Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI
1. MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
2
I- Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
2
1- Khái niệm
2
2- Đặc điểm của FDI
4
3- Ưu nhược điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
7
II- Các hình thức và xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
12
1- Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài
12
2- Xu hướng vận độn của đầu tư trực tiếp nước ngoài
13
III- Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI
21
1- Sự ổn định về Kinh tế chính trị xã hội và luật pháp đầu tư
22
2- Sự mềm dẻo, hấp dẫn của các hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư trực
tiếp nước ngoài
23
3- Sự phát triển của cơ sở hạ tầng
25
2. Luận Văn Tốt Nghiệp
4- Sự phát triển của đội ngũ lao động, của trình độ khoa học công nghệ và hệ
thống doanh nghiệp trong nước trên địa bàn
25
5- Sự phát triển của nền hành chính quốc gia và hiệu quả của các dự án FDI đã
triển khai
26
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước
ASEAN trong thời gian qua
28
I- Thực trạng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước ASEAN trong thời
gian qua
28
1- Số lượng vốn đầu tư
.................................................................................................................................
28
2- Cơ cấu FDI của Nhật Bản theo ngành ở các nước ASEAN
.................................................................................................................................
35
II- Những chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN
.................................................................................................................................
50
1- Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singpore
.................................................................................................................................
50
2- Chính sách đầu tư thu hút trực tiếp nước ngoài của Malaixia
.................................................................................................................................
52
3- Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Idonexia
.................................................................................................................................
53
4- Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Philippin
3. Luận Văn Tốt Nghiệp
.................................................................................................................................
55
5- Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Thái Lan
.................................................................................................................................
58
III- Đánh giá quá trình đầu tư của Nhật Bản vào các nước ASEAN và một số
bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
.................................................................................................................................
59
1- Đánh giá quá trình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước ASEAN
.................................................................................................................................
53
2- Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
.................................................................................................................................
63
Chương III: Triển vọng và một số giải pháp thu hút FDI của Nhật Bản vào
Việt Nam
.................................................................................................................................
68
I- Triển vọng của đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam
.................................................................................................................................
68
II- Một số giải pháp nhằm thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam
.................................................................................................................................
74
1- Về phía Chính phủ
.................................................................................................................................
75
2- Phía doanh nghiệp
.................................................................................................................................
84
Kết luận
.................................................................................................................................
88
5. Luận Văn Tốt Nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn là một vấn đề nóng bỏng. Đối với
Việt Nam vấn đề này càng cần được quan tâm nghiên cứu, đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay – giai đoạn mà Việt Nam đang thực hiện công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đai hoá đất nước. Chính vì vậy vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, không phải tự
nhiên các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư tại Việt Nam, mà điều đó còn do
rất nhiều động thái tác động đến. Một mặt là do nhu cầu của nhà đầu tư nước
ngoài, mặt khác, là do sự hấp dẫn về môi trường đầu tư của nước sở tại.
Hiện nay vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò rất quan trọng đối với
Việt Nam. Điều bức xúc đặt ra đối với Việt Nam hiện nay là làm thế nào để
thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Quan tâm đến vấn đề này và
được sự đồng ý của thầy giáo trực tiếp hướng dẫn em đã quyết định chọn đề
tài “Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước ASEAN và một số bài
học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong việc thu hút FDI của Nhật
Bản”. Em muốn tìm hiểu nguyên nhân đầu tư của Nhật Bản vào các nước
ASEAN và những chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của các nước
ASEAN và từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc
thu hhút FDI nói chung và FDI của Nhật Bản nói riêng.
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước
ASEAN trong thời gian qua
Chương III: Triển vọng và một số giải pháp thu hút FDI nói chung
và FDI của Nhật Bản nói riêng vào Việt Nam
Qua đây, em muốn bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới thầy giáo Th.s
Bùi Huy Nhượng, cùng toàn thể các thầy, cô giáo trong khoa Kinh tế &
Kinh doanh quốc tế, toàn thể cán bộ nghiên cứu thuộc trung tâm nghiên cứu
Nhật Bản đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Sinh viên
Lê Văn Hinh
7. Luận Văn Tốt Nghiệp
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
I. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Khái niệm
Đầu tư : Đầu tư nói chung là quá trình sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để
tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu được các kết quả nhất định trong
tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó . Nguồn lực
đó có thể là vốn , tàI nguyên thiên nhiên , sức lao động ,trí tuệ… Các kết quả
thu đực có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính ( tiền vốn) , tài sản vật chất
( nhà máy , đường xá… ) , tài sản trí tuệ ( trình độ văn hoá , chuyên môn,
khoa học kỹ thuật …) và nguồn nhân lực có đủ điều để làm việc có năng suất
trong nền sản xuất xã hội. Trên giác độ nền kinh tế, đầy tư là sự hy sinh giá trị
hiện tại gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế. Các hoạt động
mua bán, phân phối lại, chuyển giao tài sản hiện có giữa các cá nhân, tổ chức
không phải là đầu tư đối với nền kinh tế. Thực chất của vấn đề này là như thế
nào? chúng ta cùng xem xét một số tình huống sau: Một công ty bỏ ra 10
triệu USD để xây dựng thêm một phân xưởng sản xuất mới. Một sinh viên bỏ
ra 10 triệu VND để học tiếp cao học, một nhân viên bỏ ra 2000 USD để mua
cổ phần của một công ty, một công nhân bỏ ra 10 triệu VND. Tất cả các hoạt
động bỏ tiền trên đây đều nhằm mục đích chung là thu được một lợi ích nào
đó trong tương lai về tài chính, cơ sở vật chất, trí tuệ…, lớn hơn các chi phí bỏ
ra. Vì vậy nếu xem trên giác độ từng cá nhân hoặc đơn vị đã bỏ tiền ra thì các
hoạt động trên đều được gọi là đầu tư. Tuy nhiên nếu xem xét trên giác độ
toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất cả các hoạt động trên đều đem lại lợi ích
cho nền kinh tế và được coi là đầu tư của nền kinh tế. Bởi vì các hoạt động
gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phần không làm tăng tài sản cho nền kinh tế. Các
hoạt động này thực chất chỉ là sự chuyển giao quyền sử dụng tiền, quyền sở
hữu cổ phần từ người này sang người khác. Do đó chỉ làm tăng số tiền thu về
của người đầu tư, những giá trị tăng thêm của người này là phần mất đi của
8. Luận Văn Tốt Nghiệp
người khác, tài sản của nền kinh tế không thay đổi. Bên cạnh đó, các hoạt
động bỏ tiền xây dựng phân xưởng, bỏ tiền học cao học làm tăng thêm tài sản
vật chất trí tuệ cho nền kinh tế do đó các hoạt dộng này được gọi là đàu tư
phát triển hay đầu tư trên giác độ nền kinh tế.
Đầu tư quốc tế: đầu tư quốc tế là một quá trình kinh doanh trong đó vốn
đầu tư được di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác với mục đích sinh
lời. Đầu tư quốc tế là một hình thức hoạt động cao nhất của các công ty khi
thực hiện kinh doanh quốc tế. Về mặt sở hữu, đầu tư nước ngoài là quyến sở
hữu gián tiếp những tài sản của công ty ở nước khác. Về bản chất, đầu tư quốc
tế là những hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu
hàng hoá. Đây là hai hình thức luôn bổ xung hỗ trợ nhau trong chiến lược
thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường của các công ty, tập đoàn nước người hiện
nay. Trong nhiều trường hợp việc buôn bán hàng hoá ở nước sở tại là bước đi
tìm hiểu thị trường, luật pháp để tiến hành đầu tư. Sau đó việc tiến hành thành
lập các doanh nghiệp đầu tư ở nước sở tại là điều kiện để xuất khẩu máy móc
thiết bị vật tư… Hình thức đầu tư quốc tư thường gắn liền với các hoạt động
của các công ty đa quốc gia ( Multinational Enteprises)
Khái niệmđầu tư trực tiếp nước ngoài: đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
là một loại hình di chuyển vốn quốc tế trong đó người chủ sở hữu vốn đồng
thời là người trực tiếp quản lý, sử dụng vốn đầu tư và vân hành các kết quả
đầu tư nhằm thu hồi đủ vốn đã bỏ ra.
Về thực chất, FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựhg các cở sở
ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Đây là hình thức
đầu tư mà chủ sở hữu đầu tư nước ngoài đóng góp một phần vốn đủ lớn vào
lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành
đối trọng mà họ bỏ vốn ra. Trên thực tế, phần lớn FDI được thực hiện dưới
dạng thành lập cáccông ty con hoặc công ty liên doanh trực thuộc các công ty
đa quốc gia và nhà đầu tư là những tổ chức chóp bu của các công ty nay. Một
điều đáng lưu ý là ngày nay, FDI còn được thực hiện bởi các công ty vừa và
9. Luận Văn Tốt Nghiệp
nhỏ, tuy nhiên các công ty đa quốc gia vẫn giữ vai trò chủ đạo trong quá trình
này. Do đó FDI có thể được định nghĩa là sự mở rộng phạm vi hoạt động sản
xuất kinh doanh của các công ty đa quốc gia trên phạm vi quốc tế. Sự mở rộng
đó bao gồm chuyển giao vốn, công nghệ và các kỹ năng sanư xuất, bí quyết
quản lý… tới nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện quá trình sản xuất kinh do-
anh theo kế hoạch của dự án đầu tư.
2. Đặc điểm của FDI
Hiện nay xét về bản chất, FDI có những đặc điểm sau:
2.1. FDI trở thành hình thức chủ yếu trong đầu tư nước ngoài
Xét về xu thế và hiệu quả thì FDI thể hiện rõ hơn sự chuyển biến về chất
lượng trong nền kinh tế thế giới , gắn liền với quá trình sản xuất trực tiếp,
tham gia vào sự phân công lao động theo chiều sâu và tạo thành cơ sở hoạt
động của các công tyãuyên qốc gia và các doanh nghiệp quốc tế.
2.2. FDI đang và sẽ tăng mạnh ở các nước đang phát triển
Đầu tư lẫn nhau giữa các nước công nghiệp phát triển tăng mạnh trong vài
thập kỷ lại đây, đặc biệt là nửa cuối những năm 1980 là một trong những đặc
điểm quan trọng nhất của cá quan hệ kinh tế quốc tế kể từ sau chiến tranh thế
giới lần thứ hai.
Có nhiều lý do giả thích mức độ đầu tư cao giửa các nước công nghiệp phát
triển với nhau, nhưng có thể thấy hai nguyên nhân chủ yếu. Thứ nhất, môi
trường đầu tư ở các nước phát triển có độ tương hợp cao. Môi trường này
hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả môi trường công nghệ và môi trường pháp
lý. Thứ hai, xu hướng khu vực hoá đã thúc đẩy các nước này xâm nhập thị
trường của nhau. Dĩ nhiên đây không phải lý do trực tiếp vì trong khi khu
vực hoá vối chủ nghĩa bảo hộ chặt chẽ chỉ là một xu hướng thì mức độ mổ
cửa hiện nay không cản trở điều đó.
Cũng với hai lý do chính đó, ta có thể giải thích đực xu hướng tăng lên
của FDI ở các nước công nghiệp mới ( NICs), các nước ASEAN và Trung
Quốc. Quá trình tự do hoá nền kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường ở các
10. Luận Văn Tốt Nghiệp
nước này cũng như khu vực Đông Âu và Liên Xô đã tạo nên những khoảng
trống mới cho đầu tư. Mặt khác, các nhà đầu tư lớn nhất có xu hướng củng cố
khu vực lân cận của mình. Lấy ví dụ đầu tư nước ngoài của Nhật Bản. Vào
đầu những năm 1980, Nhật Bản đầu tư mỗi năm khoảng 1,2 tỷ USD cho toàn
bộ khu vực châu á. Đến năm 1990 con số này tăng gấp 6 lần.
