SlideShare a Scribd company logo
1 of 87
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ LONG BÌNH
ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ LONG BÌNH
ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Đức Hạnh
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Đức Hạnh. Nội dung
và các kết luận trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này
hoàn toàn trung thực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Học viên
Nguyễn Thị Long Bình
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH TỘI
DANH TỘI BUÔN LẬU...........................................................................................7
1.1. Những vấn đề lý luận về định tội danh tội buôn lậu........................................7
1.2. Pháp luật về định tội danh tội buôn lậu……………………………………22
Chương 2: TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU VÀ THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH
TỘI BUÔN LẬU TẠI TP HỒ CHÍ MINH
2.1. Khái quát về tình hình tội phạm buôn lậu trên địa bàn TP.HCM ..................38
2.2. Thực tiễn định tội danh tội buôn lậu trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh từ năm
2014 – 2018……………………………………………………………………..42
Chương 3:CÁC GIẢI GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU
3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn lậu...............................63
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn lậu…..................67
KẾT LUẬN ..............................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCA : Bộ Công an
BLHS : Bộ luật hình sự.
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự.
CQĐT : Cơ quan Điều tra
CTTP : Cấu thành tội phạm.
TANDTC : Tòa án Nhân dân tối cao
TNHS : Trách nhiệm hình sự.
VKSNDTC : Viện Kiểm Sát Nhân dân tối cao
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Kết quả phát hiện tội phạm kinh tế của lực lượng Cảnh sát Kinh tế
Công an Tp.Hồ Chí Minh từ 2014 -2018....................................................... 41
Bảng 2.2. Tình hình tội phạm về buôn lậu trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh từ
2014 -2018....................................................................................................... 41
Bảng 2.3. Thống kê kết quả phát hiện xử lý phạm pháp buôn lậu của Lực
lượng CSKT Công an Tp.HCM từ năm 2014 -2018...................................... 42
Bảng 2.4. Bảng mức độ tăng, giảm của các vụ án về buôn lậu và số bị cáo
phạm tội buôn lậu đưa ra xét xử tại Tòa án nhân dân Tp.Hồ Chí Minh......... 43
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời gian gần đây, tình trạng buôn lậu ngày càng diễn biến phức tạp với
công nghệ ngày càng hiện đại, kẻ phạm tội đã lợi dụng triệt để để phục vụ cho hành
vi phạm tội của mình với thủ đoạn ngày càng tinh vi. Đặc biệt, Việt Nam với vị trí
địa lý thuận lợi, địa hình phức tạp, có đường biên giới dài (trên đất liền và biển)
giáp với nhiều nước và với địa hình biên giới hiểm trở nên tình trạng buôn lậu trở
nên phổ biến. Tội phạm buôn lậu đã gây ra những hậu quả, tác hại to lớn, làm suy
yếu các ngành công nghiệp, sản xuất; giảm nguồn thu ngân sách, ảnh hưởng tới
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, gây thiệt hại cho các đơn vị sản
xuất, kinh doanh và cho cả người tiêu dùng. Tội phạm này còn tác động xấu đến
môi trường cạnh tranh và phát triển lành mạnh của nền kinh tế, làm giảm sút lòng
tin của người tiêu dùng đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh. Và điều đó làm cho
các nhà đầu tư trong nước thiếu an tâm khi đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh.
Thêm vào đó, do đặc thù về chính sách thuế nhập khẩu của nước ta nên việc
nhập lậu hàng hóa qua biên giới vào nước ta đã đem lại lợi nhuận khổng lồ, càng
kích thích thêm cho hành vi buôn lậu. Đặc biệt, từ khi Luật Doanh nghiệp được ban
hành, việc thành lập doanh nghiệp ngày càng trở nên “thoáng”, tạo điều kiện cho
hàng chục nghìn doanh nghiệp được thành lập thêm cho mỗi năm. Đây là một thuận
lợi góp phần cho sự phát triển kinh tế của đất nước, nhưng cũng là gánh năng cho
công tác quản lý nhà nước khi mà số lượng doanh nghiệp quá lớn, việc thành lập
doanh nghiệp quá dễ dàng và nhanh chóng. Lợi dụng vào sự thông thoáng của chính
sách thành lập doanh nghiệp, một số người đã tiến hành thành lập doanh nghiệp
“ma” với mục đích hợp thức hóa cho việc nhập lậu hàng hóa, thiết bị, khiến thực
trạng buôn lậu càng thêm phức tạp, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước.
Từ năm 2018, thời điểm Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 có
hiệu lực, quan điểm về tôi phạm buôn lậu đã có nhiều thay đổi. Đặc biệt, luật hình
sự đã bổ sung thêm hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Điều này đã
giúp các cơ quan tố tụng có thêm nhiều hành lang pháp lý để định tội danh tội buôn
2
lậu cũng như phòng, chống tội phạm buôn lậu hiệu quả hơn. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy công tác đấu tranh đối với tội phạm buôn lậu không hề dễ dàng hơn khi mà các
thủ đoạn thực hiện tội phạm ngày càng tinh vi hơn. Theo Bộ luật Hình sự, tội phạm
buôn lậu phải được xác định bởi nhiều yếu tố khác nhau như: Mua hoặc bán hàng
hóa qua biên giới không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép
xuất, nhập khẩu và các quy định khác của hải quan; mua bán hàng hóa đúng với
giấy phép nhưng kê khai không đúng số lượng; giả mạo giấy tờ, giấu giếm hàng,
tiền… hoặc đi qua đường mòn, lối mởi, đi vòng đường biển vào đất liên không qua
cảng, cửa khẩu để tránh sự kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền.
Tuy nhiên, trên thực tế, để xác định một hành vi là tội phạm buôn lậu phân
biệt với các tội phạm khác, ví dụ như: Tội vận chuyển hàng hóa trái phép qua biên
giới, Tội trốn thuế, Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm cũng là một vấn đề vẫn còn
gây tranh cãi. Trên thực tế xét xử vẫn còn có sự chưa thống nhất về việc định tội
danh đối với tội phạm này, mà điển hình là vụ án Nguyễn Minh Hùng – Tổng Giám
đốc Công VN Pharma và đồng phạm nhập thuốc ung thư giả mà thời gian qua
TAND TP.HCM đã đưa ra xét xử. Việc định tội danh đúng đối với tội phạm buôn
lậu sẽ có nghĩa rất lớn về chính trị, kinh tế, xã hội và nâng cao hơn nữa việc đấu
tranh, phòng chống với loại hình tội phạm này hiệu quả. Ngược lại nếu việc định
danh tội phạm này không đúng cũng sẽ gây ra những tiền lệ xấu cho công tác điều
tra, truy tố, xét xử, gây ra sự bất nhất giữa quan điểm giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng dẫn đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm cũng sẽ không đạt được
những kết quả như mong đợi. Qua nghiên cứu cho thấy hoạt động định tội danh tội
buôn lậu có những khó khăn, hạn chế nhất định. Bên cạnh đó một số quy định của
pháp luật vẫn còn chưa hoàn chỉnh, đi kịp với sự phát triển đã tạo kẽ hở cho tội
phạm lợi dụng, các tội phạm hoạt động rất tinh vi, phức tạp, mặt khác cũng có một
số nguyên nhân xuất phát từ ý chí chủ quan của Người định tội.
Thành phố Hồ Chí Minh đã được Trung ương xác định là đầu tàu kinh tế của
cả nước với tỷ trọng đóng góp ngân sách cho cả nước lớn nhất. Cùng với thị trường
kinh tế vô cùng năng động, thành phố Hồ Chí Minh cũng là nơi tập trung nhiều vụ
3
án về kinh tế, trong đó có tội phạm về buôn lậu, buôn bán hàng giả nhiều nhất và
phức tạp nhất nước.
Xuất phát từ thực tế và từ những yêu cầu nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài:
"Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành
phố Hồ Chí Minh” làm Luận văn thạc sỹ Luật học. Đề tài sẽ góp phần làm rõ về
hoạt động định tội danh tội Buôn lậu theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam
từ thực tiễn tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Từ việc tổng hợp, phân tích về thực tiễn
điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm này trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh để đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả,
chất lượng định tội danh tội buôn lậu tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cũng
như cả nước nói chung. Từ việc nâng cao hiệu quả, chất lượng định tội danh tội
buôn lậu cũng góp phần nâng cao công tác đấu tranh phòng chống tội buôn lậu trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Định tội danh là một đề tài không mới trong hệ thống nghiên cứu pháp lý về
hình sự, tuy nhiên, do sự phát triển không ngừng của xã hội, của khoa học kỹ thuật
nên phương thức phạm tội ngày càng tinh vi, phức tạp và luôn biến đổi, chính vì
vậy, định tội danh đặc biệt là các tội danh về kinh tế luôn là một đề tài thời sự. Theo
tìm hiểu của tác giả, kể từ khi Bộ luật Hình sự năm 1999 có hiệu lực, đã có nhiều
công trình nghiên cứu của nhiều tác giả tiếp cận đề tài tội buôn lậu dưới nhiều góc
độ khác nhau. Nhưng hầu hết các công trình nghiên cứu đó chỉ tiếp cận ở góc độ
nghiên cứu chung về tội phạm buôn lậu theo pháp luật hình sự Việt Nam; về đấu
tranh phòng chống tội phạm buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất buôn bán hàng
giả chứ chưa đi chuyên sâu về vấn đề định tội danh. Điển hình là các công trình
nghiên cứu của các tác giả sau:
- PTS Lê Thanh Bình, “Chống buôn lậu và gian lận thương mại”, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia năm 1998.
- Trần Đình Hòa, luận án tiến sĩ “Tổ chức hoạt động điều tra của lực lượng
cảnh sát nhân dân đối với vụ án buôn lậu”, Học viện Cảnh sát nhân dân năm 2001.
4
- Hoàng Anh Tuấn, luận văn Thạc sĩ “Đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn
lậu ở nước ta – Thực trạng và giải pháp “, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2003.
- Nguyễn Thị Vui, luận văn thạc sĩ “Tội buôn lậu trong luật hình sự Việt
Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Giang), Đại học Quốc gia Hà
Nội năm 2014.
- Dương Xuân Sinh, luận văn thạc sĩ “Điều tra các vụ án buôn lậu của cơ
quan Hải quan”, Học viện Khoa học xã hội năm 2016;
- Ngô Thị Thùy Trang, luận văn Thạc sĩ “Đấu tranh phòng chống tội phạm
buôn lậu trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh”, Trường Đại học Cảnh sát TP.Hồ Chí Minh
năm 2019;
Ngoài ra, còn có một số bài viết về tội phạm buôn lậu đăng trên các báo, tạp
chí; một số luận văn khác nghiên cứu về định tội danh của các tội phạm như giết
người; các tội phạm về ma túy; về tội hủy hoại tài sản… Tuy nhiên, nghiên cứu
riêng về định tội danh tội buôn lậu vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên
sâu.
Như vậy, tuy đã có nhiều tác giả nghiên cứu về một số nội dung có liên quan
đến đề tài nhưng hầu hết chỉ tiếp cận ở góc độ chung về tội phạm buôn lậu, về gian
lận thương mại hoặc nếu có đi sâu về định tội danh thì cũng chưa đi vào định tội
danh tội buôn lậu.
Hiện chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu về đề tài định
tội danh tội buôn lậu vì vậy Tác giả đã thực hiện đề tài trên tinh thần có sự tiếp thu,
kế thừa những điểm phù hợp từ các công trình nghiên cứu trước đó để phát triển,
làm sáng tỏ thêm cho mục đích nghiên cứu của đề tài định tội danh tội buôn lậu từ
thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh và đề tài này không trùng với đề tài nghiên cứu
nào về tội buôn lậu trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu việc định danh tội phạm buôn lậu theo Bộ luật Hình sự hiện
hành thông qua việc đánh giá thực trạng hoạt động điều tra, truy tố và xét xử đối với
5
loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2014-2018.
Đồng thời, đề tài sẽ phân tích nhằm làm rõ nhữn vấn đề còn khó khăn, hạn chế,
trong pháp luật cũng như trong thực tiễn việc định tội danh đối với tội phạm Buôn
lậu tại Tp.Hồ Chí Minh. Từ đó, đề tài sẽ đưa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp
luật định tội danh tội buôn lậu và góp phần nâng cao hoạt động định tội danh tội
buôn lậu trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh được chính xác.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rõ cơ sở lý luận và quy định của pháp luật về cấu thành của tội buôn
lậu, đặc điểm của tội buôn lậu và phương thức định danh về tội buôn lậu theo pháp
luật Hình sự nước Việt Nam.
Khảo sát, đánh giá và những khó khăn của pháp luật Việt Nam liên quan đến
hoạt động định danh tội phạm buôn lậu, thông qua việc định tội danh tội phạm buôn
lậu trong một số vụ án điển hình đã điều tra, truy tố, xét xử tại địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh những năm gần đây.
Từ đó, đề tài sẽ đưa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về tội buôn lậu
cũng như định tội danh tội buôn lậu và góp phần nâng cao hoạt động định tội danh
tội buôn lậu trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh được chính xác.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu, khảo sát trong phạm vi quy định của Bộ luật Hình
sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017 về định tội danh tội Buôn lậu trong phạm vi địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
từ năm 2014 đến năm 2018. Các số liệu sử dụng trong đề tài dựa trên số liệu về thụ
lý điều tra, truy tố, xét xử về tội buôn lậu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
trong khoảng thời gian 05 năm (từ 2014 đến 2018) của Công an Thành phố Hồ Chí
Minh và Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và các số liệu đã được công bố
trên các phương tiện thông tin đại chúng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, luận văn này sử dụng chủ yếu các phương pháp phân tích, so sánh, hệ
6
thống, phương pháp phân tích lịch sử cụ thể kết hợp với lý luận thực tiễn… để giải
quyết những vấn đề đặt ra từ nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt khoa học:
Nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng
pháp luật trong việc định tội danh tội buôn lậu theo quy định của pháp luật Việt
Nam; phân tích những khó khăn, hạn chế trong hệ thống pháp luật Việt Nam và
trong áp dụng thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, từ đó rút ra những kinh nghiệm và
có hướng hoàn thiện, bổ sung pháp luật Việt Nam.
Về mặt thực tiễn:
Góp phần bổ sung, hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong các quy định về tội
phạm buôn lậu, về việc định tội danh buôn lậu trong thực tiễn. Đây có thể sẽ là một
tài liệu tham khảo đối với cơ quan hữu quan khi nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp
luật, trong việc áp dụng vào thực tiễn việc định danh tội buôn lậu của các cơ quan
tiến hành tố tụng, góp phần vào đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội
buôn lậu nói riêng.
Đây cũng có thể được xem là tài liệu tham khảo đối với hoạt động nghiên
cứu, giảng dạy, đào tạo.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về định tội danh tội buôn lậu
Chương 2: Thực tiễn tình hình định tội danh và định tội danh tội buôn lậu tại
Tp.Hồ Chí Minh.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn
lậu.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI
DANH TỘI BUÔN LẬU
1.1. Những vấn đề lý luận về định tội danh tội buôn lậu
1.1.1 Khái niệm định tội danh tội buôn lậu
Định tội danh là một trong những hoạt động của việc áp dụng pháp luật hình
sự. Pháp luật hình sự bao gồm một hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về tội
phạm và hình phạt. Quá trình áp dụng pháp luật hình sự là quá trình xem xét hành vi
của một người, một pháp nhân có phải là tội phạm không, nếu có thì là tội phạm gì,
được quy định tại điều, khoản nào của BLHS, có căn cứ để miễn trách nhiệm hình
sự hay miễn hình phạt không, nếu không thì phải chịu hình phạt như thế nào. Trong
quá trình đó, việc xem xét để xác định hành vi của một người, một pháp nhân phạm
tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS là hoạt động định tội danh, hoạt động này
diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định được gọi là quá trình định tội danh.
Có thể nói hiện nay, trong Khoa học hình sự Việt Nam có nhiều quan điểm
về khái niệm định tội danh nói chung, điển hình như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về
mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã
được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy
phạm pháp luật hình sự” [39, tr 9,10].
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Định tội danh là một quá trình logic nhất định,
là hoạt động của cán bộ có thẩm quyền trong việc xác nhận sự phù hợp giữa trường
hợp phạm tội cụ thể đang xem xét với các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm
được quy định trong quy phạm pháp luật thuộc Phần các tội phạm Bộ luật hình sự”
[9, tr 90-91]
Quan điểm thứ ba cho rằng: “định tội danh là thuật ngữ dùng để chỉ hoạt
động đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các
dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được mô tả quy định trong Bộ Luật Hình
sự để xác định tội phạm đã xảy ra và người phạm tội, cũng như xác định không có
8
tội phạm xảy ra hoặc không có người phạm tội hoặc người bị tình nghi không phải
là người thực hiện tội phạm (tức họ không phạm tội) bằng việc ra kết luận bằng văn
bản áp dụng pháp luật trong tố tụng hình sự của Cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong tố tụng hình sự”. [15, tr 8]
Và nhiều quan điểm khác, tuy nhiên về cơ bản được hiểu định tội danh là
một quá trình logic, là quá trình so sánh, đối chiếu, tìm sự phù hợp giữa hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện với các dấu hiệu pháp lý của một tội phạm cụ thể
được quy định trong BLHS. BLHS quy định các yếu tố cấu thành của các tội phạm
cụ thể mà dựa vào đó người áp dụng pháp luật, người bào chữa so sánh với hành vi
nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã thực hiện, tìm ra sự phù hợp giữa chúng để xác định
hành vi đã thực hiện phạm tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS.
Vì định tội danh là quá trình tư duy logic, nên nó bao gồm các bước (các giai
đoạn) có mối quan hệ chặt chẽ, được thực hiện đồng thời và xen kẽ nhau.
Cụ thể là:
- Xác định đầy đủ, chính xác các tình tiết thực tế của vụ án, phản ánh đúng
thực tế khách quan.
- Nhận thức chính xác nội dung các quy phạm pháp luật hình sự, các dấu
hiệu pháp lý của từng cấu thành tội phạm cụ thể.
- So sánh, đối chiếu các tình tiết của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực
hiện với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm cụ thể, tìm ra sự phù hợp giữa
chúng.
- Rút ra kết luận về sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực
hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS và ra văn
bản áp dụng pháp luật.
Quá trình định tội có thể do các chủ thể khác nhau tiến hành, trong đó việc
định tội của các cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, TA) có ý nghĩa quan trọng
đặc biệt. Kết quả của việc định tội do các cơ quan này thực hiện được thể hiện ở các
quyết định tố tụng, như: Quyết định khởi tố vụ án hình sự, Quyết định khởi tố bị
