KHoá Luận Thủ Tục Đăng Ký Kết Hôn Theo Quy Định Của Pháp Luật Viết Nam Và Thực Tiễn Triển Khai. Đã chia sẻ đến cho các bạn sinh viên một bài mẫu khoá luận cực kì xuất sắc, mới mẽ và nội dung siêu chất lượng sẽ giúp bạn có thêm thật nhiều thông tin và kiến thức cho nên các bạn không thể bỏ qua bài mẫu này nhá. Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói zalo telegram : 0917 193 864 tải flie tài liệu – vietkhoaluan.com
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
Thủ Tục Đăng Ký Kết Hôn Theo Quy Định Của Pháp Luật Viết Nam Và Thực Tiễn Triển Khai.
1. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0917 193 864
TẢI FLIE TÀI LIỆU – VIETKHOALUAN.COM
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT
TÔ HỒNG MY
THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KẾT HÔN THEO QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIẾT NAM VÀ THỰC
TIỄN TRIỂN KHAI TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN
PHƯỜNG 7 QUẬN 6 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH DOANH
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
2. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0917 193 864
TẢI FLIE TÀI LIỆU – VIETKHOALUAN.COM
KHOA LUẬT
TÔ HỒNG MY
THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KẾT HÔN THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIẾT NAM VÀ THỰC TIỄN
TRIỂN KHAI TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG
7 QUẬN 6 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật kinh doanh – Mã số 52380101
Người hướng dẫn khoa học: …………………………….
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2023
3. i
LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành khoá luận này, tôi chân thành gửi lời cám ơn đến:
Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu công tác thực tiễn,
được sự hướng dẫn, giảng dạy của quý thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình
của cơ quan cùng với sự đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành
Khóa luận tốt nghiệp
Qua đây tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu cùng quý thầy cô Trường Đại học kinh tế Thành phố Hồ
Chí minh, các giảng viên, đã tận tình giảng dạy, truyền đạt nhiều kiến thức, kinh
nghiệm quý báu trong suốt thời gian học tập tại trường. Chân thành cảm ơn các
thầy cô, các cán bộ, công chức công tác tại UBND phường 7, quận 6 thành phố
Hồ Chí Minh đã tận tình hướng dẫn, cung cấp số liệu để tôi có thể hoàn thành tốt
khóa luận tốt nghiệp đúng tiến độ. Đặc. tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng
viên........... đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực
hiện khóa luận.
Quá trình làm khóa luận sẽ không tránh khỏi những sai sót nên rất mong
nhận được sự góp ý của các các Thầy, Cô để từ đó hoàn thiện tốt hơn các nội
dung của khóa luận.
Xin chân thành cảm ơn!
4. ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong khóa luận đều đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tác giả khóa luận
(Ký và ghi rõ họ tên người cam đoan)
5. iii
BẢNG QUY ĐỊNH VIẾT TẮT
Từ viết tắt Nghĩa của từ viết tắt
BLDS Bộ luật dân sự
ĐKKH Đăng ký kết hôn
HN&GĐ Hôn nhân và gia đình
QLNN Quản lý nhà nước
UBNG Ủy ban nhân dân
6. iv
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỒ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT
--- ---
PHIẾU ĐÁNH GIÁ CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
Sinh viên thực tập: NGUYỄN VĂN X………MSSV:………………..
Lớp: Luật kinh doanh…Khóa: ……… Hệ: …………………
Đơn vị thực tập: Viết tên Doanh nghiệp/Tổ chức/ Cơ quan vào đây
Đề tài nghiên cứu:
VIẾT TÊN ĐỀ TÀI KHÓA LUẬN VÀO ĐÂY…..
PHẦN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ & KẾT LUẬN
Tiêu chí đánh giá Nhận xét Đánh giá
(Đạt/không đạt)
A Ghi nhận kết quả thực tập tốt nghiệp
1 Điềm thực tập …….…/100
B Nhận xét đánh giá về quá trình viết khóa luận
2 Tinh thần thái độ
3 Thực hiện kế hoạch làm việc do GVHD
quy định
Nộp khóa luận về khoa
C Nhận xét đánh giá về hình thức và nội dung khóa luận
4 Hình thức khóa luận đã thực hiện
5 Nội dung khóa luận đã thực hiện
Kết luận của GVHD
(Cho phép/Không cho phép chấm KL)
Tp.HCM, ngày …… tháng ….. năm……
Người hướng dẫn viết khóa luận
7. v
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỒ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT
--- ---
PHIẾU ĐÁNH GIÁ CỦA GIẢNG VIÊN CHẤM KHÓA LUẬN
Sinh viên thực tập: …………………MSSV:………………..
Lớp: Luật kinh doanh Khóa: ……..Hệ: …………..…………
Đơn vị thực tập: Viết tên Doanh nghiệp/Tổ chức/ Cơ quan vào đây…
Đề tài nghiên cứu:
HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI – THỰC TIỄN TẠI
UBND PHƯỜNG 4, QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHẦN ĐÁNH GIÁ KHÓA LUẬN
Tiêu chí đánh giá Điểm
(Tối đa)
Điểm
chấm (1)
Điểm
chấm (2)
A Điểm quá trình
1 Quá trình (GVHD) 2 2 2
B Điểm hình thức khóa luận và tài liệu tham khảo
2 Hình thức khóa luận 0,5
3 Tài liệu tham khảo 0,5
C Điểm nội dung khóa luận
4 Tên đề tài - lý do chọn đề tài – Tình hình nghiên
cứu
0,5
5 Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu – kết cấu khóa
luận
0,5
6 Phương pháp và phạm vi nghiên cứu 0,5
7 Cơ sở lý luận và lý thuyết nghiên cứu 1
8 Thực trạng pháp luật 1
9 Thực trạng và thực tiễn thực hiện pháp luật 2
10 Nhận xét – Đánh giá – Đề xuất 1
11 Phần kết luận 0,5
Tổng điểm 10
8. vi
ĐIỂM KHÓA LUẬN (Trung bình cộng điểm 1 & 2)
Tp.HCM, ngày…… tháng…..năm….….
Người chấm phản biện
1. ………………………………
.
2. …………………………………..
9. vii
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...........................................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................................2
3. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu.............................................................................2
4. Kết cấu đề tài .................................................................................................................3
CHƯƠNG 1................................................................................................................4
2.2.1. Những điểm đạt được ......Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Những hạn chế của pháp luật trong việc quy định thủ tục đăng ký kết
hôn ................................................29
DANH MỤC TÀI LIỆU..........................................................................................39
10. 1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thì Gia
đình được xem là tế bào của xã hội. Đây là nơi xuất hiện và duy trì các mối
quan hệ về huyết thống, hôn nhân và nuôi dưỡng. Nhận thức được vai trò của
Gia đình trong sự phát triển xã hội cũng như thể hiện sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước ta về vấn đề này nên việc xây dựng trên một nền tảng cơ sở pháp
lý nhất định là điều vô cùng cần thiết. Việc tham gia vào các quan hệ Dân sự
nói chung mang tính mở rộng đã và đang đưa các chủ thể trong các quan hệ
được ràng buộc bằng các quy định pháp lý được thể hiện bằng các quy định rõ
ràng, cụ thể.
Quan hệ hôn nhân giữa vợ - chồng là một mối quan hệ được pháp luật
Dân sự theo nghĩa rộng quy định rõ ràng. Những quy định liên quan đến quan
hệ vợ - chồng nói chung được pháp luật quy định rất chặt chẽ. Trong đó có
các quy định về đăng ký kết hôn và các quy định có liên quan được Luật hôn
nhân và gia đình cũng như các văn bản pháp lý có liên quan điều chỉnh một
cách chi tiết nhằm áp dụng trong thực tiễn một cách có hiệu quả. Hiện nay,
không chỉ riêng ở Việt Nam mà các quốc gia trên thế giới việc xác lập quan
hệ hôn nhân theo cách truyền thống của mọi người trong xã hội như theo
phong tục cưới mà không có đăng ký trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cho dù quan hệ đó được mọi người công nhận nhưng pháp luật lại không thừa
nhận, việc này đã ảnh hưởng trực tiếp đến những người trong mối quan hệ
hôn nhân và có sự ảnh hưởng không nhỏ nếu kết thúc quan hệ hôn nhân của
hai vợ chồng. Vì vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì việc ĐKKH
đóng vai trò quan trọng và bắt buộc đối với các cặp đôi trong quá trình chung
sống. Bên cạnh những kết quả đạt được trong việc hoàn thiện pháp luật về
hôn nhân gia đình thì vấn đề ĐKKH vẫn còn nhiều vấn đề khó khăn, vướng
mắc. Xuất phát từ những sự khó khăn bất cập trên phương diện lý luận và
thực tiễn thì yêu cầu về tăng cường sự quản lý nhà nước về đăng ký kết hôn
đối với các địa phương là điều cần thiết bởi xuất phát từ sự thiếu chặt chẽ, tạo
điều kiện để người dân vi phạm mà pháp luật chưa kịp thời xử lý. Đồng thời,
thông qua hoạt động này sẽ cho thấy vai trò của UBND trong công tác quản lý
Hộ tịch – Hộ khẩu khi tiến hành đăng ký kết hôn cho đương sự rất quan trọng
trong quá trình thực hiện các quy định về ĐKKH của Luật HN&GĐ hiện nay.
Với tính ưu việt và tầm quan trọng của vấn đề đăng ký kết hôn đã trở
thành các quy định quan trọng nhằm đảm bảo quyền lợi của các chủ thể trong
quan hệ này đã khẳng định vai trò quan trọng trong các quy định về vấn đề
HN&GĐ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, với những quy định
của quy định này đã góp phần hoàn thiện quy định về quá trình tăng cường sự
11. 2
quản lý của Nhà nước về dân cư là điều vô cùng cần thiết. Điều này đã giúp
cho hoạt động quản lý của Nhà nước ngày càng hoàn thiện hơn trên hai
phương diện: lý luận và thực tiễn. Tuy vậy, thực tiễn áp dụng pháp luật về
hoạt động đăng ký kết hôn còn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Thực tế ở nước
ta, bên cạnh những thành quả đã đạt được trong vấn đề quy định về đăng ký
kết hôn còn bộc lộ những hạn chế trong quá trình thực hiện. Vì vậy, chọn đề
tài : “Thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam và
thực tiễn triển khai tại UBND phường 7, quận 6 thành phố Hồ Chí Minh"
làm đề tài khóa luận nhằm góp phần quan trọng để phát hiện những hạn chế
của pháp luật ở nước ta hiện nay. Qua đó nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật
dân sự nói chung và quan hệ hôn nhân được Luật hôn nhân và gia đình quy
định. Bên cạnh đó, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về đăng ký kết hôn
tại UBND cấp xã, phường ở nước ta hiện tại và trong tương lai.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Chọn vấn đề trên làm đối tượng nghiên cứu chúng ta có thể đi sâu phân
tích lý luận chung và các quy định cơ bản về vấn đề này. Vấn đề đăng ký kết
hôn trong quá trình giải quyết bắt đầu của quan hệ hôn nhân của vợ chồng
được pháp luật quy định. Đồng thời, được xem xét dưới nhiều góc độ: Chính
trị, kinh tế - xã hội, pháp luật...Nhất là cụ thể trong các quy định của pháp luật
dân sự về vấn đề này nhằm đảm bảo quyền của các chủ thể theo quy định của
pháp luật. Thông qua đó, càng khẳng định tầm quan trọng của vấn đề trên
trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay.