Như vậy, xu hướng tự do hoá và mở cửa nền kinh tế các nước đang phát
triển trong những năm gần đây đã góp phần đáng kể vào sự thay đổi dòng
chảy FDI. Năm 1990, các nước đang phát triển nhận được 19% số vốn FDI,
năm 1991 là 25% và năm 1992 khoảng 30%. Trong những năm gần đây tỷ lệ
này vẫn có xu hướng tăng lên.
2.3.Cơ cấu và phương thức FDI trở nên đa dạng hơn.
Trong những năm gần đây, cơ cấu và phương thức đầu tư nước ngoài trở nên
đa dạng hơn so với trước đây. Điều này liên quan đến sự hình thành hệ thống
phân công lao động quốc tế ngày càng sâu rộng và sự thay đổi môi trường
kinh tế thương mại toàn cầu.
Về cơ cấu FDI, đặc biệt là FDI vào các nước công nghiệp phát triển có những
thay đổi sau:
- Vai trò và tỷ trọng của đầu vào các ngành có hàm lượng công nghệ cao
tăng lên. Hơn 1/3 FDI tăng lên hàng năm là tập trung vào các ngành then
chốt như điện tử, chế tạo máy tính, chất dẻo, hoá chất và chế tạo máy.
Trong khi đó, trong nhiều ngành công nghiệp truyền thống dùng nhiều
vốn và lao động, FDI giảm tuyệt đối hoặc không đầu tư . Các công ty
xuyên quốc gia của Mỹ đã đóng cửa các chi nhánh của mình ở Tây Âu và
Canada trong các ngành dệt,da, sản xuất các đồ dùng và thực phẩm .Các
nguồn vốn thu hồi này được chuyển về Mỹ và sử dụng để cải tạo và hiện
đại hoá các cơ sở sản xuất trong nước.
- Tỷ trọng của các ngành công nghiệp chế tạo giảm xuống khi FDI vào các
ngành dịch vụ tăng lên. Điều này liên quan đến tỷ trọng khu vực dịch vụ
trong GDP của các nước OECD tăng lên và hàm lươngj dịch vụ trong
11. Luận Văn Tốt Nghiệp
công nghiệp chế tạo cao. Một số lĩnh vực được ưu tiên là các dịch vụ
thương mại, bảo hiểm, các dịch vụ tài chính và giải trí. Tỷ lệ các nguồn
FDI vào dịch vụ tăng rất mạnh từ thập kỷ 80: năm 1985, FDIvào dịch vụ
tại Mỹ chiếm tỷ trọng 44% ( so với 32% năm 1950), vào Nhật Bản là 52%
( so với 20% năm 1965) và cộng hoà Liên bang Đức là47%(so với 10%
năm 1966).
Một vấn đề đáng lưu ý trong phương thức tiến hành FDI trong thời gian gần
đây là vai trò tăng lên của các công ty vừa và nhỏ. Chẳng hạn số dự án FDI
của các công ty vừa và nhỏ của Nhật Bản tăng mạnh từ 318 dự án năm 1985
lên 994 dự án năm 1990, chiếm 58% số dự án ( so với 13% năm 1985). Đa số
các công ty này thuộc mạng lưới các công ty xuyên quốc gia, tiến hành đầu
tư theo yêu cầu của công ty mẹ.
2.4. Sự gắn bó ngày càng chặt chẽ giữa FDI với ODA, thương mại, và
chuyển giao công nghệ.
FDI và thương mại có liên quan chặt chẽ với nhau. Thông thường,
một chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài được nhằm vào mục đích
tăng tiềm năng xuất khẩu cuả một nước .Mặt khác ,các công ty nước ngoài
được lựa chọn ngành và địa điểm đầu tư cũng dựa trên cơ sở tăng khả năng
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Sự thay đổi kết cấu ngành
đầu tư , như phân tích ở trên, đã chứng minh điều này. Ngay cả đối với Nhật
Bản, nước đã từng hướng đầu tư nước ngoài vào những ngành khai thác để
cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp trong nước thì những năm
gần đây cũng đã chuyển sang các ngành nhằm vào xuất khẩu là chủ yếu.
FDI đang trở thành kênh quan trọng nhất của chuyển giao công nghệ. Xu
hướng hiện nay là FDI và chuyển giao công nghệ ngày càng gắn bó chặt chẽ
với nhau. Đây chính là hình thức có hiệu quả nhất của sự lưu chuyển vốn và
kỹ thuật trên phạm vi quốc tế. Nhiều nước đã đạt được thành công trong việc
hấp thụ các yếu tố bên ngoài để phat triển kinh tế trong nước là nhờ đến điều
này.
12. Luận Văn Tốt Nghiệp
Sự gắn bó giữa FDI và các nguồn viện trợ và vay nợ khác cũng là một
đặc điểm nổi bật của sự lưu chuyển các nguồn vốn và công nghệ trên phạm vi
quốc tế trong những năm gần đây .Hơn nữa, xu hướng này sẽ ngày càng trở
nên mạnh hơn. Lý do là trước đây, các nguồn viện trợ và cho vay thường
nhằm vào mục đích quân sự và chíng trị, do đó hiệu quả của nó đối với thúc
đấỵ phát triển kinh tế của các nước nhận và nước cho rất thâps .Ơ các nước
chậm phát triển nhất hiện nay viện trợ và cho vay chiếm đến 90% các nguồng
vốn từ bên ngoài.Viện trợ và cho vay trong nhiều trường hợp dẫn đến sự phụ
thuộc một chiều hơn là giúp cho các nước nhận có được sự phát triển tự thân
và tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế.Vì vậy, các nguồn
vốn này đã được các chính phủ, các tổ chức quốc tế đặt trong mối quan hệ
với các nguồn vốn tư nhân nhằm nâng cao hiệu quả của việc sử dụng chúng .
3.Ưu nhược điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
3.1.Đối với nước đi đầu tư.
Mối quan tâm đến tác động của FDI đối với bản thân nước đi đầu tư là
rất lớn. Phần lớn các công ty đi đầu tư thuộc các nước phát triển mà tỷ suất
lợi nhuận đầu tư ở trong nước có xu hướng ngày càng giảm, kèm theo hiện
tượng thừa tương đối tư bản. Khi đầu tư ra nước ngoài họ tận dụng được lợi
thế và chi phí sản xuất thấp của nước nhận đầu tư (Do giá lao động rẻ, chi phí
khai thác nguyên vật liệu tại chỗ thấp) để hạ giá thành sản phẩm , giảm chi
phí vận chuyển đối với việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu của nước nhận
đầu tư , nhờ đó nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư.
Đầu tư trực tiếp cho phép các công ty kéo dài chu kỳ sống của sản
phẩm mới được tạo ra. Đầu tư trực tiếp giúp các công ty tạo dựng được thỉ
trường cung cấp nguyên vật liệu dồi dào với giá rẻ.
Đầu tư trực tiếp cho phép chủ đầu tư bành trướng sức mạnh về kinh tế,
tăng cường ảnh hương của mình trên thị trường thế giới.
Đầu tư trực tiếp làm tăng tổng sản phẩm quốc dân của nước đi đầu tư
,từ các khoản lợi nhuận, tiền bản quyền và các khoản khác do các chi nhánh
13. Luận Văn Tốt Nghiệp
của các công ty đa quốc gia từ nước ngoài chuyển về. Nhiều trường hợp đầu
tư trực tiếp là phương tiện không những để kích thích sự phát triển kinh
tế ,mà còn để phục vụ cho các mục tiêu khác của nước thực hiện đầu tư.
Đầu tư trực tiếp biến các nước thực hiện đầu tư từ địa vị là nước xuất
khẩu thành địa vị là nước nhập khẩu đối với một số hàng hoá nhất định.
Tuy những ảnh hưởng tiêu cực của dòng FDI ra nước ngoài đối với các chủ
đầu tư là chưa được khảng định một cách chắc chắn, nhưng những ảnh hưởng
tiêu cực đối với việc làm và thu nhập của người lao động trong nước, việc
suy giảm dòng vốn tiết kiệm trong dài hạn, cũng như làm mất đi tính cạnh
tranh của hành hoá sản xuất của các nước đầu tư trên thị trường quốc tế cũng
là những vấn đề cần được xem xét và phân tích hiện nay.
3.2.Đối với nước nhận đầu tư.
a. Ưu điểm:
Đối với các nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt là các nước đang phát triển,
FDI là yếu tố quan trọng làm tăng cường vốn đầu tư trong nước trong điều
kiện tỷ lệ tiết kiệm nội địa thấp, thiếu ngoại tệ và quá trình tích luỹ từ nội bộ
nền kinh tế chậm, không đáng kể so với nhu cầu phát triển chung của nền
kinh tế.
Cùng với việc cung cấp vốn thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp, các
công ty đã chuyển giao công nghệ và các tài sản vô hình khác từ nước mình
hoặc các nước khác sang nước tiếp nhận đầu tư. Phần lớn những ảnh hưởng
tích cực của FDI đối với các nước đang phát triển diễn ra thông qua hoạt
động này. Sự chuyển giao này làm nâng cao năng suất lao động bằng cách
nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực và kết quả cuối cùng là thu nhập
bình quân đầu người sẽ cao hơn ở nước tiếp nhận đầu tư. Những tác động này
có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp .
- Tác động trực tiếp: Thông qua việc chủ đầu tư chuyển giao công nghệ và
các tài sản vô hình khác cho các nhà sản xuất, cung cấp và phân phối địa
phương mà chủ đầu tư có quan hệ kinh doanh. Hoặc có thể do các doanh
14. Luận Văn Tốt Nghiệp
nghiệp do chủ đầu tư hoạt động có hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh địa
phương.
- Tác động gián tiếp( còn được gọi là “hiệu ứng lan toả”): Thông qua việc
các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tạo nên một môi trường cạnh tranh
mạnh mẽ giữa các công ty trong nội bộ khu vực. Môi trường cạnh tranh
buộc các công ty trong khu vực phải hoạt động có hiệu quả hơn, do đó
năng suất lao động của tất cả các công ty sẽ tăng lên. Ngoài ra, hoạt động
của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn góp phần
làm tăng kinh nghiệm quản lý, năng lực marketing… cho công nhân viên
nước nhận đầu tư, đội ngũ lao động được đào tạo rèn luyện về nhiều mặt.
Họ có thể làm việc một cách hiệu quả với bất kỳ nơi nào với vốn kỹ năng
và kiến thức đã được đào tạo và tích luỹ. Tác động tích cực trên còn được
gọi là “lợi ích bên ngoài”.
FDI góp phần bổ sung đáng kể vào nguồn thu ngân sách của chính phủ
các nước đang phát triển thông qua thuế từ các xí nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
FDI còn có thể mang lại lợi ích trong việc khuyến khích đầu tư trong
nước. Nếu vốn FDI được dùng để phát triển cơ sở hạ tầng thì có thể trực
tiếp khuyến khích đầu tư hơn nữa.Thậm chí nếu FDI được chú trọng đặc
biệt cho một ngành nào đó thì nó có thể khuyến khích đầu tư bằng việc
giảm chi phí hoặc tạo cầu cho các ngành khác.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cho các tiềm năng phát triển kinh tế
xã hội của đất nước có điều kiện để khai thác, điều đó có tác động mạnh
mẽ đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu ngành, cơ cấu công nghệ,
cơ cấu sản phẩm và lao động, cơ cấu lãnh thổ được thay đổi theo chiều
hướng ngày càng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của
đất nước, phù hợp với xu thế chung của thời đại , của các nước trong khu
vực.
