Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Các bạn sinh viên vào tải mẫu chuyên đề tốt nghiệp chuyên ngành Tài chính ngân hàng Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Khóa luận Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luậ...Thư viện Tài liệu mẫu
Similar to Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (20)
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI TIẾN TỚI MẶT BẰNG PHÁP LÝ CHUNG CHO ĐẦU
TƯ TRONG NƯỚC VÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện : Vũ Huyền Bảo
Linh
Lớp : Anh 11, K38 D
KTNT
Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS Vũ Chí
Lộc
Hà nội, năm 2003
2. LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận, tôi đã nhận được sự giúp đỡ
của các thầy cô giáo trong Khoa Kinh tế Ngoại thương - Trường Đại học
Ngoại thương Hà nội, đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng
dẫn PGS.TS Vũ Chí Lộc - người đã trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện bản
khóa luận này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với các thầy giáo, cô giáo Khoa Kinh
tế Ngoại thương – Trường Đại học Ngoại thương Hà nội, đã dạy dỗ và giúp
đỡ tôi trong suốt bốn năm học tập; bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến các bạn
cùng lớp đã động viên, khích lệ tôi hoàn thành khóa luận này. Tuy nhiên, do
thời gian và trình độ có hạn, khóa luận này chắc chắn không tránh khỏi một
số thiếu sót.
Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy giáo, cô giáo và các
bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2003.
Sinh viên thực hiện
Vũ Huyền Bảo Linh
3. MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1.1 Sự cần thiết phải điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài bằng pháp luật3
1.2 Khái niệm và đặc trưng cơ bản của pháp luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
1.2.1 Khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài 5
1.2.2 Đặc trưng cơ bản của pháp luật đầu tư nước ngoài 13
1.2.3 Vai trò của pháp Luật Đầu tư nước ngoài 17
CHƯƠNG 2: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG PHÁP
LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
2.1 Giới thiệu về hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài 22
2.2 Sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài qua các giai đoạn
lịch sử.
2.1.1 Giai đoạn thứ nhất (từ năm 1975 đến năm 1987) 28
2.1.2 Giai đoạn thứ hai (từ năm 1987 đến năm 1996) 29
2.1.3 Giai đoạn thứ ba (từ năm 1996 đến nay) 31
2.3 Sự hình thành và phát triển một số chế định pháp lý chủ yếu của pháp luật Đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam
2.3.1 Chủ thể tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài 33
2.3.2 Hình thức đầu tư và phương thức đầu tư 35
2.3.3 Các biện pháp bảo đảm đầu tư 37
2.3.4 Các biện pháp khuyến khích đầu tư 39
2.3.5 Quản lý tài chính và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài
2.3.6 Giải quyết tranh chấp, giải thể, thanh lý, phá sản doanh nghiệp49
2.3.7 Thủ tục đầu tư 50
2.3.8 Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài 51
3
4. 2.4 Đánh giá về sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam
4.1.1 Ưu điểm của pháp luật đầu tư nước ngoài 51
4.1.2 Những hạn chế của pháp luật đầu tư nước ngoài 53
4.1.3 Nguyên nhân của những nhược điểm 55
CHƯƠNG 3: XU HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU
TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam58
3.2 Các nguyên tắc tiếp tục hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
3.3 Giải pháp hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 65
3.3.1 Giải pháp chung về sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài 65
3.3.2 Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài trong từng
vấn đề cụ thể
KẾT LUẬN 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
4
5. LỜI NÓI ĐẦU
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi
mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thắng lợi quan
trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất
nước đã có nhiều khởi sắc, được nhân dân ta và quốc tế đánh giá cao.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu rõ: “Nghiên cứu để tiến tới áp
dụng một khung pháp luật thống nhất chung cho doanh nghiệp trong nước và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tạo mặt bằng pháp lý chung cho cả đầu
tư nước ngoài và đầu tư trong nước là một trong những quy luật khách quan của
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Theo lời của Thủ tướng Phan Văn Khải, thì
“..Cái chính là mặt bằng pháp luật, mặt bằng cơ chế chính sách”. Nếu không có
một “hành lang pháp lý” vững chắc, bảo đảm sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư
nước ngoài và đầu tư trong nước trong mọi quá trình của hoạt động đầu tư từ
khẩu tìm hiểu đầu tư đến khâu thành lập, triển khai, mở rộng hoặc thu hẹp và
chấm dứt dự án đầu tư thì sẽ không theo kịp với tiến trình hội nhập. Có thể nói,
sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước
hiện nay được coi là một trong những hạn chế ảnh hưởng tới tính hấp dẫn, tính
cạnh tranh của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Trong những năm qua, chúng ta có nhiều cố gắng trong việc đưa các quy
định của pháp luật đầu tư nước ngoài và các quy định về đầu tư trong nước xích
lại gần nhau. Một khi còn tồn tại hai hệ thống quy phạm pháp luật riêng điều
chỉnh đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, thì không thể có khái niệm “sân
chơi” bình đẳng cho hoạt động đầu tư trong nước, bất kể đó là đầu tư nước ngoài
hay đầu tư trong nước. Tất nhiên, do hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam chưa
đủ mạnh, nên nếu phải vào cùng một “sân chơi”, trong cùng một “mặt bằng” với
các nhà đầu tư nước ngoài, có tiềm lực kinh tế, giàu kinh nghiệm, có công nghệ,
máy móc thiết bị hiện đại hơn hẳn chúng ta, thì các doanh nghiệp Việt Nam
không thể cạnh tranh nổi. Chính vì vậy, trước mắt vẫn cần phải có hành lang
5
6. pháp lý riêng cho từng loại đối tượng. Nhưng do xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế
đang trở thành vấn đề bức xúc và do yêu cầu của việc hội nhập, các quốc gia
đang dần xoá bỏ sự khác biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Việt
Nam muốn hoà vào xu thế chung đó thì không có cách nào khác là phải từng
bước tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài. Chúng ta phải tính toán để đưa ra những bước đi thích hợp với trình độ,
hoàn cảnh và đặc điểm của Việt Nam. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài “Phương
hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý
chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” hiện nay
mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn đòi hỏi thực tiễn nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
6
7. CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI
VIỆT NAM
Trong đời sống xã hội, pháp luật luôn là một phương tiện quan trọng
không thể thay thế để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tổ chức, quản lý đời sống xã
hội, bảo đảm cho xã hội ổn định, phát triển, phù hợp với những mục đích mà
Nhà nước và xã hội đặt ra. Tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa X đã ban hành Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày
25/12/2001 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, trong đó quy định: "Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân"; Điều 12 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế
XHCN ".
Quản lý kinh tế nói chung, quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
nói riêng, là chức năng cơ bản của Nhà nước ta trong điều kiện cụ thể hiện nay.
Để thực hiện chức năng này, chúng ta phải nhận thức đúng đắn các quy luật kinh tế
– xã hội khách quan, khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước và các
điều kiện quốc tế, xây dựng chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, sử
dụng đồng bộ và hợp lý các công cụ kế hoạch, chính sách và các đòn bẩy kinh tế.
Trong hệ thống các công cụ và biện pháp quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng, được thể hiện ở một số nội dung
sau đây:
Thứ nhất, để điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, Nhà nước có
thể và cần phải sử dụng nhiều công cụ, biện pháp và hình thức khác nhau như
chính sách, kế hoạch đầu tư trực tiếp nước ngoài, đòn bẩy kinh tế, pháp luật đầu tư
7
8. nước ngoài... Tuy nhiên, trong số các công cụ, biện pháp đó, pháp luật đầu tư
nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng, bởi lẽ với những đặc điểm riêng của
mình, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của Nhà
nước một cách nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô toàn xã hội.
Thứ hai, pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nước, luôn luôn gắn liền với
Nhà nước và chỉ Nhà nước mới sử dụng công cụ này. Nhà nước điều chỉnh mọi
quá trình xảy ra trong xã hội và hành vi của con người, trong đó có hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước được
thực hiện bằng một cơ chế thực thi pháp luật và nhờ có quyền lực nhà nước, giai
cấp thống trị thực hiện ý chí của mình, buộc cả xã hội phải tuân theo và phục
tùng bằng cách đề ra pháp luật và thực hiện pháp luật trên thực tế. Nhà nước điều
chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng pháp luật. Do đó chỉ có điều
chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng pháp luật thì quyền lực nhà
nước mới có ý nghĩa và mới đem lại hiệu quả thiết thực.
Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, nên cũng có thể khẳng
định, pháp luật đầu tư nước ngoài ra đời từ nhu cầu bảo vệ lợi ích của nhân dân,
trong đó có lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị.
Thứ ba, sự phát sinh, phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài phụ thuộc
hoàn toàn vào ý chí của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, sau khi pháp luật đầu tư
nước ngoài đã được ban hành, các cơ quan nhà nước phải triệt để tuân thủ trong
quá trình thực hiện chức năng quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây cũng là
một trong những nội dung cơ bản của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam hiện nay.
Thứ tư, trong nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng XHCN, sự tồn tại của pháp luật là một nhu cầu khách quan bắt
nguồn từ những đòi hỏi của các quan hệ kinh tế. Đây là điểm khác biệt so với
thời kỳ quan liêu, bao cấp, vì ở thời kỳ này, sự tồn tại của pháp luật như một nhu
cầu chủ quan bắt nguồn từ những đòi hỏi của Nhà nước, là một phương tiện
8
9. trong tay Nhà nước để kìm hãm, xóa bỏ những quan hệ kinh tế nào đó một cách
duy ý chí.
Đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, pháp luật đầu tư nước
ngoài được hình thành trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của quan hệ đầu tư
trực tiếp nước ngoài, tồn tại như một quan hệ nội tại của sự vận động, phát triển
kinh tế đối ngoại. Pháp luật đầu tư nước ngoài là hệ thống các quy phạm, chuẩn
mực, mà dựa vào đó các nhà đầu tư nước ngoài tìm được "sân chơi", các nhà
quản lý có phương tiện để điều khiển "cuộc chơi". Pháp luật đầu tư nước ngoài là
mực thước để phân định đúng, sai, kiểm nghiệm và điều chỉnh hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài cho phù hợp với nhu cầu xã hội.
Sự điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng pháp luật phải
bảo đảm cho hoạt động này vận động theo đúng những quy luật khách quan,
không thể áp đặt bằng ý chí chủ quan, duy ý chí. Bằng pháp luật, Nhà nước tạo
môi trường và hành lang pháp lý để những nhà đầu tư nước ngoài có thể tự chủ
sản xuất kinh doanh, tự bảo vệ lợi ích của mình, đồng thời không làm tổn hại đến
lợi ích của các chủ thể khác và toàn xã hội.
Thứ năm, trong việc điều chỉnh quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài, pháp
luật quy định cho các bên tham gia một số quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định,
đồng thời thiết lập cơ chế đảm bảo cho các quyền và nghĩa vụ pháp lý đó được
thực hiện. Vì vậy, khi tham gia vào các quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài do
pháp luật điều chỉnh, các chủ thể phải có hành vi phù hợp với các yêu cầu của
pháp luật. Tuy nhiên, việc điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng
pháp luật, không chỉ tác động tới các hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ
đầu tư trực tiếp nước ngoài, mà còn tác động đối với toàn xã hội nói chung.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT ĐẦU
TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1.2.1. Khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài
Để làm sáng tỏ khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài, cần làm rõ khái
9
10. niệm đầu tư, đầu tư nước ngoài, các hình thức, phương thức đầu tư nước ngoài,
đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước
ngoài.
1.2.1.1. Khái niệm đầu tư, đầu tư nước ngoài, hình thức, phương thức đầu
tư nước ngoài
Khái niệm “đầu tư nước ngoài”
Để làm sáng tỏ khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài, trước hết cần làm
rõ khái niệm đầu tư. Theo Đại từ điển tiếng Việt, đầu tư là: "Bỏ vốn vào sản
xuất, kinh doanh để được hưởng phần lời lãi"1
.
Dưới góc độ khoa học, đầu tư (investment) là việc sử dụng vốn vào quá
trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra năng lực sản xuất lớn hơn. Nói cách khác,
đầu tư là việc đưa vốn vào một hoạt động nào đó nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Vốn đầu tư bao gồm tiền và các tài sản khác như động sản, bất động sản, tài sản
hữu hình, tài sản vô hình…
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm đầu tư như sau: đầu tư là việc nhà đầu
tư đưa vốn bằng tiền hoặc tài sản khác để thực hiện các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận.
Về khái niệm đầu tư nước ngoài, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) đã đưa
ra định nghĩa: "đầu tư nước ngoài được hiểu là tất cả những loại giá trị vật chất
mà nhà đầu tư đưa từ nước ký kết này sang nước ký kết hữu quan theo pháp luật
của nước sử dụng đầu tư". Ở khái niệm này, đầu tư nước ngoài được hiểu với
nghĩa rất hẹp chỉ bao gồm các giá trị vật chất, còn các loại tài sản vô hình thì lại
chưa được đề cập đến.
Trong báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 1996: "Đầu tư thương mại và
các thỏa thuận chính sách quốc tế", có đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm
đầu tư trực tiếp nước ngoài: "là một khoản đầu tư liên quan đến các quan hệ dài
hạn và phản ánh một lợi ích lâu dài và sự kiểm soát một thực thể trong một nền
kinh tế (nhà đầu tư nước ngoài hay công ty mẹ) thông qua một doanh nghiệp
1
Xem: Nguyễn Như Ý (chủ biên): Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội, 1998, tr. 610..
10
11. thuộc về một nền kinh tế khác, nền kinh tế của nước có nhà đầu tư trực tiếp nước
ngoài".
Ở nước ta, ngay từ năm 1977, khái niệm đầu tư nước ngoài đã chính thức
được ghi nhận trong Điều lệ Đầu tư của nước ngoài được ban hành kèm theo
Nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977 (sau đây gọi tắt là Điều lệ Đầu tư nước
ngoài năm 1977):
“ Được coi là đầu tư của nước ngoài ở Việt Nam việc đưa vào sử dụng ở
Việt Nam những tài sản và vốn sau đây, nhằm xây dựng những cơ sở mới hoặc
đổi mới trang bị kỹ thuật, mở rộng các cơ sở hiện có:
- Các loại thiết bị, máy móc, dụng cụ (gồm cả những thứ dùng cho việc thí
nghiệm), phương tiện vận tải, vật tư kỹ thuật… cần thiết cho mục đích nói trên;
- Các quyền sở hữu công nghiệp, bằng sáng chế, phát minh, phương pháp
công nghệ, bí mật kỹ thuật (know - how), nhãn hiệu chế tạo…
- Vốn bằng ngoại tệ hoặc vật tư có giá trị ngoại tệ, nếu phía Việt Nam
thấy cần thiết..”
Phân tích khái niệm trên cho thấy, không phải bất cứ sự vận động vốn (tư
bản) nào từ nước ngoài vào Việt Nam đều được coi là đầu tư nước ngoài, mà chỉ
những tài sản và vốn được quy định tại Điều 2 Điều lệ đầu tư nước ngoài, được
đưa vào sử dụng ở Việt Nam mới được coi là đầu tư nước ngoài.
Trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành năm 1987,
khái niệm đầu tư nước ngoài đã được ghi nhận tại khoản 3 Điều 2 như sau: "Đầu
tư nước ngoài là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt
Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt
Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí
nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật
này". Có thể nói, với quy định mới này, khái niệm đầu tư nước ngoài đã được
mở rộng hơn so với khái niệm đầu tư nước ngoài trong Điều lệ đầu tư nước
ngoài năm 1977.
Trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, khái niệm đầu tư được
11
12. hiểu theo một nghĩa rộng hơn: "là mọi hình thức đầu tư trên lãnh thổ của một
Bên do các công dân hoặc công ty của Bên kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hay
gián tiếp, bao gồm các hình thức: một công ty hoặc một doanh nghiệp; cổ phần,
cổ phiếu và các hình thức góp vốn khác, trái phiếu, giấy ghi nợ và các quyền lợi
đối với các khoản nợ dưới các hình thức khác trong công ty; các quyền theo hợp
đồng như quyền theo các hợp đồng chìa khóa trao tay, hợp đồng xây dựng hoặc
hợp đồng quản lý, các hợp đồng sản xuất hoặc hợp đồng phân chia doanh thu,
tô nhượng hoặc các hợp đồng tương tự khác…”.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm đầu tư nước ngoài như sau:
đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư của nước này đưa vốn bằng tiền hoặc tài
sản khác vào nước khác để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm
thu lợi nhuận.
Trong khái niệm này, yếu tố nước ngoài được thể hiện bằng hai dấu hiệu
đặc trưng chính, đó là: có sự tham gia của chủ thể nước ngoài và có sự di chuyển
vốn từ nước này sang nước khác.
Đầu tư nước ngoài được phân làm hai loại: đầu tư trực tiếp nước ngoài và
đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình kinh doanh, trong đó nhà đầu tư
nước ngoài tự bỏ vốn thiết lập ra cơ sở sản xuất, kinh doanh cho riêng mình, tự
đứng ra làm chủ sở hữu, tự quản lý hoặc thuê người quản lý cơ sở này (đầu tư
100% vốn), hoặc hợp tác với một hay nhiều doanh nghiệp của nước sở tại thành
lập một doanh nghiệp liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh, cùng làm
chủ sở hữu, cùng quản lý cơ sở sản xuất, kinh doanh này.
Đầu tư gián tiếp nước ngoài là loại hình đầu tư, trong đó nhà đầu tư nước
ngoài bỏ vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của cơ sở kinh tế, nhưng không
tham gia điều hành cơ sở kinh tế đó.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ là một trong bốn nguồn tài
chính nước ngoài được đưa vào một quốc gia, đó là: 1) Viện trợ phát triển chính
thức (ODA) và phi chính phủ (NGO); 2) Tín dụng thương mại; 3) Tín phiếu, trái
12
13. phiếu, cổ phiếu; 4) Vốn đầu tư trực tiếp.
Bốn nguồn vốn này có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau,
nguồn vốn này là tiền đề để thu hút nguồn vốn khác và tạo điều kiện để trả nợ
nguồn vốn khác. Nếu một quốc gia đang phát triển không nhận được vốn ODA
đủ mức cần thiết để hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, thì khó có thể
thu hút được nguồn vốn FDI và các nguồn vốn tín dụng khác. Nhưng nếu chỉ chú
trọng nguồn vốn ODA, mà không tìm cách thu hút nguồn vốn FDI và các nguồn
vốn tín dụng khác, thì quốc gia đó sẽ không thể có khả năng để trả nợ vốn ODA.
Hình thức đầu tư
Thực tiễn đầu tư nước ngoài của nhiều nước trên thế giới cho thấy, có rất
nhiều hình thức đầu tư phong phú như: hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài, hình thức liên doanh, hình thức công ty cổ phần, công ty quản lý vốn, chi
nhánh công ty nước ngoài, hình thức gia công, lắp ráp...
