc nhà nƣớc xác lập. Trong hệ thống những quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, các quan hệ xã hội có ý nghĩa khác nhau đối với sự củng cố và phát triển của xã hội và đƣợc nhà nƣớc bảo vệ bằng những loại quy phạm pháp luật khác nhau với những biện pháp cƣỡng chế khác nhau. Khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội đƣợc nhà nƣớc xác định cần đƣợc bảo vệ bằng
  • 37. 29 những quy phạm pháp luật hình sự. Những quan hệ xã hội đó sẽ là khách thể của tội phạm trong trƣờng hợp chúng bị gây thiệt hại hoặc bị đe dọa gây thiệt hại ở mức độ nhất định. Nhƣ vậy có thể định nghĩa: “Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại” [43, tr. 62]. Theo luật hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội đƣợc coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội đã đƣợc xác định trong Điều 8 của BLHS. Hành vi bị coi là tội phạm, theo luật hình sự Việt Nam, phải là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội đã đƣợc xác định đó. Nhƣng nhƣ vậy không có nghĩa hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội này trong mọi trƣờng hợp đều bị coi là tội phạm mà chỉ trong những trƣờng hợp nhất định, đó là những trƣờng hợp đã đƣợc cụ thể hóa trong BLHS. Việc nghiên cứu khách thể của tội phạm có ý nghĩa về nhiều mặt, kể cả trong công tác lập pháp và trong thực tiễn áp dụng. Chỉ có thể nhận thức một cách đầy đủ nhiệm vụ của luật hình sự, bản chất chống đối xã hội của tội phạm trên cơ sở nghiên cứu nội dung của các quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự (và do vậy có thể là khách thể của tội phạm). Việc xây dựng hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự, đặc biệt là các quy phạm Phần các tội phạm đều phải bắt đầu bằng sự xác định phạm vi những quan hệ xã hội đƣợc coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Khách thể của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp: là những hành vi nguy hiểm cho xã hội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quyền lợi của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân qua việc xâm phạm bằng những hình thức khác nhau đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp. Nhƣ vậy, đối tƣợng mà hành vi tội phạm là nhằm vào những hoạt động bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa cũng nhƣ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa nói chung của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án [28].
  • 38. 30 Với việc xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp này, hành vi phạm tội của nhóm tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp đồng thời còn xâm phạm đến nhiều quan hệ xã hội khác đƣợc luật hình sự bảo vệ. Nhiều loại hành vi phạm tội trong nhóm tội này còn có ảnh hƣởng xấu tới uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật, hạn chế hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm. Khách thể của Tội không chấp hành án Tội không chấp hành án trƣớc hết là tội phạm đƣợc quy định trong BLHS, nó gây thiệt hại cho quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ, việc nghiên cứu khách thể của Tội không chấp hành án có ý nghĩa về nhiều mặt nhƣ công tác lập pháp và trong thực tiễn áp dụng, xây dựng các quy phạm pháp luật đối với các tội phạm cụ thể. Trong thực tiễn áp dụng hình sự việc xác định khách thể của Tội không chấp hành án là điều kiện phải kiểm tra khi xác định THHS. Theo quy định của pháp luật thì bản án và quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải đƣợc thi hành và phải đƣợc các cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan trong phạm vi trách nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Toà án và phải chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật về việc chấp hành đó. Trong phạm vi trách nhiệm của mình, các cơ quan nhà nƣớc, chính quyền xã, phƣờng, thị trấn, tổ chức và công dân phải phối hợp với cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Các cơ quan nhà nƣớc, chính quyền xã, phƣờng, thị trấn có trách nhiệm tạo điều kiện và thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Nhƣ vậy, việc chấp hành bản án hoặc quyết định của Toà án là khâu cuối cùng của quá trình tố tụng. Nếu bản án hoặc quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật không đƣợc thi hành thì toàn bộ kết quả của quá trình