15. Luận Văn Tốt Nghiệp
Tiếp nhận đầu tư trực tiếp, nước chủ nhà không phải lo trả nợ, thông
qua hợp tác với chủ đầu tư, nước chủ nhà có điều kiện xâm nhập vào thị
trường thế giới. Các công ty thuộc các nước đang phát triển khó hoặc ít có
cơ hội xâm nhập vào thị trường quốc tế, với sự liên doanh với các công ty
đa quốc gia, các công ty thuộc các nước đang phát triển sẽ vươn tới các thị
trường nước ngoài. Có thể nói đây là cách thức nhanh và có hiệu quả nhất
giúp các công ty đó đến với thị trường nước ngoài và thực hiện kinh
doanh quốc tế.
Nếu đầu tư sản xuất hàng thay thế nhập khẩu, nước nhận đầu tư có
được hàng hoá cần thiết với giá cả thấp hơn giá nhập từ nước ngoài nhờ
tiết kiệm được chi phí vận chuyển và những lợi thế về lao động, nguồn
nguyên liệu trong nước.
Đầu tư trực tiếp được sử dụng một cách có hiệu quả trong việc phát
triẻn các khu địa lý, khu công nghiệp hoặc ngành công nghiệp cụ thể
thông qua việc xây dựng và giới thiệu dự án gọi đầu tư vói những ưu đãi,
khuyến khích các công ty nước ngoài đầu tư vào các ngành, vùng mà họ
muốn phát triển.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo công ăn việc làm cho nước nhận đầu
tư .Trong thực tế, FDI còn có tác động tích cực đến lĩnh vực giáo dục, đào
tạo tâm lý đội ngũ người lao động của các nước tiếp nhận đầu tư.
b. Nhược điểm:
Việc quản lý vốn đầu tư trực tiếp của nước chủ nhà có nhiều khó khăn
do các chủ đầu tư có kinh nghiệm né tránh sự quản lý của nước chủ nhà.
Trong khi đó nước chủ nhà lại chưa có nhiều kinh nghiệm, còn có nhiều
sơ hở trong quản lý hoạt động các cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài.
Lợi dụng sự yếu kém, thiếu kihn nghiệm trong quản lý và trong pháp luật
của nước sở tại, tình trạng trốn thuế, gian lận, vi phạm những quy định về
bảo vệ sinh thái môi trường và nhữnh lợi ích khác của nước chủ nhà
thường xảy ra.
16. Luận Văn Tốt Nghiệp
Trong số các nhà đầu tư, có những trường hợp vào không có mục
đích là thu lợi nhuận mà với mục đích tình báo, gây rối trật tự an ninh
chính trị. Các công ty đa quốc gia đầu tư trực tiếp có thể sử dụng như một
công cụ để can thiệp vào các hoạt động chính trị, kinh tế ngoại giao của
nước sở tại.
Quá trình chuyển giao công nghệ trong đầu tư trực tiếp còn nhiều hạn
chế và tiêu cực, không thực hiện đúng quy định như chuyển giao các công
cụ lạc hậu, ô nhiễm môi trường, giá chuyển giao cao… Đồng thời nó đặt
nước nhận đầu tư phụ thuộc nhiều vào dòng vận động của công nghệ mới
và công nghệ được cập nhật. Đối với các nước kém phát triển, các công
nghệ mà họ nhận đươc từ các công ty đa quốc gia nhìn chung là các công
nghệ ở giai đoạn cuối của sự vận động. Vì vậy giá trị của công nghệ nhận
được đó thường không cao và nó đặt các nước kém phát triển vào tình
trạng phụ thuộc nhiều hơn vào công nghệ của nước tiên tiến. Điều này
được giải thích bởi lý thuyết chu kỳ sống của sản phẩm và chu kỳ sống
của sản phẩm mở rộng.
Sự xuất hiện của các công ty đa quốc gia có thể gây ra hiện tượng “chảy
máu chất xám” do việc thu hút các nhà khoa học của nước nhận đầu tư
vào các trung tâm nghiên cứu. Việc các công ty đa quốc gia trả lương cho
các nhân viên của họ cao hơn các công ty nội địa đã taọ ra dòng di chuyển
lao động có chuyên môn , tay nghề cao từ các công ty nội địa đến các
công ty quốc gia .Đồng thời các công ty đa quốc gia cũng thường là nhân
tố làm rối loạn quá trình hoạch định chính sách kế hoạch phát triển kinh
tế. Sự hoạt động của các công ty này gây ra những thay đổi trong cách
thức kinh doanh, nếp sống, sở thích tiêu dùng… ảnh hưởng tới giá trị tinh
thần của dân cư nước sở tại. Dòng FDI vào các nước đang phát triển có
thể tác động làm giảm tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư nội địa. Tác động này xuất
phát từ quyền lực thị trường của các công ty đa quốc gia và khả năng của
các công ty này trong việc sử dụng quyền lực đó nhằm thu lợi nhuận cao
17. Luận Văn Tốt Nghiệp
và chuyển ra nước ngoài .Bằng các phương pháp cạnh tranh khác nhau,
các công ty đa quốc gia có thể làm phá sản các doanh nghiệp trong nước
nhằm chiếm lĩnh thị phần của họ.
Dòng FDI vào các nước đang phát triển thường có xu hướng làm
tăng sự phát triển vốn đã không đồng đều giữa các ngành, các vùng và các
khu vực kinh tế, làm tăng khoảng cách giàu nghèo trong xã hội.
Đầu tư trực tiếp là nguồn vốn quan trọng đối với các nước đang phát
triển, tuy nhiên lượng vốn đổ vào thi trường nước nhận đầu tư chưa chắc
đã lớn hơn lượng vốn đổ ra do việc các công ty đa quốc gia mang các
khoản lợi nhuận ra khỏi nước sở tại. Do đó lợi ích kinh tế do đầu tư nước
ngoài trực tiếp tạo ra cũng là vấn đề cần gây nên nhiều tranh luận.
Hai loại tác động tiêu cực và tích cực luôn song song tồn tại trong
quá trình đầu tư và tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, tuỳ
từng thời điểm, từng điều kiện của các quốc gia mà có thể tác động này
hay tác động khác chiếm ưu thế hơn. Mỗi quốc gia cần phải xác định rõ
các điều kiện của nước mình, từ đó xem xét các tác động nhằm hạn chế
các tiêu cực và để quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước mình
được hiệu quả hơn.
II.Các hình thức và xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
1. Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài ngày 09 tháng 6 năm 2000
thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được định nghĩa là "việc nhà đầu tư nước
ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào để tiến hành
hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”.
Luật quy định các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam
dưới các hình thức sau:
18. Luận Văn Tốt Nghiệp
*0 Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh
doanh.
*1 Doanh nghiệp liên doanh.
*2 Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, còn có các phương thức tổ chức đầu tư khác như khu chế
xuất, khu công nghiệp, hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao (BOT),
hợp đồng xây dựng-chuyển giao-kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng-
chuyển giao (BT).
Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản kí kết giữa hai bên hay nhiều
bên (các bên hợp doanh) quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh
doanh để tiến hành hoạt động đầu tư tạiViệt Nam mà không thành lập pháp
nhân. Các hợp đồng thương mại và hợp đồng kinh tế có tính chất trao đổi
hàng hoá như giao nguyên liệu lấy sản phẩm, mua thiết bị trả chậm bằng sản
phẩm không thuộc hình thức đầu tư này.
Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác
thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định kí kết
giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ
nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác
với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Khác với hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng liên doanh làm hình thành
một pháp nhân mới. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức
công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
19. Luận Văn Tốt Nghiệp
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu
của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam,
tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức
công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
2.Xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài .
2.1.Xu hướng tự do hoá đầu tư và sự gia tăng mạnh mẽ về quy mô vốn đầu
tư :
Những năm gần đây, hoạt động đầu tư phát triển mạnh mẽ trên thế giới và đã
được tự do háo trên tất cả các mặt. Xu hướng thể hiện trên ba bình diện : quốc
gia ,khu vực và quốc tế. Các quốc gia thì giảm dần những hạn chế về các hình
thức đầu tư, lĩnh vực đầu tư, luật pháp liên quan tới đầu tư, về vấn đề góp
vốn, chuyển giao công nghệ… đồng thời các chính sách khuyến khích đầu tư
như khuyến khích về thuế quan, nhân công… được ban hành. Bên cạnh đó,
trên thế giới hình thành các khu vực đầu tư, liên minh kinh tế, các hiệp định
đầu tư đa phương và song phương liên tục ra đời, vốn đầu tư được trải rộng
trên toàn thế giới.
Xu hướng tự do hoá đầu tư và quá trình quốc tế hoá đã làm cho lượng
vốn đầu tư gia tăng mạnh mẽ trên toàn thế giới. Số vốn lưu chuyển quốc tế
trong những năm gần đây tăng mạnh khoảng 20-30%/năm. Những năm 70,
vốn đầu tư trực tiếp trên toàn thế giới trung bình hàng năm khoảng 25 tỷ
USD, đến thời kỳ 1980 – 1985, đã tăng lêngấp hai lần, đạt mức khoảng 50 tỷ
USD.Từ năm 1985 – 1990, tỷ lệ gia tăng danh nghĩa của dòng FDI hàng năm
là 34%, vượt xa mức tăng 13% hàng năm của tổng số hàng xuất khẩu trên thế
giới .Số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới năm 1986 là 78 tỷ
20. Luận Văn Tốt Nghiệp
USD, năm 1987 là 133 tỷ USD, năm 1988 là 158 tỷ USD, năm 1989 là 195 tỷ
USD và từ năm 1990 đến 1993,số lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên
toàn thế giới hầu như không tăng lên, chỉ dừng ở mức trên dưới 200 tỷ USD.
Đến năm 1994, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới lại tiếp tục
tăng lên đạt mức 226 tỷ USD và đến năm 1995 con số đó là 253 tỷ USD. Số
lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong số vốn
đầu tư trên toàn thế giới, cuối thập kỷ 70, vốn đầu tư nước ngoài bằng 5%
trong số vốn đầu tư trên toàn thế giới. Năm 1989 con số này là 13%(bằng 200
tỷ USD so với 1500 tỷ USD ). Tình hình này cho thấy xu hướng phát triển sản
xuất ngày càng được mở rộng trên toàn thế giới và ngày càng có nhiều quốc
gia, tổ chức và các công ty đa quốc gia tham gia vào hoạt đọng đầu tư ra nước
ngoài.
2.2.Địa bàn thu hút vốn đầu tư có sự thay đổi:
Một xu hướng lâu dài là vốn đầu tư được luân chuyển chue yếu giữa các
nước công nghiệp phát triển. Năm 1950, số lượng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đổ vào các nước công nghiệp phát triển chiếm khoảng 40% trong tổng
vốn đầu tư nước ngoài trên toàn thế giới: đến năm 1960 đã tăng lên 69%, năm
1998 con số này là 73% và cuối thập kỷ đó đạtb mức 80%. Sự gia tăng đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào các nước công nghiệp phát triển bị chững lại vào đầu
nhữnh năm 90, do suy thoái kinh tế rộng khắp trên thế giới. Tư bản và dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực này giảm mạnh trong những năm
đầu thập kỷ. Cùng với sự lớn mạnh của các tập đoàn xuyên quốc gia ở các
nước đang phát triển và tác động của qúa trình toàn cầu hoá, khu vực hoá, vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới đang có những biến đổi theo xu
hướng tăng dần quy mô và tốc độ vốn đầu tư vào các nước đang phát triển,
tuy nhiên tốc đọ tăng hàng năm là không đều. Những số liệu dưới đây sẽ
chứng minh cho nhận định này.
