SlideShare a Scribd company logo
1 of 120
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Tuyết Đào
ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN
LÃO - TRANG TRONG THƠ
NGUYỄN BỈNH KHIÊM
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Tuyết Đào
ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN
LÃO - TRANG TRONG THƠ
NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN KIM CHÂU
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian đầu tư thực hiện, luận văn “Ảnh hưởng nhân sinh quan
của Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh khiêm” đã được hoàn thành đúng thời
hạn. Đó là kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc với sự hỗ trợ nhiều mặt từ
phía nhà trường, quý thầy cô cùng bạn bè, đồng nghiệp. Dù rất cố gắng nhưng luận
văn vẫn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong nhận được ý kiến
đóng góp, đề xuất để công trình nghiên cứu của chúng tôi hoàn thiện hơn.
Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Tiến sĩ
Nguyễn Kim Châu - người đã hướng dẫn tôi thực hiện đề tài luận văn nói trên. Sự
quan tâm, hướng dẫn, chỉ bảo tận tâm của Thầy đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt
thời gian thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến phòng Sau đại học trường Đại học sư phạm
TP. HCM, các giảng viên cùng cán bộ thư viện trường Đại học Sư phạm TP. HCM
đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho học viên cao học chuyên ngành Văn học Việt Nam
khóa 21 chúng tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn tại trường.
Sau cùng, tôi xin được cảm ơn những người thân trong gia đình, những
người bạn, những người đồng nghiệp đã luôn động viên, khích lệ và giúp đỡ tôi
trong cả quá trình học tập và nghiên cứu luận văn.
Nguyễn Thị Tuyết Đào
MỤC LỤC

A. DẪN NHẬP...........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề.....................................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................5
4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................6
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................7
6. Kết cấu của luận văn...........................................................................................7
B. NỘI DUNG............................................................................................................9
Chương 1. Khái quát về tư tưởng Lão – Trang và tác giả, tác phẩm Nguyễn
Bỉnh Khiêm................................................................................................................9
1.1. Tác giả, tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm...........................................................9
1.1.1. Tác giả ......................................................................................................9
1.1.2. Tác phẩm ................................................................................................12
1.2. Lão Tử và Đạo Đức Kinh, Trang Tử và Nam Hoa Kinh...............................14
1.2.1. Lão Tử và Đạo Đức Kinh.......................................................................14
1.2.1.1. Lão Tử...........................................................................................14
1.2.1.2. Đạo Đức Kinh...............................................................................14
1.2.2. Trang Tử và Nam Hoa Kinh...................................................................14
1.2.2.1. Trang Tử .......................................................................................14
1.2.2.2. Nam Hoa Kinh..............................................................................15
1.3. Hành trình du nhập của tư tưởng Lão - Trang vào Việt Nam .......................15
1.4. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học Việt Nam trước thế kỷ XVI.17
1.4.1. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học thế kỷ X - XIV....17
1.4.2. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học thế kỷ XV - XVI .23
Chương 2. Những biển hiện nhân sinh quan của Lão - Trang trong thơ Nguyễn
Bỉnh Khiêm..............................................................................................................27
2.1. Biết dừng lại, quay về với cuộc sống ẩn dật, thanh cao - một biểu hiện của
tinh thần tri túc, cầu nhàn..........................................................................................27
2.1.1. Tri túc, cầu nhàn - một vấn đề cơ bản trong tư tưởng Lão - Trang........27
2.1.2. Nhàn - cách ứng xử thức thời và chủ động của Nguyễn Bỉnh Khiêm ...28
2.1.3. Nhàn - Sự tâm đắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm khi chọn được lẽ sống theo
ý mình....................................................................................................37
2.2. Hòa hợp, gắn bó với thiên nhiên và cuộc sống làng quê - một biểu hiện của
tinh thần vô vi, tiêu dao.............................................................................................44
2.2.1. Tinh thần vô vi, tiêu dao của Lão - Trang..............................................44
2.2.2. Niềm hạnh phúc, gắn bó với thiên nhiên và cuộc sống làng quê trong
thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm........................................................................47
2.3. Xem công danh như áng phù vân - một biểu hiện của quan niệm “đời là
giấc mộng” ...................................................................................................64
2.3.1. Quan niệm đời là giấc mộng của Trang Tử............................................64
2.3.2. Giấc mộng công danh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm...........................66
2.3.3. Sự biến đổi thăng trầm nhanh chóng của vinh và nhục - hệ quả của
được và mất trên đường công danh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.....71
Chương 3. Tương quan Nho – Phật – Đạo và những yếu tố nhân sinh quan tích
cực trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm........................................................................79
3.1. Tương quan Nho học và Đạo học trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm................79
3.1.1. Cách ứng xử vừa hợp với tư tưởng Nho gia vừa hợp với tư tưởng Đạo gia 79
3.1.2. Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, phần Nho sĩ vẫn lấn át phần ẩn sĩ ......83
3.2. Tương quan Phật học và Đạo học trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm...............91
3.2.1. Cách ứng xử vừa hợp với tư tưởng Đạo vừa hợp với tư tưởng Thiền ..91
3.2.2. Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, phần Nho sĩ, ẩn sĩ vẫn đậm nét hơn
phần cư sĩ...............................................................................................96
C. KẾT LUẬN.......................................................................................................100
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................102
1
A. DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Văn học trung đại Việt Nam gắn liền với những tên tuổi không bao giờ bị lãng
quên như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Hồ Xuân
Hương, Bà Huyện Thanh Quan… Và thật thiếu sót nếu không nhắc đến Nguyễn
Bỉnh Khiêm, nhà thơ tiêu biểu của văn học thế kỉ XVI - một nhà nho, một vị quan
trong sạch, ngay thẳng, một ẩn sĩ. Sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là
một trong những chiếc cầu nối giữa hai thời đại văn học - thời đại Nguyễn Trãi
trước đó và thời đại Nguyễn Du sau này.
Quá trình hành - tàng, xuất - xử của nhà thơ này rất phức tạp, liên quan đến
nhiều biến động lịch sử. Tài năng bản lĩnh nhưng ông giấu mình suốt khoảng thời
trai trẻ vì bất mãn trước thời cuộc, thực hiện lối sống ẩn nhẫn đợi thời của một
người ẩn sĩ với những thú vui tao nhã: uống rượu, ngâm thơ, ngao du ở bên sông.
Mãi đến năm 45 tuổi, xét thấy tình hình chính trị xã hội ổn định Nguyễn Bỉnh
Khiêm mới bắt đầu con đường hành đạo, quyết định ra làm quan cho nhà Mạc với
mong muốn thực hiện lí tưởng “kinh bang tế thế” của mình. Gần 8 năm tại vị, dốc
hết lòng vì chúa, chứng kiến nhiều cảnh trái tai, gai mắt nhưng không can gián
được. Bất mãn ông trí sĩ xin về quê ở ẩn, náu thú sơn lâm, sống nhàn hạ đến cuối
đời.
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng theo dòng mà biến đổi như cuộc đời nhà thơ
vậy. Đó là tiếng nói của một con người tích cực nhập thế, hành đạo giúp đời, lắm
lúc là tiếng nói của một con người đã nắm vững mọi quy luật của cuộc sống, nhận
thấy đời người vô thường với kiếp sống ngắn ngủi, có đó rồi lại mất đó nên chọn
giải pháp lui về quê “lánh đục tìm trong”. Rõ ràng, thơ ông là một sự kết hợp tuyệt
vời của ba luồng tư tưởng Nho - Phật - Đạo. Sự chi phối các luồng tư tưởng này
trong thơ ông ở mức độ không đều nhau: lúc đậm, lúc nhạt. Tuy nhiên bước đầu
khảo sát thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng tôi nhận thấy sự xuất hiện liên tục những
từ “nhàn, tiên, vô sự,” - biểu thị một lối sống phiêu diêu, tự tại đối lập hoàn toàn với
thực tế xã hội mục ruỗng, thối nát đương thời .