Ở nước ta, đầu tư trực tiếp nước ngoài được pháp luật đầu tư nước ngoài
hiện hành quy định dưới ba hình thức:
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là loại hình đầu tư, trong đó nhà đầu
tư nước ngoài tự bỏ vốn thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh ở nước ta và có tư
cách pháp nhân của Việt Nam..
- Doanh nghiệp liên doanh là loại hình đầu tư, trong đó nhà đầu tư nước
ngoài và nhà đầu tư trong nước cùng góp vốn thành lập cơ sở sản xuất, kinh
doanh có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh là loại hình đầu tư, trong đó nhà đầu tư
nước ngoài và nhà đầu tư trong nước cùng bỏ vốn kinh doanh theo một hợp
đồng, mỗi bên giữ tư cách pháp nhân riêng, không thành lập pháp nhân mới.
Phương thức đầu tư
Có thể hiểu phương thức đầu tư là cách tổ chức đưa vốn vào kinh doanh
của nhà đầu tư nước ngoài.
Pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định các phương thức sau:
- BOT (Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao) là phương thức,
13
14. trong đó nhà đầu tư nước ngoài ký kết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của
Việt Nam để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, tự kinh doanh để thu hồi vốn,
lợi nhuận trong thời hạn nhất định, sau thời hạn đó chuyển giao công trình đó
cho Nhà nước Việt Nam.
- BTO (Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh) là phương thức,
trong đó nhà đầu tư nước ngoài ký kết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của
Việt Nam để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà
đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
- BT (Hợp đồng xây dựng - chuyển giao) là phương thức, trong đó nhà đầu
tư ký kết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam để xây dựng công
trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao
công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
- Khu chế xuất là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, có ranh giới địa lý
xác định do Chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập, thực hiện các dịch vụ
phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu, tiến hành hoạt động xuất khẩu,
- Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện
các dịch vụ phục vụ sản xuất hàng công nghiệp do Chính phủ thành lập hoặc cho
phép thành lập.
1.2.1.2. Khái niệm đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh của
pháp luật đầu tư nước ngoài
Pháp luật đầu tư nước ngoài nếu được hiểu theo nghĩa rộng gồm ba bộ
phận:
Bộ phận thứ nhất: gồm đạo luật Đầu tư nước ngoài và các văn bản hướng
dẫn trực tiếp thi hành.
Bộ phận thứ hai: gồm các chế định có liên quan đến đầu tư nước ngoài
được quy định trong các đạo luật khác.
Bộ phận thứ ba: gồm các quy phạm pháp luật có liên quan đến đầu tư
nước ngoài được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc
tham gia.
14
15. Pháp luật đầu tư nước ngoài được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm đạo
luật Đầu tư nước ngoài và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành trực tiếp.
Về đối tượng điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài
Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật đã chỉ ra rằng, đối tượng điều
chỉnh của pháp luật là các quan hệ xã hội có liên quan đến đời sống cộng đồng,
củng cố địa vị và lợi ích của Nhà nước và công dân trong mọi lĩnh vực của đời
sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Chúng có thể thay đổi tùy theo từng
giai đoạn lịch sử cụ thể, phụ thuộc vào ý chí của giai cấp thống trị và các điều
kiện chính trị, xã hội khác.
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài là các quan hệ xã
hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm:
- Quan hệ giữa nhà đầu tư nước ngoài với Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam mà đại diện là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Quan hệ giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với Nhà nước
thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Quan hệ hợp tác kinh doanh, liên doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài với
nhà đầu tư trong nước.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các tổ chức, cá
nhân nước ngoài.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước
ngoài, nhà đầu tư trong nước với người lao động.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước
ngoài, nhà đầu tư trong nước với các cơ quan tài phán trong nước và quốc tế.
- Các quan hệ khác.
Dấu hiệu đặc trưng có tính chất bắt buộc của các quan hệ xã hội thuộc đối
tượng điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài là yếu tố nước ngoài. Các quan
hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của các ngành luật khác như Luật Dân sự,
15
16. Luật Thương mại, Luật Kinh tế... có thể cũng có yếu tố nước ngoài, nhưng
không có tính chất bắt buộc như quan hệ đầu tư nước ngoài.
Về phương pháp điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài
Xét dưới góc độ lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, phương pháp
điều chỉnh của pháp luật được hiểu là tổng hợp những cách thức tác động của
pháp luật lên các quan hệ xã hội.
Phương pháp điều chỉnh của pháp luật có những đặc điểm: do Nhà nước
thông qua và các cơ quan có thẩm quyền đặt ra; được ghi nhận trong quy phạm
pháp luật; được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các chế tài mang tính chất
cưỡng chế. Pháp luật Đầu tư nước ngoài có ba phương pháp điều chỉnh: phương
pháp thỏa thuận (hay còn gọi là phương pháp tự nguyện); phương pháp mệnh lệnh
(hay còn gọi là phương pháp bắt buộc); phương pháp khuyến khích.
Ba phương pháp điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài có mối quan
hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau và được sử dụng trong sự kết hợp với nhau.
Nghiên cứu pháp luật đầu tư nước ngoài hoặc pháp luật khuyến khích đầu tư
nước ngoài của một số nước trên thế giới như Indonesia, Philippines, Singapore,
Thái Lan, Trung Quốc,... cho thấy, các nước này đều sử dụng cả ba phương pháp
điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài, chỉ khác nhau ở cách thức kết hợp
ba phương pháp.
Như vậy, pháp luật đầu tư nước ngoài có đối tượng và phương pháp điều
chỉnh mang tính đặc thù. Sự khác nhau về đối tượng điều chỉnh và phương pháp
điều chỉnh có thể nói là xuất phát từ chức năng của mỗi ngành luật. Pháp luật
đầu tư nước ngoài không điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội như các ngành luật khác mà nó chỉ điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm về pháp luật đầu tư nước
ngoài như sau: Pháp luật đầu tư nước ngoài là hệ thống những quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
16
17. Pháp luật đầu tư nước ngoài gồm hai phần: Phần chung và Phần riêng.
Phần chung của pháp luật đầu tư nước ngoài bao gồm các quy phạm điều
chỉnh các quan hệ mang tính chất nguyên tắc, phát sinh trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài như các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam,
nguyên tắc bảo đảm quyền sở hữu đói với vốn đầu tư và các quyền lợi khác của
các tổ chức, cá nhân nước ngoài...; các quy phạm định nghĩa về các khái niệm cơ
bản trong hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như "Bên nước ngoài",
"Bên Việt Nam", "Đầu tư nước ngoài", "Xí nghiệp liên doanh"...
Phần riêng của pháp luật đầu tư nước ngoài bao gồm các nhóm quy phạm
điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài cụ thể, nói cách khác là các quy định về:
- Những quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài.
- Những quy định về hình thức đầu tư, phương thức đầu tư.
- Những quy định về đất đai, xây dựng, lao động.
- Những quy định về thuế, ngân hàng, tài chính, kế toán, thống kê.
- Những quy định về chuyển giao công nghệ, sở hữu công nghiệp.
- Những quy định về Hải quan, xuất nhập khẩu.
- Những quy định về hợp đồng kinh tế, trọng tài, xử lý tranh chấp.
1.2.2. Đặc trưng cơ bản của pháp luật đầu tư nước ngoài
Từ khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài đã được trình bày ở trên và qua
nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật đầu tư nước ngoài hiện hành, có thể
rút ra những đặc trưng cơ bản như sau:
1.2.2.1. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật đầu tư nước
ngoài có một số quy phạm pháp luật đầu tiên hướng tới nền kinh tế thị trường
Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 ra đời vào năm 1977, chỉ sau hai
năm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đây là thời điểm nhân dân ta
mới bắt tay vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, cơ chế quản lý tập
trung, quan liêu, bao cấp đang rất thịnh hành và nền kinh tế về cơ bản chỉ có hai
thành phần là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể. Trong bối cảnh đó, Điều lệ Đầu
tư nước ngoài năm 1977 là văn bản pháp lý đầu tiên trong hệ thống pháp luật của
17
18. Việt Nam tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Trong Điều lệ
này, Nhà nước ta đã khuyến khích, kêu gọi đầu tư nước ngoài vào mọi lĩnh vực
của nền kinh tế, trừ những ngành bị cấm. Điều đó thể hiện chủ trương cởi mở, đa
dạng hóa các lĩnh vực đầu tư của nước ta. Như vậy, xét dưới góc độ lý luận, có thể
khẳng định, công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà nước khởi xướng chính thức được
tính từ năm 1986, nhưng tiền đề của nó đã xuất hiện ngay từ năm 1977 trong
Điều lệ Đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
Như vậy, trong hệ thống pháp luật Việt Nam, thời kỳ từ năm 1977 đến
năm 1986, Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 là văn bản pháp lý đầu tiên
hướng tới nền kinh tế thị trường, thể hiện chính sách "mở cửa" của Đảng và Nhà
nước ta. Bên cạnh đó, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 cũng có một số quy
định "vượt rào" so với Hiến pháp năm 1980 như không quốc hữu hóa, thừa nhận
thành phần kinh tế tư bản, tư nhân...