Từ đó, có thể rút ra những ưu, hạn chế của pháp luật dân sự nói chung về
các quy định về đăng ký kết hôn trên cả hai phương diện và phát hiện những
vướng mắc trong quá trình thực thi ở Việt Nam. Từ đó đề ra những giải pháp
góp phần phát triển và hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ dân sự - hôn nhân
gia đình, đồng thời tìm ra phương hướng khắc phục những khó khăn trong
quá trình tổ chức quản lý, thực thi pháp luật về dân sự nói chung.
3. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu
* Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về quan hệ hôn nhân và gia đình để phân tích,
lý giải các vấn đề.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tác giả sử dụng phương pháp này để
nghiên cứu các văn bản pháp luật có liên quan đến vấn đề đăng ký kết hôn
theo quy định của pháp luật về HN&GĐ; các đề tài khoa học, chương trình,
dự án, các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành.
12. 3
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: tác giả sử dụng phương pháp này
để nêu lên cơ sở lý thuyết về vấn đề đăng ký kết hôn theo quy định hiện hành
và đánh giá, khái quát thành những quan điểm, luận điểm làm nền tảng lý
luận cho khóa luận.
- Phương pháp thống kê: tác giả sử dụng phương pháp này chủ yếu ở
chương 2 của khóa luận, các số liệu thu thập, điều tra được tổng hợp, phân
tích làm cơ sở đánh giá thực trạng qua đó đánh giá về thành tựu, hạn chế để
đưa ra những giải pháp giải quyết vấn đề một cách cụ thể.
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong các văn bản pháp luật về đăng
ký kết hôn: Luật hôn nhân và gia đình và Nghị định, Thông tư hướng dẫn
thực hiện...
- Nội dung khóa luận giới hạn trong vấn đề lý luận về đăng ký kết hôn
được ghi nhận tại pháp luật của Việt Nam.
- Giới hạn khảo sát của khóa luận là quá trình áp dụng pháp luật về đăng
ký kết hôn trên địa bàn Phường 7, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh từ năm
2016 đến nay
4. Kết cấu đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận, nội dung của khóa luận gồm 03 chương:
Chương 1: Khái quát về thủ tục đăng ký kết hôn và pháp luật Việt Nam
về thủ tục đăng ký kết hôn
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về thủ tục đăng ký kết hôn
Chương 3: Thực tiễn triển khai pháp luật Việt Nam về thủ tục đăng ký
kết hôn tại UBND phường 7, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh
13. 4
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KẾT HÔN VÀ PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
1.1 Đăng ký kết hôn và thủ tục đăng ký kết hôn
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của đăng ký kết hôn và thủ tục đăng ký
kết hôn
* Khái niệm và đặc điểm đăng ký kết hôn
Theo từ điển Tiếng Việt ghi nhận: Đăng ký là đứng ra khai báo với cơ
quan quản lý để chính thức công nhận hay cho hưởng quyền và nghĩa vụ nào
đó1
.
Đăng ký kết hôn về cơ bản là hoạt động của cơ quan HCNN, là một thủ
tục quan trọng nhằm công nhận một mối quan hệ hôn nhân giữa Nam và Nữ
theo quy định pháp luật Việt Nam. Theo quy định pháp luật về HN&GĐ nói
chung thì chưa có một khái niệm pháp lý nào quy định về đăng ký kết hôn
trong thực tế. Tuy nhiên, đa phần chúng ta có thể hiểu một cách nôm na rằng:
ĐKKH là ghi vào Sổ đăng kí kết hôn để chính thức công nhận nam nữ là vợ
chồng trước pháp luật. Đăng kí kết hôn là hoạt động ĐKKH nhà nước, là thủ
tục pháp lí cần thiết làm cơ sở để Nhà nước công nhận quan hệ hôn nhân của
nam nữ. Để được đăng kí kết hôn, nam nữ phải làm tờ khai đăng kí kết hôn tại
cơ quan đăng kí kết hôn. Trên cơ sở đó, cơ quan đăng kí kết hôn tiến hành
xác minh, nếu các bên nam nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp
luật thì tổ chức đăng kí kết hôn cho nam nữ, ghi việc kết hôn vào sổ đăng kí
kết hôn và trao Giấy chứng nhận kết hôn cho nam nữ. Kể từ ngày đăng kí kết
hôn, các bên nam nữ phát sinh quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Như vậy,
có thể hiểu rằng muốn phát sinh quan hệ vợ chồng thì phải đăng ký kết hôn
theo quy định của pháp luật. Đồng thời, việc đăng ký kế hôn phải tiến hành
theo trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về HN&GĐ đã được quy
định.
Trên cơ sở khái niệm nêu trên có thể đưa ra một số đặc điểm về đăng ký
kết hôn như sau:
Một là, ĐKKH là hoạt động của NN trước yêu cầu của các cá nhân đề
nghị công nhận quan hệ hôn nhân giữa nam và nữ. Việc ghi nhận vào sổ
ĐKKH được hiểu là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của
pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kết hôn được quy định tại Khoản 1
Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Kết hôn là việc nam và nữ xác
lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết
hôn và đăng ký kết hôn2
. Trước khi xác lập một quan hệ hôn nhân, các điều
1
Từ điển Tiếng Việt (2010) Nhà xuất bản Đà Nẵng
2
Xem khoản 5 Điều 3 Luật HN&GĐ
14. 5
kiện về nội dung của việc kết hôn phải được cơ quan nhà nước kiểm tra một
cách chặt chẽ thông qua các thủ tục về đăng ký kết hôn. Việc ban hành quy
định về ĐKKH khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động quản lý nhà nước
về hộ tịch và dân cư ở nước ta hiện nay.
Hai là, mục tiêu của hoạt động ĐKKH nói chung là tăng cường hoạt
động quản lý nhà nước về dân cư. Đảm bao quyền và lợi ích của quan hệ hôn
nhân được pháp luật thừa nhận. Bởi tính chất quan trọng của việc ĐKKH nên
công tác này luôn được coi là một trong những hoạt động quan trọng của NN,
cá nhân, tổ chức và toàn xã hội. Vì vậy, trong công tác ĐKKH đã có sự phối
hợp lẫn nhau nhằm đáp ứng các yêu cầu và thực hiện tốt các quy định về
ĐKKH trong thời kỳ mới của đất nước.
Ba là, song song với hoạt động ĐKKH thì tăng cường hoạt động về quản
lý về đăng ký kết hôn, đảm bảo hoạt động kết hôn được thực hiện theo trình
tự, thủ tục đúng quy định và từ đó làm nền tảng hoàn thiện hệ thống pháp luật
về HN&GĐ ở nước ta hiện nay. Thông qua hành vi ghi vào sổ ĐKKH sẽ tạo
nên mối quan hệ pháp lý ràng buộc giữ các bên trong quá trình đăng ký kết
hôn theo quy định pháp luật hiện hành. Với trình tự thủ tục chặt chẽ với sự
xác minh từ cơ quan ĐKKH tại địa phương là nền tảng cơ bản để hình thành
mối quan hệ hôn nhân giữa các chủ thể.
Với quy định như trên Luật hôn nhân và gia đình 2014 đã điều chỉnh một
cách tương đối hợp lý các vấn đề liên quan đến pháp luật ĐKKH ở nước ta
hiện nay. Trên cơ sở tìm hiểu các quan điểm về ĐKKH của các nhà nghiên
cứu, pháp luật Việt Nam đã đưa ra một khái niệm về ĐKKH theo quy định
của pháp luật hôn nhân và gia đình một cách hoàn thiện phù hợp với thực tiễn
áp dụng tại Việt Nam. Tạo nền tảng pháp lý cơ sở cho các hoạt động quản lý
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong công tác quản lý nhà nước về
hôn nhân và gia đình, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật hôn nhân và gia
đình ở nước ta trong tiến trình hội nhập quốc tế.
* Khái niệm và đặc điểm của thủ tục đăng ký kết hôn
Nói đến thủ tục là nói đến quy trình và cách thức giải quyết công việc.3
Thực tế, để thực hiện có hiệu quả một công việc nhất định cần tiến hành một
loạt các hoạt động theo thứ tự trước sau và cách thức thực hiện từng bước
theo những quy định chặt chẽ, thống nhất.
Theo nghĩa chung nhất, thủ tục là phương thức, cách thức giải quyết
công việc theo một trình tự nhất định, một thể lệ thống nhất, gồm một loạt
nhiệm vụ liên quan chặt chẽ với nhau nhằm đạt được kết quả mong
muốn.Hoạt động của các cơ quan nhà nước cần phải tuân theo pháp luật,
3
Từ điển Tiếng Việt (2010) Nhà xuất bản Đà Nẵng
15. 6
trong đó có những quy định về trình tự, cách thức sử dụng thẩm quyền của
từng cơ quan để giải quyết công việc theo chức năng nhiệm vụ được giao.
Hiện nay, không có khái niệm thế nào là thủ tục đăng ký kết hôn. Tuy
nhiên, qua khái niệm về thủ tục thì có thể đưa ra khái niệm về Thủ tục đăng
ký kết hôn như sau: Thủ tục ĐKKH được hiểu là trình tự, cách thức thực
hiện, hồ sơ và yêu cầu, điều kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
quy định để thực hiện hoạt động đăng ký kết hôn giữa cá nhân với nhau trong
thực tế theo pháp luật HN&GĐ theo quy định hiện hành.
Thứ nhất, thủ tục ĐKKH được điều chỉnh bằng quy phạm thủ tục được
hiểu là cơ sở pháp lý cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện chức
năng của mình. Thủ tục ĐKKH là một bộ phận cấu thành của hệ thống quy
phạm thủ tục. Hệ thống quy phạm thủ tục là toàn bộ các quy tắc pháp lý quy
định về trình tự, trật tự thực hiện thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong
việc giải quyết công việc công việc nhà nước và thực hiện nghĩa vụ ĐKKH
của cơ quan nhà nước đối với công dân. Đó cũng chính là các hệ thống các
nguyên tắc quản lý và điều hành bắt buộc các cơ quan nhà nước cũng như các
công chức phải tuân theo trong giải quyết công việc thuộc thẩm quyền của
mình. Là quy phạm thủ tục, thủ tục ĐKKH có chức năng làm cho các quy
phạm nội dung của luật pháp được thực hiện thuận lợi. Thiếu thủ tục ĐKKH
việc thực thi luật pháp HN&GĐ sẽ gặp khó khăn, thậm chí không có khả năng
đi vào đời sống thực tế. Ví dụ: Nhà nước muốn thu thuế thì cần có thủ tục để
người dân thực hiện việc nộp thuế. Còn muốn quản lý an toàn giao thông thì
cần có thủ tục để hướng dẫn người dân tham gia giao thông tuân theo, v.v.
