SlideShare a Scribd company logo
1 of 193
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH
QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN,
BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số: 62.38.40.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ
TP. HỒ CHÍ MINH - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả, số
liệu nghiên cứu nêu trong Luận án là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về tất cả
những số liệu và kết quả nghiên cứu đó. Luận án này chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày …… tháng ……. năm 2014
NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BCVND : Bào chữa viên nhân dân
BLHS : Bộ luật hình sự
CCTP : Cải cách tư pháp
CTN : Chưa thành niên
CQĐT : Cơ quan điều tra
CƯQT : Công ước quốc tế
HĐXX : Hội đồng xét xử
HTND : Hội thẩm nhân dân
NBC : Người bào chữa
QBC : Quyền bào chữa
QCN : Quyền con người
THTT : Tiến hành tố tụng
TTHS : Tố tụng hình sự
TAND : Tòa án nhân dân
TNHS : Trách nhiệm hình sự
TGPL : Trợ giúp pháp lý
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
VAHS : Vụ án hình sự
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
Phần 1: PHẦN MỞ ĐẦU 1
Phần 2: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 8
Phần 3: NỘI DUNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 31
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO
CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN 31
1.1. Khái niệm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam 31
1.2. Vai trò và đặc điểm của quyền bào chữa của bị can, bị cáo là
người chưa thành niên 42
1.3. Quyền bào chữa của người chưa thành niên trong pháp luật tố
tụng hình sự nước ngoài 66
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ
CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 80
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của bị
can, bị cáo là người chưa thành niên 80
2.2. Thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên trong tố tụng hình sự 112
CHƯƠNG 3: TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA
CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 137
3.1. Yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa trong cải cách tư pháp và xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 137
3.2. Một số giải pháp 143
KẾT LUẬN 163
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
Phần 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người (QCN) là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử, là một
trong những giá trị quý báu nhất của nền văn minh nhân loại trong thời đại ngày
nay. Những giá trị nền tảng tạo nên QCN là: Nhân phẩm - Tự do - Bình đẳng -
Nhân đạo - Khoan dung và Trách nhiệm. Đây là những giá trị vốn có ở tất cả các
nền văn hóa, được quốc tế hóa nhằm bảo vệ nó trong đời sống xã hội. Trong các
quyền cơ bản đó, QCN trong tố tụng hình sự (TTHS), trong đó có quyền trẻ em và
việc bảo đảm quyền trẻ em là rất quan trọng và vì thế việc nghiên cứu làm sáng tỏ
những giá trị cao quý về QCN, nhất là các quyền nêu trên đều được quan tâm
nghiên cứu trong các công trình nghiên cứu khoa học.
Việt Nam đang trong tiến trình cải cách tư pháp (CCTP) nhằm xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định
quyết tâm chính trị mạnh mẽ của mình trong việc thực hiện chủ trương và triển khai
các nhiệm vụ CCTP. Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ chính trị về CCTP đã tạo sự
chuyển biến tích cực trong nhận thức của cán bộ cơ quan tư pháp, các ngành, các
cấp và nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác tư pháp. Qua đó, hệ
thống các cơ quan tư pháp đã được củng cố cả về tổ chức bộ máy và công tác cán
bộ. Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử và các hoạt động bổ trợ tư pháp từng bước
được nâng cao. Việc bắt, giam giữ đã được xem xét, kiểm tra thường xuyên, công
tác xét xử được xem xét thận trọng đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Sau tám năm thực thi chiến lược CCTP, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhận xét
bước đầu quá trình cải cách đã thúc đẩy nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ
quan tư pháp, hướng tới xây dựng nền tư pháp “trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người”. Tuy nhiên, công tác tư pháp
vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế như đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu,
2
trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, vấn đề bảo
đảm QCN nhất là quyền bào chữa (QBC) của bị can, bị cáo nói chung và của bị can,
bị cáo là người chưa thành niên (CTN) nói riêng còn có hạn chế, sai sót. Vẫn còn
tình trạng oan, sai trong điều tra, truy tố, xét xử, nhất là đối với bị can, bị cáo là
người CTN. Pháp luật TTHS đã quy định thủ tục giải quyết những vụ án do người
CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy
nhiên, trong thực tiễn vận dụng do xuất phát từ những nguyên nhân khách quan, chủ
quan nên chất lượng điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn nhiều hạn chế, chưa bảo đảm các
quyền và lợi ích hợp pháp của họ, còn bộc lộ nhiều thiếu sót, dẫn đến việc giải quyết
những vụ án không đạt hiệu quả cao cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của người
CTN bị xâm hại, chưa đáp ứng đòi hỏi của tiến trình đổi mới tư pháp ở Việt Nam.
Xét từ góc độ quy định pháp luật, việc nghiên cứu về QBC trở nên cấp thiết
hơn nữa khi Hiến pháp 2013 bên cạnh việc xác định nguyên tắc tranh tụng là
nguyên tắc trong hoạt động xét xử của tòa án cũng đã xác định QBC là một trong
các QCN, quyền cơ bản của công dân. Pháp luật hiện hành, cụ thể là Bộ luật TTHS
2003 đã dành một chương riêng (chương XXXII) quy định về thủ tục đối với người
CTN. Đó là những quy định thủ tục đặc biệt về việc bắt, tạm giữ, tạm giam; về thủ
tục điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà
trường, của người bào chữa (NBC)… đối với những vụ án có người CTN phạm tội.
Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy những quy định của Bộ luật TTHS 2003 đối
với người CTN phạm tội tuy đã tương đối hoàn chỉnh, nhưng không khó để nhận
thấy tính chưa chặt chẽ, chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của các
quy định này. Những bất cập này đã dẫn đến sự tùy tiện của cơ quan tiến hành tố
tụng (THTT) và người THTT xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người
CTN. Với những vấn đề nêu trên, quy định của pháp luật TTHS đối với người CTN
phạm tội đặt ra những vấn đề cần phải hoàn thiện theo hướng cần thiết phải có
những quy định cụ thể, chặt chẽ, thống nhất hơn nữa trong Bộ luật TTHS về thủ tục
tố tụng đối với bị can, bị cáo là người CTN.
3
Về mặt thực tiễn, việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với những vụ án
mà bị can, bị cáo là người CTN trong những năm qua cho thấy khi áp dụng những
quy định về thủ tục đặc biệt này còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Nguyên nhân
một phần là do cơ quan THTT chưa nắm vững và vận dụng chưa chính xác, triệt để
quy định của pháp luật tố tụng liên quan đến quá trình giải quyết vụ án do người
CTN phạm tội và một phần do nhận thức của một bộ phận cán bộ những người
THTT còn xem nhẹ vai trò CCTP, thậm chí do lợi ích cục bộ, không chấp hành
nghiêm ngặt các quy định của pháp luật TTHS, thiếu tôn trọng và xem nhẹ quyền
lợi của bị can, bị cáo là người CTN.
Từ các góc độ quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật nói trên,
việc nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề bảo đảm QCN nói chung và QBC của bị can, bị
cáo là người CTN trong TTHS nói riêng theo tinh thần CCTP ở Việt Nam hiện nay
là hoàn toàn cấp thiết. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Quyền
bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt
Nam” làm luận án Tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào cũng
đều trả lời cho câu hỏi: việc thực hiện công trình nghiên cứu nhằm vào cái gì? Đây
cũng chính là ý nghĩa thực tiễn của kết quả nghiên cứu. Không nằm ngoài cách tiếp
cận trên, chúng tôi xác định mục tiêu của luận án nhằm nâng cao hiệu quả thực thi
cơ chế đảm bảo QBC của bị can bị cáo là người CTN.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nếu như mục tiêu nghiên cứu đặt ra câu hỏi: nghiên cứu nhằm đạt được cái
gì thì nhiệm vụ nghiên cứu lại trả lời cho câu hỏi – cần phải làm như thế nào để đạt
được mục tiêu.
Trên cơ sở mục tiêu nêu trên, chúng tôi xây dựng nhiệm vụ nghiên cứu như
sau:
4
Thứ nhất, phải phân tích, đánh giá được sự tác động của lý thuyết về QBC
của bị can, bị cáo nói chung và bị can, bị cáo là người CTN nói riêng đến chất
lượng của quy định pháp luật về quyền này.
Thứ hai, xác định, phân tích được các yếu tố tạo nên tính chất đặc thù của bị
can, bị cáo là người CTN như chủ thể đặc biệt tham gia tố tụng.
Thứ ba, phân tích và đánh giá được thực trạng quy định pháp luật về QBC
của bị can, bị cáo là người CTN cũng như quy định pháp luật về cơ chế đảm bảo
thực thi quyền này.
Thứ tư, phân tích và đánh giá quy định pháp luật của một số quốc gia điển
hình về QBC của bị can, bị cáo là người CTN.
Thứ năm, trên cơ sở so sánh quy định pháp luật Việt Nam về QBC của bị
can, bị cáo là người CTN với kinh nghiệm của một số nước, đưa ra được các kiến
nghị nâng cao hiệu quả nhằm đảm bảo thực thi quyền này.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu có thể hiểu là đối tượng nghiên cứu được khảo sát, nghiên
cứu trong phạm vi nhất định về mặt thời gian, không gian và lĩnh vực nghiên cứu.
Về mặt thời gian:
- Về văn bản pháp luật, luận án chủ yếu được viết trên cơ sở phân tích, đánh
giá quy định pháp luật TTHS từ năm 1998 đến nay. Bên cạnh đó để làm rõ quá trình
hình thành và phát triển của chế định QBC nói chung và QBC của bị can, bị cáo là
người CTN nói riêng luận án có để cập tới những nội dung chủ yếu của quy định
pháp luật về vấn đề này từ giai đoạn năm 1945.
- Về số liệu khảo sát thủ tục TTHS, luận án sẽ phân tích trên các số liệu từ
trước năm 2009 đến năm 2012.
5
Về mặt không gian, đối tượng nghiên cứu sẽ được phân tích và đánh giá qua
quy định pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước Cộng hòa Pháp, Hoa Kỳ, Liên
Bang Nga và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Về số liệu khảo sát, luận án sẽ thu thập số liệu về thực tiễn tiến hành hoạt
động tố tụng từ các Đoàn luật sư trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Kiên Giang,
Tiền Giang, Lâm Đồng; Tòa án nhân dân (TAND) tối cao và đặc biệt là TAND
Thành phố Hồ Chí Minh. Việc chọn lựa các địa bàn khảo sát nói trên được giải
thích bởi các lý do như sau:
Thứ nhất, người thực hiện luận án là cán bộ tư pháp của phía Nam với trên
10 năm kinh nghiệm thực tế thì việc tích góp và thu thập số liệu trên địa bàn phía
Nam sẽ là thuận lợi đầu tiên. Nhưng chính điều này cũng là một hạn chế cho việc
thu thập số liệu ở các địa bàn khác, đặc biệt là khu vực phía Bắc. Trên địa bàn khu
vực phía Nam, nếu xét về số lượng vụ án thì các tỉnh Kiên Giang, Tiền Giang, Lầm
Đồng và đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh có số lượng vụ án hình sự (VAHS)
liên quan tới người CTN phạm tội cao hơn so với các địa bàn khác (có thể tham
khảo Phụ lục 3, 4, 5, 6). Xét về góc độ áp dụng pháp luật, mục đích của việc lựa
chọn các địa bàn và đối chiếu giữa thực tiễn tiến hành tố tụng tại Thành phố Hồ Chí
Minh với các địa bàn trên nhằm cho thấy mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ
quan của người THTT đến hiệu quả thực thi pháp luật nói chung và QBC của người
CTN nói riêng.
Thứ hai, việc không tiến hành lấy số liệu khảo sát từ khu vực phía Bắc hoàn
toàn không xuất phát từ việc phủ nhận giá trị thực tiễn của số liệu. Vấn đề ở chỗ,
thực tiễn THTT tại khu vực phía Bắc đã được nghiên cứu, xem xét qua các diễn
đàn, Hội thảo, tập huấn, các tài liệu báo cáo chuyên ngành. Cùng với những khó
khăn mang tính chất chủ quan và khách quan của việc thu thập số liệu, thay vì tiến
hành lấy khảo từ các cơ quan THTT ở phía Bắc, chúng tôi sẽ tiến hành phân tích
6
các số liệu có được từ các bài viết trên Hội thảo, diễn đàn khoa học và Báo cáo
chuyên ngành.
Về lĩnh vực nghiên cứu: trọng tâm nghiên cứu của luận án là các vấn đề lý
luận và thực tiễn về QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS Việt Nam.
Bên cạnh đó, để có thêm tính thuyết phục cho cơ sở thực tiễn và lý luận của việc
đưa ra các kiến nghị, luận án thực hiện việc phân tích, so sánh với pháp luật tố tụng
của một số nước trên thế giới trong lĩnh vực liên quan. Việc lựa chọn hệ thống pháp
luật nước ngoài để so sánh được dựa trên các tiêu chí như tính tương đồng về các
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tính chất điển hình về cơ sở pháp lý
cũng như thực tiễn của hoạt động TTHS liên quan tới đối tượng nghiên cứu của
luận án.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu khoa học là QBC của bị can, bị cáo là người CTN theo
quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật một số quốc gia.
4. Những điểm mới của luận án
Luận án đã làm rõ được một số những vấn đề lý luận về QBC của bị can, bị
cáo là người CTN trong TTHS Việt Nam; đánh giá được vai trò của QBC và xác
định rõ những đặc điểm về nội dung và hình thức thực hiện QBC của bị can, bị cáo
là người CTN trong TTHS Việt Nam;
Luận án đã khái quát được pháp luật TTHS Việt Nam về QBC nói chung và
của bị can, bị cáo là người CTN nói riêng và làm rõ được sự hình thành, phát triển
của chế định này trong pháp luật TTHS Việt Nam, rút ra những kế thừa cần thiết
cho việc tiếp tục hoàn thiện chế định này;
Luận án đưa ra được những thông tin khoa học về chế định QBC của người
bị buộc tội là người CTN trong pháp luật của Cộng hòa Pháp, Hoa Kỳ, Cộng hòa
Liên bang Nga và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đó là những quốc gia đại diện
cho các truyền thống pháp luật khác nhau, đồng thời cũng là những nước mà pháp
7
luật Việt Nam có những ảnh hưởng nhất định. Từ những nghiên cứu đó luận án có
những so sánh và tiếp thu có chọn lọc, từ đó kiến nghị những giải pháp về mặt pháp
luật nhằm hoàn thiện pháp luật về QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong
TTHS Việt Nam;
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, luận án đã đề xuất
được một hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện QBC của
bị can, bị cáo là người CTN, đồng thời bảo đảm xác định sự thật của vụ án khách
quan, toàn diện và đầy đủ, góp phần giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đây là công trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện,
chuyên sâu về vấn đề QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS và các biện
pháp bảo đảm thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN.
Luận án với những phân tích sâu sắc các vấn đề lý luận về thủ tục TTHS đối
với người CTN phạm tội và những khảo sát, phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng
các quy định pháp luật TTHS về QBC của bị can, bị cáo là người CTN sẽ đóng góp
không nhỏ trước hết cho các nhà lập pháp. Định hướng hoàn thiện Bộ luật TTHS
2003 và những kiến nghị cụ thể hoàn thiện các quy định cụ thể của Bộ luật TTHS
2003 liên quan đến QBC của bị can, bị cáo là người CTN hoàn toàn có thể là các
vấn đề mà các nhà lập pháp có thể nghiên cứu, cân nhắc, xem xét trong quá trình
sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS 2003.
Kết quả nghiên cứu của luận án cũng có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên
cứu chuyên sâu, tài liệu tham khảo có giá trị trong hoạt động lập pháp TTHS, trong
thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cũng như trong nghiên cứu, giảng dạy về TTHS.
8
Phần 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong TTHS là nội dung được nhiều nhà
nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước đề cập. Đặc biệt, QBC của bị can, bị cáo là
người CTN trong TTHS luôn được các nhà nghiên cứu chú trọng, xuất phát từ đặc
điểm tâm sinh lý, nhận thức…của người CTN phạm tội và chính sách chăm sóc, bảo
vệ trẻ em của mỗi quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế. Các công trình nghiên cứu
về vấn đề này có thể khái quát như sau:
Trước hết là các công trình nghiên cứu dưới dạng tài liệu chuyên khảo, tham
khảo, giáo trình, bình luận khoa học. Đây là những tài liệu mang tính chất phổ biến
cung cấp những tri thức lý luận cơ bản nhất liên quan đến đề tài luận án, cụ thể như:
- A guide to juvenile court law của tác giả Gilbert H.F.Mumford, nội dung
chủ yếu đề cập đến khái niệm người CTN và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
(TNHS) là từ 14 đến 17 tuổi. Để đưa ra khái niệm này, tác giả đã dựa vào định
nghĩa của The Children and Young Persons Act của những năm 1933 và 1938. Bên
cạnh đó, tác giả còn đề cập đến phiên tòa xét xử người CTN phạm luật sẽ được tiến
hành theo các hình thức như đưa ra xét xử giản đơn như một cuộc thảo luận (chỉ có
một thẩm phán tham gia) hay xét xử tại Tòa án với sự có mặt của Bồi thẩm đoàn.
Thành phần xét xử sẽ gồm 3 thẩm phán và trong đó ít nhất phải có một người là nữ
giới.
- Law of Juvenile Delinquency của tác giả Frederick B. Sussmann, A.B.,
M.S. in Ed., LL.B xuất bản năm 1968 tại New York đề cập đến quy trình, thủ tục
điều tra và xét xử đối với người CTN phạm tội. Tuy nhiên, nhóm tác giả này chỉ
mới nêu được khái quát các thủ tục TTHS đối với VAHS sự tham gia của người
CTN phạm tội mà chưa chỉ ra được quy trình, thủ tục điều tra sẽ bắt đầu như thế
nào...
9
- Human rights in the English criminal trial – Human rights in criminal
procedure, Editor John M. Andrew, United Kingdom National Committee of
Comparative Law, 1982. (K. W. Lidstone, Quyền con người trong các phiên tòa
hình sự ở Anh – Tạp chí Quyền con người trong TTHS, Biên tập John M. Andrew,
Ủy ban Quốc gia về Luật so sánh của Anh quốc, năm 1982). Nội dung chủ yếu phân
tích về những yêu cầu nhằm đảm bảo những quyền cơ bản của con người trong một
phiên tòa hình sự tại Anh quốc như có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn; quyền có
một Bồi thẩm đoàn công tâm (không thiên vị); quyền có một phiên tòa công bằng
và thẩm phán không thiên vị; tự do báo chí tại phiên tòa; quyền được hưởng sự trợ
giúp pháp lý (TGPL); quyền tranh luận và có người đại diện; bị cáo phải được cho
là không có tội trước khi bản án được phán quyết; quyền được giữ im lặng; quyền
được kiểm tra và kiểm tra chéo đối với nhân chứng; quyền kiểm tra chứng cứ và các
lời cáo buộc… Ngoài ra, tác giả đã tập trung phân tích vào hai quá trình then chốt là
“thẩm vấn/ tra hỏi” (inquisitorial procedures) và “truy tố/ tố tụng” (accusatorial
procedures). Và tác giả cho rằng cả hai quá trình này đều phụ thuộc vào yếu tố
người THTT và kết luận nếu như không đảm bảo được “quyền” (quyền giữ im lặng,
quyền nhờ NBC, quyền đưa ra yêu cầu…) cho người phạm tội thì QCN sẽ không
được đảm bảo. Để làm rõ QBC của người phạm tội, tác giả sử dụng phương pháp so
sánh quyền này giữa các nước Tây Âu: Vương quốc Anh (Anh Quốc, Cộng Hòa
Ireland, Wales, Scotland), Tây Đức, Pháp…Tóm lại, tác giả đã phân tích về mặt kỹ
thuật pháp lý các quyền của những người tham gia phiên tòa hình sự đặc biệt là
quyền của bị cáo.
- The guarantees for accused persons under Article 6 of the European
Convention on Human Rights tạm dịch Đảm bảo quyền cho người bị buộc tội theo
Điều 6 Công ước châu Âu về nhân quyền của tác giả Stephanos Stavros, NXB