  • 39. 31 tố tụng không có ý nghĩa. Tội không chấp hành án cũng là tội xâm phạm đến hoạt động bình thƣờng của các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Đối tƣợng tác động của tội phạm này lại chính là các bản án và quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Bản án của Toà án là một văn bản tố tụng do Thẩm phán, Hội thẩm nhân danh nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành bao gồm: bản án hình sự, bản án dân sự, bản án hôn nhân và gia đình, bản án kinh tế, bản án lao động và bản án hành chính...; các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Tuy tên văn bản là “quyết định” nhƣng toàn bộ nội dung của nó không khác gì bản án. Quyết định của Toà án cũng là một văn bản tố tụng có thể Hội đồng xét xử ban hành nhƣng cũng có thể chỉ do một Thẩm phán ban hành nhƣ: quyết định hoà giải thành, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định kê biên tài sản, quyết định thi hành án phạt tù, quyết định bắt buộc chữa bệnh.v.v… Tuy nhiên, trong những quyết định của Toà án không phải quyết định nào cũng là đối tƣợng tác động của tội phạm này mà còn có các quyết định khác nhƣ: quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung, quyết định đƣa vụ án ra xét xử; quyết định tạm đình chỉ vụ án; quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử; quyết định thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, thƣ ký Toà án… Những quyết định này không phải là đối tƣợng tác động của tội phạm này. Bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bao gồm: - Những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; - Những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; - Những quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. - Các quyết định tuy chƣa có hiệu lực pháp luật nhƣng theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự thì các quyết định này phải đƣợc thi hành ngay
  • 40. 32 nhƣ “Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc” [38, tr.25]. Bản án hoặc quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật chỉ là đối tƣợng tác động của tội phạm này khi bản án hoặc quyết định đó thuộc trách nhiệm của những ngƣời phải có nghĩa vụ thi hành, còn bản án hoặc quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật mà trách nhiệm thi hành là của cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng thì không phải là đối tƣợng tác động của tội phạm này. Ví dụ: trƣờng hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là tù giam hoặc phạt tù nhƣng cho hƣởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam, nhƣng ngƣời có thẩm quyền không trả tự do cho ngƣời bị giam, giữ thì bản án hoặc quyết định đó của Tòa án lại là đối tƣợng tác động của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ ngƣời trái pháp luật. 2.1.2. Mặt khách quan Bất cứ tội phạm nào khi xảy ra cũng đều có những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài mà con ngƣời có thể trực tiếp nhận biết đƣợc. Đó là: hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội, cũng nhƣ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công cụ, phƣơng tiện, phƣơng pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội...). Nhƣ vậy mặt khách quan của tội phạm là “ mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan” [43, tr.71]. Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố của tội phạm. Không có mặt khách quan thì cũng không có các yếu tố khác của tội phạm và do vậy cũng không có tội phạm. Việc nghiên cứu những tình tiết thuộc mặt khách quan của tội phạm có
  • 41. 33 những ý nghĩa thực tiễn sau: trong các CTTP cơ bản, dấu hiệu hành vi thuộc mặt khách quan và có thể một số nội dung biểu hiện khác của mặt khách quan đƣợc phản ánh là dấu hiệu bặt buộc; trong CTTP tăng nặng của một số tội phạm, biểu hiện của mặt khách quan (hậu quả, phƣơng tiện, công cụ, thủ đoạn phạm tội..) đƣợc phản ánh là dấu hiệu định khung; trong những tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS đƣợc quy định trong BLHS có nhiều tình tiết thuộc mặt khách quan của tội phạm; việc nghiên cứu những tình tiết thuộc mặt khách quan của tội phạm trong nhiều trƣờng hợp có ý nghĩa trong việc xác định mặt chủ quan của tội phạm, trƣớc hết là xác định lỗi cũng nhƣ đánh giá mức độ lỗi của ngƣời phạm tội. Hành vi khách quan của tội phạm Khái niệm hành vi trong luật hình sự: là những“biểu hiện”của con người ra ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức cụ thể nhằm đạt những mục đích có chủ định và mong muốn [43, tr.73]. Theo luật hình sự Việt nam, hành vi khách quan của tội phạm có ba đặc điểm sau: Hành vi khách quan của tội phạm phải có tính nguy hiểm cho xã hội; hành vi khách quan của tội phạm là hoạt động có ý thức và ý chí; hành vi khách quan của tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự. Hình thức thể hiện của hành vi Hành vi khách quan có thể đƣợc thực hiện qua hành động hoặc không hành động. Hành động (phạm tội) là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thƣờng của đối tƣợng tác động của tội phạm, gây thiệt cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm. Không hành động (phạm tội) là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thƣờng của đối tƣợng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm.