can, đình chỉ điều tra miễn trách nhiệm hình sự đối với bị can, kết luận điều tra đề
9
nghị truy tố của CQĐT; quyết định đình chỉ vụ án miễn trách nhiệm hình sự, quyết
định truy tố bằng bản cáo trạng của Viện Kiểm sát, bản án kết tội của Toà án... Định
tội của người bào chữa có ý nghĩa trong việc tranh tụng với đại điện Viện kiểm sát
và là cơ sở để Tòa án xem xét, kết tội bị cáo.
Với những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm về định tội danh như
sau: Định tội danh là hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự do
các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng thực hiện, được thể hiện trên cơ sở xác
định đầy đủ, chính xác, khách quan các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được
thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành
tội phạm tương ứng và xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một cấu thành
tội phạm nhất định với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm trong các giai đoạn tố
tụng do pháp luật quy định góp phần giải quyết vụ án hình sự.
Từ các phân tích khái niệm chung về định tội danh như trên thì có thể hiểu
đối với hoạt động Định tội danh tội buôn lậu là hoạt động nhận thức, áp dụng pháp
luật hình sự trên cơ sở xác định đầy đủ các hành vi khách quan, chủ thể, khách thể
theo cấu thành chung của tội phạm cũng như cấu thành riêng biệt của tội buôn lậu
để xác định hành vi nguy hiểm của các chủ thể đó có phải là tội buôn lậu hay
không, hậu quả đến đâu, trách nhiệm hình sự tới đâu…
Từ cơ sở khái niệm chung về định tội danh thì chúng ta có thể khái quát về
định tội danh tội buôn lậu như sau: " Định tội danh tội buôn lậu là hoạt động của cơ
quan, người có thẩm quyền hoặc do những người bào chữa, người bảo vệ quyền vì
lợi ích của đương sự.. đối chiếu hành vi mà bị can, bị cáo đã thực hiện trên thực tế
với hành vi được mô tả trong cấu thành tội buôn lậu được quy định trong Bộ luật
hình sự để khẳng định hành vi của bị can, bị cáo đã thực hiện có phạm tội buôn lậu
hay không nhằm thực hiện các chức năng tố tụng hình sự của chủ thể định tội, thực
hiện quyền và nghĩa vụ của họ"
1.1.2. Đặc điểm của định tội danh tội buôn lậu
Từ khái niệm chung về định tội danh và định tội danh tội buôn lậu nói riêng,
chúng ta có thể thấy các đặc điểm như sau: Định tội danh là hoạt động áp dụng pháp
10
luật hình sự bao gồm việc tiến hành đồng thời 3 quá trình:
Thứ nhất: Xác định đúng, khách quan các tình tiết thực tế đã xảy ra đối với
vụ án buôn lậu;
Thứ hai: Nhận thức đúng nội dung của các quy định trong BLHS về tội buôn
lậu;
Thứ ba: Lựa chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự để đối chiếu chính xác,
đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong quy phạm đó với các
tình tiết của hành vi được thực hiện trong thực tế.
Như vậy quá trình định tội danh cũng như định tội danh tội buôn lậu bao
gồm 3 giai đoạn cơ bản:
- Làm sáng tỏ những dấu hiệu chung đặc trưng nhất của hành vi, cụ thể ở đây
là buôn lậu
- Làm sáng tỏ hành vi phạm tội đó thuộc loại tội phạm nào và được quy định
ở chương nào, điều nào của Bộ luật hình sự
- Chỉ rõ cấu thành tội phạm về tội cụ thể nào được áp dụng về mặt khách thể,
chủ quan, mặt khách quan và chủ quan của tội phạm. [9,tr. 92,93,102-105]
Như vậy, từ việc phân tích các đặc điểm chung về với định tội danh thì hoạt
động định tội danh tội buôn lậu nói riêng thì có thể rút ra các đặc điểm như sau: đó
là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự để xác định hành vi khách quan đã xảy ra đó
có là hành vi nguy hiểm cho xã hội và có đủ các yếu tố cấu thành tội buôn lậu hay
không, bao gồm việc tiến hành đồng thời 3 quá trình:
Thứ nhất: xác định đúng, khách quan các tình tiết thực tế vụ án buôn lậu;
Thứ hai: nhận thức đúng nội dung của các quy định trong BLHS bao gồm
phần chung và phần quy định về tội buôn lậu;
Thứ ba: lựa chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự để đối chiếu chính xác,
đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong quy phạm đó với các
tình tiết của hành vi được thực hiện trong thực tế:
Xem xét về thời điểm xảy ra hành vi buôn lậu: điều này quan trọng trong
thời điểm chuyển giao giữa BLHS năm 1999, sửa đổi 2009 và BLHS năm 2015, sửa
11
đổi 2017. Áp dụng nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành
BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 với nhiều quy định có lợi cho người
phạm tội;
So sánh, đối chiếu với các quy phạm pháp luật cũ, mới để lựa chọn định tội
danh đúng, nếu hành vi khách quan, khách thể… đó đã được hủy bỏ, thay đổi, có
dấu hiệu của một tội phạm khác thì phải thực hiện việc đình chỉ hoặc đổi tội danh
cho bị can bị cáo.
Ví dụ: tội buôn lậu trong BLHS 2015 quy định tại điều 188 đã bỏ hoàn toàn
hàng cấm ra khỏi điều luật mà hành vi khách quan chỉ là buôn bán trái phép hàng
hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật. Còn hàng cấm
được quy định riêng ở điều 190 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm). Tại BLHS 1999
quy định tội buôn lậu tại điều 153, tại điểm c khoản 1 nêu là hàng cấm, quy định
này trùng lặp với điều 155 (Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm).
Do vậy, nếu vụ án đã được khởi tố trước ngày luật này có hiệu lực nhưng chưa giải
quyết xong thì có thể xem xét đổi tội danh cho bị can bị cáo theo đúng quy định của
BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Như vậy quá trình định tội danh tội buôn lậu cần chú ý các yếu tố:
- Làm sáng tỏ những dấu hiệu chung đặc trưng nhất của hành vi buôn lậu:
- Làm sáng tỏ hành vi nguy hiểm cho xã hội đó thuộc tội buôn lậu quy định
ở điều nào, khoản nào của BLHS, ngoài ra có những quy phạm pháp luật
nào hướng dẫn áp dụng cụ thể;
- Chỉ rõ các dấu hiệu đặc trưng của cấu thành tội phạm buôn lậu (dấu hiệu
định tội và dấu hiệu định khung)
[9, tr. 112-114], [14, tr. 31-33].
1.1.3 Nội dung của định tội danh tội buôn lậu
Định tội danh là một quá trình gồm nhiều bước, là quá trình trình xác định sự
đồng nhất của các tình tiết cơ bản, điển hình nhất của một hành vi nguy hiểm cho
xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu cấu thành tội phạm nào đó được quy
định trong pháp luật hình sự, bao gồm các nội dung:
12
Thứ nhất: Xác định quan hệ xã hội nào đã bị tác động bởi hành vi vi phạm
pháp luật được quy định tại phần các tội phạm của BLHS. Nói cách khác là xác
định khách thể của tội phạm được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại.
Trong các loại khách thể của tội phạm (khách thể chung, khách thể loại, khách thể
trực tiếp) thì xác định khách thể trực tiếp của tội phạm có ý nghĩa để xác định tội
phạm cụ thể vì khách thể trực tiếp của tội phạm chính là dấu hiệu của cấu thành tội
phạm cụ thể. Một tội phạm cụ thể có thể có một khách thể trực tiếp, nhưng cũng
có thể có nhiều khách thể trực tiếp. Trong nhiều trường hợp, việc xác định khách
thể của tội phạm được thực hiện thông qua việc xác định đối tượng tác động của
tội phạm. Do vậy, xác định đối tượng tác động của tội phạm có ý nghĩa trong việc
định tội. Ví dụ, tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia
(Điều 303 BLHS), tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178 BLHS),
tội huỷ hoại rừng (Điều 243 BLHS), tội huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiện
kỹ thuật quân sự (Điều 413 BLHS).
Trong trường hợp có sự nhận thức sai lầm của một người về khách thể của
tội phạm thì việc định tội phải tùy từng trường hợp cụ thể. Nếu người thực hiện
hành vi không có ý định xâm hại đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ
nhưng thực tế đã xâm hại đến khách thể của tội phạm thì về nguyên tắc, người thực
hiện hành vi vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng với lỗi vô ý.
Nếu người thực hiện hành vi cho rằng mình xâm hại đến khách thể của tội phạm
nhưng thực tế không gây thiệt hại được vì không có đối tượng hoặc đối tượng
không có những đặc tính mà người thực hiện hành vi tưởng là có thì việc định tội
phải căn cứ vào đặc điểm các dấu hiệu của từng cấu thành tội phạm cụ thể (có thể
người thực hiện hành vi phạm tội hoặc không phạm tội).
Vậy, với tội buôn lậu để xác định quan hệ bị tác động thì người định tội cũng
đi theo trình tự đầu tiên là xác định quan hệ xã hội bị tác động hay là khách thể bị
tác động là hoạt động quản lý kinh tế nhà nước về ngoại thương, xuất nhập khẩu;
đối tượng tác động trực tiếp được quy định rõ trong quy định của BLHS về tội buôn
lậu.
13
Thứ hai: Xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện là hành vi
gì, mức độ tác động, bằng phương thức, thủ đoạn nào…hành vi đó được quy định
trong BLHS hay không, hậu quả của hành vi đó đến đâu, chủ thể thực hiện là cá
nhân hay pháp nhân thương mại, có năng lực trách nhiệm hình sự hay không. Hành
vi nguy hiểm cho xã hội (hành vi khách quan của tội phạm) là dấu hiệu bắt buộc
trong tất cả các cấu thành tội phạm. Để xác định hành vi thực tế do một người hoặc
một pháp nhân thực hiện phạm tội gì, người định tội phải đối chiếu hành vi đã thực
hiện của người đó hoặc của pháp nhân đó với dấu hiệu hành vi khách quan của cấu
thành tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS, xác định xem hành vi đã thực
hiện có phù hợp với dấu hiệu hành vi được quy định trong điều luật cụ thể của
BLHS không. Trên cơ sở đó rút ra kết luận về việc người hoặc pháp nhân thực hiện
hành vi phạm tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS. Trong trường hợp một điều
luật trong Phần các tội phạm của BLHS quy định về tội phạm có nhiều hành vi, khi
định tội cần chú ý một số vấn đề sau:
- Trường hợp một người hoặc một pháp nhân chỉ thực hiện một trong các
hành vi phạm tội được quy định tại điều luật đó thì định tội với tên tội danh về hành
vi phạm tội đã thực hiện theo điều luật tương ứng.
Ví dụ: Một người chỉ mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất
ma túy thì chỉ định tội về tội mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất
ma túy theo Điều 253 BLHS mà không định tội là tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy.
- Nếu một người hoặc một pháp nhân thực hiện nhiều hành vi phạm tội mà
các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là điều kiện để
thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia), thì định tội với tên tội
đầy đủ đối với tất cả các hành vi đã được thực hiện theo điều luật tương ứng.
Ví dụ: Một người mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma
túy rồi vận chuyển đến một địa điểm mới và tàng trữ tiền chất đó, thì định tội với
tên tội danh là mua bán, vận chuyển, tàng trữ tiền chất dùng vào việc sản xuất trái
phép chất ma túy theo Điều 253 BLHS.
14
-Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội mà các hành vi đó
độc lập với nhau, thì phải định tội về tất cả các tội mà người ấy đã thực hiện.
Ví dụ: Một người mua bán trái phép hêrôin bị bắt, khi khám nhà phát hiện
người đó còn có hành vi sản xuất thuốc phiện. Trong trường hợp này người phạm
tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điều
251BLHS và tội sản xuất trái phép chất ma túy theo Điều 248 BLHS.
- Trên thực tế, một hành vi có thể cấu thành nhiều tội khác nhau. Đây là
những trường hợp hành vi cụ thể cấu thành nhiều tội. Về nguyên tắc, khi hành vi
cấu thành nhiều tội thì phải định tội về nhiều tội. Nếu một hành vi thỏa mãn dấu
hiệu cấu thành hai tội phạm cụ thể độc lập. Ví dụ: Hành vi giết người để lấy tài sản.
Phải định tội người thực hiện hành vi phạm hai tội là giết người (Điều 123 BLHS)
và cướp tài sản (Điều 168 BLHS). Nếu một hành vi vừa thoả mãn một cấu thành tội
phạm cụ thể, vừa thoả mãn cấu thành tội phạm của hành vi đồng phạm khác. Ví dụ:
Nhân viên hải quan nhận hối lộ để cho người khác mang hàng qua biên giới trái
phép. Phải định tội hành vi của nhân viên hải quan về hai tội: Nhận hối lộ và đồng
phạm tội buôn lậu. Nếu một hành vi đồng thời thoả mãn hai cấu thành tội phạm của
hai hành vi đồng phạm khác nhau. Ví dụ: Cho người khác mượn vũ khí để giết
người và chiếm đoạt tài sản. Phải định về hai tội với vai trò là người giúp sức giết
người và giúp sức cướp tài sản.
Với tội phạm buôn lậu là xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, cụ thể là xuất
nhập khẩu thì người định tội cần xác định rõ hành vi nào của người phạm tội, pháp
nhân thương mại phạm tội là nguy hiểm cho xã hội là trái pháp luật, hành vi được
thực hiện ra sao, phương thức thủ đoạn như thế nào phải phù hợp với quy định của
BLHS, trình tự, thủ tục phải đảm bảo theo quy định của BLTTHS, đặc biệt là trong
quá trình thu thập chứng cứ chứng minh hành vi nguy hiểm cho xã hội đó là phạm
tội buôn lậu, ví dụ hành vi giả mạo hợp đồng, giả mạo giấy phép để nhập khẩu, hay
hành vi khai báo gian dối (tăng, bớt, khai sai về tên hàng hóa…) để nhập
khẩu…phải được cụ thể, rõ ràng…
Thứ ba: Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi được coi là dấu hiệu cơ
15
bản, quan trọng nhất, sau đó sẽ xem xét đến các dấu hiệu như: tính có lỗi (lỗi cố ý,
lỗi vô ý), tính trái pháp luật hình sự, tính phải chịu trách nhiệm hình sự (chịu hình
phạt). Xác định lỗi cố ý hoặc vô ý là điều kiện bắt buộc để có thể truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với một người. Khi xác định lỗi của người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội làm căn cứ để định tội cần chú ý: Lỗi là dấu hiệu thuộc mặt
chủ quan của tội phạm. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thường có xu
hướng chối tội, không thừa nhận lỗi của mình khi các cơ quan có thẩm quyền chưa
chứng minh được lỗi của người đó.
Xác định lỗi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chủ yếu phải
thông qua xác định các tình tiết thuộc mặt khách quan của tội phạm như công cụ,
phương tiện thực hiện hành vi, vị trí tác động của công cụ, phương tiện; thời gian,
địa điểm, hoàn cảnh nơi xảy ra vụ việc; đồng thời, phải thông qua đánh giá thái độ
tâm lý của người thực hiện hành vi trước, trong và sau khi có hậu quả nguy hiểm
cho xã hội xảy ra; trình độ, kiến thức mà người đó được đào tạo; mối quan hệ của
người thực hiện hành vi với nạn nhân (nếu có) và những người xung quanh, những
yếu tố khác thuộc về nhân thân của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ...
Đối với tội buôn lậu, lỗi của chủ thể phạm tội buôn lậu được xác định là lỗi
cố ý trực, chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được xác định là buôn lậu
nhận thức được hành vi sai trái, biết trước hậu quả và mong muốn hậu quả xảy ra
đối với hành vi hay chuỗi hành vi mà mình thực hiện. Như vậy nếu xác định chủ thể
thực hiện hành vi với lỗi vô ý thì không thể định tội danh tội buôn lậu mà phải xem
xét đủ các yếu tố cấu thành một tội khác không hay phải tuyên bố họ không phạm
tội. Từ việc xác định lỗi này của chủ thể tội phạm tội buôn lậu căn cứ vào quy định
pháp luật về tội buôn lậu và xác định trách nhiệm pháp lý hình sự của chủ thể.
Thứ tư:. Xác định hậu quả của tội phạm khi định tội trong trường hợp dấu
hiệu hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc, trường hợp này cần chú ý nếu tội
phạm có cấu thành vật chất (có dấu hiệu hậu quả) và thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp,
nếu hậu quả của tội phạm không xảy ra thì người thực hiện hành vi vẫn có thể phải
chịu trách nhiệm hình sự ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt.
16
Nếu tội phạm thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp và lỗi vô ý thì nói chung, người thực
hiện hành vi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu có hậu quả của tội phạm xảy ra.
Xác định dấu hiệu công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian,
địa điểm, hoàn cảnh thực hiện tội phạm khi định tội trong một số trượng hợp tội
phạm có dấu hiệu công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa
điểm, hoàn cảnh thực hiện tội phạm làdấu hiệu bắt buộc. Trong những trường hợp
đó, việc xác định có các dấu hiệu này trên thực tế mới có thể xác định tội danh của
người thực hiện hành vi.
Đối với tội buôn lậu có cấu thành hình thức cho nên không cần phải có hậu
quả xảy ra, không cần đạt được mục đích phạm tội, chỉ cần có hành vi, chuẩn bị
công cụ, phương tiện... hướng tới việc nhập hàng hóa qua biên giới trái phép đã đủ
yếu tố cấu thành tội phạm buôn lậu theo luật. Giá trị hàng hóa phạm tội là căn cứ
định khung, xác định mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Ví dụ: Một người đã buôn bán trái phép hàng hóa, trốn thuế với số tiền 150
triệu đồng. Nếu chứng minh được hành vi buôn bán trái phép hàng hóa qua biên
giới thì định tội là “tội buôn lậu” theo Điều 188 BLHS. Nếu không chứng minh
được hành vi buôn bán trái phép hàng hóa qua biên giới (tức là chỉ trong nội địa),
thì định tội là “tội trốn thuế” theo Điều 200 BLHS.
Trong trường hợp có sự sai lầm về công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ
đoạn thực hiện tội phạm, người thực hiện hành vi vẫn có thể phải chịu trách nhiệm
hình sự về trường hợp phạm tội chưa đạt.
Thứ năm. Xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự khi định tội theo quy định
tại Điều 12 BLHS, đảm bảo người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình
sự về mọi tội phạm.
Thứ sáu: Xác định năng lực trách nhiệm hình sự khi định tội
Một trong những dấu hiệu bắt buộc của chủ thể của tội phạm là dấu hiệu
người thực hiện hành vi có năng lực trách nhiệm hình sự. BLHS không quy định
trực tiếp thế nào là người có năng lực trách nhiệm hình sự mà quy định về tình trạng
không có năng lực trách nhiệm hình sự. Để xác định một người có năng lực trách
17
nhiệm hình sự phải loại trừ khả năng đó là người không có năng lực trách nhiệm
hình sự.
Điều 21 BLHS quy định về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự.
Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh
tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này,
phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
Khi xác định tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự của người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội làm căn cứ để định tội cần chú ý: Thông thường, khi
đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì người thực hiện hành vi nguy hiểm đã có
khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng
điều khiển được hành vi ấy. Do vậy, nếu không có sự nghi ngờ người đó ở trong
tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (theo quy định tại Điều 21BLHS)
thì mặc nhiên coi người đó là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Chỉ khi có sự
nghi ngờ người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có thể ở trong tình trạng
không có năng lực trách nhiệm hình sự thì mới cần yêu cầu trưng cầu giám định.
Trong yêu cầu trưng cầu giám định phải yêu cầu Hội đồng giám định xem xét kết
luận vấn đề: Người đó thực hiện hành vi có phải trong trạng thái mắc bệnh tâm thần
hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