Sweet & Maxwell, Anh quốc, năm 1993. Công ước châu Âu về nhân quyền, tên
chính thức là Công ước bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do căn bản (Convention
for the Protection of Human Rights and Fundamental Freedoms). Điều 6 đưa
10
ra quyền được xét xử công bằng cách chi tiết, trong đó có quyền được xét xử công
khai trước một tòa án độc lập và không thiên vị trong thời gian hợp lý, quyền được
coi là vô tội khi chưa có phán quyết của tòa án, và các quyền tối thiểu khác đối với
những người bị cáo buộc một tội hình sự (đủ thời gian và các điều kiện để chuẩn bị
việc biện hộ bảo vệ họ, tiếp cận với đại diện pháp luật, quyền thẩm vấn các nhân
chứng chống lại họ, quyền được có thông dịch viên miễn phí). Công trình phân tích
một cách đầy đủ về các vụ án cụ thể tại các quốc gia thành viên EU và sử dụng
phép so sánh giữa những vụ án được xét xử theo Công ước châu Âu về nhân quyền
với những phán quyết được dựa trên sự áp dụng của các quốc gia thành viên. Tác
giả đã kết luận rằng Điều 6 đã được hiểu và vận dụng vào trong các luật quốc gia
theo cách khác hoàn toàn với những chuẩn mực được quy định trong Công ước.
Vấn đề là các quốc gia thành viên hiểu, vận dụng thế nào về những quy định của
Công ước phù hợp với truyền thống lập pháp của quốc gia mình.
- Criminal process and human rights của tập thể tác giả là các giáo sư, phó
giáo sư của các Trường Đại học Luật tại Melbourne: Jeremy Gans, Terese Henning,
Jill Hunter và Kate Wamer, NXB New South Wales, Australia, 2011. Nội dung bàn
về vấn đề thực thi QCN tại Australia đặc biệt là trong quá trình TTHS phải đảm bảo
các quyền tự do của con người trong bắt giữ, giam giữ, xét xử; quyền được giữ im
lặng; quyền được xét xử một cách công bằng.
- The Criminal Law Handbook của tác giả Paul Bergman & Sara J.Berman-
Barrett, NXB Nolo năm 2003. Được xem như là một quyển sổ tay về Luật hình sự
với các nội dung chủ yếu như hệ thống hoạt động và lý do tại sao cảnh sát, luật sư
và thẩm phán làm những gì họ làm, bao gồm: bắt giữ, phí bảo lãnh, tìm kiếm và thu
giữ bảo vệ bằng chứng thử nghiệm…chi phí bào chữa, kết án người CTN.
- Children, Rights and the Law, của tác giả Philip Alston, Stephen Parker và
John A. Seymour, NXB Oxford University Press, The United States of America
năm 1992. Nội dung mà các tác giả đề cập đến là việc áp dụng trong tháng 11 năm
1989, Đại hội đồng Liên hợp quốc, Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em đã
báo trước sự xuất hiện của một kỷ nguyên mới trong sự phát triển của quyền trẻ
11
em. Tính đến tháng 3 năm 1991 có hơn 75 quốc gia đã phê chuẩn Công ước. Việc
số lượng các quốc gia tham gia vào Công ước và thực hiện Công ước như một đóng
góp chương trình khung và nhằm đánh giá lại những ưu điểm và nhược điểm của
việc tiếp cận các vấn đề phúc lợi của trẻ em và hạnh phúc qua lăng kính của một
cách tiếp cận “quyền”. Mục đích là để có một cái nhìn mới về những vấn đề này và
làm như vậy với tài liệu tham khảo cụ thể cho một hiệp ước quốc tế chắc chắn sẽ
được phê chuẩn bởi một số lượng rất lớn của các nước trong mọi khu vực của thế
giới và sẽ sớm được ràng buộc pháp lý ở nhiều tiểu bang.
- Criminal Law cases, marterials and problems của tác giả David S.
Rudstein, NXB West Group, The United Sates of America năm 2002. Công trình
bao gồm các trường hợp và quy chế từ khu vực pháp lý khác nhau, cũng như những
đoạn trích từ BLHS Model. Ngoài ra, tác giả đã đặt vấn đề chiến lược trong suốt
công trình để học sinh có thể áp dụng pháp luật được quy định trong các trường hợp
và quy chế các tình huống thực tế mới, do đó cho phép họ kiểm tra kiến thức và
củng cố sự hiểu biết của họ về các nguyên tắc pháp lý có liên quan. Mục đích của
công trình gồm hai phần: đầu tiên, để giúp học sinh đạt được một sự hiểu biết về các
nguyên tắc chung của pháp luật hình sự Anh-Mỹ; thứ hai, để hỗ trợ sinh viên phát
triển kỹ năng của họ trong trường hợp phân tích, giải thích theo luật định, tổng hợp
các trường hợp, và giải quyết vấn đề.
- Juvenile Court: An Overview của tác giả Kathleen Michon, JD. Tác giả nêu
lên một số khái niệm về Tòa án Vị thành niên. Mỗi tiểu bang có những Tòa án đặc
biệt, thường được gọi là Tòa án Vị thành niên để xét xử người CTN, những người
đã bị cáo buộc vi phạm một đạo luật hình sự. Thông thường, Tòa án Vị thành niên
vẫn giữ quyền hợp pháp đối với người CTN cho một khoảng thời gian cho đến khi
người CTN trở thành thành niên, hoặc đôi khi thậm chí lâu hơn, nghĩa là thông
thường Tòa án ra quyết định, xử phạt và quyết định đó có hiệu lực cho đến khi vị
thành niên đủ tuổi thành niên. Một người trẻ tuổi phải là một “vị thành niên” theo
luật tiểu bang thì mới được đưa ra xét xử ở Tòa án này. Trong hầu hết các quốc gia,
tuổi tối đa cho người CTN là 18 tuổi. Trong một vài tiểu bang tuổi là 16 hoặc 17, và
12
trong một số khác tuổi tối đa là 19 tuổi. Các quốc gia cũng đặt ra giới hạn tuổi thấp
hơn cho đủ điều kiện xét xử ở Tòa án Vị thành niên. Hầu hết các bang xem xét trẻ
em dưới 7 tuổi không có khả năng xác định sự khác biệt giữa đúng và sai. Vì vậy,
trẻ em dưới bảy tuổi thường được miễn trách nhiệm đối với hành vi mà họ thực
hiện. Thay vào đó, cha mẹ có thể phải bồi thường thiệt hại cho bất cứ ai là nạn
nhân. Trong một số trường hợp, tòa án cho rằng cha mẹ không thích hợp để chăm
sóc cho một đứa trẻ có hành vi sai trái và cam kết sẽ giao con cho người thân hoặc
cha mẹ nuôi chăm sóc, quản lý. Cho dù trẻ đó trong độ tuổi từ 7 đến 14 tuổi có thể
hình thành một ý định phạm tội và điều này phụ thuộc vào Tòa án. Nếu thẩm phán
cảm thấy rằng đứa trẻ có khả năng hình thành ý định phạm tội, đứa trẻ sẽ được đưa
ra Tòa án Vị thành niên để xét xử. Hầu hết các bang coi trẻ em 14 tuổi trở lên là có
khả năng hình thành ý định phạm tội, vì vậy phần lớn các trường hợp liên quan đến
những người trẻ tuổi từ 14 đến 18 tuổi được xét xử tại Tòa án Vị thành niên. Trong
một số trường hợp, người CTN có thể được xét xử tại tòa án hình sự người thành
niên. Về thủ tục tố tụng, khi một người CTN bị tình nghi vi phạm một đạo luật hình
sự, các thủ tục TTHS dành cho người CTN khác với các thủ tục dành cho thành
niên. Tất cả các nước đã tạo ra một hệ thống Tòa án Vị thành niên đặc biệt cho
người CTN. Dù có những điểm khác nhau, nhưng những người THTT điển hình
gồm cảnh sát, công tố viên, thẩm phán. Cảnh sát, công tố viên, các quan chức Tòa
án Vị thành niên chuyên trách, và các thẩm phán Tòa án Vị thành niên đều có suy
xét kỹ lưỡng để thực hiện các bước chính thức hơn trong việc xử lý các trường hợp.
Kết quả là, nhiều người CTN phạm tội không đạt đến mức điều trần xét xử. Tương
tự như vậy, các quyền Hiến định của người CTN là khác với các quyền của người
thành niên, những người đã bị cáo buộc phạm tội. Ví dụ: người CTN phạm tội có
quyền có luật sư tại một buổi điều trần xét xử, trong hầu hết các bang họ không có
quyền cho vụ án của họ xét xử bởi một Bồi thẩm đoàn. Một số vụ án người CTN
phạm tội được chuyển giao cho Tòa án dành cho người thành niên. Người CTN
phạm tội có quyền có một buổi điều trần để xác định xem trường hợp của họ nên
được chuyển giao cho Tòa án dành cho người thành niên.
13
- Magistrate Court Act, tạm dịch Đạo luật Thẩm phán Tòa án của Vương
quốc Anh, quy định về việc thành lập Tòa án; quy tắc của Tòa án; giới hạn lãnh thổ,
thẩm quyền của Tòa án; bổ nhiệm thẩm phán, thư ký tòa án; thẩm quyền dân sự,
thẩm quyền hình sự của Tòa án; thẩm quyền đặc biệt trong những trường hợp nhất
định; chức năng và thẩm quyền của thẩm phán; nhiệm vụ của thư ký tòa án…Một
điều quan trọng trong Đạo luật Thẩm phán Tòa án có quy định thông thường người
CTN sẽ được xét xử ở Tòa án Vị thành niên, tuy nhiên trong một số trường hợp thì
sẽ được xét xử ở Tòa án dành cho người thành niên. Cụ thể là trong các trường hợp:
tội sát nhân (homicide), sở hữu vũ khí quân dụng, tội trạng vượt quá 14 năm cho
người CTN, xâm phạm tình dục, xâm phạm tình dục với trẻ em, những tội đặc biệt
nghiêm trọng có thể bị phạt từ 10 năm tù giam cho người CTN (sát nhân, bắt cóc,
v.v..), xét xử cùng với đồng phạm là người thành niên.
- Police and Criminal Evidence Act 1984, tạm dịch là Đạo luật Cảnh sát
hình sự và chứng cứ 1984. Đây là một đạo luật của Quốc hội nhằm tạo ra một
khuôn khổ pháp lý cho quyền lực của nhân viên cảnh sát tại Anh và xứ Wales
chống tội phạm, cũng như cung cấp các quy trình cho việc thực hiện những quyền
lực. Khi thực hiện quyền lực đối với các trường hợp là người CTN, đạo luật cũng
quy định thật chi tiết từng hành vi cụ thể của cảnh sát: khi bắt giữ người CTN, việc
đầu tiên là nhân viên cảnh sát sẽ phải thông báo ngay với phụ huynh, người đỡ đầu,
cơ quan địa phương, v.v.. về việc lý do người CTN bị bắt giữ. Liên quan đến quy
trình thẩm vấn, lấy lời khai, hỏi cung người CTN, nếu trong trường hợp mà phụ
huynh, người đỡ đầu của người CTN không thể có mặt thì nhân viên cảnh sát sẽ tiến
hành lập một tuyên bố bằng văn bản (written statement) có chữ ký của người CTN
để chứng minh cuộc thẩm vấn không có người lớn tham dự. Tuy nhiên, việc làm
này còn phụ thuộc vào các yếu tố như: phải có sự xác nhận (hay ủy quyền) của một
người đứng đầu của cảnh sát về việc hài lòng khi cuộc thẩm vấn không gây ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe, tinh thần và thể xác của người CTN; sự trì trệ có thể xảy
ra và dẫn đến sự ngăn cản hoặc xâm phạm đến bằng chứng liên quan đến tội trạng,
ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người khác, xâm hại hay đánh mất tài sản, thông
14
báo cho người bị nghi là có sự tham gia trong tội trạng nhưng chưa bị bắt giải…
Còn khi thẩm vấn có sự hiện diện của phụ huynh, người đỡ đầu thì người lớn phải
khuyên bảo người CTN trong quá trình thẩm vấn; giám sát cuộc thẩm vấn diễn ra
một cách công bằng và chuẩn xác; giúp cho cuộc điều tra được thuận lợi, tốt đẹp…
Trong số tài liệu tiếng nước ngoài liên quan tới đề tài luận án cũng có thể kể
tới các tài liệu như: Hệ thống tư pháp hình sự của một số nước Châu Á, bản dịch
tiếng Việt của Viện khoa học Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao;
Bộ luật tố tụng hình sự của Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, bản dịch tiếng Việt của
Viện khoa học Kiểm sát, VKSND tối cao; có hiệu lực thi hành năm 1992;
“Principle of Criminal procedure” tạm dịch “ Nguyên tắc của xét xử vụ án hình sự”
của tác giả Neil Andrews; “Human rights in the English criminal trial – Human
rights in criminal procedure” tạm dịch “Quyền con người trong xét xử vụ án hình
sự” của tác giả K. W. Lidstone; “Sự phát triển của thanh niên và xét xử người vị
thành niên” của tác giả Cauffman và Steinberg, năm 2008.
Các tài liệu trên đây có thể có giá trị rất cao về tính khoa học cũng như độ tin
cậy của thông tin nhưng trong luận án này chúng tôi chỉ dừng ở mức độ sử dụng các
tài liệu này dưới góc độ thông tin về tình hình nghiên cứu ở các nước xuất phát từ
các lý do sau: đầu tiên, rào cản ngôn ngữ không cho phép nắm bắt đầy đủ, chính xác
ý tưởng của các tác giả và thêm nữa là sự khó khăn trong việc tiếp cận nguồn thông
tin chính gốc. Các tài liệu được dịch ra tiếng Việt tự thân đã là các tài liệu thuộc
nguồn thông tin thứ cấp vì thế độ chính xác, tính tin cậy của thông tin cũng bị hạn
chế bởi sự có thể có những lồng ghép quan điểm chủ quan của người dịch, sự áp đặt
hiểu biết, kiến thức về pháp luật nước mình trong quá trình dịch, sự khác biệt của
ngôn ngữ chuyên ngành. Nói như vậy không có nghĩa tài liệu nước ngoài không
đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện đề tài. Trái lại, việc nắm bắt chính xác,
đầy đủ thông tin pháp luật nước ngoài sẽ nâng cao chất lượng khoa học của luận án.
Đánh giá chung về các công trình trên, có những điểm tương đồng với pháp
luật Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực TTHS. Những quy trình TTHS đặc biệt đối
15
với người CTN khi tham gia vào VAHS. Những quy định đối với người THTT là
cần phải có kiến thức, sự am hiểu về tâm sinh lý đối với người CTN khi tiến hành
các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử người CTN phạm tội. Tuy nhiên, so với
những quy định về thủ tục TTHS đặc biệt đối với người CTN, pháp luật nước ngoài
cũng có những điểm ưu việt, nổi trội hơn. Đặc biệt, đa số các quốc gia đều có Tòa
án chuyên trách để xét xử người CTN và xây dựng riêng luật cho người CTN (Law
for parents Counselors). Để có thể đảm bảo cho người CTN thực hiện được đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình, pháp luật nước ngoài cũng quy định rất
chặt chẽ các hoạt động của các cơ quan THTT như cơ quan điều tra (CQĐT), viện
công tố, tòa án và kể cả người THTT bằng việc xây dựng các đạo luật riêng cho
từng đối tượng cụ thể, như Đạo luật Thẩm phán Tòa án và Đạo luật Cảnh sát hình
sự và Chứng cứ 1984.v.v..
Tuy vậy, một cách tổng quan có thể thấy các tài liệu nước ngoài chủ yếu đề
cập đến QCN nói chung và QCN trong TTHS và các quyền này đều có nền tảng từ
các quy định của Công ước châu Âu về QCN. Nhiều vấn đề lý luận quan trọng như
làm thế nào để bảo đảm quyền cơ bản của công dân khi tham gia TTHS, đó là QBC;
cơ chế bảo đảm thực thi QBC theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS ra sao…còn bị bỏ
ngỏ hoặc đã được đề cập ở mức độ nhất định nhưng còn thiếu đồng bộ, thiếu thống
nhất, chưa đầy đủ. Do vậy, đa số các công trình chủ yếu phân tích các quy định của
pháp luật thực định, có so sánh với thực tiễn để tìm ra những bất cập, hạn chế về
QBC nói chung và của người CTN riêng trong TTHS.
Nhìn chung thủ tục tố tụng đối với người CTN phạm tội, trong phạm vi
người viết tra cứu được, cũng chỉ được đề cập ở một phạm vi rất nhỏ trong các tài
liệu dịch như đã thống kê.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Bên cạnh các sách chuyên khảo và các đề tài khoa học của các nhà nghiên
cứu nước ngoài, còn có các công trình của các học giả trong nước dưới góc độ
nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục tố tụng đối với người CTN. Có thể kể đến các đề
16
tài nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài luận án, tác giả phân thành các nhóm
như sau:
- Đề tài khoa học, luận án tiến sĩ và luận văn thạc sỹ luật học:
+ Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Bảo đảm quyền con người trong tố
tụng hình sự Việt Nam, chủ nhiệm đề tài PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc, trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009. Đề tài nghiên cứu vấn đề QCN,
quyền công dân và Nhà nước pháp quyền, bảo đảm QCN trong TTHS. Đề tài phát
triển lý luận về QCN và bảo đảm QCN trong hoạt động TTHS như: bảo đảm QCN
của các chủ thể tham gia hoạt động TTHS: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị can,
bị cáo là người CTN, NBC, người làm chứng, người bị hại. Cơ chế bảo đảm QCN
trong TTHS và các thành tố của cơ chế; mối quan hệ giữa CCTP và mở rộng QCN,
tăng cường bảo đảm QCN trong TTHS. Riêng về lĩnh vực hoạt động TTHS thì đề
tài cũng không phải là công trình nghiên cứu đầu tiên về QCN và bảo đảm QCN.
Đã có một số công trình nghiên cứu khoa học ở nhiều cấp độ khác nhau về đề tài
này. Cần phải kể đến sách chuyên khảo “Bảo vệ quyền con người trong luật hình
sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam” của TS Trần Quang Tiệp và một số luận văn thạc
sỹ, bài viết về đề tài này. Các nghiên cứu này đã bước đầu đề cập đến một số nội
dung của QCN trong TTHS ở những khía cạnh cụ thể. Tuy nhiên, cần phải khẳng
định rằng các nghiên cứu kể trên còn có những hạn chế nhất định ở tính hệ thống,
tính toàn diện. Nhiều khái niệm cơ bản của vấn đề QCN và bảo đảm QCN trong
TTHS nói chung hoặc QCN và bảo đảm QCN của những chủ thể tham gia hoạt
động TTHS chưa được nhìn nhận một cách đồng bộ và sâu trong các nghiên cứu
này. Tóm lại, công trình nghiên cứu Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình
sự Việt Nam đã làm rõ thực trạng bảo đảm QCN trong Bộ luật TTHS 2003 và đề
xuất một số giải pháp hoàn thiện Bộ luật TTHS 2003 theo hướng mở rộng QCN và
bảo đảm QCN của những chủ thể tham gia hoạt động TTHS.
+ Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố
tụng hình sự Việt Nam, của TS Lại Văn Trình, Đại học Luật TP.HCM năm 2011.
17
Luận án nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận về QCN và bảo đảm QCN của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS; hệ thống hóa được các biện pháp bảo đảm; làm
rõ những điểm chung và những đòi hỏi đặc thù trong bảo đảm QCN của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai đoạn TTHS khác nhau. Ngoài ra, luận án đã
phân tích có hệ thống các quy định của Bộ luật TTHS và đánh giá đầy đủ, toàn diện
thực tiễn bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam,
từ đó tìm ra được những hạn chế, bất cập về bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo trong TTHS và nguyên nhân của những bất cập hạn chế. Luận án cũng
đã đưa ra được một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật TTHS Việt Nam và tăng cường bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo trong hoạt động TTHS.
+ Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng đối với người chưa
thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, của TS Đỗ Thị Phượng, Khoa
luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007. Luận án đã nghiên cứu một cách có hệ
thống về thủ tục đối với người CTN và thực tiễn áp dụng những quy định này trên
địa bàn cả nước, góp phần làm sáng tỏ và hoàn thiện các quy định của Bộ luật
TTHS. Luận án nghiên cứu các quy định chung về thủ tục tố tụng đối với người
CTN trong Bộ luật TTHS Việt Nam để qua đó làm sáng tỏ về mặt lý thuyết những
ưu điểm và hạn chế, bên cạnh đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định
của Bộ luật TTHS hiện hành. Tác giả đã nghiên cứu thực tiễn áp dụng các thủ tục
tố tụng đối với người CTN trong phạm vi cả nước từ năm 1997 đến năm 2007, đánh
giá những kết quả đạt được và những tồn tại, thiếu sót để đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng giải quyết các loại vụ án này trong tình hình hiện nay và
những năm tiếp theo. Ngoài ra, tác giả còn xây dựng và thống nhất các khái niệm về
người CTN, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người CTN; xây dựng mô hình tổ
chức của Tòa án người CTN tại Việt Nam.
+ Bảo đảm quyền có người bào chữa của người bị buộc tội – so sánh giữa
luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ, của TS Lương Thị Mỹ Quỳnh, Đại học
18
Luật TP.HCM năm 2011. Luận án nghiên cứu làm sáng tỏ nội dung những quy định
hiện hành của pháp luật quốc tế, của luật TTHS Việt Nam, Đức và Mỹ về bảo đảm
quyền có NBC trong sự so sánh để thấy được những điểm tương đồng và khác biệt,
lý giải sự tương đồng và khác biệt đó, đồng thời phân tích và chỉ ra những ưu điểm
và hạn chế của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về bảo đảm quyền có NBC.
Luận án còn đánh giá được thực trạng bảo đảm quyền có NBC ở Việt Nam, Đức và
Mỹ trong sự so sánh để thấy được những hiệu quả và khó khăn trong việc áp dụng
pháp luật ở mỗi quốc gia. Trên cơ sở nghiên cứu nền tảng lý luận và pháp luật hiện
hành cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật của Đức và Mỹ về bảo đảm quyền có
NBC, luận án đã đề xuất những giải pháp để hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện
hành nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền này trong TTHS.
+ Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam, của TS Trần Hưng Bình, Học Viện Khoa học xã hội,