Hoạt động quản lý chủ yếu là hoạt động áp dụng pháp luật mà ở đó, hành vi
áp dụng pháp luật liên quan chủ yếu đến việc xác định tình trạng thực tế của
vụ việc, lựa chọn quy phạm pháp luật tương ứng và ra quyết định về vụ việc
đó. Các hành vi áp dụng pháp luật này được tiến hành theo những thủ tục
hành chinh nhất định. Như vậy nếu thiếu các thủ tục cần thiết thì quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia trọng hoạt động quản lý sẽ không được đảm
bảo thực hiện bằng các quy định pháp lý.
Thứ hai, thủ tục ĐKKH là trình tự thực hiện thẩm quyền trong hoạt động
quản lý ĐKKH của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Xét trong quá trình giải
quyết công việc của các cơ quan chính quyền địa phường thì thủ tục ĐKKH là
cách thức, trình tự mà UBND và cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng để
ĐKKH theo quy định của pháp luật HN&GĐ.
Thứ ba, thụ tục ĐKKH rất đa dạng và phức tạp. Tính đa dạng phức tạp
được biểu hiện như sau:
+ Do nhiều cơ quan và công chức nhà nước thực hiện;
16. 7
+ Quy định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia mối quan hệ
ĐKKH, trong đó bao gồm cả công việc của Nhà nước và công dân;
+ Việc quy định thủ tục ĐKKH phải kết hợp với những khuôn mẫu ổn
định tương đối và chặt chẽ với các biện pháp thích ứng cho từng loại công
việc và từng loại đối tượng;
+ Do chủ thể cơ quan ĐKKH nhà nước xây dựng để giải quyết công việc
nên phụ thuộc rất nhiều vào ý chí chủ quan của chủ thể ban hành.
+ Trong bối cảnh của quá trình hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay,
các thủ tục ĐKKH có yếu tố nước ngoài cần phải phù hợp với thông lệ quốc
tế.
Thứ tư, thủ tục ĐKKH có tính năng động hơn so với các quy phạm nội
dung của luật ĐKKH, đòi hỏi phải thay đổi nhanh hơn để thích ứng và phù
hợp với nhu cầu thực tế của đời sống xã hội. Đây chính là yếu tố cần nhận
thức đúng đắn giúp cho các nhà ban hành các quy định thủ tục ĐKKH ban
hành các quy định phù hợp với thực tế khách quan và tiến trình phát triển kinh
tế xã hội.
1.1.2 Sự cần thiết phải đăng ký kết hôn và thực hiện thủ tục đăng ký
kết hôn
Thứ nhất, việc quản lý ĐKKHcần phải được duy trì ổn định để đảm
bảo sự phát triển của xã hội.
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay thì
cần thiết có sự quản lý về HN&GĐ nói chung. Phải khẳng định vai trò quan
trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì việc ban
hành các quy định pháp luật nói chung nhằm quản lý vấn đề này là điều vô
cùng cần thiết.
Thực tế đã chứng minh rằng hoạt động quản lý HN&GĐ là nền tảng cơ
bản trong chính sách về quản lý dân cư và có tác động quan trọng trong việc
xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội của mỗi một quốc gia. Thông qua
việc xây dựng và phát triển cũng như công tác quản lý NN đối với vấn đề này
cần thiết phát huy vai trò của các cơ quan NN có thẩm quyền một cách hợp lý
và đạt hiệu quả trong quá trình hội nhập. Nhà nước thông qua các công cụ
pháp luật để khắc phục những hạn chế của kinh tế thị trường, nhằm bảo đảm
thực hiện mục tiêu phát triển xã hội đã đề ra và vấn đề quản lý dân cư giữ vai
trò quan trọng. Thông qua hoạt động quản lý của NN thông qua các vấn đề về
HN&GĐ là nền tảng giữ gìn và phát triển các quan hệ xã hội trong và ngoài
nước. Bởi lẽ quan hệ hôn nhân không chỉ là cá nhân trong nước mà hiện nay
việc điều chỉnh các mối quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, đảm bảo
quyền và lợi ích của công dân. Từ đó, với việc kiện toàn hệ thống quy định về
ĐKKH là nền tảng để nhà nước dễ dàng quản lý, nhằm hạn chế những hậu
17. 8
quả không tốt đối với hai bên nam nữ kết hôn. Đồng thời tạo điều kiện thuận
lợi cho người muốn kết hôn với người nước ngoài hoặc kết hôn có yếu tố
nước ngoài được được tiến hành một cách nhanh chóng và dễ dàng.
Thứ hai, bằng các chính sách, pháp luật và sức mạnh được giao, Nhà
nước giải quyết những mâu thuẫn về hoạt động ĐKKH trong nền kinh tế - xã
hội hiện nay. Trong quá trình hoạt động xây dựng và phát triển kinh tế - xã
hội nói chung thì các mối quan hệ có liên quan đến hoạt động của ĐKKH có
mối quan hệ với nhau. Từ các quy định trên việc ĐKKH nhằm bảo vệ các giá
trị đích thực của cuộc hôn nhân, tạo điều kiện cho mỗi người có cuộc sống
hạnh phúc, đảm bảo sự đình đẳng giữa các thành viên trong gia đình, tạo nên
sự công bằng trong xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển, đồng thời ngăn chặn
những hành vi lợi dụng quan hệ hôn nhân để thực hiện những việc trái đạo
đức xã hội mà bị pháp luật ngăn cấm.
Thứ ba, xuất phát từ vai trò quan trọng của mối quan hệ HN&GĐ
trong quá trình phát triển của kinh tế - xã hội hiện nay. Trong xã hội từ xưa
cho đến nay thì vai trò của ĐKKH giữ vai trò quyết định đối với mỗi nhà
nước, ĐKKH giữ vị trí trong việc quyết định những kế hoạch có liên quan đến
hoạt động quản lý dân cư nói chung ở nước ta trong quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Thứ tư, xuất phát bản chất giai cấp của nhà nước ta là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì Nhà nước XHCN Việt Nam đại diện cho lợi
ích của dân tộc và nhân dân lao động. Nhà nước của ta là nhà nước của dân,
do dân và vì dân; mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội do Nhà nước ta xác định
là nhằm đem lại lợi ích vật chất và tinh thần cho nhân dân. Để thực hiện các
quy định về HN&GĐ nhà nước sao cho hiệu quả thì Nhà nước ta phải thể
hiện bản chất giai cấp của mình để bảo vệ lợi ích của dân tộc và của nhân dân
thông qua việc quy định về trình tự, thủ tục ĐKKH cụ thể, từ đó, quản lý
nhằm đạt hiệu quả thiết thực. Chỉ có Nhà nước mới có thể làm được điều đó.
Bốn lý do chủ yếu trên đây chính là sự cần thiết khách quan của quản lý nhà
nước đối với hoạt động quản lý nhà nước về ĐKKH ở Việt Nam hiện nay
1.1.3 Ý nghĩa của việc đăng ký kết hôn và thực hiện thủ tục đăng ký
kết hôn
Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước trong thực
hiện các quy định về ĐKKH và thủ tục ĐKKH được thể chế hoá thành pháp
luật HN&GĐ – trở thành công cụ hữu hiệu để quản lý và HN&GĐ ở nước ta
hiện nay. Trên phương diện lý luận và thực tiễn, pháp luật HN&GĐ có các
vai trò sau:
Một là, thông qua việc hoàn thiện các quy định của pháp luật HN&GĐ
sẽ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về vấn đề này. Những quy định của
pháp luật trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với lĩnh
18. 9
vực HN&GĐ chính là cơ sở pháp lý cơ bản quy định về cơ cấu, tổ chức của
các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý về ĐKKJ. Việc hình
thành hệ thống cơ quan quản lý hộ tịch quản lý về ĐKKH nằm trong hệ thống
cơ quan nhà nước nói chung và được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến
địa phương. Thông qua việc quy định chức năng của mình, các cơ quan trên
thực hiện hoạt động kiểm tra giám sát thường xuyên các chủ thể tham gia vào
quan hệ pháp luật HN&GĐ , kịp thời ngăn chặn, phát hiện và xử lý những vi
phạm đối với lĩnh vực mà mình quản lý.
Hai là, vấn đề HN&GĐ có vai trò to lớn, góp phần quan trọng trong
việc đảm bảo thực hiện các quy định về HN&GĐ và là một trong những nội
dung cơ bản của quản lý nhà nước nói chung. Bằng việc quy định cụ thể nội
dung HN&GĐ tại các văn bản pháp lý hiện hành là tiền đề cho các hoạt động
HN&GĐ . Hệ thống văn bản pháp lý có vai trò không thể thay thế được trong
việc đảm bảo thực hiện các quy định về ĐKKH cho công dân , đồng thời đây
cũng là cơ sở quy định chức năng, nhiệm vụ, hoạt động của các cơ quan quản
lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hộ tịch.
Ba là, đối với xã hội, vấn đề HN&GĐ có vai trò đặc biệt to lớn trong xây
dựng và phát triển đất nước. Công dân được bảo vệ tốt là yếu tố đảm bảo phát
triển bền vững và ngược lại. Việc ban hành các quy phạm pháp luật về quản lý
nhà nước đối với lĩnh vực HN&GĐ là cơ sở pháp lý cho việc cơ quan nhà nước
thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý các vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực ĐKKH. Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát được thực hiện thường
xuyên, định kỳ hoặc đột xuất dựa vào các văn bản pháp luật do nhà nước ban
hành, còn xử lý vi phạm được áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức trong và
ngoài nước có những hành vi vô ý hoặc cố ý vi phạm các quy định của pháp luật
HN&GĐ .
Bốn là, HN&GĐ là lĩnh vực rộng lớn nên hoạt động QLNN về HN&GĐ
tác động nhiều đến kinh tế và xã hội. Việt Nam hiện nay đang thực hiện công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước nên cùng với quá trình xây dựng thì việc
HN&GĐ ngoài ý nghĩa kinh tế còn có ý nghĩa chính trị, xã hội rất quan trọng.
Đặt hoạt động QLNN về HN&GĐ trong quá trình xây dựng và phát triển lên
hàng đầu và trở thành nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, phù hợp với xu thế
chung trên thế giới hiện nay.
Năm là, pháp luật HN&GĐ có vai trò quan trọng trong việc nâng cao
nhận thức của xã hội trong lĩnh vực này. Những quy định về HN&GĐ có vai
trò trong việc giáo dục, truyền thông để từ đó góp phần nâng cao nhận thức của
xã hội về vấn đề xây dựng và phát triển trong môi trường lành mạnh, an toàn và
trong sạch. Góp phần quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế - xã hội một
cách bền vững ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Như vậy, thông qua việc
ban hành và hoàn thiện khung pháp lý cũng như quá trình thực hiện pháp luật
HN&GĐ một cách chặt chẽ và có hiệu quả đã góp phần trong việc bảo đảm
19. 10
hoạt động quản lý nhà nước về dân cư ở nước ta hiện nay.
1.2 Tổng quan pháp luật Việt Nam về thủ tục đăng ký kết hôn
1.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp luật Việt
Nam về thủ tục đăng ký kết hôn
* Trước cách mạng tháng Tám 1945
Trong thời kỳ phong kiến ở nước ta thì các quy định về thủ tục ĐKKH
được quy định rất hạn chế. Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, nước ta là
một nước phong kiến, ảnh hưởng của ách đô hộ hơn 1000 năm Bắc Thuộc.
