SlideShare a Scribd company logo
1 of 94
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HỒ MẠNH HÀ
TR¸CH NHIÖM H×NH Sù
§èI VíI TéI KH¤NG Tè GI¸C TéI PH¹M
TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HỒ MẠNH HÀ
TR¸CH NHIÖM H×NH Sù
§èI VíI TéI KH¤NG Tè GI¸C TéI PH¹M
TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG QUANG PHƢƠNG
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
HỒ MẠNH HÀ
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI KHÔNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM .......... 7
1.1. Khái niệm tội không tố giác tội phạm và trách nhiệm hình
sự đối với tội không tố giác tội phạm .............................................. 7
1.1.1. Khái niệm tội không tố giác tội phạm................................................. 7
1.1.2. Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm..... 10
1.2. Các đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với tội không tố
giác tội phạm.................................................................................... 12
1.3. Cơ sở và các hình thức của trách nhiệm hình sự đối với tội
không tố giác tội phạm.................................................................... 13
1.3.1. Cơ sở của trách nhiệm hình sự của tội không tố giác tội phạm.............13
1.3.2. Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm ..... 15
1.4. Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
trong pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945
đến năm 1999................................................................................... 15
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự
năm 1985...........................................................................................15
1.4.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985...........................................18
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................23
Chƣơng 2: TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI KHÔNG TỐ
GIÁC TỘI PHẠM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN.....................................................................24
2.1. Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 ...............................24
2.1.1. Cơ sở trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
theo quy định Bộ luật hình sự năm 1999 ..........................................24
2.1.2. Các hình thức của trách nhiệm hình sự đối với tội không tố
giác tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999.............33
2.1.3. Những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 về trách nhiệm
hình sự đối với tội không tố giác tội phạm .......................................42
2.2. Quy định của Bộ luật hình sự một số nƣớc về trách nhiệm
hình sự đối với tội không tố giác tội phạm....................................44
2.3. Thực tiễn áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội không tố
giác tội phạm tại Tòa án nhân dân................................................47
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................60
Chƣơng 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI KHÔNG
TỐ GIÁC TỘI PHẠM....................................................................61
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng trách nhiệm hình sự
đối với tội không tố giác tội phạm .................................................61
3.1.1. Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa .................61
3.1.2. Yêu cầu tổ chức, triển khai áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015.......62
3.1.3. Yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm .......................................63
3.1.4. Yêu cầu xử lý tội phạm.....................................................................63
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng trách nhiệm hình sự
đối với tội không tố giác tội phạm .................................................64
3.2.1. Tổ chức tập huấn, hƣớng dẫn thi hành Bộ luật hình sự năm 2015 ........64
3.2.2. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện trách nhiệm hình sự về tội
không tố giác tội phạm......................................................................65
3.2.3. Giải pháp về chuyên môn nghiệp vụ - đạo đức nghề nghiệp............73
3.2.4. Giải pháp về tổ chức bộ máy - cán bộ...............................................75
3.2.5. Những giải pháp khác .......................................................................78
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................80
KẾT LUẬN ....................................................................................................81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................83
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCA: Bộ công an
BCT: Bộ tài chính
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
BNN&PTNT: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
BQP: Bộ quốc phòng
CTTP: Cấu thành tội phạm
HĐXX: Hội đồng xét xử
LHS: Luật hình sự
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TNHS: Trách nhiệm hình sự
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Bảng số liệu thụ lý, xét xử tội không tố giác tội phạm so
với tội phạm chung và tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp
từ năm 2011 đến năm 2015 51
Bảng 2.2: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm 54
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay đất nƣớc ta đang tiến bƣớc trên con đƣờng đổi mới, đời sống
nhân dân từng bƣớc đƣợc nâng cao, tình hình kinh tế - chính trị - xã hội đạt
đƣợc nhiều thành tựu, quan hệ đối ngoại đƣợc mở rộng, hợp tác quốc tế đƣợc
tiến hành chủ động và đạt kết quả tốt. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích
cực, nền kinh tế thị trƣờng cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó
có nhiều vấn đề liên quan đến công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm
đặc biệt là những vấn đề liên quan tới công tác phòng chống tội phạm thông
qua hoạt động tố giác tội phạm của công dân.
Theo quy định của pháp luật thì công dân phải có nghĩa vụ tố giác tội
phạm với cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền nhằm ngăn chặn tội phạm xảy ra,
cũng nhƣ tạo điều kiện giúp các cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án.
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến
pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội
và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng” [27, Điều 46].
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Các tổ chức, công dân có
quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức...” [24, Điều 25].
Đặc biệt, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực ngày
01/07/2016 cũng đã quy định: “Tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ phát
hiện, tố giác, báo tin về tội phạm ; tham gia đấu tranh phòng, chống tội
phạm” [29, Điều 5, Khoản 2].
2
Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua cho thấy, bên cạnh một bộ phận
ngƣời dân thực hiện tốt nghĩa vụ tố giác tội phạm với cơ quan có thẩm
quyền góp phần đảm bảo an ninh, trật tự xã hội còn có một bộ phận không
nhỏ đã không thực hiện tròn nghĩa vụ tố giác tội phạm của mình, dẫn đến
hậu quả khó lƣờng.
Vấn đề này càng trở nên nhức nhối khi thời gian vừa qua liên tục xảy
ra những vụ trọng án gây chấn động dƣ luận có liên quan đến tội danh này,
điển hình là: vụ án Lê Văn Luyện giết ngƣời cƣớp tài sản tại Bắc Giang, vụ
án Dƣơng Chí Dũng tham nhũng tại Vinalines, hay gần đây là vụ giết lái xe
CRV – Kiều Hồng Thành tại Hà Nội… Trong các vụ án đó có cả những cá
nhân có chức vụ, quyền hạn trong Bộ máy Nhà nƣớc, am hiểu pháp luật
song vẫn vi phạm quyền, nghĩa vụ của mình- không tố giác tội phạm với các
cơ quan có thẩm quyền.
Nguyên nhân của tình trạng trên chủ yếu xuất phát từ việc thiếu hiểu biết
pháp luật của công dân, hoặc do xuất phát từ quan hệ tình cảm, do nể nang, lo sợ
bị trả thù...Trong khi đó, những quy định của pháp luật về trách nhiệm hình sự
đối với tội không tố giác tội phạm còn nhiều điểm cẩn phải tiếp tục nghiên cứu,
làm rõ. Bộ luật hình sự năm 2015 cũng đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng
liên quan đến trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu trách nhiệm hình sự đối với tội không tố
giác tội phạm trong thời điểm này càng có ý nghĩa quan trọng đối với thực
tiễn, góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận cho việc xác định trách nhiệm hình sự
đối với tội không tố giác tội phạm.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Trách nhiệm hình sự đối với
tội không tố giác tội phạm trong luật hình sự Việt Nam" là đề tài luận văn
thạc sĩ luật học của mình và đƣợc cơ sở đào tạo chấp thuận.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan tới đề tài trên, cũng đã có nhiều tác giả đề câ ̣p trƣ̣c tiếp hoă ̣c
gián tiếp trong các công trình nghiên cứu khác nhau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu dƣới dạng tài liệu chuyên khảo,
tham khảo, giáo trình, bình luận khoa học nhƣ:
Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật
Hình sự của GS. TSKH. Lê Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005;
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) do GS.TSKH. Lê Cảm (chủ
biên), tái bản 2007; Trách nhiệm hình sự và hình phạt – GS.TS. Nguyễn Ngọc
Hòa, Nxb Công an nhân dân 2004; Sách chuyên khảo Tội phạm và trách nhiệm
hình sự - TS.Trịnh Tiến Việt, Nxb Chính trị quốc gia 2013; Giáo trình luật hình
sự Việt Nam (phần chung) của Trƣờng đại học luật Hà Nội, Nxb Công an nhân
dân năm 2010, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Khoa luật- Đại
học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội năm 2005...
Thứ hai, các công trình nghiên cứu thể hiện trên các bài viết đăng trên các
tạp chí chuyên ngành nghiên cứu khoa học pháp lý, hội nghị, hội thảo nhƣ:
“Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về tội không tố giác tội phạm” của
TS.Trần Quang Tiệp đăng trên Tạp chí Kiếm sát số 23 tháng 12 năm 2005:
"Mấy ý kiến về Điều 314 Bộ luật hình sự về tội không tố giác tội phạm” của
tác giả Vũ Thành Long đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, tháng 10-2005;
"Một số vấn đề về việc bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng,
người bị hại trong các vụ án hình sự" của ThS. Trần Đại Thắng đăng trên
Tạp chí Kiểm sát số 24, tháng 12- 2005; "Một số bất hợp lý trong các quy
định về tội che giấu tội phạm và tội không tố giác tội phạm" của tác giả Thái
Văn Đoàn đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 19 tháng 10-2005...
Tuy các công trình nghiên cứu đều có đề cập đến các vấn đề liên
4
quan đến tội không tố giác tội phạm ở các khía cạnh khác nhau, nhƣng
chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về
trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài nhằm phân tích khoa h ọc để làm
sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm hình sự đối với
tội không tố giác tội phạm. Tƣ̀ đó , luâ ̣n văn đƣa ra các gi ải pháp bảo đảm
áp dụng đúng trách nhiệm hình sự đối với tội danh này, đặc biệt trong bối
cảnh Bộ luật hình sự 2015 sắp có hiệu lực thi hành, góp phần nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự từ phía cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền.
3.2. Nhiê ̣m vụ nghiên cứ u
Tƣ̀ mục đích nghiên cƣ́ u nêu trên, luâ ̣n văn có nhƣ̃ng nhiê ̣m vụchủ yếu sau:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự đối với tội
không tố giác tội phạm.
Nghiên cứu trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm theo
quy định BLHS hiện hành và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân.
Từ đó luận văn đƣa ra những yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng
đúng trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đƣợc triển khai nghiên cứu trên đối tƣợng là trách nhiệm hình
sự đối với tội không tố giác tội phạm.
5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luâ ̣n văn nghiên cƣ́ u và giải quyết nhƣ̃ng vấn đề xung quanh trách
nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm theo pháp luật hình sự Việt
Nam và thực tiễn xét xử sơ thẩm, trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015
tại Tòa án nhân dân. Từ kết quả nghiên cứu những vấn đề này luận văn đƣa ra
các giải pháp bảo đảm, nâng cao chất lƣợng hoạt động truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với tội không tố giác tội phạm.
5. Phƣơng pháp luâ ̣n và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài đƣợc nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luâ ̣t; quan điểm, định
hƣớng của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dƣ̣ng nhà nƣớc pháp quyền , về chính
sách hình sự, đƣờng lối đấu tranh phòng chống tô ̣i pha ̣m đƣợc thể hiê ̣n trong
Nghị quyết Đại hội Đảng VIII , IX, X và các Ngh ị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/T ngày 26/05/2005 về chiến lƣợc cải cách
tƣ pháp đến năm 2020 của Bộ chính trị.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng phƣơng
pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ phƣơng pháp phân tích
và tổng hợp; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu, phƣơng pháp diễn dịch, quy nạp
để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc
nghiên cứu trong luận văn; phƣơng pháp khảo sát thực tiễn để minh họa cho
từng vấn đề cần thiết.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cƣ́ u của luâ ̣n văn ở một mức độ nhất định có ý nghĩa
6
quan trọng về phƣơng diê ̣n lý luâ ̣n và thƣ̣c tiễn , vì đây là công trìn h nghiên
cƣ́ u chuyên sâu ở cấp độmô ̣t luâ ̣n văn tha ̣c sĩ luâ ̣t học về trách nhiệm hình sự
đối với tội không tố giác tội phạm , mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề về lý
luâ ̣n và thƣ̣c tiễn liên quan tới đề tài trên . Những nội dung của luận văn góp
phần làm phong phú thêm lý luận về trách nhiệm hình sự nói chung và trách
nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm nói riêng.
Từ một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng trách nhiệm hình sự đối với
tội không tố giác tội phạm, luận văn góp phần đƣa những quy định của Bộ
luật hình sự về tội không tố giác tội phạm vào trong thực tế, đảm bảo áp dụng
đúng trách nhiệm hình sự, mở ra những phƣơng hƣớng nghiên cứu mới trong
tƣơng lai, đồng thời tạo thuâ ̣n lợi cho hoa ̣t đô ̣ng áp dụng pháp luâ ̣t củ a cơ
quan có thẩm quyền;
Luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác
nghiên cứu khoa học chuyên ngành và tài liệu tham khảo đối với cán bộ làm
công tác nghiên cứu, giảng dạy và công tác thực tiễn đặc biệt đội ngũ thẩm
phán trong ngành tòa án nhân dân các cấp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự đối với tội
không tố giác tội phạm.
Chương 2: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm theo
quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng tại tòa án nhân dân.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng trách
nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI TỘI KHÔNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM
1.1. Khái niệm tội không tố giác tội phạm và trách nhiệm hình sự
đối với tội không tố giác tội phạm
1.1.1. Khái niệm tội không tố giác tội phạm
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ luật
hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm tới các khách thể do luật hình sự bảo vệ.
Thông tƣ liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-
VKSNDTC quy định: “Tố giác về tội phạm là thông tin về hành vi có dấu
hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan,
cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết” [2, Điều 3, Khoản 1].
Không tố giác nghĩa là không báo cho các cơ quan có thẩm quyền về
những tin tức về tội phạm mà mình biết rõ [6, tr. 667].
Không tố giác tội phạm là hành vi không báo với cơ quan, tổ chức biết
về tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện, hoặc đã đƣợc thực hiện
mà mình biết rõ, đồng thời họ có khả năng tố giác, không gặp bất kì một trở
ngại khách quan nào.
Hành vi không tố giác tội phạm đã đƣợc BLHS của nhiều quốc gia trên
thế giới điều chỉnh. Trong lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam thì hành vi
này cũng đã đƣợc tội phạm hóa từ rất lâu, đến BLHS năm 2015 có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/07/2016 tiếp tục quy định hành vi này là tội phạm với một số
điểm mới quan trọng. Sở dĩ nhà làm luật quy định hành vi này là tội phạm
xuất phát từ tính nguy hiểm cho xã hội đáng kể của hành vi này.
8
Hành vi này đã xâm phạm tới một trong những khách thể quan trọng
của luật hình sự đó là hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án. Hành vi này không những gây khó khăn, cản trở cho cơ
quan chức năng trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà nƣớc, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, công dân, mà còn lảm ảnh hƣởng tới hiệu quả, tính kịp
thời, nhanh chóng của công tác điều tra, truy tố, xét xử,thi hành án của cơ
quan chức năng, làm giảm hiệu lực-chức năng của bộ máy nhà nƣớc.
Đề cấu thành tội này đòi hỏi ngƣời phạm tội phải nhận thức rõ hành vi
của mình là nguy hiểm cho xã hội, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc phát hiện điều tra, xử lý tội phạm nhƣng vẫn thực hiện –không
tố giác, tức là ngƣời phạm tội luôn thực hiện hành vi không tố giác dƣới hình
thức lỗi cố ý trực tiếp. Đồng thời ngƣời đó phải biết rõ tội phạm mà mình
không tố giác là tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc đã
đƣợc thực hiện.
Biết rõ tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc đã
đƣợc thực hiện tức là ngƣời đó phải biết hành vi của ngƣời phạm tội, nhận
thức đƣợc hành vi đó là hành vi cấu thành tội phạm.
Tuy nhiên, cần phân biệt hành vi không tố giác tội phạm với hành vi
đồng phạm của chính tội không tố giác đó. Trong đồng phạm, nếu tất cả
những ngƣời liên quan cùng thực hiện một tội phạm (bất kỳ ngƣời nào tham
gia đều nhằm thực hiện tội phạm hoặc thúc đẩy thực hiện tội phạm), nếu họ
tham gia một trong các hành vi nhƣ: Hành vi trực tiếp thực hiện tội phạm
(ngƣời thực hành), hành vi tổ chức thực hiện tội phạm (ngƣời tổ chức), hành
vi xúi giục ngƣời khác thực hiện tội phạm (ngƣời xúi giục), hành vi giúp sức
ngƣời khác thực hiện tội phạm (ngƣời giúp sức). Và tất cả hành vi của những
ngƣời tham gia phải có sự liên kết thống nhất với nhau hành vi của ngƣời này
phải là tiền đề cho hành vi của ngƣời khác, hành vi của mỗi ngƣời phải có
9
mối quan hệ nhân quả với việc thực hiện tội phạm chung và hậu quả của tội
phạm chung đó. Đồng thời, tất cả những ngƣời tham gia đều có lỗi cố ý, tức là
mỗi ngƣời phải nhận thức đƣợc hành vi của mình và của ngƣời khác là nguy
hiểm; thấy trƣớc hậu quả hành vi của mình và của ngƣời khác gây ra, mong
muốn có hoạt động chung, mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả phát sinh.
Nếu không tố giác một tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện,
hoặc đã thực hiện mà mình biết rõ nhƣng thỏa mãn các dấu hiệu khách quan