năm 2014. Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận án đã góp phần giải quyết
về mặt lý luận quyền của người CTN nói chung và quyền, lợi ích hợp pháp của
người CTN trong TTHS nói riêng. Về ý nghĩa thực tiễn, luận án góp phần hoàn
thiện pháp luật TTHS cũng như góp phần thay đổi nhận thức của người CTN, các
cơ quan và người THTT, gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội.
+ Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong Tư pháp hình sự Việt Nam,
của Thạc sỹ Nguyễn Thị Thanh, năm 2008. Luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề
lý luận chung về bảo vệ quyền của người CTN trong tư pháp hình sự, như: khái
niệm người CTN; bảo vệ quyền cho người CTN trong tư pháp hình sự Việt Nam.
Phân tích lược sử hình thành và phát triển các quy phạm tư pháp hình sự Việt Nam
về bảo vệ quyền của người CTN. Nghiên cứu những quy định của tư pháp hình sự
Việt Nam hiện hành về bảo vệ quyền của người CTN và thực tiễn áp dụng những
quy định của tư pháp hình sự Việt Nam về bảo vệ quyền của người CTN. Nêu các
giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của người CTN trong tư
pháp hình sự Việt Nam: hoàn thiện các quy định của BLHS và Bộ luật TTHS bảo
19
vệ quyền của người CTN; các giải pháp đảm bảo như thành lập Tòa án dành cho
người CTN, tăng cường hợp tác quốc tế.
+ Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thành lập cơ quan xét xử người chưa
thành niên phạm tội, của Thạc sỹ Lê Thị Hồng Minh, Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh, năm 2003. Đề tài nghiên cứu về cơ sở lý luận cho việc thành lập cơ quan
xét xử người CTN phạm tội. Đồng thời tác giả cũng làm rõ được thực trạng tội
phạm người CTN cũng như cách đánh giá một cách khách quan về thực tiễn xét xử
người CTN phạm tội trong thời gian qua mà chủ yếu là những hạn chế, vướng mắc
làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bị can, bị cáo là người CTN. Đặc biệt là
những vướng mắc trong quy định của pháp luật và thực trạng cơ quan, đội ngũ cán
bộ làm công tác xét xử người CTN phạm tội. Tác giả cũng đưa ra một số kiến nghị
góp phần vào quá trình CCTP nói chung và cải cách tòa án nói riêng cũng như
nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay.
- Ngoài nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục tố tụng đối với người CTN trong
pháp luật TTHS Việt Nam nêu trên còn có một số công trình tiêu biểu đề cập đến
những vấn đề lý luận chung như: sách chuyên khảo:
+ Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam, của Trường
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2010 do TS. Võ Thị Kim Oanh chủ
biên mà điển hình là các bài viết của PGS. TS. Trần Văn Độ “Bảo vệ quyền con
người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp” và của tiến sĩ Nguyễn Bá Ngừng “Bảo đảm quyền bào chữa của
bị can, bị cáo - Một trong những nguyên tắc quan trọng góp phần bảo đảm quyền
con người trong tố tụng hình sự”. Công trình này tập hợp có hệ thống các công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học về những vấn đề chung về bảo vệ các QCN bằng
pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự, bảo vệ QCN của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo nói chung và bị can, bị cáo là người CTN nói riêng trong tư pháp hình sự đáp
ứng yêu cầu CCTP, một số vấn đề bảo vệ QCN trong TTHS Việt Nam…
20
+ Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự của NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, năm 2011 của các tác giả PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung, GS.TS.
Phạm Hồng Thái, GS. TSKH Lê Văn Cảm, TS. Vũ Công Giao và ThS. Lê Khánh
Tùng đồng chủ biên. Công trình này là tập hợp các tài liệu của lớp tập huấn về bào
chữa hiệu quả cho một số nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong TTHS do khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức và sự hỗ trợ của Dự án Tư pháp quốc tế (IJP)
và chương trình Sáng kiến pháp quyền của Hội Luật gia Hoa Kỳ (ABA ROLI).
Công trình giới thiệu về một số vấn đề pháp lý và thực tiễn trong việc bảo vệ các
nhóm dễ bị tổn thương trong TTHS trên thế giới và ở Việt Nam.
+ Hướng dẫn thực hành các tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến tư pháp người
chưa thành niên, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội năm 2000 phối hợp với Tổ chức
cứu trợ trẻ em của Thụy Điển (Radda Barnen) xuất bản. Công trình giới thiệu về
những tiêu chuẩn về QCN trong tư pháp người CTN, tập hợp các nguồn luật quốc tế
về QCN, quyền của trẻ em và hướng dẫn thực hành cho các cán bộ tư pháp người
CTN, các nhà chính sách và các lực lượng truyền thông.
- Trong số các tài liệu trong nước về TTHS nói chung và bảo đảm QBC của
bị can, bị cáo là người CTN còn có các tài liệu như sau: giáo trình Luật TTHS Việt
Nam năm 2008 của Trường Đại học Luật Hà Nội; sách Bình luận khoa học Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003 của Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, NXB Bộ Tư
pháp, năm 2005; sách Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm
2003 của tác giả Đinh Văn Quế, Chánh tòa Tòa hình sự TAND tối cao, NXB Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007; sách Bình luận Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 của các tác giả ThS. Vũ Mạnh Thông và Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp,
NXB Lao động và Xã hội, năm 2009.v.v…
- Dưới góc độ nghiên cứu chuyên ngành, cũng có nhiều công trình liên quan
đến vấn đề QBC của bị can, bị cáo. Một nguồn tài liệu có độ tin cậy và giá trị pháp
lý cao mà không thể bỏ qua trong quá trình thực hiện luận án là các bài viết trên
các tạp chí, tài liệu hội thảo chuyên ngành. Trong số các bài viết đó cần phải đề cập
21
tới các bài viết của các tác giả sau đây: bài viết của PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc
“Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong tố tụng hình sự” đăng trên Tạp chí
Khoa học Pháp lý số 4 năm 2007; các bài viết của TS. Nguyễn Văn Tuân “Bảo đảm
quyền có người bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự”, “Quyền bào
chữa và sự tham gia của bị cáo ở phiên tòa” và “Bàn về sự tham gia của Luật sư
trong các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên” đăng trên Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật số chuyên đề 1995; bài viết “Hoàn thiện quy định của pháp luật
nhằm đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo chưa thành niên” của ThS.
Nguyễn Hải Ninh đăng trên Tạp chí Luật học số 11 năm 2009, trang 41; bài viết
“Hoàn thiện những quy định về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
phạm tội” của ThS. Cao Thị Oanh đăng trên Tạp chí Luật học số 10 năm 2007,
trang 36; bài viết của TS. Đỗ Thị Phượng “Sự cần thiết phải thành lập tòa án người
chưa thành niên ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí TAND số 21 năm 2009, trang 1; bài
viết “Một số đặc tâm lí của người chưa thành niên phạm tội” đăng trên Tạp chí
Luật học, số 1 năm 2008, trang 39; bài viết “Việc áp dụng khoản 2, Điều 57 Bộ luật
tố tụng hình sự” của Lê Văn Sua đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11 năm
2006, trang 26; bài viết “Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội
– một số vấn đề cần được nghiên cứu” của TS. Lê Đăng Doanh đăng trên Tạp chí
TAND số 9 năm 2009, trang 25; bài viết “Nguyên tắc xử lý người thành niên phạm
tội” của ThS. Mai Bộ đăng trên Tạp chí Nghề luật số 3 năm 2008, trang 19; bài viết
“Những khía cạnh pháp lý hình sự về các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng
đối với người chưa thành niên phạm tội” của TS. Trịnh Tiến Việt đăng trên Tạp chí
TAND số 13 năm 2010, trang 9; báo cáo của PGS. TS. LS. Phạm Hồng Hải về
“Quyền tự bào chữa trong tố tụng hình sự ở Việt Nam và việc thực hiện trong thực
tiễn” tại Hội thảo Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam (do Liên đoàn
Luật sư Việt Nam và Chương trình phát triển Liên hợp quốc tổ chức tại Thành phố
Hồ Chí Minh vào tháng 12 – 2010); báo cáo của PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc về
“Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” tại Hội thảo Quyền con người trong
22
tố tụng hình sự (do VKSND tối cao và Ủy ban nhân quyền Australia tổ chức vào
tháng 3 – 2010).
Qua nghiên cứu các tài liệu trong nước, chúng tôi nhận thấy, việc nghiên cứu
về thủ tục tố tụng đối với người CTN của các tác giả đã đạt được những thành quả
nhất định. Các công trình nghiên cứu trong nước nói trên đã tập trung những vấn đề
sau:
- Về đặc điểm tâm sinh lý của người CTN nói chung và người CTN phạm tội
nói riêng.
Người CTN là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần. Họ là
người ở độ tuổi từ 14 đến dưới 18 tuổi, đa số họ còn đang sống phụ thuộc vào người
thành niên. Người CTN là người còn có rất ít kinh nghiệm sống, ít va chạm, tiếp
xúc với các hiện tượng xã hội nhưng đồng thời họ lại là người rất hiếu động, thích
tìm hiểu, khám phá những điều mới lạ trong thế giới xung quanh mình. Do đó họ dễ
bị lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm. Người CTN phạm tội về cơ
bản cũng có những đặc điểm tâm sinh lý như người CTN bình thường, tuy nhiên do
tiếp xúc nhiều với những điều kiện tiêu cực trong đời sống xã hội cho nên về tâm
sinh lý của họ có những biểu hiện lệch lạc, cực đoan. Sự hiểu biết về pháp luật cũng
như các chuẩn mực trong xã hội của người CTN phạm tội thường rất mơ hồ. Khả
năng nhận thức về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của họ còn rất
hạn chế.
- Về chính sách hình sự đối với người CTN.
Hầu hết các tài liệu trên đều đề cập tới nguyên tắc xử lý về hình sự đối với
người CTN phạm tội. Về cơ bản, nhà nước Việt Nam không chủ trương xử lý về
hình sự mang tính chất trừng phạt người CTN phạm tội mà với mục đích giáo dục,
giúp đỡ họ tích cực sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh để họ trở thành những
công dân có ích cho xã hội. Dựa trên nguyên tắc này, pháp luật hình sự của Việt
Nam đã có những qui định mang tính chất nhân đạo đối với người CTN phạm tội.
Cụ thể: Người CTN có thể được miễn truy cứu TNHS nếu người đó phạm tội ít
23
nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và nếu được gia đình
hoặc một tổ chức xã hội nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục... hoặc khi xét xử, nếu
thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người CTN phạm tội, thì toà án
áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được qui định tại Điều 70 BLHS 1999.
Người CTN khi bị áp dụng hình phạt tù thì mức hình phạt mà toà án áp dụng cho họ
cũng nhẹ hơn mức hình phạt được quyết định đối với người thành niên phạm tội. Bên
cạnh đó pháp luật cũng không cho phép được áp dụng hình phạt tử hình và chung
thân đối với người CTN phạm tội. Các công trình này đã lý giải tại sao Việt Nam lại
có những chính sách nhân đạo đối với người CTN phạm tội và việc cụ thể hoá các
chính sách này trong pháp luật hình sự và TTHS như thế nào. Những qui định mang
tính nhân đạo này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người CTN.
- Về các qui định của pháp luật TTHS đối với người CTN và thực tiễn áp
dụng.
Các nghiên cứu đều chỉ ra các qui định về thủ tục TTHS đối với người CTN
trong Bộ luật TTHS là tương đối đầy đủ, tuy nhiên vẫn còn một số qui định mang
tính chung chung, chưa rõ ràng, cụ thể. Chính vì vậy mà việc áp dụng các qui định
này trên thực tế đã gặp không ít những khó khăn. Có rất nhiều các cơ quan THTT
đã nhận thức chưa đầy đủ, chưa thống nhất dẫn đến việc vận dụng sai các qui định
của pháp luật TTHS khi giải quyết những vụ án do người CTN thực hiện, điều này
đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN. Đôi khi
cũng có trường hợp do cẩu thả, xem nhẹ các qui định này mà các cơ quan THTT đã
vi phạm nghiêm trọng các thủ tục TTHS đối với người CTN.
- Các kiến nghị sửa đổi Bộ luật TTHS và các văn bản pháp luật liên quan.
Trên cơ sở phân tích nhằm làm rõ những qui định của pháp luật về thủ tục
TTHS đối với người CTN và thực tiễn áp dụng thủ tục tố tụng này, các nghiên cứu
nói trên đã đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện qui định pháp luật TTHS và
chủ yếu là về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, việc nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ tư pháp, việc đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN
như sự tham gia của NBC, đại diện gia đình, tổ chức xã hội. Một số nghiên cứu
24
cũng đề cập tới việc cần thiết phải thành lập Toà án người CTN trong hệ thống
TAND song mới chỉ dừng lại ở việc nêu vấn đề mà chưa phân tích cụ thể cơ sở lý
luận cũng như cơ sở thực tiễn có tính thuyết phục cho việc cần thiết phải thành lập
Toà án người CTN, cơ cấu tổ chức, nguồn cán bộ của tòa án.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã khái quát được các qui định
của pháp luật về thủ tục tố tụng đối với người CTN.
Tuy nhiên các công trình này mới chỉ dừng lại ở mức độ phân tích, so sánh,
đánh giá những mặt hạn chế và đạt được ở từng khía cạnh trong việc áp dụng các
qui định của pháp luật đối với người CTN mà chưa đi sâu phân tích một cách toàn
diện các khía cạnh pháp lý. Một trong những nội dung chưa được đề cập đến nhiều
như thủ tục điều tra thân thiện đối với người CTN chưa được các tác giả tập trung
nghiên cứu. Theo đánh giá của các chuyên gia pháp lý, mặc dù Việt Nam đã có rất
nhiều nỗ lực nhưng hệ thống tư pháp hiện hành đối với người CTN, đặc biệt là
trong việc bảo đảm sự bảo vệ và hỗ trợ đầy đủ cho người CTN hiện vẫn còn một số
khiếm khuyết cả về pháp luật lẫn thực tiễn. Các nghiên cứu cho biết hệ thống xử lý
người CTN vi phạm pháp luật của Việt Nam còn nặng tính trừng phạt, nếu so sánh
với các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, thủ tục điều tra, truy tố, xét xử chưa thực
sự phù hợp với nhu cầu bảo vệ đặc biệt của người CTN có liên quan đến hệ thống tư
pháp. Việc bảo vệ sự riêng tư của bị can, bị cáo CTN là một số vấn đề cần quan
tâm. Hiện chưa có đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, luật sư, cán bộ
TGPL được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp với người CTN. Kỹ năng điều
tra, truy tố, xét xử thân thiện với người CTN của các cán bộ THTT còn rất hạn chế.
Một nội dung khác cũng chưa được đề cập một cách chuyên sâu, đó là trong bối
cảnh hiện nay, nhất là để thực hiện chủ trương CCTP theo Nghị quyết 49-NQ/TW,
việc xúc tiến thành lập tòa án chuyên trách về người CTN như trên đã được xác
định là rất cần thiết và đây là thời điểm thích hợp. Các TAND như hiện nay xét xử
người CTN vi phạm pháp luật hoặc xét xử các vụ việc nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của người CTN khi bị xâm phạm không còn phù hợp đòi hỏi cần phải có
25
tòa án chuyên trách để xét xử những vụ án liên quan tới người CTN. Hơn nữa, Nhà
nước ta đã sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 và đang nghiên cứu sửa đổi, bổ sung
Luật Tổ chức TAND và các văn bản pháp luật khác có liên quan, đồng thời triển
khai thực hiện Nghị quyết 49 về CCTP thì việc tổ chức, thành lập tòa án cho người
CTN là phù hợp với thực tiễn.
Điều này cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, toàn diện
hơn nữa để từng bước hoàn thiện quy định pháp luật TTHS trong giải quyết vụ án
do người CTN thực hiện là việc làm cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn
hiện nay.
2. Mục tiêu, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu có thể hiểu là câu trả lời cho câu hỏi việc thực hiện
luận án để làm cái gì? Với cách tiếp cận này, chúng tôi xác định mục tiêu của luận
án là đề xuất các giải pháp pháp lý hoàn thiện quy định pháp luật về QBC của bị
can, bị cáo là người CTN, đặc biệt là các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về
cơ chế thực thi quyền này.
2.2. Cơ sở lý thuyết
2.2.1. Câu hỏi nghiên cứu
Nhằm làm rõ mục tiêu nghiên cứu của luận án, chúng tôi đặt ra các câu hỏi
nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, có hay không sử ảnh hưởng của lý thuyết về QBC của bị can, bị
cáo nói chung và bị can, bị cáo là người CTN nói riêng đến hiệu quả cơ chế đảm
bảo thực thi quyền này?
Thứ hai, những yếu tố nào tạo nên tính chất đặc thù của bị can, bị cáo là
người CTN như chủ thể đặc biệt tham gia hoạt động tố tụng? Những yếu tố này là
bất biến hay có thể thay đổi theo sự thay đổi của môi trường sống (kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội…)?
26
Thứ ba, tính chất đặc thù của bị can, bị cáo là người CTN như chủ thể đặc
biệt tham gia tố tụng đã được thể hiện đầy đủ, rõ ràng trong quy định pháp luật về
QBC của các chủ này hay chưa?
Thứ tư, nếu như quy định pháp luật hiện hành về QBC của bị can, bị cáo là
người CTN đã thể hiện đầy đủ yếu tố đặc thù của các chủ thể này thì việc áp dụng
các quy định này trên thực tiễn diễn ra như thế nào? Có hay không sự sai lệch giữa
quy định pháp luật (tạm gọi - pháp luật trên giấy) và thực tiễn áp dụng? Nếu có sự
sai lệch thì nguyên nhân xuất phát từ đâu? Việc thiếu quy định pháp luật hay có quy
định pháp luật nhưng tính chất chung chung, khái quát của kỹ thuật lập pháp cho
phép người áp dụng hiểu và vận dụng pháp luật theo cảm quan cá nhân hay không?
Sự ảnh hưởng từ nhận thức, ý thức của người áp dụng pháp luật đến hiệu quả áp
dụng pháp luật ở mức độ nào? Cần có những giải pháp nào để hạn chế sự vi phạm
QBC của bị can, bị cáo là người CTN?
2.2.2. Lý thuyết nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền với tinh thần
“thượng tôn pháp luật” và đề cao QCN. Các quan điểm của Đảng về CCTP cũng là
cơ sở cho phương pháp luận của luận án.
Đề tài luận án có trọng tâm là QBC của bị can, bị cáo là người CTN nên lý
thuyết nghiên cứu của luận án sẽ bao gồm các khái niệm, học thuyết, định nghĩa
liên quan tới QCN nói chung và QBC của bị can, bị cáo là người CTN nói riêng.
Trước tiên, phải nói tới học thuyết luật tự nhiên được hình thành từ thời Hy
lạp cổ đại nhưng phát triển mạnh mẽ ở châu Âu vào thế kỷ XIII [48] dựa trên một
trật tự chung – trao những quyền vốn có của con người cho tất cả mọi người. Các
quyền vốn có của con người vào thời điểm đó trong sâu thẳm tâm hồn nhân loại
được xem là quyền tự do không bị áp bức, quyền tự do lựa chọn và không bị chịu
những hành vi bạo lực. Giá trị của lý thuyết luật tự nhiên ở chỗ đã đặt nền móng
cho Cuộc cách mạng giải phóng của Hoa Kỳ với sự ra đời của Bản Tuyên ngôn độc
lập và kế đó là cuộc cách mạng tư sản Pháp với bản Tuyên ngôn về Nhân quyền và
27
Dân quyền (1789). Cũng chính từ các bản tuyên ngôn này là sự hình thành của
nguyên tắc suy đoán vô tội là một lý thuyết không thể thiếu trong việc xây dựng cơ
chế đảm bảo QCN nói chung trong TTHS và QBC của bị can, bị cáo là người CNT
nói riêng. Với vai trò là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu về đặc điểm thể chất, tinh
thần của người CTN, nội dung luận án sẽ là dựa trên học thuyết về sự phát triển của
con người của Eric Erikson. Theo học thuyết này giai đoạn thứ 5 của con người có
tên gọi giai đoạn vị thành niên (từ 13 đến 20 tuổi) mang đặc điểm có sự thể hiện bản
thân và sự lẫn lộn về vai trò. Nếu được học hỏi và có thêm những cảm nghiệm tích
cực về bản thân, lòng tự hào, tự trọng, biết tôn trọng người khác sẽ được hình thành
ở trẻ. Ngược lại, trẻ sẽ mất ý thức về giá trị và địa vị chính mình trong mối tương
quan với xã hội và nhưng thái độ, hành vi thể hiện sự không tôn trọng trẻ hay những