2
Từ bỏ chốn quan trường trở về với cuộc sống ẩn dật, ông đã xây dựng rất sớm
cho mình một quan niệm sống nhàn, lánh xa danh lợi, tìm niềm vui trong sự gắn bó
với thiên nhiên, và nhất là biết thuận theo quy luật của tạo hóa theo đúng tinh thần
Lão - Trang. Tuy nhiên, vẫn cần phải khẳng định rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm thân
nhàn nhưng tâm không nhàn, lui về quê sống ẩn dật nhưng lòng lúc nào cũng lo
nước thương dân. Nói cách khác, trong thơ ông, lý tưởng Nho gia vẫn chiếm một
phần quan trọng. Vấn đề đặt ra là trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, phần ảnh hưởng
của nhân sinh quan Lão - Trang hay của Nho giáo quan trọng hơn, đậm đặc hơn và
sự lựa chọn, dung hòa giữa các hệ tư tưởng đó có ý nghĩa gì đối với quan niệm
sống, cách ứng xử của Nguyễn Bỉnh Khiêm? Đó là những vấn đề cần được khảo sát
cụ thể để tìm lời giải đáp thỏa đáng.
Mặt khác, hiện nay thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm được đưa vào giảng dạy trong
chương trình Trung Học Phổ Thông. Là một giáo viên, tôi nhận thấy những kiến
thức chuyên sâu liên quan đến tư tưởng, tình cảm của tác giả sẽ là nền tảng quan
trọng giúp tôi hiểu sâu hơn, giảng dạy tốt hơn tác phẩm văn học trung đại nói chung
và tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm nói riêng.
Với những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Ảnh hưởng nhân sinh quan
của Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm” để thực hiện luận văn tốt nghiệp
của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Từ trước đến nay, có khá nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về cuộc đời và
tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm. Mỗi công trình có những góc nhìn riêng, những phát
hiện mới nhằm khẳng định giá trị và đóng góp của tác giả vào tiến trình phát triển
văn học. Trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu về nhà thơ này, người viết đã thu thập
một số công trình, bài viết tiêu biểu sau:
Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia và tác phẩm - Trần Thị Băng Thanh, Vũ
Thanh tuyển chọn và giới thiệu: Đây là công trình quy tụ 67 bài viết tập trung
nghiên cứu Nguyễn Bỉnh Khiêm ở nhiều phương diện. Trong đó phần thứ nhất tập
trung làm rõ thời đại ông sống, tư tưởng chính trị xã hội của Nguyễn Bỉnh Khiêm
3
qua thơ văn: “Nguyễn Bỉnh Khiêm giữa thế kỉ XVI đầy biến động”. Phần thứ hai
phác họa diện mạo tư tưởng nhà thơ với tư cách là ẩn sĩ, nho sĩ, cư sĩ: “Triết nhân
Nguyễn Bỉnh Khiêm - tư tưởng và nhân cách”. Phần thứ ba nêu những vấn đề chung
về sự nghiệp văn học, những thành tựu trong thơ văn chữ Hán và chữ Nôm của nhà
thơ: “Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ”. Phần thứ tư nhấn mạnh vị trí của nhà thơ trong
lòng dân tộc xưa và nay.
Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc - Viện khoa
học và xã hội - Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm: Công trình này tập hợp 28 bài
viết đi sâu khai thác hoàn cảnh lịch sử, thân thế, tư tưởng và thơ văn… của Nguyễn
Bỉnh Khiêm. Trong đó đáng chú ý là những bài viết ở phần thứ hai, các nhà nghiên
cứu đã đi sâu khai thác được vẻ đẹp tài hoa và nhân cách tuyệt vời của Bạch Vân cư
sĩ.
Thơ Văn Nguyễn Bỉnh Khiêm - Đinh Gia Khánh (chủ biên): Đây là bộ hợp
tuyển giới thiệu 161 bài thơ Nôm và gần 100 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh
Khiêm cùng với lời giới thiệu của tác giả Đinh Gia Khánh. Nội dung xoay quanh
vấn đề văn bản, giá trị tư tưởng và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân Am thi tập - Nguyễn Khuê: Đây là công
trình khá công phu gồm bốn phần, với các vấn đề lớn sau: hoàn cảnh lịch sử, cuộc
đời, tác phẩm Hán Nôm của nhà thơ; khai thác sâu thế giới tình cảm và tư tưởng của
Nguyễn Bỉnh Khiêm qua thơ; xác định giá trị nội dung và nghệ thuật của Bạch Vân
am thi tập và giới thiệu 102 bài thơ trong Bạch Vân am thi tập được dịch khá công
phu.
Tập kỉ yếu về trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: Công trình được thực hiện
nhân kỉ niêm 500 năm ngày sinh của ông. Bao gồm 52 bài tham luận xoay quanh
những vấn đề về sự nghiệp sáng tác và cuộc đời của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Các bài viết được sắp xếp theo một chủ đề gồm bốn phần, trong đó phần
thứ nhất giới thiệu về quê hương Vĩnh Bảo và thời đại của ông; phần thứ hai, gồm
các bài viết trình bày cảm nhận sâu sắc của các nhà nghiên cứu về con người và tư
tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm; phần ba đề cập đến sự nghiệp văn chương của Nguyễn
4
Bỉnh Khiêm với những lời bình sâu sắc; phần thứ tư là những ý kiến đáng trân trọng
về vị trí của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tâm thức con người hiện nay.
Ngoài ra còn có những công trình nghiên cứu khác có giá trị về Nguyễn Bỉnh
Khiêm của Bùi Duy Tân, Bùi Văn Nguyên, Mai Quốc Liên, Vũ Tiến Quỳnh, Vũ
Tiến Phúc, Trần Lê sáng… Điểm qua những công trình chủ yếu nêu trên để thấy
được mức độ quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu đối với Nguyễn Bỉnh
Khiêm, người được xem là cây đại thụ của văn chương thế kỷ XVI. Qua khảo sát
những công trình này, người viết nhận thấy có một số ý kiến quan trọng có liên
quan đến phạm vi khảo sát của đề tài, tiêu biểu như:
- Nguyễn Huệ Chi nhận định: “Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một hình thức
biểu hiện của ung dung tự tại, của một phong thái sống hồ hởi, cởi mở với tạo vật,
biết gắn mình với thiên nhiên, sống theo qui luật tự nhiên, hiểu được đến cội nguồn
cái đẹp chân chất của sự sống, cái đẹp hồn nhiên của sự chuyển dần, thay đổi luôn
diễn ra xung quanh mình…” [37, tr.391].
- Trần Thị Băng Băng và Vũ Thanh cho rằng: “Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh
Khiêm là “cái nhàn triết học của một triết nhân” và cũng gợi ra Nguyễn Bỉnh
Khiêm là một nhà nho có bản lĩnh, một trí giả. Tìm đến với sự nhàn dật chính là
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tìm về với cái vụng, cái chuyết mà theo quan niệm của nho
gia, đã được điều chỉnh dưới cái nhìn của đạo Lão, mới là bản chất tự nhiên của sự
vật. Chính quan niệm nhàn dật đạt tới ý vị triết học đó đã tạo nên một Nguyễn Bỉnh
Khiêm - Bạch Vân cư sĩ tự do, tự tại, phản giác, hồn nhiên, lạc quan, khỏe khoắn,
rất hiếm thấy trong làng thơ nhàn thời trung đại” [37, tr.34].
- Trần Đình Hượu nhấn mạnh: “Nguyễn Bỉnh Khiêm coi mình là loại người
“chí để ở sự nhàn dật”, tự gọi mình là “ông nhàn”…Ông nhàn đặc biệt quan tâm
đến lạc thú nhưng thú vui của ông nhàn không phải là sự sung sướng theo lẽ thường
tình” [37, tr.130].
- Phạm Tú Châu lại đưa ra một nhận định khá sắc sảo về nhàn dật của Nguyễn
Bỉnh Khiêm: “Những bài thơ nói chí bằng chữ Hán cho người đọc thấy rõ Nguyễn
5
Bỉnh Khiêm tuy chí thích nhàn dật nhưng ông không để chí ở việc ẩn dật…” [37,
tr.355].
- Lê Trọng Khánh - Lê Anh Trà cho rằng: “Tính chất nhàn tản của Nguyễn
Bỉnh Khiêm thực chất không phải yếm thế, xu thời, ích kỷ và hoàn toàn hưởng lạc,
tư tưởng nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm có những khía cạnh tích cực, phù hợp
với tư tưởng hành đạo của Nho giáo. Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một lối
phản ứng của tầng lớp nho sĩ bất lực trước thời cuộc lúc bấy giờ, phản ứng bằng
hình thức tiêu cực nhưng vẫn bao hàm một nội dung đấu tranh bằng phương pháp
theo lẽ tự nhiên” [37, tr.247].