hay không. Chỉ trên cơ sở kết luận của Hội động giám định về những vấn đề nêu
trên mới có thể kết luận người đó là người có năng lực trách nhiệm hình sự hay
không có năng lực trách nhiệm hình sự.
Thứ bảy : Lựa chọn quy phạm pháp luật cấu thành tội phạm cụ thể là tội
buôn lậu căn cứ theo dấu hiệu cấu thành tương ứng của điều luật (mặt khách thể,
mặt khách quan, mặt chủ thể, mặt chủ quan).
Thứ tám : So sánh, đối chiếu hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực
hiện với dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm của một điều luật tại phần
các tội phạm của Bộ luật hình sự tương thích. Chú ý mỗi tội do BLHS ngoài những
dấu hiệu phạm tội chung còn có một số đặc trưng riêng trong cấu thành tội phạm
18
(đặc trưng về chủ thể, về lỗi, về động cơ, mục đích của hành vi nguy hiểm) căn cứ
vào các đặc trưng này giúp quá trình định tội danh có thể phân biệt với các tội khác
nhau, ví dụ: tội cố ý gây thương tích với tội giết người; tội buôn lậu với tội vận
chuyển hàng hóa trái phép qua biên giới, tội trốn thuế...[14, tr.31-33].
1.1.4. Chủ thể thực hiện việc định tội danh tội buôn lậu
Về mặt lý luận và thực tiễn chúng ta thấy định tội danh nói chung hay định
tội danh tội buôn lậu nói riêng thường là các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan
điều tra,Viện Kiểm Sát, Tòa án) và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
thuộc các cơ quan này (quy định tại điều 34 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015
thông qua các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Ngoài ra hoạt động định
tội danh còn do Cơ quan và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra được quy định tại điều 35 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 gồm có 07 cơ
quan (Các cơ quan của Bộ đội biên phòng; Các cơ quan của Hải quan; Các cơ quan
của Kiểm lâm; Các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển;Các cơ quan của Kiểm
ngư; Các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra; Các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra và những người có thẩm quyền được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra thuộc 07 cơ quan trên. Hoạt động định tội danh
của các cơ quan, cá nhân được Bộ luật tố tụng hình sự quy định này gọi là định tội
danh chính thức và dẫn hậu quả pháp lý là liên quan đến việc khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử người hay pháp nhân thương mại phạm tội...dẫn đến họ phải chịu trách
nhiệm hình sự đến đâu thông qua chế tài là hình phạt...[9, tr. 11,12,15-18]
- Ngoài các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì các chủ thể tham gia
tố tụng cũng định tội danh, như người bào chữa định tội danh trong Bản bào chữa
và đối đáp với đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa. Chính bị cáo cũng định tội danh
khi tự bào chữa và tranh luận, người bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại định
tội danh khi phát biểu và tranh luận tại Tòa.
Bên cạnh đó, các Nhà luật học, nhà báo, nhà nghiên cứu, chuyên gia, giảng
viên luật hoặc những người quan tâm ... có thể thực hiện việc định tội danh đối với
19
một hành vi cụ thể nào đó mà họ nói tới, phân tích, bàn bạc tuy nhiên đối với nhóm
chủ thể không chính thức này thì đó chỉ là ý kiến pháp lý, ý kiến cá nhân để phục vụ
việc nghiên cứu,học tập... đây được coi là hoạt động định tội danh không chính
thức, chỉ phục vụ công tác nghiên cứu, học tập, tuyên truyền pháp luật chứ không
dẫn đến hậu quả pháp lý là trách nhiệm hình sự. [11Tr. 21, 22],
1.1.5. Ý nghĩa của định tội danh tội buôn lậu
Như đã trình bày ở trên, định tội danh là một giai đoạn cơ bản và tối quan
trọng của việc áp dụng pháp luật hình sự. Việc định tội danh đúng thể hiện ý nghĩa
về mặt chính trị - xã hội, đạo đức và pháp lý rất lớn. Pháp luật hình sự do Nhà nước
ban hành, qua đó thể hiện ý chí của Nhà nước đối với việc đấu tranh, phòng ngừa
tội phạm. Do vậy, khi áp dụng pháp luật để định tội danh cần nghiêm chỉnh tuân thủ
các quy định của PLHS là điều kiện cần thiết và quan trọng trong việc thực hiện
chính sách phòng chống tội phạm qua đó bảo vệ tốt nhất lợi ích của Nhà nước, của
xã hội và của mọi công dân.
Hoạt động định tội danh nói chung và định tội danh tội buôn lậu nói riêng
của các chủ thể có thể theo 2 xu hướng: Định tội danh đúng hoặc định tội danh sai.
Định tội đúng có nghĩa là xác định chính xác một hành vi cụ thể đã thực hiện
thoả mãn các dấu hiệu pháp lý của một cấu thành tội phạm cụ thể được quy định
trong BLHS, trong đó không những xác định được điều luật mà còn cả điểm, khoản
tương ứng của điều luật cụ thể áp dụng đối với người, pháp nhân thực hiện hành vi
đó. Ngược lại định tội danh không đúng là xác định một hành vi không đúng với
hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm.
- Khi định tội danh đúng sẽ có ý nghĩa như sau:
+ Là sự đánh giá về mặt pháp lý hình sự duy nhất đối với hành vi nguy hiểm
cho xã hội đã thực hiện và đang được xem xét.
+ Định tội đúng giúp phân biệt được giữa hành vi vi phạm pháp luật hình sự
bị coi là tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác không phải là tội phạm để
từ đó giúp các cơ quan tố tụng phân loại chính xác tố giác tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố là tiền đề để xác định trình tự tố tụng giải quyết chính xác, nhanh
20
chóng, kịp thời.
+ Định tội đúng bảo đảm cho truy cứu trách nhiệm hình sự và kết tội một
người đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nghĩa là bảo đảm thực hiện tốt nhiệm
vụ thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự hoặc bào chữa cho một người đạt
kết quả tốt
+ Định tội đúng góp phần giúp các chủ thể thực hiện tốt chức năng trong tố
tụng hình sự, phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp
để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan tố tụng và cá nhân này, bảo
đảm thực hiện tốt các quy định của luật hình sự và luật tố tụng hình sự.
+ Định tội đúng cũng là cơ sở để áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự, áp dụng các biện pháp điều tra, cưỡng chế, ngăn chặn đúng quy định, thực hiện
thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử...
+ Định tội đúng của cơ quan điều tra, truy tố và người bào chữa là tiền đề để
giúp Tòa án quyết định hình phạt một cách có căn cứ và đúng pháp luật.
+ Định tội danh đúng là tiền đề cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá
thể hoá hình phạt một cách công minh có căn cứ pháp luật.
+ Định tội danh đúng sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện một loạt các nguyên
tắc tiến bộ được thừa nhận trong Nhà nước pháp quyền như: nguyên tắc pháp chế,
trách nhiệm do lỗi, trách nhiệm cá nhân, bình đẳng trước pháp luật hình sự, nguyên
tắc công minh nhân đạo và nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm.
Như vậy, định tội danh đúng có ý nghĩa quan trọng trong tố tụng hình sự,
làm cơ sở cho việc kết thúc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội. Định tội
danh đúng là cơ sở cho việc quyết định đúng các biện pháp cưỡng chế, áp dụng các
thời hạn tố tụng và quan trọng hơn là quyết định đúng hình phạt chính hay bổ sung
đối với người hay pháp nhân thương mại phạm tội.
Với các phân tích trên ta có thể thấy: “ Định tội danh đúng là biểu hiện của
việc thực hiện đúng biện pháp chính trị, thực thi đúng chính trị, thực thi đúng ý chí
của nhân dân đã được thể hiện trong luật, bảo vệ có hiệu quả các lợi ích của xã
21
hội, của Nhà nước và của con người, của công dân” [39, tr29]
- Khi định tội danh sai:
+ Định tội danh sai sẽ dẫn đến một loạt các hậu quả tiêu cực như: không đảm
bảo được tính công minh có căn cứ đúng pháp luật, truy cứu trách nhiệm hình
sự người vô tội, bỏ lọt người phạm tội, xâm phạm thô bạo danh dự nhân phẩm
các quyền tự do dân chủ của công dân là giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận
trong Nhà nước, ngoài danh dự, nhân phẩm, quyền tự do dân chủ, quyền con người
bị xâm hại thì người bị định tội danh sai còn mất đi rất nhiều quyền lợi về tài sản,
việc làm và ảnh hưởng rất lớn đến hạnh phúc gia đình một số trường hợp còn liên
quan đến danh dự của của một dòng họ, cả một thế hệ con cháu bị ảnh hưởng, xã
hội coi thường, kỳ thị…
+ Định tội danh sai làm giảm uy tín của các Cơ quan tố tụng, vi phạm pháp
chế XHCN, ảnh hưởng đến niềm tin của người dân, cơ quan, tổ chức và quan trọng
là ảnh hưởng đến hiệu quả của đấu tranh phòng chống tội phạm. [28, tr. 4,5,6].
Từ các phân tích trên ta thấy được,định tội danh tội buôn lậu là chúng ta xác
định các hành vi nguy hiểm của một người nào đó, một pháp nhân thương mại nào
đó có thỏa mãn cấu thành tội buôn lậu hay không? định tội danh là một giai đoạn cơ
bản và tối quan trọng của việc áp dụng pháp luật hình sự. Việc định tội danh đúng
sẽ quyết định hình phạt đúng thể hiện ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội, đạo đức và
pháp lý rất lớn với việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.
Đối với tội Buôn lậu, gian lận thương mại hay buôn bán hàng nhái, hàng giả
ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế trong nước về lâu về dài, tuy nhiên nó ảnh hưởng
trực tiếp nhất là đến người tiêu dùng vì nếu hàng hóa nhập khẩu không tuân thủ các
quy định thì Nhà nước sẽ không kiểm soát, không bảo đảm được chất lượng hàng
hóa ở nước ngoài nhập vào Việt Nam, cũng như nếu hàng hóa Việt Nam Xuất khẩu
ra nước ngoài nếu không đảm bảo về chất lượng sản phẩm thì sẽ làm mất uy tín, ảnh
hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp sản xuất trong nước, ảnh hưởng đến nguồn thu
cho doanh nghiệp cũng như ngân sách Nhà nước. Do vậy, việc định tội danh đúng
đối với tội buôn lậu dẫn xử lý đúng người đúng tội, áp dụng đúng biện pháp chế tài
22
đối với cá nhân, pháp nhân thương mại phạm tội, bảo vệ được nền sản xuất công
nghiệp trong nước, chính sách xuất nhập khẩu của Nhà nước, chống thất thoát thuế
xuất nhập khẩu và bảo vệ được sức khỏe của người tiêu dùng trong nước. Ngoài ra
nó cũng giúp trừng trị, răn đe những cán bộ Nhà nước thực thi công vụ trong lĩnh
vực xuất, nhập khẩu hàng hóa phải luôn tuân thủ pháp luật trong quá trình thực thi
nhiệm vụ. [15]
1.2. Pháp luật về định tội danh tội buôn lậu
1.2.1. Cấu thành tội phạm tội buôn lậu theo BLHS năm 2015
Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn thực hiện Bộ luật hình sự khác là cơ
sở pháp lý cao nhất quy định Tội phạm và hình phạt .
Với nguyên tắc, cơ sở thống nhất “chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật
hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự; chỉ pháp nhân thương mại
nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định tại điều 76 của Bộ luật này mới
phải chịu trách nhiệm hình sự (điều 2 BLHS năm 2015)”. Quy định này đảm bảo
thống nhất trong việc định tội danh, loại trừ khả năng cho phép bất kỳ một cơ quan,
tổ chức hay cá nhân nào được phép mở rộng, thu hẹp hay có bất cứ hành vi nào sửa
đổi theo ý chí, mục đích riêng của mình.
Cấu thành tội phạm của mỗi tội phạm cụ thể được quy định trong một quy
phạm pháp luật hình sự, quy phạm đó được thể hiện cơ bản trong một điều luật của
phần các tội phạm của BLHS, tuy nhiên phần các tội phạm cụ thể (tội buôn lậu)
không thể hiện đầy đủ của dấu hiệu của CTTP, để nhận thức đầy đủ, chính xác một
CTTP cụ thể thì ngoài các quy định của phần các tội phạm, các chủ thể định tội phải
nhận thức các dấu hiệu khác của CTTP được thể hiện trong các quy định của phần
chung BLHS (ví dụ dấu hiệu về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, dấu hiệu về
lỗi…), đây là điều kiện bắt buộc để định tội danh. [11, tr 57]
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì: “Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý duy
nhất của việc định tội danh, là mô hình pháp lý có các dấu hiệu cần và đủ để truy
cứu TNHS” [39, tr 68]
Vì xác định Cấu thành tội phạm như được hiểu là cơ sở duy nhất của việc định
23
tội danh, là mô hình pháp lý có các dấu hiệu cần và đủ để truy cứu TNHS. Do vậy,
từ góc độ lập pháp, người làm luật cần quy định chính xác, cụ thể, xác định rõ ràng
các dấu hiệu của cấu thành tội phạm để có thể chứng minh được trong thực tế và
phân biệt với các cấu thành khác; từ góc độ áp dụng pháp luật, người định tội cần
nhận thức chính xác, đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm [29,tr 9]
Do đó, Trong hoạt động áp dụng pháp luật để định tội danh buôn lậu thì bắt
buộc phải dựa vào cấu thành tội buôn lậu. Vì tính chất bảo vệ trật tự quản lý kinh tế
trong nước về xuất khẩu, nhập khẩu, bảo vệ, khuyến khích nền sản xuất công
nghiệp trong nước, bảo vệ người tiêu dùng trong nước, chống lại việc trốn thuế xuất
khẩu, nhập khẩu…do đó Nhà nước xây dựng quy định về tội buôn lậu với Cấu
thành hình thức, chỉ cần có hành vi trái quy định pháp luật để nhằm mục đích nhập
hàng hóa qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại là đã
cấu thành tội buôn lậu chứ không cần đến hậu quả xảy ra. Tội phạm buôn lậu là một
thể thống nhất gồm 04 yếu tố: Khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan.
Các yếu tố này quan hệ chặt chẽ với nhau, tuy nhiên mỗi yếu tố cũng có tính riêng
độc lập tương đối với các yếu tố còn lại.
Các yếu tố của CTTP tội buôn lậu thể hiện như sau: [14,tr.169,170]
1.2.1.1. Mặt Khách thể của tội buôn lậu:
Hành vi phạm tội buôn lậu xâm phạm đến hoạt động quản lý kinh tế nhà
nước về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, tiền tệ, kim khí quý, di vật, cổ vật, vật
phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa. Chính sách xuất nhập khẩu hàng hóa của Nhà
nước luôn thay đổi theo từng thời kỳ để phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội của
đất nước cũng như thế giới.
Đối tượng tác động: Hàng hoá; tiền đồng Việt Nam, ngoại tệ (như USD,
Yên…); Kim khí quý, đá quý (vàng, bạc, kim cương…); Vật phẩm thuộc di tích lịch
sử, văn hoá; Hàng cấm (bị Nhà nước cấm lưu thông).
Từ BLHS năm 2015 đã bỏ đối tượng là “hàng cấm” ra khỏi tội buôn lậu mà
chuyển hẳn sang tội buôn bán hàng cấm tại điều 190
1.2.1.2. Mặt khách quan của tội buôn lậu:
24
Về hành vi: có hành vi buôn bán trái phép qua biên giới hoặc từ khu phi thuế
quan vào nội địa hoặc ngược lại.
Việc buôn bán trái phép được thể hiện ở chỗ mua hoặc bán không có giấy
phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép xuất, nhập khẩu và các quy định
khác của Nhà nước về hải quan (ví dụ: Giấy phép nhập khẩu là máy móc, thiết bị
dùng cho sản xuất nông nghiệp nhưng thực tế lại mua bán máy móc sử dụng cho
tiêu dùng như tủ lạnh, xe gắn máy, tivi…), các trường hợp cấp các giấy phép con
này thì trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử chúng ta phải viện dẫn đến quy định
chuyên nghành để xem xét quy trình, thủ tục và thẩm quyền cấp đó đúng không?
Tại thời điểm cấp phép và thời điểm bị truy tố, xét xử có thay đổi, bổ sung, thay thế
hay hủy bỏ không? Nếu có những điểm có lợi cho người phạm tội thì cần phải vận
dụng, áp dụng cho người phạm tội.
Trường hợp kinh doanh xuất nhập khẩu đúng giấy phép nhưng khai không
đúng số lượng (khai ít hơn số lượng thực nhập) hoặc nhập vượt quá mức mà giấy
phép xuất, nhập khẩu cho phép thì cũng bị coi là buôn lậu nhưng chỉ truy cứu trách
nhiệm đối với phần chưa khai hoặc xuất nhập khẩu vượt mức cho phép.
Thủ đoạn rất đa dạng, một số được thể hiện qua việc khai báo gian dối (nhiều
hay ít, mặt hàng này lại khai là mặt hàng khác..), giả mạo giấy tờ, giấu giếm hàng,
tiền… hoặc đi vòng tránh khỏi khu vực cửa khẩu để trôn tránh sự kiểm soát của cơ
quan có thẩm quyền. Cũng có trường hợp các đối tượng buôn lậu móc nối với cán
bộ hải quan, cửa khẩu để nhập hàng không đúng giấy phép hoặc khai tăng, giảm số
lượng hàng nhập hoặc một số trường hợp nhập hàng lậu dưới hình thức tạm nhập,
tái xuất, khi nhập hàng về không xuất đi mà tiêu thụ ngay trong nước.
Thời điểm hoàn thành tội phạm này tính từ thời điểm đưa hàng, tiền qua biên
giới một cách trái phép vào Việt Nam.
Vậy, Biên giới ở đây không chỉ hiểu là biên giới theo địa lý trên đất liền, trên
không, trên biển mà là các cửa khẩu kiểm soát việc xuất cảnh, nhập cảnh, xuất nhập
khẩu hàng hóa (cảng sân bay, cảng biển…).Tuy nhiên nếu là đưa hàng, tiền từ Việt
Nam ra nước ngoài thì không nhất thiết tính từ thời điểm qua biên giới Việt Nam.
25
(Chẳng hạn hàng hoá được tập kết gần biên giới chuẩn bị đưa trái phép qua biên
giới thì bị phát hiện.
Về giá trị hàng phạm pháp làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự, định
khung:
Đối với hàng hoá, tiền tệ Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý phải có giá
trị từ một trăm triệu đồng trở lên. Trường hợp dưới một trăm triệu đồng thì phải
thuộc trường hợp đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều
này hoặc tại một trong các điều 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của
Bộ luật hình sự năm 2015 hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa
án tích mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 248,
249, 250, 251, 252, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của BLHS năm 2015;
Đồng thời cho đến thời điểm có hành vi buôn lậu bị phát hiện thì vẫn chưa
được xoá án tích đối với việc phạm các tội nêu trên mà còn vi phạm về hành vi
buôn lậu và không phải thuộc các trường hợp quy định tại các điều sau đây: Tội sản
xuất trái phép chất ma tuý; Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma tuý; Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng
vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý; Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán
các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma
tuý; Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
vũ khí vận dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ; Tội chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ
trợ; Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất phóng xạ; Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép
chất cháy, chất độc.
Đối với di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hoá thì điều luật không
quy định cụ thể mức tối thiểu giá trị vật phạm pháp, vì những vật phẩm loại này
chứa đựng những giá trị tinh thần (vô giá) mà không thể tính được bằng tiền. Tuy
nhiên cầu lưu ý: Di tích lịch sử, văn hoá phải là những di tích đã được cơ quan nhà
26
nước có thẩm quyền có quyết định công nhận và xếp hạng.
Như vậy, ngoài hành vi khách quan của tội buôn lậu thì tội buôn lậu còn có
dấu hiệu bắt buộc đó là: Giá trị hàng hóa vi phạm, địa điểm phạm tội (qua biên giới
hay khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại). Hành vi nguy hiểm cho xã hội
và hậu quả gây ra có mối quan hệ trực tiếp đó là Nhà nước thất thoát tiền thuế xuất
nhập khẩu hàng hóa, không kiểm soát được hàng hóa xuất nhập khẩu. Tuy nhiên
trong thực tế thì quá trình điều tra, truy tố, xét xử các Cơ quan tố tụng không căn cứ