lời quở trách, phê phán đối với trẻ dễ làm cho trẻ tự ái hay dỗi hờn. Trên nền tảng
của học thuyết về sự phát triển của con người trong khoa học luât hình sự hình
thành học thuyết về tội phạm [85] và các nhánh lý thuyết về tội phạm như “lý luận
chung chung về cấu thành tội phạm” [83], “lý luận chung về định tội danh” [77],
[41]. Với học thuyết này việc quy định QBC và việc bảo đảm thực thi quyền này
cũng dựa trên cơ sở đặc điểm tâm, sinh lý của người CTN đòi hỏi cần có sự đánh
giá kỹ lưỡng, chuyên biệt đối yếu tố chủ thể tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm
là 2 trong 4 yếu tố cấu thành tội phạm. Bên cạnh các lý thuyết nền tảng nói trên,
luận án sẽ được thực hiện dựa trên sự kế thừa, tiếp thu, đánh giá các khái niệm, định
nghĩa như khái niệm QBC, khái niệm người CTN, khái niệm bị can, bị cáo, khái
niệm phạm tội.
2.2.3. Các giả thuyết nghiên cứu
Trong khả năng nhận định của chúng tôi giả thuyết nghiên cứu có thể xem là
nhận định sơ bộ, là kết luận giả định của nghiên cứu hoặc là câu trả lời sơ bộ, cần
chứng minh, vào câu hỏi nghiên cứu của đề tài. Theo quan điểm của chúng tôi đặt
ra một giả thuyết sai vẫn còn hơn không đặt ra một giả thuyết nào vì giả thuyết
nghiên cứu sẽ giúp chúng tôi có định hướng rõ hơn trong nghiên cứu. Dựa theo các
câu hỏi nghiên cứu đã được đưa ra, chúng tôi có các giả thuyết nghiên cứu như sau:
28
Giả thuyết thứ nhất, lý thuyết về QBC của bị can, bị cáo nói chung và bị can,
bị cáo là người CTN nói riêng có ảnh hưởng đến hiệu quả cơ chế đảm bảo thực thi
quyền này.
Giả thuyết thứ hai, yếu tố tâm, sinh lý là những yếu tố nào tạo nên tính chất
đặc thù của bị can, bị cáo là người CTN như chủ thể đặc biệt tham gia hoạt động tố
tụng. Những yếu tố này có thay đổi theo sự thay đổi của môi trường sống (kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội…).
Giả thuyết thứ ba, tính chất đặc thù của bị can, bị cáo là người CTN như chủ
thể đặc biệt tham gia tố tụng đã chưa được thể hiện đầy đủ, rõ ràng trong quy định
pháp luật về QBC của các chủ này.
Giả thuyết thứ tư, với các nguyên nhân khách quan, chủ quan, việc áp dụng
quy định pháp luật về QBC của bị can, bị cáo là người CTN chưa có tính hiệu quả
và cần phải có những giải pháp để hạn chế sự vi phạm QBC của bị can, bị cáo là
người CTN.
2.2.4. Hướng tiếp cận của đề tài nghiên cứu
Luận án kế thừa (có chọn lọc, phân tích, đánh giá) các kết quả nghiên cứu đã
được công bố trước đó với mục đích bổ sung, hoàn thiện các vấn đề lý luận và thực
tiễn liên quan tới đối tượng nghiên cứu của luận án.
Luận án sẽ được thực hiện theo hướng gắn kết chặt chẽ pháp luật với các học
thuyết khoa học cũng như thực tế cuộc sống, thực tiễn áp dụng pháp luật. Cách tiếp
cận này sẽ cho phép đánh giá tính phù hợp, tính tương thích của quy định pháp luật
với lý luận và thực tiễn. Kết cấu các chương của luận án phản ánh hướng tiếp cận
này.
Để đạt được mục đích nghiên cứu, việc đánh giá tính phù hợp, tính tương
thích của quy định pháp luật Việt Nam về QBC của bị can, bị cáo là người CTN
được tiếp cận theo hướng không chỉ gói gọn việc nghiên cứu trong phạm vi pháp
luật Việt Nam. Nhưng việc tiếp nhận kinh nghiệm nước ngoài nhằm hoàn thiện lý
luận cũng như pháp luật Việt Nam liên quan tới đề tài sẽ theo hướng lấy các yếu tố
29
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam là căn cứ đánh giá mức độ tiếp thu
kinh nghiệm nước ngoài.
Các giải pháp như một trong những kết quả không thể thiếu của đề tài cũng
sẽ được đưa ra theo hướng – có sự phân biệt giải pháp trọng tâm và các giải pháp
mang tính hỗ trợ và có sự đánh giá tính khả thi của việc đưa các giải pháp vào áp
dụng.
2.2.5. Dự kiến kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu của đề tài dù ở mức độ dự kiến cũng sẽ gắn liền với các
câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu đã được xác định.
Luận án dự kiến đạt được các kết qua sau đây:
Thứ nhất, bổ sung, phát triển lý thuyết về QBC của bị can, bị cáo là người
CTN phạm tội.
Thứ hai, làm rõ mối liên hệ giữa yếu tố tạo nên tính đặc thù của bị can, bị
cáo là người CTN với việc cần thiết hình thành, phát triển chế định QBC cho đối
tượng này cũng như cơ chế đảm bảo thực thi quyền.
Thứ ba, có được những giải pháp pháp lý cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả
thực thi cơ chế đảm bảo QBC của bị can, bị cáo là người CTN.
2.2.6. Nội dung, kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, phụ lục và
danh mục tài liệu tham khảo, luận án cấu trúc gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là
người chưa thành niên
Chương 2: Thực trạng quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự
Chương 3: Tăng cường bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên trong tố tụng hình sự
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau
để làm rõ đối tượng nghiên cứu. Quá trình thực hiện luận án không thể tách rời các
30
nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Các nguyên lý này dẫn tới trong qua trình phân tích, so sánh pháp luật Việt Nam và
pháp luật các nước, các kết luận được đưa ra không thể mang tính chất khen hay chê
mà chỉ có thể là sự khác biệt và tương đồng. Nhưng sự khác biệt và tương đồng này
lại phải được đánh giá trong bối cảnh của một hiện tượng pháp luật và ở các giai đoạn
lịch sử khác nhau của sự hình thành, phát triển các hiện tượng pháp luật. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
Nhà nước pháp quyền, về bảo đảm QCN đã được sử dụng khi tiếp cận vấn đề QBC
để thấy rằng QBC là một quyền cơ bản, mang tính lịch sử và có sức ảnh hưởng lớn
đến hiện thực xã hội và nhận thức về QBC là một quá trình khách quan.
Phương pháp phân tích, so sánh đã được sử dụng khi phân tích những quy
định của Bộ luật TTHS 2003, kết quả nghiên cứu so sánh còn chỉ ra được những ưu
điểm và hạn chế, bất cập của chúng và so sánh với yêu cầu của CCTP để xác định
những định hướng hoàn thiện Bộ luật TTHS 2003. Phương pháp tổng hợp được sử
dụng khi đưa ra những đánh giá về thực trạng của Bộ luật TTHS 2003 liên quan đến
QBC của người CTN phạm tội khi tham gia hoạt động TTHS, những kiến nghị hoàn
thiện Bộ luật TTHS 2003. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã khảo sát thực
tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan THTT tại một số tỉnh, thành, nghiên
cứu hồ sơ, tài liệu các vụ án làm cơ sở cho việc nghiên cứu. Bên cạnh đó, phương
pháp đàm thoại cũng được tiến hành để trao đổi với các chuyên gia làm công tác
thực tiễn như thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, luật sư và những người làm
công tác nghiên cứu về pháp luật TTHS. Phương pháp tiếp cận được thực hiện
nhằm làm rõ ý kiến của các đối tượng được hỏi ý kiến về những nội dung cụ thể
làm cơ sở cho việc đánh giá, đề xuất những kiến nghị cụ thể. Như vậy có thể nói
luận án được thực hiện trên sự kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và
phương pháp nghiên cứu định lượng.
31
Phần 3
NỘI DUNG, KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN,
BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1. Khái niệm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành
niên trong tố tụng hình sự Việt Nam
Quyền con người, một trong những giá trị quý báu nhất của nhân loại, được
ghi nhận hầu hết ở các văn kiện pháp lý quốc tế, điển hình và nền tảng nhất là
Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền như Công ước quốc tế (CƯQT) về các quyền Dân
sự và Chính trị (1966) và CƯQT về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966).
Bên cạnh việc khẳng định giá trị QCN, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948)
cũng nhấn mạnh việc thực hiện các quyền cơ bản và quyền tự do của con người có
thể bị những giới hạn nhất định, do luật quy định, với mục đích nhằm bảo vệ sự
thừa nhận các quyền và tự do của người khác và nhằm đáp ứng các yêu cầu về đạo
đức, trật tự công cộng cũng như nhằm đảm bảo lợi ích chung trong xã hội dân chủ.
Ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử, Nhà nước luôn có quy định
cụ thể về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân cũng như phương thức bảo đảm
thực hiện. Một trong các phương thức thực hiện quyền cơ bản của công dân được
nhà nước đảm bảo thực hiện là quyền được bảo vệ mình trước cơ quan pháp luật
trong đó có QBC. Hoạt động TTHS là hoạt động tổng thành của ba chức năng cơ
bản: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Ba chức năng
này không tách rời nhau, quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Nếu có chức năng buộc
tội mà không có chức năng bào chữa thì hoạt động tố tụng sẽ mang tính một chiều
và tính quy buộc. Để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện
và đầy đủ, không làm oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm thì việc bào chữa là điều cần
thiết, nó giúp cho các cơ quan THTT xác định sự thật khách quan của vụ án được
32
chính xác. Chính vì lẽ đó, TTHS sẽ không được thừa nhận là dân chủ khi chức năng
buộc tội không có sự đối trọng là chức năng bào chữa.
Hiện nay, trong pháp luật vẫn chưa có định nghĩa chính thức nào về QBC.
QBC là một chế định quan trọng trong luật TTHS và cho đến nay nó vẫn cần được
làm sáng tỏ từ góc độ lý luận để làm tiền đề cho việc thực hiện nguyên tắc đảm bảo
QBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói chung. Tuy nhiên, khái niệm QBC
hiện vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, những quan điểm này đã được các học giả
đề cập trong các công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết.
Một trong những quan điểm phổ biến trong các sách báo pháp lý về QBC
trong TTHS là quan điểm của nhà luật học Xô viết Stragovich M.S cho rằng: “Bào
chữa là tổng hợp các hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội và xác định
bị can không có lỗi hoặc làm giảm trách nhiệm hình sự (TNHS) của bị can” [53, tr.
196]. Khái niệm bị can được Stragovich dùng theo nghĩa rộng của từ này. Theo ông
khái niệm bị can rộng hơn khái niệm bị cáo vì bất cứ bị cáo nào cũng từng là bị can
nhưng không phải bị can nào cũng sẽ là bị cáo. Theo đó, ông viết “Quyền bào chữa
của bị cáo là tất cả các quyền năng tố tụng mà pháp luật quy định cho bị can để
bảo vệ khỏi mọi sự buộc tội và được bị can sử dụng để bác bỏ sự buộc tội, để đưa
ra các lý lẽ và chứng cứ trong việc biện minh hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm của
mình”. Với quan điểm này, khái niệm QBC của Stragovich đã được nhiều tác giả
ủng hộ. Một trong những tác giả này có Ph.N.Phatkylin, ông cho rằng bào chữa
trong TTHS không chỉ là tổng hợp các hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ sự
buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm mà “bào chữa thậm chí được thể hiện
trong việc bảo đảm các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ của bị can kể cả khi
chúng không trực tiếp liên quan tới việc làm giảm nhẹ trách nhiệm của bị trong vụ
án”. Và theo ông, bị can (theo nghĩa rộng) và chức năng bào chữa chỉ xuất hiện từ
thời điểm truy cứu TNHS một con người cụ thể bằng quyết định khởi tố bị can.
33
Khác với quan điểm trên, một số tác giả cho rằng chức năng bào chữa thậm
chí có cả trong trường hợp mà ở đó không có sự buộc tội. Theo đó, các tác giả của
quan điểm này khẳng định không chỉ bị cáo mà cả người bị hại cũng cần đến việc
bào chữa. Nhân chứng, giám định viên và cả những người khác cũng vậy, nếu
quyền lợi của họ bị xâm hại. Chúng tôi cho rằng quan điểm này không chính xác, vì
theo pháp luật TTHS thì những chủ thể trên hoàn toàn không chịu sự buộc tội từ
phía nhà nước hay các cơ quan THTT. Mặt khác, xuất phát từ quan điểm bào chữa
và buộc tội phải song song tồn tại, ở đâu có buộc tội, ở đó có bào chữa cho nên
trong các trường hợp trên rõ ràng những chủ thể này không thể có QBC. Tuy nhiên,
điều đó không có nghĩa rằng người chưa bị buộc tội (khởi tố bị can hoặc ít nhất là bị
tạm giữ) thì không có quyền được bảo vệ lợi ích của mình khi bị xâm hại. Quyền
bảo vệ quyền và lợi ích của mình luôn luôn tồn tại ở mỗi con người, mỗi công dân;
nhưng theo chúng tôi, đó chưa phải là QBC nếu chưa có sự buộc tội.
Theo PGS.TS Phạm Hồng Hải: “Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là
tổng hòa các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án
thực hiện trên cở sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần
hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ
trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự”. Theo chúng tôi cách hiểu như
vậy là quá rộng. Người bị kết án là người đã có bản án có hiệu lực của Tòa án kết
luận là có tội và phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật, nếu nói rằng họ có
QBC thì vô hình chung đã làm mất hiệu lực của bản án và như vậy TTHS sẽ không
có điểm dừng.
Ngoài các quan điểm nêu trên, tiếp cận các quy định pháp luật TTHS của các
nước chúng ta thấy có một số quan niệm khác nhau về QBC và chúng có thể được
khái quát theo các nhóm quan điểm sau:
- Pháp luật TTHS của những nước theo truyền thống pháp luật Ăng – Lô –
Xắc – Xông cho rằng TTHS được coi là bắt đầu từ thời điểm VAHS được chuyển
34
sang Tòa án, và theo đó chức năng bào chữa chỉ xuất hiện từ thời điểm đó và QBC
chỉ thuộc về bị cáo. Một số nước khác cũng trong hệ thống pháp luật này mặc dù
cho rằng TTHS bắt đầu từ thời điểm khởi tố vụ án nhưng pháp luật quy định QBC
là quyền của bị cáo.
-Theo pháp luật TTHS của một số nước XHCN thì QBC được hiểu là quyền
của bị can lẫn bị cáo nhưng QBC của bị can bị hạn chế vì họ chỉ có quyền có NBC
trong một số trường hợp cụ thể.
Xuất phát từ quan điểm buộc tội và bào chữa phải song song tồn tại, ở đâu có
buộc tội, ở đó có bào chữa, bị can, bị cáo có QBC vì họ bị buộc tội, những người
tham gia tố tụng khác không bị buộc tội nên vấn đề bào chữa không đặt ra đối với
họ. Trong pháp luật TTHS Nga quy định QBC là quyền của bị can, bị cáo được tự
mình hoặc nhờ NBC đưa ra các chứng cứ hoặc yêu cầu để bác bỏ sự buộc tội hay
làm giảm nhẹ trách nhiệm của mình; sự tham gia của NBC không bị hạn chế ở giai
đoạn xét xử mà được bắt đầu ngay từ giai đoạn điều tra. Đồng tình với quan điểm
trên, tác giả Hoàng Thị Sơn đưa ra quan điểm của mình: “QBC của bị can, bị cáo là
tổng thể các quyền mà pháp luật quy định bị can, bị cáo có thể sử dụng nhằm bác
bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ”.
Chúng tôi đồng tình với quan điểm trên khi cho rằng đối với những chủ thể
không bị buộc tội thì vấn đề bào chữa không đặt ra đối với họ. Tuy nhiên, chúng ta
thấy rằng ngoài bị can, bị cáo thì người bị bắt, tạm giữ, tạm giam cũng là đối tượng
bị buộc tội. Chỉ trên cơ sở coi người bị bắt, tạm giữ, tạm giam là đối tượng bị buộc
tội thì cơ quan THTT mới có quyền ra quyết định tạm giữ, tạm giam một con người
– xâm phạm quyền tự do về thân thể của họ, một trong những quyền Hiến định của
công dân và áp dụng các biện pháp điều tra đối với họ như lấy lời khai, thu thập
chứng cứ, vì vậy quy định cho người bị bắt, tạm giữ, tạm giam có QBC để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình là hoàn toàn hợp lý khi mà họ đã và đang bị áp
dụng biện pháp cưỡng chế TTHS. Nói cách khác, người bị bắt, tạm giữ, tạm giam là
35
chủ thể bị buộc tội. Đối với bị can, bị cáo thì sự buộc tội đối với họ đã được khẳng
định bằng quyết định khởi tố và bản cáo trạng nên đương nhiên pháp luật phải quy
định cho họ QBC. Như vậy QBC thông thường xuất hiện khi một người bị cơ quan
THTT ra quyết định khởi tố bị can, trong trường hợp có người bị bắt, tạm giữ, tạm
giam thì QBC xuất hiện sớm hơn khi họ bị cơ quan THTT ra quyết định tạm giữ,
tạm giam và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Trên cơ sở tiếp thu những điểm tích cực của các quan điểm nêu trên về khái
niệm QBC, chúng tôi mạnh dạn đưa ra khái niệm QBC của bị can, bị cáo là người
CTN trong TTHS Việt Nam như sau: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam là tổng thể những hành vi tố tụng
mà pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cho phép người đã bị khởi tố về hình sự và
người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử là người dưới 18 tuổi có thể sử dụng
nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội, làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
hoặc làm sáng tỏ tình tiết về sự vô tội của mình”.
Do tầm quan trọng của nó mà quyền này được Hiến pháp 2013 quy định tại
Khoản 4 Điều 31: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa” và là một nguyên tắc
cơ bản trong Bộ luật TTHS. QBC là một tổng thể các quyền và những biện pháp tố
tụng cần thiết đảm bảo cho người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo tích cực
tham gia TTHS; có khả năng thực tế để bày tỏ thái độ của mình đối với việc buộc
tội; lưu ý các cơ quan THTT về những tình tiết này hay tình tiết khác của vụ án; khả
năng nêu ra những tình tiết minh oan hoặc giảm nhẹ tội cho bị can, bị cáo. Nếu như
QBC là khả năng sử dụng những quyền tố tụng để bảo vệ những quyền và lợi ích
hợp pháp thì biện pháp bào chữa là các hành động cụ thể để thực hiện quyền ấy
(viết đơn khiếu nại, kháng cáo, tranh luận…). Khái niệm QBC phản ánh những
quyền cụ thể mà Bộ luật TTHS đã quy định cho bị can, bị cáo được thực hiện để
bảo vệ lợi ích chính đáng của mình trước việc các cơ quan và những người THTT
đã khởi tố VAHS, khởi tố họ với tư cách bị can, hoặc đã quyết định truy tố và đưa
36
họ ra xét xử; bao gồm cả quyền họ được chứng minh là mình không có tội hoặc có
những tình tiết giảm nhẹ TNHS. Trong khi đó, đảm bảo QBC được xem là cơ chế thực
hiện QBC, ghi nhận trách nhiệm của cơ quan, người THTT, các tổ chức xã hội, cơ
quan nhà nước khác phải tạo điều kiện giúp bị can, bị cáo nói chung thực hiện QBC.
Theo quy định của Bộ luật TTHS, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, do hạn chế về kiến thức pháp luật,
kỹ năng bào chữa (đặc biệt là đối với người CTN) và có thể do đang bị giam giữ
nên họ không thể thực hiện được việc tự bào chữa có hiệu quả. Họ cần có người
khác có khả năng để bào chữa, do đó, bên cạnh quyền tự bào chữa, pháp luật đã quy
định họ có quyền nhờ luật sư, trợ giúp viên pháp lý, bào chữa viên nhân dân
(BCVND) bào chữa cho mình. Quy định về NBC, các quyền và nghĩa vụ của họ tại
các Điều 56, 57 và 58 của Bộ luật TTHS. Tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa
là quyền của bị can, bị cáo, không phải là nghĩa vụ của họ.
Để những người có lỗi thực hiện một cách có hiệu quả quyền tự bào chữa,
Điều 11 Bộ luật TTHS Việt Nam thừa nhận QBC gồm 02 nội dung quyền tự bào
chữa và nhờ người khác bào chữa. Quy định trong điều 11 Bộ luật TTHS không
mâu thuẫn với Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 và Điều 9 Luật tổ chức
TAND năm 2002. Trong đó, điều 11 Bộ luật TTHS 2003 quy định QBC của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đây chính là bước phát triển về chất của chế định QBC
trong luật TTHS của nước ta, nó hoàn toàn phù hợp với lý luận TTHS hiện đại trên
thế giới.
Khái niệm QBC trong TTHS đã được các nước tiếp cận ở nhiều góc độ khác
nhau nhưng mục đích chung duy nhất vẫn là bảo đảm quyền của con người khi
tham gia TTHS.
Như vậy, qua sự phân tích, so sánh các quan điểm khoa học và quy định
pháp luật của các nước về khái niệm QBC cho thấy, chế định QBC trong TTHS
Việt Nam mang tính tính ổn định, tính lịch sử và kế thừa. Tính ổn định được thể
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng

More Related Content

What's hot

What's hot (17)

Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
 
Luận văn: Chức năng buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Chức năng buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựLuận văn: Chức năng buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Chức năng buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc NinhLuận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
 
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên, HOT, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên, HOT, 9đLuận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên, HOT, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên, HOT, 9đ
 
Đề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
Đề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phánĐề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
Đề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa ánLuận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án
 
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà NẵngLuận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
 
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề lý luận thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình
 
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOTQuyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
 
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAYLuận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
 
Luận văn: Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự tại Tp Đà Nẵng
Luận văn: Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự tại Tp Đà NẵngLuận văn: Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự tại Tp Đà Nẵng
Luận văn: Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự tại Tp Đà Nẵng
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 

Similar to Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng

Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênBảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở việt na...
quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở việt na...quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở việt na...
quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở việt na...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNuioKila
 

Similar to Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng (20)

Luận Văn Quyền Bào Chữa Của Bị Can, Bị Cáo Là Người Chưa Thành Niên
Luận Văn Quyền Bào Chữa Của Bị Can, Bị Cáo Là Người Chưa Thành NiênLuận Văn Quyền Bào Chữa Của Bị Can, Bị Cáo Là Người Chưa Thành Niên
Luận Văn Quyền Bào Chữa Của Bị Can, Bị Cáo Là Người Chưa Thành Niên
 
Luận Văn Quyền Bào Chữa Của Bị Can, Bị Cáo Là Người Chưa Thành Niên
Luận Văn Quyền Bào Chữa Của Bị Can, Bị Cáo Là Người Chưa Thành NiênLuận Văn Quyền Bào Chữa Của Bị Can, Bị Cáo Là Người Chưa Thành Niên
Luận Văn Quyền Bào Chữa Của Bị Can, Bị Cáo Là Người Chưa Thành Niên
 
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niênBảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAYBảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAY
Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, HAY
 
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênBảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
 
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênBảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
 
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
 
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOTLuận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
 
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
 
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
 
Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội
Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tộiBảo đảm quyền con người của người bị buộc tội
Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAYLuận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, 9 ĐIỂM
Luận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, 9 ĐIỂMLuận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, 9 ĐIỂM
Luận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụngLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
 
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt NamLuận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
 
quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở việt na...
quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở việt na...quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở việt na...
quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở việt na...
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
 
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptPhamThiThuThuy1
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxTrnHiYn5
 

Recently uploaded (20)

xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 

Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự Mã số: 62.38.40.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ TP. HỒ CHÍ MINH - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả, số liệu nghiên cứu nêu trong Luận án là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về tất cả những số liệu và kết quả nghiên cứu đó. Luận án này chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tp. Hồ Chí Minh, ngày …… tháng ……. năm 2014 NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH
  • 3. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BCVND : Bào chữa viên nhân dân BLHS : Bộ luật hình sự CCTP : Cải cách tư pháp CTN : Chưa thành niên CQĐT : Cơ quan điều tra CƯQT : Công ước quốc tế HĐXX : Hội đồng xét xử HTND : Hội thẩm nhân dân NBC : Người bào chữa QBC : Quyền bào chữa QCN : Quyền con người THTT : Tiến hành tố tụng TTHS : Tố tụng hình sự TAND : Tòa án nhân dân TNHS : Trách nhiệm hình sự TGPL : Trợ giúp pháp lý VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VAHS : Vụ án hình sự XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 4. MỤC LỤC Phần 1: PHẦN MỞ ĐẦU 1 Phần 2: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 8 Phần 3: NỘI DUNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 31 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 31 1.1. Khái niệm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam 31 1.2. Vai trò và đặc điểm của quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên 42 1.3. Quyền bào chữa của người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự nước ngoài 66 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 80 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên 80 2.2. Thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự 112 CHƯƠNG 3: TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 137 3.1. Yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa trong cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 137 3.2. Một số giải pháp 143 KẾT LUẬN 163 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  • 5. 1 Phần 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người (QCN) là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử, là một trong những giá trị quý báu nhất của nền văn minh nhân loại trong thời đại ngày nay. Những giá trị nền tảng tạo nên QCN là: Nhân phẩm - Tự do - Bình đẳng - Nhân đạo - Khoan dung và Trách nhiệm. Đây là những giá trị vốn có ở tất cả các nền văn hóa, được quốc tế hóa nhằm bảo vệ nó trong đời sống xã hội. Trong các quyền cơ bản đó, QCN trong tố tụng hình sự (TTHS), trong đó có quyền trẻ em và việc bảo đảm quyền trẻ em là rất quan trọng và vì thế việc nghiên cứu làm sáng tỏ những giá trị cao quý về QCN, nhất là các quyền nêu trên đều được quan tâm nghiên cứu trong các công trình nghiên cứu khoa học. Việt Nam đang trong tiến trình cải cách tư pháp (CCTP) nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định quyết tâm chính trị mạnh mẽ của mình trong việc thực hiện chủ trương và triển khai các nhiệm vụ CCTP. Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ chính trị về CCTP đã tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của cán bộ cơ quan tư pháp, các ngành, các cấp và nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác tư pháp. Qua đó, hệ thống các cơ quan tư pháp đã được củng cố cả về tổ chức bộ máy và công tác cán bộ. Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử và các hoạt động bổ trợ tư pháp từng bước được nâng cao. Việc bắt, giam giữ đã được xem xét, kiểm tra thường xuyên, công tác xét xử được xem xét thận trọng đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Sau tám năm thực thi chiến lược CCTP, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhận xét bước đầu quá trình cải cách đã thúc đẩy nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp, hướng tới xây dựng nền tư pháp “trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người”. Tuy nhiên, công tác tư pháp vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế như đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu,
  • 6. 2 trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, vấn đề bảo đảm QCN nhất là quyền bào chữa (QBC) của bị can, bị cáo nói chung và của bị can, bị cáo là người chưa thành niên (CTN) nói riêng còn có hạn chế, sai sót. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, truy tố, xét xử, nhất là đối với bị can, bị cáo là người CTN. Pháp luật TTHS đã quy định thủ tục giải quyết những vụ án do người CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực tiễn vận dụng do xuất phát từ những nguyên nhân khách quan, chủ quan nên chất lượng điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn nhiều hạn chế, chưa bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, còn bộc lộ nhiều thiếu sót, dẫn đến việc giải quyết những vụ án không đạt hiệu quả cao cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN bị xâm hại, chưa đáp ứng đòi hỏi của tiến trình đổi mới tư pháp ở Việt Nam. Xét từ góc độ quy định pháp luật, việc nghiên cứu về QBC trở nên cấp thiết hơn nữa khi Hiến pháp 2013 bên cạnh việc xác định nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc trong hoạt động xét xử của tòa án cũng đã xác định QBC là một trong các QCN, quyền cơ bản của công dân. Pháp luật hiện hành, cụ thể là Bộ luật TTHS 2003 đã dành một chương riêng (chương XXXII) quy định về thủ tục đối với người CTN. Đó là những quy định thủ tục đặc biệt về việc bắt, tạm giữ, tạm giam; về thủ tục điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường, của người bào chữa (NBC)… đối với những vụ án có người CTN phạm tội. Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy những quy định của Bộ luật TTHS 2003 đối với người CTN phạm tội tuy đã tương đối hoàn chỉnh, nhưng không khó để nhận thấy tính chưa chặt chẽ, chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của các quy định này. Những bất cập này đã dẫn đến sự tùy tiện của cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) và người THTT xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN. Với những vấn đề nêu trên, quy định của pháp luật TTHS đối với người CTN phạm tội đặt ra những vấn đề cần phải hoàn thiện theo hướng cần thiết phải có những quy định cụ thể, chặt chẽ, thống nhất hơn nữa trong Bộ luật TTHS về thủ tục tố tụng đối với bị can, bị cáo là người CTN.
  • 7. 3 Về mặt thực tiễn, việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với những vụ án mà bị can, bị cáo là người CTN trong những năm qua cho thấy khi áp dụng những quy định về thủ tục đặc biệt này còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Nguyên nhân một phần là do cơ quan THTT chưa nắm vững và vận dụng chưa chính xác, triệt để quy định của pháp luật tố tụng liên quan đến quá trình giải quyết vụ án do người CTN phạm tội và một phần do nhận thức của một bộ phận cán bộ những người THTT còn xem nhẹ vai trò CCTP, thậm chí do lợi ích cục bộ, không chấp hành nghiêm ngặt các quy định của pháp luật TTHS, thiếu tôn trọng và xem nhẹ quyền lợi của bị can, bị cáo là người CTN. Từ các góc độ quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật nói trên, việc nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề bảo đảm QCN nói chung và QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS nói riêng theo tinh thần CCTP ở Việt Nam hiện nay là hoàn toàn cấp thiết. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận án Tiến sĩ. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào cũng đều trả lời cho câu hỏi: việc thực hiện công trình nghiên cứu nhằm vào cái gì? Đây cũng chính là ý nghĩa thực tiễn của kết quả nghiên cứu. Không nằm ngoài cách tiếp cận trên, chúng tôi xác định mục tiêu của luận án nhằm nâng cao hiệu quả thực thi cơ chế đảm bảo QBC của bị can bị cáo là người CTN. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nếu như mục tiêu nghiên cứu đặt ra câu hỏi: nghiên cứu nhằm đạt được cái gì thì nhiệm vụ nghiên cứu lại trả lời cho câu hỏi – cần phải làm như thế nào để đạt được mục tiêu. Trên cơ sở mục tiêu nêu trên, chúng tôi xây dựng nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
  • 8. 4 Thứ nhất, phải phân tích, đánh giá được sự tác động của lý thuyết về QBC của bị can, bị cáo nói chung và bị can, bị cáo là người CTN nói riêng đến chất lượng của quy định pháp luật về quyền này. Thứ hai, xác định, phân tích được các yếu tố tạo nên tính chất đặc thù của bị can, bị cáo là người CTN như chủ thể đặc biệt tham gia tố tụng. Thứ ba, phân tích và đánh giá được thực trạng quy định pháp luật về QBC của bị can, bị cáo là người CTN cũng như quy định pháp luật về cơ chế đảm bảo thực thi quyền này. Thứ tư, phân tích và đánh giá quy định pháp luật của một số quốc gia điển hình về QBC của bị can, bị cáo là người CTN. Thứ năm, trên cơ sở so sánh quy định pháp luật Việt Nam về QBC của bị can, bị cáo là người CTN với kinh nghiệm của một số nước, đưa ra được các kiến nghị nâng cao hiệu quả nhằm đảm bảo thực thi quyền này. 3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu 3.1. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu có thể hiểu là đối tượng nghiên cứu được khảo sát, nghiên cứu trong phạm vi nhất định về mặt thời gian, không gian và lĩnh vực nghiên cứu. Về mặt thời gian: - Về văn bản pháp luật, luận án chủ yếu được viết trên cơ sở phân tích, đánh giá quy định pháp luật TTHS từ năm 1998 đến nay. Bên cạnh đó để làm rõ quá trình hình thành và phát triển của chế định QBC nói chung và QBC của bị can, bị cáo là người CTN nói riêng luận án có để cập tới những nội dung chủ yếu của quy định pháp luật về vấn đề này từ giai đoạn năm 1945. - Về số liệu khảo sát thủ tục TTHS, luận án sẽ phân tích trên các số liệu từ trước năm 2009 đến năm 2012.
  • 9. 5 Về mặt không gian, đối tượng nghiên cứu sẽ được phân tích và đánh giá qua quy định pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước Cộng hòa Pháp, Hoa Kỳ, Liên Bang Nga và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Về số liệu khảo sát, luận án sẽ thu thập số liệu về thực tiễn tiến hành hoạt động tố tụng từ các Đoàn luật sư trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Kiên Giang, Tiền Giang, Lâm Đồng; Tòa án nhân dân (TAND) tối cao và đặc biệt là TAND Thành phố Hồ Chí Minh. Việc chọn lựa các địa bàn khảo sát nói trên được giải thích bởi các lý do như sau: Thứ nhất, người thực hiện luận án là cán bộ tư pháp của phía Nam với trên 10 năm kinh nghiệm thực tế thì việc tích góp và thu thập số liệu trên địa bàn phía Nam sẽ là thuận lợi đầu tiên. Nhưng chính điều này cũng là một hạn chế cho việc thu thập số liệu ở các địa bàn khác, đặc biệt là khu vực phía Bắc. Trên địa bàn khu vực phía Nam, nếu xét về số lượng vụ án thì các tỉnh Kiên Giang, Tiền Giang, Lầm Đồng và đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh có số lượng vụ án hình sự (VAHS) liên quan tới người CTN phạm tội cao hơn so với các địa bàn khác (có thể tham khảo Phụ lục 3, 4, 5, 6). Xét về góc độ áp dụng pháp luật, mục đích của việc lựa chọn các địa bàn và đối chiếu giữa thực tiễn tiến hành tố tụng tại Thành phố Hồ Chí Minh với các địa bàn trên nhằm cho thấy mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan của người THTT đến hiệu quả thực thi pháp luật nói chung và QBC của người CTN nói riêng. Thứ hai, việc không tiến hành lấy số liệu khảo sát từ khu vực phía Bắc hoàn toàn không xuất phát từ việc phủ nhận giá trị thực tiễn của số liệu. Vấn đề ở chỗ, thực tiễn THTT tại khu vực phía Bắc đã được nghiên cứu, xem xét qua các diễn đàn, Hội thảo, tập huấn, các tài liệu báo cáo chuyên ngành. Cùng với những khó khăn mang tính chất chủ quan và khách quan của việc thu thập số liệu, thay vì tiến hành lấy khảo từ các cơ quan THTT ở phía Bắc, chúng tôi sẽ tiến hành phân tích
  • 10. 6 các số liệu có được từ các bài viết trên Hội thảo, diễn đàn khoa học và Báo cáo chuyên ngành. Về lĩnh vực nghiên cứu: trọng tâm nghiên cứu của luận án là các vấn đề lý luận và thực tiễn về QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS Việt Nam. Bên cạnh đó, để có thêm tính thuyết phục cho cơ sở thực tiễn và lý luận của việc đưa ra các kiến nghị, luận án thực hiện việc phân tích, so sánh với pháp luật tố tụng của một số nước trên thế giới trong lĩnh vực liên quan. Việc lựa chọn hệ thống pháp luật nước ngoài để so sánh được dựa trên các tiêu chí như tính tương đồng về các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tính chất điển hình về cơ sở pháp lý cũng như thực tiễn của hoạt động TTHS liên quan tới đối tượng nghiên cứu của luận án. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu khoa học là QBC của bị can, bị cáo là người CTN theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật một số quốc gia. 4. Những điểm mới của luận án Luận án đã làm rõ được một số những vấn đề lý luận về QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS Việt Nam; đánh giá được vai trò của QBC và xác định rõ những đặc điểm về nội dung và hình thức thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS Việt Nam; Luận án đã khái quát được pháp luật TTHS Việt Nam về QBC nói chung và của bị can, bị cáo là người CTN nói riêng và làm rõ được sự hình thành, phát triển của chế định này trong pháp luật TTHS Việt Nam, rút ra những kế thừa cần thiết cho việc tiếp tục hoàn thiện chế định này; Luận án đưa ra được những thông tin khoa học về chế định QBC của người bị buộc tội là người CTN trong pháp luật của Cộng hòa Pháp, Hoa Kỳ, Cộng hòa Liên bang Nga và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đó là những quốc gia đại diện cho các truyền thống pháp luật khác nhau, đồng thời cũng là những nước mà pháp
  • 11. 7 luật Việt Nam có những ảnh hưởng nhất định. Từ những nghiên cứu đó luận án có những so sánh và tiếp thu có chọn lọc, từ đó kiến nghị những giải pháp về mặt pháp luật nhằm hoàn thiện pháp luật về QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS Việt Nam; Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, luận án đã đề xuất được một hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN, đồng thời bảo đảm xác định sự thật của vụ án khách quan, toàn diện và đầy đủ, góp phần giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Đây là công trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện, chuyên sâu về vấn đề QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS và các biện pháp bảo đảm thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN. Luận án với những phân tích sâu sắc các vấn đề lý luận về thủ tục TTHS đối với người CTN phạm tội và những khảo sát, phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật TTHS về QBC của bị can, bị cáo là người CTN sẽ đóng góp không nhỏ trước hết cho các nhà lập pháp. Định hướng hoàn thiện Bộ luật TTHS 2003 và những kiến nghị cụ thể hoàn thiện các quy định cụ thể của Bộ luật TTHS 2003 liên quan đến QBC của bị can, bị cáo là người CTN hoàn toàn có thể là các vấn đề mà các nhà lập pháp có thể nghiên cứu, cân nhắc, xem xét trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS 2003. Kết quả nghiên cứu của luận án cũng có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu chuyên sâu, tài liệu tham khảo có giá trị trong hoạt động lập pháp TTHS, trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cũng như trong nghiên cứu, giảng dạy về TTHS.
  • 12. 8 Phần 2 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.Tình hình nghiên cứu ngoài nước Quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong TTHS là nội dung được nhiều nhà nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước đề cập. Đặc biệt, QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS luôn được các nhà nghiên cứu chú trọng, xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý, nhận thức…của người CTN phạm tội và chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ em của mỗi quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế. Các công trình nghiên cứu về vấn đề này có thể khái quát như sau: Trước hết là các công trình nghiên cứu dưới dạng tài liệu chuyên khảo, tham khảo, giáo trình, bình luận khoa học. Đây là những tài liệu mang tính chất phổ biến cung cấp những tri thức lý luận cơ bản nhất liên quan đến đề tài luận án, cụ thể như: - A guide to juvenile court law của tác giả Gilbert H.F.Mumford, nội dung chủ yếu đề cập đến khái niệm người CTN và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) là từ 14 đến 17 tuổi. Để đưa ra khái niệm này, tác giả đã dựa vào định nghĩa của The Children and Young Persons Act của những năm 1933 và 1938. Bên cạnh đó, tác giả còn đề cập đến phiên tòa xét xử người CTN phạm luật sẽ được tiến hành theo các hình thức như đưa ra xét xử giản đơn như một cuộc thảo luận (chỉ có một thẩm phán tham gia) hay xét xử tại Tòa án với sự có mặt của Bồi thẩm đoàn. Thành phần xét xử sẽ gồm 3 thẩm phán và trong đó ít nhất phải có một người là nữ giới. - Law of Juvenile Delinquency của tác giả Frederick B. Sussmann, A.B., M.S. in Ed., LL.B xuất bản năm 1968 tại New York đề cập đến quy trình, thủ tục điều tra và xét xử đối với người CTN phạm tội. Tuy nhiên, nhóm tác giả này chỉ mới nêu được khái quát các thủ tục TTHS đối với VAHS sự tham gia của người CTN phạm tội mà chưa chỉ ra được quy trình, thủ tục điều tra sẽ bắt đầu như thế nào...
  • 13. 9 - Human rights in the English criminal trial – Human rights in criminal procedure, Editor John M. Andrew, United Kingdom National Committee of Comparative Law, 1982. (K. W. Lidstone, Quyền con người trong các phiên tòa hình sự ở Anh – Tạp chí Quyền con người trong TTHS, Biên tập John M. Andrew, Ủy ban Quốc gia về Luật so sánh của Anh quốc, năm 1982). Nội dung chủ yếu phân tích về những yêu cầu nhằm đảm bảo những quyền cơ bản của con người trong một phiên tòa hình sự tại Anh quốc như có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn; quyền có một Bồi thẩm đoàn công tâm (không thiên vị); quyền có một phiên tòa công bằng và thẩm phán không thiên vị; tự do báo chí tại phiên tòa; quyền được hưởng sự trợ giúp pháp lý (TGPL); quyền tranh luận và có người đại diện; bị cáo phải được cho là không có tội trước khi bản án được phán quyết; quyền được giữ im lặng; quyền được kiểm tra và kiểm tra chéo đối với nhân chứng; quyền kiểm tra chứng cứ và các lời cáo buộc… Ngoài ra, tác giả đã tập trung phân tích vào hai quá trình then chốt là “thẩm vấn/ tra hỏi” (inquisitorial procedures) và “truy tố/ tố tụng” (accusatorial procedures). Và tác giả cho rằng cả hai quá trình này đều phụ thuộc vào yếu tố người THTT và kết luận nếu như không đảm bảo được “quyền” (quyền giữ im lặng, quyền nhờ NBC, quyền đưa ra yêu cầu…) cho người phạm tội thì QCN sẽ không được đảm bảo. Để làm rõ QBC của người phạm tội, tác giả sử dụng phương pháp so sánh quyền này giữa các nước Tây Âu: Vương quốc Anh (Anh Quốc, Cộng Hòa Ireland, Wales, Scotland), Tây Đức, Pháp…Tóm lại, tác giả đã phân tích về mặt kỹ thuật pháp lý các quyền của những người tham gia phiên tòa hình sự đặc biệt là quyền của bị cáo. - The guarantees for accused persons under Article 6 of the European Convention on Human Rights tạm dịch Đảm bảo quyền cho người bị buộc tội theo Điều 6 Công ước châu Âu về nhân quyền của tác giả Stephanos Stavros, NXB Sweet & Maxwell, Anh quốc, năm 1993. Công ước châu Âu về nhân quyền, tên chính thức là Công ước bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do căn bản (Convention for the Protection of Human Rights and Fundamental Freedoms). Điều 6 đưa
  • 14. 10 ra quyền được xét xử công bằng cách chi tiết, trong đó có quyền được xét xử công khai trước một tòa án độc lập và không thiên vị trong thời gian hợp lý, quyền được coi là vô tội khi chưa có phán quyết của tòa án, và các quyền tối thiểu khác đối với những người bị cáo buộc một tội hình sự (đủ thời gian và các điều kiện để chuẩn bị việc biện hộ bảo vệ họ, tiếp cận với đại diện pháp luật, quyền thẩm vấn các nhân chứng chống lại họ, quyền được có thông dịch viên miễn phí). Công trình phân tích một cách đầy đủ về các vụ án cụ thể tại các quốc gia thành viên EU và sử dụng phép so sánh giữa những vụ án được xét xử theo Công ước châu Âu về nhân quyền với những phán quyết được dựa trên sự áp dụng của các quốc gia thành viên. Tác giả đã kết luận rằng Điều 6 đã được hiểu và vận dụng vào trong các luật quốc gia theo cách khác hoàn toàn với những chuẩn mực được quy định trong Công ước. Vấn đề là các quốc gia thành viên hiểu, vận dụng thế nào về những quy định của Công ước phù hợp với truyền thống lập pháp của quốc gia mình. - Criminal process and human rights của tập thể tác giả là các giáo sư, phó giáo sư của các Trường Đại học Luật tại Melbourne: Jeremy Gans, Terese Henning, Jill Hunter và Kate Wamer, NXB New South Wales, Australia, 2011. Nội dung bàn về vấn đề thực thi QCN tại Australia đặc biệt là trong quá trình TTHS phải đảm bảo các quyền tự do của con người trong bắt giữ, giam giữ, xét xử; quyền được giữ im lặng; quyền được xét xử một cách công bằng. - The Criminal Law Handbook của tác giả Paul Bergman & Sara J.Berman- Barrett, NXB Nolo năm 2003. Được xem như là một quyển sổ tay về Luật hình sự với các nội dung chủ yếu như hệ thống hoạt động và lý do tại sao cảnh sát, luật sư và thẩm phán làm những gì họ làm, bao gồm: bắt giữ, phí bảo lãnh, tìm kiếm và thu giữ bảo vệ bằng chứng thử nghiệm…chi phí bào chữa, kết án người CTN. - Children, Rights and the Law, của tác giả Philip Alston, Stephen Parker và John A. Seymour, NXB Oxford University Press, The United States of America năm 1992. Nội dung mà các tác giả đề cập đến là việc áp dụng trong tháng 11 năm 1989, Đại hội đồng Liên hợp quốc, Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em đã báo trước sự xuất hiện của một kỷ nguyên mới trong sự phát triển của quyền trẻ
  • 15. 11 em. Tính đến tháng 3 năm 1991 có hơn 75 quốc gia đã phê chuẩn Công ước. Việc số lượng các quốc gia tham gia vào Công ước và thực hiện Công ước như một đóng góp chương trình khung và nhằm đánh giá lại những ưu điểm và nhược điểm của việc tiếp cận các vấn đề phúc lợi của trẻ em và hạnh phúc qua lăng kính của một cách tiếp cận “quyền”. Mục đích là để có một cái nhìn mới về những vấn đề này và làm như vậy với tài liệu tham khảo cụ thể cho một hiệp ước quốc tế chắc chắn sẽ được phê chuẩn bởi một số lượng rất lớn của các nước trong mọi khu vực của thế giới và sẽ sớm được ràng buộc pháp lý ở nhiều tiểu bang. - Criminal Law cases, marterials and problems của tác giả David S. Rudstein, NXB West Group, The United Sates of America năm 2002. Công trình bao gồm các trường hợp và quy chế từ khu vực pháp lý khác nhau, cũng như những đoạn trích từ BLHS Model. Ngoài ra, tác giả đã đặt vấn đề chiến lược trong suốt công trình để học sinh có thể áp dụng pháp luật được quy định trong các trường hợp và quy chế các tình huống thực tế mới, do đó cho phép họ kiểm tra kiến thức và củng cố sự hiểu biết của họ về các nguyên tắc pháp lý có liên quan. Mục đích của công trình gồm hai phần: đầu tiên, để giúp học sinh đạt được một sự hiểu biết về các nguyên tắc chung của pháp luật hình sự Anh-Mỹ; thứ hai, để hỗ trợ sinh viên phát triển kỹ năng của họ trong trường hợp phân tích, giải thích theo luật định, tổng hợp các trường hợp, và giải quyết vấn đề. - Juvenile Court: An Overview của tác giả Kathleen Michon, JD. Tác giả nêu lên một số khái niệm về Tòa án Vị thành niên. Mỗi tiểu bang có những Tòa án đặc biệt, thường được gọi là Tòa án Vị thành niên để xét xử người CTN, những người đã bị cáo buộc vi phạm một đạo luật hình sự. Thông thường, Tòa án Vị thành niên vẫn giữ quyền hợp pháp đối với người CTN cho một khoảng thời gian cho đến khi người CTN trở thành thành niên, hoặc đôi khi thậm chí lâu hơn, nghĩa là thông thường Tòa án ra quyết định, xử phạt và quyết định đó có hiệu lực cho đến khi vị thành niên đủ tuổi thành niên. Một người trẻ tuổi phải là một “vị thành niên” theo luật tiểu bang thì mới được đưa ra xét xử ở Tòa án này. Trong hầu hết các quốc gia, tuổi tối đa cho người CTN là 18 tuổi. Trong một vài tiểu bang tuổi là 16 hoặc 17, và
  • 16. 12 trong một số khác tuổi tối đa là 19 tuổi. Các quốc gia cũng đặt ra giới hạn tuổi thấp hơn cho đủ điều kiện xét xử ở Tòa án Vị thành niên. Hầu hết các bang xem xét trẻ em dưới 7 tuổi không có khả năng xác định sự khác biệt giữa đúng và sai. Vì vậy, trẻ em dưới bảy tuổi thường được miễn trách nhiệm đối với hành vi mà họ thực hiện. Thay vào đó, cha mẹ có thể phải bồi thường thiệt hại cho bất cứ ai là nạn nhân. Trong một số trường hợp, tòa án cho rằng cha mẹ không thích hợp để chăm sóc cho một đứa trẻ có hành vi sai trái và cam kết sẽ giao con cho người thân hoặc cha mẹ nuôi chăm sóc, quản lý. Cho dù trẻ đó trong độ tuổi từ 7 đến 14 tuổi có thể hình thành một ý định phạm tội và điều này phụ thuộc vào Tòa án. Nếu thẩm phán cảm thấy rằng đứa trẻ có khả năng hình thành ý định phạm tội, đứa trẻ sẽ được đưa ra Tòa án Vị thành niên để xét xử. Hầu hết các bang coi trẻ em 14 tuổi trở lên là có khả năng hình thành ý định phạm tội, vì vậy phần lớn các trường hợp liên quan đến những người trẻ tuổi từ 14 đến 18 tuổi được xét xử tại Tòa án Vị thành niên. Trong một số trường hợp, người CTN có thể được xét xử tại tòa án hình sự người thành niên. Về thủ tục tố tụng, khi một người CTN bị tình nghi vi phạm một đạo luật hình sự, các thủ tục TTHS dành cho người CTN khác với các thủ tục dành cho thành niên. Tất cả các nước đã tạo ra một hệ thống Tòa án Vị thành niên đặc biệt cho người CTN. Dù có những điểm khác nhau, nhưng những người THTT điển hình gồm cảnh sát, công tố viên, thẩm phán. Cảnh sát, công tố viên, các quan chức Tòa án Vị thành niên chuyên trách, và các thẩm phán Tòa án Vị thành niên đều có suy xét kỹ lưỡng để thực hiện các bước chính thức hơn trong việc xử lý các trường hợp. Kết quả là, nhiều người CTN phạm tội không đạt đến mức điều trần xét xử. Tương tự như vậy, các quyền Hiến định của người CTN là khác với các quyền của người thành niên, những người đã bị cáo buộc phạm tội. Ví dụ: người CTN phạm tội có quyền có luật sư tại một buổi điều trần xét xử, trong hầu hết các bang họ không có quyền cho vụ án của họ xét xử bởi một Bồi thẩm đoàn. Một số vụ án người CTN phạm tội được chuyển giao cho Tòa án dành cho người thành niên. Người CTN phạm tội có quyền có một buổi điều trần để xác định xem trường hợp của họ nên được chuyển giao cho Tòa án dành cho người thành niên.