1.2.2.2. Pháp luật đầu tư nước ngoài ra đời trước khi có quan hệ đầu tư
nước ngoài trên thực tế ở Việt Nam
Để điều chỉnh các quan hệ xã hội tồn tại, phát triển theo hướng mà Nhà
nước mong muốn và có thể phản ánh đúng thực tiễn khách quan, Nhà nước xây
dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, so sánh với tiến
trình của các quan hệ kinh tế, pháp luật thường xuất hiện chậm so với sự biến
động và phát triển của các quan hệ kinh tế. Năm 1977, khi các quy phạm pháp
luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam lần đầu tiên được ban hành, thì trên thực tế ở
Việt Nam hoàn toàn chưa có quan hệ đầu tư nước ngoài. Thời điểm đó, cơ chế
quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp đang ngự trị trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống kinh tế - xã hội; các khái niệm cơ bản của kinh tế thị trường như tự do
thương mại, tự do cạnh tranh, thị trường vốn ... chưa được chấp nhận chính thức
trong các văn bản của Đảng và Nhà nước ta. Đầu tư nước ngoài với tính chất là
sự vận động trực tiếp của tư bản nước ngoài vào Việt Nam lúc đó vẫn chưa được
tán thành. Chỉ sau khi có chính sách đổi mới tư duy lý luận và tư duy kinh tế của
Đảng và Nhà nước, thì đạo luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mới có cơ hội
18
19. ra đời, các quan hệ đầu tư nước ngoài mới hình thành và phát triển trên cơ sở
pháp lý đó. Vì những lẽ đó mà TS. Hoàng Phước Hiệp cho rằng "hệ thống các
quy phạm pháp luật đầu tư nước ngoài được ban hành trước khi có quan hệ đầu
tư nước ngoài theo đúng nghĩa của từ đó trên thực tế tại Việt Nam"1
.
Việc pháp luật đầu tư nước ngoài "vượt trước" hoạt động đầu tư nước
ngoài ở Việt Nam không phải là hiện tượng trái quy luật. Theo quan điểm của
triết học Mác - Lênin, cơ sở hạ tầng có mối quan hệ biện chứng với kiến trúc
thượng tầng và trong một số trường hợp nhất định, pháp luật có thể "vượt trước",
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, xã hội. Mặt khác, nếu xem xét nền kinh tế
nước ta dưới góc độ là một bộ phận của nền kinh tế khu vực và trên thế giới, thì
hoạt động đầu tư nước ngoài đã tồn tại từ rất lâu ở nhiều nước trên thế giới với
các mức độ khác nhau. Như vậy, pháp luật về đầu tư nước ngoài và hoạt động
đầu tư nước ngoài ở Việt Nam là cái có sau so với nhiều nước trên thế giới và
đương nhiên bị chi phối bởi quá trình quốc tế hóa nền kinh tế của các nước. Đây
có thể coi là vấn đề hợp quy luật trong tiến trình hội nhập của nước ta vào đời
sống kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới.
1.2.2.3. Pháp luật đầu tư nước ngoài có một số chủ thể đặc thù
Pháp luật đầu tư nước ngoài điều chỉnh quan hệ đầu tư nước ngoài, trong
đó ít nhất một bên là cá nhân, tổ chức kinh tế hoặc cơ quan nhà nước Việt Nam
và bên kia là tổ chức, cá nhân nước ngoài. Tổ chức kinh tế Việt Nam được hiểu
là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập, tổ chức và
hoạt động theo các quy định của pháp luật Việt Nam; cơ quan nhà nước ở đây là
cơ quan được Chính phủ ủy quyền ký kết với các cá nhân, tổ chức nước ngoài
thực hiện các hợp đồng BOT, BT, BTO; tổ chức, cá nhân nước ngoài là các tổ
chức kinh tế nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài tham gia quan hệ đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam.
Chủ thể của quan hệ pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam gồm có:
1) Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
1
Xem: TS. Hoàng Phước Hiệp (1996), Cơ chế điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ luật học, Hà Nội
19
20. 2) Các nhà đầu tư nước ngoài tham gia quan hệ đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam.
3) Các nhà đầu tư Việt Nam tham gia quan hệ đầu tư nước ngoài.
4) Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp BOT,
BT, BTO.
5) Người lao động.
6) Các cơ quan tài phán trong nước và quốc tế.
Cơ sở pháp lý để hình thành quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ
pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có những nét đặc thù riêng so với các
ngành luật khác. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam, các chủ thể của quan hệ pháp luật đó có các quyền và nghĩa vụ nhất định
trên cơ sở các quy định của pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, pháp luật
của nước mà cá nhân, tổ chức kinh tế nước ngoài mang quốc tịch và các quy
định của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, hoặc trên cơ sở
kết hợp các quy định đó.
Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam còn được xác định theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc
gia nhập như Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (1999), Hiệp định
song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định tránh đánh thuế hai
lần, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ... Cơ quan đảm bảo đầu tư đa
biên MIGA 1985 (Multilateral Investment Guarantee Agency), Công ước New
York 1958 về công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài...
Các điều ước quốc tế đó là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo thực hiện quyền
và nghĩa vụ của các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam cũng được xác định theo quy định của pháp luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam, theo Giấy phép đầu tư và theo các văn bản cụ thể được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền chuẩn y. Trong một số trường hợp đặc biệt còn
được xác định theo quy chế riêng do Chính phủ Việt Nam ấn định sau khi có sự
20
21. thỏa thuận với đối tác bên ngoài, ví dụ một số hợp đồng BOT, BT, BTO...
1.2.2.4. Pháp luật đầu tư nước ngoài có bộ phận cấu thành là một số
lượng lớn các điều ước quốc tế có liên quan trực tiếp đến đầu tư nước ngoài
mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập
Khác với các ngành luật khác, pháp luật đầu tư nước ngoài có bộ phận cấu
thành là một số lượng lớn các điều ước quốc tế như Hiệp định khung về khu vực
đầu tư ASEAN, 41 Hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư,
34 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa
kỳ... Việc ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế hai bên và nhiều bên được
tiến hành theo các quy định của pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện các
điều ước quốc tế. Các ngành luật khác cũng có thể có một bộ phận cấu thành là
các điều ước quốc tế, nhưng không nhiều hoặc phong phú như Luật Đầu tư nước
ngoài. Ví dụ: Luật Tố tụng hình sự có các điều ước quốc tế song phương về
tương trợ tư pháp hoặc hẹp hơn là về dẫn độ tội phạm. Nhưng trong lĩnh vực
này, Việt Nam tham gia với số lượng rất ít, chủ yếu là ký kết với các nước
XHCN trước đây.
Trong pháp luật đầu tư nước ngoài, các quy phạm trong các điều ước quốc
tế tham gia điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của chủ thể các quan hệ pháp luật đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài coi các điều ước quốc tế
là cơ sở pháp lý quan trọng để đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Đây
có thể nói là một nét đặc thù của pháp luật đầu tư nước ngoài, bởi lẽ tham gia
điều chỉnh các quan hệ xã hội của các ngành luật khác có thể có các quy phạm
được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập,
nhưng số lượng của chúng không nhiều và phổ biến như ở pháp luật đầu tư nước
ngoài.
1.2.3. Vai trò của pháp luật Đầu tư nước ngoài
Trong xã hội chủ nghĩa, pháp luật giữ vai trò quan trọng. Pháp luật là
phương tiện thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng, đảm bảo sự lãnh đạo
của Đảng được thực hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội. Pháp luật là
21
22. phương tiện để Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội, thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Pháp luật đầu tư nước ngoài với tư cách là nhân tố điều chỉnh các quan hệ
xã hội trong lĩnh vực đầu tư, luôn tác động và ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới các
quan hệ đầu tư nói chung, cũng như tới tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng
tầng nói riêng. Pháp luật đầu tư nước ngoài có một số vai trò chủ yếu sau đây:
1.2.3.1. Pháp luật đầu tư nước ngoài là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện
bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư
Bộ máy quản lý nhà nước nói chung, bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư
nói riêng là một thiết chế phức tạp gồm nhiều cơ quan khác nhau. Để bộ máy đó
hoạt động có hiệu quả, phải xác định đúng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm
của mỗi loại cơ quan, phải xác lập một cách đúng đắn và hợp lý mối quan hệ
giữa chúng, phải có những phương pháp và hình thức tổ chức, hoạt động phù hợp
để tạo ra một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập quyền lực nhà nước trong
lĩnh vực đầu tư. Tất cả những điều đó chỉ có thể thực hiện được khi dựa trên cơ
sở vững chắc của những nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật đầu tư.
Thực tiễn Việt Nam trong những năm qua cho thấy, khi chưa có hệ thống
các quy phạm pháp luật đầy đủ, đồng bộ, phù hợp và chính xác để làm cơ sở cho
việc củng cố, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư, thì dễ dẫn đến tình
trạng trùng lập, chồng chéo, thực hiện không đúng chức năng, thẩm quyền của
một số cơ quan nhà nước trong lĩnh vực này, dễ sinh ra cồng kềnh, kém hiệu quả.
1.2.3.2. Pháp luật đầu tư nước ngoài bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu
quả chức năng tổ chức và quản lý đầu tư, góp phần xây dựng cơ sở vật chất
của chủ nghĩa xã hội
Chức năng tổ chức và quản lý đầu tư có phạm vi rộng và phức tạp bao gồm
nhiều mối quan hệ, nhiều vấn đề mà Nhà nước cần xác lập, điều tiết và giải quyết
như: hoạch định các chính sách đầu tư, quy định các chế độ tài chính, tiền tệ, giá
cả… Tất cả những điều đó đều đòi hỏi sự hoạt động tích cực của Nhà nước để
tạo ra một cơ chế đồng bộ, thúc đẩy hoạt động đầu tư đúng hướng, mang lại hiệu
22
23. quả thiết thực. Do tính chất phức tạp của hoạt động đầu tư (nhiều vấn đề cần giải
quyết) và phạm vi rộng (trên quy mô toàn quốc) của chức năng quản lý đầu tư,
Nhà nước không thể tham gia vào các hoạt động đầu tư cụ thể mà chỉ thực hiện
chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư. Quá trình đó không thể
thực hiện được nếu không dựa vào pháp luật đầu tư nước ngoài. Chỉ có pháp luật
đầu tư nước ngoài với những tính chất đặc thù của nó mới là cơ sở để Nhà nước
hoàn thành được chức năng của nó trong lĩnh vực đầu tư.