vào hậu quả của hành vi buôn lậu gây ra vì buôn lậu thuộc cấu thành hình thức nên
chỉ cần có hành vi xuất nhập khẩu hàng hóa trái quy định pháp luật là đã đủ cơ sở
định tội buôn lậu. Còn giá trị hàng hóa, tiền việt Nam, Kim khí quý, Đá quý, di vật,
cổ vật quy định trong điều luật chỉ là giá trị của vật phạm pháp chứ không xác định
nó là hậu quả.
Như vậy, để xét về mặt khách quan của tội phạm buôn lậu cần làm rõ các dấu
hiệu như sau:
Dấu hiệu về mặt chứng cứ: cũng giống như các vụ án hình sự khác thì định
tội danh tội buôn lậu cũng phải thu thập các chứng cứ theo đúng các quy định tại
điều 86,87,88 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS). Các nguồn chứng cứ theo khoản 1
điều 87 gồm có (07 loại): 1. Chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn: a) Vật
chứng; b) Lời khai, lời trình bày; c) Dữ liệu điện tử; d) Kết luận giám định, định
giá tài sản; đ) Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án; e) Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác; g) Các tài liệu,
đồ vật khác.
Với đặc thù của tội buôn lậu là hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa, vàng,
ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử văn
hóa…thực hiện thông qua cửa khẩu hải quan, cửa khẩu. Nên phải xác minh, điều tra
rõ các vấn đề sau:
Về đối tượng mua bán: là hàng hóa gì? trước thời điểm BLHS 2015 có hiệu lực
có phải là hàng cấm không? Các thủ tục nhập hàng hóa thường có trong buôn lậu
thường phải làm rõ gồm có: Bản lược khai hàng hóa trước khi hàng nhập khẩu về
27
đến cảng, hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương, tờ khai hải quan, packing list,
tờ khai hải quan, biên bản đóng thuế xuất nhập khẩu, GTGT, Tiêu thụ đặc biệt, Hồ
sơ vận chuyển của hãng tàu biển, máy bay, các biên bản kiểm tra, kiểm hóa hàng
hóa, biên bản, quyết định xử lý vi phạm của hải quan, các biên bản xử phạt hành
chính mà người phạm tội đã bị phạt (chưa hết án tích), các bản án bị tuyên chưa
được xóa án tích theo quy định tại khoản 1 điều 188 BLHS.
Thông qua lấy lời khai bị can bị cáo, những cá nhân, cơ quan và tổ chức liên
quan và bằng các biện pháp tố tụng làm rõ có thêm những hành vi khác ngoài hành
vi buôn lậu không ví dụ như: hành vi hối lộ, hành vi lạm dụng chức vụ quyền
hạn…) nếu có cơ sở thì khởi tố và điều tra xét xử.
Xác định địa điểm xảy ra hành vi được coi là buôn lậu? hàng hóa đã được di
chuyển qua biên giới hay chưa?đang nằm ở đâu (tập kết ở cảng, kho ngoại quan…).
Để định tội danh tội buôn lậu phải thì phải thu thập tất cả những chứng cứ
trong nguồn chứng cứ một cách trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy
định.
1.2.1.3. Mặt chủ quan của tội buôn lậu:
Dấu hiệu cơ bản về mặt chủ thể là dấu hiệu về lỗi, đó là thái độ về mặt tâm lý
bên trong của người phạm tội. Lỗi gồm có: lỗi cố ý (trực tiếp và gián tiếp), lỗi vô ý
(vô ý do cẩu thả và vô ý do quá tự tin)
Đối với tội phạm buôn lậu thì người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý
trực tiếp vì người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là buôn bán trái phép qua
biên giới, thấy trước được hậu quả của hành vi trái phép là nguy hiểm cho xã hội, bị
pháp luật cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện và mong muốn cho hậu quả xảy ra.
Mục đích của hành vi buôn bán trái phép qua biên giới là thu lời bất chính.
Biểu hiện của mục đích thu lời bất chính là trốn thuế nhập khẩu, xuất khẩu.
Trong quá trình định tội danh buôn lậu phải phân biệt về mục đích của đối
tượng nếu trong trường hợp vận chuyển với mục đích buôn bán kiếm lời thì phải
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu, còn người vận chuyển không phải là
28
chủ hàng, chỉ với mục đích là vận chuyển để lấy tiền công (chở thuê) thì truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới.
1.2.1.4. Chủ thể của tội buôn lậu:
Chủ thể của tội buôn lậu không có gì khác biệt so với chủ thể các tội phạm
khác (chủ thể thường) là bất kỳ người, pháp nhân thương mại nào có năng lực trách
nhiệm hình sự tức là nếu là cá nhân thì có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi
và đủ 16 tuổi trở lên (BLHS năm 2015 quy định tại điều 12); nếu là pháp nhân thì
phải là pháp nhân thương mại theo quy định tại điều 75 của Bộ luật hình sự năm
2015. [34].
Như vậy, BLHS là nguồn trực tiếp của việc định tội danh tội buôn lậu nói
riêng cũng như các tội phạm khác, khi định tội danh thì người có thẩm quyền định
tội phải căn cứ vào các dấu hiệu pháp lý của các cấu thành tội phạm để xem xét.
Các dấu hiệu của từng cấu thành tội phạm được quy định ở cả Phần chung và Phần
các tội phạm của BLHS. Tuy nhiên, cần lưu ý là khi nói đến cấu thành tội phạm với
tính cách là khuôn mẫu pháp lý của tội phạm thì không chỉ là các cấu thành tội
phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng, cấu thành tội phạm giảm nhẹ của
những tội phạm hoàn thành do người thực hành tội phạm thực hiện mà còn bao gồm
cả những cấu thành tội phạm của hành vi chuẩn bị phạm và cấu thành tội phạm của
những hành vi đồng phạm (cấu thành tội phạm của hành vi xúi giục, hành vi tổ chức
và hành vi giúp sức). Trong quá trình định tội, thông thường các quy định ở Phần
chung của BLHS không cần viện dẫn, trừ các trường hợp như các trường hợp chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đồng phạm
Các văn bản quy phạm pháp luật khác cũng có thể là cơ sở pháp lý của việc
định tội:
- Có nhiều quy phạm pháp luật như Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Nghị quyết...
có chứa đựng quy phạm pháp luật mang tính viện dẫn luật hình sự thì ngoài việc
phải căn cứ vào BLHS còn phải căn cứ vào các quy định trong các văn bản pháp
luật có liên quan để định tội. Ví dụ, để xác định hành vi của một người phạm tội vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ thì phải căn cứ vào
29
Luật giao thông đường bộ để xác định người điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ vi phạm điều, khoản nào của Luật này.
- Để thi hành BLHS, Quốc hội giao cho Cơ quan của quốc hội, TAND tối
cao, VKSND tối cao, Chính phủ trong phạm vi chức năng của mình có trách nhiệm
hướng dẫn thi hành BLHS. Các văn bản hướng dẫn áp dụng BLHS do các cơ quan
này ban hành là các văn bản giải thích luật, như: Nghị quyết của Ủy ban thường vụ
quốc hội, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, Thông tư liên tịch
của các cơ quan liên ngành. Những văn bản này cũng phải được xem xét, áp dụng
khi định tội. Tuy nhiên, cần lưu ý là các văn bản giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp
luật như đã nêu trên cũng phải tuân thủ đúng nội dung trong các quy định của
BLHS mới là căn cứ để định tội.
Cụ thể trong định tội danh tội buôn lậu liên quan đến hoạt động kinh tế,
ngoại thương, xuất nhập khẩu do đó có thể bằng nhiều phương thức xử lý tùy hành
vi vi phạ ( xử lý hành chính, xử lý hình sự) thì chúng ta xem xét, viện dẫn đến
những quy định của luật chuyên nghành đối với những mặt hàng vi phạm ví dụ như
Luật an toàn thực phẩm và các nghị định hướng dẫn đối với hàng hóa nhập khẩu là
lương thực thực phẩm, các văn bản hướng dẫn về hải quan, xuất nhập khẩu, các
nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản
xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (nghị định
185/2013/NĐ-CP ) tại điều 3 có phần mô tả, giải thích thế nào là hàng nhập lậu,
hàng giả, về các hành vi vi phạm …khi thực hiện hoạt động định tội danh đối với
tội buôn lậu thì cũng nên xem xét vận dụng, áp dụng.
Tóm lại, với những phân tích các yếu tố của CTTP tội buôn lậu nói trên thì
chúng ta có thể khái quát CTTP tội buôn lậu là hệ thống các dấu hiệu cần và đủ đặc
trưng cho tội buôn lậu theo quy định của BLHS.
1.2.2. Định tội danh tội buôn lậu trong các trường hợp đặc biệt
1.2.2.1. Định tội tội buôn lậu trong trường hợp phạm tội chưa đạt
- Luật hình sự Việt Nam không chỉ xem hành vi thỏa mãn đầy đủ các dấu
hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản là tội phạm, mà còn xem cả hành vi chuẩn bị
30
cho việc thực hiện tội phạm cố ý cũng như hành vi chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu
của cấu thành tội phạm của một tội cố ý vì nguyên nhân khách quan là tội phạm. Và
để có cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự, thì hành vi chuẩn bị phạm tội
cũng như hành vi phạm tội chưa đạt cũng có những đặc điểm cấu thành riêng biệt:
đó là cấu thành tội phạm của chuẩn bị phạm tội và cấu thành tội phạm của phạm
tội chưa đạt.
- Cấu thành tội phạm của chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt không
được phản ánh trực tiếp tại từng tội danh cụ thể mà thể hiện trong phần chung của
BLHS. Đó là các dấu hiệu có tính chất chung cho tất cả các tội danh nhưng chưa
phải là cấu thành của chuẩn bị phạm tội và cấu thành của phạm tội chưa đạt của
riêng một tội phạm cụ thể nào cả. Cấu thành tội phạm chỉ được hình thành trên cơ
sở kết hợp cấu thành tội phạm của một tội phạm cụ thể với quy định chung về
chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Vì thế, nếu đối chiếu hành vi chuẩn bị
phạm tội hay phạm tội chưa đạt với riêng cấu thành cơ bản của một tội cụ thể thì
hành vi này hoặc không thỏa mãn, hoặc chưa thỏa mãn hết những dấu hiệu của cấu
thành tội phạm cơ bản. Nhưng nếu đặt cấu thành cơ bản trong mối liên hệ với điều
luật quy định về các giai đoạn thực hiện tội phạm thì hành vi chuẩn bị phạm tội và
phạm tội chưa đạt đều hoàn toàn thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội phạm
cơ bản và của các quy định về giai đoạn thực hiện tội phạm.
- Hành vi chuẩn bị phạm tội, với tính chất là một giai đoạn thực hiện tội
phạm, được hiểu là hành vi tạo ra các điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm
nhưng bị chấm dứt do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người
thực hiện hành vi. Theo quy định tại Điều 14 BLHS, người chuẩn bị phạm một
trong một số trường hợp cụ thể phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp
nếu thấy có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng một người chuẩn bị thực hiện một tội
phạm nhưng chưa có đủ căn cứ để xác định được tội phạm mà họ định thực hiện là
tội gì thì phải làm rõ đó có phải là một trong các tội được quy định tại điều 14
BLHS hay không, như vậy mới có cơ sở để định tội đối với hành vi do người đó
thực hiện. Ví dụ, A sửa soạn công cụ, phương tiện để phạm tội. Nếu chỉ chứng minh
31
được A sửa soạn công cụ, phương tiện để trộm cắp tài sản thì A không phải chịu
trách nhiệm hình sự về hành vi chuẩn bị phạm tội của tội trộm cắp tài sản theo Điều
173 BLHS, không được khởi tố bị can đối với A. Nếu đã khởi tố bị can thì phải định
chỉ. Khi định tội đối với hành vi chuẩn bị phạm một tội phạm cụ thể, ngoài việc
viện dẫn điều luật tương ứng trong Phần các tội phạm của BLHS còn phải viện dẫn
Điều 14 BLHS. Ví dụ, khi định tội đối với hành vi chuẩn bị giết người phải viện
dẫn Điều 123 và Điều 14 BLHS.
- Theo quy định tại Điều 15 BLHS, phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội
phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn
của người phạm tội. Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm chưa đạt. Như vậy, về nguyên tắc, khi đã xác định được một người thực hiện
hành vi có đủ dấu hiệu của trường hợp phạm tội chưa đạt thì phải định tội đối với
hành vi đó giống như đối với tội phạm hoàn thành tương ứng, đồng thời viện dẫn
Điều 15 BLHS. Ví dụ, khi định tội đối với hành vi trộm cắp tài sản chưa đạt thì phải
viện dẫn Điều 173 và Điều 15 BLHS.
- Định tội đối với hành vi phạm tội chưa đạt, chỉ khi có đầy đủ căn cứ xác
định rằng tội phạm mà người phạm tội không thực hiện được đến cùng vì những
nguyên nhân ngoài ý muốn của họ thuộc khoản nào của điều luật tương ứng quy
định về tội phạm đó thì mới định tội theo khoản, điều luật tương ứng đó. Trong tr-
ường hợp xác định được hành vi chưa đạt mà người đó thực hiện không có đầy đủ
các dấu hiệu cấu thành tội phạm hoặc trong trường hợp không thể xác định được
hành vi vi phạm mà họ thực hiện đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm hay
chưa thì phải quy kết là người đó không phạm tội.
Ví dụ: A chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa bị
kết án về tội chiếm đoạt tài sản hoặc đã từng bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản,
nhưng đã được xoá án tích. A vào nhà của người khác với ý thức có tài sản gì thì lấy
trộm tài sản đó, nhưng chưa lấy được tài sản gì thì bị phát hiện và bị bắt giữ. Trong
trường hợp này, không thể xác định được hành vi vi phạm của A đã có đủ các dấu
hiệu cấu thành tội phạm hay chưa (không thể xác định được giá trị tài sản bị chiếm
32
đoạt); do đó, phải quy kết A không phạm tội "trộm cắp tài sản".
- Trong trường hợp đã xác định được hành vi của một người là hành vi phạm
tội nhưng không xác định được tội phạm mà họ thực hiện chưa đạt thuộc khoản cụ
thể nào của điều luật tương ứng quy định về tội phạm đó, thì phải định tội theo
khoản nhẹ nhất của điều luật tương ứng đó.Ví dụ: A đã bị kết án và bị xử phạt 1
năm tù về tội "cướp giật tài sản" chưa được xoá án tích, vào nhà của người khác với
ý thức có tài sản gì thì lấy trộm tài sản đó, nhưng chưa lấy được tài sản gì thì bị phát
hiện và bị bắt giữ. Trong trường hợp này, nếu không xác định được mục đích của A
chiếm đoạt tài sản trị giá theo các khung hình phạt tăng nặng của tội trộm cắp tài
sản (Khoản 2, 3 hoặc 4 của Điều 173 BLHS) thì chỉ có thể kết luận A phạm tội trộm
cắp tài sản theo Khoản 1 Điều 173 BLHS. [18]
Vậy đối với tội buôn lậu được xây dựng trên CTTP hình thức cho nên sẽ
trường hợp tội phạm đã hoàn thành về luật mà chưa đạt về mục đích (chưa đưa
được hàng hóa...qua biên giới, chưa tiêu thụ trót lọt...) do những nguyên nhân ngoài
ý muốn của người phạm tội như điều 15 BLHS, do đó trong quá trình định tội danh
phải xem xét, phân loại các hành vi của người phạm tội một cách khách quan, toàn
diện.
1.2.2.2. Định tội danh tội buôn lậu trong trường hợp đồng phạm
Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cùng cố ý thực hiện một tội
phạm (khoản 1 điều 17 BLHS). Đồng phạm quy định ở phần chung của BLHS,
không quy định riêng cho từng tội phạm, kể cả tội buôn lậu.
Về mặt cấu thành tội phạm trong trường hợp đồng phạm là về chủ thể có 02
người trở lên, lỗi cùng cố ý…và cùng thực hiện hành vi của một tội phạm. Trong
một vụ án nói chung và vụ án buôn lậu nói riêng nếu có nhiều bị can bị cáo nhưng
họ thực hiện riêng rẻ, không cùng một tội phạm thì phải xem xét khởi tố tội riêng
hoặc nếu không có căn cứ là đồng phạm hoặc thực hiện một tội phạm khác thì phải
đình chỉ điều tra, truy tố hoặc tuyên không có tội. Ví dụ: một nhóm nhiều người rủ
nhau đi cướp, đang đi thì gặp A, A ham vui nên đi dù không được biết nhóm kia đi
cướp mà chỉ đứng bên ngoài khi nhóm kia vô trong nhà thực hiện cướp tài sản, sau
33
khi A về nhà thì mới biết nhưng lại không nói. Như vậy, trong trường hợp này
không thể định tội A là đồng phạm giúp sức tội cướp tài sản được vì ngay khi nhóm
kia thực hiện tội phạm thì A hoàn toàn không biết, nhưng sau khi biết A không trình
báo Công an thì có thể khởi tố A tội không tố giác tội phạm và xét xử trong cùng vụ
án.
Theo quy định tại khoản 3 điều 17 thì đồng phạm gồm có: người tổ chức,
người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.
- Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
- Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
- Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện
tội phạm.
- Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực
hiện tội phạm.
Qua thực tế thì những vụ án hình sự xảy ra thì có rất nhiều đồng phạm cùng
thực hiện một tội phạm, do đó quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì việc định tội
danh chính xác tội là bước quan trọng, qua đó xác định các vai trò đồng phạm của
các bị can, bị cáo trong cùng một tội cũng quan trọng không kém trong quá trình xét
xử nếu Toà án đã xác định sai vai trò đồng phạm, cụ thể xác định người thực hành
thành người giúp sức, dẫn đến đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội
không chính xác và quyết định hình phạt cũng không chính xác.
Khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định: Toà án có thể quyết định một
hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt
buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm
tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm, nhưng có vai trò không đáng
kể.
Quy định này cho thấy quan điểm của nhà làm luật là nói chung trong vụ án
đồng phạm, đồng phạm giúp sức thường có vai trò hạn chế nhất, do đó, họ có thể
được xét xử với mức án thấp hơn nhiều so với các loại người đồng phạm khác. Tuy
nhiên, khái niệm đồng phạm giúp sức phải được hiểu theo đúng tinh thần khoa học
34
luật hình sự, chứ không phải theo nhận thức cảm tính, không đồng nhất mỗi nơi áp
dụng một kiểu. [13]
1.2.2.3. Định tội danh buôn lậu đối với trường hợp tranh chấp nhiều cấu
thành tội phạm
Qua thực tế điều tra, xét xử án hình sự thì thường có một đến nhiều hành vi
nguy hiểm cho xã hội tội phạm. Các hành vi này có thể là chỉ thõa mãn, phù hợp
với một CTTP nhưng trong những chuỗi hành vi đó có trường hợp lại thỏa mãn với
nhiều CTTP. Do đó trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì cần cân nhắc định tội
danh một tội hay nhiều tội. Như vậy, đặt ra vấn đề định tội danh như thế nào, định
một tội danh hay nhiều tội danh vì việc này ảnh hưởng đến việc quyết định hình
phạt của Tòa án. [14, tr. 115-117]
Do vậy, căn cứ vào mối quan hệ giữa các CTTP mà hành vi phạm tội thỏa
mãn dấu hiệu, chúng ta chia hành vi làm 02 nhóm:
+ Nhóm thứ nhất: nhóm CTTP có mối quan hệ giữa CTTP chung và CTTP
riêng: CTTP chung là cấu thành thể hiện những dấu hiệu có đặc tính chung của tội
phạm, cấu thành chung là một phần của CTTP riêng, còn CTTP riêng không thể
hiện được hết trong CTTP chung, ví dụ tội giết người có cấu thành thanh chung so
với các tội giết con mới đẻ, giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng…
Vậy cơ sở lý luận để định tội danh ở trường hợp này phải dựa vào lý luận của
triết học Mác – Lê Nin về phạm trù cái chung – Cái riêng. Cái riêng lúc nào cũng là
một phần của cái chung và còn chứa đựng các dấu hiệu đặc trưng khác của nó. Do
vậy, trường hợp này ta phải định tội danh căn cứ vào CTTP riêng.
+ Trường hợp CTTP không có mối quan hệ giữa cấu thành chung và cấu
thành riêng: Trường hợp này trong quá trình định tội danh phải xem xét ở nhiều góc
độ khác nhau, đó là một quá trình phức tạp cần phải xem xét một cách khách quan,
tỉ mỉ. [36, tr.209-214].
Thực tiễn các vụ án buôn lậu xảy ra, thì các hành vi của bị can bị cáo ngoài
thỏa mãn cấu thành tội buôn lậu, có nhiều trường hợp còn thỏa mãn cấu thành tội
đưa, nhận hối lộ, tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Do đó, khi định
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sựLuận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
 