  • 17. 13 - Magistrate Court Act, tạm dịch Đạo luật Thẩm phán Tòa án của Vương quốc Anh, quy định về việc thành lập Tòa án; quy tắc của Tòa án; giới hạn lãnh thổ, thẩm quyền của Tòa án; bổ nhiệm thẩm phán, thư ký tòa án; thẩm quyền dân sự, thẩm quyền hình sự của Tòa án; thẩm quyền đặc biệt trong những trường hợp nhất định; chức năng và thẩm quyền của thẩm phán; nhiệm vụ của thư ký tòa án…Một điều quan trọng trong Đạo luật Thẩm phán Tòa án có quy định thông thường người CTN sẽ được xét xử ở Tòa án Vị thành niên, tuy nhiên trong một số trường hợp thì sẽ được xét xử ở Tòa án dành cho người thành niên. Cụ thể là trong các trường hợp: tội sát nhân (homicide), sở hữu vũ khí quân dụng, tội trạng vượt quá 14 năm cho người CTN, xâm phạm tình dục, xâm phạm tình dục với trẻ em, những tội đặc biệt nghiêm trọng có thể bị phạt từ 10 năm tù giam cho người CTN (sát nhân, bắt cóc, v.v..), xét xử cùng với đồng phạm là người thành niên. - Police and Criminal Evidence Act 1984, tạm dịch là Đạo luật Cảnh sát hình sự và chứng cứ 1984. Đây là một đạo luật của Quốc hội nhằm tạo ra một khuôn khổ pháp lý cho quyền lực của nhân viên cảnh sát tại Anh và xứ Wales chống tội phạm, cũng như cung cấp các quy trình cho việc thực hiện những quyền lực. Khi thực hiện quyền lực đối với các trường hợp là người CTN, đạo luật cũng quy định thật chi tiết từng hành vi cụ thể của cảnh sát: khi bắt giữ người CTN, việc đầu tiên là nhân viên cảnh sát sẽ phải thông báo ngay với phụ huynh, người đỡ đầu, cơ quan địa phương, v.v.. về việc lý do người CTN bị bắt giữ. Liên quan đến quy trình thẩm vấn, lấy lời khai, hỏi cung người CTN, nếu trong trường hợp mà phụ huynh, người đỡ đầu của người CTN không thể có mặt thì nhân viên cảnh sát sẽ tiến hành lập một tuyên bố bằng văn bản (written statement) có chữ ký của người CTN để chứng minh cuộc thẩm vấn không có người lớn tham dự. Tuy nhiên, việc làm này còn phụ thuộc vào các yếu tố như: phải có sự xác nhận (hay ủy quyền) của một người đứng đầu của cảnh sát về việc hài lòng khi cuộc thẩm vấn không gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tinh thần và thể xác của người CTN; sự trì trệ có thể xảy ra và dẫn đến sự ngăn cản hoặc xâm phạm đến bằng chứng liên quan đến tội trạng, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người khác, xâm hại hay đánh mất tài sản, thông
  • 18. 14 báo cho người bị nghi là có sự tham gia trong tội trạng nhưng chưa bị bắt giải… Còn khi thẩm vấn có sự hiện diện của phụ huynh, người đỡ đầu thì người lớn phải khuyên bảo người CTN trong quá trình thẩm vấn; giám sát cuộc thẩm vấn diễn ra một cách công bằng và chuẩn xác; giúp cho cuộc điều tra được thuận lợi, tốt đẹp… Trong số tài liệu tiếng nước ngoài liên quan tới đề tài luận án cũng có thể kể tới các tài liệu như: Hệ thống tư pháp hình sự của một số nước Châu Á, bản dịch tiếng Việt của Viện khoa học Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao; Bộ luật tố tụng hình sự của Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, bản dịch tiếng Việt của Viện khoa học Kiểm sát, VKSND tối cao; có hiệu lực thi hành năm 1992; “Principle of Criminal procedure” tạm dịch “ Nguyên tắc của xét xử vụ án hình sự” của tác giả Neil Andrews; “Human rights in the English criminal trial – Human rights in criminal procedure” tạm dịch “Quyền con người trong xét xử vụ án hình sự” của tác giả K. W. Lidstone; “Sự phát triển của thanh niên và xét xử người vị thành niên” của tác giả Cauffman và Steinberg, năm 2008. Các tài liệu trên đây có thể có giá trị rất cao về tính khoa học cũng như độ tin cậy của thông tin nhưng trong luận án này chúng tôi chỉ dừng ở mức độ sử dụng các tài liệu này dưới góc độ thông tin về tình hình nghiên cứu ở các nước xuất phát từ các lý do sau: đầu tiên, rào cản ngôn ngữ không cho phép nắm bắt đầy đủ, chính xác ý tưởng của các tác giả và thêm nữa là sự khó khăn trong việc tiếp cận nguồn thông tin chính gốc. Các tài liệu được dịch ra tiếng Việt tự thân đã là các tài liệu thuộc nguồn thông tin thứ cấp vì thế độ chính xác, tính tin cậy của thông tin cũng bị hạn chế bởi sự có thể có những lồng ghép quan điểm chủ quan của người dịch, sự áp đặt hiểu biết, kiến thức về pháp luật nước mình trong quá trình dịch, sự khác biệt của ngôn ngữ chuyên ngành. Nói như vậy không có nghĩa tài liệu nước ngoài không đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện đề tài. Trái lại, việc nắm bắt chính xác, đầy đủ thông tin pháp luật nước ngoài sẽ nâng cao chất lượng khoa học của luận án. Đánh giá chung về các công trình trên, có những điểm tương đồng với pháp luật Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực TTHS. Những quy trình TTHS đặc biệt đối
  • 19. 15 với người CTN khi tham gia vào VAHS. Những quy định đối với người THTT là cần phải có kiến thức, sự am hiểu về tâm sinh lý đối với người CTN khi tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử người CTN phạm tội. Tuy nhiên, so với những quy định về thủ tục TTHS đặc biệt đối với người CTN, pháp luật nước ngoài cũng có những điểm ưu việt, nổi trội hơn. Đặc biệt, đa số các quốc gia đều có Tòa án chuyên trách để xét xử người CTN và xây dựng riêng luật cho người CTN (Law for parents Counselors). Để có thể đảm bảo cho người CTN thực hiện được đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình, pháp luật nước ngoài cũng quy định rất chặt chẽ các hoạt động của các cơ quan THTT như cơ quan điều tra (CQĐT), viện công tố, tòa án và kể cả người THTT bằng việc xây dựng các đạo luật riêng cho từng đối tượng cụ thể, như Đạo luật Thẩm phán Tòa án và Đạo luật Cảnh sát hình sự và Chứng cứ 1984.v.v.. Tuy vậy, một cách tổng quan có thể thấy các tài liệu nước ngoài chủ yếu đề cập đến QCN nói chung và QCN trong TTHS và các quyền này đều có nền tảng từ các quy định của Công ước châu Âu về QCN. Nhiều vấn đề lý luận quan trọng như làm thế nào để bảo đảm quyền cơ bản của công dân khi tham gia TTHS, đó là QBC; cơ chế bảo đảm thực thi QBC theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS ra sao…còn bị bỏ ngỏ hoặc đã được đề cập ở mức độ nhất định nhưng còn thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất, chưa đầy đủ. Do vậy, đa số các công trình chủ yếu phân tích các quy định của pháp luật thực định, có so sánh với thực tiễn để tìm ra những bất cập, hạn chế về QBC nói chung và của người CTN riêng trong TTHS. Nhìn chung thủ tục tố tụng đối với người CTN phạm tội, trong phạm vi người viết tra cứu được, cũng chỉ được đề cập ở một phạm vi rất nhỏ trong các tài liệu dịch như đã thống kê. 1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Bên cạnh các sách chuyên khảo và các đề tài khoa học của các nhà nghiên cứu nước ngoài, còn có các công trình của các học giả trong nước dưới góc độ nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục tố tụng đối với người CTN. Có thể kể đến các đề
  • 20. 16 tài nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài luận án, tác giả phân thành các nhóm như sau: - Đề tài khoa học, luận án tiến sĩ và luận văn thạc sỹ luật học: + Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam, chủ nhiệm đề tài PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009. Đề tài nghiên cứu vấn đề QCN, quyền công dân và Nhà nước pháp quyền, bảo đảm QCN trong TTHS. Đề tài phát triển lý luận về QCN và bảo đảm QCN trong hoạt động TTHS như: bảo đảm QCN của các chủ thể tham gia hoạt động TTHS: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị can, bị cáo là người CTN, NBC, người làm chứng, người bị hại. Cơ chế bảo đảm QCN trong TTHS và các thành tố của cơ chế; mối quan hệ giữa CCTP và mở rộng QCN, tăng cường bảo đảm QCN trong TTHS. Riêng về lĩnh vực hoạt động TTHS thì đề tài cũng không phải là công trình nghiên cứu đầu tiên về QCN và bảo đảm QCN. Đã có một số công trình nghiên cứu khoa học ở nhiều cấp độ khác nhau về đề tài này. Cần phải kể đến sách chuyên khảo “Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam” của TS Trần Quang Tiệp và một số luận văn thạc sỹ, bài viết về đề tài này. Các nghiên cứu này đã bước đầu đề cập đến một số nội dung của QCN trong TTHS ở những khía cạnh cụ thể. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng các nghiên cứu kể trên còn có những hạn chế nhất định ở tính hệ thống, tính toàn diện. Nhiều khái niệm cơ bản của vấn đề QCN và bảo đảm QCN trong TTHS nói chung hoặc QCN và bảo đảm QCN của những chủ thể tham gia hoạt động TTHS chưa được nhìn nhận một cách đồng bộ và sâu trong các nghiên cứu này. Tóm lại, công trình nghiên cứu Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam đã làm rõ thực trạng bảo đảm QCN trong Bộ luật TTHS 2003 và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện Bộ luật TTHS 2003 theo hướng mở rộng QCN và bảo đảm QCN của những chủ thể tham gia hoạt động TTHS. + Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, của TS Lại Văn Trình, Đại học Luật TP.HCM năm 2011.
  • 21. 17 Luận án nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận về QCN và bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS; hệ thống hóa được các biện pháp bảo đảm; làm rõ những điểm chung và những đòi hỏi đặc thù trong bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai đoạn TTHS khác nhau. Ngoài ra, luận án đã phân tích có hệ thống các quy định của Bộ luật TTHS và đánh giá đầy đủ, toàn diện thực tiễn bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam, từ đó tìm ra được những hạn chế, bất cập về bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS và nguyên nhân của những bất cập hạn chế. Luận án cũng đã đưa ra được một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam và tăng cường bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong hoạt động TTHS. + Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, của TS Đỗ Thị Phượng, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007. Luận án đã nghiên cứu một cách có hệ thống về thủ tục đối với người CTN và thực tiễn áp dụng những quy định này trên địa bàn cả nước, góp phần làm sáng tỏ và hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS. Luận án nghiên cứu các quy định chung về thủ tục tố tụng đối với người CTN trong Bộ luật TTHS Việt Nam để qua đó làm sáng tỏ về mặt lý thuyết những ưu điểm và hạn chế, bên cạnh đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của Bộ luật TTHS hiện hành. Tác giả đã nghiên cứu thực tiễn áp dụng các thủ tục tố tụng đối với người CTN trong phạm vi cả nước từ năm 1997 đến năm 2007, đánh giá những kết quả đạt được và những tồn tại, thiếu sót để đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giải quyết các loại vụ án này trong tình hình hiện nay và những năm tiếp theo. Ngoài ra, tác giả còn xây dựng và thống nhất các khái niệm về người CTN, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người CTN; xây dựng mô hình tổ chức của Tòa án người CTN tại Việt Nam. + Bảo đảm quyền có người bào chữa của người bị buộc tội – so sánh giữa luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ, của TS Lương Thị Mỹ Quỳnh, Đại học
  • 22. 18 Luật TP.HCM năm 2011. Luận án nghiên cứu làm sáng tỏ nội dung những quy định hiện hành của pháp luật quốc tế, của luật TTHS Việt Nam, Đức và Mỹ về bảo đảm quyền có NBC trong sự so sánh để thấy được những điểm tương đồng và khác biệt, lý giải sự tương đồng và khác biệt đó, đồng thời phân tích và chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về bảo đảm quyền có NBC. Luận án còn đánh giá được thực trạng bảo đảm quyền có NBC ở Việt Nam, Đức và Mỹ trong sự so sánh để thấy được những hiệu quả và khó khăn trong việc áp dụng pháp luật ở mỗi quốc gia. Trên cơ sở nghiên cứu nền tảng lý luận và pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật của Đức và Mỹ về bảo đảm quyền có NBC, luận án đã đề xuất những giải pháp để hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện hành nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền này trong TTHS. + Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, của TS Trần Hưng Bình, Học Viện Khoa học xã hội, năm 2014. Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận án đã góp phần giải quyết về mặt lý luận quyền của người CTN nói chung và quyền, lợi ích hợp pháp của người CTN trong TTHS nói riêng. Về ý nghĩa thực tiễn, luận án góp phần hoàn thiện pháp luật TTHS cũng như góp phần thay đổi nhận thức của người CTN, các cơ quan và người THTT, gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội. + Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong Tư pháp hình sự Việt Nam, của Thạc sỹ Nguyễn Thị Thanh, năm 2008. Luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về bảo vệ quyền của người CTN trong tư pháp hình sự, như: khái niệm người CTN; bảo vệ quyền cho người CTN trong tư pháp hình sự Việt Nam. Phân tích lược sử hình thành và phát triển các quy phạm tư pháp hình sự Việt Nam về bảo vệ quyền của người CTN. Nghiên cứu những quy định của tư pháp hình sự Việt Nam hiện hành về bảo vệ quyền của người CTN và thực tiễn áp dụng những quy định của tư pháp hình sự Việt Nam về bảo vệ quyền của người CTN. Nêu các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của người CTN trong tư pháp hình sự Việt Nam: hoàn thiện các quy định của BLHS và Bộ luật TTHS bảo
  • 23. 19 vệ quyền của người CTN; các giải pháp đảm bảo như thành lập Tòa án dành cho người CTN, tăng cường hợp tác quốc tế. + Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thành lập cơ quan xét xử người chưa thành niên phạm tội, của Thạc sỹ Lê Thị Hồng Minh, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2003. Đề tài nghiên cứu về cơ sở lý luận cho việc thành lập cơ quan xét xử người CTN phạm tội. Đồng thời tác giả cũng làm rõ được thực trạng tội phạm người CTN cũng như cách đánh giá một cách khách quan về thực tiễn xét xử người CTN phạm tội trong thời gian qua mà chủ yếu là những hạn chế, vướng mắc làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bị can, bị cáo là người CTN. Đặc biệt là những vướng mắc trong quy định của pháp luật và thực trạng cơ quan, đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử người CTN phạm tội. Tác giả cũng đưa ra một số kiến nghị góp phần vào quá trình CCTP nói chung và cải cách tòa án nói riêng cũng như nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay. - Ngoài nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục tố tụng đối với người CTN trong pháp luật TTHS Việt Nam nêu trên còn có một số công trình tiêu biểu đề cập đến những vấn đề lý luận chung như: sách chuyên khảo: + Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam, của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2010 do TS. Võ Thị Kim Oanh chủ biên mà điển hình là các bài viết của PGS. TS. Trần Văn Độ “Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” và của tiến sĩ Nguyễn Bá Ngừng “Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo - Một trong những nguyên tắc quan trọng góp phần bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự”. Công trình này tập hợp có hệ thống các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về những vấn đề chung về bảo vệ các QCN bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự, bảo vệ QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói chung và bị can, bị cáo là người CTN nói riêng trong tư pháp hình sự đáp ứng yêu cầu CCTP, một số vấn đề bảo vệ QCN trong TTHS Việt Nam…
  • 24. 20 + Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự của NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011 của các tác giả PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung, GS.TS. Phạm Hồng Thái, GS. TSKH Lê Văn Cảm, TS. Vũ Công Giao và ThS. Lê Khánh Tùng đồng chủ biên. Công trình này là tập hợp các tài liệu của lớp tập huấn về bào chữa hiệu quả cho một số nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong TTHS do khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức và sự hỗ trợ của Dự án Tư pháp quốc tế (IJP) và chương trình Sáng kiến pháp quyền của Hội Luật gia Hoa Kỳ (ABA ROLI). Công trình giới thiệu về một số vấn đề pháp lý và thực tiễn trong việc bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong TTHS trên thế giới và ở Việt Nam. + Hướng dẫn thực hành các tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến tư pháp người chưa thành niên, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội năm 2000 phối hợp với Tổ chức cứu trợ trẻ em của Thụy Điển (Radda Barnen) xuất bản. Công trình giới thiệu về những tiêu chuẩn về QCN trong tư pháp người CTN, tập hợp các nguồn luật quốc tế về QCN, quyền của trẻ em và hướng dẫn thực hành cho các cán bộ tư pháp người CTN, các nhà chính sách và các lực lượng truyền thông. - Trong số các tài liệu trong nước về TTHS nói chung và bảo đảm QBC của bị can, bị cáo là người CTN còn có các tài liệu như sau: giáo trình Luật TTHS Việt Nam năm 2008 của Trường Đại học Luật Hà Nội; sách Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 của Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, NXB Bộ Tư pháp, năm 2005; sách Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 của tác giả Đinh Văn Quế, Chánh tòa Tòa hình sự TAND tối cao, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007; sách Bình luận Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 của các tác giả ThS. Vũ Mạnh Thông và Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp, NXB Lao động và Xã hội, năm 2009.v.v… - Dưới góc độ nghiên cứu chuyên ngành, cũng có nhiều công trình liên quan đến vấn đề QBC của bị can, bị cáo. Một nguồn tài liệu có độ tin cậy và giá trị pháp lý cao mà không thể bỏ qua trong quá trình thực hiện luận án là các bài viết trên các tạp chí, tài liệu hội thảo chuyên ngành. Trong số các bài viết đó cần phải đề cập
  • 25. 21 tới các bài viết của các tác giả sau đây: bài viết của PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc “Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong tố tụng hình sự” đăng trên Tạp chí Khoa học Pháp lý số 4 năm 2007; các bài viết của TS. Nguyễn Văn Tuân “Bảo đảm quyền có người bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự”, “Quyền bào chữa và sự tham gia của bị cáo ở phiên tòa” và “Bàn về sự tham gia của Luật sư trong các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên” đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề 1995; bài viết “Hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo chưa thành niên” của ThS. Nguyễn Hải Ninh đăng trên Tạp chí Luật học số 11 năm 2009, trang 41; bài viết “Hoàn thiện những quy định về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội” của ThS. Cao Thị Oanh đăng trên Tạp chí Luật học số 10 năm 2007, trang 36; bài viết của TS. Đỗ Thị Phượng “Sự cần thiết phải thành lập tòa án người chưa thành niên ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí TAND số 21 năm 2009, trang 1; bài viết “Một số đặc tâm lí của người chưa thành niên phạm tội” đăng trên Tạp chí Luật học, số 1 năm 2008, trang 39; bài viết “Việc áp dụng khoản 2, Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự” của Lê Văn Sua đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11 năm 2006, trang 26; bài viết “Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội – một số vấn đề cần được nghiên cứu” của TS. Lê Đăng Doanh đăng trên Tạp chí TAND số 9 năm 2009, trang 25; bài viết “Nguyên tắc xử lý người thành niên phạm tội” của ThS. Mai Bộ đăng trên Tạp chí Nghề luật số 3 năm 2008, trang 19; bài viết “Những khía cạnh pháp lý hình sự về các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội” của TS. Trịnh Tiến Việt đăng trên Tạp chí TAND số 13 năm 2010, trang 9; báo cáo của PGS. TS. LS. Phạm Hồng Hải về “Quyền tự bào chữa trong tố tụng hình sự ở Việt Nam và việc thực hiện trong thực tiễn” tại Hội thảo Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam (do Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Chương trình phát triển Liên hợp quốc tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 12 – 2010); báo cáo của PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc về “Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” tại Hội thảo Quyền con người trong
  • 26. 22 tố tụng hình sự (do VKSND tối cao và Ủy ban nhân quyền Australia tổ chức vào tháng 3 – 2010). Qua nghiên cứu các tài liệu trong nước, chúng tôi nhận thấy, việc nghiên cứu về thủ tục tố tụng đối với người CTN của các tác giả đã đạt được những thành quả nhất định. Các công trình nghiên cứu trong nước nói trên đã tập trung những vấn đề sau: - Về đặc điểm tâm sinh lý của người CTN nói chung và người CTN phạm tội nói riêng. Người CTN là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần. Họ là người ở độ tuổi từ 14 đến dưới 18 tuổi, đa số họ còn đang sống phụ thuộc vào người thành niên. Người CTN là người còn có rất ít kinh nghiệm sống, ít va chạm, tiếp xúc với các hiện tượng xã hội nhưng đồng thời họ lại là người rất hiếu động, thích tìm hiểu, khám phá những điều mới lạ trong thế giới xung quanh mình. Do đó họ dễ bị lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm. Người CTN phạm tội về cơ bản cũng có những đặc điểm tâm sinh lý như người CTN bình thường, tuy nhiên do tiếp xúc nhiều với những điều kiện tiêu cực trong đời sống xã hội cho nên về tâm sinh lý của họ có những biểu hiện lệch lạc, cực đoan. Sự hiểu biết về pháp luật cũng như các chuẩn mực trong xã hội của người CTN phạm tội thường rất mơ hồ. Khả năng nhận thức về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của họ còn rất hạn chế. - Về chính sách hình sự đối với người CTN. Hầu hết các tài liệu trên đều đề cập tới nguyên tắc xử lý về hình sự đối với người CTN phạm tội. Về cơ bản, nhà nước Việt Nam không chủ trương xử lý về hình sự mang tính chất trừng phạt người CTN phạm tội mà với mục đích giáo dục, giúp đỡ họ tích cực sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh để họ trở thành những công dân có ích cho xã hội. Dựa trên nguyên tắc này, pháp luật hình sự của Việt Nam đã có những qui định mang tính chất nhân đạo đối với người CTN phạm tội. Cụ thể: Người CTN có thể được miễn truy cứu TNHS nếu người đó phạm tội ít
  • 27. 23 nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và nếu được gia đình hoặc một tổ chức xã hội nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục... hoặc khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người CTN phạm tội, thì toà án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được qui định tại Điều 70 BLHS 1999. Người CTN khi bị áp dụng hình phạt tù thì mức hình phạt mà toà án áp dụng cho họ cũng nhẹ hơn mức hình phạt được quyết định đối với người thành niên phạm tội. Bên cạnh đó pháp luật cũng không cho phép được áp dụng hình phạt tử hình và chung thân đối với người CTN phạm tội. Các công trình này đã lý giải tại sao Việt Nam lại có những chính sách nhân đạo đối với người CTN phạm tội và việc cụ thể hoá các chính sách này trong pháp luật hình sự và TTHS như thế nào. Những qui định mang tính nhân đạo này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người CTN. - Về các qui định của pháp luật TTHS đối với người CTN và thực tiễn áp dụng. Các nghiên cứu đều chỉ ra các qui định về thủ tục TTHS đối với người CTN trong Bộ luật TTHS là tương đối đầy đủ, tuy nhiên vẫn còn một số qui định mang tính chung chung, chưa rõ ràng, cụ thể. Chính vì vậy mà việc áp dụng các qui định này trên thực tế đã gặp không ít những khó khăn. Có rất nhiều các cơ quan THTT đã nhận thức chưa đầy đủ, chưa thống nhất dẫn đến việc vận dụng sai các qui định của pháp luật TTHS khi giải quyết những vụ án do người CTN thực hiện, điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN. Đôi khi cũng có trường hợp do cẩu thả, xem nhẹ các qui định này mà các cơ quan THTT đã vi phạm nghiêm trọng các thủ tục TTHS đối với người CTN. - Các kiến nghị sửa đổi Bộ luật TTHS và các văn bản pháp luật liên quan. Trên cơ sở phân tích nhằm làm rõ những qui định của pháp luật về thủ tục TTHS đối với người CTN và thực tiễn áp dụng thủ tục tố tụng này, các nghiên cứu nói trên đã đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện qui định pháp luật TTHS và chủ yếu là về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, việc đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN như sự tham gia của NBC, đại diện gia đình, tổ chức xã hội. Một số nghiên cứu