Quá trình tổ chức và quản lý đầu tư ở Việt Nam trong những năm qua đã là
một thực tiễn sinh động khẳng định vai trò của pháp luật đầu tư nước ngoài. Tình
trạng thiếu các quy phạm pháp luật về đầu tư nước ngoài cũng như sự tồn tại quá
lâu những văn bản, những quy phạm pháp luật đầu tư của cơ chế tập trung, quan
liêu, bao cấp, đã làm giảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, kìm hãm sự phát triển
của hoạt động đầu tư nước ngoài nói riêng, của nền kinh tế Việt Nam nói chung.
1.2.3.3. Pháp luật đầu tư nước ngoài bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư
nước ngoài, đồng thời bảo hộ sản xuất trong nước
Nhằm khuyến khích, kêu gọi đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, Luật Đầu
tư nước ngoài năm 1987 và 1996 đã khẳng định quyền được tôn trọng và bảo vệ
của các nhà đầu tư nước ngoài và quy định một số ưu đãi hơn đối với đầu tư
trong nước. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, Nhà nước ta đã xác lập những
chế định bảo hộ và khuyến khích đầu tư nước ngoài rất rõ ràng.
Tuy nhiên, chúng ta khuyến khích đầu tư nước ngoài một phần là vì nhu
cầu phát triển sản xuất trong nước. Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định "Vốn
nước ngoài là quan trọng, vốn trong nước là quyết định". Do vậy, đi đôi với việc
khuyến khích, ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài, pháp luật đầu tư trong nước chú
trọng bảo hộ sản xuất trong nước. Đây là nguyên tắc phát triển kinh tế của mọi
quốc gia, có chăng chỉ khác nhau về mức độ và nội dung bảo hộ mà thôi. Chính
bản thân sự xuất hiện của pháp luật đầu tư nước ngoài đã nói lên tư tưởng bảo hộ
sản xuất trong nước. Việc đề ra pháp luật đầu tư nước ngoài là nhằm quy định
một hành lang pháp lý riêng cho hoạt động đầu tư nước ngoài, để tách một số
23
24. hoạt động, cũng như một số ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài khỏi "sân
chơi" của các doanh nghiệp Việt Nam, dành một số lợi thế so sánh cho các
doanh nghiệp trong nước. Trong giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam
còn được hưởng một số đặc quyền hoặc ưu đãi thì mới tồn tại và phát triển được,
nhất là trong giai đoạn nền kinh tế của ta còn nhiều hạn chế, các doanh nghiệp
trong nước chưa đủ mạnh. Chúng ta chủ trương bảo hộ sản xuất trong nước
trong một số lĩnh vực, phạm vi và mức độ nhất định để tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp trong nước dần mạnh lên. Vì vậy, có thể khẳng định một trong
những vai trò rất quan trọng của pháp luật đầu tư nước ngoài là bảo vệ lợi ích
của nhà đầu tư nước ngoài, nhưng đồng thời cũng là hành lang pháp lý để bảo hộ
sản xuất trong nước. Điều đó góp phần từng bước xây dựng một nền kinh tế tự
cường, loại bỏ mọi nguy cơ biến nền kinh tế nước ta thành một nền kinh tế lệ
thuộc vào bên ngoài.
1.2.3.4. Pháp luật đầu tư nước ngoài góp phần nâng cao hiệu quả đầu
tư tại Việt Nam
Pháp luật đầu tư nước ngoài ra đời là để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các
quan hệ xã hội về đầu tư. Pháp luật đầu tư nước ngoài cũng tác động trở lại làm
cho các quan hệ đầu tư phát sinh, phát triển theo hướng có lợi.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo chỉ có thể mang lại
kết quả khi pháp luật nói chung, pháp luật đầu tư nước ngoài nói riêng phản ánh
đúng các quy luật kinh tế khách quan trong điều kiện mới của nền kinh tế nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Chính
sự đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài, tạo tiền đề cho sự
cởi trói, thúc đẩy các quan hệ đầu tư mới phát triển. Đối với sự phát triển hoạt
động đầu tư, pháp luật đầu tư nước ngoài có vai trò cụ thể như sau:
Thứ nhất, pháp luật đầu tư nước ngoài tạo cơ sở cho việc xác lập những
nguyên tắc pháp lý cơ bản đảm bảo cho sự vận hành của hoạt động đầu tư tại
Việt Nam có hiệu quả.
Có thể nói đây là vai trò quan trọng của pháp luật đầu tư nước ngoài, phản
24
25. ánh những đòi hỏi khách quan của sự phát triển các quan hệ đầu tư được thể chế
hóa, hình thành những nguyên tắc pháp lý xuyên suốt, chi phối sự vận hành của
cơ chế quản lý đầu tư cũng như đảm bảo sự phát triển có hiệu quả của các quan
hệ đầu tư. Để xây dựng một nền kinh tế thị trường, không thể bỏ qua các nguyên
tắc cơ bản như: tự do kinh doanh, tự do sở hữu, tự do hình thành giá cả, khuyến
khích cạnh tranh. Một khi các nguyên tắc trên được thể chế hóa thành những
nguyên tắc pháp lý, thì nó trở thành những tiêu chí cho sự lựa chọn hệ thống các
giải pháp, công cụ để tác động lên hoạt động đầu tư, làm cho nó không thoát ly
trật tự hình mẫu mà nó đang vươn tới và đem lại những kết quả khả quan cho
hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Thứ hai, pháp luật đầu tư nước ngoài xác lập môi trường an toàn cho sự
xuất hiện của các quan hệ đầu tư nước ngoài, đảm bảo cho các quan hệ đó được
điều chỉnh trong trật tự.
Đây là vấn đề mang tính quy luật, bởi lẽ sự hợp tác và mối quan hệ giữa
các tổ chức, cá nhân nước ngoài với nước ta chỉ có thể phát triển trong môi
trường chính trị, kinh tế, xã hội ổn định và có đủ độ tin cậy lẫn nhau. Đối với các
nhà đầu tư nước ngoài, thị trường đầu tư của họ rất rộng lớn trong phạm vi quốc
tế; quan hệ đầu tư ra nước ngoài của họ là quan hệ kinh doanh, mục đích của họ
là tìm kiếm lợi nhuận cao. Vì vậy, họ chỉ chấp nhận đầu tư vào đâu có lợi nhuận
thỏa đáng. Đảm bảo hoạt động đầu tư cho họ đồng nghĩa với đảm bảo cho họ có
đủ điều kiện để có lợi nhuận. Đó là môi trường đầu tư ổn định, độ rủi ro trong
kinh doanh không cao, thủ tục đầu tư đơn giản, thuận tiện.
Ở Việt Nam đã có môi trường pháp lý đáng tin cậy, và nhờ đó, các quan
hệ kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động đầu tư nước ngoài nói riêng đã mở
rộng, phát triển và đem lại hiệu quả đáng kể góp phần quan trọng và sự phát
triển xã hội.
1.2.3.5. Pháp luật đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy và phát triển
mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa Việt Nam với các quốc gia, dân tộc
Trong thời đại ngày nay, phạm vi các mối quan hệ bang giao giữa các
25
26. nước ngày càng lớn và tính chất các mối quan hệ đó ngày càng đa dạng. Cơ sở
cho việc thiết lập các mối quan hệ đó chính là pháp luật: pháp luật quốc tế và
pháp luật của mỗi nước. Xuất phát từ nhu cầu đó, hệ thống pháp luật của mỗi
nước có bước phát triển mới; bên cạnh pháp luật đầu tư trong nước điều chỉnh
hoạt động đầu tư của cá nhân, tổ chức trong nước, còn có pháp luật đầu tư nước
ngoài điều chỉnh các quan hệ có liên quan đến hoạt động đầu tư của tổ chức, cá
nhân nước ngoài.
Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, từng bước hội nhập vào
kinh tế khu vực và quốc tế, pháp luật đầu tư trong nước và pháp luật đầu tư nước
ngoài là công cụ quan trọng không chỉ tạo ra môi trường pháp lý an toàn cho
việc mở cửa nền kinh tế, mà còn tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các tổ
chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, cho các doanh nghiệp Việt Nam
tham gia vào thị trường quốc tế. Pháp luật đầu tư nước ngoài là điều kiện quan
trọng để tạo ra niềm tin, là cơ sở để mở rộng mối quan hệ hữu nghị với các quốc
gia, dân tộc. Nói cách khác, sự phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài gắn
liền với sự phát triển về chính sách đối ngoại, thu hút đầu tư nước ngoài của
Đảng và Nhà nước Việt Nam.
CHƯƠNG 2
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG
PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
2.1. GIỚI THIỆU VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có thể được hiểu theo
nghĩa rộng, hoặc nghĩa hẹp. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, hệ thống pháp luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam, gồm ba bộ phận cấu thành:
Bộ phận thứ nhất: Đạo luật Đầu tư nước ngoài và các văn bản hướng dẫn
trực tiếp thi hành.