21. Luận Văn Tốt Nghiệp
Bảng 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước công nghiệp phát triển và
đang phát triển Đơn vị tính : tỷ USD
Nhóm nước 1986 1987 1988 1989 1990 1993 1994
Tổng số 78 133 159 195 184 194 226
Các nước CNPT 64 108 129 165 152 114 142
Các nước ĐPT 14 25 30 30 32 80 84
Nguồn:World investment report 1995, United Nation. New york.1995
Năm 1985, FDI vào các nước đang phát triển đạt 11,3 tỷUSD thì đến
năm 1990, các dòng vốn đầu tư (gồm đầu tư trực tiếp , gián tiếp ) vào các
nước đang phát triển đã tăng gấp hai lần trong đó đầu tư trực tiếp tăng khoảng
3,5 lần. Tốc độ tăng FDI trung bình hàng năm là 31% và đạt mức 97 tỷ USD
năm 1995, một mức kỷ lục. Hiện tượng dòng vốn FDI chuyển hướng sang
các nước đang phát triển có nthể do các nguyên nhân sau: Thứ nhất: Do suy
giảm lãi suất, lợi nhuận đầu tư trong các nước công nghiệp phát triển làm cho
địa bàn đầu tư bị thu hẹp. Các nhà đầu tư buộc phải tìm đến các địa bàn đầu
tư mới, đó là các nước đang phát triển. Thứ hai: Do xu hướng toàn cầu hoá và
đa dạng hoá trong đầu tư quốc tế. Trên thế giới ngày càng xuất hiệnnhiều vấn
đề mang tính chất toàn cầu, buộc các nước công nghiệp phát triển phải có sự
hợp tác với các nước đang phát triển để cùng nhau giải quyết. Thứ ba: Các
nước đang phát triển thường là các nước có nền khoa học kỹ thuật lạc hậu,
với tốc độ phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, các nước đang
phát triển là nơi để các nước phát triển chuyển giao các thiết bị cũ, lạc hậu
thông qua việc đầu tư trực tiếp vào các nước này. Như vậy các nước công
nghệp phát triển vừa thay thế được các thiết bị lạc hậu, lại vừa thu được một
phần giá trị còn lại của các thiết bị cũ. Thứ tư: Do chính quá trình phát triển
mạnh mẽ của mình, các nước đang phát triển thu được rất nhiều vốn đầu tư
trực tiếp. Những năm gần đây, nhiều nước đang phát triển đã thu được những
22. Luận Văn Tốt Nghiệp
thành tựu lớn về phát triển kinh tế, bảo đảm sự ổn định kinh tế vĩ mô, thực
hiện sự cải cách kinh tế phù hợp, tạo được môi trường đầu tư thuận lợi. Đặc
biệt nhiều nước đang phát triển đã gần gỡ bỏ được cuộc khủng hoảng nợ, một
trở ngại lớn trong quan hệ giữa các nước đang phát triển với các nước công
nghiệp phát triển.
Tuy nhiên, sự phân phối FDI giữa các nước đang phát triển lại rất không
đồng đều. Trong những năm 60 và đầu những năm 70, các nước Mỹ La Tinh
là những nước thu hút được nhiều vốn đầu tư lớn nhất thế giới. Đây là thời kỳ
các nước Mỹ La Tinh đạt được mức đọ tăng trưỏng kinh tế thần kỳ. Cuối
những năm 70 và đầu những năm 80, các nước Mỹ La Tinh lại rơi vào tình
trạng kinh tế suy thoái nghiêm trọng, lạm phát tăng nhanh và có nhiều nước
rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ nước ngoài. Chính vì vậy, vốn FDI vào các
nước đang phát triển có xu hướng chuyển dần từ các nước Mỹ La Tinh sang
các nước và vùng lãnh thổ Đông Nam á. Đây là khu vực đang có sự phát triển
mạnh mẽ, tốc đọ tăng trưởng cao, sự ổn định chính trị – kinh tế – xã hội cùng
với những cải cách kinh tế quan trọng đã tạo nên sự hấp dẫn đối với các nhà
đầu tư nước ngoài.
Thời kỳ 1986 – 1990, trung bình hàng năm lượng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài chảy vào các nước ở Đông và Đông Nam á là 14 tỷ USD bằng
54% số vốn đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển trên thế giới. Các
nước đang phát triển ở khu vực châu á - Thái Bình Dương chiếm khoảng 62%
số vốn đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển trên thế giới vaò năm
1995 (con số này vào năm 1990 là 46%). Từ năm 1992, Trung Quốc nổi lên
là một trong số các nước thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất thế giới.
Năm 1993, 20 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đổ vào Trung Quốc,
so với các nước trên thế giới thì Trung Quốc chỉ đứng sau Mỹ về việc thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài .Só lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Trung Quốc trong thời gian qua tăng rất nhanh và chiếm tới 1/3 số vốn đầu tư
23. Luận Văn Tốt Nghiệp
trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới vào các nước đang phát triển .Đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào các nước trong khu vực Đông và Đông Nam á tăng
lên mạnh mẽ trong thời gian qua có thể do một số nguyên nhân sau: Thứ nhất:
Các nước ở khu vực này đã đạt được tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, đồng
thời cải cách lại các chính sách kinh tế – chính trị – xã hội nên đã tạo được
một môi trường đầu tư thuận lợi. Việc cải cách một số vấn đề trong luật đầu
tư, đặc biệt là việc hình thành và phát triển một số hình thức thu hút vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (như các khu chế xuất, đặc khu kinh tế, bán trái phiếu,
cổ phiếu…) ở các nước này đã làm tăng khối lượng vốn đầu tư vào trong
nước. Thứ hai: Việc đồng yên tăng giá đã kích thích Nhật Bản đầu tư ra nước
ngoài nhiều hơn mà Châu á lại là địa bàn quen thuộc của Nhật Bản. Thứ ba:
Các nước trong khu vực có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế nên đã tạo ra
được một lưọng tư bản thừa, do đó các nước trong khu vực có sự đầu tư lẫn
nhau.
Như vậy, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào các nước đang
phát triển tăng lên trong những năm gần đây nhưng chủ yếu chỉ đổ vào các
nước đang phát triển có trình độ phát triển kinh tế tương đối cao. Phải nói
rằng, sự năng động và khả năng tăng trưởng mạnh của nền kinh tế có sự hấp
dẫ đáng kể đối với đầu tư nước ngoài.Vì vậy, muốn tăng cường thu hút đầu tư
nước ngoài, các nước đang phát triển phải tạo ra được sự ổn định chính trị –
xã hội và đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và lâu dài. Đặc biệt là
trong giai đoạn hiện nay, trên thế giới đang diễn ra một cuộc cạnh tranh quyết
liệt nhằn lôi kéo đầu tư trực tiếp nước ngoài, việc tạo lập một môi trường đầu
tư thuận lợi là nhân tố cơ bản có yếu tố quyết định đến khả năng thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
2.3.Cơ cấu đầu tư có sự thay đổi theo hướng tập trung vào lĩnh vực công
nghiệp chế biến và dịch vụ:
24. Luận Văn Tốt Nghiệp
Hiện nay, một cơ cấu kinh tế được coi là hiện đại là cơ cấu kinh tế trong
đó các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ chiếm một tỷ trọng lớn. Đây là
xu hướng có tính phổ biển trên thế giới và xu hướng này đã chi phối toàn bộ
hoạt động đầu tư, trong đó đáng kể là hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Vì vậy, mà hầu hết các nước đều tập trung mọi cố gắng để tạo ra những điều
kiện thuận lợi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển hai ngành
này. Xuất phát từ yêu cầu phát triển một cơ cấu kinh tế hiện đại theo hướng
công nghiệp hoá, Chính phủ của nhiều nước đang phát triển đã dành nhiều ưu
đãi cho những người nước ngoài đầu tư vào hai ngành này điều đó đã tạo ra
sức hấp dẫn mạnh mẽ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Xu hướng chung của
thế giới trong việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư là chuyển từ đầu tư khai thác các
nguồn lực tự nhiên sang công nghiệp chế tạo và dịch vụ. Vào giữa thập kỷ
80,số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dịch vụ chiếm tới 50% số
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới, trong đó dịch vụ ngân
hàng, buôn bán chiếm phần quan trọng nhất, mặc dù khoản đầu tư trực tiếp
vào quảng cáo, giao thông vận tải cũng chiếm phần không nhỏ. Trong những
năm 90 đến nay, dòng FDI lại có xu hướng chuyển dịch mạnh mẽ sang các
ngành dịch vụ có hàm lượng vốn và công nghệ cao như viễn thông… vì đó là
khu vực mới phát triển và đang có khả năng thu lợi nhuận cao nhất.
Riêng trong lĩnh vực sản xuất thì có sự chuyển dịch các ngành sử dụng
sức lao động nhiều từ những nước có nền kinh tế phát triển cao sang các nước
có nền kinh tế phát triển thấp hơn(thường là những nước đang phát triển).
Những nước phát triển bắt đầu thu hút FDIvào các ngành đòi hỏi sử dụng lao
động có trình độ cao.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung vào lĩnh vực
công nghiệp chế biến và dịch vụ có thể do một số nguyên nhân sau: Thứ nhất:
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất
ngày càng được nâng cao, vì vậy mà nhu cầu về các loại dịch vụ phục vụ đời
25. Luận Văn Tốt Nghiệp
sống và sản xuất kinh doanh tăng lên mạnh mẽ, nhát là dịch vụ kỹ thuật , tài
chính ,du lịch, đòi hỏi ngành dịch vụ phải được phát triển tương ứng. Thứ hai:
Ngành công nghiệp chế biến là ngành có nhiều phân ngành, mà những phân
ngành đó thuộc các lĩnh vực mũi nhọn của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ như điện tử, thông tin liên lạc, vật liệu mới… Thứ ba: Do đặc tính kỹ
thuật của hai ngành này là dễ dàng thực hiện sự hợp tác. Thứ tư: Việc đầu tư
vào hai ngành này cho phép người đầu tư thu được lợi nhuận cao, đỡ gặp rủi
ro hơn và nhanh chóng thu hồi được vốn đầu tư.
2.4. Hiện tượng đa cực đa biên trong đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự xuất
hiện của một số chủ đầu tư mới trên thế giới:
Trước đây, do Mỹ không bị ảnh hưởng của cuộc chiến tranh thế giới thứ
hai nên Mỹ có nhiều tiềm năng kinh tế để thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài. Tuy nhiên, tính chất “một cực” này đã hoàn toàn bị thay thế bởi tính
chất “đa cực”. Hiện tượng này xuất hiện do có sự cạnh tranh của Tây Âu,
Nhật Bản và mới đây là sự xuất hiện của NICs đốibvới hoạt động FDI của
Mỹ. Ngày nay, số lượng các đối tác nước ngoài ở mỗi nước không phải có
một hay vài nước mà có rất nhiều các quoóc gia khác nhau cùng đầu tư
vào.Ví dụ ở Việt Nam, tính đến hết năm 1995 đã có trên 700 công ty của 50
nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào, với số vốn lên đến gần 20 tỷ USD .Nguyên
nhân của hiện tượng này là do có sự phát triển nhanh chóng của một loạt
nước công nghiệp mới, các nước này đã và đang rút ngắn dần khoảng cách
với các nước công nghiệp phát triển và do tình hình quan hệ kinh tế quốc tế
có nhiều biến đổi theo hướng các nước trên thế giới ngày càng hơp tác chặt
chẽ với nhau và có thể là chia sẻ rủi ro khi xảy ra.Về mặt lý thuyết, khi các
công ty nội địa của một quốc gia đã tích luỹ đầy đủ các điều kiện về vốn
,công nghệ… thì họ sẽ đầu tư ra nước ngoài. Trong một vài năm trở lại đây
cũmg đã xuất hiện thêm một số chủ đầu tư mới trong khu vực Châu á - Thái
Bình Dương mà nổi bật là các nước mới công nghiệp hoá .Những nước này
26. Luận Văn Tốt Nghiệp
đang dần trở thành nhà đầu tư hàng đầu, thay thế dần các nhà đầu tư của các
nước công nghiệp phát triển trước đây trong khu vực. Các quốc gia
Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng Kông đã chuyển sang thành các
quốc gia xuất khẩu vốn.