và chủ quan trên thì về bản chất không còn là hành vi không tố giác tội phạm
nữa mà là hành vi đồng phạm.
Ngoài ra, nếu nhƣ một ngƣời hứa hẹn trƣớc sẽ không tố giác hành vi
phạm tội của ngƣời khác khi ngƣời đó chuẩn bị hoặc thực hiện hành vi phạm
tội thì hành vi này không còn là hành vi không tố giác tội phạm mà về bản
chất là hành vi đồng phạm. Bởi việc hứa hẹn trƣớc sẽ không tố giác tội phạm
là một dạng của hành vi giúp sức về tinh thần, có tác dụng củng cố ý chí và
quyết tâm thực hiện tội phạm của ngƣời khác, nên trƣờng hợp này cần phải
xác định là hành vi đồng phạm.
Theo đó, tác giả đƣa ra khái niệm tội không tố giác tội phạm nhƣ sau:
Tội không tố giác tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội do ngƣời
có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định, thực hiện một cách
cố ý trực tiếp,mặc dù không có sự hứa hẹn trƣớc nhƣng khi biết rõ một tội
phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc đã thực hiện theo quy
định của Bộ luật hình sự mà không tố giác với cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền, qua đó xâm phạm tới hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà nƣớc,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, gây khó khăn cho công
tác điều tra, truy tố xét xử.
10
1.1.2. Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Về khái niệm TNHS hiện nay khoa học pháp lý còn nhiều quan điểm
khác nhau.
Quan điểm thống nhất hiện nay thừa nhận TNHS là một loại trách
nhiệm pháp lý.
Khái niệm trách nhiệm pháp lý vốn cũng đƣợc hiểu theo nhiều nghĩa,
do vậy khái niệm TNHS cũng có nhiều quan điểm khác nhau.
Quan điểm cho rằng, Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của ngƣời
phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của
mình [37, tr. 80], [41, tr. 162];
Trách nhiệm hình sự là việc thực hiện chế tài pháp lý hình sự, phát sinh
từ khi áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội [40, tr. 59].
Trách nhiệm hình sự là những hậu quả pháp lý bất lợi mà ngƣời phạm
tội phải chịu trƣớc Nhà nƣớc [46, tr. 106];
Trách nhiệm hình sự là nghĩa vụ của một ngƣời phải gánh chịu hậu quả
pháp lý bất lợi trƣớc Nhà nƣớc về hành vi phạm tội của mình thể hiện ở việc
ngƣời phạm tội bị tƣớc đoạt hoặc bị hạn chế quyền và lợi ích nhất định theo
quy định của pháp luật [17, tr. 316];
Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là tổng hợp các
quyền và nghĩa vụ của Nhà nƣớc và ngƣời phạm tội, đƣợc thể hiện ở các biện
pháp tác động có tính chất pháp lý hình sự mà luật hình sự quy định, áp dụng
đối với ngƣời thực hiện tội phạm, bao gồm hình phạt và các biện pháp tác
động có tính chất pháp lý hình sự khác không phải hình phạt và đƣợc bắt đầu
từ khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một ngƣời [15, tr. 8];
TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm nghĩa vụ phải chịu
11
sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, biện pháp cƣỡng chế
của TNHS hình phạt, biện pháp tƣ pháp và chịu mang án tích [16, tr. 126];
Quan điểm khác cho rằng, TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội
phạm và đƣợc thể hiện bằng việc áp dụng đối với ngƣời phạm tội một hoặc
nhiều biện pháp cƣỡng chế của nhà nƣớc do luật hình sự quy định [3, tr. 122];
TNHS là biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nƣớc đƣợc áp
dụng đối với ngƣời thực hiện hành vi phạm tội [47, tr. 3];
TNHS là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, thể hiện ở chỗ ngƣời đã
gây ra tội phải chịu TNHS về hành vi của mình trƣớc nhà nƣớc [42, tr. 41];
TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của ngƣời khi
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong pháp luật hình
sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi mà ngƣời đó đã thực hiện [19, tr. 14];
Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, kết quả của
việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự và đƣợc thể hiện trƣớc hết ở việc
kết án của Tòa án, nhân danh Nhà nƣớc, đối với ngƣời phạm tội [13 tr. 91];
Nhƣ vậy, về khái niệm TNHS còn rất nhiều quan điểm khác nhau, tuy
nhiên đều thống nhất ở nội hàm khái niệm đó là những hậu quả pháp lý bất lợi
của việc thực hiện tội phạm.
Từ những quan điểm trên, tác giả có quan điểm nhƣ sau:
TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý, đó là trách nhiệm của
ngƣời phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện
tội phạm đối với nhà nƣớc và đƣợc thể hiện bằng việc áp dụng một hay
nhiều biện pháp cƣỡng chế của nhà nƣớc do Bộ luật hình sự quy định đối
với ngƣời phạm tội.
12
Qua đó, theo tác giả TNHS đối với tội không tố giác tội phạm đƣợc
hiểu nhƣ sau:
TNHS đối với tội không tố giác tội phạm là một dạng của trách nhiệm
pháp lý, đó là trách nhiệm của ngƣời biết rõ tội phạm đang đựơc chuẩn bị,
đang đƣợc thực hiện hoặc đã đƣợc thực hiện mà không tố giác, phải chịu
những hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm đó đối với nhà
nƣớc và đƣợc thể hiện bằng bản việc áp dụng một hay nhiều biện pháp cƣỡng
chế của nhà nƣớc do Bộ luật hình sự quy định đối với ngƣời phạm tội.
1.2. Các đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác
tội phạm
TNHS đối với tội không tố giác tội phạm có các đặc điểm chung của
TNHS như
Thứ nhất, TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm.
Đặc điểm này thể hiện, hậu quả pháp lý này chỉ phát sinh khi có
ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm
hoặc không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật hình sự yêu cầu phải
thực hiện, hay nói cách khác không có việc thực hiện tội phạm thì cũng
không xuất hiện vấn đề TNHS.
Đối với tội không tố giác tội phạm thì hậu quả pháp lý xuất hiện khi
chủ thể không thực hiện nghĩa vụ mà pháp luật hình sự quy định đó là nghĩa
vụ phải tố giác tội phạm khi biết rõ tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc
thực hiện, hoặc đã đƣợc thực hiện.
Thứ hai, TNHS đƣợc biểu hiện cụ thể ở việc ngƣời phạm tội phải chịu
biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nƣớc là hình phạt, biện pháp
tƣớc bỏ hoặc hạn chế ở họ một số quyền hoặc lợi ích hợp pháp khác.
Đối với tội không tố giác tội phạm thì TNHS thể hiện ở việc chủ thể
13
phải chịu những biện pháp cƣỡng chế nhƣ hình phạt cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
Thứ ba, TNHS mà ngƣời phạm tội phải gánh chịu là trách nhiệm đối
với Nhà nƣớc. Đặc điểm này thể hiện TNHS mà ngƣời thực hiện tội phạm
phải gánh chịu không phải đối với ngƣời mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ
bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại mà là đối với Nhà nƣớc.
Thứ tư, TNHS phải đƣợc phản ánh trong bản án hay quyết định có hiệu
lực pháp luật của Tòa án.
Ngoài ra, TNHS đối với tội không tố giác tội phạm còn có những đặc
điểm riêng nhƣ:
Thứ nhất, TNHS đối với tội không tố giác tội phạm thông thƣờng đƣợc
xác định kèm theo TNHS đối với các tội danh mà ngƣời phạm tội không tố giác.
Đây là đặc điểm rất đặc thù, do TNHS đối với tội không tố giác tội
phạm chỉ đƣợc đặt ra khi có một tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc
thục hiện hoặc đã đƣợc thực hiện mà không đƣợc tố giác. Nói cách khác,
không có việc phạm tội cụ thể nào đó xảy ra thì cũng không có tội không tố
giác tội phạm và do đó cũng không đặt ra vấn đề TNHS đối với tội này.
Thứ hai, TNHS đối với tội không tố giác tội phạm không có việc áp
dụng hình phạt bổ sung hoặc các biện pháp tƣ pháp theo quy định của pháp
luật hiện hành.
1.3. Cơ sở và các hình thức của trách nhiệm hình sự đối với tội
không tố giác tội phạm
1.3.1. Cơ sở của trách nhiệm hình sự của tội không tố giác tội phạm
Cơ sở của TNHS đƣợc nghiên cứu dƣới nhiều góc độ khác nhau, trong
khoa học luật hình sự Việt Nam, các quan điểm chính của nhà hình sự học tập
14
trung chủ yếu làm rõ cơ sở vật chất của TNHS, nhƣ đó là: Sự hiện diện của tất
cả những dấu hiệu do luật quy định về tội phạm [42, tr. 43];
Là hành vi của một ngƣời khi thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội
phạm đƣợc quy định trong luật hình sự [19, tr. 18];
Hoặc là “Tội phạm-hành vi nguy hiểm cho xã hội chứa đựng các yếu tố
cấu thành tội phạm” [12, tr. 182];
Tuy nhiên, tác giả đồng ý với quan điểm của GS.TSKH.Lê Cảm khi
nghiên cứu cơ sở của TNHS cần tiếp cận trên ba bình diện: về mặt nội
dung hay vật chất khách quan; về mặt hình thức bên ngoài, về mặt quy
phạm pháp lý:
Cơ sở khách quan của TNHS: Cơ sở của TNHS là việc thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm [4, tr. 631].
Theo đó, cơ sở khách quan của TNHS đối với tội không tố giác tội
phạm là việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội (hành vi không tố giác
tội phạm) mà luật hình sự quy định là tội phạm.
Cơ sở hình thức của TNHS là căn cứ chung, có tính chất bắt buộc và
do luật hình sự quy định mà chỉ có và phải dựa vào đó các cơ quan nhà nƣớc
có thẩm quyền mới có thể đặt ra vấn đề TNHS của ngƣời đã thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm [4, tr. 632].
Theo đó, cơ sở hình thức của TNHS đối với tội không tố giác tội phạm
là căn cứ chung, có tính chất bắt buộc và do luật hình sự quy định mà chỉ có
và phải dựa vào đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có thể đặt ra
vấn đề TNHS của người không tố giác tội phạm theo những trường hợp bị
luật hình sự cấm.
Cơ sở pháp lý của TNHS là hành vi nguy hiểm cho xã hội có đầy đủ
15
các dấu hiệu của CTTP cụ thể tƣơng ứng đƣợc ghi nhận trong pháp luật
hình sự [4, tr. 633].
Theo đó, thì cơ sở pháp lý của TNHS đối với tội không tố giác tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội có đầy đủ các dấu hiệu của CTTP của tội
không tố giác tội phạm quy định trong pháp luật hình sự.
1.3.2. Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Hình thức của TNHS là những biện pháp cƣỡng chế của nhà nƣớc đƣợc
quy định trong luật hình sự để thực hiện TNHS và chỉ đƣợc áp dụng đối với
ngƣời bị coi là có lỗi trong việc phạm tội.
Các hình thức của TNHS đó có thể là các biện pháp cƣỡng chế về hình
sự nghiêm khắc nhất- các hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Cũng có thể
là các biện pháp cƣỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc hơn nhƣ các biện pháp
tƣ pháp, miễn hình phạt.
Đối với tội không tố giác tội phạm thì các hình thức của TNHS có tình
đặc thù hơn so với các hình thức TNHS của các tội danh khác, các hình thức
TNHS này thường nhẹ hơn so với các tội khác và thường được áp dụng cùng
với các tội danh mà người phạm tội không tố giác.
1.4. Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm trong
pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1999
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự
năm 1985
Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 đã đánh dấu sự ra đời
của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Với thắng lợi mang ý nghĩa chính trị-lịch sử này, bên cạnh
việc hình thành một nhà nƣớc kiểu mới thì đồng thời cũng đáng dấu mốc quan
trong trong lịch sử lập pháp nói chung và lập pháp hình sự nói riêng.
16
Trong giai đoạn đầu khi nhà nƣớc mới thành lập phải đƣơng đầu với
nhiều khó khăn, thử thách đến từ nhiều phía, chính vì vậy để điều chỉnh quan
hệ pháp luật nói chung và quan hệ pháp luật hình sự nói riêng. Nhà nƣớc ta đã
ban hành sắc lệnh số 47-SL ngày 10/10/1945, tạm thời giữ lại các luật lệ cũ
tại ba miền cho đến khi ban hành các văn bản pháp luật mới đề điều chỉnh các
quan hệ trên với điều kiện không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân
chủ cộng hòa.
Đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Nhà nƣớc ta đã ban hành một số văn
bản pháp luật hình sự quan trọng nhƣ: Sắc lệnh số 27 ngày 28/2/1946 nhằm
trừng trị các tội bắt cóc tống tiền và ám sát. Sắc lệnh số 133 ngày 20/1/1953
trừng trị những tội xâm phạm đến an toàn Nhà nƣớc, đối nội và đối ngoại; Sắc
lệnh số 267 ngày 15/6/1956 của Nhà nƣớc ta về trừng trị những âm mƣu và
hành động phá hoại tài sản của nhà nƣớc, của hợp tác xã, của nhân dân và cản
trở việc thực hiện chính sách kế hoạch của Nhà nƣớc...nhằm điều chỉnh một
số quan hệ pháp luật hình sự nhất định. Tuy nhiên, những văn bản pháp luật
hình sự này không quy định tội không tố giác tội phạm mà chỉ quy định một
số vấn đề liên quan tới tố giác tội phạm của công dân nhƣ quy định trách
nhiệm của công dân phải tố giác ngƣời phạm tội, khen thƣởng cho ngƣời có
công tố giác tội phạm.
Ví dụ: Sắc lệnh số 267-SL ngày 15/6/1956 của Nhà nƣớc ta tại Điều 14
quy định:
Đối với kẻ phạm pháp, nhân dân có nhiệm vụ tố cáo, hoặc
mật báo với cơ quan có trách nhiệm và hết sức giúp đỡ việc điều
tra, xét xử, nhƣng không đƣợc vì thù riêng, lợi ích riêng mà vu cáo.
Ngƣời nào có công trong việc tố cáo, khám phá các vụ phạm pháp,
tóm bắt kẻ có tội, sẽ đƣợc khen thƣởng [5, Điều 14].
17
Trong các năm tiếp theo, nhà nƣớc ta đã ban hành nhiều văn bản pháp
luật quan trọng khác điều chỉnh các quan hệ pháp luật hình sự phát sinh nhƣ:
Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967; Pháp lệnh
trừng trị tội hối lội ngày 20/5/1981; Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn
lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép ngày 30/6/1982...tuy nhiên các văn
bản pháp luật trên cũng không quy định về tội không tố giác tội phạm mà
cũng chỉ đề cập một số vấn đề liên quan, nhƣ khen thƣởng đối với ngƣời có
công tố giác tội phạm.
Ví dụ: Pháp lệnh không số, ngày 30-10-1967 trừng trị các tội phản cách
mạng, có đề cập vấn đề động viên nhân dân tố giác tội phạm ở lời nói đầu:
"Để nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng của nhân dân, động viên toàn
dân tích cực tham gia giữ gìn trật tự an ninh" [43, Lời nói đầu].
Pháp lệnh số 149-LCT ngày 21-10-1970 trừng trị các tội xâm phạm
tài sản xã hội chủ nghĩa: "Để phát huy tinh thần làm chủ tập thể của cán bộ,
công nhân, viên chức, bộ đội và toàn thể nhân dân, đề cao đạo đức xã hội chủ
nghĩa, động viên mọi người ra sức đấu tranh chống những hành động xâm
phạm tài sản đó" [44, Lời nói đầu].
Pháp lệnh trừng trị tối hội lố ngày 20/5/1981 quy định:
Những ngƣời không nhận hối lội và tố giác với cơ quan có
trách nhiệm ngƣời đƣa hối lộ hoặc ngƣời môi giới hối lộ thì đƣợc
khen thƣởng theo quy định chung của nhà nƣớc. Những ngƣời tố
giác và giúp đỡ cơ quan có trách nhiệm trừng trị tội hối lội thì
đƣợc khen và đƣợc thƣởng bằng tiền 10% giá trị của hối lội đã bị
tịch thu [45, Điều 12].
Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh
trái phép (ban hành ngày 30/6/1982) đã quy định:
18
Ngƣời có công trong việc chống đầu cơ, buôn lậu, làm hàng
giả, kinh doanh trái phép, đƣợc xét khen thƣởng theo chế độ chung
của Nhà nƣớc. Ngoài ra, tuỳ theo tính chất của vụ án và công lao
đóng góp của mỗi ngƣời, còn đƣợc thƣởng một khoản tiền từ 5%
đến 10% trị giá hàng hoá tịch thu hoặc tiền phạt [18, Điều 12].
Tóm lại, sơ lƣợc giai đoạn luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trƣớc
khi nhà nƣớc ta ban hành BLHS năm 1985 trong giai đoạn này tội không tố
giác tội phạm không đƣợc quy định trong pháp luật hình sự. Nhà nƣớc chƣa coi
tố giác tội phạm là nghĩa vụ bắt buộc của công dân mà chỉ khuyến khích công
dân tố giác tội phạm và vì vậy TNHS đối với tội danh này không đƣợc đặt ra.
1.4.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985
Ngày 27/6/1985, Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa VII, tại kì họp thứ 9, đã thông qua BLHS, có hiệu lực từ ngày 1/1/1986,
sau đây gọi tắt là BLHS năm 1985.
Bộ luật hình sự năm 1985 là BLHS đầu tiên của nhà nƣớc ta, sự ra đời
của BLHS đánh dấu một bƣớc ngoặt to lớn trong lịch sử lập pháp hình sự của
đất nƣớc, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sƣ Việt Nam, tội không tố
giác tội phạm đã đƣợc ghi nhận cụ thể tại Điều 19 và Điều 247 BLHS.
BLHS năm 1985 quy định: “Người nào biết rõ tội phạm đang được
chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm trong những
trường hợp mà Bộ luật này quy định” [21, Điều 19].
Cụ thể hóa Điều 19, Điều 247 BLHS năm 1985 quy định: “1- Người nào
biết rõ một trong những tội phạm quy định ở các Điều sau đây đang được chuẩn
bị hoặc đã được thực hiện mà không tố giác thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm [21, Điều 247].
19
- Các Điều từ 72 đến 85 về các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an
ninh quốc gia; Điều 87 (tội chiếm đoạt máy bay, tàu thuỷ); Điều 94, khoản 2
(tội phá huỷ công trình,phƣơng tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 95,
khoản 2 và 3 (tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt vũ khí quân dụng, phƣơng tiện kỹ thuật quân sự); Điều 96, khoản 2 và 3
(tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ,
chất cháy, chất độc, chất phóng xạ); Điều 98 (tội làm tiền giả, tội tàng trữ, lƣu
hành tiền giả, tội phá huỷ tiền tệ).
- Điều 101(tội giết ngƣời); Điều 112, khoản 2, 3 và 4 (tội hiếp dâm);
- Điều 129 (tội cƣớp tài sản xã hội chủ nghĩa); Điều 132, khoản 2 và 3
(tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa); Điều 133, khoản 2 và 3 (tội tham ô tài
sản xã hội chủ nghĩa); Điều 138, khoản 2 và 3 (tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hƣ
hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa);
- Điều 151(tội cƣớp tài sản công dân); Điều 152 (tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản của công dân);
- Điều 165, khoản 2 và 3 (tội đầu cơ); Điều 172, khoản 2 và 3 (tội
chiếm đoạt tem, phiếu,tội làm hoặc lƣu hành tem, phiếu giấy tờ giả dùng vào
việc phân phối);
- Điều 245, khoản 2 (tội trốn khỏi nơi giam).
2- Ngƣời không tố giác nếu đã có hành động can ngăn ngƣời phạm tội
hoặc hạn chế tác hại của tội phạm thì có thể đƣợc miễn trách nhiệm hình sự
hoặc miễn hình phạt [21, Điều 247].
Với sự ra đời của quy định trên, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, nhà
nƣớc ta đã xây dựng đƣợc cơ sở pháp lý thống nhất đề truy cứu TNHS những
hành vi không tố giác tội phạm, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của
công dân cũng nhƣ hiệu quả của công tác đấu tranh chống tội phạm.
20
Quy định tội không tố giác tội phạm của BLHS năm 1985 đã cơ bản
đáp ứng đƣợc thực tiễn đấu tranh phòng chống tội không tố giác tội phạm
trong giai đoạn này.
Về TNHS của tội không tố giác tội phạm thì nhà làm luật quy định như sau:
Về hình phạt: Tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hại, cũng nhƣ
tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm không bị tố giác thì ngƣời phạm tội
không tố giác tội phạm có thể bị áp dụng một trong các hình phạt sau:
Thứ nhất, hình phạt cảnh cáo.
Cảnh cáo đƣợc áp dụng đối với ngƣời phạm tội ít nghiêm trọng và có
nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhƣng chƣa đến mức miễn hình phạt.
Nhƣ vậy, theo quy định của BLHS năm 1985 nếu ngƣời phạm tội
không tố giác tội phạm có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhƣng chƣa đến mức miễn
hình phạt thì có thể đƣợc áp dụng hình phạt cảnh cáo do tội không tố giác tội
phạm luôn là tôi ít nghiêm trọng.
Thứ hai, hình phạt cải tạo không giam giữ đến một năm.
Theo quy định của BLHS năm 1985 thì Cải tạo không giam giữ đƣợc