- Lê Trí Viễn nhìn nhận: “Xa lánh chốn phồn hoa, sống một cuộc đời giản dị,
thanh bạch, bạn bè với sách vở, với thơ rượu; đó là cảnh nhàn, cảnh “vô sự”, đó là
thái độ ẩn dật, phong thái phóng khoáng của tác giả” [37, tr.476].
- Trường Lưu, Phạm Vũ Dũng, Băng Thanh: “Một nét mới của ẩn sĩ Nguyễn
Bỉnh Khiêm là dù tàng, dù ẩn nhưng không ngoảnh đi, trái lại ông chăm chú nhìn
vào đời, sẵn sang làm những gì đời cần đến, chỉ miễn là không phải lao vào vòng
danh lợi, làm hoen ố tấm lòng trung trinh của một nhà nho chí sĩ” [37, tr.146].
- Các tác giả bộ Lịch sử Việt Nam: “Trong thơ văn ông có tố cáo cảnh thối
nát của xã hội, phê phán thói đời xấu xa, nhưng chủ đề nổi bật là ca ngợi chữ
“nhàn”…Tư tưởng của ông là sự kết hợp giữa hệ ý thức Nho giáo và tư tưởng Lão
Trang” [29, tr.306].
Nhìn chung, có khá nhiều bài viết đề cập đến những ảnh hưởng của nhân sinh
quan Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhiều ý kiến đánh giá hết sức xác
đáng và thuyết phục mà người viết xem là cơ sở quan trọng để tiếp tục phát triển
trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng vẫn chưa có một công
trình chuyên sâu nghiên cứu một cách toàn diện về những ảnh hưởng của nhân sinh
quan Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tư liệu chúng tôi dùng để khảo sát thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm phục vụ cho luận
văn là Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm - Đinh Gia Khánh, Nxb Văn học, Hà Nội
6
(1983), Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập - Nguyễn Khuê, Nxb TP.
HCM, 1997 và các sách có liên quan đến thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng như
con người thời đại mà ông đang sống. Từ đó mà hiểu rõ hơn về tư tưởng nhân cách
của ông cũng như cảm thụ đúng hơn nội dung tác phẩm thơ văn của ông.
Tư tưởng Lão - Trang ảnh hưởng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ở cả hai
phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Luận văn chủ yếu xem xét ảnh
hưởng trên phương diện nội dung, cụ thể là xem xét sự tác động của tư tưởng Lão -
Trang đến cảm hứng sáng tác để hình thành nội dung trong thơ Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Trong quá trình phân tích những khía cạnh nội dung, chúng tôi cũng khảo
sát những yếu tố nghệ thuật có liên quan đến học thuyết Lão - Trang được dùng như
phương tiện thể hiện những nội dung đó.
Bên cạnh đó chúng tôi còn tìm hiểu thêm các tư liệu khác mà nội dung đề cập
đến Đạo giáo, Nho giáo, Phật giáo góp phần hỗ trợ đắc lực để làm sáng tỏ nội dung
đề tài.
Đề cập đến Lão - Trang còn có các khái niệm Đạo gia và Đạo giáo. Luận văn
chỉ xem xét ảnh hưởng tư tưởng Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mà
không xem xét tất cả những gì thuộc về Đạo gia hay Đạo giáo.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài viết này người viết sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính
sau:
Phương pháp phân tích - tổng hợp: Nhằm chỉ ra những biểu hiện cụ thể của
tinh thần Lão - Trang trong những câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sau đó chúng
tôi khái quát lại vấn đề nhằm nhấn mạnh một lần sự ảnh hưởng của tư tưởng Lão -
Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Phương pháp thống kê: Chúng tôi thu thập những câu chữ thể thể hiện tư
tưởng Lão - Trang nhằm giúp cho thao tác phân tích được rõ ràng và thuyết phục
hơn.
Phương pháp tiếp nhận: Góp phần lí giải sự tồn tại sự song song của ba
luồng tư tưởng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, đặc biệt là luồng tư tưởng Đạo giáo.
7
Phương pháp thực chứng tiểu sử: Giúp người đọc có cơ sở hiểu thêm về con
người và cách hành xử của nhà thơ.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Dựa trên những thành tựu cũng như những vấn đề chưa được giải quyết một
cách triệt để trong thực tiễn nghiên cứu ảnh hưởng nhân sinh quan Lão - Trang
trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, luận văn này nhằm hướng đến giải quyết những vấn
đề sau:
- Khảo sát, phân tích những biểu hiện nhân sinh quan Lão - Trang trong thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ yếu ở phương diện nội dung. Cụ thể là tìm những
khía cạnh của tư tưởng Lão - Trang đã tác động đến việc hình thành cảm
hứng sáng tác ở nhà thơ.
- Xác định mức độ ảnh hưởng nhân sinh quan Lão - Trang trong thơ Nguyễn
Bỉnh Khiêm từ đó thử đưa ra những lí giải về nguyên nhân của sự ảnh hưởng
này nhằm có cái nhìn tổng quan về tâm sự của Nguyễn Bỉnh Khiêm được gửi
gắm qua thơ.
- Không chỉ dừng lại tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm dưới ảnh hưởng của
nhân sinh quan Lão - Trang, mà qua những tập thơ của ông chúng tôi còn
mong muốn phân tích sự dung hòa trong việc hội nhập cả hai luồng tư tưởng
khác là Nho học và Phật học trong thơ ông. Từ đó có cái nhìn, cách hiểu
đúng hơn về nhà thơ.
6. Kết cấu của luận văn
Sau khi xác định lý do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, đối tượng và phạm vi
nghiên cứu, mục đích và phương pháp nghiên cứu, nhằm làm rõ những yêu cầu mà
đề tài đặt ra, chúng tôi trình bày hướng phát triển của đề tài như sau:
Chương 1: Khái quát về tác giả - tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm và tư
tưởng Lão - Trang
Ở phần này chúng tôi chỉ trình bày một cách khái quát về cuộc đời và thân thế,
sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đồng thời cung cấp thêm vài
nét về cuộc đời Lão Tử, Trang Tử và hai sáng tác của hai vị Đạo gia này với những
8
nội dung cơ bản nhất. Qua đó cho thấy sự ảnh hưởng của tư tởng Lão - Trang vào
văn học trung đại Việt Nam, trong đó có nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Chương 2: Những biểu hiện của nhân sinh quan Lão - Trang trong thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Ở phần này chúng tôi không đi một cách chung chung, sơ lược ở dạng phác
thảo như chương 1, mà chúng tôi dừng lại đi sâu phân tích chỉ ra sự ảnh hưởng cụ
thể của tư tưởng Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ở những khía cạnh
riêng như: Biết dừng lại, quay về với cuộc sống ẩn dật, thanh cao - một biểu hiện
của tinh thần tri túc, cầu nhàn. Hoà hợp, gắn bó với thiên nhiên và cuộc sống làng
quê - một biểu hiện của tinh thần vô vi, tiêu dao. Xem công danh như áng phù vân -
một biểu hiện của quan niệm “Đời là giấc mộng”.
Chương 3: Tương quan Nho - Phật - Đạo và những yếu tố nhân sinh quan
tích cực trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Chương này người viết đi vào phân tích làm rõ sự đa nhân cách trong con
người Nguyễn Bỉnh Khiêm để thấy rằng nhà thơ rất linh hoạt trong phương cách
ứng xử của mình. Đồng thời qua đó thấy được nhà thơ không hẳn phụ đạo quên đời
khi chọn lựa lối sống theo Lão - Trang.
Phần kết luận: Kết luận ngắn gọn về những vấn đề đã trình bày ở phần nội
dung, khẳng định lại vị thế của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lòng người dân Việt.