2.5. Hiện tượng hai chiều trong đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Từ thế kỷ 18 đén nay đã xuất hiện hiện tượng hai chiều trong đầu tư
trực tiếp nước ngoài, tức là hiện tượng một nước vừa tiếp nhận đầu tư, vừa
thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Những nước NICs cũng là những nước có
hiện tượng này. Các nước NICs cũng là các chủ đầu tư lớn trong những năm
từ đầu thập kỷ 80 đến nay, 37% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phê
chuẩn ở các nước đang phát triển vào thời điểm những năm 80 là từ NICs
Châu á.Trong khi đó, các nướ này lại tiếp nhận một khối lượng vốn đầu tư rất
lớn từ Nhật Bản và Mỹ. Hiện tượng trên đây là kết quả của quá trình phân
công lao động và quốc tế hoá đời sống kinh tế. Quá trình đó đã tạo điều kiện
cho các công ty xuyên quốc gia của một số nước, đang có nhu cầu tìm kiếm
địa bàn đầu tư, đã năng động nắm bắt lấy nhữnh cơ hội kinh doanh ở nước
ngoài nhằm đạt được mức lợi nhuận cao. Mỗi nước có lợi thế tương đối về
một lĩnh vực kinh tế kỹ thuật nào đó nhưng lại kém hơn ở lĩnh vực khác, bằng
hoạt động đầu tư ra nước ngoài các nước này sẽ phát huy được lợi thế tương
đối của mình, trên cơ sơ đó làm tăng hiệu quả kinh doanh và cũng thông qua
việc tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài, họ sẽ bổ sung những mặt hạn chế
để tăng hiệu quả phát triển kinh tế.
2.6. Vai trò của các tập đoàn xuyên quốc gia trong đầu tư trực tiếp nước
ngoài:
Hầu hết các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là bắt nguồn từ các
công ty xuyên quốc gia. Các công ty xuyên quốc gia là nguồn cung cấp vốn,
công nghệ và kinh nghiệm quản lý chính trong đầu tư quốc tế. Năm 1995 có
27. Luận Văn Tốt Nghiệp
khoảng 39.000 tập đoàn với 270.000 chi nhánh và cơ sở nước ngoài, nắm giữ
2.700 tỷ USD vốn FDI, tương đương với 10% GDP trên thế giới. Do đó các
tập đoàn xuyên quốc gia chi phối hầu hết các hoạt động FDI trên thế giới.
Điều đáng chú ý là các tập đoàn xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển
hầu hết tập trung ở Châu á.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI
Các quốc gia dù phát triển hay đang phát triển, dù là bên nhận đầu tư
hay chủ đầu tư thì động lực mạnh mẽ và bao quát nhất tạo ra và chi phối
những dòng FDI chính là lợi nhuận, với khát vọng tìm kiếm các thị trường
đầu tư, thị trường tiêu thụ, tránh sự nằm im phi kinh tế của các luồng vốn
nhàn rỗi, tránh những rủi ro kinh tế khi đầu tư vào một thị trường theo
phương châm “không để tất cả trứng vào một giỏ”.
Nếu không xét đến khả năng và nhu cầu về vốn đầu tư của cả bên nước
chủ đầu tư và nước nhận đầu tư, và với giả định bối cảnh chung của thế giới ở
điều kiện bình thường cả về tự nhiên và nhân tạo, thì có thể nhận thấy dòng
FDI chỉ thực sự mở rộng và ưa tìm đến những nơi có môi trường đầu tư đảm
bảo cho dòng vốn sinh sôi nảy nở. Thực tiễn cho thấy tiêu chuẩn của môi
trường đầu tư hấp dẫn, có sức cạnh tranh để thu hút FDI trước hết bao gồm
các nhân tố:
1.Sự ổn định về kinh tế và chính trị – xã hội và luật pháp đầu tư
Đây là điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi ro của vốn FDI
vượt khỏ sự kiểm soát của chủ đầu tư nước ngoài. Kinh tế chính tri bất ổn
định không chỉ làm cho dòng vốn này bị chững lại, thu hẹp, mà còn làm cho
dòng vốn trực tiếpừ trong nước chảy ngược ra ngoài, tìm đến những nơi đầu
tư mới an toàn và hấp dẫn hơn.
28. Luận Văn Tốt Nghiệp
Điều kiẹn này không chỉ bao gồm các yêu cầu về sự ổn định phát triển
kinh tế và trật tự chính trị – xã hội cần thiết cho sự vận hành bình thường của
đất nước, sự hoàn chỉnh hữu hiệu và tính có thể dự báo được của hệ thống
pháp luật đầu tư theo xu hướng ngày càng tiếp cận tiêu chuẩn và thông lệ
quốc t, mà còn phải duy trì được dư luận và tâm lý xã hội chung thuận lợi và
ủng hộ các nhà đầu tư nước ngoài. Bất kỳ sự ổn định chính trị nào, các xung
đột khu vực, nội chiến hay sự hoài nghi, tẩy chay, thiếu thiện cảm và “gây
khó dễ” của giới lãnh đạo và nhân dân đối với vốn đầu tư nước ngoài đều là
những nhân tố nhạy cảm tác động tiêu cực đến tâm lý và hành động thực tế
của các chủ đầu tư nước ngoài, cũng như làm chậm lại các cải cách chính
sách cần thiết đối với việc thu hút FDI của nước chủ nhà.
Hệ thống pháp luật đầu tư của nước sở tại phải đảm bảo sự an toàn về
vốn và cuộc sống cá nhân cho nhà đầu tư khi hoạt động đầu tư của không làm
phương hại đến an ninh quốc gia, bảo đảm pháp lý đối với tài sản tư nhânvà
môi trường cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo việc di chuyên lợi nhuận về nước
cho các nhà đầu tư được dễ dàng, thuận lợi nhât cho hoạt động đầu tư trực
tiếp của nước ngoài. Nội dung của hệ thống pháp luật càng đồng bộ, chặt chẽ
tiên tiến, cởi mở, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế thì khả năng hấp
dẫn FDI càng cao.
2. Sự mềm dẻo, hấp dẫn của hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư
nước ngoài.
Chính sách thương mại cần thông thoáng theo chiều hướng tự do hoá để
đảm bảo khả năng xuất nhâp khẩu các máy móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất,
cũng như sản phẩm, tức bảo đảm sự thuận lợi, sự kết nối liên tục các công
đoạn hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài.
Chính sách tiền tệ phải giải quyết được vấn đề chống lạm phát và ổn
định tiền tệ. Chính sách lãi suất và tỷ giá tác động trực tiếp đến dòng chảy của
29. Luận Văn Tốt Nghiệp
FDI với tư cách là những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức lợi nhuận
thu được tại một thị trường xác định. Việc xem xét sự vận động của vốn nước
ngoài ở các nước trên thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư dài hạn, nhất là FDI
đổ vào một nước thường tỷ lệ thuận với sự gia tăng lòng tin của các chủ đầu
tư,đồng thời lại tỷ lệ nghịch với sự chênh lệch lãi suất trong – ngoài nước,
trong – ngoài khu vực. Nếu độ chênh lệch lãi suất đó càng cao , tư bản nước
ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu cho vay ngắn hạn, ít chịu rủi ro và hưởng lãi
ngay trên chỉ số chênh lệch lãi suất đó. Hơn nữa, khi mức lãi suất trong nước
coa hơn mức lãi suất quốc tế, thì sức hút với dòng vốn chảy vào càng mạnh.
Tuy nhiên, đồng nghĩa với lãi suất cao là chi phí trong đầu tư cao, làm giảm
đi lợi nhuận của cá nhà đầu tư. Một tỷ gia hối đoái linh hoạt phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế ở từng giai đoạnthì khả năng thu lợi nhuận từ xuất
khẩu càng lớn, sức hấp dẫn với vốn nước ngoài càng lớn. Một nước có mức
tăng trưởng xuất khẩu cao sẽ làm yên lòng cá nhà đầu tư vì khả năng trả nợ
của nước đó được đảm bảo hơn, độ mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm xuống.
Các mức ưu đãi tài chính tiền tệ dành cho vốn đầu tư nước ngoài trước
hết phải bảo đảm cho các chủ đầu tư tìm kiêms được lợi nhuận cao nhất trong
điều kiện kinh doanh chung của khu vực, của mỗi nước để khuyến khích họ
đầu tư vào trong nước và vào những nơi mà Chính phủ muốn khuyến khích
đầu tư.
Những ưu đãi về thuế chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong số các ưu
đãi tài chính giành cho đầu tư nước ngoài. Mức ưu đãi thuế cao hơn luôn
được giành cho cá dự án đầu tư có tỷ lệ vốn nước ngoài cao , quy mô lớn dài
hạn, hướng về thị trường nước ngoài, sử dụng nhiều nguyên vật liệu,và lao
động trong nước, tái đầu tư lợi nhuận và có mức độ “nội địa hoá” sản phẩm
và công nghệ cao hơn.
30. Luận Văn Tốt Nghiệp
Hệ thống thuế thi hành sẽ càng hiệu quả nếu càng rõ ràng, đơn giản dễ áp
dụng và mức thuế không được quá cao (so với lãi suất, lợi nhuận bình quân,
so với mức thuế chung của khu vực và quốc tế…). Các thủ tục thuế, cũng như
cá thủ quản lý đầu tư nước ngoài khác, phải được tinh giản hợp lý, tránh vòng
vèo nhiều khâu trung gian, phải công khai và thuận lợi chođối tượng chịu
quản lý và nộp thuế. Tự do hoá đầu tư càng cao càng thu hút được nhiều vốn
nước ngoài.
Sự hỗ trợ tín dụng, cùng với các dịch vụ tài chính, bảo lãnh của chính
phủ, của các cơ quan tín dụng xuất khẩu và của các tổ chức tài chính đa
phương như WB đã, đang và sẽ đóng vai trò to lớn làm tăng dòng vốn nước
ngoài, nhất là FDI tư nhân vào các nước và khu vực, đặc biệt vào lĩnh vực hạ
tầng cơ sở. Như vậy, một khi cá rủi ro giảm xuống, tỷ lệ lợi nhuận tăng lên ,
thì các luồng vốn nước ngoài sẽ đổ vao nhiều và ổn định ngay cả khi tốc độ
tăng trưởng chung của nước đó có chậm lại. Ngược lại, tư bản nước ngoài sẽ
thận trọng hơn, thậm chí bỏ chạy nếu nước tiếp nhận đầu tư có “độ tin cậy
thấp về tín dụng”. Khi đó, dù những ưu đãi tài chính rất cao được đưa ra cũng
khó hấp dẫn được các nhà đầu tư nước ngoài vốn năng động, thận trọng, luôn
mong muốn và thường có nhiều cơ hội lựa chọn thị trường đầu tư như ý trên
toàn thế giới.
3. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng.
Ngoại trừ đối với cá nhà đầu tư nước ngoài chuyên kinh doanh trong lĩnh
vực hạ tầng, còn sự phát triển của cơ sở hạ tầng kỹ thuật của một quốc gia và
một địa phương tiếp nhận FDI luôn là điều kiện vật chất hàng đầu để các nhà
đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai trên thực tế
các dự án đầu tư đã cam kết .Một tổng thể hạ tầng phát triển phải bao gồm hệ
thóng giao thông vận tải đường bộ hiện đại với các cầu cảng , đường sá, kho
bãi và các phương tiện vận tải đủ sức bao phủ quốc gia và đủ tầm hoạt động
31. Luận Văn Tốt Nghiệp
quốc tế, một hệ thống bưu điện thông tin liên lạc viễn thông với các phương
tiện nghe nhìn hiện đại, hệ thống điện nước dồi dào và phân bổ tiện lợi cho
các hoạt động sản xuất kinh doanh… phát triển rộng khắp và có chất lượng
cao. Tóm lại, hệ thống cơ sở hạ tầng là một trong những nhân tố quan trọng
trong việc thu hút đầu tư. Một quốc gia có hệ thống cơ sở hạ tầng tốt sẽ có
khả năng thu hút các nhà đầu tư hơn. Vì vậy, mỗi quốc gia cần phải chú ý đến
việc phát triển cơ sở hạ tầng.