áp dụng từ sáu tháng đến hai năm đối với ngƣời phạm tội ít nghiêm trọng.
Nhƣ vậy, nếu ngƣời phạm tội không tố giác tội phạm có nơi làm việc hoặc cƣ
trú rõ ràng thì có thể đƣợc áp dụng hình phạt này do tội này luôn là tội ít
nghiêm trọng.
Thứ ba, hình phạt tù có thời hạn từ từ ba tháng đến ba năm.
Đây là hình phạt nặng nhất đƣợc áp dụng đối với ngƣời phạm tội không
tố giác tội phạm nhằm cách ly họ ra khỏi xã hội trong một khoảng thời gian.
Ngoài ra, tùy vào từng trƣờng hợp cụ thể mà ngƣời phạm tội có thể
đƣợc tòa án cho hƣởng án treo nếu thỏa mãn các điều kiện khác nhƣ:
21
Nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và nếu xét không cần phải
bắt chấp hành hình phạt tù, thì Toà án cho hƣởng án treo và ấn định thời gian
thử thách từ một năm đến năm năm.
Về trường hợp được miễn TNHS hoặc miễn hình phạt thì Khoản 2 Điều
247 BLHS quy định:
Ngƣời không tố giác nếu đã có hành động can ngăn ngƣời phạm tội
hoặc hạn chế tác hại của tội phạm thì có thể đƣợc miễn trách nhiệm hình sự
hoặc miễn hình phạt.
Đây là một trong những căn cứ đƣợc miễn TNHS hoặc miễn hình phạt
độc lập với quy định về miễn TNHS tại Điều 48 BLHS 1985.
Điều kiện để ngƣời phạm tội đƣợc miễn TNHS hoặc miễn hình phạt đó
là trƣờng hợp biết rõ tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc
đã đƣợc thực hiện mà không đi tố giác nhƣng đã có hành động can ngăn
ngƣời phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm xảy ra.
Tuy nhiên, những quy định về tội danh và TNHS của tội không tố giác
tội phạm trong BLHS năm vẫn còn một số điểm chƣa hợp lý:
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 19 và Điều 247 BLHS thì cơ quan nhà
nƣớc có thẩm quyền vẫn truy cứu TNHS đối với ông, bà, cha, mẹ, con, cháu,
anh, chị, em ruột, vợ hoặc chồng của ngƣời phạm tội khi họ không tố giác tội
phạm do ngƣời thân của mình thực hiện, kể cả những tội có tính nguy hiểm
cho xã hội không cao.
Quy định này đã bỏ qua không xem xét tới mối quan hệ tình cảm đặc
biệt sâu nặng giữa họ với ngƣời phạm tội, trong khi đây chính là nét đặc trƣng
của truyền thống dân tộc Việt Nam.
Chính vì, sự thiếu sót này đã làm cho quy định tội không tố giác tội
22
phạm trong BLHS năm 1985 trở nên cứng nhắc, chƣa kết hợp hài hòa giữa
pháp luật với đạo đức.
Thứ hai, trong CTTP tội không tố giác tội phạm đƣợc quy định tại
Khoản 1 Điều 247 BLHS năm 1985 mới chỉ quy định hai dạng hành vi đang
đƣợc chuẩn bị hoặc đã đƣợc thực hiện mà chƣa ghi nhận dạng hành vi đang
đƣợc thực hiện mà không tố giác, đây là một quy định chƣa tƣơng thích với
Điều 19 BLHS năm 1985.
23
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Thông qua chƣơng 1 của luận văn, tác giả đã làm rõ một số vấn đề lý
luận quan trọng về trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm nhƣ
làm rõ khái niệm tội không tố giác tội phạm và trách nhiệm hình sự đối với tội
danh này, đồng thời tác giả cũng làm rõ các vấn đề lý luận khác nhƣ đặc điểm,
cơ sở và các hình thức của TNHS đối với tội không tố giác tội phạm.
Tiếp đến, tác giả đã khái quát lịch sử lập pháp quy định về trách
nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm giai đoạn từ năm 1945
đến năm 1999, cùng với những phân tích tổng quát đối với những đặc điểm
của TNHS tội không tố giác tội phạm trong giai đoạn này làm cơ sở cho
việc phân tích những quy định của BLHS hiện hành cũng nhƣ thực tiễn thi
hành những vấn đề liên quan tới TNHS của tội không tố giác tội phạm tại
các chƣơng tiếp theo.
24
Chương 2
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI KHÔNG TỐ GIÁC TỘI
PHẠM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
2.1. Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm theo
quy định của Bộ luật hình sự năm 1999
2.1.1. Cơ sở trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
theo quy định Bộ luật hình sự năm 1999
Trong phạm vi luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung làm rõ cơ sở pháp lý
của TNHS đối với tội không tố giác tội phạm–đó là hành vi nguy hiểm cho xã
hội có đẩy đủ các dấu hiệu của CTTP tội không tố giác tội phạm.
Khách thể của tội không tố giác tội phạm.
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại [38, tr. 78].
Trong luật hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội đƣợc coi là khách
thể của tội phạm là những quan hệ xã hội đƣợc quy định tại Điều 8 BLHS:
Đó là: Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Theo đó hành vi bị coi là tội phạm, theo luật hình sự Việt Nam là
hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho một trong những quan
25
hệ xã hội đã đƣợc ghi nhận đó, đồng thời những quan hệ xã hội này đã
đƣợc cụ thể hóa qua những quy phạm pháp luật hình sự ở phần các tội
phạm của BLHS, khách thể của tội phạm thể hiện tính chất, nội dung nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Theo quy định của BLHS năm 1999 thì tội không tố giác tội phạm
đƣợc quy định tại Điều 314 thuộc chƣơng XXII các tội xâm phạm hoạt
động tƣ pháp.
Tội này đặc trƣng bởi hành vi không báo cho cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền về tội phạm do ngƣời khác đang chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện
hoặc đã đƣợc thực hiện mà mình biết rõ, hành vi này thể hiện thái độ thờ ơ
thiếu trách nhiệm của ngƣời phạm tội đối với lợi ích của nhà nƣớc, của xã hội,
đã góp phần gây khó khăn cho việc điều tra, phát hiện xử lý ngƣời phạm tội,
và không ngăn chặn kịp thời thiệt hại do tội phạm gây ra.
Theo đó, theo tác giả thì khách thể của tội không tố giác tội phạm là
hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, công dân, gây khó khăn cho công tác điều tra, try tố, xét xử.
Để thực hiện hành vi xâm hại tới khách thể trên, ngƣời phạm tội cần tác
động vào đối tƣợng tác động của tội phạm, đó chính là bộ phận của khách thể
tội phạm bị hành vi phạm tội xâm phạm tới để gây thiệt hại, đe dọa gây thiệt
hại cho những quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ.
Có tác giả cho rằng, đối tƣợng tác động của tội phạm này là ngƣời
phạm tội- ngƣời mà ngƣời phạm tội không tố giác. Thông qua ngƣời này mà
ngƣời phạm tội xâm phạm đến hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố
tụng gây ảnh hƣớng đến việc phát hiện, điều tra, chứng minh tội phạm, vi
phạm nguyên tắc xử lý mọi hành vi phạm tội đƣợc phát hiện kịp thời, xử lý
nhanh chóng, công minh theo đúng quy định của pháp luật [20, tr. 326].
26
Tuy nhiên, tác giả cho rằng, đối với tội không tố giác tội phạm thì đối
tƣợng tác động của tội phạm đó là chính là xử sự trái pháp luật của ngƣời có
hành vi không tố giác tội phạm.
Theo quy định của pháp luật, xử sự bình thƣờng của một công dân là
phải thông báo cho cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội đang đƣợc chuẩn bị,
đang đƣợc thực hiện, hoặc đã đƣợc thực hiện mà minh biết rõ nhằm tạo điều
kiện cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử diễn ra nhanh chóng, kịp thời,
nhƣng họ đã không thực hiện. Hay nói cách khác, để xâm phạm tới hoạt động
đúng đắn của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án thì ngƣời phạm
tội đã tự làm biến dạng xử sự của mình.
Mặt khách quan của tội không tố giác tội phạm.
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao
gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới
khách quan [38, tr. 99].
Mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi khách quan nguy hiểm
cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
và hậu quả, các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội nhƣ
công cụ, phƣơng pháp, thời gian, địa điểm phạm tội.
Trong mặt khách quan của tội phạm thì hành vi khách quan là dấu hiệu
quan trọng nhất, một hành vi đƣợc coi là hành vi khách quan của tội phạm khi
hội tụ đƣợc ba đặc điểm sau:
Thứ nhất, hành vi khách quan đó phải có tính nguy hiểm cho xã hội,
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi thể hiện hành vi đó gây ra hoặc đe dọa
gây ra thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ.
Thứ hai, hành vi khách quan đó phải là hoạt động có ý thức và có ý chí
27
nếu hành vi đó là cách xử sự của một con ngƣời không có nhận thức không có
ý chí thì đó không phải là hành vi phạm tội.
Thứ ba, hành vi khách quan của tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự.
Hành vi khách quan của tội phạm có thể đƣợc thực hiện dƣới hình thức
hành động hoặc không hành động.
Đối với tội không tố giác tội phạm, hành vi khách quan của tội phạm
này ngoài việc thỏa mãn ba đặc điểm trên thì có một đặc điểm rất quan trọng
đó là luôn đƣợc thực hiện dƣới hình thức không hành động phạm tội.
Đây là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình
thƣờng của đối tƣợng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của
tội phạm qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm
mặc dù có đủ điều kiện làm [38, tr. 105].
Đối với tội không tô giác tội phạm, nghĩa vụ của mọi công dân là phải
tố giác tội phạm với cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, nghĩa vụ tố giác tội
phạm của công dân là do luật định, nghĩa vụ này không chỉ quy định trong
BLHS mà con đƣợc quy định trong nhiều văn bàn pháp luật khác.
Ví dụ: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định:
Các tổ chức, công dân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố
giác hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức [24, Điều 25, Khoản 1].
Mặt khác, Điều 101 BLTTHS năm 2003 quy định:
Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác
bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có
chữ ký của ngƣời tố giác.
28
Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận đƣợc tố giác của
công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng
văn bản [24, Điều 101].
Nhƣ vậy, hành vi không tố giác tội phạm đƣợc thực hiện nhƣ không
báo với cơ quan, tổ chức biết về tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc
thực hiện, hoặc đã đƣợc thực hiện mà mình biết rõ, đồng thời họ có khả năng
tố giác, không gặp bất kì một trở ngại khách quan nào.
Nếu vì lý do khách quan mà ngƣời không tố giác không có khả năng tố
giác thì hành vi không tố giác đó không bị coi là hành vi phạm tội [11, tr. 223].
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 314 BLHS thì không phải mọi hành vi
không tố giác tội phạm đều là hành vi phạm tội, mà chỉ không tố giác tội
phạm đƣợc dẫn chiếu tại Điều 313 BLHS mới CTTP tội không tố giác tội
phạm. Việc xác định những tội này có thuộc Điều 313 BLHS hay không do cơ
quan tiến hành tố tụng thực hiện.
Chủ thể của tội không tố giác tội phạm.
Chủ thể của tội phạm là ngƣời có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định
và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể [38, tr. 122].
Theo đó thì ngƣời có năng lực TNHS là ngƣời khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức đƣợc tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển đƣợc hành vi ấy.
Xét từ góc độ pháp luật, năng lực trách nhiệm hình sự là khái niệm có
nhiều mặt. Một mặt, khái niệm này đƣợc dùng để khẳng định khả năng bị
buộc tội của một con ngƣời về hành vi tội phạm mà họ thực hiện. Mặt khác,
khái niệm này nêu bật khả năng của con ngƣời phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm mà họ đã thực hiện [33, tr. 69].
29
Luật hình sự Việt Nam không trực tiếp quy định thế nào là ngƣời có
năng lực TNHS mà chỉ quy định thông qua độ tuổi chịu TNHS tại Điều 12
BLHS và tình trạng không có năng lực TNHS tại Điều 13 BLHS.
BLHS năm 1999 quy định về độ tuổi chịu TNHS nhƣ sau:
1. Ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
về mọi tội phạm.
2. Ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên, nhƣng chƣa đủ 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [22, Điều 12].
Nhƣ vậy, ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên nhƣng chƣa đủ 16 tuổi đƣơc coi là
có năng lực TNHS chƣa đầy đủ. Do đó, họ chỉ phải chịu TNHS về những tội
phạm rất nghiêm trọng do cố ý theo quy định tại Khoản 3 Điều 8 BLHS là tội
có mức cao nhất của khung hình phạt đến 15 năm tù hoặc tội đặc biệt nghiêm
trọng mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mƣời lăm năm
tù, tù chung thân, hoặc tử hình.
Và ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên thì phải chịu TNHS về mọi tội phạm,
việc xác định tuổi đối với ngƣời chƣa thành niên do cơ quan tiến hành tố tụng
thực hiện theo quy định của pháp luật.
Đồng thời tại BLHS năm 1999 quy định về tình trạng không có năng
lực TNHS nhƣ sau:
1. Ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi
đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không
phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với ngƣời này, phải áp dụng biện
pháp bắt buộc chữa bệnh.
30
2. Ngƣời phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình
sự, nhƣng đã lâm vào tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này
trƣớc khi bị kết án, thì cũng đƣợc áp dụng biện pháp bắt buộc
chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, ngƣời đó có thể phải chịu trách
nhiệm hình sự [22, Điều 13].
Theo đó, một ngƣời chỉ đƣợc coi là không có năng lực TNHS khi đồng
thời thỏa mãn hai dấu hiệu sau:
Về y học - ngƣời đó mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn
hoạt động tâm thần, đồng thời về tâm lý họ bị mất năng lực nhận thức, hoặc
mất năng lực điều khiển hành vi của mình, việc xác định hai dấu hiệu này do
hội đồng giám định pháp y xác định và kết luận.
Nhƣ vậy chủ thể của tội phạm phải là ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên và
không trong tình trạng không có năng lực TNHS.
Bên cạnh đó, một số CTTP đòi hỏi chủ thể phải có thêm dấu hiệu đặc
biệt chỉ khi có dấu hiệu này mới có thể thực hiện đƣợc hành vi phạm tội mà
CTTP phản ánh, khoa học luật hình sự gọi đây là chủ thể đặc biệt.
Từ phân tích trên, đối chiếu với quy định tại Điều 314 BLHS cho
thấy tội không tố giác tội phạm thì chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn
nhƣng điều kiện sau:
Thứ nhất, họ phải từ đủ 16 tuổi trở lên, do tội này luôn là tội ít nghiêm
trọng, vì mức cao nhất của khung hình phạt theo Khoản 1 Điều 314 BLHS là
ba năm tù.
Họ phải có khả năng nhận thức hành vi không tố giác tội phạm của
mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm đồng thời có khả năng điều
khiển đƣợc hành vi của mình nhƣng vẫn thực hiện.
31
Bên cạnh đó, tội này cũng không đòi hỏi ngƣời thực hiện hành vi phạm
tội phải có những dấu hiệu đặc biệt, nghĩa là bất kì ai cũng có thể là chủ thể
của tội phạm này.
Tuy nhiên, luật hình sự nƣớc ta đã loại trừ một số chủ thể mặc dù họ
thỏa mãn những dấu hiệu nhƣ trên là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em
ruột, vợ hoặc chồng của ngƣời phạm tội họ không phải chịu TNHS về hành vi
không tố giác tội phạm trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia và tội khác là
tội đặc biệt nghiêm trọng, quy định nhằm ghi nhận mối quan hệ tình cảm sâu
nặng của những ngƣời thân trong gia đình. Nói cách khác, họ chỉ phải chịu
TNHS về việc không tố giác tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội
khác là tội đặc biệt nghiêm trọng.
Mặt chủ quan của tội không tố giác tội phạm.
Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của ngƣời
phạm tội [38, tr. 133].
Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi, động cơ, mục đích của ngƣời
phạm tội.
Thứ nhất, về yếu tố lỗi.
Lỗi trong luật hình sự trƣớc hết đƣợc hiểu là quan hệ giữa ngƣời phạm
tội với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định chủ quan những đòi hỏi của
xã hội đƣợc thể hiện qua các đòi hỏi cụ thể của luật hình sự. Sự phủ định chủ
quan này tồn tại trên cơ sở và trong sự thống nhất với sự phủ định khách quan
là sự gây thiệt hại cho quan hệ xã hội là khách thể đƣợc luật hình sự bảo vệ,
lỗi chỉ đặt ra cho những trƣờng hợp trong đó có khả năng xử sự phù hợp với
xã hội và chủ thể đã không lựa chọn khả năng này.
Về mặt hình thức thì lỗi là thái độ tâm lý của con ngƣời đối với hành vi
32
nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra đƣợc
biểu hiện dƣới hình thức cố ý hoặc vô ý [20, tr. 136].
Khoa học luật hình sự Việt Nam chia lỗi thành lỗi cố ý và lỗi vô ý,
trong đó lỗi cố ý đƣợc chia thành cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp; lỗi vô ý
thành lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý vì cẩu thả.
Đối với tội không tố giác tội phạm thì lỗi của ngƣời phạm tội là lỗi cố ý
trực tiếp, tức là ngƣời phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm
cho xã hội, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phát hiện
điều tra, xử lý tội phạm nhƣng vẫn thực hiện–không tố giác.
Để cấu thành tội này đòi hỏi ngƣời phạm tội phải là ngƣời biết rõ tội
phạm mà mình không tố giác là tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực
hiện hoặc đã đƣợc thực hiện.
Biết rõ tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc đã
đƣợc thực hiện tức là ngƣời đó phải biết hành vi của ngƣời phạm tội, nhận
thức đƣợc hành vi đó là hành vi cấu thành tội phạm, việc biết rõ tội phạm của
họ có thể thông qua các hình thức khác nhau nhƣ nghe, nhìn...Trong thực tế,
việc biết rõ tội phạm đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện bị chi
phối bởi yếu tố sau:
Về chủ quan: việc biết rõ tội phạm phụ thuộc vào mức độ nhạy cảm của
các giác quan, tình trạng sức khỏe, trạng thái tâm lý, khả năng nhận thức,
trình độ hiểu biết, về đối tƣợng tri giác của ngƣời tri giác khi tri giác các sự
việc phạm tội.
Về khách quan: việc biết rõ hay không lại phụ thuộc vào tính chất, đặc
điểm của sự kiện tri giác đơn giản hay phức tạp, phạm vi rộng hay hẹp, số
lƣợng các tình tiết, thủ đoạn tinh vi, điều kiện thời tiết thuận lợi hay không....
33
nếu biết rõ hành vi nhƣng không nhận thức đƣợc hành vi đó là hành vi phạm
tội thì việc không tố giác không phải là hành vi phạm tội.
Những dấu hiệu khác của mặt chủ quan:
Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan của ngƣời phạm tội
đặt ra phải đạt đƣợc khi thực hiện hành vi phạm tội [38, tr. 153].
Đối với tội không tố giác tội phạm thì mục đích của ngƣời phạm tội khá
đa dạng có thể là nhằm bao che cho ngƣời đã thực hiện tội phạm, gây khó
khăn cho việc điều tra, phát hiện tội phạm...
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy ngƣời phạm tội thực
hiện hành vi phạm tội cố ý [38, tr. 152].
Đối với tội không tố giác tội phạm, ngƣời phạm tội có thể xuất phát từ
quan hệ tình cảm, quan hệ bạn bè, gia đình, lo sợ bị trả thù hoặc xuất phát từ
tâm lý sợ bị phiền phức, mất thời gian...
Tuy nhiên, động cơ và mục đích của ngƣời phạm tội không tố giác tội
phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc của CTTP tội này, nó chỉ có ý nghĩa
khi xem xét quyết định hình phạt đối với ngƣời không tố giác tội phạm.
2.1.2. Các hình thức của trách nhiệm hình sự đối với tội không tố
giác tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999
Các hình thức của TNHS của tội không tố giác tội phạm đƣợc quy định
chủ yếu tại Điều 314 BLHS.
Theo đó, Khoản 1 là cấu thành tội phạm cơ bản, Khoản 2 của điều luật
là trƣờng hợp loại trừ TNHS đối với một số chủ thể trong một số trƣờng hợp
và Khoản 3 của điều luật là cấu thành tội phạm giảm nhẹ nhƣng không có