9
B. NỘI DUNG
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG LÃO – TRANG VÀ TÁC
GIẢ, TÁC PHẨM NGUYỄN BỈNH KHIÊM
1.1. Tác giả, tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm
1.1.1. Tác giả
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491), còn có tên là Văn Đạt, tên chữ
là Hạnh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, Xã Lý Học, huyện
Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Ông mất ngày 28 tháng 11 năm Ất Sửu (17/01/1585), sống
gần trọn thế kỉ XVI đầy biến động.
Ông xuất thân trong một gia đình Nho học. Tổ phụ là Văn Tĩnh được ấm
phong Thiếu bảo Tư quận công. Tổ mẫu là Phạm Thị Trinh Huệ được ấm phong
Chinh phu nhân. Ông ngoại là thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan. Cha là Nguyễn Văn
Định, hiệu Cù Xuyên tiên sinh, học rộng đức cao, được phong Thái bảo Nghiêm
quận công, được sung chức Thái học sinh. Ông là người thông minh, có tài văn thơ,
thông kinh kịch, giàu nghị lực, có chí khí khác thường, có công lớn trong việc dạy
dỗ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thân mẫu họ Nhữ được phong Từ Thục phu nhân. Bà
thông kinh sử, giỏi văn chương, tinh thông thuật số. Xét cho cùng thì Nguyễn Bỉnh
Khiêm thừa hưởng nhiều điều tốt đẹp từ gia đình, chính những phẩm chất nổi trội,
ưu tú từ cha và mẹ đã tôi luyện và cho ra đời một Nguyễn Bỉnh Khiêm lỗi lạc, được
mọi người tôn kính cho đến ngày nay.
Tương truyền Nguyễn Bỉnh Khiêm thông minh từ nhỏ, tư chất hơn hẳn người
thường, một tuổi đã nói sõi, năm tuổi đã thuộc nhiều thơ ca quốc âm do mẹ dạy
truyền khẩu. Lớn lên, ông được theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng (người Lạch
Triệu, Hoằng Hóa, Thanh Hóa) - một vị quan thanh liêm, một người thầy xuất sắc
nên ông đã sớm hấp thu những phẩm chất tốt đẹp đó. Có thể nói thời thơ ấu của
Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong giai đoạn được coi là thịnh trị nhất của nhà nước
phong kiến theo thể chế Nho giáo ở Việt Nam. Thế nhưng những ngày này đối với
Nguyễn Bỉnh Khiêm thật ngắn ngủi.
10
Dựa vào các cột mốc lịch sử và những hoạt động, chúng tôi chia cuộc đời của
nhà thơ làm ba chặng:
Chặng thứ nhất: tính từ thời niên thiếu đến năm 1534: Ngay từ thuở ấu thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm được mẹ nuôi dạy, chăm sóc cẩn thận cả về thể lực và trí lực.
Đến tuổi trưởng thành Nguyễn Bỉnh Khiêm được học với quan hưu trí Hộ bộ
Thượng thư Dương Đức Nhan và trở thành con rể của ông. Sau đó, Nguyễn Bỉnh
Khiêm nghe tiếng cụ Bảng nhãn Lương Đức Bằng là bậc văn chương cái thế, bèn
lặn lội tìm đến học. Đây là khoảng thời gian trong triều đình và ngoài xã hội có
nhiều biến động: nội chiến phi nghĩa, cướp bóc loạn lạc, sưu cao thuế nặng, nhân
dân đói khổ lầm than cơ cực…
Trong khoảng thời gian 1523 và 1526, triều Lê Tương Dực có mở khoa thi
nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn mai danh ẩn tích. Cho đến khi Mạc Dăng Dung
cướp ngôi nhà Lê, nhà Mạc đã có một số chính sách mới nhằm ổn định trật tự xã
hội, thúc đẩy sự phát triển của đất nước về mọi mặt. Vì thế, uy tín nhà Mạc được
củng cố, và được một số quan lại nhà Lê cũ phò trợ đắc lực. Thời điểm này nhà Mạc
cũng tổ chức một số khoa thi như thi Hương, thi Hội để kén chọn nhân tài, các sĩ tử
hưởng ứng rất đông nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn ẩn cư dạy học, lấy đạo làm vui,
chẳng cầu danh tiếng.
Cho đến năm 1530, khi Mạc Đăng Doanh lên ngôi, nhà thơ tự nhận mình chưa
bằng Khổng Tử, chưa thấu suốt được lẽ đương nhiên của tạo vật, còn băn khoăn
chưa xác định được hướng đi, còn trăn trở là có nên ứng thí để đem đạo học ra giúp
nước cứu đời được hay không, vì con đường trước mặt còn đen tối như mực.
Chặng thứ hai: tính từ lúc ra làm quan (1535 - 1542): Nguyễn Bỉnh Khiêm
quyết định nhập thế. Mặc dù đã 44 tuổi, ông vẫn đi thi Hương và đỗ giải Nguyên
khoa Giáp ngọ dưới triều Mạc Đăng Doanh (1534). Năm 1535 dự thi Hội bốn kì
đều đạt giải nhất, đỗ Hội nguyên; dự thi Đình, đỗ Trạng nguyên. Làm quan được 8
năm, ông dâng sớ xin chém đầu 18 tên nịnh thần nhưng không được vua Mạc chấp
thuận. Tiếp đó lấy cớ con rể Phạm Dao cậy quyền thế làm nhiều điều bất nghĩa, ông
thác bệnh xin về trí sĩ vào thời Mạc Phúc Hải (1543).
11
Chặng thứ ba: Tính từ năm 1543 đến 1585. Trong thời gian ở ẩn, Nguyễn Bỉnh
Khiêm dựng am Bạch Vân, bắc hai chiếc cầu Nghinh Phong và Tràng Xuân, tu bổ
chùa chiền, dựng một ngôi quán gọi là Trung Tân trên bến Tuyết Giang, được học
trò tôn xưng là Tuyết Giang Phu tử. Trong Công dư tiệp kí, Vũ Phương Đề cho
rằng tuy Nguyễn Bỉnh Khiêm ẩn cư dạy học nhưng với tài đức cao vời vợi của
Trạng Trình, vua Mạc vẫn lấy “sư lễ” đãi ông. Những khi nhà nước có việc gì quan
trọng, triều đình đều sai sứ đến hỏi, có khi triệu ông về kinh thung dung trù liệu kế
hoạch, rồi lại trở về am chứ không ở lại. Bên cạnh đó cả những người phù Lê cũng
luôn tôn trọng, vị nể Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sau 2 năm Mạc Phúc Hải gia phong cho
ông chức Trình Tuyền hầu (Hầu Tước khơi nguồn dòng suối triết học của họ Trình).
Người đời thường gọi ông là Trạng Trình.
Với một tấm lòng nhân đạo, Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn mong muốn cho đất
nước được thịnh vượng, thái bình. Với sự uyên thâm vốn có, ông nhận thấy vận
mệnh của đất nước trong hoàn cảnh bi đát này không thể trao vào tay bất cứ một lực
lượng chính trị nào. Bởi vì lúc này các tập đoàn phong kiến quyết chiến với nhau
chỉ vì muốn tranh giành quyền lực. Vì vậy tương truyền để tránh những cuộc binh
đao khói lửa lan tràn đến cuộc sống của nhân dân, ông đều bày cho các phe phái
những phương sách khác nhau để giữ thế “chân vạc”. Chẳng hạn năm 1568,
Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm hãm hại, sợ mầm họa sẽ
xảy ra cho bản thân, đã ngầm cho thân cận đến hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm về kế an
thân. Được ông mách bảo: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (Dựa vào một
dải Hoành sơn có thể lập nghiệp được lâu dài), Nguyễn Hoàng liền xin anh rể là
Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa (từ Đèo Ngang trở vào) và sống bình
yên trong nhiều năm. Thời ấy tại kinh thành Thăng Long, chúa Trịnh cũng ra sức ức
hiếp vua Lê, làm nhiều điều bạo ngược kể cả có ý định muốn phế bỏ vua Lê. Khi
chúa Trịnh cho người đến hỏi ý kiến của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không trả lời
mà lẳng lặng dẫn sứ giả của triều đình ra thăm chùa và nói nói với nhà sư trong
chùa: “Giữ chùa thờ phật thì ăn oản” (Ngụ ý muốn khuyên chúa Trịnh cứ tôn thờ
nhà Lê thì quyền hành sẽ nắm trong tay, nếu tự ý phế lập sẽ dẫn đến chiến tranh).