  • 28. 24 cũng đề cập tới việc cần thiết phải thành lập Toà án người CTN trong hệ thống TAND song mới chỉ dừng lại ở việc nêu vấn đề mà chưa phân tích cụ thể cơ sở lý luận cũng như cơ sở thực tiễn có tính thuyết phục cho việc cần thiết phải thành lập Toà án người CTN, cơ cấu tổ chức, nguồn cán bộ của tòa án. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã khái quát được các qui định của pháp luật về thủ tục tố tụng đối với người CTN. Tuy nhiên các công trình này mới chỉ dừng lại ở mức độ phân tích, so sánh, đánh giá những mặt hạn chế và đạt được ở từng khía cạnh trong việc áp dụng các qui định của pháp luật đối với người CTN mà chưa đi sâu phân tích một cách toàn diện các khía cạnh pháp lý. Một trong những nội dung chưa được đề cập đến nhiều như thủ tục điều tra thân thiện đối với người CTN chưa được các tác giả tập trung nghiên cứu. Theo đánh giá của các chuyên gia pháp lý, mặc dù Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực nhưng hệ thống tư pháp hiện hành đối với người CTN, đặc biệt là trong việc bảo đảm sự bảo vệ và hỗ trợ đầy đủ cho người CTN hiện vẫn còn một số khiếm khuyết cả về pháp luật lẫn thực tiễn. Các nghiên cứu cho biết hệ thống xử lý người CTN vi phạm pháp luật của Việt Nam còn nặng tính trừng phạt, nếu so sánh với các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, thủ tục điều tra, truy tố, xét xử chưa thực sự phù hợp với nhu cầu bảo vệ đặc biệt của người CTN có liên quan đến hệ thống tư pháp. Việc bảo vệ sự riêng tư của bị can, bị cáo CTN là một số vấn đề cần quan tâm. Hiện chưa có đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, luật sư, cán bộ TGPL được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp với người CTN. Kỹ năng điều tra, truy tố, xét xử thân thiện với người CTN của các cán bộ THTT còn rất hạn chế. Một nội dung khác cũng chưa được đề cập một cách chuyên sâu, đó là trong bối cảnh hiện nay, nhất là để thực hiện chủ trương CCTP theo Nghị quyết 49-NQ/TW, việc xúc tiến thành lập tòa án chuyên trách về người CTN như trên đã được xác định là rất cần thiết và đây là thời điểm thích hợp. Các TAND như hiện nay xét xử người CTN vi phạm pháp luật hoặc xét xử các vụ việc nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người CTN khi bị xâm phạm không còn phù hợp đòi hỏi cần phải có
  • 29. 25 tòa án chuyên trách để xét xử những vụ án liên quan tới người CTN. Hơn nữa, Nhà nước ta đã sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 và đang nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức TAND và các văn bản pháp luật khác có liên quan, đồng thời triển khai thực hiện Nghị quyết 49 về CCTP thì việc tổ chức, thành lập tòa án cho người CTN là phù hợp với thực tiễn. Điều này cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn nữa để từng bước hoàn thiện quy định pháp luật TTHS trong giải quyết vụ án do người CTN thực hiện là việc làm cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn hiện nay. 2. Mục tiêu, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu có thể hiểu là câu trả lời cho câu hỏi việc thực hiện luận án để làm cái gì? Với cách tiếp cận này, chúng tôi xác định mục tiêu của luận án là đề xuất các giải pháp pháp lý hoàn thiện quy định pháp luật về QBC của bị can, bị cáo là người CTN, đặc biệt là các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về cơ chế thực thi quyền này. 2.2. Cơ sở lý thuyết 2.2.1. Câu hỏi nghiên cứu Nhằm làm rõ mục tiêu nghiên cứu của luận án, chúng tôi đặt ra các câu hỏi nghiên cứu như sau: Thứ nhất, có hay không sử ảnh hưởng của lý thuyết về QBC của bị can, bị cáo nói chung và bị can, bị cáo là người CTN nói riêng đến hiệu quả cơ chế đảm bảo thực thi quyền này? Thứ hai, những yếu tố nào tạo nên tính chất đặc thù của bị can, bị cáo là người CTN như chủ thể đặc biệt tham gia hoạt động tố tụng? Những yếu tố này là bất biến hay có thể thay đổi theo sự thay đổi của môi trường sống (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…)?
  • 30. 26 Thứ ba, tính chất đặc thù của bị can, bị cáo là người CTN như chủ thể đặc biệt tham gia tố tụng đã được thể hiện đầy đủ, rõ ràng trong quy định pháp luật về QBC của các chủ này hay chưa? Thứ tư, nếu như quy định pháp luật hiện hành về QBC của bị can, bị cáo là người CTN đã thể hiện đầy đủ yếu tố đặc thù của các chủ thể này thì việc áp dụng các quy định này trên thực tiễn diễn ra như thế nào? Có hay không sự sai lệch giữa quy định pháp luật (tạm gọi - pháp luật trên giấy) và thực tiễn áp dụng? Nếu có sự sai lệch thì nguyên nhân xuất phát từ đâu? Việc thiếu quy định pháp luật hay có quy định pháp luật nhưng tính chất chung chung, khái quát của kỹ thuật lập pháp cho phép người áp dụng hiểu và vận dụng pháp luật theo cảm quan cá nhân hay không? Sự ảnh hưởng từ nhận thức, ý thức của người áp dụng pháp luật đến hiệu quả áp dụng pháp luật ở mức độ nào? Cần có những giải pháp nào để hạn chế sự vi phạm QBC của bị can, bị cáo là người CTN? 2.2.2. Lý thuyết nghiên cứu Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền với tinh thần “thượng tôn pháp luật” và đề cao QCN. Các quan điểm của Đảng về CCTP cũng là cơ sở cho phương pháp luận của luận án. Đề tài luận án có trọng tâm là QBC của bị can, bị cáo là người CTN nên lý thuyết nghiên cứu của luận án sẽ bao gồm các khái niệm, học thuyết, định nghĩa liên quan tới QCN nói chung và QBC của bị can, bị cáo là người CTN nói riêng. Trước tiên, phải nói tới học thuyết luật tự nhiên được hình thành từ thời Hy lạp cổ đại nhưng phát triển mạnh mẽ ở châu Âu vào thế kỷ XIII [48] dựa trên một trật tự chung – trao những quyền vốn có của con người cho tất cả mọi người. Các quyền vốn có của con người vào thời điểm đó trong sâu thẳm tâm hồn nhân loại được xem là quyền tự do không bị áp bức, quyền tự do lựa chọn và không bị chịu những hành vi bạo lực. Giá trị của lý thuyết luật tự nhiên ở chỗ đã đặt nền móng cho Cuộc cách mạng giải phóng của Hoa Kỳ với sự ra đời của Bản Tuyên ngôn độc lập và kế đó là cuộc cách mạng tư sản Pháp với bản Tuyên ngôn về Nhân quyền và
  • 31. 27 Dân quyền (1789). Cũng chính từ các bản tuyên ngôn này là sự hình thành của nguyên tắc suy đoán vô tội là một lý thuyết không thể thiếu trong việc xây dựng cơ chế đảm bảo QCN nói chung trong TTHS và QBC của bị can, bị cáo là người CNT nói riêng. Với vai trò là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu về đặc điểm thể chất, tinh thần của người CTN, nội dung luận án sẽ là dựa trên học thuyết về sự phát triển của con người của Eric Erikson. Theo học thuyết này giai đoạn thứ 5 của con người có tên gọi giai đoạn vị thành niên (từ 13 đến 20 tuổi) mang đặc điểm có sự thể hiện bản thân và sự lẫn lộn về vai trò. Nếu được học hỏi và có thêm những cảm nghiệm tích cực về bản thân, lòng tự hào, tự trọng, biết tôn trọng người khác sẽ được hình thành ở trẻ. Ngược lại, trẻ sẽ mất ý thức về giá trị và địa vị chính mình trong mối tương quan với xã hội và nhưng thái độ, hành vi thể hiện sự không tôn trọng trẻ hay những lời quở trách, phê phán đối với trẻ dễ làm cho trẻ tự ái hay dỗi hờn. Trên nền tảng của học thuyết về sự phát triển của con người trong khoa học luât hình sự hình thành học thuyết về tội phạm [85] và các nhánh lý thuyết về tội phạm như “lý luận chung chung về cấu thành tội phạm” [83], “lý luận chung về định tội danh” [77], [41]. Với học thuyết này việc quy định QBC và việc bảo đảm thực thi quyền này cũng dựa trên cơ sở đặc điểm tâm, sinh lý của người CTN đòi hỏi cần có sự đánh giá kỹ lưỡng, chuyên biệt đối yếu tố chủ thể tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm là 2 trong 4 yếu tố cấu thành tội phạm. Bên cạnh các lý thuyết nền tảng nói trên, luận án sẽ được thực hiện dựa trên sự kế thừa, tiếp thu, đánh giá các khái niệm, định nghĩa như khái niệm QBC, khái niệm người CTN, khái niệm bị can, bị cáo, khái niệm phạm tội. 2.2.3. Các giả thuyết nghiên cứu Trong khả năng nhận định của chúng tôi giả thuyết nghiên cứu có thể xem là nhận định sơ bộ, là kết luận giả định của nghiên cứu hoặc là câu trả lời sơ bộ, cần chứng minh, vào câu hỏi nghiên cứu của đề tài. Theo quan điểm của chúng tôi đặt ra một giả thuyết sai vẫn còn hơn không đặt ra một giả thuyết nào vì giả thuyết nghiên cứu sẽ giúp chúng tôi có định hướng rõ hơn trong nghiên cứu. Dựa theo các câu hỏi nghiên cứu đã được đưa ra, chúng tôi có các giả thuyết nghiên cứu như sau:
  • 32. 28 Giả thuyết thứ nhất, lý thuyết về QBC của bị can, bị cáo nói chung và bị can, bị cáo là người CTN nói riêng có ảnh hưởng đến hiệu quả cơ chế đảm bảo thực thi quyền này. Giả thuyết thứ hai, yếu tố tâm, sinh lý là những yếu tố nào tạo nên tính chất đặc thù của bị can, bị cáo là người CTN như chủ thể đặc biệt tham gia hoạt động tố tụng. Những yếu tố này có thay đổi theo sự thay đổi của môi trường sống (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…). Giả thuyết thứ ba, tính chất đặc thù của bị can, bị cáo là người CTN như chủ thể đặc biệt tham gia tố tụng đã chưa được thể hiện đầy đủ, rõ ràng trong quy định pháp luật về QBC của các chủ này. Giả thuyết thứ tư, với các nguyên nhân khách quan, chủ quan, việc áp dụng quy định pháp luật về QBC của bị can, bị cáo là người CTN chưa có tính hiệu quả và cần phải có những giải pháp để hạn chế sự vi phạm QBC của bị can, bị cáo là người CTN. 2.2.4. Hướng tiếp cận của đề tài nghiên cứu Luận án kế thừa (có chọn lọc, phân tích, đánh giá) các kết quả nghiên cứu đã được công bố trước đó với mục đích bổ sung, hoàn thiện các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan tới đối tượng nghiên cứu của luận án. Luận án sẽ được thực hiện theo hướng gắn kết chặt chẽ pháp luật với các học thuyết khoa học cũng như thực tế cuộc sống, thực tiễn áp dụng pháp luật. Cách tiếp cận này sẽ cho phép đánh giá tính phù hợp, tính tương thích của quy định pháp luật với lý luận và thực tiễn. Kết cấu các chương của luận án phản ánh hướng tiếp cận này. Để đạt được mục đích nghiên cứu, việc đánh giá tính phù hợp, tính tương thích của quy định pháp luật Việt Nam về QBC của bị can, bị cáo là người CTN được tiếp cận theo hướng không chỉ gói gọn việc nghiên cứu trong phạm vi pháp luật Việt Nam. Nhưng việc tiếp nhận kinh nghiệm nước ngoài nhằm hoàn thiện lý luận cũng như pháp luật Việt Nam liên quan tới đề tài sẽ theo hướng lấy các yếu tố
  • 33. 29 kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam là căn cứ đánh giá mức độ tiếp thu kinh nghiệm nước ngoài. Các giải pháp như một trong những kết quả không thể thiếu của đề tài cũng sẽ được đưa ra theo hướng – có sự phân biệt giải pháp trọng tâm và các giải pháp mang tính hỗ trợ và có sự đánh giá tính khả thi của việc đưa các giải pháp vào áp dụng. 2.2.5. Dự kiến kết quả nghiên cứu Kết quả nghiên cứu của đề tài dù ở mức độ dự kiến cũng sẽ gắn liền với các câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu đã được xác định. Luận án dự kiến đạt được các kết qua sau đây: Thứ nhất, bổ sung, phát triển lý thuyết về QBC của bị can, bị cáo là người CTN phạm tội. Thứ hai, làm rõ mối liên hệ giữa yếu tố tạo nên tính đặc thù của bị can, bị cáo là người CTN với việc cần thiết hình thành, phát triển chế định QBC cho đối tượng này cũng như cơ chế đảm bảo thực thi quyền. Thứ ba, có được những giải pháp pháp lý cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực thi cơ chế đảm bảo QBC của bị can, bị cáo là người CTN. 2.2.6. Nội dung, kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận án cấu trúc gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên Chương 2: Thực trạng quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Chương 3: Tăng cường bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự 2.3. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để làm rõ đối tượng nghiên cứu. Quá trình thực hiện luận án không thể tách rời các
  • 34. 30 nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Các nguyên lý này dẫn tới trong qua trình phân tích, so sánh pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước, các kết luận được đưa ra không thể mang tính chất khen hay chê mà chỉ có thể là sự khác biệt và tương đồng. Nhưng sự khác biệt và tương đồng này lại phải được đánh giá trong bối cảnh của một hiện tượng pháp luật và ở các giai đoạn lịch sử khác nhau của sự hình thành, phát triển các hiện tượng pháp luật. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền, về bảo đảm QCN đã được sử dụng khi tiếp cận vấn đề QBC để thấy rằng QBC là một quyền cơ bản, mang tính lịch sử và có sức ảnh hưởng lớn đến hiện thực xã hội và nhận thức về QBC là một quá trình khách quan. Phương pháp phân tích, so sánh đã được sử dụng khi phân tích những quy định của Bộ luật TTHS 2003, kết quả nghiên cứu so sánh còn chỉ ra được những ưu điểm và hạn chế, bất cập của chúng và so sánh với yêu cầu của CCTP để xác định những định hướng hoàn thiện Bộ luật TTHS 2003. Phương pháp tổng hợp được sử dụng khi đưa ra những đánh giá về thực trạng của Bộ luật TTHS 2003 liên quan đến QBC của người CTN phạm tội khi tham gia hoạt động TTHS, những kiến nghị hoàn thiện Bộ luật TTHS 2003. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã khảo sát thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan THTT tại một số tỉnh, thành, nghiên cứu hồ sơ, tài liệu các vụ án làm cơ sở cho việc nghiên cứu. Bên cạnh đó, phương pháp đàm thoại cũng được tiến hành để trao đổi với các chuyên gia làm công tác thực tiễn như thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, luật sư và những người làm công tác nghiên cứu về pháp luật TTHS. Phương pháp tiếp cận được thực hiện nhằm làm rõ ý kiến của các đối tượng được hỏi ý kiến về những nội dung cụ thể làm cơ sở cho việc đánh giá, đề xuất những kiến nghị cụ thể. Như vậy có thể nói luận án được thực hiện trên sự kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng.
  • 35. 31 Phần 3 NỘI DUNG, KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 1.1. Khái niệm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam Quyền con người, một trong những giá trị quý báu nhất của nhân loại, được ghi nhận hầu hết ở các văn kiện pháp lý quốc tế, điển hình và nền tảng nhất là Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền như Công ước quốc tế (CƯQT) về các quyền Dân sự và Chính trị (1966) và CƯQT về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966). Bên cạnh việc khẳng định giá trị QCN, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948) cũng nhấn mạnh việc thực hiện các quyền cơ bản và quyền tự do của con người có thể bị những giới hạn nhất định, do luật quy định, với mục đích nhằm bảo vệ sự thừa nhận các quyền và tự do của người khác và nhằm đáp ứng các yêu cầu về đạo đức, trật tự công cộng cũng như nhằm đảm bảo lợi ích chung trong xã hội dân chủ. Ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử, Nhà nước luôn có quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân cũng như phương thức bảo đảm thực hiện. Một trong các phương thức thực hiện quyền cơ bản của công dân được nhà nước đảm bảo thực hiện là quyền được bảo vệ mình trước cơ quan pháp luật trong đó có QBC. Hoạt động TTHS là hoạt động tổng thành của ba chức năng cơ bản: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Ba chức năng này không tách rời nhau, quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Nếu có chức năng buộc tội mà không có chức năng bào chữa thì hoạt động tố tụng sẽ mang tính một chiều và tính quy buộc. Để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện và đầy đủ, không làm oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm thì việc bào chữa là điều cần thiết, nó giúp cho các cơ quan THTT xác định sự thật khách quan của vụ án được
  • 36. 32 chính xác. Chính vì lẽ đó, TTHS sẽ không được thừa nhận là dân chủ khi chức năng buộc tội không có sự đối trọng là chức năng bào chữa. Hiện nay, trong pháp luật vẫn chưa có định nghĩa chính thức nào về QBC. QBC là một chế định quan trọng trong luật TTHS và cho đến nay nó vẫn cần được làm sáng tỏ từ góc độ lý luận để làm tiền đề cho việc thực hiện nguyên tắc đảm bảo QBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói chung. Tuy nhiên, khái niệm QBC hiện vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, những quan điểm này đã được các học giả đề cập trong các công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết. Một trong những quan điểm phổ biến trong các sách báo pháp lý về QBC trong TTHS là quan điểm của nhà luật học Xô viết Stragovich M.S cho rằng: “Bào chữa là tổng hợp các hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hoặc làm giảm trách nhiệm hình sự (TNHS) của bị can” [53, tr. 196]. Khái niệm bị can được Stragovich dùng theo nghĩa rộng của từ này. Theo ông khái niệm bị can rộng hơn khái niệm bị cáo vì bất cứ bị cáo nào cũng từng là bị can nhưng không phải bị can nào cũng sẽ là bị cáo. Theo đó, ông viết “Quyền bào chữa của bị cáo là tất cả các quyền năng tố tụng mà pháp luật quy định cho bị can để bảo vệ khỏi mọi sự buộc tội và được bị can sử dụng để bác bỏ sự buộc tội, để đưa ra các lý lẽ và chứng cứ trong việc biện minh hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm của mình”. Với quan điểm này, khái niệm QBC của Stragovich đã được nhiều tác giả ủng hộ. Một trong những tác giả này có Ph.N.Phatkylin, ông cho rằng bào chữa trong TTHS không chỉ là tổng hợp các hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm mà “bào chữa thậm chí được thể hiện trong việc bảo đảm các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ của bị can kể cả khi chúng không trực tiếp liên quan tới việc làm giảm nhẹ trách nhiệm của bị trong vụ án”. Và theo ông, bị can (theo nghĩa rộng) và chức năng bào chữa chỉ xuất hiện từ thời điểm truy cứu TNHS một con người cụ thể bằng quyết định khởi tố bị can.
  • 37. 33 Khác với quan điểm trên, một số tác giả cho rằng chức năng bào chữa thậm chí có cả trong trường hợp mà ở đó không có sự buộc tội. Theo đó, các tác giả của quan điểm này khẳng định không chỉ bị cáo mà cả người bị hại cũng cần đến việc bào chữa. Nhân chứng, giám định viên và cả những người khác cũng vậy, nếu quyền lợi của họ bị xâm hại. Chúng tôi cho rằng quan điểm này không chính xác, vì theo pháp luật TTHS thì những chủ thể trên hoàn toàn không chịu sự buộc tội từ phía nhà nước hay các cơ quan THTT. Mặt khác, xuất phát từ quan điểm bào chữa và buộc tội phải song song tồn tại, ở đâu có buộc tội, ở đó có bào chữa cho nên trong các trường hợp trên rõ ràng những chủ thể này không thể có QBC. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa rằng người chưa bị buộc tội (khởi tố bị can hoặc ít nhất là bị tạm giữ) thì không có quyền được bảo vệ lợi ích của mình khi bị xâm hại. Quyền bảo vệ quyền và lợi ích của mình luôn luôn tồn tại ở mỗi con người, mỗi công dân; nhưng theo chúng tôi, đó chưa phải là QBC nếu chưa có sự buộc tội. Theo PGS.TS Phạm Hồng Hải: “Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là tổng hòa các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện trên cở sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự”. Theo chúng tôi cách hiểu như vậy là quá rộng. Người bị kết án là người đã có bản án có hiệu lực của Tòa án kết luận là có tội và phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật, nếu nói rằng họ có QBC thì vô hình chung đã làm mất hiệu lực của bản án và như vậy TTHS sẽ không có điểm dừng. Ngoài các quan điểm nêu trên, tiếp cận các quy định pháp luật TTHS của các nước chúng ta thấy có một số quan niệm khác nhau về QBC và chúng có thể được khái quát theo các nhóm quan điểm sau: - Pháp luật TTHS của những nước theo truyền thống pháp luật Ăng – Lô – Xắc – Xông cho rằng TTHS được coi là bắt đầu từ thời điểm VAHS được chuyển
  • 38. 34 sang Tòa án, và theo đó chức năng bào chữa chỉ xuất hiện từ thời điểm đó và QBC chỉ thuộc về bị cáo. Một số nước khác cũng trong hệ thống pháp luật này mặc dù cho rằng TTHS bắt đầu từ thời điểm khởi tố vụ án nhưng pháp luật quy định QBC là quyền của bị cáo. -Theo pháp luật TTHS của một số nước XHCN thì QBC được hiểu là quyền của bị can lẫn bị cáo nhưng QBC của bị can bị hạn chế vì họ chỉ có quyền có NBC trong một số trường hợp cụ thể. Xuất phát từ quan điểm buộc tội và bào chữa phải song song tồn tại, ở đâu có buộc tội, ở đó có bào chữa, bị can, bị cáo có QBC vì họ bị buộc tội, những người tham gia tố tụng khác không bị buộc tội nên vấn đề bào chữa không đặt ra đối với họ. Trong pháp luật TTHS Nga quy định QBC là quyền của bị can, bị cáo được tự mình hoặc nhờ NBC đưa ra các chứng cứ hoặc yêu cầu để bác bỏ sự buộc tội hay làm giảm nhẹ trách nhiệm của mình; sự tham gia của NBC không bị hạn chế ở giai đoạn xét xử mà được bắt đầu ngay từ giai đoạn điều tra. Đồng tình với quan điểm trên, tác giả Hoàng Thị Sơn đưa ra quan điểm của mình: “QBC của bị can, bị cáo là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định bị can, bị cáo có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ”. Chúng tôi đồng tình với quan điểm trên khi cho rằng đối với những chủ thể không bị buộc tội thì vấn đề bào chữa không đặt ra đối với họ. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng ngoài bị can, bị cáo thì người bị bắt, tạm giữ, tạm giam cũng là đối tượng bị buộc tội. Chỉ trên cơ sở coi người bị bắt, tạm giữ, tạm giam là đối tượng bị buộc tội thì cơ quan THTT mới có quyền ra quyết định tạm giữ, tạm giam một con người – xâm phạm quyền tự do về thân thể của họ, một trong những quyền Hiến định của công dân và áp dụng các biện pháp điều tra đối với họ như lấy lời khai, thu thập chứng cứ, vì vậy quy định cho người bị bắt, tạm giữ, tạm giam có QBC để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình là hoàn toàn hợp lý khi mà họ đã và đang bị áp dụng biện pháp cưỡng chế TTHS. Nói cách khác, người bị bắt, tạm giữ, tạm giam là
  • 39. 35 chủ thể bị buộc tội. Đối với bị can, bị cáo thì sự buộc tội đối với họ đã được khẳng định bằng quyết định khởi tố và bản cáo trạng nên đương nhiên pháp luật phải quy định cho họ QBC. Như vậy QBC thông thường xuất hiện khi một người bị cơ quan THTT ra quyết định khởi tố bị can, trong trường hợp có người bị bắt, tạm giữ, tạm giam thì QBC xuất hiện sớm hơn khi họ bị cơ quan THTT ra quyết định tạm giữ, tạm giam và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Trên cơ sở tiếp thu những điểm tích cực của các quan điểm nêu trên về khái niệm QBC, chúng tôi mạnh dạn đưa ra khái niệm QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS Việt Nam như sau: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam là tổng thể những hành vi tố tụng mà pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cho phép người đã bị khởi tố về hình sự và người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử là người dưới 18 tuổi có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội, làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc làm sáng tỏ tình tiết về sự vô tội của mình”. Do tầm quan trọng của nó mà quyền này được Hiến pháp 2013 quy định tại Khoản 4 Điều 31: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa” và là một nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật TTHS. QBC là một tổng thể các quyền và những biện pháp tố tụng cần thiết đảm bảo cho người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo tích cực tham gia TTHS; có khả năng thực tế để bày tỏ thái độ của mình đối với việc buộc tội; lưu ý các cơ quan THTT về những tình tiết này hay tình tiết khác của vụ án; khả năng nêu ra những tình tiết minh oan hoặc giảm nhẹ tội cho bị can, bị cáo. Nếu như QBC là khả năng sử dụng những quyền tố tụng để bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp thì biện pháp bào chữa là các hành động cụ thể để thực hiện quyền ấy (viết đơn khiếu nại, kháng cáo, tranh luận…). Khái niệm QBC phản ánh những quyền cụ thể mà Bộ luật TTHS đã quy định cho bị can, bị cáo được thực hiện để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình trước việc các cơ quan và những người THTT đã khởi tố VAHS, khởi tố họ với tư cách bị can, hoặc đã quyết định truy tố và đưa
  • 40. 36 họ ra xét xử; bao gồm cả quyền họ được chứng minh là mình không có tội hoặc có những tình tiết giảm nhẹ TNHS. Trong khi đó, đảm bảo QBC được xem là cơ chế thực hiện QBC, ghi nhận trách nhiệm của cơ quan, người THTT, các tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước khác phải tạo điều kiện giúp bị can, bị cáo nói chung thực hiện QBC. Theo quy định của Bộ luật TTHS, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, do hạn chế về kiến thức pháp luật, kỹ năng bào chữa (đặc biệt là đối với người CTN) và có thể do đang bị giam giữ nên họ không thể thực hiện được việc tự bào chữa có hiệu quả. Họ cần có người khác có khả năng để bào chữa, do đó, bên cạnh quyền tự bào chữa, pháp luật đã quy định họ có quyền nhờ luật sư, trợ giúp viên pháp lý, bào chữa viên nhân dân (BCVND) bào chữa cho mình. Quy định về NBC, các quyền và nghĩa vụ của họ tại các Điều 56, 57 và 58 của Bộ luật TTHS. Tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa là quyền của bị can, bị cáo, không phải là nghĩa vụ của họ. Để những người có lỗi thực hiện một cách có hiệu quả quyền tự bào chữa, Điều 11 Bộ luật TTHS Việt Nam thừa nhận QBC gồm 02 nội dung quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa. Quy định trong điều 11 Bộ luật TTHS không mâu thuẫn với Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 và Điều 9 Luật tổ chức TAND năm 2002. Trong đó, điều 11 Bộ luật TTHS 2003 quy định QBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đây chính là bước phát triển về chất của chế định QBC trong luật TTHS của nước ta, nó hoàn toàn phù hợp với lý luận TTHS hiện đại trên thế giới. Khái niệm QBC trong TTHS đã được các nước tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau nhưng mục đích chung duy nhất vẫn là bảo đảm quyền của con người khi tham gia TTHS. Như vậy, qua sự phân tích, so sánh các quan điểm khoa học và quy định pháp luật của các nước về khái niệm QBC cho thấy, chế định QBC trong TTHS Việt Nam mang tính tính ổn định, tính lịch sử và kế thừa. Tính ổn định được thể