khung hình phạt mà là trƣờng hợp miễn TNHS hoặc miễn hình phạt.
34
Thứ nhất, về hình phạt
Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc nghiêm khắc nhất, đƣợc
quy định trong LHS, do Tòa án nhân danh Nhà nƣớc tuyên trong bản án kết
tội đã có hiệu lực pháp luật đối với chính ngƣời đã có lỗi trong việc thực hiện
tội phạm, tƣớc bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ích nhất định của ngƣời bị
kết án nhằm cải tạo, giáo dục ngƣời phạm tội, phòng ngừa riêng và phòng
ngừa chung [36, tr. 52].
Hình phạt áp dụng đối với tội không tố giác tội phạm đƣợc quy định tại
BLHS năm 1999:
Ngƣời nào biết rõ một trong các tội phạm đƣợc quy định
tại Điều 313 của Bộ luật này đang đƣợc chuẩn bị, đang hoặc đã
đƣợc thực hiện mà không tố giác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo
không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba
năm [22, Điều 314, Khoản 1].
Theo quy định trên thì ngƣời phạm tội có thể bị áp dụng một trong ba
loại hình phạt chính là cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc tù đến ba năm.
Hình phạt cảnh cáo:
Cảnh cáo là sự khiển trách công khai của nhà nƣớc do Tòa án áp dụng
đối với ngƣời phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ.
Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất trong hệ thống hình phạt, thể hiện
sự lên án công khai của nhà nƣớc đối với ngƣời phạm tôi về hành vi
phạm tội của họ.
Ngƣời bị áp dụng hình phạt cảnh cáo phải là ngƣời phạm tội ít nghiêm
trọng và phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS đƣợc quy định Điều 46
BLHS, nhiều tình tiết giảm nhẹ tức là phải có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên,
và hai tình tiết này không nhất thiết phải thuộc Khoản 1 Điều 46 BLHS.
35
Thực tiễn xét xử cho thấy, ngƣời phạm tội đƣợc áp dụng hình phạt
cảnh cáo phải là ngƣời có nhiều tình tiết giảm nhẹ, trong đó nhất thiết
phải có tình tiết giảm nhẹ đƣợc quy định tại Khoản 1 Điều 46 BLHS và
mức độ giảm nhẹ của tình tiết này cũng là đáng kể tới mức gần đƣợc miễn
hình phạt [38, tr. 175].
Nhƣ vậy, đối với ngƣời phạm tội không tố giác tội phạm nếu có nhiều
tình tiết giảm nhẹ đƣợc quy định tại Điều 46 có ít nhất một tình tiết quy định
tại Khoản 1 Điều 46 BLHS thì họ có thể đƣợc áp dụng hình phạt nhẹ nhất là
cảnh cáo vì tội không tố giác tội phạm luôn là tội ít nghiêm trọng.
Ngƣời bị phạt cảnh cáo sau một năm, nếu không phạm tội mới thì
đƣơng nhiên đƣợc xóa án tính theo quy định tại điểm a, Khoản 2 Điều 64
BLHS năm 1999.
Hình phạt cải tạo không giam giữ:
Đây là hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù nhƣng nặng hơn hình phạt cảnh
cảo. Cải tạo không giảm giữ không buộc ngƣời bị kết án phải cách li khỏi xã
hội mà họ đƣợc chung sống với gia đình nhƣ những ngƣời khác dƣới sự giám
sát của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phƣơng nơi ngƣời đó làm việc
hoặc thƣờng trú.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 31 BLHS thì hình phạt này đƣợc áp
dụng đối với ngƣời phạm tôi ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng với mức phạt
tù từ sáu tháng đến ba năm, đồng thời ngƣời phạm tội phải có nơi làm việc ổn
định hoặc có nới thƣờng trú rõ ràng và nếu xét thấy không cần thiết phải cách
ly họ khỏi xã hội.
Hình phạt cải tạo không giảm giữ thể hiện tính nhân đạo, mềm dẻo
của pháp luật với mục đích giáo dục, tạo điều kiện cho ngƣời phạm tội có cơ
hội sửa chữa.
36
Theo đó, đối với ngƣời phạm tội không tố giác tội phạm nếu họ có nơi
làm việc ổn định hoặc có nơi thƣờng trú rõ ràng và sau khi xem xét đến các
yếu tố nhƣ nhân thân ngƣời phạm tội gia đình, công việc, tiền án, tiền sự...xét
thấy không cần thiết phải cách ly họ khỏi xã hội thì Tòa án có thể áp dụng
hình phạt cải tạo không giảm giữ đối với họ vì tội không tố giác tội phạm luôn
là tội ít nghiêm trọng.
Khi áp dụng hình phạt này Tòa án phải giao ngƣời bị cải tạo không
giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi ngƣời đó làm việc hoặc chính quyền địa
phƣơng nơi thƣờng trú để những cơ quan, tổ chức này giám sát, giáo dục
ngƣời bị kết án chấp hành hình phạt.
Hình phạt cải tạo không giam giữ tạo điều kiện cho ngƣời phạm tội
không bị cách ly khỏi xã hội và làm việc cần thiết, vừa có tác dụng răn đe vừa
tạo điều kiện cho họ hòa nhập với xã hội một cách sớm nhất.
Hình phạt tù có thời hạn.
Đây là hình phạt nhằm buộc ngƣời bị kết án phải cách ly khỏi xã hội
trong thời hạn nhất định để cải tạo, lao động và học tập. Đây là hình phạt
nghiêm khắc hơn cải tạo không giam giữ, ngƣời bị kết án bị tƣớc tự do, bị
cách ly khỏi xã hội.
Theo đó, thì ngƣời phạm tội không tố giác tội phạm có thể bị phạt tù tối
đa là ba năm và tối thiểu là ba tháng, đây là mức thấp nhất đối với hình phạt
tù có thời hạn.
Nhìn chung, khi quyết định hình phạt đối với ngƣời phạm tội thì Tòa án
cần phải căn cứ vào quy định của BLHS đó là những quy định liên quan tới
nguyên tắc xử lý, những vấn đề liên quan tới hình phạt và quyết định hình
phạt, căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
37
nhân thân ngƣời phạm tội và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ TNHS để quyết
định hình phạt đƣợc chính xác.
Theo đó nếu ngƣời phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình
tiết tăng nặng hoặc có nhƣng mức độ nguy hiểm cho xã hội không đáng kể
nhân thân tốt thì có thể áp dụng hình phạt cảnh cảo hoặc cải tạo không giam
giữ. Nếu ngƣời phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng không có tình tiết giảm
nhẹ hoặc có nhƣng không đáng kể, ngƣời phạm tội có nhiều tiền án, tiền sự
hoặc không tố giác tội phạm là tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác
là tội đặc biệt nghiêm trọng thì có thể áp dụng hình phạt tù với mức hình phạt
cao nhất là ba năm tù.
Ngoài ra, nếu ngƣời phạm tội có nhân thân tốt chấp hành đúng chính
sách, pháp luật của nhà nƣớc, chƣa có tiền án tiền sự...có nhiều tình tiết giảm
nhẹ (có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên trong đó ít nhất có một tình tiết đƣợc
ghi nhận tại Khoản 1 Điều 46) và xét thấy không cần phải chấp hành hình
phạt tù thì tòa án có thể cho ngƣời phạm tội đƣợc hƣởng án treo đây là biện
pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.
Thứ hai, trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo Khoản 2 Điều
314 BLHS
Khoản 2 của điều luật không phải là cấu thành tăng nặng hay cấu thành
giảm nhẹ mà là trƣờng hợp loại trừ TNHS một số trƣờng hợp đối với ngƣời
không tố giác tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột vợ
hoặc chồng của ngƣời phạm tội.
Đây là quy định nhằm thể hiện nét đặc trƣng truyền thống – đạo đức,
văn hóa, lịch sử ở nƣớc ta trƣớc đây và hiện nay.
Đối với những ngƣời này phải cân nhắc giữa hai nghĩa vụ, một bên là
nghĩa vụ công dân với xã hội, với một bên là nghĩa vụ đạo đức với ngƣời thân
38
của mình, thì đối với ngƣời Việt Nam đa phần thƣờng chọn việc vi phạm
nghĩa vụ công dân đối với xã hội mà không chọn việc vi phạm nghĩa vụ đối
với ngƣời thân của mình.
Cụ thể: Ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng
của ngƣời phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về việc không tố giác các
tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng.
Ông bà của ngƣời phạm tội bao gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
Cha mẹ bao gồm cha mẹ đẻ, hoặc cha mẹ nuôi; nếu là cha mẹ nuôi thì
việc nhận con nuôi phải đúng với quy định của pháp luật về nhận con nuôi,
cha mẹ vợ, cha mẹ chồng, cha dƣợng, mẹ kế.
Con bao gồm con đẻ hoặc con nuôi, nếu là con nuôi thì việc nhận con
nuôi phải đúng quy định của pháp luật về nhận con nuôi, con dâu, con rể, con
riêng của vợ, con riêng của chồng.
Cháu bao gồm cháu nội, cháu ngoại, cháu dâu, cháu rể.
Anh chị em ruột bao gồm anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ
hoặc cùng mẹ khác cha, không bao gồm anh chị em nuôi, vì điều luật chỉ quy
định anh chị em ruột.
Vợ hoặc chồng là vợ chồng hợp pháp đƣợc pháp luật công nhân, nếu là
hôn nhân thực tế mà không đƣợc pháp luật công nhân thì vẫn không đƣợc loại
trừ TNHS, điều luật không quy định những ngƣời này phải thƣờng xuyên
sống chung với ngƣời phạm tội hoặc thƣờng xuyên quan hệ với ngƣời phạm
tội mà chỉ cần có quan hệ phát sinh từ huyết thống hoặc từ quan hệ hôn nhân
hợp pháp với ngƣời phạm tội là đủ.
Khi xác định TNHS đối với những ngƣời này cũng tƣơng tự nhƣ đối
với trƣờng hợp xác định TNHS đối với ngƣời không tố giác tôi phạm khác,
39
chỉ cần biết rõ là tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc đã
thực hiện mà không cần họ phải biết rõ là tội gì; là tội xâm phạm an ninh quốc
gia hay tội phạm thƣờng; có phải là tội đặc biệt nghiêm trọng hay không mà
việc xác định này là do cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng
tiến hành. Nghĩa là khi cơ quan tiến hành tố tụng xác định tội phạm không tố
giác là tội phạm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội đặc biệt nghiêm
trọng thì họ mới bị truy cứu TNHS về tội này.
Thứ ba, trường hợp miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt đối
với tội không tố giác tội phạm.
Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của Luật hình sự
Việt Nam, do cơ quan tƣ pháp hình sự có thẩm quyền tùy thuộc vào giai đoạn
tố tụng hình sự tƣơng ứng áp dụng và đƣợc thể hiện bằng nội dung không
buộc một ngƣời phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội
phạm, nếu xét thấy không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời
đó và đáp ứng những điều kiện nhất định [48, tr. 111].
Miễn hình phạt là việc Tòa án không buộc ngƣời phạm tội phải chịu biện
pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nƣớc là hình phạt về tội phạm mà
ngƣời đó đã thực hiện trong bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật khi đáp ứng
các điều kiện do luật định, đồng thời xét thấy vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm và giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội [49, tr. 196].
Trường hợp miễn TNHS và miễn hình phạt theo những căn cứ chung.
Đây là trƣờng hợp nếu ngƣời phạm tội nếu có các căn cứ miễn TNHS
quy định tại Điều 25 hoặc miễn hình phạt quy định tại Điều 54 BLHS thì
đƣợc áp dụng nhƣ các tội phạm khác.
Miễn TNHS và miễn hình phạt theo căn cứ riêng quy định tại Khoản 3
Điều 314 BLHS năm 1999.
40
Đây là một trong những căn cứ đƣợc miễn TNHS hoặc miễn hình phạt
độc lập với quy định về miễn TNHS tại Điều 25 và miễn hình phạt tại Điều 54
BLHS 1999.
Khoản 3 Điều 314 BLHS là khung hình phạt giảm nhẹ đặc biệt với tình
tiết ngƣời không tố giác tội phạm nếu đã có hành động can ngăn ngƣời phạm
tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm thì có thì có thể đƣợc miễn TNHS hoặc
miễn hình phạt.
Điều kiện để ngƣời phạm tội đƣợc miễn TNHS hoặc miễn hình phạt đó
là trƣờng hợp biết rõ tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc
đã đƣợc thực hiện mà không đi tố giác những đã có hành động can ngăn
ngƣời phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm xảy ra.
Can ngăn có nghĩa là hành vi của một ngƣời khi biết ngƣời khác có ý
định làm việc gì đó trái pháp luật thì ngăn cản không cho ngƣời đó thực hiện
hành vi đó bằng mọi cách. Ở đây, ngƣời không tố giác tội phạm biết rõ là có
một tội phạm đang đƣợc chuẩn bị thực hiện mặc dù họ không tố giác với cơ
quan thẩm quyền nhƣng họ đã tự mình ngăn cản bằng cách khuyên bảo, thậm
chí có thể đe dọa ngƣời đang chuẩn bị thực hiện tội phạm để họ hiểu ra, sợ bị
pháp luật trừng trị và có thể không thực hiện tội phạm nữa. Hành động can
ngăn có thể đƣợc thực hiện bằng lời nói hoặc bằng việc làm cụ thể đối với
ngƣời phạm tội.
Chỉ cần có hành động can ngăn, còn kết quả của việc can ngăn đó nhƣ
thế nào không phải là dấu hiệu bắt buộc, tuy nhiên nếu can ngăn có kết quả thì
tuỳ trƣờng hợp cụ thể mà ngƣời không tố giác có thể đƣợc miễn TNHS.
Ngƣời không tố giác đã hạn chế tác hại của tội phạm là trƣờng hợp biết
rõ tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc đã đƣợc thực hiện,
tuy không tố giác nhƣng đã tự mình có những hành động hạn chế tác hại của
41
tội phạm. Tác hại của tội phạm là những thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất
cho xã hội do hành vi phạm tội gây ra.
Nhƣ vậy, nếu một ngƣời khi biết rõ có thể do nhìn thấy hoặc nghe kể lại
một tội phạm đã đƣợc thực hiện mặt dù họ không khai báo với cơ quan nhà
nƣớc có thẩm quyền để kịp thời phát hiện và xử lý nhƣng đã tự mình can ngăn
và chủ động ngăn chặn bằng các biện pháp cần thiết đã hạn chế tác hại của tội
phạm nên họ có thể đƣợc xem xét để miễn TNHS hoặc miễn hình phạt. Tuy
nhiên, nhà làm luật chƣa quy định trƣờng hợp nào thì áp dụng miễn hình phạt
trƣờng hợp nào miễn TNHS.
Quy định tại khoản này là quy định tùy nghi, theo đó cho Tòa án toàn
quyền cân nhắc việc cho miễn TNHS hay miễn hình phạt cho ngƣời phạm tội.
Theo ý kiến của tác giả khi cần nhắc giữa miễn TNHS hoặc không miễn
TNHS hoặc hình phạt thì tòa án cần căn cứ vào việc ngƣời không tố giác tội
phạm có tích cực can ngăn ngƣời phạm tội hay không, hành động can ngăn có
cụ thể kiên quyết hay chi can ngăn một cách chiếu lệ, hình thức, có hạn chế
đƣợc tác hại của tội phạm hay không, mức độ hạn chế tác hại đến đâu, nhân
thân của ngƣời phạm tội, của ngƣời can ngăn, quan hệ giữa ngƣời có hành
động can ngăn với ngƣời phạm tội đề ra quyết định phù hợp với vụ án.
Thứ tư, Án treo
Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, đƣợc
Tòa án áp dụng đối với ngƣời phạm tội bị phạt tù không quá 3 năm, căn cứ
vào nhân thân của ngƣời phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không
cần buộc phải chấp hành hình phạt tù [35, Điều 1].
Nhƣ vậy, đối với ngƣời phạm tội không tố giác tội phạm có mức phạt tù
không quá ba năm, nhân thân tốt, có các tình tiết giảm nhẹ, và xét thấy không
cần buộc phải chấp hành hình phạt tù thì có thể đƣợc xem xét áp dụng án treo.
42
2.1.3. Những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 về trách nhiệm
hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
BLHS năm 2015 đƣợc Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 27/11/2015
gồm 26 chƣơng với 426 điều có hiệu lực từ ngày 01/07/2016 đã có nhiều sửa
đổi, bổ sung quan trong liên quan tới TNHS đối với tội không tố giác tội phạm.
Thứ nhất, BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định về loại trừ TNHS của
ngƣời bào chữa tại khoản 3 Điều 19 BLHS năm 2015:
Ngƣời bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo
quy định tại khoản 1 Điều này trong trƣờng hợp không tố giác tội
phạm do chính ngƣời mà mình bào chữa đã thực hiện hoặc đã tham
gia thực hiện mà ngƣời bào chữa biết đƣợc khi thực hiện nhiệm vụ
bào chữa, trừ trƣờng hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh
quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại
Điều 389 của Bộ luật này [28, Điều 19, Khoản 3].
Đây là một quy định rất tiến bộ bởi các lý do sau;
Bảo đảm tính thống nhất các văn bản quy phạm pháp luật trong hệ
thống pháp luật, tháo gỡ sự xung đột giữa quy định về việc cấm luật sƣ (tham
gia với tƣ cách là ngƣời bào chữa) tiết lộ bí mật thông tin khách hàng quy
định tại Luật Luật sƣ, Quy tắc đạo đức nghề luật sự, với chế định không tố
giác tội phạm quy định tại Bộ luật Hình sự hiện hành.
Chế định cũng bảo đảm nguyên tắc hoạt động nghề nghiệp luật sƣ,
chức năng bào chữa của luật sƣ. Một nguyên tắc quan trọng của nghề luật sƣ
là luật sƣ không đƣợc làm xấu đi tình trạng pháp lý của thân chủ. Mặt khác,
khi trao đổi, luật sƣ có thể đƣợc thân chủ tiết lộ thông tin nào đó liên quan đến
việc phạm tội. Nhƣng luật sƣ không trực tiếp chứng kiến hành vi phạm tội đó,
không có điều kiện để đối chiếu lời khai của thân chủ với các bằng chứng
43
khác để kết luận thân chủ chắc chắn đã thực hiện tội phạm đó hay không. Do
đó, luật sƣ rất khó “biết rõ tội phạm” nhƣ quy định của dự thảo mà đi tố giác.
Đồng thời, phù hợp với thông lệ quốc tế, cũng nhƣ quy định của nhiều
quốc gia trên thế giới.
Thứ hai, BLHS năm 2015 đã tăng hình phạt tù của tội không tố giác
tội phạm lên từ 6 tháng đến 3 năm so với từ 3 tháng đến 3 năm trong
BLHS năm 1999.
Thứ ba, BLHS năm cũng đã bổ sung thêm một số tội danh mà một
người nếu biết rõ mà không tố giác sẽ phải chịu TNHS. Ví dụ: Bổ sung thêm
các tội danh tại Điều 373, các khoản 3 và 4 (tội dùng nhục hình); Điều 374,
các khoản 3 và 4 (tội bức cung); Điều 220, các khoản 2 và 3 (tội vi phạm quy
định của Nhà nƣớc về quản lý và sử dụng vốn đầu tƣ công gây hậu quả
nghiêm trọng); Điều 221, các khoản 2 và 3 (tội vi phạm quy định của Nhà
nƣớc về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng); Điều 222, các khoản 2 và 3 (tội
vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng); Điều 223, các
khoản 2 và 3 (tội thông đồng, bao che cho ngƣời nộp thuế gây hậu quả
nghiêm trọng); Điều 224, các khoản 2 và 3 (tội vi phạm quy định về đầu tƣ
công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng)...
Thứ tư, Nếu nhƣ BLHS năm 1999 quy định các trƣờng hợp loại trừ
TNHS đối với ngƣời thân thích của ngƣời phạm tội tại Điều 22 đồng thời lặp
lại quy định trên tại Điều 314, đây là sự trùng lặp không cần thiết về mặt kĩ
thuật lập pháp, tạo ra sự rƣờm rà trong kết cấu Điều luật, thì tới BLHS năm
2015 nhà làm luật chỉ quy định tại Điều 19 BLHS về không tố giác tội phạm,
theo đó thì Điều 390 BLHS về tội không tố giác tội phạm chỉ còn kết cấu làm
hai khoản, qua đó khắc phục nhƣợc điểm của BLHS năm 1999.
Đồng thời tại Điều 19 BLHS năm 2015 nhà làm luật cũng đã điều
chỉnh lại câu văn khi quy định: Ngƣời không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con,
44
cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của ngƣời phạm tội không phải chịu
trách nhiệm.... trừ trƣờng hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc
gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng...thay vì quy định là Ngƣời không tố giác
là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của ngƣời
phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về việc không tố giác các tội xâm
phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng... nhằm
nhấn mạnh yếu tố loại trừ TNHS của những đối tƣợng trên.
2.2. Quy định của Bộ luật hình sự một số nƣớc về trách nhiệm hình
sự đối với tội không tố giác tội phạm
Nghiên cứu những quy định về tội không tố giác tội phạm trong pháp
luật hình sự của Cộng hoà Liên Bang Đức, Nhật Bản, Liên bang Nga, Cộng
hoà nhân dân Trung Hoa cho thấy, các nƣớc quy định rất khác nhau về tội
phạm này.
BLHS cộng hòa Liên Bang Đức có quy định về trách nhiệm hình sự
đối với tội không tố giác tội phạm tại Điều 138 và Điều 139
Điều 138 BLHS cộng hòa Liên Bang Đức quy định về không tố giác
những tội phạm đã đƣợc lập kế hoạch.
(1) Ngƣời nào biết đƣợc một cách đáng tin về dự định hoặc
việc thực hiện của
1. tội chuẩn bị một cuộc chiến tranh xâm lƣợc (Điều 80).
2. tội phản bộ tổ quốc trong các trƣờng hợp của các Điều
khoản 81 đến 83 khoản 1.
3. tội phản quốc hoặc tội gây nguy hại cho an ninh đối ngoại
trong các trƣờng hợp của các Điều 94 đến 96, 97a hoặc 100.
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm

More Related Content

What's hot

Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (20)

Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOTLuận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, HOT
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt NamLuận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
 
Hình phạt tù có thời hạn và tái hòa nhập đối với người mãn hạn tù
Hình phạt tù có thời hạn và tái hòa nhập đối với người mãn hạn tùHình phạt tù có thời hạn và tái hòa nhập đối với người mãn hạn tù
Hình phạt tù có thời hạn và tái hòa nhập đối với người mãn hạn tù
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAYLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
 
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sựLuận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự
Luận văn: Xây dựng và áp dụng án lệ giải quyết tranh chấp dân sự
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Đề tài: Thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, HOT
Đề tài: Thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, HOTĐề tài: Thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, HOT
Đề tài: Thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, HOT
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
 
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nướcLuận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
 
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
 
Luận văn: Trách nhiệm bồi thường do công chứng viên gây ra, HAY
Luận văn: Trách nhiệm bồi thường do công chứng viên gây ra, HAYLuận văn: Trách nhiệm bồi thường do công chứng viên gây ra, HAY
Luận văn: Trách nhiệm bồi thường do công chứng viên gây ra, HAY
 
Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đLuận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOTLuận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
 
Đề tài: Biện pháp bảo đảm trong hoạt động của các ngân hàng, HAY
Đề tài: Biện pháp bảo đảm trong hoạt động của các ngân hàng, HAYĐề tài: Biện pháp bảo đảm trong hoạt động của các ngân hàng, HAY
Đề tài: Biện pháp bảo đảm trong hoạt động của các ngân hàng, HAY
 

Similar to Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm

Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở s...
Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở s...Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở s...
Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở s...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

Similar to Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm (20)

Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Luận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAY
Luận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAYLuận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAY
Luận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAYLuận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HOTLuận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAYLuận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư phápLuận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
 
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Giảm nhẹ TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Giảm nhẹ TNHS đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Giảm nhẹ TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Giảm nhẹ TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAY
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAYLuận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAY
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAY
 
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
 
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo LuậtLuận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
 
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAYĐề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
 
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đLuận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
 
Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở s...
Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở s...Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở s...
Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở s...
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAYLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự tạI TPHCM
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự tạI TPHCMLuận văn: Vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự tạI TPHCM
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự tạI TPHCM
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 

Recently uploaded (20)

Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 

Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HỒ MẠNH HÀ TR¸CH NHIÖM H×NH Sù §èI VíI TéI KH¤NG Tè GI¸C TéI PH¹M TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HỒ MẠNH HÀ TR¸CH NHIÖM H×NH Sù §èI VíI TéI KH¤NG Tè GI¸C TéI PH¹M TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG QUANG PHƢƠNG HÀ NỘI - 2016
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN HỒ MẠNH HÀ
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI KHÔNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM .......... 7 1.1. Khái niệm tội không tố giác tội phạm và trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm .............................................. 7 1.1.1. Khái niệm tội không tố giác tội phạm................................................. 7 1.1.2. Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm..... 10 1.2. Các đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm.................................................................................... 12 1.3. Cơ sở và các hình thức của trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm.................................................................... 13 1.3.1. Cơ sở của trách nhiệm hình sự của tội không tố giác tội phạm.............13 1.3.2. Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm ..... 15 1.4. Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1999................................................................................... 15 1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985...........................................................................................15 1.4.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985...........................................18 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................23
  • 5. Chƣơng 2: TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI KHÔNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN.....................................................................24 2.1. Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 ...............................24 2.1.1. Cơ sở trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm theo quy định Bộ luật hình sự năm 1999 ..........................................24 2.1.2. Các hình thức của trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999.............33 2.1.3. Những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 về trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm .......................................42 2.2. Quy định của Bộ luật hình sự một số nƣớc về trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm....................................44 2.3. Thực tiễn áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm tại Tòa án nhân dân................................................47 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................60 Chƣơng 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI KHÔNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM....................................................................61 3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm .................................................61 3.1.1. Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa .................61 3.1.2. Yêu cầu tổ chức, triển khai áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015.......62 3.1.3. Yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm .......................................63 3.1.4. Yêu cầu xử lý tội phạm.....................................................................63 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm .................................................64
  • 6. 3.2.1. Tổ chức tập huấn, hƣớng dẫn thi hành Bộ luật hình sự năm 2015 ........64 3.2.2. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm......................................................................65 3.2.3. Giải pháp về chuyên môn nghiệp vụ - đạo đức nghề nghiệp............73 3.2.4. Giải pháp về tổ chức bộ máy - cán bộ...............................................75 3.2.5. Những giải pháp khác .......................................................................78 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................80 KẾT LUẬN ....................................................................................................81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................83
  • 7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BCA: Bộ công an BCT: Bộ tài chính BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự BNN&PTNT: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn BQP: Bộ quốc phòng CTTP: Cấu thành tội phạm HĐXX: Hội đồng xét xử LHS: Luật hình sự TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao TNHS: Trách nhiệm hình sự VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  • 8. DANH MỤC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 2.1: Bảng số liệu thụ lý, xét xử tội không tố giác tội phạm so với tội phạm chung và tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp từ năm 2011 đến năm 2015 51 Bảng 2.2: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm 54
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay đất nƣớc ta đang tiến bƣớc trên con đƣờng đổi mới, đời sống nhân dân từng bƣớc đƣợc nâng cao, tình hình kinh tế - chính trị - xã hội đạt đƣợc nhiều thành tựu, quan hệ đối ngoại đƣợc mở rộng, hợp tác quốc tế đƣợc tiến hành chủ động và đạt kết quả tốt. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, nền kinh tế thị trƣờng cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó có nhiều vấn đề liên quan đến công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm đặc biệt là những vấn đề liên quan tới công tác phòng chống tội phạm thông qua hoạt động tố giác tội phạm của công dân. Theo quy định của pháp luật thì công dân phải có nghĩa vụ tố giác tội phạm với cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền nhằm ngăn chặn tội phạm xảy ra, cũng nhƣ tạo điều kiện giúp các cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng” [27, Điều 46]. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Các tổ chức, công dân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức...” [24, Điều 25]. Đặc biệt, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực ngày 01/07/2016 cũng đã quy định: “Tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác, báo tin về tội phạm ; tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm” [29, Điều 5, Khoản 2].
  • 10. 2 Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua cho thấy, bên cạnh một bộ phận ngƣời dân thực hiện tốt nghĩa vụ tố giác tội phạm với cơ quan có thẩm quyền góp phần đảm bảo an ninh, trật tự xã hội còn có một bộ phận không nhỏ đã không thực hiện tròn nghĩa vụ tố giác tội phạm của mình, dẫn đến hậu quả khó lƣờng. Vấn đề này càng trở nên nhức nhối khi thời gian vừa qua liên tục xảy ra những vụ trọng án gây chấn động dƣ luận có liên quan đến tội danh này, điển hình là: vụ án Lê Văn Luyện giết ngƣời cƣớp tài sản tại Bắc Giang, vụ án Dƣơng Chí Dũng tham nhũng tại Vinalines, hay gần đây là vụ giết lái xe CRV – Kiều Hồng Thành tại Hà Nội… Trong các vụ án đó có cả những cá nhân có chức vụ, quyền hạn trong Bộ máy Nhà nƣớc, am hiểu pháp luật song vẫn vi phạm quyền, nghĩa vụ của mình- không tố giác tội phạm với các cơ quan có thẩm quyền. Nguyên nhân của tình trạng trên chủ yếu xuất phát từ việc thiếu hiểu biết pháp luật của công dân, hoặc do xuất phát từ quan hệ tình cảm, do nể nang, lo sợ bị trả thù...Trong khi đó, những quy định của pháp luật về trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm còn nhiều điểm cẩn phải tiếp tục nghiên cứu, làm rõ. Bộ luật hình sự năm 2015 cũng đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng liên quan đến trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm. Chính vì vậy, việc nghiên cứu trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm trong thời điểm này càng có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn, góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận cho việc xác định trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm trong luật hình sự Việt Nam" là đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình và đƣợc cơ sở đào tạo chấp thuận.
  • 11. 3 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Liên quan tới đề tài trên, cũng đã có nhiều tác giả đề câ ̣p trƣ̣c tiếp hoă ̣c gián tiếp trong các công trình nghiên cứu khác nhau: Thứ nhất, các công trình nghiên cứu dƣới dạng tài liệu chuyên khảo, tham khảo, giáo trình, bình luận khoa học nhƣ: Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật Hình sự của GS. TSKH. Lê Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) do GS.TSKH. Lê Cảm (chủ biên), tái bản 2007; Trách nhiệm hình sự và hình phạt – GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Nxb Công an nhân dân 2004; Sách chuyên khảo Tội phạm và trách nhiệm hình sự - TS.Trịnh Tiến Việt, Nxb Chính trị quốc gia 2013; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần chung) của Trƣờng đại học luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân năm 2010, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Khoa luật- Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội năm 2005... Thứ hai, các công trình nghiên cứu thể hiện trên các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành nghiên cứu khoa học pháp lý, hội nghị, hội thảo nhƣ: “Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về tội không tố giác tội phạm” của TS.Trần Quang Tiệp đăng trên Tạp chí Kiếm sát số 23 tháng 12 năm 2005: "Mấy ý kiến về Điều 314 Bộ luật hình sự về tội không tố giác tội phạm” của tác giả Vũ Thành Long đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, tháng 10-2005; "Một số vấn đề về việc bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại trong các vụ án hình sự" của ThS. Trần Đại Thắng đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 24, tháng 12- 2005; "Một số bất hợp lý trong các quy định về tội che giấu tội phạm và tội không tố giác tội phạm" của tác giả Thái Văn Đoàn đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 19 tháng 10-2005... Tuy các công trình nghiên cứu đều có đề cập đến các vấn đề liên
  • 12. 4 quan đến tội không tố giác tội phạm ở các khía cạnh khác nhau, nhƣng chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài nhằm phân tích khoa h ọc để làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm. Tƣ̀ đó , luâ ̣n văn đƣa ra các gi ải pháp bảo đảm áp dụng đúng trách nhiệm hình sự đối với tội danh này, đặc biệt trong bối cảnh Bộ luật hình sự 2015 sắp có hiệu lực thi hành, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự từ phía cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. 3.2. Nhiê ̣m vụ nghiên cứ u Tƣ̀ mục đích nghiên cƣ́ u nêu trên, luâ ̣n văn có nhƣ̃ng nhiê ̣m vụchủ yếu sau: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm. Nghiên cứu trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm theo quy định BLHS hiện hành và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân. Từ đó luận văn đƣa ra những yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn đƣợc triển khai nghiên cứu trên đối tƣợng là trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm.
  • 13. 5 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luâ ̣n văn nghiên cƣ́ u và giải quyết nhƣ̃ng vấn đề xung quanh trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử sơ thẩm, trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 tại Tòa án nhân dân. Từ kết quả nghiên cứu những vấn đề này luận văn đƣa ra các giải pháp bảo đảm, nâng cao chất lƣợng hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm. 5. Phƣơng pháp luâ ̣n và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài đƣợc nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luâ ̣t; quan điểm, định hƣớng của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dƣ̣ng nhà nƣớc pháp quyền , về chính sách hình sự, đƣờng lối đấu tranh phòng chống tô ̣i pha ̣m đƣợc thể hiê ̣n trong Nghị quyết Đại hội Đảng VIII , IX, X và các Ngh ị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/T ngày 26/05/2005 về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 của Bộ chính trị. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng phƣơng pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ phƣơng pháp phân tích và tổng hợp; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu, phƣơng pháp diễn dịch, quy nạp để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc nghiên cứu trong luận văn; phƣơng pháp khảo sát thực tiễn để minh họa cho từng vấn đề cần thiết. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cƣ́ u của luâ ̣n văn ở một mức độ nhất định có ý nghĩa
  • 14. 6 quan trọng về phƣơng diê ̣n lý luâ ̣n và thƣ̣c tiễn , vì đây là công trìn h nghiên cƣ́ u chuyên sâu ở cấp độmô ̣t luâ ̣n văn tha ̣c sĩ luâ ̣t học về trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm , mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề về lý luâ ̣n và thƣ̣c tiễn liên quan tới đề tài trên . Những nội dung của luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về trách nhiệm hình sự nói chung và trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm nói riêng. Từ một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm, luận văn góp phần đƣa những quy định của Bộ luật hình sự về tội không tố giác tội phạm vào trong thực tế, đảm bảo áp dụng đúng trách nhiệm hình sự, mở ra những phƣơng hƣớng nghiên cứu mới trong tƣơng lai, đồng thời tạo thuâ ̣n lợi cho hoa ̣t đô ̣ng áp dụng pháp luâ ̣t củ a cơ quan có thẩm quyền; Luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành và tài liệu tham khảo đối với cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và công tác thực tiễn đặc biệt đội ngũ thẩm phán trong ngành tòa án nhân dân các cấp. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm. Chương 2: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng tại tòa án nhân dân. Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm.
  • 15. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI KHÔNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM 1.1. Khái niệm tội không tố giác tội phạm và trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm 1.1.1. Khái niệm tội không tố giác tội phạm Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm tới các khách thể do luật hình sự bảo vệ. Thông tƣ liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT- VKSNDTC quy định: “Tố giác về tội phạm là thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết” [2, Điều 3, Khoản 1]. Không tố giác nghĩa là không báo cho các cơ quan có thẩm quyền về những tin tức về tội phạm mà mình biết rõ [6, tr. 667]. Không tố giác tội phạm là hành vi không báo với cơ quan, tổ chức biết về tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện, hoặc đã đƣợc thực hiện mà mình biết rõ, đồng thời họ có khả năng tố giác, không gặp bất kì một trở ngại khách quan nào. Hành vi không tố giác tội phạm đã đƣợc BLHS của nhiều quốc gia trên thế giới điều chỉnh. Trong lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam thì hành vi này cũng đã đƣợc tội phạm hóa từ rất lâu, đến BLHS năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2016 tiếp tục quy định hành vi này là tội phạm với một số điểm mới quan trọng. Sở dĩ nhà làm luật quy định hành vi này là tội phạm xuất phát từ tính nguy hiểm cho xã hội đáng kể của hành vi này.
  • 16. 8 Hành vi này đã xâm phạm tới một trong những khách thể quan trọng của luật hình sự đó là hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Hành vi này không những gây khó khăn, cản trở cho cơ quan chức năng trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, mà còn lảm ảnh hƣởng tới hiệu quả, tính kịp thời, nhanh chóng của công tác điều tra, truy tố, xét xử,thi hành án của cơ quan chức năng, làm giảm hiệu lực-chức năng của bộ máy nhà nƣớc. Đề cấu thành tội này đòi hỏi ngƣời phạm tội phải nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phát hiện điều tra, xử lý tội phạm nhƣng vẫn thực hiện –không tố giác, tức là ngƣời phạm tội luôn thực hiện hành vi không tố giác dƣới hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Đồng thời ngƣời đó phải biết rõ tội phạm mà mình không tố giác là tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc đã đƣợc thực hiện. Biết rõ tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc đã đƣợc thực hiện tức là ngƣời đó phải biết hành vi của ngƣời phạm tội, nhận thức đƣợc hành vi đó là hành vi cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, cần phân biệt hành vi không tố giác tội phạm với hành vi đồng phạm của chính tội không tố giác đó. Trong đồng phạm, nếu tất cả những ngƣời liên quan cùng thực hiện một tội phạm (bất kỳ ngƣời nào tham gia đều nhằm thực hiện tội phạm hoặc thúc đẩy thực hiện tội phạm), nếu họ tham gia một trong các hành vi nhƣ: Hành vi trực tiếp thực hiện tội phạm (ngƣời thực hành), hành vi tổ chức thực hiện tội phạm (ngƣời tổ chức), hành vi xúi giục ngƣời khác thực hiện tội phạm (ngƣời xúi giục), hành vi giúp sức ngƣời khác thực hiện tội phạm (ngƣời giúp sức). Và tất cả hành vi của những ngƣời tham gia phải có sự liên kết thống nhất với nhau hành vi của ngƣời này phải là tiền đề cho hành vi của ngƣời khác, hành vi của mỗi ngƣời phải có
  • 17. 9 mối quan hệ nhân quả với việc thực hiện tội phạm chung và hậu quả của tội phạm chung đó. Đồng thời, tất cả những ngƣời tham gia đều có lỗi cố ý, tức là mỗi ngƣời phải nhận thức đƣợc hành vi của mình và của ngƣời khác là nguy hiểm; thấy trƣớc hậu quả hành vi của mình và của ngƣời khác gây ra, mong muốn có hoạt động chung, mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả phát sinh. Nếu không tố giác một tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện, hoặc đã thực hiện mà mình biết rõ nhƣng thỏa mãn các dấu hiệu khách quan và chủ quan trên thì về bản chất không còn là hành vi không tố giác tội phạm nữa mà là hành vi đồng phạm. Ngoài ra, nếu nhƣ một ngƣời hứa hẹn trƣớc sẽ không tố giác hành vi phạm tội của ngƣời khác khi ngƣời đó chuẩn bị hoặc thực hiện hành vi phạm tội thì hành vi này không còn là hành vi không tố giác tội phạm mà về bản chất là hành vi đồng phạm. Bởi việc hứa hẹn trƣớc sẽ không tố giác tội phạm là một dạng của hành vi giúp sức về tinh thần, có tác dụng củng cố ý chí và quyết tâm thực hiện tội phạm của ngƣời khác, nên trƣờng hợp này cần phải xác định là hành vi đồng phạm. Theo đó, tác giả đƣa ra khái niệm tội không tố giác tội phạm nhƣ sau: Tội không tố giác tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định, thực hiện một cách cố ý trực tiếp,mặc dù không có sự hứa hẹn trƣớc nhƣng khi biết rõ một tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc đã thực hiện theo quy định của Bộ luật hình sự mà không tố giác với cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, qua đó xâm phạm tới hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố xét xử.
  • 18. 10 1.1.2. Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm Về khái niệm TNHS hiện nay khoa học pháp lý còn nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm thống nhất hiện nay thừa nhận TNHS là một loại trách nhiệm pháp lý. Khái niệm trách nhiệm pháp lý vốn cũng đƣợc hiểu theo nhiều nghĩa, do vậy khái niệm TNHS cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm cho rằng, Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của ngƣời phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của mình [37, tr. 80], [41, tr. 162]; Trách nhiệm hình sự là việc thực hiện chế tài pháp lý hình sự, phát sinh từ khi áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội [40, tr. 59]. Trách nhiệm hình sự là những hậu quả pháp lý bất lợi mà ngƣời phạm tội phải chịu trƣớc Nhà nƣớc [46, tr. 106]; Trách nhiệm hình sự là nghĩa vụ của một ngƣời phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi trƣớc Nhà nƣớc về hành vi phạm tội của mình thể hiện ở việc ngƣời phạm tội bị tƣớc đoạt hoặc bị hạn chế quyền và lợi ích nhất định theo quy định của pháp luật [17, tr. 316]; Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của Nhà nƣớc và ngƣời phạm tội, đƣợc thể hiện ở các biện pháp tác động có tính chất pháp lý hình sự mà luật hình sự quy định, áp dụng đối với ngƣời thực hiện tội phạm, bao gồm hình phạt và các biện pháp tác động có tính chất pháp lý hình sự khác không phải hình phạt và đƣợc bắt đầu từ khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một ngƣời [15, tr. 8]; TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm nghĩa vụ phải chịu
  • 19. 11 sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, biện pháp cƣỡng chế của TNHS hình phạt, biện pháp tƣ pháp và chịu mang án tích [16, tr. 126]; Quan điểm khác cho rằng, TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và đƣợc thể hiện bằng việc áp dụng đối với ngƣời phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cƣỡng chế của nhà nƣớc do luật hình sự quy định [3, tr. 122]; TNHS là biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nƣớc đƣợc áp dụng đối với ngƣời thực hiện hành vi phạm tội [47, tr. 3]; TNHS là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, thể hiện ở chỗ ngƣời đã gây ra tội phải chịu TNHS về hành vi của mình trƣớc nhà nƣớc [42, tr. 41]; TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của ngƣời khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà ngƣời đó đã thực hiện [19, tr. 14]; Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, kết quả của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự và đƣợc thể hiện trƣớc hết ở việc kết án của Tòa án, nhân danh Nhà nƣớc, đối với ngƣời phạm tội [13 tr. 91]; Nhƣ vậy, về khái niệm TNHS còn rất nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên đều thống nhất ở nội hàm khái niệm đó là những hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm. Từ những quan điểm trên, tác giả có quan điểm nhƣ sau: TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý, đó là trách nhiệm của ngƣời phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm đối với nhà nƣớc và đƣợc thể hiện bằng việc áp dụng một hay nhiều biện pháp cƣỡng chế của nhà nƣớc do Bộ luật hình sự quy định đối với ngƣời phạm tội.
  • 20. 12 Qua đó, theo tác giả TNHS đối với tội không tố giác tội phạm đƣợc hiểu nhƣ sau: TNHS đối với tội không tố giác tội phạm là một dạng của trách nhiệm pháp lý, đó là trách nhiệm của ngƣời biết rõ tội phạm đang đựơc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc đã đƣợc thực hiện mà không tố giác, phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm đó đối với nhà nƣớc và đƣợc thể hiện bằng bản việc áp dụng một hay nhiều biện pháp cƣỡng chế của nhà nƣớc do Bộ luật hình sự quy định đối với ngƣời phạm tội. 1.2. Các đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm TNHS đối với tội không tố giác tội phạm có các đặc điểm chung của TNHS như Thứ nhất, TNHS là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm. Đặc điểm này thể hiện, hậu quả pháp lý này chỉ phát sinh khi có ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm hoặc không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật hình sự yêu cầu phải thực hiện, hay nói cách khác không có việc thực hiện tội phạm thì cũng không xuất hiện vấn đề TNHS. Đối với tội không tố giác tội phạm thì hậu quả pháp lý xuất hiện khi chủ thể không thực hiện nghĩa vụ mà pháp luật hình sự quy định đó là nghĩa vụ phải tố giác tội phạm khi biết rõ tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện, hoặc đã đƣợc thực hiện. Thứ hai, TNHS đƣợc biểu hiện cụ thể ở việc ngƣời phạm tội phải chịu biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nƣớc là hình phạt, biện pháp tƣớc bỏ hoặc hạn chế ở họ một số quyền hoặc lợi ích hợp pháp khác. Đối với tội không tố giác tội phạm thì TNHS thể hiện ở việc chủ thể