Do đó, bản thẩn các quy định về phong kiến mang tính chất nho giáo, được
thực hiện theo nguyên tắc “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó”, thực hiện chế độ
“đa thê, nhiều vợ chung một chồng, coi trọng người đàn ông, vợ chồng không
bình đẳng”.
Tuy nhiên, trong bộ luật Hồng Đức – Quốc Triều Hình Luật và Bộ luật
Gia Long đã có các thủ tục kết hôn và thể hiện rõ nhất về kết hôn. Cụ thể như
sau:
Đối với bộ Luật Hồng đức có các quy định về kết hôn, cụ thể: Trong
quan hệ kết hôn, luật quy định các điều kiện để có thể kết hôn là: có sự đồng ý
của cha mẹ (điều 314), không được kết hôn giữa những người trong họ hàng
thân thích (điều 319), cấm kết hôn khi đang có tang cha, mẹ hay chồng (điều
317), cấm kết hôn khi ông, bà, cha hay mẹ đang bị giam cầm, tù tội (điều
318), cấm anh (em) lấy vợ góa của em (anh), trò lấy vợ góa của thầy (điều
324), với một số quy định khác trong các điều 316, 323, 334, 338, 339. Tuy
nhiên, luật Hồng Đức không quy định tuổi kết hôn, mặc dù trong Thiên Nam
dư hạ tập (phần lệ Hồng Đức hôn giá) có viết: "Con trai 18 tuổi, con gái 16
tuổi mới có thể thành hôn", có lẽ là do đã tồn tại một văn bản khác cùng thời
quy định về điều này. Luật Hồng Đức cũng quy định về hình thức và thủ tục
kết hôn như đính hôn và thành hôn (các điều 314, 315, 322). Lưu ý là luật
Hồng Đức cho thấy cuộc hôn nhân có giá trị pháp lý từ sau lễ đính hôn. Ví dụ
điều 315 quy định: Gả con gái đã nhận đồ sính lễ mà lại thôi không gả nữa thì
phải phạt 80 trượng...Còn người con gái phải gả cho người hỏi trước. Tuy
nhiên, nếu trong thời gian từ lễ đính hôn cho đến khi thành hôn mà một trong
hai bên bị ác tật hay phạm tội thì bên kia có quyền từ hôn.
Việc kết hôn theo bộ luật Hồng Đức được ghi nhận phải qua bốn lễ đó là
Nghị hôn (nhờ mối lái bàn định), Định thân (đem lễ vật vấn danh đến nhà
gái), Nạp trưng (đem đủ sính lễ dẫn cưới đến nhà gái), Thân nghinh (đón
dâu). Lễ vật đem đến nhà gái được quy định khác nhau đối với quan viên và
thường dân.
Điều 314 Bộ luật Hồng Đức quy định ai muốn cưới vợ thì phải đưa sính
lễ đến nhà cha mẹ đàng gái, trong trường hợp cha mẹ nhà gái chết hết thì đem
20. 11
đến nhà người trưởng tộc hay trưởng làng để xin cưới. Việc đính hôn thông
qua nạp trưng sính lễ có giá trị pháp lý ràng buộc trách nhiệm của hai bên
trong việc hứa hôn. Ngoài ra ở Điều 314 còn quy định nếu thành hôn cẩu thả
thì bị biếm một tư và phải nộp tiền tạ còn gọi là tiền xin lỗi cho bên đàng gái
theo luật sang hèn. Còn nếu thành hôn mà cha mẹ chết hết thì phải nộp tiền tạ
lỗi ấy cho người trưởng tộc hay trưởng làng, ngoài ra, người con gái còn bị
đánh 50 roi. Bộ luật Hồng Đức chú trọng về mặt hình thức đó là việc bên
muốn cưới vợ phải đưa sính lễ và đây là thủ tục bắt buộc.
Ngoài ra Điều 315 còn quy định nếu đã gả con gái mà nhận đồ sính lễ
rồi, ví dụ như: các món vàng vòng, tiền bạc, lụa, heo, rượu mà lại thôi không
chịu gả nữa thì bị đánh 80 trượng. Điều 94 Bộ luật Gia Long cũng quy định
tương tự.
Ngoài ra, Con gái hứa gả nhưng chưa làm lễ cưới, nếu người con trai có
ác tật hay phạm tội nào đó, hoặc chơi bời lêu lổng, phá gia sản thì người con
gái được phép báo lên quan ti để trả đồ lễ cưới. Nếu người con gái bị ác tật
hay phạm tội thì khỏi phải trả đồ lễ. Nếu làm trái luật này thì đánh 80 trượng
được quy định tại Điều 322 Bộ luật Hồng Đức. Trường hợp đôi nam nữ tự ý
chung sống với nhau như vợ chồng mà không qua lễ nghi theo luật định thì họ
được coi như “cẩu hợp” khi đó người con trai phải nộp tiền tạ lỗi cho cha mẹ
người con gái, đồng thời người con gái phải bị phạt 50 roi, như thế cuộc hôn
nhân của họ mới xem là hợp pháp và được xã hội chấp nhận. Nếu người con
trai và người con gái thông dâm trước với nhau “tiền dâm hậu thú” thì người
con trai sẽ bị luận tội đồ và bị đánh 80 trượng, người con gái sẽ bị đánh 50 roi
và không được xem là hôn nhân hợp pháp.
Bên cạnh đó Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long cũng có quy định
về các trường hợp mà người chồng được quyền bỏ vợ, phụ vợ, trả về gia đình
vợ, đó là: không có con, dâm đảng, không phụng sự bố mẹ chồng, lắm lời,
trộm cắp, ghen tuông, bị ác tội. Luật cũng quy định các trường hợp mà chồng
không được bỏ vợ đó là: khi vợ đã để tang bố mẹ chồng ba năm; khi lấy nhau,
vợ chồng nghèo, sau đó giàu có; khi lấy nhau, vợ còn bà con, họ hàng, nay vợ
không còn bà con họ hàng nào để trở về. Vì thế, dù vợ có phạm vào một trong
các điều thất xuất mà người vợ nằm trong ba trường hợp người chồng không
thể bỏ, nếu người chồng cố tình bỏ vợ thì bị phạt 60 trượng.
* Trong thời kỳ Pháp thuộc
Năm 1858, thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta. Nam kỳ là thuộc
địa của Pháp, Trung kỳ và Bắc kỳ nằm dưới sự bảo hộ của Pháp. Trong thời
kỳ này, các văn bản luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực hôn
nhân và gia đình chủ yếu là nhà nước thực dân phong kiến ban hành nhằm
tăng cường bộ máy cai trị của chúng trên đất nước chúng ta.
21. 12
Pháp luật hôn nhân và gia đình thời Pháp thuộc bao gồm ba Bộ luật dân
sự lần lượt ra đời ở ba kỳ. Ở Nam kỳ và ba thành phố được gọi là nhượng địa
bao gồm Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng thì có Bộ Dân luật giản yếu (Precis de
la legislation civile annamite). Bộ luật này phỏng theo Bộ luật dân sự của
Pháp năm 1804, tuy nhiên, Bộ luật này có nhiều thiếu sót trong lĩnh vực hôn
nhân và gia đình, nên chủ yếu là áp dụng đến tục lệ, Bộ luật Hồng Đức, Bộ
luật Gia Long. Bộ Dân luật Bắc hay còn gọi là Bộ dân luật thi hành tại các tòa
Nam án Bắc kỳ ban hành năm 1931. Chế định hôn nhân và gia đình nằm
trong quyển thứ nhất được biên soạn năm 1917. Bộ luật Hoàng Việt Trung Kỳ
Hộ luật thường được gọi tắt là Bộ luật Trung kỳ ban hành năm 1936 đến năm
1939, ở bộ luật này các chế định về hôn nhân và gia đình có một số thay đổi
nhưng cơ bản nó cũng gần giống như Bộ Dân luật Bắc.
Quan hệ hôn nhân thời Pháp thuộc là quan hệ hôn nhân được xác lập
theo nguyên tắc không có sự tự nguyên hoàn toàn, quan hệ hôn nhân một
chồng nhưng người chồng có thể có nhiều vợ, vợ chồng không bình đẳng. Cả
ba bộ luật thời Pháp thuộc đều công nhận một chồng nhưng nhiều vợ. Một
người đàn ông có thể có một vợ cả và sau đó có thể cưới thêm nhiều vợ lẽ,
nhưng khi cưới vợ lẽ thì phải có vợ cả và phải được sự đồng ý của người vợ
cả. Đây là chế độ hôn nhân gia đình theo thời quân chủ phong kiến của nước
ta trước đây pha lẫn một phần pháp luật của phương Tây, cụ thể là nước Pháp.
Nghi thức kết hôn trong thời kỳ này được tiến hành hai bước.
+ Thứ nhất, phải làm lễ hỏi (ước hôn). Lễ hỏi được tiến hành là thời
điểm trao nhận sính lễ.
+ Thứ hai, phải làm lễ cưới hay còn gọi là hôn lễ.
Điểm nổi bật trong nghi thức kết hôn khi chịu ảnh hưởng của pháp luật
phương Tây là hai bên muốn kết hôn thì phải đến chính quyền địa phương
làm thủ tục đăng ký kết hôn hay còn gọi là làm giấy hôn thú. Ở Việt Nam, đây
là lần đầu tiên mà việc kết hôn phải thông qua thủ tục đăng ký tại chính
quyền.
Từ thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp tiến hành đô hộ nước ta, sau đó cho ra
đời ba bộ luật ở ba miền Bắc – Trung – Nam. Tuy ở mỗi miền đều có bộ luật
riêng để áp dụng, nhưng ta có thể thấy điểm giống nhau trong ba bộ luật này ở
nghi thức kết hôn.
* Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Sau cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, ngày 2 tháng 9 năm
1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Ngay khi ra đời, Nhà nước ta
đã tiến hành nghiên cứu để ban hành một hệ thống pháp mới để điều chỉnh lại
các quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ Hôn nhân và gia đình mà trước đây
người dân đã bị chế độ xã hội cũ áp đặt.
22. 13
Năm 1950, Nhà nước ta mới ban hành hai sắc lệnh để điều chỉnh quan hệ
Hôn nhân và gia đình. Đó là sắc lệnh 97 - SL ngày 22/5/1950 về sửa đổi một
số quy lệ và chế định trong dân luật và sắc lệnh 159 - SL ngày 17/11/1950 các
điều khoản về ly hôn.