4. Sự phát triển của đội ngũ lao động, của trình độ khoa học – công nghệ
và hệ thống doanh nghiệp trong nước và trên địa bàn.
Đội ngũ nhân lực có kỹ thuật cao là điều kiện hàng đầu để một nước vượt
qua được những hạn chế về tài nguyên thiên và trở nên hấp dẫn các nhà đầu
tư nước ngoài. Việc thiếu nguồn nhân lực có kỹ thuật lành nghề , các nhà lãnh
đạo, quản lý cao cấp, các nhàdoanh nghiệp tài ba và sự lạc hậu về trình đọ
khoa học công nghệ trong nước sẽ khó lòng đáp ứng được yêu cầu của nhà
đầu tư để triển khai các dự án của họ, làm chậm và thu hẹp lại dòng vốn nước
ngoài chảy vào trong nước và địa phương.
Một hệ thống doanh nghiệp trong nước phát triển, đủ sức hấp thu công
nghệ chuyển giao, và là đối tác ngày càng bình đẳng với các nhà đầu tư nước
ngoài, là điều kiện cần thiết để nước tiếp nhận đầu tư có thể thu hút được
nhiều hơnvà hiệu quả hơn luồng vốn nước ngoài.
5. Sự phát triển của nền hành chính quốc giavà hiệu quả cuủa các dự án
FDI đã triển khai.
Lực cản lớn nhất làm nản lòng các nhà đầu tư là thủ tục hành chính rườm
rà, phiền phức gây tốn kém về thời gian và chi phí, làm mất cơ hội đầu tư. Bộ
máy hành chính hiệu quả quyết định sự thành công không chỉ thu hút vốn
nước ngoài mà còn của toàn bộ quá trình huy động, sử dụng vốn cho đầu tư
32. Luận Văn Tốt Nghiệp
phát triển của mỗi quốc gia. Bộ máy đó phải thống nhất, gọn nhẹ, sáng suốt
và nhạy bén về chính sách, với những thủ tục hành chính, những quy định
pháp lý có tính chất tối thiểu, đơn giản, công khai và nhất quán, được thực
hiện bởi những con người có trình độ chuyên môn cao, được giáo dục tốt và
có kỷ luật, tôn trọng pháp luật.
Vì mục tiêu của FDI là nhằm thu lợi nhuận cao, do vậy, nếu các dự án FDI
đã được triển khai đạt kết quả tỷ suất lợi nhuận cao sẽ khuyến kính và củng
cố niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục đầu tư để tái sản xuất mở
rộng, đồng thời nêu gương có sức thuyết phục các nhà đầu tư nước ngoài
khác yên tâm bỏ vốn. Điều này sẽ giúp cho nguồn vốn FDI tiếp tục tăng.
Ngược lại, nếu các dự án đang triển khai kinh doanh không hiệu quả, thường
xuyên thua lỗ sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư, vì họ cho rằng môi trường đầu
tư đã có rủi ro.
Tóm lại, FDI đã, đang và sẽ tìm đến quốc gia có nền kinh tế – chính trị
– xã hội ổn định; hệ thốnh pháp luật đầu tư đầy đủ, cởi mở, tin cậy và mang
tính chuẩn mực quốc tế cao; chính sách ưu đãi đầu tư linh hoạt và ở mức hấp
dẫn, khong thua kém các nước khác; có cơ sở hạ tầng dược chuẩn bị tốt; lao
động có trình độ và rẻ; thị trường tiêu thụ lớn; nền hành chính hữu hiệu và
các dự án đã triển khai kinh doanh đạt hiệu quả. Đặc biệt, việc quốc gia đó
tham gia voà các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế, cũng như tuân thủ
nghiêm túc các công ước quy định về luật pháp đầu tư và thông lệ đối xử
quốc tế… sẽ là những yếu tố đảm bảo lòng tin và hấp dẫn các dòng FDI thậm
chí còn mạnh mẽ hơn việc đưa ra các ưu đãi tài chính cao… nghĩa là dòng
FDI chỉ ưa tìm đế những nơi an toàn, đồng vốn được sủ dụng có hiệu quả,
quay vòng nhanh và ít rủi ro.
33. Luận Văn Tốt Nghiệp
Chương II:
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA NHẬT BẢN VÀO CÁC
NƯỚC ASEAN TRONG THỜI GIAN QUA.
I.Thực trạng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước ASEAN trong
thời gian qua.
Lợi ích kinh tế của Nhật Bản ở khu vực Đông Nam á luôn gắn chặt
với các khoản đầu tư của Nhật Bản đối với khu vực này. Do vậy, ngay từ
những năm 50, cùng với việc thực hiện “chính sách ngoại giao kinh tế”,
Nhật Bản đã tiến hành đầu tư vào khu vực Đông Nam á. Tuy nhiên sự nguy
34. Luận Văn Tốt Nghiệp
kỵ của các nước trong khu vực Đông Nam á đối với Nhật Bản thời gian này
cùng với hạn chế về năng lực tài chính khi đó và nhu cầu đầu tư bên trong
đang gia tăng mạnh mẽ đã hạn chế đầu tư của Nhật Bản đổ vào đây. Phải
đến đầu thập kỷ 70, FDI của Nhật Bản vào khu vực Đông Nam á mới bắt
đầu gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt trong giai đoạn sau năm 1985 đã được coi là
“ giai đoạn bùng nổ đầu tư của Nhật Bản vào ASEAN”.
Bước sang thập kỷ 90, tình hình khu vực có nhiều biến đổi đã tác động
mạnh mẽ tới dòng FDI của Nhật Bản vào ASEAN. Sau đây sẽ đi sâu vào
nghiên cứu tìm hiểu sự biến động của FDI của Nhật Bản vào ASEAN.
1. Số lượng vốn đầu tư:
Trên thực tế nửa đầu thập kỷ 90, khối lượng đầu tư trực tiếp của Nhật
Bản vào các nước ASEAN tiếp tục có sự gia tăng mạnh mẽ (bảng 4 và dồ thị
1).Từ năm 1990 đến năm 1993 FDI của Nhật Bản vào các nước này tăng từ
7,8% đến 11,33%. Đến năm 1994, tổng số vốn đầu tư này đã lên tới 5,13 tỷ
USD. con số này tương đương với 12,5% tổng đầu tư ra nước ngoài của
Nhật Bản và 54% đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại châu á. Có tình trạng này
là do sau thoả thuận Plaza, đồng yên lên giá mạnh so với đồng đô la Mỹ và
các đồng tiền ASEAN, dẫn đến các sản phẩm xuất khẩu ra nước ngoài một
mặt bị mất tính cạnh tranh trên thị trường, mặt khác vì đã được tính bằng đô
la nên tiền thu về khi đổi sang đồng yên bị giảm đi rất nhiều gaay ảnh hưởng
nghiêm trọng đến kinh doanh của các công ty trong nước, đặc biệt là các
công ty vừa và nhỏ. Điều này làm gia tăng xu hướng chuyển dịch các cơ sở
sản xuất sang các nước châu á láng giềng, nơi có chi phí sản xuất thấp hơn
rất nhiều so với ở Nhật Bản. Kết quả là dòng đầu tư của Nhật Bản vào
ASEAN ngày một tăng lên.
Bảng 4: Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào ASEAN nửa đầu thập kỷ 90
Đơn vị: triệu USD
35. Luận Văn Tốt Nghiệp
Năm ASEAN % thay đổi
1990 4.082 +7,8
1991 3.696 +8,8
1992 3.867 +11,33
1993 3.042 +7,9
1994 4.942 +10,4
1995 5.263 +11,2
Nguồn: “Báo cáo về đầu tư trực tiếp nước ngoài”, Bộ tài
chính Nhật Bản
Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á, số
5(2001)
Biểu đồ1: Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào ASEAN nửa đầu thập kỷ 90
(Số liệu được lấy từ bảng 4)
Về mặt thời gian, FDI của Nhật Bản vào ASEAN chậm hơn so với các
nước có nguồn đầu tư truyền thống là Anh, Mỹ, nhưng đến giai đoạn này có
thể thấy rằng đầu tư của Nhật Bản đã hoàn toàn chiếm thị phần chắc
chẳntong khu vực và gạt Anh, Mỹ, ra khỏi vị trí nhà đầu tư hàng đầu trong
các nước ASEAN. Bên cạnh việc đầu tư vào ASEAN, trong giai đoạn này cơ
cấu đầu tư của Nhật Bản vào từng nước đã có sự thay đổi. Trước đây, hai
nước Thái Lan và Malaixia chiếm tỷ trong cao nhất trong tổng FDI của Nhật
Bản vào ASEAN thì nay Inđônêxia chiếm tỷ lệ cao nhất, sau đó đến Thái
Lan và Singapo chúng ta có thể thấy rõ điều này trong bảng 5:
36. Luận Văn Tốt Nghiệp
Bảng 5: FDI của Nhật Bản vào các nước thành viên ASEAN trong
nửa đầu thập kỷ 90
Đơn vị: triệu USD
Năm
Nước
1990 1991 1992 1993 1994 1995
Inđônêxia 1.105 1.193 1.676 813 1.759 1.596
Singapo 840 613 670 644 1.054 1.152
Malaixia 725 880 704 800 742 573
Philippin 258 203 160 207 668 718
Thái Lan 1.154 807 657 578 719 1.224
Nguồn: “ Báo cáo về đầu tư trực tiếp nước ngoài”, Bộ tài chính Nhật Bản
Nếu như trong năm 1990 FDI của Nhật Bản ở Inđônêxia là 1.105 triệu
USD thì đến năm 1992 đã tăng lên 1.676 triệu USD, chiếm 4,9% tổng FDI
của Nhật Bản trên toàn thế giới. Ở Thái Lan FDI của Nhật Bản có chiều
hướng giảm, từ 1154 triệu USD năm 1990 xuống 658 triệu USD năm 1992.
Mặc dù vậy, đây vẫn là địa chỉ có khối lượng FDI của Nhật Bản lớn nhất
trong khu vực. Còn ở Malaixia và Singapo lượng FDI của Nhật Bản có tăng
lên nhưng tốc độ tăng từ từ. Nước có FDI của Nhật Bản thấp nhất trong các
nước ASEAN là Philippin.
Sang nửa sau thập kỷ 90, khi ASEAN hoàn thành ý tưởng về một tổ chức
ASEAN 10 với việc kết nạp thêm các nước Đông Nam á còn lại cơ cấu FDI
của Nhật Bản vào ASEAN lại có sự thay đổi, dần dần mở rộng sang các
nước thành viên mới, đặc biệt là Việt Nam.