  • 21. 13 phải chịu những biện pháp cƣỡng chế nhƣ hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. Thứ ba, TNHS mà ngƣời phạm tội phải gánh chịu là trách nhiệm đối với Nhà nƣớc. Đặc điểm này thể hiện TNHS mà ngƣời thực hiện tội phạm phải gánh chịu không phải đối với ngƣời mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại mà là đối với Nhà nƣớc. Thứ tư, TNHS phải đƣợc phản ánh trong bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Ngoài ra, TNHS đối với tội không tố giác tội phạm còn có những đặc điểm riêng nhƣ: Thứ nhất, TNHS đối với tội không tố giác tội phạm thông thƣờng đƣợc xác định kèm theo TNHS đối với các tội danh mà ngƣời phạm tội không tố giác. Đây là đặc điểm rất đặc thù, do TNHS đối với tội không tố giác tội phạm chỉ đƣợc đặt ra khi có một tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thục hiện hoặc đã đƣợc thực hiện mà không đƣợc tố giác. Nói cách khác, không có việc phạm tội cụ thể nào đó xảy ra thì cũng không có tội không tố giác tội phạm và do đó cũng không đặt ra vấn đề TNHS đối với tội này. Thứ hai, TNHS đối với tội không tố giác tội phạm không có việc áp dụng hình phạt bổ sung hoặc các biện pháp tƣ pháp theo quy định của pháp luật hiện hành. 1.3. Cơ sở và các hình thức của trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm 1.3.1. Cơ sở của trách nhiệm hình sự của tội không tố giác tội phạm Cơ sở của TNHS đƣợc nghiên cứu dƣới nhiều góc độ khác nhau, trong khoa học luật hình sự Việt Nam, các quan điểm chính của nhà hình sự học tập
  • 22. 14 trung chủ yếu làm rõ cơ sở vật chất của TNHS, nhƣ đó là: Sự hiện diện của tất cả những dấu hiệu do luật quy định về tội phạm [42, tr. 43]; Là hành vi của một ngƣời khi thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm đƣợc quy định trong luật hình sự [19, tr. 18]; Hoặc là “Tội phạm-hành vi nguy hiểm cho xã hội chứa đựng các yếu tố cấu thành tội phạm” [12, tr. 182]; Tuy nhiên, tác giả đồng ý với quan điểm của GS.TSKH.Lê Cảm khi nghiên cứu cơ sở của TNHS cần tiếp cận trên ba bình diện: về mặt nội dung hay vật chất khách quan; về mặt hình thức bên ngoài, về mặt quy phạm pháp lý: Cơ sở khách quan của TNHS: Cơ sở của TNHS là việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm [4, tr. 631]. Theo đó, cơ sở khách quan của TNHS đối với tội không tố giác tội phạm là việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội (hành vi không tố giác tội phạm) mà luật hình sự quy định là tội phạm. Cơ sở hình thức của TNHS là căn cứ chung, có tính chất bắt buộc và do luật hình sự quy định mà chỉ có và phải dựa vào đó các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền mới có thể đặt ra vấn đề TNHS của ngƣời đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm [4, tr. 632]. Theo đó, cơ sở hình thức của TNHS đối với tội không tố giác tội phạm là căn cứ chung, có tính chất bắt buộc và do luật hình sự quy định mà chỉ có và phải dựa vào đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có thể đặt ra vấn đề TNHS của người không tố giác tội phạm theo những trường hợp bị luật hình sự cấm. Cơ sở pháp lý của TNHS là hành vi nguy hiểm cho xã hội có đầy đủ
  • 23. 15 các dấu hiệu của CTTP cụ thể tƣơng ứng đƣợc ghi nhận trong pháp luật hình sự [4, tr. 633]. Theo đó, thì cơ sở pháp lý của TNHS đối với tội không tố giác tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội có đầy đủ các dấu hiệu của CTTP của tội không tố giác tội phạm quy định trong pháp luật hình sự. 1.3.2. Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm Hình thức của TNHS là những biện pháp cƣỡng chế của nhà nƣớc đƣợc quy định trong luật hình sự để thực hiện TNHS và chỉ đƣợc áp dụng đối với ngƣời bị coi là có lỗi trong việc phạm tội. Các hình thức của TNHS đó có thể là các biện pháp cƣỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất- các hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Cũng có thể là các biện pháp cƣỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc hơn nhƣ các biện pháp tƣ pháp, miễn hình phạt. Đối với tội không tố giác tội phạm thì các hình thức của TNHS có tình đặc thù hơn so với các hình thức TNHS của các tội danh khác, các hình thức TNHS này thường nhẹ hơn so với các tội khác và thường được áp dụng cùng với các tội danh mà người phạm tội không tố giác. 1.4. Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1999 1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 đã đánh dấu sự ra đời của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Với thắng lợi mang ý nghĩa chính trị-lịch sử này, bên cạnh việc hình thành một nhà nƣớc kiểu mới thì đồng thời cũng đáng dấu mốc quan trong trong lịch sử lập pháp nói chung và lập pháp hình sự nói riêng.
  • 24. 16 Trong giai đoạn đầu khi nhà nƣớc mới thành lập phải đƣơng đầu với nhiều khó khăn, thử thách đến từ nhiều phía, chính vì vậy để điều chỉnh quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ pháp luật hình sự nói riêng. Nhà nƣớc ta đã ban hành sắc lệnh số 47-SL ngày 10/10/1945, tạm thời giữ lại các luật lệ cũ tại ba miền cho đến khi ban hành các văn bản pháp luật mới đề điều chỉnh các quan hệ trên với điều kiện không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hòa. Đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Nhà nƣớc ta đã ban hành một số văn bản pháp luật hình sự quan trọng nhƣ: Sắc lệnh số 27 ngày 28/2/1946 nhằm trừng trị các tội bắt cóc tống tiền và ám sát. Sắc lệnh số 133 ngày 20/1/1953 trừng trị những tội xâm phạm đến an toàn Nhà nƣớc, đối nội và đối ngoại; Sắc lệnh số 267 ngày 15/6/1956 của Nhà nƣớc ta về trừng trị những âm mƣu và hành động phá hoại tài sản của nhà nƣớc, của hợp tác xã, của nhân dân và cản trở việc thực hiện chính sách kế hoạch của Nhà nƣớc...nhằm điều chỉnh một số quan hệ pháp luật hình sự nhất định. Tuy nhiên, những văn bản pháp luật hình sự này không quy định tội không tố giác tội phạm mà chỉ quy định một số vấn đề liên quan tới tố giác tội phạm của công dân nhƣ quy định trách nhiệm của công dân phải tố giác ngƣời phạm tội, khen thƣởng cho ngƣời có công tố giác tội phạm. Ví dụ: Sắc lệnh số 267-SL ngày 15/6/1956 của Nhà nƣớc ta tại Điều 14 quy định: Đối với kẻ phạm pháp, nhân dân có nhiệm vụ tố cáo, hoặc mật báo với cơ quan có trách nhiệm và hết sức giúp đỡ việc điều tra, xét xử, nhƣng không đƣợc vì thù riêng, lợi ích riêng mà vu cáo. Ngƣời nào có công trong việc tố cáo, khám phá các vụ phạm pháp, tóm bắt kẻ có tội, sẽ đƣợc khen thƣởng [5, Điều 14].
  • 25. 17 Trong các năm tiếp theo, nhà nƣớc ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng khác điều chỉnh các quan hệ pháp luật hình sự phát sinh nhƣ: Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967; Pháp lệnh trừng trị tội hối lội ngày 20/5/1981; Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép ngày 30/6/1982...tuy nhiên các văn bản pháp luật trên cũng không quy định về tội không tố giác tội phạm mà cũng chỉ đề cập một số vấn đề liên quan, nhƣ khen thƣởng đối với ngƣời có công tố giác tội phạm. Ví dụ: Pháp lệnh không số, ngày 30-10-1967 trừng trị các tội phản cách mạng, có đề cập vấn đề động viên nhân dân tố giác tội phạm ở lời nói đầu: "Để nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng của nhân dân, động viên toàn dân tích cực tham gia giữ gìn trật tự an ninh" [43, Lời nói đầu]. Pháp lệnh số 149-LCT ngày 21-10-1970 trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa: "Để phát huy tinh thần làm chủ tập thể của cán bộ, công nhân, viên chức, bộ đội và toàn thể nhân dân, đề cao đạo đức xã hội chủ nghĩa, động viên mọi người ra sức đấu tranh chống những hành động xâm phạm tài sản đó" [44, Lời nói đầu]. Pháp lệnh trừng trị tối hội lố ngày 20/5/1981 quy định: Những ngƣời không nhận hối lội và tố giác với cơ quan có trách nhiệm ngƣời đƣa hối lộ hoặc ngƣời môi giới hối lộ thì đƣợc khen thƣởng theo quy định chung của nhà nƣớc. Những ngƣời tố giác và giúp đỡ cơ quan có trách nhiệm trừng trị tội hối lội thì đƣợc khen và đƣợc thƣởng bằng tiền 10% giá trị của hối lội đã bị tịch thu [45, Điều 12]. Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép (ban hành ngày 30/6/1982) đã quy định:
  • 26. 18 Ngƣời có công trong việc chống đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, đƣợc xét khen thƣởng theo chế độ chung của Nhà nƣớc. Ngoài ra, tuỳ theo tính chất của vụ án và công lao đóng góp của mỗi ngƣời, còn đƣợc thƣởng một khoản tiền từ 5% đến 10% trị giá hàng hoá tịch thu hoặc tiền phạt [18, Điều 12]. Tóm lại, sơ lƣợc giai đoạn luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trƣớc khi nhà nƣớc ta ban hành BLHS năm 1985 trong giai đoạn này tội không tố giác tội phạm không đƣợc quy định trong pháp luật hình sự. Nhà nƣớc chƣa coi tố giác tội phạm là nghĩa vụ bắt buộc của công dân mà chỉ khuyến khích công dân tố giác tội phạm và vì vậy TNHS đối với tội danh này không đƣợc đặt ra. 1.4.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 Ngày 27/6/1985, Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII, tại kì họp thứ 9, đã thông qua BLHS, có hiệu lực từ ngày 1/1/1986, sau đây gọi tắt là BLHS năm 1985. Bộ luật hình sự năm 1985 là BLHS đầu tiên của nhà nƣớc ta, sự ra đời của BLHS đánh dấu một bƣớc ngoặt to lớn trong lịch sử lập pháp hình sự của đất nƣớc, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sƣ Việt Nam, tội không tố giác tội phạm đã đƣợc ghi nhận cụ thể tại Điều 19 và Điều 247 BLHS. BLHS năm 1985 quy định: “Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm trong những trường hợp mà Bộ luật này quy định” [21, Điều 19]. Cụ thể hóa Điều 19, Điều 247 BLHS năm 1985 quy định: “1- Người nào biết rõ một trong những tội phạm quy định ở các Điều sau đây đang được chuẩn bị hoặc đã được thực hiện mà không tố giác thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm [21, Điều 247].
  • 27. 19 - Các Điều từ 72 đến 85 về các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia; Điều 87 (tội chiếm đoạt máy bay, tàu thuỷ); Điều 94, khoản 2 (tội phá huỷ công trình,phƣơng tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 95, khoản 2 và 3 (tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phƣơng tiện kỹ thuật quân sự); Điều 96, khoản 2 và 3 (tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ); Điều 98 (tội làm tiền giả, tội tàng trữ, lƣu hành tiền giả, tội phá huỷ tiền tệ). - Điều 101(tội giết ngƣời); Điều 112, khoản 2, 3 và 4 (tội hiếp dâm); - Điều 129 (tội cƣớp tài sản xã hội chủ nghĩa); Điều 132, khoản 2 và 3 (tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa); Điều 133, khoản 2 và 3 (tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa); Điều 138, khoản 2 và 3 (tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa); - Điều 151(tội cƣớp tài sản công dân); Điều 152 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân); - Điều 165, khoản 2 và 3 (tội đầu cơ); Điều 172, khoản 2 và 3 (tội chiếm đoạt tem, phiếu,tội làm hoặc lƣu hành tem, phiếu giấy tờ giả dùng vào việc phân phối); - Điều 245, khoản 2 (tội trốn khỏi nơi giam). 2- Ngƣời không tố giác nếu đã có hành động can ngăn ngƣời phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm thì có thể đƣợc miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt [21, Điều 247]. Với sự ra đời của quy định trên, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, nhà nƣớc ta đã xây dựng đƣợc cơ sở pháp lý thống nhất đề truy cứu TNHS những hành vi không tố giác tội phạm, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của công dân cũng nhƣ hiệu quả của công tác đấu tranh chống tội phạm.
  • 28. 20 Quy định tội không tố giác tội phạm của BLHS năm 1985 đã cơ bản đáp ứng đƣợc thực tiễn đấu tranh phòng chống tội không tố giác tội phạm trong giai đoạn này. Về TNHS của tội không tố giác tội phạm thì nhà làm luật quy định như sau: Về hình phạt: Tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hại, cũng nhƣ tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm không bị tố giác thì ngƣời phạm tội không tố giác tội phạm có thể bị áp dụng một trong các hình phạt sau: Thứ nhất, hình phạt cảnh cáo. Cảnh cáo đƣợc áp dụng đối với ngƣời phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhƣng chƣa đến mức miễn hình phạt. Nhƣ vậy, theo quy định của BLHS năm 1985 nếu ngƣời phạm tội không tố giác tội phạm có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhƣng chƣa đến mức miễn hình phạt thì có thể đƣợc áp dụng hình phạt cảnh cáo do tội không tố giác tội phạm luôn là tôi ít nghiêm trọng. Thứ hai, hình phạt cải tạo không giam giữ đến một năm. Theo quy định của BLHS năm 1985 thì Cải tạo không giam giữ đƣợc áp dụng từ sáu tháng đến hai năm đối với ngƣời phạm tội ít nghiêm trọng. Nhƣ vậy, nếu ngƣời phạm tội không tố giác tội phạm có nơi làm việc hoặc cƣ trú rõ ràng thì có thể đƣợc áp dụng hình phạt này do tội này luôn là tội ít nghiêm trọng. Thứ ba, hình phạt tù có thời hạn từ từ ba tháng đến ba năm. Đây là hình phạt nặng nhất đƣợc áp dụng đối với ngƣời phạm tội không tố giác tội phạm nhằm cách ly họ ra khỏi xã hội trong một khoảng thời gian. Ngoài ra, tùy vào từng trƣờng hợp cụ thể mà ngƣời phạm tội có thể đƣợc tòa án cho hƣởng án treo nếu thỏa mãn các điều kiện khác nhƣ:
  • 29. 21 Nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và nếu xét không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Toà án cho hƣởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm. Về trường hợp được miễn TNHS hoặc miễn hình phạt thì Khoản 2 Điều 247 BLHS quy định: Ngƣời không tố giác nếu đã có hành động can ngăn ngƣời phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm thì có thể đƣợc miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt. Đây là một trong những căn cứ đƣợc miễn TNHS hoặc miễn hình phạt độc lập với quy định về miễn TNHS tại Điều 48 BLHS 1985. Điều kiện để ngƣời phạm tội đƣợc miễn TNHS hoặc miễn hình phạt đó là trƣờng hợp biết rõ tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc đã đƣợc thực hiện mà không đi tố giác nhƣng đã có hành động can ngăn ngƣời phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm xảy ra. Tuy nhiên, những quy định về tội danh và TNHS của tội không tố giác tội phạm trong BLHS năm vẫn còn một số điểm chƣa hợp lý: Thứ nhất, theo quy định tại Điều 19 và Điều 247 BLHS thì cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền vẫn truy cứu TNHS đối với ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh, chị, em ruột, vợ hoặc chồng của ngƣời phạm tội khi họ không tố giác tội phạm do ngƣời thân của mình thực hiện, kể cả những tội có tính nguy hiểm cho xã hội không cao. Quy định này đã bỏ qua không xem xét tới mối quan hệ tình cảm đặc biệt sâu nặng giữa họ với ngƣời phạm tội, trong khi đây chính là nét đặc trƣng của truyền thống dân tộc Việt Nam. Chính vì, sự thiếu sót này đã làm cho quy định tội không tố giác tội
  • 30. 22 phạm trong BLHS năm 1985 trở nên cứng nhắc, chƣa kết hợp hài hòa giữa pháp luật với đạo đức. Thứ hai, trong CTTP tội không tố giác tội phạm đƣợc quy định tại Khoản 1 Điều 247 BLHS năm 1985 mới chỉ quy định hai dạng hành vi đang đƣợc chuẩn bị hoặc đã đƣợc thực hiện mà chƣa ghi nhận dạng hành vi đang đƣợc thực hiện mà không tố giác, đây là một quy định chƣa tƣơng thích với Điều 19 BLHS năm 1985.
  • 31. 23 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Thông qua chƣơng 1 của luận văn, tác giả đã làm rõ một số vấn đề lý luận quan trọng về trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm nhƣ làm rõ khái niệm tội không tố giác tội phạm và trách nhiệm hình sự đối với tội danh này, đồng thời tác giả cũng làm rõ các vấn đề lý luận khác nhƣ đặc điểm, cơ sở và các hình thức của TNHS đối với tội không tố giác tội phạm. Tiếp đến, tác giả đã khái quát lịch sử lập pháp quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1999, cùng với những phân tích tổng quát đối với những đặc điểm của TNHS tội không tố giác tội phạm trong giai đoạn này làm cơ sở cho việc phân tích những quy định của BLHS hiện hành cũng nhƣ thực tiễn thi hành những vấn đề liên quan tới TNHS của tội không tố giác tội phạm tại các chƣơng tiếp theo.
  • 32. 24 Chương 2 TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI KHÔNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN 2.1. Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 2.1.1. Cơ sở trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm theo quy định Bộ luật hình sự năm 1999 Trong phạm vi luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung làm rõ cơ sở pháp lý của TNHS đối với tội không tố giác tội phạm–đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội có đẩy đủ các dấu hiệu của CTTP tội không tố giác tội phạm. Khách thể của tội không tố giác tội phạm. Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [38, tr. 78]. Trong luật hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội đƣợc coi là khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội đƣợc quy định tại Điều 8 BLHS: Đó là: Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Theo đó hành vi bị coi là tội phạm, theo luật hình sự Việt Nam là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho một trong những quan
  • 33. 25 hệ xã hội đã đƣợc ghi nhận đó, đồng thời những quan hệ xã hội này đã đƣợc cụ thể hóa qua những quy phạm pháp luật hình sự ở phần các tội phạm của BLHS, khách thể của tội phạm thể hiện tính chất, nội dung nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Theo quy định của BLHS năm 1999 thì tội không tố giác tội phạm đƣợc quy định tại Điều 314 thuộc chƣơng XXII các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp. Tội này đặc trƣng bởi hành vi không báo cho cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền về tội phạm do ngƣời khác đang chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc đã đƣợc thực hiện mà mình biết rõ, hành vi này thể hiện thái độ thờ ơ thiếu trách nhiệm của ngƣời phạm tội đối với lợi ích của nhà nƣớc, của xã hội, đã góp phần gây khó khăn cho việc điều tra, phát hiện xử lý ngƣời phạm tội, và không ngăn chặn kịp thời thiệt hại do tội phạm gây ra. Theo đó, theo tác giả thì khách thể của tội không tố giác tội phạm là hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, gây khó khăn cho công tác điều tra, try tố, xét xử. Để thực hiện hành vi xâm hại tới khách thể trên, ngƣời phạm tội cần tác động vào đối tƣợng tác động của tội phạm, đó chính là bộ phận của khách thể tội phạm bị hành vi phạm tội xâm phạm tới để gây thiệt hại, đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ. Có tác giả cho rằng, đối tƣợng tác động của tội phạm này là ngƣời phạm tội- ngƣời mà ngƣời phạm tội không tố giác. Thông qua ngƣời này mà ngƣời phạm tội xâm phạm đến hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng gây ảnh hƣớng đến việc phát hiện, điều tra, chứng minh tội phạm, vi phạm nguyên tắc xử lý mọi hành vi phạm tội đƣợc phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng quy định của pháp luật [20, tr. 326].
  • 34. 26 Tuy nhiên, tác giả cho rằng, đối với tội không tố giác tội phạm thì đối tƣợng tác động của tội phạm đó là chính là xử sự trái pháp luật của ngƣời có hành vi không tố giác tội phạm. Theo quy định của pháp luật, xử sự bình thƣờng của một công dân là phải thông báo cho cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện, hoặc đã đƣợc thực hiện mà minh biết rõ nhằm tạo điều kiện cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử diễn ra nhanh chóng, kịp thời, nhƣng họ đã không thực hiện. Hay nói cách khác, để xâm phạm tới hoạt động đúng đắn của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án thì ngƣời phạm tội đã tự làm biến dạng xử sự của mình. Mặt khách quan của tội không tố giác tội phạm. Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan [38, tr. 99]. Mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội nhƣ công cụ, phƣơng pháp, thời gian, địa điểm phạm tội. Trong mặt khách quan của tội phạm thì hành vi khách quan là dấu hiệu quan trọng nhất, một hành vi đƣợc coi là hành vi khách quan của tội phạm khi hội tụ đƣợc ba đặc điểm sau: Thứ nhất, hành vi khách quan đó phải có tính nguy hiểm cho xã hội, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi thể hiện hành vi đó gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ. Thứ hai, hành vi khách quan đó phải là hoạt động có ý thức và có ý chí
  • 35. 27 nếu hành vi đó là cách xử sự của một con ngƣời không có nhận thức không có ý chí thì đó không phải là hành vi phạm tội. Thứ ba, hành vi khách quan của tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự. Hành vi khách quan của tội phạm có thể đƣợc thực hiện dƣới hình thức hành động hoặc không hành động. Đối với tội không tố giác tội phạm, hành vi khách quan của tội phạm này ngoài việc thỏa mãn ba đặc điểm trên thì có một đặc điểm rất quan trọng đó là luôn đƣợc thực hiện dƣới hình thức không hành động phạm tội. Đây là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thƣờng của đối tƣợng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện làm [38, tr. 105]. Đối với tội không tô giác tội phạm, nghĩa vụ của mọi công dân là phải tố giác tội phạm với cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, nghĩa vụ tố giác tội phạm của công dân là do luật định, nghĩa vụ này không chỉ quy định trong BLHS mà con đƣợc quy định trong nhiều văn bàn pháp luật khác. Ví dụ: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: Các tổ chức, công dân có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức [24, Điều 25, Khoản 1]. Mặt khác, Điều 101 BLTTHS năm 2003 quy định: Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của ngƣời tố giác.
  • 36. 28 Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận đƣợc tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản [24, Điều 101]. Nhƣ vậy, hành vi không tố giác tội phạm đƣợc thực hiện nhƣ không báo với cơ quan, tổ chức biết về tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện, hoặc đã đƣợc thực hiện mà mình biết rõ, đồng thời họ có khả năng tố giác, không gặp bất kì một trở ngại khách quan nào. Nếu vì lý do khách quan mà ngƣời không tố giác không có khả năng tố giác thì hành vi không tố giác đó không bị coi là hành vi phạm tội [11, tr. 223]. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 314 BLHS thì không phải mọi hành vi không tố giác tội phạm đều là hành vi phạm tội, mà chỉ không tố giác tội phạm đƣợc dẫn chiếu tại Điều 313 BLHS mới CTTP tội không tố giác tội phạm. Việc xác định những tội này có thuộc Điều 313 BLHS hay không do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện. Chủ thể của tội không tố giác tội phạm. Chủ thể của tội phạm là ngƣời có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể [38, tr. 122]. Theo đó thì ngƣời có năng lực TNHS là ngƣời khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức đƣợc tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển đƣợc hành vi ấy. Xét từ góc độ pháp luật, năng lực trách nhiệm hình sự là khái niệm có nhiều mặt. Một mặt, khái niệm này đƣợc dùng để khẳng định khả năng bị buộc tội của một con ngƣời về hành vi tội phạm mà họ thực hiện. Mặt khác, khái niệm này nêu bật khả năng của con ngƣời phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà họ đã thực hiện [33, tr. 69].
  • 37. 29 Luật hình sự Việt Nam không trực tiếp quy định thế nào là ngƣời có năng lực TNHS mà chỉ quy định thông qua độ tuổi chịu TNHS tại Điều 12 BLHS và tình trạng không có năng lực TNHS tại Điều 13 BLHS. BLHS năm 1999 quy định về độ tuổi chịu TNHS nhƣ sau: 1. Ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên, nhƣng chƣa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [22, Điều 12]. Nhƣ vậy, ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên nhƣng chƣa đủ 16 tuổi đƣơc coi là có năng lực TNHS chƣa đầy đủ. Do đó, họ chỉ phải chịu TNHS về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý theo quy định tại Khoản 3 Điều 8 BLHS là tội có mức cao nhất của khung hình phạt đến 15 năm tù hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mƣời lăm năm tù, tù chung thân, hoặc tử hình. Và ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên thì phải chịu TNHS về mọi tội phạm, việc xác định tuổi đối với ngƣời chƣa thành niên do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật. Đồng thời tại BLHS năm 1999 quy định về tình trạng không có năng lực TNHS nhƣ sau: 1. Ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với ngƣời này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