Tuy hai sắc lệnh này không đề cập đến thủ tục kết hôn, nhưng đã thể
hiện nhiều sự thay đổi theo hướng tích cực trong quan hệ Hôn nhân và gia
đình. Sắc lệnh 97 - SL ngày 22/5/1950 có quy định về việc xóa bỏ việc cấm
kết hôn trong thời kỳ chịu tang, Điều 3 sắc lệnh quy định: “trong thời kỳ tang
chế vẫn có thể lấy vợ, lấy chồng được”. Điều 2 quy định: “người con đã thành
niên không bắt buộc phải có cha me bằng lòng mới được kết hôn”. Ngoài ra
sắc lệnh này còn quy định: “người đàn bà ly dị có thể lấy chồng khác ngay
sau khi có án tuyên ly dị, nếu chứng minh rằng mình không có thai hoặc
đương có thai”. Vợ chồng có địa vị bình đẳng trong gia đình được quy định
tại Điều 5. Người đàn bà có chồng, có toàn năng lực về mặt hộ được quy định
tại Điều 6. Sắc lệnh 159 – SL ngày 17/11/1950 đã công nhận nguyên tắc tự do
hôn nhân, đó là quyền tự do kết hôn và tự kết hôn và tự do ly hôn. Điều 2 sắc
lệnh quy định: “Tòa án có quyền cho phép vợ hoặc chồng ly hôn trong các
trường hợp ngoại tình, một bên can án phát giam, một bên bị điên hoặc mắc
bệnh khó chữa, một bên bỏ nhà đi quá hai năm mà không có lý do, vợ chồng
có tính tình không hợp đến nổi không thể sống chung”. Ngoài ra, sắc lệnh còn
quy định: “vợ chồng có thể xin thuận tình ly hôn”. Điều này đã thể hiện quyền
tự do người dân trong việc quyết định vấn đề hôn nhân của mình. Quy định
trong sắc lệnh này còn nhằm bảo vệ người phụ nữ đặc biệt là người phụ nữ
đang mang thai, điều này được quy định tại Điều 5: “nếu người vợ có thai thì
vợ hay chồng có thể xin tòa hoãn đến sau kỳ sinh nở mới xử việc ly hôn”.
Ở miền Nam Việt Nam năm 1955 đế quốc Mỹ thay thực dân Pháp tiến
hành xâm lược miền Nam, chúng tiến hành chiến tranh xâm lược, thực hiện
âm mưu chia cắt đất nước ta ra hai miền Nam Bắc với hai chế độ chính trị
khác nhau. Đế quốc Mỹ liên kết với bọn tay sai phản động Sàn Gòn đã ban
hành hệ thống pháp luật về Hôn nhân và gia đình để áp dụng trên đất nước ta.
Hệ thống pháp luật này bao gồm:
- Luật gia đình số 1/59 ngày 2/1/1959 dưới thời Ngô Đình Diệm.
- Sắc lệnh số 15/64 ngày 23/7/1964 dưới thời Nguyễn Khánh.
- Bộ dân luật ngày 20/12/1972 dưới thời Nguyễn Văn Thiệu.
Về nghi thức kết hôn trong giai đoạn này, Luật gia đình số 1/59 quy
định: Nghi thức kết hôn gồm hai lễ, đó là lễ đính hôn và lễ cưới.
Luật gia đình năm 1959 được áp dụng thống nhất ở hai miền của nước ta
sau khi đất nước được thống nhất. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, có
nhiều vấn đề mới phát sinh cần phải điều chỉnh mà Luật gia đình năm 1959
23. 14
chưa dự trù đến những trường hợp đó. Đến giữa năm 1964, sắc luật 15/64 ra
đời, nó kế thừa nhiều nội dung được quy định trong Luật gia đình năm 1959,
đồng thời cũng bãi bỏ một số quy định không phù hợp với thực tiễn xã hội lúc
bấy giờ. Kế thừa sắc luật 15/64, Bộ dân luật năm 1972 có phần quy định về
quan hệ Hôn nhân với một số chi tiết tiến bộ hơn, phù hợp với tình hình xã
hội. Về nghi thức kết hôn cũng gồm hai lễ: lễ đính hôn và lễ kết hôn như Luật
gia đình năm 1959 và sắc luật 15/64.
* Từ năm 1975 đến nay
Đến cuối năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng quyết định thành lập ban dự
thảo Luật hôn nhân và gia đình mới. Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 ra
đời được kế thừa những nguyên tắc cơ bản trong Luật hôn nhân và gia đình
năm 1956, sắc luật 15/64, bộ Dân luật năm 1972. Đồng thời cũng bổ sung
những quy định mới phù hợp với xã hội. Luật hôn nhân và gia đình năm 1986
có thêm quy định mới về nguyên tắc của Luật hôn nhân và gia đình như: “hôn
nhân giữa các dân tộc Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo khác nhau được
tôn trọng và bảo vệ” hay bổ sung một số quy định mà trong xã hội trước chưa
phát sinh như kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài.
Về thủ tục kết hôn cũng giống như các quy định trước đây. Khi đăng ký
kết hôn thì đôi nam nữ đến Ủy ban nhân dân xã, phường nơi cư trú của một
trong hai người. Khi đó chính quyền địa phương hoặc thủ trưởng cơ quan
đang thực hiện việc đăng ký kết hôn sẽ xem xét các vấn đề liên quan, nếu
không có vấn đề thì Ủy ban nhân dân tiến hành đăng ký kết hôn cho họ và cấp
Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Về thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký
kết hôn, thì đôi nam nữ phải cùng đến. Chủ tịch hoặc một cán bộ thực hiện
việc đăng ký kết hôn sẽ cấp giấy kết hôn cho họ. Đây là thủ tục hành chính
bắt buộc về mặt pháp lý.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 được Quốc hội khóa X thông qua
ngày 9 tháng 6 năm 2000, gồm 13 chương, 110 điều. Luật này đã kế thừa
những quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 và bổ sung một số
quy định mới nhằm phù hợp với xã hội hiện nay. Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000 đã quy định về điều kiện kết hôn tại Điều 9 và Điều 10 nội dung
chủ yếu cũng giống Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, bổ sung quy định
“cấm kết hôn đồng giới”, đồng thời luật cũng xóa bỏ những quy định “cấm
kết hôn do mắc bệnh hoa liễu, bệnh hủi, người mất năng lực về sinh lý”. Về
thủ tục đăng ký kết hôn, luật quy định khá giống với luật trước đó. Tuy nhiên,
về thẩm quyền đăng ký kết hôn được quy định tại Điều 4, luật phân ra rõ ràng
hơn, giải quyết các vấn đề khi đăng ký kết hôn được quy định tại Điều 13.
Ngày 19 tháng 6 năm 2014, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật hôn nhân và gia đình
(sau đây gọi là Luật hôn nhân và gia đình năm 2014). Ngày 26 tháng 6 năm
24. 15
2014, Luật đã được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký
Lệnh công bố. Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2015.
Đối với quy định về kết hôn tại Điều 8 đã có những sửa đổi so với Luật
HN&GĐ năm 2000, cụ thể: Quy định điều kiện kết hôn theo hướng là những
điều kiện có hiệu lực của việc kết hôn (chủ thể, ý chí, không vi phạm điều
cấm). Trong đó, tuổi kết hôn kế thừa luật hiện hành nhưng tính theo nguyên
tắc tròn đủ. Không cấm việc kết hôn giữa những người cùng giới tính, nhưng
cũng không thừa nhận hôn nhân của họ (Điều 8);
Như vậy, theo sự thay đổi của xã hội, các quan hệ Hôn nhân và gia đình
cũng thay đổi theo nhằm đáp ứng cho cuộc sống của mọi người dân. Hệ thống
pháp luật về Hôn nhân và gia đình nước ta ngày càng hoàn thiện, nó là công
cụ để nhà nước ta thực hiện quyền quản lý xã hội và bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của người dân, thúc đẩy xã hội phát triển.
1.2.2 Hệ thống các văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục
đăng ký kết hôn
Vấn đề về thủ tục đăng ký kết hôn hiện nay đã và đang được nhà nước ta
quan tâm, chú trọng trong giai đoạn xây dựng và phát triển hiện nay. Hiện
nay, hầu hết quốc gia trên thế giới đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật về lĩnh vực này một cách hoàn chỉnh nhất. Có thể kể đến hệ thống văn
bản pháp luật của Hoa Kỳ, Nhật Bản hay một số quốc gia láng giềng của nước
ta như Trung Quốc…. Những quy định về hoạt động quản lý nhà nước đối với
hoạt động quản lý nhà nước về thủ tục đăng ký kết hôn đã đáp ứng, thậm chí
vượt qua nhiều các tiêu chuẩn nhằm phục vụ cho quá trình xây dựng các đất
nước trong giai đoạn hiện nay. Đối với vấn đề về quản lý nhà nước về
HN&GĐ đã và đang trở thành vấn đề nhận được nhiều quan tâm của các cơ
quan NN có thẩm quyền và toàn xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của
lĩnh vực này, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Đồng thời, thể chế hóa
các chủ trương, chính sách của Đảng về “xây dựng gia đình Việt Nam no ấm,
tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan
trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” được thể hiện
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2011 - 2023 được thông qua tại Đại hội lần thứ XI của Đảng và Hiến
pháp nước CHXHCN Việt Nam; bảo đảm phù hợp với các quy định của Hiến
pháp năm 2013, đồng bộ với các luật hiện hành khác có liên quan đến quan hệ
hôn nhân và gia đình, đặc biệt là Bộ luật dân sự năm 2005. Tôn trọng và có cơ
chế pháp lý đầy đủ để bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người, quyền
công dân trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình; bình đẳng giới; bảo vệ bà mẹ,
trẻ em và những người yếu thế khác; quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức khác
có liên quan; lợi ích của gia đình, của Nhà nước và xã hội;
25. 16
Cùng với Hiến pháp, các văn bản luật cũng quy định theo hướng ngày
càng hoàn thiện và phù hợp hơn về nội dung thủ tục đăng ký kết hôn, đáp ứng
với yêu cầu chính trị, quá trình xây dựng kinh tế - xã hội ở nước ta trong tình
hình mới, cụ thể như sau:
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về điều kiện kết hôn
(Điều 8); Đăng ký kết hôn (Điều 9)...tạo ra cơ chế trong hoạt động quản lý
nhà nước về hộ tịch và hoạt động ĐKKH nói chung. Văn bản pháp lý này đã
quy định nhiều nội dung phù hợp tạo điều kiện tối đa cho công tác quản lý
nhà nước đối với hoat động có liên quan đến thủ tục đăng ký kết hôn trong
giai đoạn hiện nay.