  • 42. 34 Hậu quả nguy hiểm cho xã hội Tính nguy hiểm khách quan của tội phạm là ở chỗ, tội phạm đã gây thiệt hại hoặc đe dạo gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ. Sự gây thiệt hại này là một trong những nội dung biểu hiện của yếu tố mặt khách quan của tội phạm. Đó là hậu quả nguy hiểm cho xã hội – hậu quả của hành vi khách quan. Nhƣ vậy, “hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự” [43, tr. 80]. Mà hậu quả nguy hiểm cho xã hội là những thiệt hại gây ra cho quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ, thể hiện dƣới các dạng: thiệt hại về vật chất; thiệt hại về thể chất; thiệt hại về tinh thần và các biến đổi khác. Việc nghiên cứu hậu quả của tội phạm có những ý nghĩa thực tiễn sau: Đối với tội có CTTP vật chất, việc xác định hậu quả của tội phạm có ý nghĩa đối với việc định tội; đối với trƣờng hợp CTTP tăng nặng có dấu hiệu phản ánh hậu quả (hoặc mức độ hậu quả), việc xác định hậu quả của tội phạm có ý nghĩa đối với việc định khung hình phạt; đối với trƣờng hợp khác, việc xác định mức độ hậu quả cũng luôn cần thiết vì đó là căn cứ để đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và do vậy là căn cứ để quyết định hình phạt. Quan hệ nhân quả trong luật hình sự Nếu coi hành vi khách quan là nội dung biểu hiện thứ nhất và hậu quả nguy hiểm cho xã hội là nội dung biểu hiện thứ hai thì nội dung biểu hiện thứ ba của yếu tố mặt khách quan là mối QHNQ giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đây là mối quan hệ khách quan luôn luôn tồn tại giữa hành vi khách quan và hậu quả của hành vi khách quan. Nhƣ vậy, việc định tội theo CTTP loại này không chỉ đòi hỏi phải xác định hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà còn đòi hỏi phải xác định cả mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Qua phân tích trên
  • 43. 35 cho thấy, con ngƣời chỉ phải chịu TNHS về hậu quả nguy hiểm cho xã hội nếu hậu quả nguy hiểm đó do chính hành vi khách quan của họ gây ra hay nói cách khác nếu giữa hành vi khách quan đã thực hiện của họ và hậu quả nguy hiểm đó có QHNQ với nhau. Đối với tội có CTTP hình thức, hậu quả tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc của mặt khách quan nhƣng việc xác định hậu quả vẫn có vẫn có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt. Vì vậy khi xác định hình phạt cũng cần phải xác định mối QHNQ giữa hành vi khách quan và hậu quả thực tế đã xảy ra. Những nội dung biểu hiện khác của mặt khách quan của tội phạm Ngoài những nội dung biểu hiện của mặt khách quan ở trên, mặt khách quan của tội phạm còn có những biểu hiện khác đó là: Phƣơng tiện phạm tội là những đối tƣợng đƣợc chủ thể của tội phạm sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội của mình. Công cụ phạm tội, là dạng cụ thể của phƣơng tiện phạm tội; Phƣơng pháp, thủ đoạn phạm tội là cách thức sử dụng công cụ, phƣơng tiện. Phƣơng pháp, thủ đoạn phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của tất cả CTTP. Từ sự phân tích trên cho thấy, việc xác định tính chất của thủ đoạn phạm tội có thể có ý nghĩa trong định tội hoặc trong việc định khung hình phạt. Hành vi khách quan của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp Hành vi phạm