Văn bản pháp luật đầu tư nước ngoài được ban hành ngày 18/4/1977 là
Điều lệ Đầu tư nước ngoài (sau đây gọi là Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm
26
27. 1977). Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 là văn bản pháp luật đầu tiên của
Nhà nước ta quy định các nguyên tắc cơ bản về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
và những vấn đề về lĩnh vực đầu tư, đối tác đầu tư, góp vốn đầu tư, hình thức
đầu tư, thời hạn đầu tư, thuế áp dụng cho đầu tư nước ngoài, quản lý ngoại hối
và chế độ kế toán thống kê, thủ tục đầu tư, giải thể, xử lý tranh chấp.
Đạo luật đầu tư nước ngoài thứ hai được Quốc hội ban hành ngày
31/12/1987, tạo cơ sở pháp lý có giá trị cao cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam. Việc soạn thảo Luật này dựa trên cơ sở rút kinh nghiệm Điều lệ Đầu
tư nước ngoài năm 1977, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và có tham khảo kinh
nghiệm lập pháp đầu tư nước ngoài của nhiều nước trên thế giới. Tiếp đó, Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định 139/HĐBT ngày
5/9/1988 (sau đây gọi là Nghị định 139) gồm 11 chương, 113 điều quy định chi
tiết việc thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Để thực hiện yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam, ngày 30/6/1990, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa
VIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài
năm 1987 (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990). Sau
khi sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất Luật Đầu tư nước ngoài vào năm 1990, 7 văn
bản pháp luật có liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng đã được ban hành mới
hoặc được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Tiếp theo đó, ngày 23/12/1992, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là
Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992). Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài
(sửa đổi) năm 1992 được thông qua, Nghị định số 18/CP ngày 26/12/1992 của
Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
(sau đây gọi tắt là Nghị định 18), thay thế cho Nghị định số 28/HĐBT ngày
6/2/1991 (sau đây gọi là Nghị định 28) và 17 văn bản pháp luật liên quan đến
đầu tư nước ngoài cũng đã được ban hành.
Ngày 12/11/1996 Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
27
28. Nam trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản Luật Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990, Luật Đầu tư
nước ngoài (sửa đổi) năm 1992, tiếp tục tạo môi trường pháp lý hấp dẫn, thể
hiện chính sách nhất quán thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam của Đảng và
Nhà nước ta. Sau khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, Nghị định số
12/CP ngày 18/2/1997 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Nghị định 12) và 15 văn bản pháp
luật khác có liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng được ban hành.
Ngày 9/6/2000, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư nước
ngoài (sửa đổi) năm 2000). Trên cơ sở Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm
2000 và Nghị định 24, các Bộ, ngành có liên quan đã ban hành hơn 20 văn bản
pháp lý để hướng dẫn thi hành.
Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 và Nghị định 24 cùng hệ
thống các văn bản pháp luật nói trên đã tạo dựng khung pháp lý cơ bản điều
chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài phù hợp với đường lối, quan điểm của Đảng
về phát triển và mở cửa nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
Bộ phận thứ hai: pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không chỉ
thuần túy là các đạo luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành năm
1987, 1996 và các văn bản hướng dẫn trực tiếp mà còn là các quy định trong các
đạo luật khác như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Phá sản doanh nghiệp,
Luật Đất đai, các đạo luật về thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế xuất nhập khẩu,
Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân, thuế VAT…
Các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài là đối
tượng điều chỉnh của pháp luật đầu tư nước ngoài phần lớn mang tính chất hàng
hóa, tiền tệ, cho nên pháp luật đầu tư nước ngoài có quan hệ rất chặt chẽ với Bộ
luật Dân sự. Pháp luật đầu tư nước ngoài chỉ quy định nguyên tắc, còn một số
chế định của Bộ luật Dân sự có liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài, đồng
thời cũng là bộ phận cấu thành pháp luật đầu tư nước ngoài quy định cụ thể.
28
29. Phần thứ VII Bộ luật Dân sự quy định về các quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài, trong đó quy định cụ thể các vấn đề về nguyên tắc áp dụng pháp luật nước
ngoài và điều ước quốc tế (Điều 828), căn cứ chọn pháp luật áp dụng đối với
người không có quốc tịch hoặc người nước ngoài có nhiều quốc tịch (Điều 829),
năng lực dân sự của pháp nhân nước ngoài (Điều 832), quyền sở hữu tài sản
(Điều 838). Trong Bộ luật Dân sự còn có những điều luật quy định trực tiếp một
số vấn đề của đầu tư nước ngoài, ví dụ: việc sát nhập, mua lại, chuyển đổi và tái
cơ cấu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện trên cơ sở
Điều 19a Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 và Điều 321 Bộ luật Dân sự.
Trong đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao giờ cũng phát sinh quan hệ lao
động giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với người lao động làm việc
trong các doanh nghiệp đó và các quan hệ khác gắn bó chặt chẽ với quan hệ lao
động như quan hệ giữa công đoàn với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
quan hệ trong việc giải quyết tranh chấp lao động... Luật Đầu tư nước ngoài hiện
hành không có các điều khoản riêng quy định về việc sử dụng lao động trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nên các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài phải tuân thủ các quy định trong Bộ luật Lao động, các văn bản
hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động của Chính phủ, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội. Thời kỳ ta chưa có Bộ luật Lao động, Luật Đầu tư nước ngoài
năm 1987 và Nghị định số 139/HĐBT ngày 5/9/1988 của Hội đồng Bộ trưởng
quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (sau đây gọi là Nghị định 139)
đã dành hẳn một chương quy định những vấn đề về quan hệ lao động trong hoạt
động đầu tư nước ngoài. Nhưng khi có Bộ luật Lao động năm 1994, đạo luật
Đầu tư nước ngoài chỉ quy định mang tính chất dẫn chiếu như Điều 25 Luật Đầu
tư nước ngoài năm 1996 quy định: "Quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động
làm việc trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được bảo đảm bằng hợp
đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và các quy định của pháp luật về lao
động".
Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có liên quan đến một loạt vấn
29
30. đề rất nhạy cảm, như: sử dụng đất, giải phóng mặt bằng, bồi thường, thế chấp
quyền sử dụng đất. Đối với các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực sử dụng đất của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đạo luật Đầu tư nước ngoài chỉ quy
định những vấn đề mang tính đặc thù của đầu tư nước ngoài, còn các chế định
của Luật Đất đai liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài và là một bộ phận
của pháp luật đầu tư nước ngoài, quy định những vấn đề cụ thể. Ví dụ: Nghị
định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi là Nghị định 24) chỉ quy
định những vấn đề đặc thù của đầu tư nước ngoài có liên quan đến đất đai, như:
thuê đất, trả tiền thuê đất, mức tiền thuê đất và miễn, giảm tiền thuê đất, thẩm
quyền quyết định cho thuê đất, đền bù, giải phóng mặt bằng, thời hạn tính tiền
thuê đất, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Những thủ tục cụ thể được quy
định trong Thông tư số 679/TT-ĐC ngày 12/5/1997 của Tổng cục Địa chính
hướng dẫn việc cho thuê đất để thực hiện các dự án có vốn đầu tư nước ngoài.
Nghị định số 22/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 4/4/1998 quy định về việc bồi
thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất đai để sử dụng cho mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia và công cộng...
Cũng như các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
phải có nghĩa vụ đóng góp các khoản thuế nhất định cho Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Đối với các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực
thuế của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, pháp luật đầu tư nước
ngoài chỉ quy định những vấn đề có tính đặc thù của đầu tư nước ngoài, còn các
đạo luật thuế quy định những vấn đề cụ thể. Nghị định số 28/1998/NĐ-CP ngày
11/5/1998 của Chính phủ quy định chi tiết việc thực hiện thuế giá trị gia tăng,
Thông tư số 89/1998/TT-BTC ngày 27/6/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực
hiện Nghị định số 28/1998/NĐ-CP; Nghị quyết số 90/1999/NQ-UBTVQH ngày
3/9/1999 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung danh mục hàng hóa
và dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng, Nghị định số 15/2000/NĐ-CP ngày
9/5/2000 của Chính phủ quy định chi tiết việc thực hiện Nghị quyết số
30
31. 90/1999/NQ-UBTVQH và Thông tư số 49/2000/TT-BTC ngày 31/5/2000 của
Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 15/2000/NĐ-CP ngày 9/5/2000
của Chính phủ... Trước đây, pháp luật đầu tư nước ngoài quy định các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải nộp thuế lợi tức. Khi Luật Thuế thu nhập
doanh nghiệp ra đời năm 1997, thì đối tượng áp dụng được quy định bao gồm cả
các dự án đầu tư nước ngoài (Điều 1, 3). Về mức thuế suất, do đặc thù của đầu
tư nước ngoài, nên khoản 2 Điều 10 của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp quy
định vẫn áp dụng mức thuế suất của Luật Đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, cách
tính thuế và quy trình, thủ tục nộp thuế thì được thực hiện theo quy định của
Thuế Thu nhập doanh nghiệp. Ngoài ra, Điều 49 Luật Đầu tư nước ngoài hiện
hành còn quy định: "Ngoài các loại thuế quy định tại luật này, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh
phải nộp các loại thuế khác theo quy định của pháp luật". Như vậy, ngoài các
quy định mang tính đặc thù của pháp luật đầu tư nước ngoài về thuế thu nhập
doanh nghiệp, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, thuế nhập khẩu... các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải nộp các loại thuế khác bình đẳng như
doanh nghiệp Việt Nam.
Đối với những vấn đề liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Luật Thương mại quy định cụ thể các điều
kiện và thủ tục xuất nhập khẩu, gia công, đại lý, mua bán hàng hóa của các các
doanh nghiệp nói chung, trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, còn đạo luật Đầu tư nước ngoài chỉ có những quy định mang tính đặc thù
của hoạt động đầu tư nước ngoài hoặc có những quy định có tính nguyên tắc. Ví
dụ: Điều 31 Luật Đầu tư nước ngoài hiện hành quy định quyền tự chủ kinh
doanh trong việc nhập khẩu, ủy quyền nhập khẩu, tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác
kinh doanh, còn trình tự, thủ tục của việc nhập khẩu, ủy quyền nhập khẩu tiêu
thụ hàng hóa thì được quy định cụ thể trong Luật Thương mại..