Đồng thời, một số Nghị định, Thông tư hướng dẫn đã được những cơ
quan có thẩm quyền ban hành nhằm hướng dẫn thi hành pháp luật về thủ tục
đăng ký kết hôn thông qua một số văn bản sau:
- Luật hộ tịch năm 2014
- Nghị định số 123/2015/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành luật hộ tịch quy định các giấy tờ nộp và xuất trình
khi đăng ký kết hôn;
- Thông tư 15/2015/TT-BTP quy định thi hành một số điều của Luật hộ
tịch.;
Ngoài ra còn có việc sửa đổi hệ thống mục lục thủ tục đăng ký kết hôn
được quy định thông qua các năm đã cho thấy hoạt động ban hành các văn
bản hướng dẫn nêu trên đã giúp cho quá trình áp dụng những quy định của
pháp luật về thủ tục đăng ký kết hôn ở nước ta được thực hiện một cách hoàn
thiện hơn. Trên cơ sở tuân thủ quy định của sự vận động khách quan của đất
nước trong tình hình mới, Việt Nam đã xây dựng và ban hành những quy định
nhằm điều chỉnh vấn đề quản lý NN về thủ tục ĐKKH phù hợp với hoàn cảnh
thực tiễn ở nước ta. Hình thành nền tảng pháp lý cơ bản trong việc thực thi
pháp luật về ĐKKH ở Việt Nam, góp phần không nhỏ trong quá trình xây
dựng và phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Như vậy,
có thể thấy pháp luật quy định khá thống nhất và xuyên suốt về vấn đề thủ tục
đăng ký kết hôn. Điều này tạo điều kiện để công tác quản lý về thủ tục đăng
ký kết hôn đã thể hiện sự quan tâm thường xuyên và ý nghĩa của Đảng và Nhà
nước ta đối với vấn đề này ở nước ta khi khẳng định vai trò quan trọng của
ngân sách khi xây dựng đất nước. Đồng thời, cùng với hoạt động ban hành
các văn bản hướng dẫn nêu trên đã giúp cho quá trình áp dụng những quy
định của pháp luật về thủ tục đăng ký kết hôn ở Việt Nam thực hiện một cách
hoàn thiện hơn. Từ đó hình thành nền tảng pháp lý cơ bản trong việc thực thi
pháp luật về ĐKKH trong tiến trình phát triển đất nước, góp phần không nhỏ
nhằm ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật cũng như đề cao vai trò của
ĐKKH trong quá trình hội nhập kinh tế - quốc tế hiện nay
26. 17
Hoạt động đăng ký kết hôn là một chế định pháp lý quan trọng trong
quá trình phát triển của đất nước trong tình hình mới. Chế định này ra đời
và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của nhà nước. Trải qua
quá trình sửa đổi, bổ sung, các quy định của nhà nước đối với vấn đề này
đã được hệ thống hóa trong các văn bản quản lý nhà nước nói chung và
thực sự khẳng định vai trò quan trọng của các quy định này trong hoạt
động quản lý nhà nước về vấn đề này nói chung. Quá trình áp dụng các văn
bản vào hiện thực, góp phần đảm bảo tính chặt chẽ trong công tác quản lý
NN đối với HN&GĐ quốc gia. Thực hiện tốt pháp luật về vấn đề này nói
chung là tiền đề quan trọng trong việc thực hiện công tác quản lý NN về
ngân sách. Chương 1 của khóa luận đã phân tích một cách khái quát về
hoạt động quản lý nhà nước về thủ tục đăng ký kết hôn theo pháp luật Việt
Nam, bao gồm: Khái niệm có liên quan đến dăng ký kết hôn và thủ tục
đăng ký kết hôn, lịch sử phát triển về thủ tục đăng ký kết hôn, hệ thống quy
định về thủ tục ĐKKH, sự cần thiết phải thủ tục đăng ký kết hôn và vai trò
của pháp luật đối với vấn đề này. Trên cơ sở lý luận ở Chương 1, tác giả
vận dụng thực tiễn tại UBND phường 7, quận 6 thành phố Hồ Chí Minh để
đánh giá tình hình thi hành, kết quả đạt được và những hạn chế, khó khăn
gặp phải trong quá trình thi hành pháp luật về thủ tục đăng ký kết hôn được
trình bày trong Chương 2 của khóa luận.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC
ĐĂNG KÝ KÉT HÔN
2.1 Những nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về thủ tục đăng
ký kết hôn
2.1.1 Chủ thể trong hoạt động đăng ký kết hôn
2.1.1.1 Chủ thể đăng ký kết hôn
Để thực hiện việc đăng ký kết hôn thì trong quan hệ pháp lý về đăng ký
kết hôn thì có 02 chủ thể: (i) chủ thể là người kết hôn; (ii) chủ thể là cơ quan
nhà nước nơi ĐKKH. Các chủ thể phải đáp ứng các điều kiện sau
Một là, về người kết hôn phải đáp ứng những điều kiện theo quy định
của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau:
- Trước hết phải đáp ứng về độ tuổi kết hôn đối với nam giới phải đủ từ
20 tuổi trở lên, với nữ giới phải từ đủ 18 tuổi trở lên là độ tuổi đủ trưởng
thành về mặt nhận thức để lập gia đình.
- Về ý chí của hai bên, khi kết hôn để được pháp luật ghi nhận là kết hôn
hợp pháp thì giữa nam và nữ phải có ý chí tự nguyện để kết hôn với nhau, đến
với nhau bằng mong muốn chung sống với nhau hợp pháp, xây dựng hạnh
27. 18
phúc gia đình, không có yếu tố lừa dối, giả tạo để kết hôn hay có yếu tố cưỡng
ép người khác để kết hôn.
- Người thực hiện việc kết hôn phải là người không thuộc vào trường
hợp mất năng lực hành vi dân sự, đủ tỉnh táo và minh mẫn để kết hôn với
người khác.
- Việc kết hôn với người khác hơp pháp còn phải đáp ứng điều kiện là
không thuộc vào các trường hơp cấm kết hôn theo quy định của pháp luật 4
, ví
dụ như: Người nào đã kết hôn thì không được kết hôn với người khác, hoặc
biết người khác đã có vợ, hoặc có chồng rồi nhưng vẫn cố tình kết hôn với
người khác. Hoặc pháp luật cũng cấm kết hôn đối với những trường hợp đối
tượng kết hôn là những người có quan hệ thân thích trong gia đình, trong
dòng máu trực hệ hoặc phạm vi 3 đời. Cấm kết hôn giữa các đối tượng đã là
cha, mẹ,con nuôi với nhau hợp pháp, hoặc họ đã từng là cha, mẹ con nuôi.
Cấm hôn kết hôn giữa cha mẹ vợ, cha mẹ chồng với con rể, con dâu; giữa con
riêng với cha dượng, mẹ kế.5
Hai là, về cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn. Hiện nay, căn cứ vào
quy định tại khoản 1, điều 17, Luật Hộ tịch năm 2012 quy định:
"Điều 17. Thẩm quyền đăng ký kết hôn và nội dung Giấy chứng nhận kết
hôn
1. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ
thực hiện đăng ký kết hôn.
....”
Như vậy cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn là Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ thực hiện đăng ký kết hôn.
Nếu kết hôn với người nước ngoài thì theo theo quy định tại điều 36,
Luật Hộ tịch thì thẩm quyền đăng ký kết hôn là:
"Điều 37. Thẩm quyền đăng ký kết hôn
1. Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam thực
hiện đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; giữa
công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với công dân Việt Nam định cư ở
nước ngoài; giữa công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài với nhau; giữa
4
Xem điểm d, khoản 1 Điều 8 Luật HN&GĐ
5
Khoản 2 Điều 5. Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ,
chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có
họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi,
cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
28. 19
công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài với công dân Việt Nam
hoặc với người nước ngoài.
2. Trường hợp người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có yêu cầu đăng ký
kết hôn tại Việt Nam thì Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của một trong
hai bên thực hiện đăng ký kết hôn.” Như vậy, về cơ quan có thẩm quyền đăng
ký kết hôn là UBND cấp xã và UBND cấp huyện đối với hôn nhân trong và
ngoài nước.
2.1.1.2 Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn
Cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn gọi chung là cơ quan đăng ký
kết hôn. Pháp luật về hôn nhân và gia đình nước ta quy định việc đăng ký kết
hôn do nhiều cơ quan khác nhau tiến hành. Việc xác định thẩm quyền đăng ký
kết hôn phụ thuộc vào việc kết hôn đó là giữa công dân Việt Nam với nhau ở
Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài, giữa công dân
Việt Nam với người nước ngoài hoặc giữa người nước ngoài với nhau trên
lãnh thổ Việt Nam.
Theo khoản 1, điều 17, Luật Hộ tịch năm 2012:
"Điều 17. Thẩm quyền đăng ký kết hôn và nội dung Giấy chứng nhận kết
hôn
1. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ
thực hiện đăng ký kết hôn.”. Như vậy, khi công dân Việt Nam kết hôn với
nhau mà việc đăng ký kết hôn đó được tiến hành tại Việt Nam, thì thẩm quyền
đăng ký kết hôn đó thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của hai bên nam
hoặc nữ.
Thẩm quyền đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở Việt
Nam cũng được quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
năm 2014: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.” Điểm
này là có sự khác biệt so với luật HN&GĐ năm 2000 tại điều 12 quy đinh:
“Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết
hôn là cơ quan đăng ký kết hôn”. Việc quy định của luật HN&GĐ 2014 được
thực hiện cho đảm bảo tính thống nhất với Luật hộ tịch năm 2012. Đảm bảo
cho quá trình xây dựng và hoàn thiện thống nhất pháp luật về HN&GĐ trong
thực tế.
Đối với quy định về nơi cư trú được xác định theo Luật cư trú. Khoản 1
Điều 12 Luật Cư trú năm 2006 quy định: “Nơi cư trú của công dân là chỗ ở
hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là
nơi thường trú hoặc nơi tạm trú”. Theo quy định, Ủy ban nhân dân cấp xã,
nơi đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc nơi đăng ký tạm trú của một trong hai
bên sẽ thực hiện việc đăng ký kết hôn cho họ. Nơi thường trú và nơi tạm trú
29. 20
của cá nhân được xác định theo Luật Cư trú năm 2006. Theo Luật Cư trú quy
định: “Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định,
không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú” còn
“Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã
đăng ký tạm trú”. Trong trường hợp không xác định được nơi cư trú của công
dân theo quy định trên thì nơi cư trú của công dân là nơi người đó đang sinh
sống. Việc xác định nơi cư trú của cá nhân cũng được quy định theo quy định
của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015. Theo Điều 38 Bộ luật Dân sự Việt
Nam năm 2015 quy định: “Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường
xuyên sinh sống. Việc xác định nơi thường xuyên sinh sống được áp dụng theo
quy định của Luật cư trú.
+ Trường hợp không xác định được nơi cư trú của cá nhân theo quy
định tại khoản 1 Điều 38 Bộ luật dân sự 2015 thì nơi cư trú là nơi người đó
đang sinh sống.
+ Cá nhân có quyền lựa chọn nơi cư trú khác với quy định tại khoản 1
và khoản 2 Điều 38 Bộ luật dân sự 2015 để xác lập, thực hiện một hành vi
pháp lý, trừ trường hợp luật có quy định khác”. Tuy nhiên, việc xác định nơi
cư trú của cá nhân là của người đang làm nghĩa vụ quân sự hoặc đang phục vụ
có thời hạn trong Công an nhân dân là nơi đơn vị của người đó đóng quân.
Đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công chức quốc phòng,
công nhân quốc phòng; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên môn kỹ thuật, công nhân, viên chức, Công an nhân dân thì nơi cư trú
của họ là nơi đơn vị của người đó đóng quân hoặc làm việc, trừ trường hợp họ
có nơi cư trú theo quy định tại khoản 1 Điều 12 của Luật Cư trú.
* Về xác nhận tình trạng hôn nhân thì được ghi nhận theo Điều 18 Nghị
định 123/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật hộ tịch quy định:
Điều 21. Thẩm quyền cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân
1. Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của công dân Việt Nam thực
hiện việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.
Trường hợp công dân Việt Nam không có nơi thường trú, nhưng có đăng
ký tạm trú theo quy định của pháp luật về cư trú thì Ủy ban nhân dân cấp xã,
nơi người đó đăng ký tạm trú cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.