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOTTội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện BiênLuận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
 
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOTLuận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCMLuận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
 
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đLuận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, 9đ
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, 9đLuận văn: Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, 9đ
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, 9đ
 
Luận văn: Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Luận văn: Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộLuận văn: Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Luận văn: Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
 
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đLuận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOTLuận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang, HAY
Luận văn: Tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang, HAYLuận văn: Tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang, HAY
Luận văn: Tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh An Giang, HAY
 
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luậtLuận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
 

Similar to Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ...
 Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ... Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ...hieu anh
 
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...hanhha12
 
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...TiLiu5
 
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...phamhieu56
 
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...hieu anh
 

Similar to Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620 (20)

Bài mẫu luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, 9 ĐIỂM
Bài mẫu luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, 9 ĐIỂMBài mẫu luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, 9 ĐIỂM
Bài mẫu luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội buôn lậu tại TPHCM, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội buôn lậu tại TPHCM, HAYLuận văn: Phòng ngừa tình hình tội buôn lậu tại TPHCM, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội buôn lậu tại TPHCM, HAY
 
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên QuangLuận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
 
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam tại Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam tại Tuyên QuangLuận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam tại Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam tại Tuyên Quang
 
Luận văn: Phòng ngừa tội vận chuyển trái phép chất ma túy, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tội vận chuyển trái phép chất ma túy, HAYLuận văn: Phòng ngừa tội vận chuyển trái phép chất ma túy, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tội vận chuyển trái phép chất ma túy, HAY
 
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự tại TPHCM, 9đ
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự tại TPHCM, 9đLuận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự tại TPHCM, 9đ
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự tại TPHCM, 9đ
 
Pháp luật về phòng, chống gian lận thương mại tại Hải Phòng, 9đ
Pháp luật về phòng, chống gian lận thương mại tại Hải Phòng, 9đPháp luật về phòng, chống gian lận thương mại tại Hải Phòng, 9đ
Pháp luật về phòng, chống gian lận thương mại tại Hải Phòng, 9đ
 
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
 
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ...
 Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ... Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ...
 
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
 
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
 
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
 
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự Việt Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự Việt Nam, 9 ĐIỂMLuận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự Việt Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự Việt Nam, 9 ĐIỂM
 
Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc theo pháp luật tại Đà Nẵng, 9đ
Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc theo pháp luật tại Đà Nẵng, 9đTội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc theo pháp luật tại Đà Nẵng, 9đ
Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc theo pháp luật tại Đà Nẵng, 9đ
 
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sựLuận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
 
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...
 
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo luật
Định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo luậtĐịnh tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo luật
Định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo luật
 
Luận văn: Quy định của bộ luật hình sự về tội rửa tiền, HOT
Luận văn: Quy định của bộ luật hình sự về tội rửa tiền, HOTLuận văn: Quy định của bộ luật hình sự về tội rửa tiền, HOT
Luận văn: Quy định của bộ luật hình sự về tội rửa tiền, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 

Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ LONG BÌNH ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ LONG BÌNH ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Đức Hạnh HÀ NỘI, năm 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Đức Hạnh. Nội dung và các kết luận trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hoàn toàn trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Học viên Nguyễn Thị Long Bình
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU...........................................................................................7 1.1. Những vấn đề lý luận về định tội danh tội buôn lậu........................................7 1.2. Pháp luật về định tội danh tội buôn lậu……………………………………22 Chương 2: TÌNH HÌNH TỘI BUÔN LẬU VÀ THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU TẠI TP HỒ CHÍ MINH 2.1. Khái quát về tình hình tội phạm buôn lậu trên địa bàn TP.HCM ..................38 2.2. Thực tiễn định tội danh tội buôn lậu trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh từ năm 2014 – 2018……………………………………………………………………..42 Chương 3:CÁC GIẢI GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỊNH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU 3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn lậu...............................63 3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn lậu…..................67 KẾT LUẬN ..............................................................................................................75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCA : Bộ Công an BLHS : Bộ luật hình sự. BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự. CQĐT : Cơ quan Điều tra CTTP : Cấu thành tội phạm. TANDTC : Tòa án Nhân dân tối cao TNHS : Trách nhiệm hình sự. VKSNDTC : Viện Kiểm Sát Nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Kết quả phát hiện tội phạm kinh tế của lực lượng Cảnh sát Kinh tế Công an Tp.Hồ Chí Minh từ 2014 -2018....................................................... 41 Bảng 2.2. Tình hình tội phạm về buôn lậu trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh từ 2014 -2018....................................................................................................... 41 Bảng 2.3. Thống kê kết quả phát hiện xử lý phạm pháp buôn lậu của Lực lượng CSKT Công an Tp.HCM từ năm 2014 -2018...................................... 42 Bảng 2.4. Bảng mức độ tăng, giảm của các vụ án về buôn lậu và số bị cáo phạm tội buôn lậu đưa ra xét xử tại Tòa án nhân dân Tp.Hồ Chí Minh......... 43
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thời gian gần đây, tình trạng buôn lậu ngày càng diễn biến phức tạp với công nghệ ngày càng hiện đại, kẻ phạm tội đã lợi dụng triệt để để phục vụ cho hành vi phạm tội của mình với thủ đoạn ngày càng tinh vi. Đặc biệt, Việt Nam với vị trí địa lý thuận lợi, địa hình phức tạp, có đường biên giới dài (trên đất liền và biển) giáp với nhiều nước và với địa hình biên giới hiểm trở nên tình trạng buôn lậu trở nên phổ biến. Tội phạm buôn lậu đã gây ra những hậu quả, tác hại to lớn, làm suy yếu các ngành công nghiệp, sản xuất; giảm nguồn thu ngân sách, ảnh hưởng tới chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, gây thiệt hại cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh và cho cả người tiêu dùng. Tội phạm này còn tác động xấu đến môi trường cạnh tranh và phát triển lành mạnh của nền kinh tế, làm giảm sút lòng tin của người tiêu dùng đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh. Và điều đó làm cho các nhà đầu tư trong nước thiếu an tâm khi đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh. Thêm vào đó, do đặc thù về chính sách thuế nhập khẩu của nước ta nên việc nhập lậu hàng hóa qua biên giới vào nước ta đã đem lại lợi nhuận khổng lồ, càng kích thích thêm cho hành vi buôn lậu. Đặc biệt, từ khi Luật Doanh nghiệp được ban hành, việc thành lập doanh nghiệp ngày càng trở nên “thoáng”, tạo điều kiện cho hàng chục nghìn doanh nghiệp được thành lập thêm cho mỗi năm. Đây là một thuận lợi góp phần cho sự phát triển kinh tế của đất nước, nhưng cũng là gánh năng cho công tác quản lý nhà nước khi mà số lượng doanh nghiệp quá lớn, việc thành lập doanh nghiệp quá dễ dàng và nhanh chóng. Lợi dụng vào sự thông thoáng của chính sách thành lập doanh nghiệp, một số người đã tiến hành thành lập doanh nghiệp “ma” với mục đích hợp thức hóa cho việc nhập lậu hàng hóa, thiết bị, khiến thực trạng buôn lậu càng thêm phức tạp, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước. Từ năm 2018, thời điểm Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 có hiệu lực, quan điểm về tôi phạm buôn lậu đã có nhiều thay đổi. Đặc biệt, luật hình sự đã bổ sung thêm hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Điều này đã giúp các cơ quan tố tụng có thêm nhiều hành lang pháp lý để định tội danh tội buôn
  • 8. 2 lậu cũng như phòng, chống tội phạm buôn lậu hiệu quả hơn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác đấu tranh đối với tội phạm buôn lậu không hề dễ dàng hơn khi mà các thủ đoạn thực hiện tội phạm ngày càng tinh vi hơn. Theo Bộ luật Hình sự, tội phạm buôn lậu phải được xác định bởi nhiều yếu tố khác nhau như: Mua hoặc bán hàng hóa qua biên giới không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép xuất, nhập khẩu và các quy định khác của hải quan; mua bán hàng hóa đúng với giấy phép nhưng kê khai không đúng số lượng; giả mạo giấy tờ, giấu giếm hàng, tiền… hoặc đi qua đường mòn, lối mởi, đi vòng đường biển vào đất liên không qua cảng, cửa khẩu để tránh sự kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, trên thực tế, để xác định một hành vi là tội phạm buôn lậu phân biệt với các tội phạm khác, ví dụ như: Tội vận chuyển hàng hóa trái phép qua biên giới, Tội trốn thuế, Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm cũng là một vấn đề vẫn còn gây tranh cãi. Trên thực tế xét xử vẫn còn có sự chưa thống nhất về việc định tội danh đối với tội phạm này, mà điển hình là vụ án Nguyễn Minh Hùng – Tổng Giám đốc Công VN Pharma và đồng phạm nhập thuốc ung thư giả mà thời gian qua TAND TP.HCM đã đưa ra xét xử. Việc định tội danh đúng đối với tội phạm buôn lậu sẽ có nghĩa rất lớn về chính trị, kinh tế, xã hội và nâng cao hơn nữa việc đấu tranh, phòng chống với loại hình tội phạm này hiệu quả. Ngược lại nếu việc định danh tội phạm này không đúng cũng sẽ gây ra những tiền lệ xấu cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, gây ra sự bất nhất giữa quan điểm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm cũng sẽ không đạt được những kết quả như mong đợi. Qua nghiên cứu cho thấy hoạt động định tội danh tội buôn lậu có những khó khăn, hạn chế nhất định. Bên cạnh đó một số quy định của pháp luật vẫn còn chưa hoàn chỉnh, đi kịp với sự phát triển đã tạo kẽ hở cho tội phạm lợi dụng, các tội phạm hoạt động rất tinh vi, phức tạp, mặt khác cũng có một số nguyên nhân xuất phát từ ý chí chủ quan của Người định tội. Thành phố Hồ Chí Minh đã được Trung ương xác định là đầu tàu kinh tế của cả nước với tỷ trọng đóng góp ngân sách cho cả nước lớn nhất. Cùng với thị trường kinh tế vô cùng năng động, thành phố Hồ Chí Minh cũng là nơi tập trung nhiều vụ
  • 9. 3 án về kinh tế, trong đó có tội phạm về buôn lậu, buôn bán hàng giả nhiều nhất và phức tạp nhất nước. Xuất phát từ thực tế và từ những yêu cầu nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: "Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” làm Luận văn thạc sỹ Luật học. Đề tài sẽ góp phần làm rõ về hoạt động định tội danh tội Buôn lậu theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Từ việc tổng hợp, phân tích về thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm này trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh để đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng định tội danh tội buôn lậu tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cũng như cả nước nói chung. Từ việc nâng cao hiệu quả, chất lượng định tội danh tội buôn lậu cũng góp phần nâng cao công tác đấu tranh phòng chống tội buôn lậu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Định tội danh là một đề tài không mới trong hệ thống nghiên cứu pháp lý về hình sự, tuy nhiên, do sự phát triển không ngừng của xã hội, của khoa học kỹ thuật nên phương thức phạm tội ngày càng tinh vi, phức tạp và luôn biến đổi, chính vì vậy, định tội danh đặc biệt là các tội danh về kinh tế luôn là một đề tài thời sự. Theo tìm hiểu của tác giả, kể từ khi Bộ luật Hình sự năm 1999 có hiệu lực, đã có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả tiếp cận đề tài tội buôn lậu dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhưng hầu hết các công trình nghiên cứu đó chỉ tiếp cận ở góc độ nghiên cứu chung về tội phạm buôn lậu theo pháp luật hình sự Việt Nam; về đấu tranh phòng chống tội phạm buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất buôn bán hàng giả chứ chưa đi chuyên sâu về vấn đề định tội danh. Điển hình là các công trình nghiên cứu của các tác giả sau: - PTS Lê Thanh Bình, “Chống buôn lậu và gian lận thương mại”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 1998. - Trần Đình Hòa, luận án tiến sĩ “Tổ chức hoạt động điều tra của lực lượng cảnh sát nhân dân đối với vụ án buôn lậu”, Học viện Cảnh sát nhân dân năm 2001.
  • 10. 4 - Hoàng Anh Tuấn, luận văn Thạc sĩ “Đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu ở nước ta – Thực trạng và giải pháp “, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2003. - Nguyễn Thị Vui, luận văn thạc sĩ “Tội buôn lậu trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Giang), Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014. - Dương Xuân Sinh, luận văn thạc sĩ “Điều tra các vụ án buôn lậu của cơ quan Hải quan”, Học viện Khoa học xã hội năm 2016; - Ngô Thị Thùy Trang, luận văn Thạc sĩ “Đấu tranh phòng chống tội phạm buôn lậu trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh”, Trường Đại học Cảnh sát TP.Hồ Chí Minh năm 2019; Ngoài ra, còn có một số bài viết về tội phạm buôn lậu đăng trên các báo, tạp chí; một số luận văn khác nghiên cứu về định tội danh của các tội phạm như giết người; các tội phạm về ma túy; về tội hủy hoại tài sản… Tuy nhiên, nghiên cứu riêng về định tội danh tội buôn lậu vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu. Như vậy, tuy đã có nhiều tác giả nghiên cứu về một số nội dung có liên quan đến đề tài nhưng hầu hết chỉ tiếp cận ở góc độ chung về tội phạm buôn lậu, về gian lận thương mại hoặc nếu có đi sâu về định tội danh thì cũng chưa đi vào định tội danh tội buôn lậu. Hiện chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu về đề tài định tội danh tội buôn lậu vì vậy Tác giả đã thực hiện đề tài trên tinh thần có sự tiếp thu, kế thừa những điểm phù hợp từ các công trình nghiên cứu trước đó để phát triển, làm sáng tỏ thêm cho mục đích nghiên cứu của đề tài định tội danh tội buôn lậu từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh và đề tài này không trùng với đề tài nghiên cứu nào về tội buôn lậu trước đó. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu việc định danh tội phạm buôn lậu theo Bộ luật Hình sự hiện hành thông qua việc đánh giá thực trạng hoạt động điều tra, truy tố và xét xử đối với
  • 11. 5 loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2014-2018. Đồng thời, đề tài sẽ phân tích nhằm làm rõ nhữn vấn đề còn khó khăn, hạn chế, trong pháp luật cũng như trong thực tiễn việc định tội danh đối với tội phạm Buôn lậu tại Tp.Hồ Chí Minh. Từ đó, đề tài sẽ đưa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật định tội danh tội buôn lậu và góp phần nâng cao hoạt động định tội danh tội buôn lậu trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh được chính xác. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ cơ sở lý luận và quy định của pháp luật về cấu thành của tội buôn lậu, đặc điểm của tội buôn lậu và phương thức định danh về tội buôn lậu theo pháp luật Hình sự nước Việt Nam. Khảo sát, đánh giá và những khó khăn của pháp luật Việt Nam liên quan đến hoạt động định danh tội phạm buôn lậu, thông qua việc định tội danh tội phạm buôn lậu trong một số vụ án điển hình đã điều tra, truy tố, xét xử tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh những năm gần đây. Từ đó, đề tài sẽ đưa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về tội buôn lậu cũng như định tội danh tội buôn lậu và góp phần nâng cao hoạt động định tội danh tội buôn lậu trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh được chính xác. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu, khảo sát trong phạm vi quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 về định tội danh tội Buôn lậu trong phạm vi địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến năm 2018. Các số liệu sử dụng trong đề tài dựa trên số liệu về thụ lý điều tra, truy tố, xét xử về tội buôn lậu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian 05 năm (từ 2014 đến 2018) của Công an Thành phố Hồ Chí Minh và Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và các số liệu đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn này sử dụng chủ yếu các phương pháp phân tích, so sánh, hệ
  • 12. 6 thống, phương pháp phân tích lịch sử cụ thể kết hợp với lý luận thực tiễn… để giải quyết những vấn đề đặt ra từ nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Về mặt khoa học: Nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc định tội danh tội buôn lậu theo quy định của pháp luật Việt Nam; phân tích những khó khăn, hạn chế trong hệ thống pháp luật Việt Nam và trong áp dụng thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, từ đó rút ra những kinh nghiệm và có hướng hoàn thiện, bổ sung pháp luật Việt Nam. Về mặt thực tiễn: Góp phần bổ sung, hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong các quy định về tội phạm buôn lậu, về việc định tội danh buôn lậu trong thực tiễn. Đây có thể sẽ là một tài liệu tham khảo đối với cơ quan hữu quan khi nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp luật, trong việc áp dụng vào thực tiễn việc định danh tội buôn lậu của các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần vào đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội buôn lậu nói riêng. Đây cũng có thể được xem là tài liệu tham khảo đối với hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về định tội danh tội buôn lậu Chương 2: Thực tiễn tình hình định tội danh và định tội danh tội buôn lậu tại Tp.Hồ Chí Minh. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh tội buôn lậu.
  • 13. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI DANH TỘI BUÔN LẬU 1.1. Những vấn đề lý luận về định tội danh tội buôn lậu 1.1.1 Khái niệm định tội danh tội buôn lậu Định tội danh là một trong những hoạt động của việc áp dụng pháp luật hình sự. Pháp luật hình sự bao gồm một hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về tội phạm và hình phạt. Quá trình áp dụng pháp luật hình sự là quá trình xem xét hành vi của một người, một pháp nhân có phải là tội phạm không, nếu có thì là tội phạm gì, được quy định tại điều, khoản nào của BLHS, có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt không, nếu không thì phải chịu hình phạt như thế nào. Trong quá trình đó, việc xem xét để xác định hành vi của một người, một pháp nhân phạm tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS là hoạt động định tội danh, hoạt động này diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định được gọi là quá trình định tội danh. Có thể nói hiện nay, trong Khoa học hình sự Việt Nam có nhiều quan điểm về khái niệm định tội danh nói chung, điển hình như sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự” [39, tr 9,10]. Quan điểm thứ hai cho rằng: “Định tội danh là một quá trình logic nhất định, là hoạt động của cán bộ có thẩm quyền trong việc xác nhận sự phù hợp giữa trường hợp phạm tội cụ thể đang xem xét với các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm được quy định trong quy phạm pháp luật thuộc Phần các tội phạm Bộ luật hình sự” [9, tr 90-91] Quan điểm thứ ba cho rằng: “định tội danh là thuật ngữ dùng để chỉ hoạt động đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được mô tả quy định trong Bộ Luật Hình sự để xác định tội phạm đã xảy ra và người phạm tội, cũng như xác định không có
  • 14. 8 tội phạm xảy ra hoặc không có người phạm tội hoặc người bị tình nghi không phải là người thực hiện tội phạm (tức họ không phạm tội) bằng việc ra kết luận bằng văn bản áp dụng pháp luật trong tố tụng hình sự của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong tố tụng hình sự”. [15, tr 8] Và nhiều quan điểm khác, tuy nhiên về cơ bản được hiểu định tội danh là một quá trình logic, là quá trình so sánh, đối chiếu, tìm sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện với các dấu hiệu pháp lý của một tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS. BLHS quy định các yếu tố cấu thành của các tội phạm cụ thể mà dựa vào đó người áp dụng pháp luật, người bào chữa so sánh với hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã thực hiện, tìm ra sự phù hợp giữa chúng để xác định hành vi đã thực hiện phạm tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS. Vì định tội danh là quá trình tư duy logic, nên nó bao gồm các bước (các giai đoạn) có mối quan hệ chặt chẽ, được thực hiện đồng thời và xen kẽ nhau. Cụ thể là: - Xác định đầy đủ, chính xác các tình tiết thực tế của vụ án, phản ánh đúng thực tế khách quan. - Nhận thức chính xác nội dung các quy phạm pháp luật hình sự, các dấu hiệu pháp lý của từng cấu thành tội phạm cụ thể. - So sánh, đối chiếu các tình tiết của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm cụ thể, tìm ra sự phù hợp giữa chúng. - Rút ra kết luận về sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS và ra văn bản áp dụng pháp luật. Quá trình định tội có thể do các chủ thể khác nhau tiến hành, trong đó việc định tội của các cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, TA) có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Kết quả của việc định tội do các cơ quan này thực hiện được thể hiện ở các quyết định tố tụng, như: Quyết định khởi tố vụ án hình sự, Quyết định khởi tố bị can, đình chỉ điều tra miễn trách nhiệm hình sự đối với bị can, kết luận điều tra đề
  • 15. 9 nghị truy tố của CQĐT; quyết định đình chỉ vụ án miễn trách nhiệm hình sự, quyết định truy tố bằng bản cáo trạng của Viện Kiểm sát, bản án kết tội của Toà án... Định tội của người bào chữa có ý nghĩa trong việc tranh tụng với đại điện Viện kiểm sát và là cơ sở để Tòa án xem xét, kết tội bị cáo. Với những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm về định tội danh như sau: Định tội danh là hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự do các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng thực hiện, được thể hiện trên cơ sở xác định đầy đủ, chính xác, khách quan các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng và xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm nhất định với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm trong các giai đoạn tố tụng do pháp luật quy định góp phần giải quyết vụ án hình sự. Từ các phân tích khái niệm chung về định tội danh như trên thì có thể hiểu đối với hoạt động Định tội danh tội buôn lậu là hoạt động nhận thức, áp dụng pháp luật hình sự trên cơ sở xác định đầy đủ các hành vi khách quan, chủ thể, khách thể theo cấu thành chung của tội phạm cũng như cấu thành riêng biệt của tội buôn lậu để xác định hành vi nguy hiểm của các chủ thể đó có phải là tội buôn lậu hay không, hậu quả đến đâu, trách nhiệm hình sự tới đâu… Từ cơ sở khái niệm chung về định tội danh thì chúng ta có thể khái quát về định tội danh tội buôn lậu như sau: " Định tội danh tội buôn lậu là hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền hoặc do những người bào chữa, người bảo vệ quyền vì lợi ích của đương sự.. đối chiếu hành vi mà bị can, bị cáo đã thực hiện trên thực tế với hành vi được mô tả trong cấu thành tội buôn lậu được quy định trong Bộ luật hình sự để khẳng định hành vi của bị can, bị cáo đã thực hiện có phạm tội buôn lậu hay không nhằm thực hiện các chức năng tố tụng hình sự của chủ thể định tội, thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ" 1.1.2. Đặc điểm của định tội danh tội buôn lậu Từ khái niệm chung về định tội danh và định tội danh tội buôn lậu nói riêng, chúng ta có thể thấy các đặc điểm như sau: Định tội danh là hoạt động áp dụng pháp
  • 16. 10 luật hình sự bao gồm việc tiến hành đồng thời 3 quá trình: Thứ nhất: Xác định đúng, khách quan các tình tiết thực tế đã xảy ra đối với vụ án buôn lậu; Thứ hai: Nhận thức đúng nội dung của các quy định trong BLHS về tội buôn lậu; Thứ ba: Lựa chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự để đối chiếu chính xác, đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong quy phạm đó với các tình tiết của hành vi được thực hiện trong thực tế. Như vậy quá trình định tội danh cũng như định tội danh tội buôn lậu bao gồm 3 giai đoạn cơ bản: - Làm sáng tỏ những dấu hiệu chung đặc trưng nhất của hành vi, cụ thể ở đây là buôn lậu - Làm sáng tỏ hành vi phạm tội đó thuộc loại tội phạm nào và được quy định ở chương nào, điều nào của Bộ luật hình sự - Chỉ rõ cấu thành tội phạm về tội cụ thể nào được áp dụng về mặt khách thể, chủ quan, mặt khách quan và chủ quan của tội phạm. [9,tr. 92,93,102-105] Như vậy, từ việc phân tích các đặc điểm chung về với định tội danh thì hoạt động định tội danh tội buôn lậu nói riêng thì có thể rút ra các đặc điểm như sau: đó là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự để xác định hành vi khách quan đã xảy ra đó có là hành vi nguy hiểm cho xã hội và có đủ các yếu tố cấu thành tội buôn lậu hay không, bao gồm việc tiến hành đồng thời 3 quá trình: Thứ nhất: xác định đúng, khách quan các tình tiết thực tế vụ án buôn lậu; Thứ hai: nhận thức đúng nội dung của các quy định trong BLHS bao gồm phần chung và phần quy định về tội buôn lậu; Thứ ba: lựa chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự để đối chiếu chính xác, đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong quy phạm đó với các tình tiết của hành vi được thực hiện trong thực tế: Xem xét về thời điểm xảy ra hành vi buôn lậu: điều này quan trọng trong thời điểm chuyển giao giữa BLHS năm 1999, sửa đổi 2009 và BLHS năm 2015, sửa
  • 17. 11 đổi 2017. Áp dụng nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 với nhiều quy định có lợi cho người phạm tội; So sánh, đối chiếu với các quy phạm pháp luật cũ, mới để lựa chọn định tội danh đúng, nếu hành vi khách quan, khách thể… đó đã được hủy bỏ, thay đổi, có dấu hiệu của một tội phạm khác thì phải thực hiện việc đình chỉ hoặc đổi tội danh cho bị can bị cáo. Ví dụ: tội buôn lậu trong BLHS 2015 quy định tại điều 188 đã bỏ hoàn toàn hàng cấm ra khỏi điều luật mà hành vi khách quan chỉ là buôn bán trái phép hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật. Còn hàng cấm được quy định riêng ở điều 190 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm). Tại BLHS 1999 quy định tội buôn lậu tại điều 153, tại điểm c khoản 1 nêu là hàng cấm, quy định này trùng lặp với điều 155 (Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm). Do vậy, nếu vụ án đã được khởi tố trước ngày luật này có hiệu lực nhưng chưa giải quyết xong thì có thể xem xét đổi tội danh cho bị can bị cáo theo đúng quy định của BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Như vậy quá trình định tội danh tội buôn lậu cần chú ý các yếu tố: - Làm sáng tỏ những dấu hiệu chung đặc trưng nhất của hành vi buôn lậu: - Làm sáng tỏ hành vi nguy hiểm cho xã hội đó thuộc tội buôn lậu quy định ở điều nào, khoản nào của BLHS, ngoài ra có những quy phạm pháp luật nào hướng dẫn áp dụng cụ thể; - Chỉ rõ các dấu hiệu đặc trưng của cấu thành tội phạm buôn lậu (dấu hiệu định tội và dấu hiệu định khung) [9, tr. 112-114], [14, tr. 31-33]. 1.1.3 Nội dung của định tội danh tội buôn lậu Định tội danh là một quá trình gồm nhiều bước, là quá trình trình xác định sự đồng nhất của các tình tiết cơ bản, điển hình nhất của một hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu cấu thành tội phạm nào đó được quy định trong pháp luật hình sự, bao gồm các nội dung:
  • 18. 12 Thứ nhất: Xác định quan hệ xã hội nào đã bị tác động bởi hành vi vi phạm pháp luật được quy định tại phần các tội phạm của BLHS. Nói cách khác là xác định khách thể của tội phạm được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Trong các loại khách thể của tội phạm (khách thể chung, khách thể loại, khách thể trực tiếp) thì xác định khách thể trực tiếp của tội phạm có ý nghĩa để xác định tội phạm cụ thể vì khách thể trực tiếp của tội phạm chính là dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể. Một tội phạm cụ thể có thể có một khách thể trực tiếp, nhưng cũng có thể có nhiều khách thể trực tiếp. Trong nhiều trường hợp, việc xác định khách thể của tội phạm được thực hiện thông qua việc xác định đối tượng tác động của tội phạm. Do vậy, xác định đối tượng tác động của tội phạm có ý nghĩa trong việc định tội. Ví dụ, tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303 BLHS), tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178 BLHS), tội huỷ hoại rừng (Điều 243 BLHS), tội huỷ hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 413 BLHS). Trong trường hợp có sự nhận thức sai lầm của một người về khách thể của tội phạm thì việc định tội phải tùy từng trường hợp cụ thể. Nếu người thực hiện hành vi không có ý định xâm hại đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ nhưng thực tế đã xâm hại đến khách thể của tội phạm thì về nguyên tắc, người thực hiện hành vi vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng với lỗi vô ý. Nếu người thực hiện hành vi cho rằng mình xâm hại đến khách thể của tội phạm nhưng thực tế không gây thiệt hại được vì không có đối tượng hoặc đối tượng không có những đặc tính mà người thực hiện hành vi tưởng là có thì việc định tội phải căn cứ vào đặc điểm các dấu hiệu của từng cấu thành tội phạm cụ thể (có thể người thực hiện hành vi phạm tội hoặc không phạm tội). Vậy, với tội buôn lậu để xác định quan hệ bị tác động thì người định tội cũng đi theo trình tự đầu tiên là xác định quan hệ xã hội bị tác động hay là khách thể bị tác động là hoạt động quản lý kinh tế nhà nước về ngoại thương, xuất nhập khẩu; đối tượng tác động trực tiếp được quy định rõ trong quy định của BLHS về tội buôn lậu.
  • 19. 13 Thứ hai: Xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện là hành vi gì, mức độ tác động, bằng phương thức, thủ đoạn nào…hành vi đó được quy định trong BLHS hay không, hậu quả của hành vi đó đến đâu, chủ thể thực hiện là cá nhân hay pháp nhân thương mại, có năng lực trách nhiệm hình sự hay không. Hành vi nguy hiểm cho xã hội (hành vi khách quan của tội phạm) là dấu hiệu bắt buộc trong tất cả các cấu thành tội phạm. Để xác định hành vi thực tế do một người hoặc một pháp nhân thực hiện phạm tội gì, người định tội phải đối chiếu hành vi đã thực hiện của người đó hoặc của pháp nhân đó với dấu hiệu hành vi khách quan của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS, xác định xem hành vi đã thực hiện có phù hợp với dấu hiệu hành vi được quy định trong điều luật cụ thể của BLHS không. Trên cơ sở đó rút ra kết luận về việc người hoặc pháp nhân thực hiện hành vi phạm tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS. Trong trường hợp một điều luật trong Phần các tội phạm của BLHS quy định về tội phạm có nhiều hành vi, khi định tội cần chú ý một số vấn đề sau: - Trường hợp một người hoặc một pháp nhân chỉ thực hiện một trong các hành vi phạm tội được quy định tại điều luật đó thì định tội với tên tội danh về hành vi phạm tội đã thực hiện theo điều luật tương ứng. Ví dụ: Một người chỉ mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì chỉ định tội về tội mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy theo Điều 253 BLHS mà không định tội là tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy. - Nếu một người hoặc một pháp nhân thực hiện nhiều hành vi phạm tội mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là điều kiện để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia), thì định tội với tên tội đầy đủ đối với tất cả các hành vi đã được thực hiện theo điều luật tương ứng. Ví dụ: Một người mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy rồi vận chuyển đến một địa điểm mới và tàng trữ tiền chất đó, thì định tội với tên tội danh là mua bán, vận chuyển, tàng trữ tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy theo Điều 253 BLHS.
  • 20. 14 -Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội mà các hành vi đó độc lập với nhau, thì phải định tội về tất cả các tội mà người ấy đã thực hiện. Ví dụ: Một người mua bán trái phép hêrôin bị bắt, khi khám nhà phát hiện người đó còn có hành vi sản xuất thuốc phiện. Trong trường hợp này người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 251BLHS và tội sản xuất trái phép chất ma túy theo Điều 248 BLHS. - Trên thực tế, một hành vi có thể cấu thành nhiều tội khác nhau. Đây là những trường hợp hành vi cụ thể cấu thành nhiều tội. Về nguyên tắc, khi hành vi cấu thành nhiều tội thì phải định tội về nhiều tội. Nếu một hành vi thỏa mãn dấu hiệu cấu thành hai tội phạm cụ thể độc lập. Ví dụ: Hành vi giết người để lấy tài sản. Phải định tội người thực hiện hành vi phạm hai tội là giết người (Điều 123 BLHS) và cướp tài sản (Điều 168 BLHS). Nếu một hành vi vừa thoả mãn một cấu thành tội phạm cụ thể, vừa thoả mãn cấu thành tội phạm của hành vi đồng phạm khác. Ví dụ: Nhân viên hải quan nhận hối lộ để cho người khác mang hàng qua biên giới trái phép. Phải định tội hành vi của nhân viên hải quan về hai tội: Nhận hối lộ và đồng phạm tội buôn lậu. Nếu một hành vi đồng thời thoả mãn hai cấu thành tội phạm của hai hành vi đồng phạm khác nhau. Ví dụ: Cho người khác mượn vũ khí để giết người và chiếm đoạt tài sản. Phải định về hai tội với vai trò là người giúp sức giết người và giúp sức cướp tài sản. Với tội phạm buôn lậu là xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, cụ thể là xuất nhập khẩu thì người định tội cần xác định rõ hành vi nào của người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội là nguy hiểm cho xã hội là trái pháp luật, hành vi được thực hiện ra sao, phương thức thủ đoạn như thế nào phải phù hợp với quy định của BLHS, trình tự, thủ tục phải đảm bảo theo quy định của BLTTHS, đặc biệt là trong quá trình thu thập chứng cứ chứng minh hành vi nguy hiểm cho xã hội đó là phạm tội buôn lậu, ví dụ hành vi giả mạo hợp đồng, giả mạo giấy phép để nhập khẩu, hay hành vi khai báo gian dối (tăng, bớt, khai sai về tên hàng hóa…) để nhập khẩu…phải được cụ thể, rõ ràng… Thứ ba: Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi được coi là dấu hiệu cơ
  • 21. 15 bản, quan trọng nhất, sau đó sẽ xem xét đến các dấu hiệu như: tính có lỗi (lỗi cố ý, lỗi vô ý), tính trái pháp luật hình sự, tính phải chịu trách nhiệm hình sự (chịu hình phạt). Xác định lỗi cố ý hoặc vô ý là điều kiện bắt buộc để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người. Khi xác định lỗi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội làm căn cứ để định tội cần chú ý: Lỗi là dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thường có xu hướng chối tội, không thừa nhận lỗi của mình khi các cơ quan có thẩm quyền chưa chứng minh được lỗi của người đó. Xác định lỗi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chủ yếu phải thông qua xác định các tình tiết thuộc mặt khách quan của tội phạm như công cụ, phương tiện thực hiện hành vi, vị trí tác động của công cụ, phương tiện; thời gian, địa điểm, hoàn cảnh nơi xảy ra vụ việc; đồng thời, phải thông qua đánh giá thái độ tâm lý của người thực hiện hành vi trước, trong và sau khi có hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra; trình độ, kiến thức mà người đó được đào tạo; mối quan hệ của người thực hiện hành vi với nạn nhân (nếu có) và những người xung quanh, những yếu tố khác thuộc về nhân thân của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ... Đối với tội buôn lậu, lỗi của chủ thể phạm tội buôn lậu được xác định là lỗi cố ý trực, chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được xác định là buôn lậu nhận thức được hành vi sai trái, biết trước hậu quả và mong muốn hậu quả xảy ra đối với hành vi hay chuỗi hành vi mà mình thực hiện. Như vậy nếu xác định chủ thể thực hiện hành vi với lỗi vô ý thì không thể định tội danh tội buôn lậu mà phải xem xét đủ các yếu tố cấu thành một tội khác không hay phải tuyên bố họ không phạm tội. Từ việc xác định lỗi này của chủ thể tội phạm tội buôn lậu căn cứ vào quy định pháp luật về tội buôn lậu và xác định trách nhiệm pháp lý hình sự của chủ thể. Thứ tư:. Xác định hậu quả của tội phạm khi định tội trong trường hợp dấu hiệu hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc, trường hợp này cần chú ý nếu tội phạm có cấu thành vật chất (có dấu hiệu hậu quả) và thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, nếu hậu quả của tội phạm không xảy ra thì người thực hiện hành vi vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt.
  • 22. 16 Nếu tội phạm thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp và lỗi vô ý thì nói chung, người thực hiện hành vi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu có hậu quả của tội phạm xảy ra. Xác định dấu hiệu công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh thực hiện tội phạm khi định tội trong một số trượng hợp tội phạm có dấu hiệu công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh thực hiện tội phạm làdấu hiệu bắt buộc. Trong những trường hợp đó, việc xác định có các dấu hiệu này trên thực tế mới có thể xác định tội danh của người thực hiện hành vi. Đối với tội buôn lậu có cấu thành hình thức cho nên không cần phải có hậu quả xảy ra, không cần đạt được mục đích phạm tội, chỉ cần có hành vi, chuẩn bị công cụ, phương tiện... hướng tới việc nhập hàng hóa qua biên giới trái phép đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm buôn lậu theo luật. Giá trị hàng hóa phạm tội là căn cứ định khung, xác định mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Ví dụ: Một người đã buôn bán trái phép hàng hóa, trốn thuế với số tiền 150 triệu đồng. Nếu chứng minh được hành vi buôn bán trái phép hàng hóa qua biên giới thì định tội là “tội buôn lậu” theo Điều 188 BLHS. Nếu không chứng minh được hành vi buôn bán trái phép hàng hóa qua biên giới (tức là chỉ trong nội địa), thì định tội là “tội trốn thuế” theo Điều 200 BLHS. Trong trường hợp có sự sai lầm về công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn thực hiện tội phạm, người thực hiện hành vi vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về trường hợp phạm tội chưa đạt. Thứ năm. Xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự khi định tội theo quy định tại Điều 12 BLHS, đảm bảo người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Thứ sáu: Xác định năng lực trách nhiệm hình sự khi định tội Một trong những dấu hiệu bắt buộc của chủ thể của tội phạm là dấu hiệu người thực hiện hành vi có năng lực trách nhiệm hình sự. BLHS không quy định trực tiếp thế nào là người có năng lực trách nhiệm hình sự mà quy định về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Để xác định một người có năng lực trách
  • 23. 17 nhiệm hình sự phải loại trừ khả năng đó là người không có năng lực trách nhiệm hình sự. Điều 21 BLHS quy định về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Khi xác định tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội làm căn cứ để định tội cần chú ý: Thông thường, khi đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì người thực hiện hành vi nguy hiểm đã có khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. Do vậy, nếu không có sự nghi ngờ người đó ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (theo quy định tại Điều 21BLHS) thì mặc nhiên coi người đó là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Chỉ khi có sự nghi ngờ người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có thể ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự thì mới cần yêu cầu trưng cầu giám định. Trong yêu cầu trưng cầu giám định phải yêu cầu Hội đồng giám định xem xét kết luận vấn đề: Người đó thực hiện hành vi có phải trong trạng thái mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi hay không. Chỉ trên cơ sở kết luận của Hội động giám định về những vấn đề nêu trên mới có thể kết luận người đó là người có năng lực trách nhiệm hình sự hay không có năng lực trách nhiệm hình sự. Thứ bảy : Lựa chọn quy phạm pháp luật cấu thành tội phạm cụ thể là tội buôn lậu căn cứ theo dấu hiệu cấu thành tương ứng của điều luật (mặt khách thể, mặt khách quan, mặt chủ thể, mặt chủ quan). Thứ tám : So sánh, đối chiếu hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm của một điều luật tại phần các tội phạm của Bộ luật hình sự tương thích. Chú ý mỗi tội do BLHS ngoài những dấu hiệu phạm tội chung còn có một số đặc trưng riêng trong cấu thành tội phạm
  • 24. 18 (đặc trưng về chủ thể, về lỗi, về động cơ, mục đích của hành vi nguy hiểm) căn cứ vào các đặc trưng này giúp quá trình định tội danh có thể phân biệt với các tội khác nhau, ví dụ: tội cố ý gây thương tích với tội giết người; tội buôn lậu với tội vận chuyển hàng hóa trái phép qua biên giới, tội trốn thuế...[14, tr.31-33]. 1.1.4. Chủ thể thực hiện việc định tội danh tội buôn lậu Về mặt lý luận và thực tiễn chúng ta thấy định tội danh nói chung hay định tội danh tội buôn lậu nói riêng thường là các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra,Viện Kiểm Sát, Tòa án) và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc các cơ quan này (quy định tại điều 34 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 thông qua các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Ngoài ra hoạt động định tội danh còn do Cơ quan và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được quy định tại điều 35 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 gồm có 07 cơ quan (Các cơ quan của Bộ đội biên phòng; Các cơ quan của Hải quan; Các cơ quan của Kiểm lâm; Các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển;Các cơ quan của Kiểm ngư; Các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và những người có thẩm quyền được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thuộc 07 cơ quan trên. Hoạt động định tội danh của các cơ quan, cá nhân được Bộ luật tố tụng hình sự quy định này gọi là định tội danh chính thức và dẫn hậu quả pháp lý là liên quan đến việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử người hay pháp nhân thương mại phạm tội...dẫn đến họ phải chịu trách nhiệm hình sự đến đâu thông qua chế tài là hình phạt...[9, tr. 11,12,15-18] - Ngoài các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì các chủ thể tham gia tố tụng cũng định tội danh, như người bào chữa định tội danh trong Bản bào chữa và đối đáp với đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa. Chính bị cáo cũng định tội danh khi tự bào chữa và tranh luận, người bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại định tội danh khi phát biểu và tranh luận tại Tòa. Bên cạnh đó, các Nhà luật học, nhà báo, nhà nghiên cứu, chuyên gia, giảng viên luật hoặc những người quan tâm ... có thể thực hiện việc định tội danh đối với
  • 25. 19 một hành vi cụ thể nào đó mà họ nói tới, phân tích, bàn bạc tuy nhiên đối với nhóm chủ thể không chính thức này thì đó chỉ là ý kiến pháp lý, ý kiến cá nhân để phục vụ việc nghiên cứu,học tập... đây được coi là hoạt động định tội danh không chính thức, chỉ phục vụ công tác nghiên cứu, học tập, tuyên truyền pháp luật chứ không dẫn đến hậu quả pháp lý là trách nhiệm hình sự. [11Tr. 21, 22], 1.1.5. Ý nghĩa của định tội danh tội buôn lậu Như đã trình bày ở trên, định tội danh là một giai đoạn cơ bản và tối quan trọng của việc áp dụng pháp luật hình sự. Việc định tội danh đúng thể hiện ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội, đạo đức và pháp lý rất lớn. Pháp luật hình sự do Nhà nước ban hành, qua đó thể hiện ý chí của Nhà nước đối với việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Do vậy, khi áp dụng pháp luật để định tội danh cần nghiêm chỉnh tuân thủ các quy định của PLHS là điều kiện cần thiết và quan trọng trong việc thực hiện chính sách phòng chống tội phạm qua đó bảo vệ tốt nhất lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của mọi công dân. Hoạt động định tội danh nói chung và định tội danh tội buôn lậu nói riêng của các chủ thể có thể theo 2 xu hướng: Định tội danh đúng hoặc định tội danh sai. Định tội đúng có nghĩa là xác định chính xác một hành vi cụ thể đã thực hiện thoả mãn các dấu hiệu pháp lý của một cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS, trong đó không những xác định được điều luật mà còn cả điểm, khoản tương ứng của điều luật cụ thể áp dụng đối với người, pháp nhân thực hiện hành vi đó. Ngược lại định tội danh không đúng là xác định một hành vi không đúng với hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm. - Khi định tội danh đúng sẽ có ý nghĩa như sau: + Là sự đánh giá về mặt pháp lý hình sự duy nhất đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện và đang được xem xét. + Định tội đúng giúp phân biệt được giữa hành vi vi phạm pháp luật hình sự bị coi là tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác không phải là tội phạm để từ đó giúp các cơ quan tố tụng phân loại chính xác tố giác tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là tiền đề để xác định trình tự tố tụng giải quyết chính xác, nhanh
  • 26. 20 chóng, kịp thời. + Định tội đúng bảo đảm cho truy cứu trách nhiệm hình sự và kết tội một người đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nghĩa là bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự hoặc bào chữa cho một người đạt kết quả tốt + Định tội đúng góp phần giúp các chủ thể thực hiện tốt chức năng trong tố tụng hình sự, phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan tố tụng và cá nhân này, bảo đảm thực hiện tốt các quy định của luật hình sự và luật tố tụng hình sự. + Định tội đúng cũng là cơ sở để áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, áp dụng các biện pháp điều tra, cưỡng chế, ngăn chặn đúng quy định, thực hiện thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử... + Định tội đúng của cơ quan điều tra, truy tố và người bào chữa là tiền đề để giúp Tòa án quyết định hình phạt một cách có căn cứ và đúng pháp luật. + Định tội danh đúng là tiền đề cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt một cách công minh có căn cứ pháp luật. + Định tội danh đúng sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện một loạt các nguyên tắc tiến bộ được thừa nhận trong Nhà nước pháp quyền như: nguyên tắc pháp chế, trách nhiệm do lỗi, trách nhiệm cá nhân, bình đẳng trước pháp luật hình sự, nguyên tắc công minh nhân đạo và nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm. Như vậy, định tội danh đúng có ý nghĩa quan trọng trong tố tụng hình sự, làm cơ sở cho việc kết thúc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội. Định tội danh đúng là cơ sở cho việc quyết định đúng các biện pháp cưỡng chế, áp dụng các thời hạn tố tụng và quan trọng hơn là quyết định đúng hình phạt chính hay bổ sung đối với người hay pháp nhân thương mại phạm tội. Với các phân tích trên ta có thể thấy: “ Định tội danh đúng là biểu hiện của việc thực hiện đúng biện pháp chính trị, thực thi đúng chính trị, thực thi đúng ý chí của nhân dân đã được thể hiện trong luật, bảo vệ có hiệu quả các lợi ích của xã
  • 27. 21 hội, của Nhà nước và của con người, của công dân” [39, tr29] - Khi định tội danh sai: + Định tội danh sai sẽ dẫn đến một loạt các hậu quả tiêu cực như: không đảm bảo được tính công minh có căn cứ đúng pháp luật, truy cứu trách nhiệm hình sự người vô tội, bỏ lọt người phạm tội, xâm phạm thô bạo danh dự nhân phẩm các quyền tự do dân chủ của công dân là giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận trong Nhà nước, ngoài danh dự, nhân phẩm, quyền tự do dân chủ, quyền con người bị xâm hại thì người bị định tội danh sai còn mất đi rất nhiều quyền lợi về tài sản, việc làm và ảnh hưởng rất lớn đến hạnh phúc gia đình một số trường hợp còn liên quan đến danh dự của của một dòng họ, cả một thế hệ con cháu bị ảnh hưởng, xã hội coi thường, kỳ thị… + Định tội danh sai làm giảm uy tín của các Cơ quan tố tụng, vi phạm pháp chế XHCN, ảnh hưởng đến niềm tin của người dân, cơ quan, tổ chức và quan trọng là ảnh hưởng đến hiệu quả của đấu tranh phòng chống tội phạm. [28, tr. 4,5,6]. Từ các phân tích trên ta thấy được,định tội danh tội buôn lậu là chúng ta xác định các hành vi nguy hiểm của một người nào đó, một pháp nhân thương mại nào đó có thỏa mãn cấu thành tội buôn lậu hay không? định tội danh là một giai đoạn cơ bản và tối quan trọng của việc áp dụng pháp luật hình sự. Việc định tội danh đúng sẽ quyết định hình phạt đúng thể hiện ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội, đạo đức và pháp lý rất lớn với việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Đối với tội Buôn lậu, gian lận thương mại hay buôn bán hàng nhái, hàng giả ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế trong nước về lâu về dài, tuy nhiên nó ảnh hưởng trực tiếp nhất là đến người tiêu dùng vì nếu hàng hóa nhập khẩu không tuân thủ các quy định thì Nhà nước sẽ không kiểm soát, không bảo đảm được chất lượng hàng hóa ở nước ngoài nhập vào Việt Nam, cũng như nếu hàng hóa Việt Nam Xuất khẩu ra nước ngoài nếu không đảm bảo về chất lượng sản phẩm thì sẽ làm mất uy tín, ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp sản xuất trong nước, ảnh hưởng đến nguồn thu cho doanh nghiệp cũng như ngân sách Nhà nước. Do vậy, việc định tội danh đúng đối với tội buôn lậu dẫn xử lý đúng người đúng tội, áp dụng đúng biện pháp chế tài
  • 28. 22 đối với cá nhân, pháp nhân thương mại phạm tội, bảo vệ được nền sản xuất công nghiệp trong nước, chính sách xuất nhập khẩu của Nhà nước, chống thất thoát thuế xuất nhập khẩu và bảo vệ được sức khỏe của người tiêu dùng trong nước. Ngoài ra nó cũng giúp trừng trị, răn đe những cán bộ Nhà nước thực thi công vụ trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu hàng hóa phải luôn tuân thủ pháp luật trong quá trình thực thi nhiệm vụ. [15] 1.2. Pháp luật về định tội danh tội buôn lậu 1.2.1. Cấu thành tội phạm tội buôn lậu theo BLHS năm 2015 Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn thực hiện Bộ luật hình sự khác là cơ sở pháp lý cao nhất quy định Tội phạm và hình phạt . Với nguyên tắc, cơ sở thống nhất “chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự; chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định tại điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự (điều 2 BLHS năm 2015)”. Quy định này đảm bảo thống nhất trong việc định tội danh, loại trừ khả năng cho phép bất kỳ một cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào được phép mở rộng, thu hẹp hay có bất cứ hành vi nào sửa đổi theo ý chí, mục đích riêng của mình. Cấu thành tội phạm của mỗi tội phạm cụ thể được quy định trong một quy phạm pháp luật hình sự, quy phạm đó được thể hiện cơ bản trong một điều luật của phần các tội phạm của BLHS, tuy nhiên phần các tội phạm cụ thể (tội buôn lậu) không thể hiện đầy đủ của dấu hiệu của CTTP, để nhận thức đầy đủ, chính xác một CTTP cụ thể thì ngoài các quy định của phần các tội phạm, các chủ thể định tội phải nhận thức các dấu hiệu khác của CTTP được thể hiện trong các quy định của phần chung BLHS (ví dụ dấu hiệu về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, dấu hiệu về lỗi…), đây là điều kiện bắt buộc để định tội danh. [11, tr 57] Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì: “Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý duy nhất của việc định tội danh, là mô hình pháp lý có các dấu hiệu cần và đủ để truy cứu TNHS” [39, tr 68] Vì xác định Cấu thành tội phạm như được hiểu là cơ sở duy nhất của việc định