12
Riêng đối với nhà Mạc, sau nhiều trận đánh diễn ra liên miên, nhà Mạc phải bỏ
chạy lên Cao Bằng. Vua Mạc có ý cho người về hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm,
ông đã trả lời “Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thế” (Cao Bằng tuy đất hẹp nhưng có
thể giữ được vài đời). Quả nhiên mãi đến năm 1688, sau ba đời giữ đất Cao Bằng,
nhà Mạc mới bị diệt. Sở dĩ nhân dân đưa ra những truyền thuyết trên là vì muốn
chứng minh rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm có tài tiên đoán, do nắm được bí truyền của
sách Thái ất thần kinh. Ngoài ra còn có rất nhiều truyền thuyết khác về Trạng Trình
trong tập Trình quốc công sấm kí. Thực hư, có hay không có, khẳng định hay phủ
định sự việc còn là vấn đề mà các học giả Việt Nam cần phải nghiên cứu kĩ để trả
lại vị trí xứng đáng cho Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lòng dân tộc và cả trên lĩnh vực
văn học. Một điều chắc chắn là đối với nhân dân Việt Nam Nguyễn Bỉnh Khiêm
thật sự là nhà học giả “thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lí, trung tri nhân sự”. Và
trong thời gian trí sĩ ở điền viên, ông chính là một người thầy mẫu mực, cao minh
đã đào tạo biết bao danh sĩ tài năng cho đất nước như Giáp Hải, Lương Hữu Khánh,
Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Quyện…
Tuy nhiên, Nguyễn Khuê khi nghiên cứu Bạch Vân am thi tập cho rằng
Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi lui về ở ẩn vẫn mang trong mình tấm lòng nhiệt huyết
của kẻ mang “tấm lòng tiên ưu đến già chưa thôi” nên vẫn tiếp tục nhận lời mời
của vua Mạc mà ra làm quan, trực tiếp tham gia những cuộc chinh phạt của triều
Mạc ở phía Tây nữa rồi mới quy lão ở tuổi 73 (1563).
Đến ngày 28 tháng 11 năm Diên Thành thứ 8 (1585) Nguyễn Bỉnh Khiêm mất
hưởng thọ 95 tuổi. Mạc Hậu Hợp sai Mạc Kính Điển đến dự tế, truy phong Thượng
thư bộ Lại, Thái phó Trình quốc công và tặng mấy chữ trước cửa ở đền thờ: “Mạc
triều Trạng nguyên Tể tướng từ”.
1.1.2. Tác phẩm
Tuyết Giang Phu Tử có nói là rất vụng trong nghề thơ, tuy nhiên khi nghiên
cứu thơ văn của ông, người viết nhận thấy sự nghiệp văn chương của Trạng Trình là
tấm gương sáng về quá trình lao động sáng tạo không ngừng. Tác giả đã để lại cho
13
đời một di sản thơ đồ sộ chứa đựng nhiều tư tưởng thâm sâu, nhiều bài học giáo hóa
rất thiết thực cho đời.
Về chữ Hán có Bạch Vân am thi tập, Trung Tân quán bi kí, Thạch khánh kí
và một số bài văn tế. Theo Bạch Vân am thi tập tiền tự do chính tác giả viết thì thơ
chữ Hán có khoảng 1000 bài. Hiện nay số còn lại chỉ khoảng hai phần ba. Tập thơ
là tiếng nói của con người nhập thế hành đạo, vừa là tiếng nói của một cao sĩ ẩn dật,
vừa là tiếng nói của một con người ưu thời mẫn thế.
Về chữ Nôm có Bạch Vân quốc ngữ thi tập (còn gọi là Trình quốc công
Bạch Vân quốc ngữ thi tập) với khoảng 170 bài thơ. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh
Khiêm làm theo thể Đường luật và Đường luật xen lục ngôn. Thơ không có đề mục
cho từng bài và từng môn loại. Nội dung xoay quanh một số đề tài nhất định: sự suy
tàn của đạo đức phong kiến, cuộc đời nhàn dật, phong cảnh thiên nhiên, ý nghĩ về
bổn phận với vua, với nước.
Ở hai tập thơ chúng ta nhận thấy ở nhà thơ một tư tưởng thoát li mang đậm
dấu ấn tư tưởng Lão - Trang. Đó là tư tưởng tiêu dao, nhàn phóng coi nhẹ cuộc đời,
coi nhẹ công danh, thoát mình khỏi chốn cạnh tranh, vui chơi với thiên nhiên, với
thơ rượu.
Ngoài thơ Nôm, trong dân gian còn lưu hành nhiều câu sấm Trạng. Các tập
sấm kí Nôm thường mang tên Trạng Trình và phần lớn viết theo thể lục bát như
Trình quốc công sấm kí, Trình tiên sinh quốc ngữ. Sấm Trạng Trình là một hiện
tượng văn học cần phải được tìm hiểu và xác minh thêm. Theo Phả kí của Vũ
Khâm Lân, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có bài phú bằng quốc âm. Bài phú này hiện
nay vẫn chưa được tìm thấy.
Nguyễn Bỉnh Khiêm có phong cách thơ rất riêng không lẫn với các nhà thơ
cùng thời mặc dù vẫn tuân theo nguyên tắc sáng tác thơ văn trung đại. Thơ văn
Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm chất triết học nhưng vẫn gần gũi và dễ tiếp nhận.
Đặc biệt là hai tập thơ chữ Hán và chữ Nôm, chất triết thể hiện rõ rệt và đậm nét
nhất - triết học đạo gia, mà đại diện tiêu biểu là Lão Tử và Trang Tử. Đọc thơ ông,
người đọc rất dễ dàng nhận ra sự ảnh hưởng ấy.
14
1.2. Lão Tử và Đạo Đức Kinh, Trang Tử và Nam Hoa Kinh
1.2.1. Lão Tử và Đạo Đức Kinh
1.2.1.1. Lão Tử
Lão Tử tức chưa rõ năm sinh, năm mất, nhưng theo ý kiến chung nhất là ông
sống vào khoảng thế kỉ thứ VI - V trước công nguyên, là một nhà tư tưởng vĩ đại
của Trung Hoa cổ đại, là người sáng lập trường phái Đạo gia (đạo Lão). Ông tên
thật là Lý Nhĩ, tên thường gọi là lão Đam, người làng Khúc Nhân, hương Lệ, nước
Sở. Ông làm chức quan giữ sách nhà Chu, học rộng biết nhiều, sau về quê ở ẩn. Về
giai thoại của Lão Tử: Tương truyền, trước khi về ở ẩn đến cửa quan, viên quan coi
cửa là Doãn Hỉ bảo: “Ông sắp đi ở ẩn, ráng vì tôi mà viết sách để lại”. Thế là Lão
Tử viết một cuốn sách chỉ gồm khoảng năm ngàn chữ bàn về “Đạo” và “Đức” (tức
Đạo Đức Kinh). Viết xong rồi bỏ đi, về sau không ai còn nghe đến, không biết sống
chết ra sao.
1.2.1.2. Đạo Đức Kinh
Cuốn Đạo Đức Kinh tổng cộng gồm có 81 chương, hơn 5000 chữ Hán gồm có
hai thiên, thiên trước bàn về Đạo (Thượng Kinh), thiên sau bàn về Đức (Hạ Kinh).
Thượng Kinh gồm 37 chương, bắt đầu bằng câu: “Đạo khả Đạo phi thường Đạo”.
Hạ Kinh gồm 44 chương, bắt đầu bằng câu: “Thượng Đức bất Đức thị dĩ hữu Đức”.
Tư tưởng của Lão Tử truyền lại trong tác phẩm Đạo Đức Kinh rất phong phú và
uyên thâm, dù trải qua mấy ngàn năm người đọc vẫn có thể tiếp thu được những
điều bổ ích.