2. Quy định tại Khoản 1 Điều này cũng được áp dụng để cấp Giấy xác
nhận tình trạng hôn nhân cho công dân nước ngoài và người không quốc tịch
cư trú tại Việt Nam, nếu có yêu cầu. Như vậy, ta có thể thấy rằng đương sự có
thể tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp xã khác nơi cư trú của
người đó. Ngoài ra, Khoản 2 Điều 18 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15
tháng 11 năm 2015 quy định về đăng ký và quản lý hộ tịch còn quy định thêm
về việc áp dụng đối với việc kết hôn có yếu tố nước ngoài.
30. 21
Theo đó theo quy định của pháp luật hộ tịch thẩm quyền để đăng ký kết
hôn không có yếu nước ngoài là thẩm quyền của ủy ban nhân dân cấp xã nơi
cư trú của một trong hai bên nam, nữ thực hiện đăng ký kết hôn. Trong đó nơi
cư trú của công dân theo quy định của pháp luật cư trú là chỗ ở mà người
công dân đó đang thường trú hoặc tạm trú là nơi người đó thường xuyên sinh
sống hoặc hiện tại đang sinh sống, theo đó xác định có thể là nơi một trong
hai bên đang tạm trú hoặc đang thường trú. Như vậy, đối với trường hợp kết
hôn không có yếu tố nước ngoài thì hai bên có thể lựa chọn ủy ban nhân dân
xã nơi một trong hai bên đang tạm trú hoặc thường trú đều có thẩm quyền
đăng ký kết hôn. Đối với trường hợp đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài
theo quy định của pháp luật thẩm quyền đăng ký kết hôn là thuộc về Uỷ ban
nhân cấp huyện. Trong đó UBND cấp huyện đang là nơi cư trú của công dân
Việt Nam sẽ thực hiện các thủ tục đăng ký kết hôn đối với các đối tượng
đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài, ví dụ: giữa công dân Việt Nam và công
dân nước ngoài, công dân Việt Nam với công dân Việt Nam định cư ở nước
ngoài..vvv…Đối với vấn đề kết hôn giữa hai bên nam nữ ngoài việc đáp ứng
điều kiện để kết hôn thì phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Nếu các
bên thực hiện viêc kết hôn nhưng không được đăng ký theo quy định của
pháp luật thì không có giá trị pháp lý và không được pháp luật đây là vợ
chồng hợp pháp.
2.1.2 Hồ sơ đăng ký kết hôn
2.1.2.1 Tờ khai đăng ký kết hôn
Theo quy định hiện nay thì tờ khai đăng ký kết hôn là một trong những
giấy tờ không thể thiếu cho thủ tục đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, không phải ai
cũng biết bước đầu trong thủ tục đăng ký kết hôn là điền tờ khai để đăng ký
kết hôn. Mẫu tờ khai đăng ký kết hôn là mẫu tờ khai được ban hành kèm theo
Thông tư 15/2015/TT-BTP được sử dụng để nam nữ đăng ký kết hôn. Tờ khai
kết hôn thể hiện thông tin do hai bên nam nữ tự khai, được kiểm tra lại và
được lưu trữ trong hồ sơ đăng ký kết hôn. Theo quy định, hai bên nam nữ bắt
buộc điền thông tin vào tờ khai kết hôn. Nam nữ có thể sử dụng 1 tờ khai
chung, để cơ quan có thẩm quyền xác định thông tin nhân thân, nơi cư trú, đã
kết hôn mấy lần rồi… Qua đó, làm căn cứ để tiến hành làm giấy chứng nhận
kết hôn cho nam nữ.
Khi tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn, công dân có thể lấy tờ khai làm
giấy kết hôn theo các cách như sau:
Cách 1: Tải mẫu khai đăng ký kết hôn ban hành kèm theo Thông tư
15/2015/TT-BTP hướng dẫn Luật Hộ tịch và NĐ 123/2015/NĐ-CP.
31. 22
Cách 2: Công dân đăng ký kết hôn ở đâu thì đến trực tiếp cơ quan có
thẩm quyền đăng ký kết hôn để xin mẫu giấy khai đăng ký kết hôn.
Theo quy định Luật Hộ tịch năm 2014, công dân có thể xin mẫu khai kết
hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn sau:
- Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký kết hôn cho công dân Việt Nam cư trú
ở trong nước; công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới với công
dân của nước láng giềng thường trú ở khu vực biên giới với Việt Nam;
- Ủy ban nhân dân cấp huyện đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài cho
công dân Việt Nam;
- Cơ quan đại diện đăng ký kết hôn cho công dân Việt Nam cư trú ở
nước ngoài;
Khi tiến hành lập tờ khai hai bên nam, nữ phải điền đầy đủ các thông tin
cá nhân của mình vào Tờ khai đăng ký kết hôn. Trong trường hợp hai bên
nam, nữ cùng cư trú tại một xã, phường, thị trấn hoặc cùng công tác trong
cùng một đơn vị vũ trang nhân dân, thì hai bên đăng ký kết hôn chỉ cần khai
vào một Tờ khai đăng ký kết hôn6
. Tờ khai đăng ký kết hôn phải có xác nhận
của cơ quan, đơn vị công tác hoặc Ủy ban nhân dân của xã, phường, thị trấn
nơi cư trú của mỗi bên về tình trạng hôn nhân nếu họ không cùng nơi cư trú.
Từ đó, làm nền tảng cho hoạt động ĐKKH của công dân tại các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
2.1.2.2 Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân
Giấy xác định tình trạng hôn nhân là giấy tờ xác định tình trạng của một
cá nhân đã kết hôn hay chưa kết hôn hoặc đã ly hôn, vợ hoặc chồng đã chết,
là một trong những giấy tờ quan trọng trong nhiều thủ tục pháp lý không thể
không có (như là đăng kí kết hôn, mua bán đất đai, đi lao động nước
ngoài…), là văn bản do Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, nơi người yêu
cầu thường trú cấp.Mặc dù biết được vai trò quan trọng của giấy xác nhận
tình trạng hôn nhân nhưng không phải ai cũng biết điều kiện và thủ tục cấp
như thế nào?.
Đối với Chủ thể muốn xin Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân phải có
đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Ngoài ra trường hợp xin giấy xác nhận tình
trạng hôn nhân để nhằm mục đích kết hôn thì cần đáp ứng những điều kiện
sau: (i) Một bên phải không cùng thường trú trên cùng một địa phương (tức là
nếu làm thủ tục đăng kí kết hôn mà cả bạn nam và bạn nữ có hộ khẩu thường
trú trên cùng một địa phương thì không cần phải xin Giấy xác nhân tình trạng
6
Thông tư 15/2015/TT-BTP hướng dẫn Luật Hộ tịch và NĐ 123/2015/NĐ-CP.
32. 23
hôn nhân); (ii) Không thuộc trường hợp bị cấm kết hôn theo quy định của
pháp luật.7
Thứ hai: Thẩm quyền cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Căn cứ
Điều 21 nghị định 123/2015 NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành luật hộ tịch quy định như sau: Việc cấp Giấy xác nhận tình
trạng hôn nhân cho cá nhân yêu cầu thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi thường trú của công dân. Trong trường hợp người yêu cầu không
có nơi đăng kí thường trú nhưng có nơi đăng kí tạm trú thì do Ủy ban nhân
dân người đó có nơi đăng kí tạm trú có thẩm quyền cấp. Như vậy thì thẩm
quyền cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của công dân không chỉ Ủy ban
nhân nơi đăng kí thường trú mới có thẩm quyền mà trong trường hợp không
có nơi thường trú thì nơi tạm trú cũng có thẩm quyền.
Ngoài ra thẩm quyền trên còn có thể cấp cho công dân nước ngoài và
người không có quốc tịch cư trú trên lãnh thổ Việt Nam khi họ có yêu cầu.
Thứ ba: Thủ tục cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Để được cấp
giấy xác nhận tình trạng hôn nhân thì khi lên làm thủ tục người yêu cầu cần
mang theo giấy tờ sau:
+ Chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ tùy thân khác có thay thế;
+ Sổ hộ khẩu gia đình;
+ Giấy khai tử, bản án ly hôn, Quyết định mất tích của tòa án (trường
hợp một trong hai người đã chết, vợ chồng đã ly hôn, một trong hai người bị
mất tích…)
Căn cứ Điều 22 nghị định 123/2015 NĐ-CP quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành luật hộ tịch quy định như sau:
– Khi công dân có yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân họ
phải nộp tờ khai theo mẫu quy định. Tờ khâu này công dân có thể xin ở Ủy
ban nhân dân cấp xã (Bộ phận tư pháp hộ tịch) hoặc có thể tự in ra theo mẫu
quy định rồi mang lên Ủy ban nhân dân cấp xã xác xin nhận. Nếu mục đích
xin xác nhận nhằm mục đích kết hôn thì người yêu cầu phải đáp ứng đủ điều
kiện kết hôn mới được xác nhận.
– Trường hợp vợ hoặc chồng đã chết hoặc hai vợ chồng đã ly hôn, một
trong hai người mất tích… mà muốn xác nhận tình trạng hôn nhân thì phải
chứng minh xuất trình giấy tờ hợp lệ (như là Bản án ly hôn, giấy khai tử,
quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án…) nộp lại bản sao cho cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
– Bên cạnh đó nếu công dân yêu cầu có nhiều nơi đăng kí thường trú thì
họ có trách nhiệm chứng minh về tình trạng hôn nhân của họ (Tức là người
7
Các trường hợp cấm kết hôn theo các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 Luật HN&GĐ
33. 24
yêu cầu có trách nhiệm đi xin Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân ở những nơi
trước đây đã đăng kí thường trú, sau đó cung cấp cho nơi đăng kí thường trú
hiện tại). Tuy nhiên nếu bản thân họ không tự chứng minh được thì Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp xã sau khi được công chức Tư pháp – Hộ tịch báo cáo sẽ
gửi văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người yêu cầu đã từng đăng
kí thường trú tiến hành kiểm tra, xác minh về tình trạng hôn nhân của công
dân yêu cầu.
– Nếu người yêu cầu muốn xin cấp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn
nhân vì lý do để sử dụng vào mục đích khác hoặc do đã hết hạn thì người yêu
cầu phải nộp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã cấp trước đó.
Về thời gian giải quyết: (i) Kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ thì trong vòng
03 ngày làm việc công chức Tư pháp – Hộ tịch phải kiểm tra, xác minh tình
trạng hôn nhân của người yêu cầu. Công chức Tư pháp – hộ tịch sẽ trình chủ
tịch Ủy ban nhân dân ký cấp một bản Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho
công dân có yêu cầu nếu họ đủ điều kiện theo quy định pháp luật. Giấy xác
nhận tình trạng hôn nhân phải nghi rõ mục đích yêu cầu cũng như đúng tình
trạng hôn nhân của người yêu cầu nhằm mục đích để cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xác định chủ thể có đủ điều kiện làm thủ tục hành chính.
(ii) Trường hợp người yêu cầu cư trú tại nhiều địa phương mà cần xác
nhận thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản yêu
cầu của của chủ tịch Ủy ban nhân dân xã nơi người yêu cầu đang thường trú
thì Ủy ban nhân dân xã được yêu cầu phải tiến hành kiểm tra, xác minh và trả
lời bằng văn bản về tình trạng hôn nhân của công dân yêu cầu.