Một vấn đề quan trọng của hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là
31
32. chấm dứt hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong số
các dự án đầu tư nước ngoài, một số dự án có thể phải chấm dứt hoạt động do
doanh nghiệp gặp khó khăn trong tài chính, thậm chí ở trong tình trạng phá sản.
Đối với những trường hợp như vậy, Nhà nước phải có những quy định để đảm
bảo các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thanh lý, chấm dứt hoạt
động hoặc phá sản một cách công bằng. Để xử lý việc chấm dứt hoạt động của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đạo luật đầu tư nước ngoài chỉ quy
định nguyên tắc, còn các chế định của Luật Phá sản doanh nghiệp liên quan đến
việc phá sản doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và là một bộ phận của pháp
luật đầu tư nước ngoài quy định những vấn đề cụ thể. Ví dụ: vấn đề phá sản
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quy định cụ thể trong Luật Phá sản
doanh nghiệp năm 1993, Nghị định số 189/CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ
hướng dẫn thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp, Nghị định số 92/CP ngày
19/12/1995 của Chính phủ về quyền lợi của người lao động trong các doanh
nghiệp bị tuyên bố phá sản... Như vậy, trong mối quan hệ với pháp luật đầu tư
nước ngoài, nhiều chế định của Luật Phá sản doanh nghiệp được coi là một bộ
phận cấu thành pháp luật đầu tư nước ngoài, đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh khi chấm dứt hoạt động của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Ngoài ra, một số quan hệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam còn chịu sự điều
chỉnh của một số ngành luật chuyên biệt. Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực
khoáng sản chịu sự quy định của Luật Khoáng sản về thời hạn của các giấy phép
thăm dò, khai thác, diện tích được phép thăm dò, khai thác; đầu tư trong lĩnh vực
dầu khí chịu sự điều chỉnh của Luật Dầu khí; đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực
ngân hàng chịu sự điều chỉnh của Luật các tổ chức tín dụng
Bộ phận thứ ba: là các quy phạm pháp luật có liên quan đến đầu tư nước
ngoài được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham
gia.
Khác với các ngành luật khác, pháp luật đầu tư nước ngoài có bộ phận cấu
32
33. thành là một số lượng lớn các điều ước quốc tế như Hiệp định khung về khu vực
đầu tư ASEAN, 41 Hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư,
34 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa
kỳ... Việc ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế hai bên và nhiều bên được
tiến hành theo các quy định của pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện các
điều ước quốc tế. Các ngành luật khác cũng có thể có một bộ phận cấu thành là
các điều ước quốc tế, nhưng không nhiều hoặc phong phú như Luật Đầu tư nước
ngoài. Ví dụ: Luật Tố tụng hình sự có các điều ước quốc tế song phương về
tương trợ tư pháp hoặc hẹp hơn là về dẫn độ tội phạm. Nhưng trong lĩnh vực
này, Việt Nam tham gia với số lượng rất ít, chủ yếu là ký kết với các nước xã hội
chủ nghĩa trước đây.
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, pháp luật đầu tư nước ngoài chỉ bao gồm đạo
luật Đầu tư nước ngoài và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành..
2.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI QUA CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ
Trên cơ sở phân tích tình hình kinh tế-xã hội trong nước, có thể chia sự
hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài thành 3 giai đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất, từ năm 1975 đến năm 1987
- Giai đoạn thứ hai, từ năm 1987 đến năm 1996
- Giai đoạn thứ ba, từ năm 1996 đến nay
2.2.1. Giai đoạn thứ nhất (từ năm 1975 đến năm 1987)
Giai đoạn này có đặc điểm là miền Nam mới được giải phóng, nước ta
đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; cả
nước hòa bình, độc lập và thống nhất, cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều
thuận lợi, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và các tàn
dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra.
Thể chế hóa đường lối, chính sách kinh tế và đối ngoại của Đảng, ngày
33
34. 18/4/1977, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Điều lệ Đầu tư
nước ngoài (sau đây gọi là Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977). Việc nghiên
cứu Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 cho thấy, đây là văn bản pháp lý đầu
tiên hướng vào nền kinh tế thị trường, thể hiện bước đầu quan điểm "mở cửa"
của Đảng và Nhà nước ta, bởi lẽ Điều lệ khuyến khích đầu tư nước ngoài vào
mọi lĩnh vực của nền kinh tế, trừ những ngành nghề bị cấm. Tuy nhiên, do Điều
lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 được ban hành trong bối cảnh của cơ chế tập
trung, quan liêu, bao cấp đang thịnh hành trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội; các vấn đề lý luận về kinh tế thị trường đang là điều cấm kỵ, cho nên Điều
lệ cũng không tránh khỏi những hạn chế, còn bộc lộ nhiều điểm chưa hấp dẫn
các nhà đầu tư nước ngoài như xí nghiệp tư doanh chỉ được phép thành lập với
điều kiện chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, mà đây là điều kiện rất khó thực hiện;
thời hạn cho phép đầu tư nước ngoài quá ngắn: từ 10 đến 15 năm kể từ ngày
được cấp giấy phép đầu tư…
Trước tình hình bị Mỹ bao vây, cấm vận kinh tế, chúng ta đã ký kết một số
hiệp định hợp tác đầu tư với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây.
Các họat động đầu tư nước ngoài vào thời điểm này không chịu sự điều chỉnh
của Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 mà chịu sự điều chỉnh của các Hiệp
định này.
2.2.2. Giai đoạn thứ hai (từ năm 1987 đến năm 1996)
Vào những năm đầu của giai đoạn này, tình hình kinh tế – xã hội nước ta
có những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng chậm, hiệu quả sản xuất và đầu tư
thấp; phân phối lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền
kinh tế chậm được thu hẹp, có mặt gay gắt hơn; đời sống nhân dân còn nhiều
khó khăn, các hiện tượng tiêu cực diễn ra ở nhiều nơi, có nơi có lúc nghiêm
trọng.
Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra, ngày
31/12/1987, Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tạo cơ
sở pháp lý có giá trị cao cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Việc
34
35. soạn thảo Luật này dựa trên cơ sở rút kinh nghiệm Điều lệ Đầu tư nước ngoài
năm 1977, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và có tham khảo kinh nghiệm lập
pháp đầu tư nước ngoài của nhiều nước trên thế giới.
So với Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977, Luật Đầu tư nước ngoài năm
1987 đã có một bước tiến bộ vượt bậc về kỹ thuật lập pháp, về sự phù hợp với
tập quán và luật pháp quốc tế, tạo môi trường pháp lý tương đối đầy đủ cho hoạt
động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã có
một điều riêng (Điều 2) nêu 12 khái niệm pháp lý quan trọng, tạo điều kiện nhận
thức và áp dụng thống nhất luật này trên phạm vi toàn quốc.
Bên cạnh đó, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định cụ thể hơn
về: 1) Đối tượng hợp tác đầu tư với nước ngoài; 2) Lĩnh vực khuyến khích đầu
tư; 3) Hình thức đầu tư; 4) Biện pháp bảo đảm đầu tư; 5) Quy định về thuế; 6)
Quy định về vốn pháp định; 7) Chế độ kế toán, thống kê, bảo hiểm; 8) Mở tài
khoản; 9) Thời hạn đầu tư; 10) Cơ quan nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài.
Để thực hiện yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam, ngày 30/6/1990, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa
VIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài
năm 1987 (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990). Luật
này đã sửa đổi, bổ sung 15 trên tổng số 42 điều của Luật Đầu tư nước ngoài năm
1987.
Với sự sửa đổi, bổ sung một cách đồng bộ này, hệ thống pháp luật về đầu
tư nước ngoài đã góp phần làm cho môi trường đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
vào những năm 1990 thêm hấp dẫn.
Ngày 23/12/1992, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư
nước ngoài (sửa đổi) năm 1992). Luật này đã sửa đổi, bổ sung 9 điều, bổ sung
mới 3 điều tập trung vào 9 vấn đề quan trọng.
Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 được thông qua, Nghị
định số 18/CP ngày 26/12/1992 của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành
35
36. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Nghị định 18), thay thế
cho Nghị định số 28/HĐBT ngày 6/2/1991 (sau đây gọi là Nghị định 28) và 17
văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng đã được ban hành. Như
vậy, cho đến trước khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm
1996, Nhà nước đã ban hành khoảng 110 văn bản luật và dưới luật liên quan đến
đầu tư nước ngoài, tạo môi trường pháp lý tương đối đầy đủ, đồng bộ cho hoạt
động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
2.2.3. Giai đoạn thứ ba (từ năm 1996 đến nay)
Giai đoạn này đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội; quan
hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến
hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.
Đảng và Nhà nước ta đã có các chủ trương, giải pháp cụ thể trong lĩnh vực
đầu tư nước ngoài. Ngày 12/11/1996 Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách cơ bản Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm
1990, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992, tiếp tục tạo môi trường pháp
lý hấp dẫn, thể hiện chính sách nhất quán thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam của Đảng và Nhà nước ta.