1.2.2. Trang Tử và Nam Hoa Kinh
1.2.2.1. Trang Tử
Trang Tử (369 - 286 TCN) tên là Chu, người nước Tống, huyện Mông, Ở
khoảng giữa hai tỉnh Sơn Đông và Hồ Nam ngày nay. Ông là một nhà Lão học danh
tiếng nhất trong làng Lão học cổ điển. Theo Sử ký mục “Lão Trang Thân Hàn Liệt
truyện”, ông đồng thời với vua Huệ Vương nước Lương và Tuyên Vương nước Tề,
tức là đồng thời với Mạnh Tử. Là nhà tư tưởng lớn trong phái Đạo gia, là người kế
tục tư tưởng của Lão Tử. Cũng như Lão Tử, tư liệu sớm nhất chép về Trang Tử là ở
15
bộ Sử ký của Tư Mã Thiên. Sử gia Tư Mã Thiên viết về Trang Tử khá vắn tắt:
“Trang tử, người đất Mông, tên Chu, làm quan lại ở Vườn Sơn (Tất Viên)” sau đó
sống ẩn dật cho đến cuối đời. Nhưng điều chắc chắn là Trang Tử sống cùng thời với
Mạnh Tử và Huệ Thi thời Lương Huệ Vương và Tề Tuyên Vương. Đất Mông được
xác định nằm trong đất Tống, thuộc tỉnh Hà Nam (Trung Quốc) ngày nay. Trang Tử
là một trong những nhà tư tưởng đặc biệt vào loại hạng nhất thời ấy, rất giỏi kể
chuyện, có sức tưởng tượng vô cùng phong phú. Tác phẩm Nam Hoa Kinh của
Trang Tử viết theo thể văn xuôi, mang màu sắc ngụ ngôn. Ở cuốn sách này Trang
Tử có sự nhất trí về quan điểm, tư tưởng với Lão Tử. Ông và Lão Tử được xem là
hai tác giả nồng cốt của Đạo gia và làm nên học thuyết Lão - Trang, một trào lưu tư
tưởng ở Trung Quốc cổ đại có ảnh hưởng mạnh mẽ từ xưa tới nay, từ phương Đông
tới phương Tây.
1.2.2.2. Nam Hoa Kinh
Có người lý giải, sở dĩ bộ sách có tên Nam Hoa Kinh (hay còn gọi là Nam
Hoa Chân Kinh) bởi nó được viết khi Trang Tử ở ẩn tại núi Nam Hoa thuộc nước
Tống. Đây là bộ sách mà Kim Thánh Thán liệt vào hạng nhất trong lục tài tử thư
của Trung Quốc.
Bản lưu hành ngày nay gồm 33 chương, chia làm ba phần:
Nội thiên - gồm 7 thiên có tựa đề là: Tiêu dao du, Tề vật luận, Dưỡng sinh
chủ, Nhân gian thế, Đức sung phù, Đại tôn sư, Ứng đế vương.
Ngoại thiên - gồm 15 thiên có tựa đề là: Biền mẫu, Mã đề, Khư khiếp, Tại
hựu, Thiên địa, Thiên đạo, Thiên vận, Khắc ý, Thiện tính, Thu thủy, Chí lạc, Đạt
sinh, Sơn mộc, Điền tử phương, Tri bắc du.
Tạp thiên - gồm 11 thiên: Canh tang sở, Từ vô quỉ, Tắc dương, Ngoại vật,
Ngụ ngôn, Nhượng vương, Đạo chích, Thuyết kiếm, Ngư phủ, Liệt ngự khấu, Thiên
hạ.
1.3. Hành trình du nhập của tư tưởng Lão - Trang vào Việt Nam
Với cốt lõi là lối hành xử thuận theo tự nhiên, tinh thần phóng khoáng, chuộng
tự do, yêu thiên nhiên, theo đuổi lối sống tiêu dao, tự tại, tư tưởng Lão - Trang có
16
một sức hấp dẫn đặc biệt đối với nhiều nghệ sĩ từ cổ chí kim trên hầu khắp các quốc
gia nằm trong vùng ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa. Ở Việt Nam, trong suốt thời kỳ
trung đại, biểu hiện của sự ảnh hưởng này trong văn học tuy đậm nhạt khác nhau ở
từng giai đoạn cụ thể nhưng chúng ta đều có thể tìm thấy sự có mặt tư tưởng Lão -
Trang trong nhiều tác phẩm của các nhà thơ, nhà văn lớn. Khi nghiên cứu “Ảnh
hưởng nhân sinh quan Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm”, chúng tôi cũng
muốn khảo sát sự ảnh hưởng của tư tưởng này trong cả tiến trình văn học trung đại
để có một cái nhìn bao quát và có hệ thống. Chúng tôi vẫn biết rằng để có được một
cái nhìn toàn diện và đưa ra những kết luận với những luận cứ xác đáng mang tính
khoa học cao cho cả một tiến trình văn học dài cả ngàn năm đòi hỏi mất nhiều thời
gian và công sức. Trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi sẽ cố gắng đưa ra
những nét lớn về ảnh hưởng tư tưởng Lão - Trang trong tiến trình văn học trung đại
Việt Nam.
Các nhà nghiên cứu thường gọi sự ảnh hưởng “tư tưởng Lão - Trang” là sự ảnh
hưởng “Đạo gia - Đạo giáo”. Tuy nhiên cũng nên có sự phân biệt ở đây. Theo
chúng tôi, khi nói đến tư tưởng Lão - Trang là nói đến hệ thống triết thuyết mà Lão
- Trang đề xướng. Nói đến Đạo gia là nói đến những người có cùng tư tưởng hoặc
theo khuynh hướng tư tưởng Lão - Trang, lấy Đạo làm hạt nhân để xây dựng triết
thuyết của mình. Những người sống gần với Lão - Trang thuộc Đạo gia có thể kể
đến như Dương Tử, Liệt Tử … Còn Đạo giáo là tổ chức tôn giáo lấy triết thuyết của
Lão - Trang làm nền tảng thuyết lý và nâng lên thành những hoạt động mang tính
chất tín ngưỡng như học cách tu tiên, xây dựng những nhân vật thần tiên trong một
thế giới thần tiên để ngưỡng vọng, luyện phép thuật, luyện thuốc trường sinh bất
lão... và tất cả đã thông qua sự tiếp nhận của nhà thơ nhà văn mà đi vào thế giới thơ
văn. Suy cho cùng tất cả đều xuất phát từ lý thuyết về Đạo mà Lão - Trang xây
dựng. Những từ ngữ, hình ảnh từ Đạo gia - Đạo giáo đi vào thơ văn cũng chính là
sản phẩm nảy sinh từ tư tưởng Lão - Trang mà thôi. Cho nên khi xem xét ảnh
hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam, chúng
tôi cũng xem xét cả những yếu tố ảnh hưởng thuộc về Đạo gia - Đạo giáo. Có xem
17
xét những yếu tố này chúng ta sẽ thấy được một quá trình vận động đi từ sự ảnh
hưởng ở phương diện tôn giáo đến phương diện triết học của học thuyết Lão -
Trang.
Văn học trung đại Việt Nam là cả một chặng đường dài có thể tính tròn mười
thế kỉ. Trong đó có nhiều biến cố lịch sử xảy ra làm thay đổi sâu sắc đời sống chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và tất nhiên có cả văn học. Khi khảo sát ảnh hưởng của
tư tưởng Lão - Trang trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam chúng tôi nhận
thấy cần xem xét sự thâm nhập, tồn tại và tác động của các khuynh hướng tư tưởng
trong mối tương quan với bối cảnh lịch sử xã hội, chính trị của thời kỳ đó. Mỗi một
thời kỳ, một giai đoạn với bối cảnh lịch sử xã hội, chính trị khác nhau sẽ quyết định
sự tồn tại hay mức độ ảnh hưởng của từng khuynh hướng tư tưởng đối với xã hội
nói chung và văn học nói riêng. Vì vậy, chúng tôi dựa vào quan điểm phân kỳ văn
học gần đây để vừa lý giải, vừa chỉ ra sự ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong
tiến trình văn học trung đại Việt Nam. Theo đó văn học trung đại Việt Nam trải qua
bốn giai đọan:
- Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV
- Từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII
- Từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX
- Nửa cuối thế kỉ XIX
Nhưng do giới hạn đề tài nghiên cứu người viết chỉ tìm hiểu sự thâm nhập và
ảnh hưởng tư tưởng Lão - Trang ở hai giai đoạn: Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV và
thế kỷ XV đến thế kỷ XVI.