(iii) Khi nhận được văn bản trả lời thì ngay trong ngày nhận được văn
bản (Trừ trường hợp hết ngày làm việc hoặc ngày nghỉ) nếu đủ điều kiện thì
Ủy ban nhân dân cấp xã sẽ cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho công
nhân có yêu cầu theo mục đích yêu cầu của họ.
Trong trường hợp cá nhân yêu cầu cấp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn
nhân để sử dụng vào mục đích khác hoặc do Giấy xác nhận tình trạng hôn
nhân đã hết thời hạn sử dụng theo quy định tại Điều 23 của Nghị định này, thì
phải nộp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã được cấp trước đó.
Thứ tư: Giá trị sử dụng của Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Căn cứ
Điều 23 nghị định 123/2015 NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành luật hộ tịch quy định như sau:
– Có giá trị trong vòng 06 tháng kể từ ngày cấp. Như vậy nếu trong vòng
sáu tháng sau khi được cấp mà người có yêu cầu không sử dụng đến thì giấy
này sẽ mặc nhiên bị mất hiệu lực, không có giá trị sử dụng. Do đó nếu muốn
sử dụng thì phải nộp lại giấy đã mất giá trị và xin cấp lại Giấy xác nhận tình
trạng hôn nhân mới.
34. 25
– Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân chỉ có giá trị với mục đích ghi trong
Giấy không được sử dụng vào mục đích khác ghi trong giấy. Nếu sử dụng với
mục khác với nội dung ghi trong giấy thì sẽ bị vô hiệu.
– Được sử dụng vào mục đích kết hôn có thể là kết hôn trong nước hoặc
ngoài nước. Bên cạnh đó còn được sử dụng vào mục đích khác theo quy định
của pháp luật.
Khi đương sự đến yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết
hôn, sau khi lập Tờ khai đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ cần phải cung cấp
Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Trong trường hợp hai bên nam nữ đăng ký
kết hôn không có đăng ký hộ khẩu thường trú tại nơi đăng ký kết hôn thì họ
phải có xác nhận tình trạng hôn nhân của mỗi bên. Việc xác nhận tình trạng
hôn nhân trong trường hợp này phải được xác nhận bằng Giấy xác nhận tình
trạng hôn nhân phải theo mẫu quy định.
2.1.2.3 Giấy chứng minh nhân dân
Ngoài Tờ khai đăng ký kết hôn do Bộ Tư pháp ban hành thì đương sự
muốn kết hôn còn phải xuất trình Giấy chứng minh nhân dân. Chứng minh
nhân dân và hiện nay là căn cước công dân là một loại giấy tờ tùy thân của
công dân do cơ quan công an có thẩm quyền cấp. Đây là những loại giấy tờ
bắt buộc cần phải có khi đương sự đến cơ quan đăng ký kết hôn để xin đăng
ký kết hôn. Đây cũng là điểm khác biệt trong việc quy định về các loại giấy tờ
khi tiến hành đăng ký kết hôn. Ngoài những loại giấy tờ bắt buộc như Tờ khai
đăng ký kết hôn, Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân hay Giấy chứng minh
nhân dân thì trong hồ sơ đăng ký kết hôn có thể có thêm Sổ hộ khẩu gia đình.
Quy định của pháp luật không bắt buộc trong mọi trường hợp khi đăng ký kết
hôn thì cần phải xuất trình Sổ hộ khẩu gia đình. Chỉ trong một số trường hợp
khi Cán bộ tư pháp hộ tịch chưa rõ thông tin của người đăng ký kết hôn, thì
khi đó mới yêu cầu họ xuất trình thêm. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho
Cán bộ tư pháp hộ tịch giải quyết yêu cầu một cách nhanh chóng và đúng
pháp luật.
2.1.3 Trình tự đăng ký kết hôn
2.1.3.1 Nộp hồ sơ đăng ký kết hôn
Căn cứ quy định tại Điều 9 Luật HN&GĐ thì việc đăng ký kết hôn được
thực hiện theo pháp luật về hộ tịch. Sau khi chuẩn bị các giấy tờ đầy đủ thì
nộp tại UBND cấp xã đối với trường hợp đăng ký kết hôn trong nước và tại
UBND cấp huyện đối với trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài. Việc thực
hiện việc nộp hồ sơ hiện nay không có quy định rõ ràng về thời gian nộp. Sau
khi chuẩn bị đầy đủ các giấy tờ thì sau khi chuẩn bị đầy đủ các loại giấy tờ
35. 26
nêu trên, các cặp đôi cần đến UBND xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một
trong hai bên để đăng ký kết hôn. Luật không quy định việc nộp hồ sơ đăng
ký kết hôn phải bắt buộc hai bên nam, nữ phải có mặt và phải nộp trực tiếp
cho đại diện Ủy ban nhân dân nơi tiếp nhận hồ sơ đăng ký kết hôn theo quy
định8
. Cán bộ tư pháp hộ tịch trong giai đoạn này có trách nhiệm thụ lý hồ sơ
đăng ký kết hôn, trong trường hợp người đến đăng ký kết hôn đến nơi đăng ký
kết hôn không đúng thẩm quyền, thì phải hướng dẫn đương sự liên hệ với cơ
quan có thẩm quyền để giải quyết, trường hợp hồ sơ đăng ký kết hôn còn
thiếu hoặc không hợp lệ, thì Cán bộ tư pháp hộ tịch phải viết giấy hướng dẫn
đương sự. Nội dung hướng dẫn phải ghi đầy đủ, rõ ràng từng loại giấy tờ cần
bổ sung, Cán bộ tư pháp hộ tịch ký, ghi rõ họ tên và giao cho đương sự.
Trong trường hợp không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về đăng ký
kết, thì Cán bộ tư pháp hộ tịch từ chối việc đăng ký kết hôn16
Nếu thấy đủ điều kiện kết hôn, cán bộ tư pháp ghi việc kết hôn vào Sổ
hộ tịch. Hai bên nam nữ ký tên vào Sổ hộ tịch và Giấy chứng nhận đăng ký
kết hôn. Đồng thời hai bên nam, nữ cùng ký vào Sổ đăng ký kết hôn và Giấy
chứng nhận đăng ký kết hôn. Cán bộ tư pháp báo cáo Chủ tịch UBND cấp xã
trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên nam, nữ.
2.1.3.2 Xác minh và niêm yết công khai
Sau khi nhận đủ hồ sơ, việc xác minh các điều kiện kết hôn là thủ tục cần
thiết. Trước đây việc xác minh và niêm yết công khai được thực hiện đối với
hôn nhân trong nước. Tuy nhiên, hiện nay các quy định này đã được thực hiện
trong quá trình xác minh về xác nhận tình trạng hôn nhân và các giấy tờ
chứng minh. Đối với việc xác minh và niêm yết công khai đối với hôn nhân
có yếu tố nước ngoài:
Điều 31. Trình tự đăng ký kết hôn
Trình tự đăng ký kết hôn được thực hiện theo quy định tại các Khoản 2,
3 và 4 Điều 38 của Luật Hộ tịch và quy định sau đây:
1. Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ,
Phòng Tư pháp tiến hành nghiên cứu, thẩm tra hồ sơ và xác minh nếu thấy
cần thiết. Trưởng phòng Phòng Tư pháp chịu trách nhiệm về kết quả thẩm tra
và đề xuất của Phòng Tư pháp trong việc giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn.
2. Nếu hồ sơ hợp lệ, các bên có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình, không thuộc trường hợp từ chối kết hôn đăng ký
kết hôn theo quy định tại Điều 33 của Nghị định này thì Phòng Tư pháp báo
cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ký 02 bản chính Giấy chứng nhận
kết hôn.
8
Xem điều 18 Luật Hộ tịch 2014
36. 27
3. Căn cứ tình hình cụ thể, khi cần thiết, Bộ Tư pháp báo cáo Thủ tướng
Chính phủ quy định bổ sung thủ tục phỏng vấn khi giải quyết yêu cầu đăng ký
kết hôn nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên và hiệu quả quản
lý Nhà nước.
Ủy ban nhân dân phải tiến hành kiểm tra các điều kiện kết hôn bao gồm
các điều kiện về nội dung như tình trạng hôn nhân, độ tuổi kết hôn, năng lực
hành vi dân sư, giới tính của hai bên xin đăng ký kết hôn. Cán bộ tư pháp hộ
tịch sẽ xem xét đương sự có đáp ứng đủ điều kiện kết hôn hay không. Trong
đó, về tình trạng hôn nhân của hai bên nam, nữ thì Cán bộ tư pháp hộ tịch
xem xét dựa trên giấy tờ có sẵn do cơ quan có thẩm quyền cấp. Việc xem xét
đến độ tuổi kết hôn thì có thể dựa vào Giấy chứng minh nhân dân của người
yêu cầu đăng ký kết hôn. Còn việc xác minh năng lực hành vi dân sự hoặc xác
minh giới tính của người yêu cầu đăng ký kết hôn thì Cán bộ tư pháp hộ tịch
không thể dựa vào loại giấy tờ nào hết mà chỉ có thể tự xác minh bằng chính
khả năng của mình. Việc bãi bỏ quy định này cũng phù hợp với thực tế bởi
khi tiến hành niêm yết công khai tại trụ sở có mấy ai quan tâm đến vấn đề
này, quy định này được bãi bỏ thì thời gian tiến hành đăng ký kết hôn sẽ được
rút ngắn hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho người đăng ký kết hôn và cơ quan có
thẩm quyền đăng ký kết hôn trong việc giải quyết đăng ký kết hôn.
2.1.3.3 Lễ kết hôn
Hiện nay không có quy định về tổ chức lễ kết hôn. Tuy nhiên, theo quy
định về lễ kết hôn. Về quy định của Hệ thống pháp luật đã có những quy định
cụ thể nhằm đảm thực hiện nếp sống văn minh khi tổ chức đám cưới. Tại
Điều 3, Quyết định số 308/2005/QĐ-TTG quy định về việc thực hiện nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội chỉ rõ: "1. Việc cưới cần
được tổ chức trang trọng, vui tươi, lành mạnh, phù hợp với phong tục, tập
quán tốt đẹp của dân tộc; 2. Các thủ tục có tính phong tục, tập quán như
chạm ngõ; lễ hỏi; xin dâu cần được tổ chức đơn giản, gọn nhẹ; 3. Trang trí lễ
cưới và trang phục cô dâu, chú rể phải lịch sự, phù hợp với truyền thống văn
hoá dân tộc; 4. Trường hợp tổ chức ăn uống cần tiết kiệm, không kéo dài
nhiều ngày và phải đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; 5. Lễ đăng ký kết hôn
và trao giấy chứng nhận kết hôn phải thực hiện theo đúng quy định của pháp
luật về hôn nhân và gia đình".
Bên cạnh đó, Quyết định khuyến khích những hình thức như báo hỷ thay
cho mời dự lễ cưới, tiệc cưới; Tổ chức tiệc trà thay cho tổ chức tiệc mặn tại
gia đình, hội trường cơ quan, nhà văn hoá... tổ chức đám cưới không hút
thuốc lá ... Đồng thời, việc tổ chức cưới và đưa đón dâu phải tuân thủ theo
quy định của pháp luật về an toàn giao thông và trật tự an toàn công cộng.