Bảng 6: FDI của Nhật Bản vào ASEAN nửa sau thập kỷ 90
Đơn vị: 100 triệu yên
Năm
Nước
1996 1997 1998 1999
Số dự
án
Tị
giá
Số dự
án
Tị
giá
Số
dự án
Tị
giá
Số
dự
án
Tị
giá
Thái Lan 196 1581 154 2291 72 1755 72 910
Inđônêxia 160 2720 170 3085 62 1378 57 1024
Malaixia 69 644 82 971 32 658 44 586
37. Luận Văn Tốt Nghiệp
Philippin 75 630 64 642 45 485 31 688
Singapo 102 1256 96 2238 58 815 49 1073
Việt Nam 65 359 45 381 12 65 17 110
Myanma - - 2 5 1 3 2 11
Brunei - - - - - - 1 2
(Số liệu của Myanma và Brunei chỉ có trong thống kê từ năm 1997 trở đi)
Nguồn: JETRO
Thực tế thì từ năm 1989 FDI ở Nhật Bản đã có mặt tại Việt Nam
nhưng khối lượng còn rất hạn hẹp. Năm 1993 lượng đầu tư của Nhật Bản
mới chỉ đứng hàng thứ 5 với khoảng 525 triệu USD và chủ yếu vào ngành
đầu khí. Những năm tiệp đó khối lượng đầu tư tăng dần. Đến năm 1995 Nhật
Bản đã trở thành nhà đầu tư lớn thứ 3 ở Việt Nam ( sau Đài Loan và Hồng
Kông) với 109 dự án đầu tư của hầu hết các tổ hợp công nghiệp hàng đầu
Nhật Bản và tổng số vốn lên tới 1,598 tỷ USD. Từ năm 1996trở lại đây, mặc
dù FDI của Nhật Bản vào Việt Nam có sự giảm sút nhưng đây vẫn là một
trong những địa điểm được các nhà đầu tư Nhật Bản coi trọng. Các nước
thành viên khác như Myanma và Brunei cũng bắt đầu nhận được FDI của
Nhật Bản nhưng số lượng còn rất ít. Riêng Lào và Campuchia do là hai thị
trường nhỏ, dân số ít và sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa (thêm vào đó
Campuchia còn có bất ổn về chính trị ) nên FDI cảu Nhật Bản vào đây vô
cùng nhỏ. Ở Campuchia, khoản đầu tư đầu tiên của Nhật Bản vào đây là
công ty buôn bán gỗ Okada . Co. Công ty này đã thành lập tại Phnômpênh
một xí nghiệp sản xuất ván sàn từ gỗ thông với số vốn là 5,5 triệu USD. Còn
ở Lào, đã có 5 công ty thiết lập văn phòng tại Viêng Chăn nhưng chỉ hoạt
động như cơ quan của chương trình viện trợ.
Tuy nhiên, trong thời gian sau này nhìn chung FDI của Nhật Bản bắt
đầu giảm mạnh. Điều này thể hiện rõ nhất trong hai năm 1997 và 1998 (bảng
7)
Bảng 7: Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước ASEAN giảm
mạnh trong hai năm 1997 và 1998
38. Luận Văn Tốt Nghiệp
Đơn vị: 100 triệu yên
Năm
Nước
1997 1998 % thay đổi
Thái Lan 2291 1755 -30,5
Malaixia 971 658 -32,2
Inđônêxia 3085 1378 -55,3
Philippin 642 485 -24,5
Singapo 2238 815 -63,5
Nguồn: ASEAN FDI Database: Data compiled from Ministry of Finland, Japan
Trích: Statistics of foreign direct investment in ASEAN (Enhanced data
set); 2001
Nhìn vào bảng 7 ta thấy FDI của Nhật Bản trong năm 1998 đã giảm
mạnh trong các nước ASEAN. Năm 1998 FDI của Nhật Bản tại Thái Lan đã
giảm 30,5% so với năm 1997, ở Malaixia giảm 32,2% so với năm 1997.
Trong khi đó, ở hai nước Inđônêxia và Singapo FDI của Nhật Bản giảm
mạnh nhất. Đối với Inđônêxia FDI của Nhật Bản trong năm 1998 giảm
55,3% so với năm 1997 và 63,5% là con số giảm của Singapo. Nước có FDI
của Nhật Bản giảm ít nhất trong giai đoạn này là Philippin chỉ giảm có
24,5%. Tuy nhiên, về con số tuyệt đối thì Philippin lại là thấp nhất.
Nguyên nhân chủ yếu làm cho FDIcủa Nhật Bản giảm mạnh trong hai
năm 1997 và năm 1998 là do sự mất giá nghiêm trong của đồng yên và
những bất ổn xung quanh nền kinh tế Nhật Bản. Vốn dĩ là nước ưa thích đầu
tư trong nước, việc đồng yên giảm giá mạnh đã kích thích các nhà đầu tư
quan tâm hơn đến lợi ích thị trường trong nước và giảm lượng đầu tư ra bên
ngoài. Đầu tư của Nhật Bản vào ASEAN do vậy mà bị giảm đi nhiều. Ngoài
ra, tình hình kinh tế bất ổn định của các nước trong khu vực do tác động của
cuộc khủng hoảng và bạo loạn chính trị xảy ra trong một số nước ASEAN
(Inđônêxia và Philippin ) cũng là một trong những nhân tố làm giảm lưoựng
FDI của Nhật Bản vào đây. Bởi vì trong bối cảnh đó các nhà đầu tư Nhật
39. Luận Văn Tốt Nghiệp
Bản đều e ngại và có xu hướng chuyển vốn đầu tư vào các khu vực khác an
toàn hơn như châu Mỹ La Tinh, ẤN Độ…
Một trong những đặc điểm đầu tư của Nhật Bản ở ASEAN trong những
năm 90 là dựa trên các dịch vụ đầu tư có quy mô vưà và nhỏ. Nguyên nhân
là do sức ép của sự tăng giá đồng yên làm cho các công ty loại vừa và nhỏ
không thể đứng vững nổi buộc phải chuyển các cơ sở sản xuất ra nước
ngoài. Mặt khác, với quy mô vừa và nhỏ, các công ty có thể năng động trong
kinh doanh, thu hồi vốn nhanh, cũng như chuyển hướng sản xuất kịp thời
theo sự biến động của thị trường.
Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào ASEAN đang dần được phục hồi trong
những năm sau này. Tuy nhiên, mức độ đầu tư của Nhật Bản vào khu vực
còn rất thấp so với thời kỳ 1995 – 1996.Đầu tư của Nhật Bản dần được phục
hồi, tuy nhiên, mức độ phục hồi còn châm và không đồng đều giữa các
nước. Có nước thì FDI của Nhật Bản tăng hơn so với năm trước nhưng có
nước thì FDI lại giảm đi so với năm trưóc. Điều này được thể hiện trong
bảng dưới đây:
40. Luận Văn Tốt Nghiệp
Bảng 8: FDI của Nhật Bản đang dần được phục hồi
Đơn vị:100 triệu yên
Năm
Nước
1999 2000
Thái Lan 910 1029
Malaixia 586 256
Inđônêxia 1024 457
Philippin 688 506
Singapo 1073 468
Nguồn: ( Như bảng 7)
Nhìn vào bảng 8 ta thấy FDI của Nhật Bản dần được phục hồi ở một số
nước, điều này được thấy ró nhất ở Singapo. Năm 1999 FDI của Nhật Bản
vào nước này là 107,3 tỷ yên trong khi đó năm 1998 FDI của Nhật Bản ở
nước này là 81,5 tỷ yên vậy mức tăng tương đối trong năm 1999 so với năm
1998 là 31,6%. Năm 1999 FDI của Nhật Bản ở Philippin cũng tăng đạt giá
trị là 68,8 tỷ yên tăng hơn so với năm 1998 là 44,3% trong khi đó năm 1998
là 48,5 tỷ yên. Nhìn chung FDI trong năm này vẫn giảm ở các nước khác,
nhưng tốc độ giảm là không mạnh lắm.Tuy nhiên, đến năm 2000 chỉ có Thái
Lan là thu hút được nhiều FDI của Nhật Bản và tăng so với năm trước còn
các nước khác FDI của Nhật Bản lại giảm mạnh. Năm 2000 FDI của Nhật
Bản tại Thái Lan là 102,9 tỷ yên so với năm 1999 tăng khoảng 13,1%, năm
1999 FDI của Nhật Bản tại Thái Lan là 91 tỷ yên. Đặc biệt trong năm 2000
FDI của Nhật Bản tại các nước Singapo, Malaixia và Inđônêxia giảm rất
mạnh. Ở Singapo năm 2000 FDI của Nhật Bản giảm khoảng 56,4% so với
năm 1999, Malaixia giảm khoảng 56,3% còn ở Inđônêxia giảm khoảng
55,4% so với năm 1999. FDI của Nhật Bản dần dần được hồi phục trong
những năm gần đây. Tuy nhiên, năm 2000 FDI lại giảm mạnh một cách đột
ngột đó có thể là do nền kinh tế thế giới nói chung đều bị suy giảm, khiến
cho các nhà đầu tư lo sợ và tìm đến giả pháp an toàn là rút vốn đầu tư về
nước. Nền kinh tế thế giới suy giảm đã ảnh hưởng rất lớn đến nguồn vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài và những nước chịu ảnh hưởng lớn nhất đó là những
nước có nề kinh tế phát triển điều này có thể lý giải taị sao FDI của Nhật
41. Luận Văn Tốt Nghiệp
Bản vào các nước có nền kinh tế phát triển nhất khu vực Đông Nam Á lại
giảm mạnh hơn so với các nước có nền kinh tế kém phát triển.
Tóm lại, FDI của Nhật Bản vào các nước ASEAN trong thời gian vừa
qua đã tăng lên một cách nhanh chóng, FDI của Nhật Bản đã đóng góp rất
lớn vào sự tăng trưởng nền kinh tế của các nước ASEAN. trong một số năm
gần đây FDI của Nhật Bản giảm nguyên nhân là do sự suy giảm nói chung
của nền kinh tế thế giới và sự mất giá của đồng yên. Chúng ta hoàn toàn có
thể hy vọng vào triển vọng của FDI của Nhật Bản vào các nước ASEAN sẽ
tiến triển tốt đẹp hơn, với các chính sách khuyến khích đầu tư của các nước
ASEAN và sự phục hồi nền kinh tế Nhật Bản hy vọng rằng FDI nói chung
và của Nhật Bản nói riêng sẽ ngay càng ra tăng mạnh mẽ ở các nước
ASEAN trong đó có Việt Nam.
2. Cơ cấu FDI của Nhật Bản theo ngành ở các nước ASEAN
FDI của Nhật Bản vào các nước ASEAN tập trung vào hai lĩnh vực chủ
yếu đó là: lĩnh vực chế tạo (gồm những ngành sản xuất vật chất) và phi chế
tạo ( gồm những ngành dịch vụ, xây dựng và khai khoáng). trong hai lĩnh vực
nêu trên, FDI của Nhật Bản vào lĩnh vực chế tạo ở ASEAN có tỷ lệ cao hơn
so với FDI vào lĩnh vực phi chế tạo.Bảng sau cho chúng ta thấy FDI của Nhật
Bản vào ngành chế tạo là rất lớn.
Bảng 9: Cơ cấu FDI của Nhật Bản trong những năm gần đây
Đơn vị: %
Năm Khu vực FDI (%) Ngành chế
tạo (%)
Chế
tạo/TổngFDI
(%)
1995 ASEAN 10,3 16,0 75,0
Thế giới 89,7 84,0 36,7
1997 ASEAN 14 22,0 67,5
Thế giới 86 88,0 35,8
1998 ASEAN 9,7 17,7 54,0
Thế giới 92,3 92,3 30,0
1999 ASEAN 5,8 5,70 60,9
Thế giới 94,2 94,3 63,4
42. Luận Văn Tốt Nghiệp
Nguồn: được trích ra từ Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 5
(2001)
Biểu đồ 2: Cơ cấu FDI vào ngành chế tạo trong tổng số vốn của Nhật Bản tại
các nước ASEAN
Đơn vị: (%)
Nguồn: (Số liệu được lấy từ bảng 9)
Đầu tư của Nhật Bản vào ngành chế tạo ở các nước ASEAN ngày một
gia tăng theo các năm. Năm 1995 FDI của Nhật Bản vào các nước ASEAN
chiếm 10,3% trong tổng số FDI của Nhật Bản trên thế giới thì đầu tư vào
ngành chế tạo của Nhật Bản ở các nước ASEAN chiếm 16% toàn thế giới là
84%, và số vốn đầu tư của Nhật Bản vào các nước ASEAN vào ngành chế
tạo chiếm 75% trong tổng số vốn mà Nhật Bản đầu tư vào các nước
ASEAN, năm 1997 số vốn đầu tư của Nhật Bản vào các nước ASEAN
chiếm 14% trong tổng vốn đầu tư của Nhật Bản trên toàn thế giới và ngành
chế tạo chiếm 22% trên toàn thế giới, trong khi đó ngành chế tạo ở các nước
ASEAN được Nhật Bản đầu tư vào chiếm 67,5% trong tổng số vốn mà Nhật
Bản đầu tư vào ASEAN và thế giới là 35,8%. Năm 1999 FDI của Nhật Bản
vào ngành chế tạo ở các nước ASEAN chiếm 60,9 trong tổng số vốn Nhật
Bản đầu tư vào các nước ASEAN. Những con số này cao hơn rất nhiều so
với tỷ lệ bình quân FDI của Nhật Bản vào lĩnh vực chế tạo tại các khu vực
khác trên thế giới.