1.4. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học Việt Nam trước thế
kỷ XVI
1.4.1. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học thế kỷ X - XIV
Hơn một thế kỷ đất nước chúng ta chịu sự đô hộ và kiểm soát của đất nước
Trung Hoa nên việc chịu ảnh hưởng và tiếp biến văn hóa từ Trung Hoa là điều
không tránh khỏi. Và hệ tư tưởng đầu tiên ở Trung Quốc có ảnh hưởng đến Việt
Nam là Nho giáo với những nội dung chủ yếu như: mệnh trời, đức trị và chính
18
danh, đạo đức với những đại diện ưu tú bậc nhất thời bấy giờ Chu Công Đáng,
Khổng Tử, Mạnh Tử, Đổng Trọng Thư… Tuy nhiên tư tưởng Nho giáo không đáp
ứng được nhu cầu đời sống chính trị, xã hội bấy giờ. Bên cạnh Nho giáo thì Phật
giáo cũng đóng một vai trò rất lớn không thể thiếu trong ý thức xã hội phong kiến
Việt Nam, ý niệm phật giáo chủ yếu xoay quanh hai vấn đề cơ bản: Đạo phật quan
niệm vạn vật không do một thượng đế nào làm ra mà do vận động của bản thân nó,
đạo phật quan niệm cuộc đời là bể khổ, và muốn giải thoát khỏi bể khổ ấy thì phải
biết tu tâm. Phật giáo có nhiều tông phái mà nổi trội lên hết ở Việt Nam là phái
Thiền Tông. Tuy nhiên trong quá trình hội nhập hai học thuyết này ít nhiều đã bộc
lộ những hạn chế và thiếu sót của mình, không đủ khả năng dẫn dắt con người thoát
khỏi bể khổ nhân sinh, cho nên Đạo giáo xuất hiện. Đạo giáo chủ trương vô vi,
nghĩa là thuận theo tự nhiên mà sống, đơn giản hóa chính trị, nới lỏng pháp luật,
hình thành ở con người một lối sống tiêu dao, phóng nhiệm, không màng nhân thế,
ưa thích thiên nhiên và nhàn tản. Người sáng lập ra Đạo giáo đầu tiên phải kể đến là
Lão Tử, Trang Tử mới là người tiếp nối và phát triển tư tưởng của ông. Ở hai bậc
Đạo gia này về tư tưởng có rất nhiều điểm tương đồng và thống nhất, cho nên sau
này người ta thống nhất tên gọi Đạo gia và những tư tưởng của Đạo gia là tư tưởng
Lão - Trang hay học thuyết Lão - Trang. Ba hệ tư tưởng trên đây đều nhập vào nước
ta vào thời kì phong kiến phương Bắc thống trị nên có sự giao thoa với nhau. Đặc
biệt là ở buổi đầu từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, ba hệ tư tưởng này đều được coi
trọng theo chủ trương tam giáo đồng nguyên.
Văn học trung đại Việt Nam ra đời cùng với sự ra đời của quốc gia Đại Việt
sau chiến thắng của Ngô Quyền năm 938, chiến thắng đã mở ra một thời kỳ độc lập
tự chủ của dân tộc. Nhân dân ta giành được độc lập sau cả ngàn năm mất nước, chịu
cảnh bị đô hộ cho nên nhiệm vụ quan trọng nhất của giai đoạn lịch sử này là xây
dựng quốc gia thống nhất, độc lập, tự chủ và chống ngoại xâm. Chính vì thế, sự
kiện loạn 12 sứ quân sau khi Ngô Quyền mất đã không ngăn cản được đà phát triển
ý thức độc lập tự cường của dân tộc. Loạn 12 sứ quân bị dẹp tan, nhà Đinh và Tiền
Lê tiếp tục công cuộc của Ngô Quyền dang dở. Nhà Lý, nhà Trần tiếp nối bằng việc
19
phát triển đất nước về mọi mặt và nâng vị thế quốc gia lên một tầm cao mới. Để
khẳng định nền độc lập của mình, nhà nước phong kiến Đại Việt một mặt phải củng
cố kinh tế vững chắc, quân đội hùng mạnh, một mặt phải xây dựng nền văn hóa
riêng biệt. Bên cạnh đó, nhà nước phong kiến Đại Việt còn có ý thức sử dụng văn
hóa như một phương tiện thống trị. Do đó các vương triều Lý, Trần đã khéo kết hợp
những thành tựu văn hóa dân tộc dân gian với các hệ tư tưởng mà từ lâu giai cấp
thống trị Trung Quốc xem như nền tảng tinh thần của chế độ phong kiến như Nho,
Phật, Lão. Đầu thế kỉ thứ X khi nước nhà giành được độc lập thì Phật giáo và Đạo
giáo đang rất thịnh hành vì đã được các triều đại Trung Hoa, nhất là nhà Đường
khuyến khích, đề cao. Tuy nhiên, có đôi chỗ quan điểm của Phật giáo và Đạo giáo
tỏ ra không phù hợp với quyền lợi của nhà nước nhất là trong việc củng cố địa vị
thống trị và mở mang cơ đồ. Nho giáo đã trở thành công cụ đắc lực trong việc kiện
toàn bộ máy nhà nước và mở mang bở cõi. Ngoài việc đều đặn tổ chức các kỳ thi
Nho học, nhà nước phong kiến ở giai đoạn này còn mở trường Quốc tử giám, lập
Văn miếu để thờ các vị thánh hiền của Nho gia. Nhà nước phong kiến Đại Việt tuy
đề cao Nho giáo nhưng vẫn giữ sự dung hòa với Phật giáo và Đạo giáo. Việc tổ
chức kỳ thi Tam giáo vào thời vua Lý Cao Tông năm 1195 là một bằng chứng. Vì
thế giai đoạn này thịnh hành quan niệm “tam giáo đồng nguyên”. Có thể nói rằng,
chính bối cảnh lịch sử xã hội của thời kỳ đầu giành độc lập cùng với đường lối, sách
lược của nhà nước phong kiến Đại Việt đã tạo điều kiện cho các hệ tư tưởng khác
nhau thâm nhập vào nước ta, trong đó có tư tưởng Lão - Trang được cụ thể hóa
bằng hình thức Đạo giáo.
Dấu vết tư tưởng Lão - Trang ảnh hưởng đến văn học giai đoạn này thông qua
hình thức giáng bút, giáng thiên thư của Đạo giáo. Trong triết học Lão - Trang ta
gặp khái niệm “thiên cơ” nhằm để chỉ một guồng máy (cơ) vận hành mọi thứ trong
vũ trụ theo nguyên lý tự nhiên (thiên). Điều này được Đạo giáo xây dựng thành
đấng tạo hóa, là hóa công, là Ngọc Hoàng hay Thượng Đế, người có quyền quyết
định mọi thứ trên đời. Thiên cơ thường được tiết lộ hay báo trước một sự việc sắp
xảy ra bằng lời sấm truyền thường là một bài thơ gọi là sấm thi. Đại Việt sử ký toàn
20
thư và Đại Việt sử lược đều trích dẫn câu sấm báo trước như sau: “Đỗ Thích thí
Đinh Đinh/Lê gia xuất thánh minh/Cạnh đầu đa hoành tử/Đạo lộ tuyệt nhân
hành...”. Bài thơ được dịch là: Đỗ Thích giết hai Đinh (Đinh Tiên Hoàng và Đinh
Liễn)/Họ Lê xuất hiện bậc thánh minh (chỉ Lê Hoàn)/Tranh nhau nhiều kẻ chết oan
uổng/Đường sá vắng hẳn người qua lại. Cũng trong Đại Việt sử ký toàn thư và Đại
Việt sử lược có ghi một bài sấm thi ngầm dự báo một loạt sự kiện về sự thay đổi và
kế tiếp nhau ở các triều đại Đinh, tiền Lê, Lý, Trần. Các thiền sư như Định không,
Vạn Hạnh cũng có những bài sấm thi như thế.
Sự xuất hiện những bài sấm thi trong bối cảnh thay đổi triều đại, nhất là sự
“dọn đường” của các nhà sư có uy tín trong triều cho Lý Công Uẩn lên ngôi đã cho
ta thấy Đạo giáo được sử dụng với mục đích chính trị rõ rệt và sức ảnh hưởng lớn
của Đạo giáo đối với đời sống tinh thần của xã hội.