tội của các tội thuộc nhóm tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp là hành vi vi phạm các quy định của pháp luật trong lĩnh vực hoạt động tƣ pháp. Đó là các quy định của pháp luật, yêu cầu các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án phải tuân thủ trong hoạt động của mình cũng nhƣ các quy định khác đảm bảo cho mọi hoạt động của các cơ quan này đƣợc thực hiện đúng. Các quy định đó có thể thuộc về luật nội dung hoặc luật hình thức, thuộc các lĩnh vực hình sự, hôn nhân và gia đình, lao động, hành chính, đất đai.... Hành vi phạm tội của nhóm tội này có thể chia thành 4 nhóm sau:
  • 44. 36 Thứ nhất, Hành vi vi phạm pháp luật của ngƣời hoạt động tƣ pháp; Thứ hai, Hành vi vi phạm pháp luật của ngƣời thuộc các cơ quan hoặc các tổ chức bổ trợ tƣ pháp nhƣ cơ quan giám định, công chứng, tổ chức luật sƣ...; Thứ ba, Hành vi vi phạm pháp luật của công dân có nghĩa vụ phải thực hiện các phán quyết của cơ quan xét xử hoặc các quyết định cƣỡng chế của các cơ quan tƣ pháp khác đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ đó; Thứ tư, Hành vi của công dân trong những trƣờng hợp nhất định có trách nhiệm phải tạo điều kiện, giúp đỡ các cơ quan tƣ pháp thực hiện nhiệm vụ của mình nhƣng không thực hiện trách nhiệm pháp lý đó; Thứ năm, Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc bằng các thủ đoạn khác tác động đến hoạt động tƣ pháp nhằm làm các hoạt động đó đƣợc thực hiện sai với quy định của pháp luật... Hành vi khách quan của Tội không chấp hành án Từ những phân tích trên cho thấy hành vi của Tội không chấp hành án thuộc nhóm hành vi thứ ba đó là nhóm hành vi vi phạm pháp luật của công dân có nghĩa vụ phải thực hiện các phán quyết của cơ quan xét xử hoặc các quyết định cƣỡng chế của các cơ quan tƣ pháp khác đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ đó. Xâm phạm các hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp: cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án. Hành vi khách quan của Tội không chấp hành án là ngƣời phạm tội thực hiện hành vi thuộc dạng “không hành động”. Không hành động là không làm một việc mà có nghĩa vụ phải làm và có thể làm đƣợc. Ngƣời phạm tội không chấp hành án là không thi hành quyết định của bản án và các quyết định khác của Toà án mà họ có nghĩa vụ phải thi hành nhƣ: không nộp tiền bồi thƣờng cho Cơ quan thi hành án để bồi thƣờng cho ngƣời bị hại theo bản
  • 45. 37 án đã tuyên, không giao nộp tài sản “do phạm tội mà có” mà bản án quyết định tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nƣớc; không giao nhà, đất mà theo bản án nhà đất đó phải giao cho ngƣời khác; không góp phí tổn nuôi con chung sau khi ly hôn; không chịu cấp dƣỡng cho ngƣời đƣợc cấp dƣỡng theo quyết định của bản án.v.v… Tuy nhiên, hành vi không chấp hành bản án có thể kèm theo một số hành vi khác là hành động nhƣ: bỏ trốn, tránh mặt lúc lực lƣợng thi hành lệnh cƣỡng chế, khoá cửa không cho lực lƣợng thi hành án đến thi hành, thậm chí có hành vi chống đối, lăng mạ, hành hung cán bộ thi hành án; tẩu tán tài sản đã bị kê biên. v.v… nhƣng tất cả các hành vi này cũng chỉ là những thủ đoạn nhằm mục đích là để không chấp hành bản án hoặc quyết định của Toà án. Những hành