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 được ban hành trong bối cảnh hệ thống
pháp luật về kinh tế đã được xây dựng, sửa đổi, bổ sung tương đối đầy đủ, so với
trước kia. Nhiều đạo luật quan trọng đã được ban hành vào thời điểm này như
Bộ luật Dân sự, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp... nhằm thu hút tối đa mọi
nguồn vốn đầu tư, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Sau khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, Nghị định số 12/CP
ngày 18/2/1997 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Nghị định 12) và 15 văn bản pháp luật khác có
liên quan đến đầu tư nước ngoài cũng được ban hành.
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 cùng hệ thống các văn bản luật nói trên
đã tạo dựng khung pháp lý cơ bản điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài phù
36
37. hợp với đường lối, quan điểm của Đảng về phát triển và mở cửa nền kinh tế, đáp
ứng được yêu cầu của thời điểm đó.
Tuy nhiên, từ sau năm 1997, tình hình trong nước cũng như khu vực và
thế giới đã có nhiều thay đổi. Ở trong nước, tuy khu vực đầu tư nước ngoài vẫn
tiếp tục có đóng góp tích cực vào sự phát triển của kinh tế đất nước, nhưng
những năm sau đó, nhịp tăng thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam liên tục
suy giảm.
Trước thực tế trên, để chặn đà suy giảm, tiến tới có sự tăng trưởng của đầu
tư nước ngoài; ngày 9/6/2000, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư
nước ngoài (sửa đổi) năm 2000). Luật này đã bổ sung hai điều mới và sửa đổi,
bổ sung 20 điều của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996. Luật Đầu tư nước ngoài
(sửa đổi) năm 2000 đã đưa ra nhiều quy định mới nhằm tháo gỡ những vướng
mắc, khó khăn, giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Sau đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định 24. Nghị định gồm 14 chương,
125 điều và kèm theo 2 phụ lục.
Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 và Nghị định 24 đã tạo điều
kiện xích gần hơn giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo thế chủ động
trong tiến trình hội nhập và đảm bảo các cam kết quốc tế, làm cho môi trường
kinh doanh của Việt Nam hấp dẫn, thông thoáng hơn so với trước đây và so với
một số nước trong khu vực.
2.3. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN MỘT SỐ CHẾ ĐỊNH PHÁP LÝ
CHỦ YẾU CỦA PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
Việc nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước
ngoài nói chung cho ta thấy bức tranh tổng thể mang tính khái quát về pháp luật
đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, sẽ là đầy đủ hơn, nếu chúng ta đi sâu phân tích sự
hình thành và phát triển của một số chế định pháp lý chủ yếu của pháp luật đầu
tư nước ngoài như: chủ thể tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài; hình thức đầu tư
37
38. và phương thức đầu tư; các biện pháp bảo đảm đầu tư; các biện pháp khuyến
khích đầu tư; quản lý tài chính và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài; giải quyết tranh chấp, giải thể, thanh lý, phá sản doanh nghiệp; thủ
tục đầu tư; quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài.
2.3.1. Chủ thể tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định cụ thể về chủ thể tham gia
hợp tác đầu tư nước ngoài. Đây là bước tiến so với Điều lệ Đầu tư nước ngoài
năm 1977, vì trong Điều lệ chưa quy định cụ thể đối tượng nào thuộc Bên Việt
Nam được tham gia đầu tư nước ngoài. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã
quy định rất cụ thể những chủ thể thuộc Bên Việt Nam tham gia đầu tư, đó là:
"Một bên hoặc nhiều tổ chức kinh tế Việt Nam có tư cách pháp nhân. Các tư
nhân Việt Nam có thể chung vốn với tổ chức Việt Nam thành bên Việt Nam để
hợp tác kinh doanh với Bên nước ngoài".
Theo chúng tôi, việc quy định tư nhân phải chung vốn với tổ chức kinh tế
có tư cách pháp nhân để thành Bên Việt Nam là chưa hoàn toàn phù hợp với
chính sách kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta, mà nên quy định
tư nhân Việt Nam được phép độc lập tham gia hợp tác với nước ngoài để tạo cơ
hội cho các nhà đầu tư thuộc nhiều thành phần kinh tế, tự nguyện bỏ vốn để hợp
tác với các nhà đầu tư nước ngoài, qua đó góp phần nâng cao tỷ trọng vốn trong
nước so với toàn bộ cơ cấu đầu tư của nền kinh tế.
Tuy nhiên, việc cho phép tư nhân được độc lập hợp tác đầu tư nước ngoài
có những mặt trái, đó là: tư nhân Việt Nam, bên cạnh tiềm năng về vốn và năng
lực kinh doanh mà ta cần khai thác, còn có thể có những biểu hiện tiêu cực, như
lợi dụng sơ hở trong quản lý nhà nước để làm ăn không chính đáng, móc ngoặc
với Bên nước ngoài, vì lợi ích riêng mà bỏ qua lợi ích của đất nước; các nước tư
bản lớn có chính sách thù địch với ta đều có ý đồ thông qua việc phát triển thành
phần kinh tế tư nhân để tiến tới "tư nhân hóa" toàn bộ nền kinh tế của ta, xóa bỏ
chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Vì vậy, chủ trương cho phép thành phần kinh tế tư nhân được đứng độc
38
39. lập thành Bên Việt Nam để hợp tác đầu tư với nước ngoài cần được gắn với việc
hạn chế hoạt động của họ đối với một số lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa chiến
lược đối với an ninh, quốc phòng, như: công nghiệp quốc phòng, khai thác dầu
khí và các tài nguyên quý hiếm, một số ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn khác...
Trên cơ sở đó, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990 đã quy định
như sau: "Bên Việt Nam là một bên gồm một hoặc nhiều tổ chức kinh tế Việt
Nam có tư cách pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế" và "Các tổ chức kinh
tế tư nhân Việt Nam được hợp tác kinh doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài
trong lĩnh vực và điều kiện do Hội đồng Bộ trưởng quy định".
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định các tổ chức, cá nhân nước
ngoài phải đứng chung thành Bên nước ngoài để hợp tác với Bên Việt Nam, chứ
không được đứng riêng thành nhiều Bên nước ngoài độc lập với nhau.
Thực tiễn thi hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 cho thấy, không
phải lúc nào các tổ chức, cá nhân nước ngoài cũng muốn đứng chung thành Bên
nước ngoài. Có nhiều trường hợp, họ muốn đứng thành từng Bên nước ngoài độc
lập với nhau để tham gia liên doanh với Bên Việt Nam. Về phía Bên Việt Nam
cũng xảy ra những trường hợp tương tự. Vì vậy, việc mở ra hình thức liên doanh
có nhiều Bên nước ngoài và nhiều Bên Việt Nam tham gia là cần thiết, tạo cơ
hội cho các nhà đầu tư nước ngoài được đứng riêng, độc lập với nhau để hợp tác
với các đối tác Việt Nam thành lập doanh nghiệp liên doanh.
Trên tinh thần đó, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990 đã quy định
tại khoản 4 Điều 2 về vấn đề này như sau: "Nhiều bên là Bên Việt Nam và các
Bên nước ngoài, hoặc là Bên nước ngoài và Bên Việt Nam hoặc là các Bên Việt
Nam và các Bên nước ngoài". Từ việc quy định "Hai bên", đã bổ sung thêm
thuật ngữ "Nhiều bên" ngay sau thuật ngữ "Hai bên" tại các khái niệm "Hợp
đồng hợp tác kinh doanh" (khoản 5 Điều 2), "Hợp đồng liên doanh" (khoản 6
Điều 2), "Xí nghiệp liên doanh" (khoản 10 Điều 2).
Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 cho phép các tổ chức kinh tế tư
nhân có tư cách pháp nhân được hợp tác kinh doanh với nước ngoài như những
39
40. bên độc lập. Tổ chức kinh tế tư nhân có tư cách pháp nhân là công ty trách
nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần (Điều 18 Luật Công ty), còn doanh nghiệp
tư nhân theo Luật Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân. Như vậy,
doanh nghiệp tư nhân chưa được hợp tác kinh doanh với nước ngoài.
Trong khi đó, tư nhân ở nước ta có nguồn vốn không nhỏ, nhưng đầu tư
vào mục tiêu phát triển sản xuất còn quá ít; những người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, cũng như một số đối tác khác muốn đầu tư vào Việt Nam với quy
mô vừa phải, phù hợp với khả năng thực tế của mình.
Để pháp luật đầu tư nước ngoài phù hợp hơn với chính sách kinh tế nhiều
thành phần đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992 và huy động khả năng
hợp tác đầu tư của tư nhân Việt Nam và một số đối tác bên ngoài, Luật Đầu tư
nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 đã sửa đổi điểm 2 Điều 2 như sau: "Bên Việt
Nam là một bên gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế".
Từ sự phân tích ở trên cho thấy, với mỗi lần sửa đổi, bổ sung pháp luật
đầu tư nước ngoài, chế định chủ thể tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài ngày
càng phát triển theo hướng thông thoáng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi
thành phần kinh tế tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài.
2.3.2. Hình thức đầu tư và phương thức đầu tư
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã có những sửa đổi, bổ sung về ba
hình thức đầu tư đã được quy định trong Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977
theo hướng cụ thể, thực tiễn hơn.
Trên cơ sở hình thức hợp tác sản xuất chia sản phẩm được quy định trong
Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã
hoàn thiện thành hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh và quy định rất rõ đặc
trưng cơ bản của nó là các bên cùng góp vốn kinh doanh, sau đó phân chia kết
quả kinh doanh mà không thành lập một pháp nhân mới như hình thức liên
doanh. Mỗi bên hợp doanh vẫn giữ tư cách pháp nhân của mình, tự quản lý, thực
hiện nghĩa vụ tài chính theo pháp luật của nước mình: Bên hợp doanh Việt Nam
40