  • 29. 23 tội danh, là mô hình pháp lý có các dấu hiệu cần và đủ để truy cứu TNHS. Do vậy, từ góc độ lập pháp, người làm luật cần quy định chính xác, cụ thể, xác định rõ ràng các dấu hiệu của cấu thành tội phạm để có thể chứng minh được trong thực tế và phân biệt với các cấu thành khác; từ góc độ áp dụng pháp luật, người định tội cần nhận thức chính xác, đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm [29,tr 9] Do đó, Trong hoạt động áp dụng pháp luật để định tội danh buôn lậu thì bắt buộc phải dựa vào cấu thành tội buôn lậu. Vì tính chất bảo vệ trật tự quản lý kinh tế trong nước về xuất khẩu, nhập khẩu, bảo vệ, khuyến khích nền sản xuất công nghiệp trong nước, bảo vệ người tiêu dùng trong nước, chống lại việc trốn thuế xuất khẩu, nhập khẩu…do đó Nhà nước xây dựng quy định về tội buôn lậu với Cấu thành hình thức, chỉ cần có hành vi trái quy định pháp luật để nhằm mục đích nhập hàng hóa qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại là đã cấu thành tội buôn lậu chứ không cần đến hậu quả xảy ra. Tội phạm buôn lậu là một thể thống nhất gồm 04 yếu tố: Khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Các yếu tố này quan hệ chặt chẽ với nhau, tuy nhiên mỗi yếu tố cũng có tính riêng độc lập tương đối với các yếu tố còn lại. Các yếu tố của CTTP tội buôn lậu thể hiện như sau: [14,tr.169,170] 1.2.1.1. Mặt Khách thể của tội buôn lậu: Hành vi phạm tội buôn lậu xâm phạm đến hoạt động quản lý kinh tế nhà nước về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, tiền tệ, kim khí quý, di vật, cổ vật, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa. Chính sách xuất nhập khẩu hàng hóa của Nhà nước luôn thay đổi theo từng thời kỳ để phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội của đất nước cũng như thế giới. Đối tượng tác động: Hàng hoá; tiền đồng Việt Nam, ngoại tệ (như USD, Yên…); Kim khí quý, đá quý (vàng, bạc, kim cương…); Vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá; Hàng cấm (bị Nhà nước cấm lưu thông). Từ BLHS năm 2015 đã bỏ đối tượng là “hàng cấm” ra khỏi tội buôn lậu mà chuyển hẳn sang tội buôn bán hàng cấm tại điều 190 1.2.1.2. Mặt khách quan của tội buôn lậu:
  • 30. 24 Về hành vi: có hành vi buôn bán trái phép qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại. Việc buôn bán trái phép được thể hiện ở chỗ mua hoặc bán không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép xuất, nhập khẩu và các quy định khác của Nhà nước về hải quan (ví dụ: Giấy phép nhập khẩu là máy móc, thiết bị dùng cho sản xuất nông nghiệp nhưng thực tế lại mua bán máy móc sử dụng cho tiêu dùng như tủ lạnh, xe gắn máy, tivi…), các trường hợp cấp các giấy phép con này thì trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử chúng ta phải viện dẫn đến quy định chuyên nghành để xem xét quy trình, thủ tục và thẩm quyền cấp đó đúng không? Tại thời điểm cấp phép và thời điểm bị truy tố, xét xử có thay đổi, bổ sung, thay thế hay hủy bỏ không? Nếu có những điểm có lợi cho người phạm tội thì cần phải vận dụng, áp dụng cho người phạm tội. Trường hợp kinh doanh xuất nhập khẩu đúng giấy phép nhưng khai không đúng số lượng (khai ít hơn số lượng thực nhập) hoặc nhập vượt quá mức mà giấy phép xuất, nhập khẩu cho phép thì cũng bị coi là buôn lậu nhưng chỉ truy cứu trách nhiệm đối với phần chưa khai hoặc xuất nhập khẩu vượt mức cho phép. Thủ đoạn rất đa dạng, một số được thể hiện qua việc khai báo gian dối (nhiều hay ít, mặt hàng này lại khai là mặt hàng khác..), giả mạo giấy tờ, giấu giếm hàng, tiền… hoặc đi vòng tránh khỏi khu vực cửa khẩu để trôn tránh sự kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền. Cũng có trường hợp các đối tượng buôn lậu móc nối với cán bộ hải quan, cửa khẩu để nhập hàng không đúng giấy phép hoặc khai tăng, giảm số lượng hàng nhập hoặc một số trường hợp nhập hàng lậu dưới hình thức tạm nhập, tái xuất, khi nhập hàng về không xuất đi mà tiêu thụ ngay trong nước. Thời điểm hoàn thành tội phạm này tính từ thời điểm đưa hàng, tiền qua biên giới một cách trái phép vào Việt Nam. Vậy, Biên giới ở đây không chỉ hiểu là biên giới theo địa lý trên đất liền, trên không, trên biển mà là các cửa khẩu kiểm soát việc xuất cảnh, nhập cảnh, xuất nhập khẩu hàng hóa (cảng sân bay, cảng biển…).Tuy nhiên nếu là đưa hàng, tiền từ Việt Nam ra nước ngoài thì không nhất thiết tính từ thời điểm qua biên giới Việt Nam.
  • 31. 25 (Chẳng hạn hàng hoá được tập kết gần biên giới chuẩn bị đưa trái phép qua biên giới thì bị phát hiện. Về giá trị hàng phạm pháp làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự, định khung: Đối với hàng hoá, tiền tệ Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý phải có giá trị từ một trăm triệu đồng trở lên. Trường hợp dưới một trăm triệu đồng thì phải thuộc trường hợp đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật hình sự năm 2015 hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 248, 249, 250, 251, 252, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của BLHS năm 2015; Đồng thời cho đến thời điểm có hành vi buôn lậu bị phát hiện thì vẫn chưa được xoá án tích đối với việc phạm các tội nêu trên mà còn vi phạm về hành vi buôn lậu và không phải thuộc các trường hợp quy định tại các điều sau đây: Tội sản xuất trái phép chất ma tuý; Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý; Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý; Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma tuý; Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí vận dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ; Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ; Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ; Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc. Đối với di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hoá thì điều luật không quy định cụ thể mức tối thiểu giá trị vật phạm pháp, vì những vật phẩm loại này chứa đựng những giá trị tinh thần (vô giá) mà không thể tính được bằng tiền. Tuy nhiên cầu lưu ý: Di tích lịch sử, văn hoá phải là những di tích đã được cơ quan nhà
  • 32. 26 nước có thẩm quyền có quyết định công nhận và xếp hạng. Như vậy, ngoài hành vi khách quan của tội buôn lậu thì tội buôn lậu còn có dấu hiệu bắt buộc đó là: Giá trị hàng hóa vi phạm, địa điểm phạm tội (qua biên giới hay khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại). Hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả gây ra có mối quan hệ trực tiếp đó là Nhà nước thất thoát tiền thuế xuất nhập khẩu hàng hóa, không kiểm soát được hàng hóa xuất nhập khẩu. Tuy nhiên trong thực tế thì quá trình điều tra, truy tố, xét xử các Cơ quan tố tụng không căn cứ vào hậu quả của hành vi buôn lậu gây ra vì buôn lậu thuộc cấu thành hình thức nên chỉ cần có hành vi xuất nhập khẩu hàng hóa trái quy định pháp luật là đã đủ cơ sở định tội buôn lậu. Còn giá trị hàng hóa, tiền việt Nam, Kim khí quý, Đá quý, di vật, cổ vật quy định trong điều luật chỉ là giá trị của vật phạm pháp chứ không xác định nó là hậu quả. Như vậy, để xét về mặt khách quan của tội phạm buôn lậu cần làm rõ các dấu hiệu như sau: Dấu hiệu về mặt chứng cứ: cũng giống như các vụ án hình sự khác thì định tội danh tội buôn lậu cũng phải thu thập các chứng cứ theo đúng các quy định tại điều 86,87,88 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS). Các nguồn chứng cứ theo khoản 1 điều 87 gồm có (07 loại): 1. Chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn: a) Vật chứng; b) Lời khai, lời trình bày; c) Dữ liệu điện tử; d) Kết luận giám định, định giá tài sản; đ) Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; e) Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác; g) Các tài liệu, đồ vật khác. Với đặc thù của tội buôn lậu là hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa, vàng, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử văn hóa…thực hiện thông qua cửa khẩu hải quan, cửa khẩu. Nên phải xác minh, điều tra rõ các vấn đề sau: Về đối tượng mua bán: là hàng hóa gì? trước thời điểm BLHS 2015 có hiệu lực có phải là hàng cấm không? Các thủ tục nhập hàng hóa thường có trong buôn lậu thường phải làm rõ gồm có: Bản lược khai hàng hóa trước khi hàng nhập khẩu về
  • 33. 27 đến cảng, hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương, tờ khai hải quan, packing list, tờ khai hải quan, biên bản đóng thuế xuất nhập khẩu, GTGT, Tiêu thụ đặc biệt, Hồ sơ vận chuyển của hãng tàu biển, máy bay, các biên bản kiểm tra, kiểm hóa hàng hóa, biên bản, quyết định xử lý vi phạm của hải quan, các biên bản xử phạt hành chính mà người phạm tội đã bị phạt (chưa hết án tích), các bản án bị tuyên chưa được xóa án tích theo quy định tại khoản 1 điều 188 BLHS. Thông qua lấy lời khai bị can bị cáo, những cá nhân, cơ quan và tổ chức liên quan và bằng các biện pháp tố tụng làm rõ có thêm những hành vi khác ngoài hành vi buôn lậu không ví dụ như: hành vi hối lộ, hành vi lạm dụng chức vụ quyền hạn…) nếu có cơ sở thì khởi tố và điều tra xét xử. Xác định địa điểm xảy ra hành vi được coi là buôn lậu? hàng hóa đã được di chuyển qua biên giới hay chưa?đang nằm ở đâu (tập kết ở cảng, kho ngoại quan…). Để định tội danh tội buôn lậu phải thì phải thu thập tất cả những chứng cứ trong nguồn chứng cứ một cách trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. 1.2.1.3. Mặt chủ quan của tội buôn lậu: Dấu hiệu cơ bản về mặt chủ thể là dấu hiệu về lỗi, đó là thái độ về mặt tâm lý bên trong của người phạm tội. Lỗi gồm có: lỗi cố ý (trực tiếp và gián tiếp), lỗi vô ý (vô ý do cẩu thả và vô ý do quá tự tin) Đối với tội phạm buôn lậu thì người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp vì người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là buôn bán trái phép qua biên giới, thấy trước được hậu quả của hành vi trái phép là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện và mong muốn cho hậu quả xảy ra. Mục đích của hành vi buôn bán trái phép qua biên giới là thu lời bất chính. Biểu hiện của mục đích thu lời bất chính là trốn thuế nhập khẩu, xuất khẩu. Trong quá trình định tội danh buôn lậu phải phân biệt về mục đích của đối tượng nếu trong trường hợp vận chuyển với mục đích buôn bán kiếm lời thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu, còn người vận chuyển không phải là
  • 34. 28 chủ hàng, chỉ với mục đích là vận chuyển để lấy tiền công (chở thuê) thì truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới. 1.2.1.4. Chủ thể của tội buôn lậu: Chủ thể của tội buôn lậu không có gì khác biệt so với chủ thể các tội phạm khác (chủ thể thường) là bất kỳ người, pháp nhân thương mại nào có năng lực trách nhiệm hình sự tức là nếu là cá nhân thì có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi và đủ 16 tuổi trở lên (BLHS năm 2015 quy định tại điều 12); nếu là pháp nhân thì phải là pháp nhân thương mại theo quy định tại điều 75 của Bộ luật hình sự năm 2015. [34]. Như vậy, BLHS là nguồn trực tiếp của việc định tội danh tội buôn lậu nói riêng cũng như các tội phạm khác, khi định tội danh thì người có thẩm quyền định tội phải căn cứ vào các dấu hiệu pháp lý của các cấu thành tội phạm để xem xét. Các dấu hiệu của từng cấu thành tội phạm được quy định ở cả Phần chung và Phần các tội phạm của BLHS. Tuy nhiên, cần lưu ý là khi nói đến cấu thành tội phạm với tính cách là khuôn mẫu pháp lý của tội phạm thì không chỉ là các cấu thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng, cấu thành tội phạm giảm nhẹ của những tội phạm hoàn thành do người thực hành tội phạm thực hiện mà còn bao gồm cả những cấu thành tội phạm của hành vi chuẩn bị phạm và cấu thành tội phạm của những hành vi đồng phạm (cấu thành tội phạm của hành vi xúi giục, hành vi tổ chức và hành vi giúp sức). Trong quá trình định tội, thông thường các quy định ở Phần chung của BLHS không cần viện dẫn, trừ các trường hợp như các trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đồng phạm Các văn bản quy phạm pháp luật khác cũng có thể là cơ sở pháp lý của việc định tội: - Có nhiều quy phạm pháp luật như Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Nghị quyết... có chứa đựng quy phạm pháp luật mang tính viện dẫn luật hình sự thì ngoài việc phải căn cứ vào BLHS còn phải căn cứ vào các quy định trong các văn bản pháp luật có liên quan để định tội. Ví dụ, để xác định hành vi của một người phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ thì phải căn cứ vào
  • 35. 29 Luật giao thông đường bộ để xác định người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ vi phạm điều, khoản nào của Luật này. - Để thi hành BLHS, Quốc hội giao cho Cơ quan của quốc hội, TAND tối cao, VKSND tối cao, Chính phủ trong phạm vi chức năng của mình có trách nhiệm hướng dẫn thi hành BLHS. Các văn bản hướng dẫn áp dụng BLHS do các cơ quan này ban hành là các văn bản giải thích luật, như: Nghị quyết của Ủy ban thường vụ quốc hội, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, Thông tư liên tịch của các cơ quan liên ngành. Những văn bản này cũng phải được xem xét, áp dụng khi định tội. Tuy nhiên, cần lưu ý là các văn bản giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật như đã nêu trên cũng phải tuân thủ đúng nội dung trong các quy định của BLHS mới là căn cứ để định tội. Cụ thể trong định tội danh tội buôn lậu liên quan đến hoạt động kinh tế, ngoại thương, xuất nhập khẩu do đó có thể bằng nhiều phương thức xử lý tùy hành vi vi phạ ( xử lý hành chính, xử lý hình sự) thì chúng ta xem xét, viện dẫn đến những quy định của luật chuyên nghành đối với những mặt hàng vi phạm ví dụ như Luật an toàn thực phẩm và các nghị định hướng dẫn đối với hàng hóa nhập khẩu là lương thực thực phẩm, các văn bản hướng dẫn về hải quan, xuất nhập khẩu, các nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (nghị định 185/2013/NĐ-CP ) tại điều 3 có phần mô tả, giải thích thế nào là hàng nhập lậu, hàng giả, về các hành vi vi phạm …khi thực hiện hoạt động định tội danh đối với tội buôn lậu thì cũng nên xem xét vận dụng, áp dụng. Tóm lại, với những phân tích các yếu tố của CTTP tội buôn lậu nói trên thì chúng ta có thể khái quát CTTP tội buôn lậu là hệ thống các dấu hiệu cần và đủ đặc trưng cho tội buôn lậu theo quy định của BLHS. 1.2.2. Định tội danh tội buôn lậu trong các trường hợp đặc biệt 1.2.2.1. Định tội tội buôn lậu trong trường hợp phạm tội chưa đạt - Luật hình sự Việt Nam không chỉ xem hành vi thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản là tội phạm, mà còn xem cả hành vi chuẩn bị
  • 36. 30 cho việc thực hiện tội phạm cố ý cũng như hành vi chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm của một tội cố ý vì nguyên nhân khách quan là tội phạm. Và để có cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự, thì hành vi chuẩn bị phạm tội cũng như hành vi phạm tội chưa đạt cũng có những đặc điểm cấu thành riêng biệt: đó là cấu thành tội phạm của chuẩn bị phạm tội và cấu thành tội phạm của phạm tội chưa đạt. - Cấu thành tội phạm của chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt không được phản ánh trực tiếp tại từng tội danh cụ thể mà thể hiện trong phần chung của BLHS. Đó là các dấu hiệu có tính chất chung cho tất cả các tội danh nhưng chưa phải là cấu thành của chuẩn bị phạm tội và cấu thành của phạm tội chưa đạt của riêng một tội phạm cụ thể nào cả. Cấu thành tội phạm chỉ được hình thành trên cơ sở kết hợp cấu thành tội phạm của một tội phạm cụ thể với quy định chung về chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Vì thế, nếu đối chiếu hành vi chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt với riêng cấu thành cơ bản của một tội cụ thể thì hành vi này hoặc không thỏa mãn, hoặc chưa thỏa mãn hết những dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản. Nhưng nếu đặt cấu thành cơ bản trong mối liên hệ với điều luật quy định về các giai đoạn thực hiện tội phạm thì hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đều hoàn toàn thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản và của các quy định về giai đoạn thực hiện tội phạm. - Hành vi chuẩn bị phạm tội, với tính chất là một giai đoạn thực hiện tội phạm, được hiểu là hành vi tạo ra các điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm nhưng bị chấm dứt do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người thực hiện hành vi. Theo quy định tại Điều 14 BLHS, người chuẩn bị phạm một trong một số trường hợp cụ thể phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp nếu thấy có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng một người chuẩn bị thực hiện một tội phạm nhưng chưa có đủ căn cứ để xác định được tội phạm mà họ định thực hiện là tội gì thì phải làm rõ đó có phải là một trong các tội được quy định tại điều 14 BLHS hay không, như vậy mới có cơ sở để định tội đối với hành vi do người đó thực hiện. Ví dụ, A sửa soạn công cụ, phương tiện để phạm tội. Nếu chỉ chứng minh
  • 37. 31 được A sửa soạn công cụ, phương tiện để trộm cắp tài sản thì A không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi chuẩn bị phạm tội của tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 BLHS, không được khởi tố bị can đối với A. Nếu đã khởi tố bị can thì phải định chỉ. Khi định tội đối với hành vi chuẩn bị phạm một tội phạm cụ thể, ngoài việc viện dẫn điều luật tương ứng trong Phần các tội phạm của BLHS còn phải viện dẫn Điều 14 BLHS. Ví dụ, khi định tội đối với hành vi chuẩn bị giết người phải viện dẫn Điều 123 và Điều 14 BLHS. - Theo quy định tại Điều 15 BLHS, phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt. Như vậy, về nguyên tắc, khi đã xác định được một người thực hiện hành vi có đủ dấu hiệu của trường hợp phạm tội chưa đạt thì phải định tội đối với hành vi đó giống như đối với tội phạm hoàn thành tương ứng, đồng thời viện dẫn Điều 15 BLHS. Ví dụ, khi định tội đối với hành vi trộm cắp tài sản chưa đạt thì phải viện dẫn Điều 173 và Điều 15 BLHS. - Định tội đối với hành vi phạm tội chưa đạt, chỉ khi có đầy đủ căn cứ xác định rằng tội phạm mà người phạm tội không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của họ thuộc khoản nào của điều luật tương ứng quy định về tội phạm đó thì mới định tội theo khoản, điều luật tương ứng đó. Trong tr- ường hợp xác định được hành vi chưa đạt mà người đó thực hiện không có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm hoặc trong trường hợp không thể xác định được hành vi vi phạm mà họ thực hiện đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm hay chưa thì phải quy kết là người đó không phạm tội. Ví dụ: A chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản hoặc đã từng bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, nhưng đã được xoá án tích. A vào nhà của người khác với ý thức có tài sản gì thì lấy trộm tài sản đó, nhưng chưa lấy được tài sản gì thì bị phát hiện và bị bắt giữ. Trong trường hợp này, không thể xác định được hành vi vi phạm của A đã có đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm hay chưa (không thể xác định được giá trị tài sản bị chiếm
  • 38. 32 đoạt); do đó, phải quy kết A không phạm tội "trộm cắp tài sản". - Trong trường hợp đã xác định được hành vi của một người là hành vi phạm tội nhưng không xác định được tội phạm mà họ thực hiện chưa đạt thuộc khoản cụ thể nào của điều luật tương ứng quy định về tội phạm đó, thì phải định tội theo khoản nhẹ nhất của điều luật tương ứng đó.Ví dụ: A đã bị kết án và bị xử phạt 1 năm tù về tội "cướp giật tài sản" chưa được xoá án tích, vào nhà của người khác với ý thức có tài sản gì thì lấy trộm tài sản đó, nhưng chưa lấy được tài sản gì thì bị phát hiện và bị bắt giữ. Trong trường hợp này, nếu không xác định được mục đích của A chiếm đoạt tài sản trị giá theo các khung hình phạt tăng nặng của tội trộm cắp tài sản (Khoản 2, 3 hoặc 4 của Điều 173 BLHS) thì chỉ có thể kết luận A phạm tội trộm cắp tài sản theo Khoản 1 Điều 173 BLHS. [18] Vậy đối với tội buôn lậu được xây dựng trên CTTP hình thức cho nên sẽ trường hợp tội phạm đã hoàn thành về luật mà chưa đạt về mục đích (chưa đưa được hàng hóa...qua biên giới, chưa tiêu thụ trót lọt...) do những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội như điều 15 BLHS, do đó trong quá trình định tội danh phải xem xét, phân loại các hành vi của người phạm tội một cách khách quan, toàn diện. 1.2.2.2. Định tội danh tội buôn lậu trong trường hợp đồng phạm Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cùng cố ý thực hiện một tội phạm (khoản 1 điều 17 BLHS). Đồng phạm quy định ở phần chung của BLHS, không quy định riêng cho từng tội phạm, kể cả tội buôn lậu. Về mặt cấu thành tội phạm trong trường hợp đồng phạm là về chủ thể có 02 người trở lên, lỗi cùng cố ý…và cùng thực hiện hành vi của một tội phạm. Trong một vụ án nói chung và vụ án buôn lậu nói riêng nếu có nhiều bị can bị cáo nhưng họ thực hiện riêng rẻ, không cùng một tội phạm thì phải xem xét khởi tố tội riêng hoặc nếu không có căn cứ là đồng phạm hoặc thực hiện một tội phạm khác thì phải đình chỉ điều tra, truy tố hoặc tuyên không có tội. Ví dụ: một nhóm nhiều người rủ nhau đi cướp, đang đi thì gặp A, A ham vui nên đi dù không được biết nhóm kia đi cướp mà chỉ đứng bên ngoài khi nhóm kia vô trong nhà thực hiện cướp tài sản, sau
  • 39. 33 khi A về nhà thì mới biết nhưng lại không nói. Như vậy, trong trường hợp này không thể định tội A là đồng phạm giúp sức tội cướp tài sản được vì ngay khi nhóm kia thực hiện tội phạm thì A hoàn toàn không biết, nhưng sau khi biết A không trình báo Công an thì có thể khởi tố A tội không tố giác tội phạm và xét xử trong cùng vụ án. Theo quy định tại khoản 3 điều 17 thì đồng phạm gồm có: người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. - Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. - Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. - Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. - Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. Qua thực tế thì những vụ án hình sự xảy ra thì có rất nhiều đồng phạm cùng thực hiện một tội phạm, do đó quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì việc định tội danh chính xác tội là bước quan trọng, qua đó xác định các vai trò đồng phạm của các bị can, bị cáo trong cùng một tội cũng quan trọng không kém trong quá trình xét xử nếu Toà án đã xác định sai vai trò đồng phạm, cụ thể xác định người thực hành thành người giúp sức, dẫn đến đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội không chính xác và quyết định hình phạt cũng không chính xác. Khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định: Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm, nhưng có vai trò không đáng kể. Quy định này cho thấy quan điểm của nhà làm luật là nói chung trong vụ án đồng phạm, đồng phạm giúp sức thường có vai trò hạn chế nhất, do đó, họ có thể được xét xử với mức án thấp hơn nhiều so với các loại người đồng phạm khác. Tuy nhiên, khái niệm đồng phạm giúp sức phải được hiểu theo đúng tinh thần khoa học
  • 40. 34 luật hình sự, chứ không phải theo nhận thức cảm tính, không đồng nhất mỗi nơi áp dụng một kiểu. [13] 1.2.2.3. Định tội danh buôn lậu đối với trường hợp tranh chấp nhiều cấu thành tội phạm Qua thực tế điều tra, xét xử án hình sự thì thường có một đến nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội tội phạm. Các hành vi này có thể là chỉ thõa mãn, phù hợp với một CTTP nhưng trong những chuỗi hành vi đó có trường hợp lại thỏa mãn với nhiều CTTP. Do đó trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì cần cân nhắc định tội danh một tội hay nhiều tội. Như vậy, đặt ra vấn đề định tội danh như thế nào, định một tội danh hay nhiều tội danh vì việc này ảnh hưởng đến việc quyết định hình phạt của Tòa án. [14, tr. 115-117] Do vậy, căn cứ vào mối quan hệ giữa các CTTP mà hành vi phạm tội thỏa mãn dấu hiệu, chúng ta chia hành vi làm 02 nhóm: + Nhóm thứ nhất: nhóm CTTP có mối quan hệ giữa CTTP chung và CTTP riêng: CTTP chung là cấu thành thể hiện những dấu hiệu có đặc tính chung của tội phạm, cấu thành chung là một phần của CTTP riêng, còn CTTP riêng không thể hiện được hết trong CTTP chung, ví dụ tội giết người có cấu thành thanh chung so với các tội giết con mới đẻ, giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng… Vậy cơ sở lý luận để định tội danh ở trường hợp này phải dựa vào lý luận của triết học Mác – Lê Nin về phạm trù cái chung – Cái riêng. Cái riêng lúc nào cũng là một phần của cái chung và còn chứa đựng các dấu hiệu đặc trưng khác của nó. Do vậy, trường hợp này ta phải định tội danh căn cứ vào CTTP riêng. + Trường hợp CTTP không có mối quan hệ giữa cấu thành chung và cấu thành riêng: Trường hợp này trong quá trình định tội danh phải xem xét ở nhiều góc độ khác nhau, đó là một quá trình phức tạp cần phải xem xét một cách khách quan, tỉ mỉ. [36, tr.209-214]. Thực tiễn các vụ án buôn lậu xảy ra, thì các hành vi của bị can bị cáo ngoài thỏa mãn cấu thành tội buôn lậu, có nhiều trường hợp còn thỏa mãn cấu thành tội đưa, nhận hối lộ, tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Do đó, khi định