vi này có thể có những hành vi cấu thành một tội phạm khác nhƣ: tội chống ngƣời thi hành công vụ, tội cố ý gây thƣơng tích, tội vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản. v.v… Nếu những hành vi là thủ đoạn để không chấp hành bản án cấu thành tội phạm độc lập thì tùy trƣờng hợp mà ngƣời phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội không chấp hành án và tội phạm tƣơng ứng do thực hiện thủ đoạn không chấp hành bản án gây ra. Hậu quả của các tội xâm phạm hoạt động tư pháp Hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi phạm tội của nhóm tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp gây ra hoặc có thể gây ra bao gồm thiệt hại cho hoạt động tƣ pháp và các thiệt hại khác. Những thiệt hại này không đƣợc phản ánh trong tất cả các CTTP là dấu hiệu định tội. Trong nhiều CTTP cơ bản, dấu hiệu hậu quả đƣợc quy định dƣới dạng chung nhất là “hậu quả nghiêm trọng”. Trong các CTTP cơ bản khác, dấu hiệu hậu quả không đƣợc quy định là dấu hiệu định tội. Hậu quả của Tội không chấp hành án Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này và cũng không phải là tình tiết là yếu tố định khung hình phạt vì tội phạm này chỉ có một khung hình phạt. Tuy nhà làm luật không quy định hậu quả là dấu hiệu
  • 46. 38 bắt buộc của cấu thành tội phạm này, nhƣng không vì thế mà cho rằng, hành vi không chấp hành án không gây ra hậu quả. Bản án hoặc quyết định của Toà án không đƣợc thi hành theo quy định của pháp luật là đã gây ra hậu quả rồi. Tuy nhiên, có thể sau đó (sau khi truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời không chấp hành án), bản án hoặc quyết định của Toà án vẫn đƣợc thi hành nhƣng hành vi không chấp hành án vẫn cấu thành tội phạm. Các dấu hiệu khách quan khác của Tội không chấp hành án Đối với Tội không chấp hành án, ngoài hành vi khách quan trên nhà làm luật còn quy định một dấu hiệu khách quan nếu thiếu nó thì hành vi không chấp hành án chƣa cấu thành tội phạm, đó là: “mặc dù đã bị áp dụng biện pháp cƣỡng chế cần thiết”. Những biện pháp cƣỡng chế cần thiết là để ngƣời có nghĩa vụ chấp hành phải chấp hành nhƣng vẫn cố tình không chấp hành. Những biện pháp đó thƣờng là các biện pháp cƣỡng chế đƣợc quy định trong Luật Thi hành án dân sự, Luật Xử phạm vi phạm hành chính và những văn bản quy phạm pháp luật dƣới luật nhƣ: Nghị định, Thông tƣ.... VD nhƣ: Xử lý hành chính về hành vi không chấp hành án; quyết định kê biên tài sản, niêm phong tài sản, đã khấu trừ tiền lƣơng; phong toả tài khoản, buộc rời khỏi nhà để giao nhà cho ngƣời khác nhƣng không chịu rời khỏi nhà. v.v…. Những biện pháp cƣỡng chế phải là những biện pháp đúng pháp luật và đƣợc coi là cần thiết mà ngƣời phải chấp hành án không chấp hành thì mới coi là Tội không chấp hành án. Nếu những biện pháp cƣỡng chế là biện pháp không đúng pháp luật hoặc tuy đúng pháp luật nhƣng xét thấy không cần thiết mà ngƣời bị áp dụng các biện pháp này không chấp hành thì cũng không coi là đã áp dụng biện pháp cƣỡng chế cần thiết. VD: Chi cục Thi hành án dân sự huyện N tỉnh H đã thụ lý đơn yêu cầu thi hành bản án DSPT về chia tài sản thừa kế giữa ngƣời đƣợc thi hành án là anh Chu Văn Đ (huyện B, tỉnh H) và ngƣời phải thi hành án là bà