  • 38. 30 2. Ngƣời phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhƣng đã lâm vào tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này trƣớc khi bị kết án, thì cũng đƣợc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, ngƣời đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự [22, Điều 13]. Theo đó, một ngƣời chỉ đƣợc coi là không có năng lực TNHS khi đồng thời thỏa mãn hai dấu hiệu sau: Về y học - ngƣời đó mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần, đồng thời về tâm lý họ bị mất năng lực nhận thức, hoặc mất năng lực điều khiển hành vi của mình, việc xác định hai dấu hiệu này do hội đồng giám định pháp y xác định và kết luận. Nhƣ vậy chủ thể của tội phạm phải là ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên và không trong tình trạng không có năng lực TNHS. Bên cạnh đó, một số CTTP đòi hỏi chủ thể phải có thêm dấu hiệu đặc biệt chỉ khi có dấu hiệu này mới có thể thực hiện đƣợc hành vi phạm tội mà CTTP phản ánh, khoa học luật hình sự gọi đây là chủ thể đặc biệt. Từ phân tích trên, đối chiếu với quy định tại Điều 314 BLHS cho thấy tội không tố giác tội phạm thì chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn nhƣng điều kiện sau: Thứ nhất, họ phải từ đủ 16 tuổi trở lên, do tội này luôn là tội ít nghiêm trọng, vì mức cao nhất của khung hình phạt theo Khoản 1 Điều 314 BLHS là ba năm tù. Họ phải có khả năng nhận thức hành vi không tố giác tội phạm của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm đồng thời có khả năng điều khiển đƣợc hành vi của mình nhƣng vẫn thực hiện.
  • 39. 31 Bên cạnh đó, tội này cũng không đòi hỏi ngƣời thực hiện hành vi phạm tội phải có những dấu hiệu đặc biệt, nghĩa là bất kì ai cũng có thể là chủ thể của tội phạm này. Tuy nhiên, luật hình sự nƣớc ta đã loại trừ một số chủ thể mặc dù họ thỏa mãn những dấu hiệu nhƣ trên là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của ngƣời phạm tội họ không phải chịu TNHS về hành vi không tố giác tội phạm trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia và tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng, quy định nhằm ghi nhận mối quan hệ tình cảm sâu nặng của những ngƣời thân trong gia đình. Nói cách khác, họ chỉ phải chịu TNHS về việc không tố giác tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng. Mặt chủ quan của tội không tố giác tội phạm. Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của ngƣời phạm tội [38, tr. 133]. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi, động cơ, mục đích của ngƣời phạm tội. Thứ nhất, về yếu tố lỗi. Lỗi trong luật hình sự trƣớc hết đƣợc hiểu là quan hệ giữa ngƣời phạm tội với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định chủ quan những đòi hỏi của xã hội đƣợc thể hiện qua các đòi hỏi cụ thể của luật hình sự. Sự phủ định chủ quan này tồn tại trên cơ sở và trong sự thống nhất với sự phủ định khách quan là sự gây thiệt hại cho quan hệ xã hội là khách thể đƣợc luật hình sự bảo vệ, lỗi chỉ đặt ra cho những trƣờng hợp trong đó có khả năng xử sự phù hợp với xã hội và chủ thể đã không lựa chọn khả năng này. Về mặt hình thức thì lỗi là thái độ tâm lý của con ngƣời đối với hành vi
  • 40. 32 nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra đƣợc biểu hiện dƣới hình thức cố ý hoặc vô ý [20, tr. 136]. Khoa học luật hình sự Việt Nam chia lỗi thành lỗi cố ý và lỗi vô ý, trong đó lỗi cố ý đƣợc chia thành cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp; lỗi vô ý thành lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý vì cẩu thả. Đối với tội không tố giác tội phạm thì lỗi của ngƣời phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp, tức là ngƣời phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phát hiện điều tra, xử lý tội phạm nhƣng vẫn thực hiện–không tố giác. Để cấu thành tội này đòi hỏi ngƣời phạm tội phải là ngƣời biết rõ tội phạm mà mình không tố giác là tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc đã đƣợc thực hiện. Biết rõ tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc đã đƣợc thực hiện tức là ngƣời đó phải biết hành vi của ngƣời phạm tội, nhận thức đƣợc hành vi đó là hành vi cấu thành tội phạm, việc biết rõ tội phạm của họ có thể thông qua các hình thức khác nhau nhƣ nghe, nhìn...Trong thực tế, việc biết rõ tội phạm đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện bị chi phối bởi yếu tố sau: Về chủ quan: việc biết rõ tội phạm phụ thuộc vào mức độ nhạy cảm của các giác quan, tình trạng sức khỏe, trạng thái tâm lý, khả năng nhận thức, trình độ hiểu biết, về đối tƣợng tri giác của ngƣời tri giác khi tri giác các sự việc phạm tội. Về khách quan: việc biết rõ hay không lại phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của sự kiện tri giác đơn giản hay phức tạp, phạm vi rộng hay hẹp, số lƣợng các tình tiết, thủ đoạn tinh vi, điều kiện thời tiết thuận lợi hay không....
  • 41. 33 nếu biết rõ hành vi nhƣng không nhận thức đƣợc hành vi đó là hành vi phạm tội thì việc không tố giác không phải là hành vi phạm tội. Những dấu hiệu khác của mặt chủ quan: Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan của ngƣời phạm tội đặt ra phải đạt đƣợc khi thực hiện hành vi phạm tội [38, tr. 153]. Đối với tội không tố giác tội phạm thì mục đích của ngƣời phạm tội khá đa dạng có thể là nhằm bao che cho ngƣời đã thực hiện tội phạm, gây khó khăn cho việc điều tra, phát hiện tội phạm... Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy ngƣời phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý [38, tr. 152]. Đối với tội không tố giác tội phạm, ngƣời phạm tội có thể xuất phát từ quan hệ tình cảm, quan hệ bạn bè, gia đình, lo sợ bị trả thù hoặc xuất phát từ tâm lý sợ bị phiền phức, mất thời gian... Tuy nhiên, động cơ và mục đích của ngƣời phạm tội không tố giác tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc của CTTP tội này, nó chỉ có ý nghĩa khi xem xét quyết định hình phạt đối với ngƣời không tố giác tội phạm. 2.1.2. Các hình thức của trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 Các hình thức của TNHS của tội không tố giác tội phạm đƣợc quy định chủ yếu tại Điều 314 BLHS. Theo đó, Khoản 1 là cấu thành tội phạm cơ bản, Khoản 2 của điều luật là trƣờng hợp loại trừ TNHS đối với một số chủ thể trong một số trƣờng hợp và Khoản 3 của điều luật là cấu thành tội phạm giảm nhẹ nhƣng không có khung hình phạt mà là trƣờng hợp miễn TNHS hoặc miễn hình phạt.
  • 42. 34 Thứ nhất, về hình phạt Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc nghiêm khắc nhất, đƣợc quy định trong LHS, do Tòa án nhân danh Nhà nƣớc tuyên trong bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật đối với chính ngƣời đã có lỗi trong việc thực hiện tội phạm, tƣớc bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ích nhất định của ngƣời bị kết án nhằm cải tạo, giáo dục ngƣời phạm tội, phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung [36, tr. 52]. Hình phạt áp dụng đối với tội không tố giác tội phạm đƣợc quy định tại BLHS năm 1999: Ngƣời nào biết rõ một trong các tội phạm đƣợc quy định tại Điều 313 của Bộ luật này đang đƣợc chuẩn bị, đang hoặc đã đƣợc thực hiện mà không tố giác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm [22, Điều 314, Khoản 1]. Theo quy định trên thì ngƣời phạm tội có thể bị áp dụng một trong ba loại hình phạt chính là cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc tù đến ba năm. Hình phạt cảnh cáo: Cảnh cáo là sự khiển trách công khai của nhà nƣớc do Tòa án áp dụng đối với ngƣời phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất trong hệ thống hình phạt, thể hiện sự lên án công khai của nhà nƣớc đối với ngƣời phạm tôi về hành vi phạm tội của họ. Ngƣời bị áp dụng hình phạt cảnh cáo phải là ngƣời phạm tội ít nghiêm trọng và phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS đƣợc quy định Điều 46 BLHS, nhiều tình tiết giảm nhẹ tức là phải có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên, và hai tình tiết này không nhất thiết phải thuộc Khoản 1 Điều 46 BLHS.
  • 43. 35 Thực tiễn xét xử cho thấy, ngƣời phạm tội đƣợc áp dụng hình phạt cảnh cáo phải là ngƣời có nhiều tình tiết giảm nhẹ, trong đó nhất thiết phải có tình tiết giảm nhẹ đƣợc quy định tại Khoản 1 Điều 46 BLHS và mức độ giảm nhẹ của tình tiết này cũng là đáng kể tới mức gần đƣợc miễn hình phạt [38, tr. 175]. Nhƣ vậy, đối với ngƣời phạm tội không tố giác tội phạm nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ đƣợc quy định tại Điều 46 có ít nhất một tình tiết quy định tại Khoản 1 Điều 46 BLHS thì họ có thể đƣợc áp dụng hình phạt nhẹ nhất là cảnh cáo vì tội không tố giác tội phạm luôn là tội ít nghiêm trọng. Ngƣời bị phạt cảnh cáo sau một năm, nếu không phạm tội mới thì đƣơng nhiên đƣợc xóa án tính theo quy định tại điểm a, Khoản 2 Điều 64 BLHS năm 1999. Hình phạt cải tạo không giam giữ: Đây là hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù nhƣng nặng hơn hình phạt cảnh cảo. Cải tạo không giảm giữ không buộc ngƣời bị kết án phải cách li khỏi xã hội mà họ đƣợc chung sống với gia đình nhƣ những ngƣời khác dƣới sự giám sát của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phƣơng nơi ngƣời đó làm việc hoặc thƣờng trú. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 31 BLHS thì hình phạt này đƣợc áp dụng đối với ngƣời phạm tôi ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng với mức phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, đồng thời ngƣời phạm tội phải có nơi làm việc ổn định hoặc có nới thƣờng trú rõ ràng và nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly họ khỏi xã hội. Hình phạt cải tạo không giảm giữ thể hiện tính nhân đạo, mềm dẻo của pháp luật với mục đích giáo dục, tạo điều kiện cho ngƣời phạm tội có cơ hội sửa chữa.
  • 44. 36 Theo đó, đối với ngƣời phạm tội không tố giác tội phạm nếu họ có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thƣờng trú rõ ràng và sau khi xem xét đến các yếu tố nhƣ nhân thân ngƣời phạm tội gia đình, công việc, tiền án, tiền sự...xét thấy không cần thiết phải cách ly họ khỏi xã hội thì Tòa án có thể áp dụng hình phạt cải tạo không giảm giữ đối với họ vì tội không tố giác tội phạm luôn là tội ít nghiêm trọng. Khi áp dụng hình phạt này Tòa án phải giao ngƣời bị cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi ngƣời đó làm việc hoặc chính quyền địa phƣơng nơi thƣờng trú để những cơ quan, tổ chức này giám sát, giáo dục ngƣời bị kết án chấp hành hình phạt. Hình phạt cải tạo không giam giữ tạo điều kiện cho ngƣời phạm tội không bị cách ly khỏi xã hội và làm việc cần thiết, vừa có tác dụng răn đe vừa tạo điều kiện cho họ hòa nhập với xã hội một cách sớm nhất. Hình phạt tù có thời hạn. Đây là hình phạt nhằm buộc ngƣời bị kết án phải cách ly khỏi xã hội trong thời hạn nhất định để cải tạo, lao động và học tập. Đây là hình phạt nghiêm khắc hơn cải tạo không giam giữ, ngƣời bị kết án bị tƣớc tự do, bị cách ly khỏi xã hội. Theo đó, thì ngƣời phạm tội không tố giác tội phạm có thể bị phạt tù tối đa là ba năm và tối thiểu là ba tháng, đây là mức thấp nhất đối với hình phạt tù có thời hạn. Nhìn chung, khi quyết định hình phạt đối với ngƣời phạm tội thì Tòa án cần phải căn cứ vào quy định của BLHS đó là những quy định liên quan tới nguyên tắc xử lý, những vấn đề liên quan tới hình phạt và quyết định hình phạt, căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
  • 45. 37 nhân thân ngƣời phạm tội và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ TNHS để quyết định hình phạt đƣợc chính xác. Theo đó nếu ngƣời phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhƣng mức độ nguy hiểm cho xã hội không đáng kể nhân thân tốt thì có thể áp dụng hình phạt cảnh cảo hoặc cải tạo không giam giữ. Nếu ngƣời phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có nhƣng không đáng kể, ngƣời phạm tội có nhiều tiền án, tiền sự hoặc không tố giác tội phạm là tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng thì có thể áp dụng hình phạt tù với mức hình phạt cao nhất là ba năm tù. Ngoài ra, nếu ngƣời phạm tội có nhân thân tốt chấp hành đúng chính sách, pháp luật của nhà nƣớc, chƣa có tiền án tiền sự...có nhiều tình tiết giảm nhẹ (có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên trong đó ít nhất có một tình tiết đƣợc ghi nhận tại Khoản 1 Điều 46) và xét thấy không cần phải chấp hành hình phạt tù thì tòa án có thể cho ngƣời phạm tội đƣợc hƣởng án treo đây là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Thứ hai, trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo Khoản 2 Điều 314 BLHS Khoản 2 của điều luật không phải là cấu thành tăng nặng hay cấu thành giảm nhẹ mà là trƣờng hợp loại trừ TNHS một số trƣờng hợp đối với ngƣời không tố giác tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột vợ hoặc chồng của ngƣời phạm tội. Đây là quy định nhằm thể hiện nét đặc trƣng truyền thống – đạo đức, văn hóa, lịch sử ở nƣớc ta trƣớc đây và hiện nay. Đối với những ngƣời này phải cân nhắc giữa hai nghĩa vụ, một bên là nghĩa vụ công dân với xã hội, với một bên là nghĩa vụ đạo đức với ngƣời thân
  • 46. 38 của mình, thì đối với ngƣời Việt Nam đa phần thƣờng chọn việc vi phạm nghĩa vụ công dân đối với xã hội mà không chọn việc vi phạm nghĩa vụ đối với ngƣời thân của mình. Cụ thể: Ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của ngƣời phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về việc không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng. Ông bà của ngƣời phạm tội bao gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Cha mẹ bao gồm cha mẹ đẻ, hoặc cha mẹ nuôi; nếu là cha mẹ nuôi thì việc nhận con nuôi phải đúng với quy định của pháp luật về nhận con nuôi, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng, cha dƣợng, mẹ kế. Con bao gồm con đẻ hoặc con nuôi, nếu là con nuôi thì việc nhận con nuôi phải đúng quy định của pháp luật về nhận con nuôi, con dâu, con rể, con riêng của vợ, con riêng của chồng. Cháu bao gồm cháu nội, cháu ngoại, cháu dâu, cháu rể. Anh chị em ruột bao gồm anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha, không bao gồm anh chị em nuôi, vì điều luật chỉ quy định anh chị em ruột. Vợ hoặc chồng là vợ chồng hợp pháp đƣợc pháp luật công nhân, nếu là hôn nhân thực tế mà không đƣợc pháp luật công nhân thì vẫn không đƣợc loại trừ TNHS, điều luật không quy định những ngƣời này phải thƣờng xuyên sống chung với ngƣời phạm tội hoặc thƣờng xuyên quan hệ với ngƣời phạm tội mà chỉ cần có quan hệ phát sinh từ huyết thống hoặc từ quan hệ hôn nhân hợp pháp với ngƣời phạm tội là đủ. Khi xác định TNHS đối với những ngƣời này cũng tƣơng tự nhƣ đối với trƣờng hợp xác định TNHS đối với ngƣời không tố giác tôi phạm khác,
  • 47. 39 chỉ cần biết rõ là tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc đã thực hiện mà không cần họ phải biết rõ là tội gì; là tội xâm phạm an ninh quốc gia hay tội phạm thƣờng; có phải là tội đặc biệt nghiêm trọng hay không mà việc xác định này là do cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng tiến hành. Nghĩa là khi cơ quan tiến hành tố tụng xác định tội phạm không tố giác là tội phạm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng thì họ mới bị truy cứu TNHS về tội này. Thứ ba, trường hợp miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt đối với tội không tố giác tội phạm. Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của Luật hình sự Việt Nam, do cơ quan tƣ pháp hình sự có thẩm quyền tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tƣơng ứng áp dụng và đƣợc thể hiện bằng nội dung không buộc một ngƣời phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm, nếu xét thấy không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời đó và đáp ứng những điều kiện nhất định [48, tr. 111]. Miễn hình phạt là việc Tòa án không buộc ngƣời phạm tội phải chịu biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nƣớc là hình phạt về tội phạm mà ngƣời đó đã thực hiện trong bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật khi đáp ứng các điều kiện do luật định, đồng thời xét thấy vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội [49, tr. 196]. Trường hợp miễn TNHS và miễn hình phạt theo những căn cứ chung. Đây là trƣờng hợp nếu ngƣời phạm tội nếu có các căn cứ miễn TNHS quy định tại Điều 25 hoặc miễn hình phạt quy định tại Điều 54 BLHS thì đƣợc áp dụng nhƣ các tội phạm khác. Miễn TNHS và miễn hình phạt theo căn cứ riêng quy định tại Khoản 3 Điều 314 BLHS năm 1999.
  • 48. 40 Đây là một trong những căn cứ đƣợc miễn TNHS hoặc miễn hình phạt độc lập với quy định về miễn TNHS tại Điều 25 và miễn hình phạt tại Điều 54 BLHS 1999. Khoản 3 Điều 314 BLHS là khung hình phạt giảm nhẹ đặc biệt với tình tiết ngƣời không tố giác tội phạm nếu đã có hành động can ngăn ngƣời phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm thì có thì có thể đƣợc miễn TNHS hoặc miễn hình phạt. Điều kiện để ngƣời phạm tội đƣợc miễn TNHS hoặc miễn hình phạt đó là trƣờng hợp biết rõ tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc đã đƣợc thực hiện mà không đi tố giác những đã có hành động can ngăn ngƣời phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm xảy ra. Can ngăn có nghĩa là hành vi của một ngƣời khi biết ngƣời khác có ý định làm việc gì đó trái pháp luật thì ngăn cản không cho ngƣời đó thực hiện hành vi đó bằng mọi cách. Ở đây, ngƣời không tố giác tội phạm biết rõ là có một tội phạm đang đƣợc chuẩn bị thực hiện mặc dù họ không tố giác với cơ quan thẩm quyền nhƣng họ đã tự mình ngăn cản bằng cách khuyên bảo, thậm chí có thể đe dọa ngƣời đang chuẩn bị thực hiện tội phạm để họ hiểu ra, sợ bị pháp luật trừng trị và có thể không thực hiện tội phạm nữa. Hành động can ngăn có thể đƣợc thực hiện bằng lời nói hoặc bằng việc làm cụ thể đối với ngƣời phạm tội. Chỉ cần có hành động can ngăn, còn kết quả của việc can ngăn đó nhƣ thế nào không phải là dấu hiệu bắt buộc, tuy nhiên nếu can ngăn có kết quả thì tuỳ trƣờng hợp cụ thể mà ngƣời không tố giác có thể đƣợc miễn TNHS. Ngƣời không tố giác đã hạn chế tác hại của tội phạm là trƣờng hợp biết rõ tội phạm đang đƣợc chuẩn bị, đang đƣợc thực hiện hoặc đã đƣợc thực hiện, tuy không tố giác nhƣng đã tự mình có những hành động hạn chế tác hại của
  • 49. 41 tội phạm. Tác hại của tội phạm là những thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất cho xã hội do hành vi phạm tội gây ra. Nhƣ vậy, nếu một ngƣời khi biết rõ có thể do nhìn thấy hoặc nghe kể lại một tội phạm đã đƣợc thực hiện mặt dù họ không khai báo với cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền để kịp thời phát hiện và xử lý nhƣng đã tự mình can ngăn và chủ động ngăn chặn bằng các biện pháp cần thiết đã hạn chế tác hại của tội phạm nên họ có thể đƣợc xem xét để miễn TNHS hoặc miễn hình phạt. Tuy nhiên, nhà làm luật chƣa quy định trƣờng hợp nào thì áp dụng miễn hình phạt trƣờng hợp nào miễn TNHS. Quy định tại khoản này là quy định tùy nghi, theo đó cho Tòa án toàn quyền cân nhắc việc cho miễn TNHS hay miễn hình phạt cho ngƣời phạm tội. Theo ý kiến của tác giả khi cần nhắc giữa miễn TNHS hoặc không miễn TNHS hoặc hình phạt thì tòa án cần căn cứ vào việc ngƣời không tố giác tội phạm có tích cực can ngăn ngƣời phạm tội hay không, hành động can ngăn có cụ thể kiên quyết hay chi can ngăn một cách chiếu lệ, hình thức, có hạn chế đƣợc tác hại của tội phạm hay không, mức độ hạn chế tác hại đến đâu, nhân thân của ngƣời phạm tội, của ngƣời can ngăn, quan hệ giữa ngƣời có hành động can ngăn với ngƣời phạm tội đề ra quyết định phù hợp với vụ án. Thứ tư, Án treo Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, đƣợc Tòa án áp dụng đối với ngƣời phạm tội bị phạt tù không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân của ngƣời phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần buộc phải chấp hành hình phạt tù [35, Điều 1]. Nhƣ vậy, đối với ngƣời phạm tội không tố giác tội phạm có mức phạt tù không quá ba năm, nhân thân tốt, có các tình tiết giảm nhẹ, và xét thấy không cần buộc phải chấp hành hình phạt tù thì có thể đƣợc xem xét áp dụng án treo.
  • 50. 42 2.1.3. Những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 về trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm BLHS năm 2015 đƣợc Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 27/11/2015 gồm 26 chƣơng với 426 điều có hiệu lực từ ngày 01/07/2016 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trong liên quan tới TNHS đối với tội không tố giác tội phạm. Thứ nhất, BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định về loại trừ TNHS của ngƣời bào chữa tại khoản 3 Điều 19 BLHS năm 2015: Ngƣời bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này trong trƣờng hợp không tố giác tội phạm do chính ngƣời mà mình bào chữa đã thực hiện hoặc đã tham gia thực hiện mà ngƣời bào chữa biết đƣợc khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa, trừ trƣờng hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của Bộ luật này [28, Điều 19, Khoản 3]. Đây là một quy định rất tiến bộ bởi các lý do sau; Bảo đảm tính thống nhất các văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật, tháo gỡ sự xung đột giữa quy định về việc cấm luật sƣ (tham gia với tƣ cách là ngƣời bào chữa) tiết lộ bí mật thông tin khách hàng quy định tại Luật Luật sƣ, Quy tắc đạo đức nghề luật sự, với chế định không tố giác tội phạm quy định tại Bộ luật Hình sự hiện hành. Chế định cũng bảo đảm nguyên tắc hoạt động nghề nghiệp luật sƣ, chức năng bào chữa của luật sƣ. Một nguyên tắc quan trọng của nghề luật sƣ là luật sƣ không đƣợc làm xấu đi tình trạng pháp lý của thân chủ. Mặt khác, khi trao đổi, luật sƣ có thể đƣợc thân chủ tiết lộ thông tin nào đó liên quan đến việc phạm tội. Nhƣng luật sƣ không trực tiếp chứng kiến hành vi phạm tội đó, không có điều kiện để đối chiếu lời khai của thân chủ với các bằng chứng
  • 51. 43 khác để kết luận thân chủ chắc chắn đã thực hiện tội phạm đó hay không. Do đó, luật sƣ rất khó “biết rõ tội phạm” nhƣ quy định của dự thảo mà đi tố giác. Đồng thời, phù hợp với thông lệ quốc tế, cũng nhƣ quy định của nhiều quốc gia trên thế giới. Thứ hai, BLHS năm 2015 đã tăng hình phạt tù của tội không tố giác tội phạm lên từ 6 tháng đến 3 năm so với từ 3 tháng đến 3 năm trong BLHS năm 1999. Thứ ba, BLHS năm cũng đã bổ sung thêm một số tội danh mà một người nếu biết rõ mà không tố giác sẽ phải chịu TNHS. Ví dụ: Bổ sung thêm các tội danh tại Điều 373, các khoản 3 và 4 (tội dùng nhục hình); Điều 374, các khoản 3 và 4 (tội bức cung); Điều 220, các khoản 2 và 3 (tội vi phạm quy định của Nhà nƣớc về quản lý và sử dụng vốn đầu tƣ công gây hậu quả nghiêm trọng); Điều 221, các khoản 2 và 3 (tội vi phạm quy định của Nhà nƣớc về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng); Điều 222, các khoản 2 và 3 (tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng); Điều 223, các khoản 2 và 3 (tội thông đồng, bao che cho ngƣời nộp thuế gây hậu quả nghiêm trọng); Điều 224, các khoản 2 và 3 (tội vi phạm quy định về đầu tƣ công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng)... Thứ tư, Nếu nhƣ BLHS năm 1999 quy định các trƣờng hợp loại trừ TNHS đối với ngƣời thân thích của ngƣời phạm tội tại Điều 22 đồng thời lặp lại quy định trên tại Điều 314, đây là sự trùng lặp không cần thiết về mặt kĩ thuật lập pháp, tạo ra sự rƣờm rà trong kết cấu Điều luật, thì tới BLHS năm 2015 nhà làm luật chỉ quy định tại Điều 19 BLHS về không tố giác tội phạm, theo đó thì Điều 390 BLHS về tội không tố giác tội phạm chỉ còn kết cấu làm hai khoản, qua đó khắc phục nhƣợc điểm của BLHS năm 1999. Đồng thời tại Điều 19 BLHS năm 2015 nhà làm luật cũng đã điều chỉnh lại câu văn khi quy định: Ngƣời không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con,
  • 52. 44 cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của ngƣời phạm tội không phải chịu trách nhiệm.... trừ trƣờng hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng...thay vì quy định là Ngƣời không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của ngƣời phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về việc không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng... nhằm nhấn mạnh yếu tố loại trừ TNHS của những đối tƣợng trên. 2.2. Quy định của Bộ luật hình sự một số nƣớc về trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm Nghiên cứu những quy định về tội không tố giác tội phạm trong pháp luật hình sự của Cộng hoà Liên Bang Đức, Nhật Bản, Liên bang Nga, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa cho thấy, các nƣớc quy định rất khác nhau về tội phạm này. BLHS cộng hòa Liên Bang Đức có quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm tại Điều 138 và Điều 139 Điều 138 BLHS cộng hòa Liên Bang Đức quy định về không tố giác những tội phạm đã đƣợc lập kế hoạch. (1) Ngƣời nào biết đƣợc một cách đáng tin về dự định hoặc việc thực hiện của 1. tội chuẩn bị một cuộc chiến tranh xâm lƣợc (Điều 80). 2. tội phản bộ tổ quốc trong các trƣờng hợp của các Điều khoản 81 đến 83 khoản 1. 3. tội phản quốc hoặc tội gây nguy hại cho an ninh đối ngoại trong các trƣờng hợp của các Điều 94 đến 96, 97a hoặc 100.