43. Luận Văn Tốt Nghiệp
Chế tạo là một lĩnh vực đòi hỏi phải sử dụng nhiều lao động. Còn các
nước ASEAN lại có nguồn lao động dồi dào. Bên cạnh đó, giá nhân công
bình quân tại khu vực này thấp hơn nhiều so với giá nhân công tại Nhật Bản
cũng như tại các địa bàn đầu tư truyền thống của Nhật Bản là Bắc Mỳ và
Tây Âu. Đầu tư vào lĩnh vực chế tạo tại ASEAN đã có những tác động tích
cực trong việc giải quyết vấn đề thiếu lao động ở Nhật Bản từ sau giai đoạn
“ phát triển thần kỳ”. Do vậy, ở ASEAN, FDI của Nhật Bản vào lĩnh vực
chế tạo có tỷ lệ cao hơn FDI vào lĩnh vực phi chế tạo là một điều hoàn tòan
dễ giải thích.
Trong lĩnh vực chế tạo, bốn ngành công nghiệp điện tử, thiết bị vân tải
(chủ yếu là công nghiệp sản xuất ô tô ), hoá chất và luyện kim là những
ngành Nhật Bản thường đầu tư với một tỷ lệ vốn lớn hơn cả.Chúng ta có thể
thấy rõ điều này qua bảng sau:
Bảng 10a: Đầu tư của Nhật Bản vào ngành chế tạo ở các nước ASEAN
giai đoạn 1990 - 1995
Đơn vị: 100 triệu yên
Ngành
1990 1991 1992 1993 1994 1995
dự
án
Trị
giá
dự án Trị
giá
dự
án
Trị
giá
dự
án
Trị
giá
dự án Trị giá dự án Trị
giá
Thực phẩm
và đồ uống 37 100 32 160 17 37 27 49 18 104 11 58
Dệt
may
80 374 85 186 51 121 39 62 49 158 61 213
Gỗ và bột
giấy
45 105 19 42 18 50 12 43 14 48 7 32
Hoá
chất
52 654 32 638 35 1125 17 109 31 797 37 397
Luyện kim 56 206 44 275 46 252 29 159 30 262 64 530
Máy
móc
34 237 34 194 17 153 27 190 12 215 37 222
Điện
tử
86 940 68 899 49 372 40 435 60 680 108 1185
Phương
tiện vận tải 26 470 13 183 8 67 21 123 35 157 55 374
Ngành
khác
87 280 89 332 47 334 67 562 42 394 70 612
Tổng 503 3368 416 2908 288 2511 279 1913 291 2815 450 3623
44. Luận Văn Tốt Nghiệp
Nguồn: ASEAN FDI Database: Data compiled from the Mnistry of Finance, Japan
Trích từ:Statistics of foreign direct investment in ASEAN (Enhanced
data set), 2001
Qua bảng trên chúng ta thấy rằng, FDI của Nhật Bản vào ngành điện tử
là lớn nhất trong các năm từ 1990 – 1995. Năm 1990 FDI của Nhật Bản vào
ngành điện tử với 86 dự án đạt số vốn đầu tư là 94 tỷ yên chiếm khoảng
27,9% tổng số vốn đầu tư của Nhật Bản vào ngành chế tạo. Tuy nhiên, FDI
của Nhật Bản vào ngành này lại bắt đầu giảm từ năm 1991 – 1995 nhưng đó
là sự giảm chung cho tất cả các ngành, FDI vào ngành điện tử vẫn dẫn đầu
trong các ngành chế tạo mà Nhật Bản đầu tư vào. Năm 1991 FDI vào ngành
điện tử đạt giá trị là 89,9 tỷ yên với số dự án là 68 nhưng lại chiếm đến
khoảng 30,9% trong tổng số vốn FDI mà Nhật Bản đầu tư vào ngành chế
tạo. Năm 1992 FDI của Nhật Bản vào ngành điện tử đạt mức thấp nhất trong
giai đoạn 1990 – 1995, con số này chỉ đạt 37,2 tỷ yên với số dự án là 49
chiếm khoảng 14,8% trong tổng số vốn mà Nhật Bản đầu tư vào ngành chế
tạo. Tuy nhiên, FDI của Nhật Bản vào ngành điện tử lại tăng lên trong
những năm tiếp theo. Đặc biệt là năm 1995 FDI của Nhật Bản vào ngành
điện tử đã tăng lên và đạt 118,5 tỷ yên với số dự án là 108 chiếm khoảng
32,7% trong tổng số FDI của Nhật Bản vào ngành chế tạo. Tổng số vốn FDI
mà Nhật Bản đầu tư vào ngành chế tạo ở các nước ASEAN năm 1995 là
362,3 tỷ yên. Ngành chế tạo được Nhật Bản quan tâm đầu tư lớn thứ hai sau
ngành điện tử là ngành hoá chất. Năm 1990 Nhật Bản đầu tư vào ngành hoá
chất với 52 dự án đạt giá trị là 65,4 tỷ yên chiếm khoảng 19,4% trong tổng
số vốn FDI mà Nhật Bản đầu tư vào ngành hoá chất. Năm 1992 trong khi
FDI vào ngành điện tử giảm xuống chỉ còn 37,2 tỷ yên, thì ngành hoá chất
được Nhật Bản đầu tư nhiều nhất với 35 dự án đạt số vốn là 112,5 tỷ yên
chiếm khoảng 44,8% trong tổng vốn đầu tư của Nhật Bản vào ngành hoá
chất. Trong khi đó, ngành điện tử chiếm khoảng 14,8%. Tuy nhiên, ngành
hoá chất lại ít được Nhật Bản quan tâm đầu tư trong những năm tiếp theo,
45. Luận Văn Tốt Nghiệp
năm 1993 Nhật Bản đầu tư vào ngành này với 17 dự án đạt số vốn là 29 tỷ
yên chiếm khoảng 15,2% trong tổng số vốn FDI voà ngành chế tạo. Những
ngành được Nhật Bản quan tâm đầu tư tiêp theo là ngành luyện kim, chế tạo
máy móc, thiết bị vận tải, dệt may. Năm 1990, ngành dệt may đầu tưạ số vốn
đầu tư là 37,4 tỷ yên chiếm khoảng 11,1% tổng số vốn đầu tư của Nhật Bản
vào ngành chế tạo, ngành luyện kim chiếm khoảng 6,1% trong tổng vốn đầu
tư vào ngành chế tạo, ngành thiết bị vận tải chiếm khoảng 13,9% trong tổng
vốn đầu tư vào ngành chế tạo.
Tóm lại, trong giai đoạn 1990 – 1995 FDI của Nhật Bản đầu tư vào
ngành chế tạo chủ yếu là ngành điện tử và ngành hoá chất.Trong đó, Nhật
Bản đầu tư vào công nghiệp điện tử chủ yếu để giải quyết vấn đề xung đột
thương mại với Bắc Mỹ và Tây Âu. Những dự án đầu tư vào ngành sản xuất
thiết bị vận tải chủ yếu nhằm chiếm lĩnh thị trường ASEAN, mặt khác đó
còn là một bộ phận của chiến lược “ Hợp lý hoá quá trình sản xuất và thương
mại xuyên biên giới”, nhằm tạo lập mối liên minh kinh tế với các đói tác
mới.
Đối với hai ngành hoá chất và luyện kim, Nhật Bản đầu tư vào ASEAN
nhằm bù đắp cho sự khan hiếm tài nguyên thiên nhiên của nền kinh tế trong
nước. Mặt khác, đây là những ngành công nghiệp có khả năng gây ô nhiễm
môi trường với mức độ cao nhất, việc phát triển chúng ở trong nước bị kiểm
soát ngặt nghèo, do đó việc xử lý chất thải sẽ làm tăng chi phí sản xuất mà
vẫn không thẻ tránh khỏi những tổn hại về môi sinh.
Trong giai đoạn 1996 – 2000 FDI của Nhật Bản vào ngành chế tạo có
sự biến đổ rất lớn, chúng ta có thể thấy điều này qua bảng sau:
Bảng 10b: Đầu tư của Nhật Bản vào ngành chế tạo ở các nước ASEAN
giai đoạn 1996 - 2000
Đơn vị: 100 triệu yên
Ngành 1996 1997 1998 1999 2000
46. Luận Văn Tốt Nghiệp
dự
án
trị
giá
dự
án
trị
giá
dự
án
trị
giá
dự
án
trị
giá
dự
án
trị
giá
Thực
phẩm và
đồ uống
11 84 14 52 3 23 13 282 8 20
Dệt
may
43 148 34 209 7 200 3 20 1 86
Gỗ và bột
giấy
25 209 14 123 3 161 9 26 3 20
Hoá
chất
34 797 56 1020 35 452 28 492 13 267
Luyện
kim
85 806 62 576 13 472 22 406 22 245
Máy
móc
33 214 28 251 14 142 22 290 8 80
Điện
tử
90 1081 58 1404 48 526 46 704 52 715
Thiết bị
vận tải
62 468 50 793 33 621 30 335 10 387
Ngành
khác
62 529 67 1150 16 207 13 235 13 156
Tổng 445 4337 383 5578 172 2804 186 2791 130 1976
Nguồn: (như bảng 10a)
Năm 1996 và năm 1997 FDI của Nhật Bản vào ngành điện tử vẫn đạt giá
trị cao. Năm 1996 FDI vào ngành điện tử với số vốn là 108,1 tỷ yên chiếm
khoảng 24,9% trong tổng số vốn mà Nhật Bản đầu tư vào ngành chế tạo,
trong nămnày tổng số vốn đầu tư vào ngành chế tạo là 433,7 tỷ yên. Năm
1997 số vốn đầu tư vào ngành điện tử là 140,4 tỷ yên chiếm khoảng 25,2%
trong tổng số vốn mà Nhật Bản đầu tư vào ngành chế tạo ở các nước
ASEAN, trong năm này Nhật Bản đầu tư vào ngành chế tạo với tổng số vốn
là 557,8 tỷ yên. Tuy nhiên, trong những năm về sau FDI vào ngành điện tử
có xu hướng giảm. Năm 1998 FDI trong ngành này giảm xuống còn 52,6 tỷ
yên chiếm khoảng 18,7% trong tổng só vốn mà Nhật Bản đầu tư vào ngành
chế tạo, cũng trong năm này FDI vào ngành thiết bị giao thông vận tải lại
được Nhật Bản quan tâm và đầu tư nhiều hơn với số vốn đầu tư là 62,1 tỷ
yên chiếm khoảng 22,1% trong tổng vốn đầu tư vào ngành chế tạo. Trong
giai đoạn 1998 – 2000 đầu tư của Nhật Bản vào các nước ASEAN giảm là