Đến đời nhà Trần có lẽ do hoàn cảnh xã hội đã thay đổi nên hầu như không
thấy sấm thi xuất hiện. Đến cuối đời Trần, khi Hồ Quý Ly thao túng quyền binh
trong triều và mọi người nhận thấy rằng sẽ có một cuộc soán ngôi, lúc này mới xuất
hiện bài Xích chủy hầu được cho là của Trần Duệ Tông. Theo Đại Việt Sử ký Toàn
thư, tháng 3 năm 1394, vua Trần Nghệ Tông chiêm bao thấy vua em Trần Duệ
Tông đem quân đến và đọc bài thơ báo vận mệnh của nhà Trần sẽ hết.
Các yếu tố liên quan đến Đạo giáo trong giai đoạn này còn xuất hiện ở loại thơ
hành chánh. Ở trong bài Thơ Thần (Nam quốc sơn hà), bản tuyên ngôn độc lập đầu
tiên của nước ta được cho là của Lý Thường Kiệt, ta thấy có từ “thiên thư” (“Tiệt
nhiên định phận tại thiên thư”) là một thuật ngữ của Đạo giáo nhằm để chỉ việc
“giáng bút” của đấng linh thiêng tối cao. Trước đó, một bài thơ được sáng tác với
mục đích ngoại giao của một nhà sư cũng đã xuất hiện các từ ngữ có nguồn gốc Đạo
gia. Đó là bài từ có tên là Vương lang quy, được Khuông Việt thiền sư làm theo
lệnh của vua Lê Đại Hành khi tiễn sứ thần Lý Giác. Trong bài thơ có từ “thần tiên”
và “đế hương”. Từ “đế hương” ngoài nghĩa là nơi vua ở còn có nghĩa là tiên cung,
nơi tiên ở. Những từ này được dùng nhiều trong các tác phẩm thơ văn của các tác
gia Trung Hoa thuộc Đạo gia như Trang Tử, Đào Tiềm, Bào Chiếu, Lưu Hương...
21
Có lẽ cảm quan Đạo giáo đã nâng cảm xúc của một vị thiền sư bay bổng nên những
từ trên vừa có sắc thái trang trọng phù hợp với tính chất ngoại giao vừa đậm đà thi
vị.
Trong bài thơ - kệ Quốc tộ, khi được hỏi về vận nước Pháp Thuận thiền sư đã
dùng chữ “vô vi” để trả lời vua Lê Đại Hành (Vô vi cư điện các). Thuật ngữ “vô vi”
được cả Phật giáo và Đạo giáo sử dụng, nhưng từ này có vai trò cốt lõi trong việc
phản ánh tư tưởng Lão - Trang. Pháp Thuận thiền sư đã mượn thuyết “vô vi nhi trị”
của Lão Tử để khuyên nhà vua lưu tâm đến đường lối trị nước.
Do chủ trương “tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri” (Lão Tử) nên những người
theo tư tưởng Lão - Trang thường ít để lại những trước tác trình bày về quan điểm,
tư tưởng của mình. Thơ văn trực tiếp nói đến tư tưởng, giáo lý của đạo gia lại càng
hiếm. Trong một cuộc thi thố phép thuật của một nhà sư và một đạo sĩ, vua Lý
Nhân Tông đã làm một bài tán sử dụng từ ngữ liên quan đến Đạo giáo: “Giác Hải
tâm như hải - Thông Huyền đạo diệc huyền - Thần thông kiêm biến hóa - Nhất phật
nhất thần tiên” (Giác Hải tâm như biển - Thông huyền đạo rất huyền - Thần thông
và biến hóa - Một người là Phật, một người là Thần tiên).
Vào thời Lý - Trần, các thiền sư còn mượn những thuật ngữ xuất phát từ triết
thuyết của Lão - Trang để chuyển tải tư tưởng, giáo lý Phật giáo. Có thể thấy điều
này trong các bài kệ của những thiền sư như Hiện Quang, Chân Không, Tuệ Trung
thượng sĩ, vua Trần Thánh Tông... các thuật ngữ thường được vay mượn đó là: vô
vi, tiêu dao, trùng huyền, thần tiên, hoàn đan, hoán cốt, hòa quang đồng trần... hay
các điển tích: Hứa chân quân, Từ Phúc, Quách Phác, Hoàng diện công (Lão Tử),
điệp mộng... ví dụ trong bài kệ Cảm hoài, Chân Không thiền sư viết: “Nhân nhân
tận thức vô vi lạc - Nhược đắc vô vi thủy thị gia” (Ai nấy đều thấu hiểu vô vi là vui
- Nếu được vô vi thì mới coi là nhà). Vô vi ở đây được hiểu là vô vi pháp, tức là
những cảnh giới bất biến, không sinh, không diệt. Sự vay mượn này cho thấy cách
tiếp nhận rất cởi mở của Phật giáo thông qua những thiền sư tinh thông tam giáo và
có tinh thần phóng khoáng, đồng thời cho thấy sức hấp dẫn của tư tưởng Lão -
Trang đối với các tôn giáo khác.
22
Từ những điều đã trình bày ở trên chúng ta có thể nhận định rằng: sự ảnh
hưởng của tư tưởng Lão - Trang đến văn học thời Lý trở về trước chủ yếu thể hiện
trên bề mặt câu chữ bằng những thuật ngữ, hình ảnh, điển tích... phản ánh những
hoạt động, phương thuật mang tính chất tôn giáo của Đạo giáo ở các loại thơ sấm
vĩ, hành chính, thuyết lý được gọi chung là thơ chức năng. Đến đời Trần, sự ảnh
hưởng của tư tưởng Lão - Trang đến văn học được mở rộng sang các loại hình thơ
nghệ thuật. Sự thâm nhập có biểu hiện tinh tế hơn, cách chuyển hóa vào trong thơ
đa dạng hơn, nhất là ở mảng thơ trữ tình.
Mang dấu ấn tư tưởng Lão - Trang rõ nét nhất là ở thơ vịnh cảnh. Những vị
vua đầu đời Trần có những bài thơ vịnh cảnh mà ở đó cảm quan thế giới Đạo gia đã
gợi thi hứng cho nhà thơ. Cách nhìn của những vị vua này về cảnh đẹp thiên nhiên
của quê hương đất nước là cảnh tiên, cảnh bồng lai, thượng giới, con người như
cũng thoát tục, hòa nhập, đắm mình với thiên nhiên. Ông vẽ nên cảnh hành cung
Thiên Trường với những vẻ đẹp lung linh, huyền ảo và thoát tục như thế:
…Thập nhị tiên châu thử nhất châu
…Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự
(Hạnh Thiên Trường hành cung - Trần Thánh Tông)
Trong bài Cư trần lạc đạo phú, vua Trần Nhân Tông có viết: “Núi hoang rừng
quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao; Triền vắng am thanh, chỉn thực cảnh đạo nhân du
hí” thì đó chính là sự thừa nhận một cách thú vị của nhà vua đối với tư tưởng của
Đạo gia. Trong thơ của vị tổ Thiền Trúc Lâm này ta thấy tư tưởng triết học “tiêu
dao du” của Trang Tử đã thăng hoa thành tứ thơ đẹp lung linh, huyền ảo để nhà thơ
vẽ nên một cảnh tiên nơi hạ giới. Sự thăng hoa cảm hứng thơ từ những điểm nội
dung trong triết học Lão - Trang như thế ta còn thấy trong thơ của vua Trần Anh
Tông (Đông cảnh), Phạm Sư Mạnh (Đăng Dục Thuý sơn lưu đề), Trần Nguyên
Đán (Đề Huyền Thiên Tử Cực cung), Nguyễn Phi Khanh (Đề Tiên Du tự)…
Ở loại thơ cảm hoài - cảm khái, Lão - Trang để lại dấu ấn bằng tư tưởng cuồng
phóng tiêu dao, tự do tự tại trong thơ của nhiều thi sĩ đời Trần. Trước tiên phải kể
23
đến Tuệ Trung Thượng Sĩ, một quý tộc, một danh tướng, một nhà thiền học đầu đời
Trần. Ông nổi tiếng với bài Phóng cuồng ngâm, trong đó có những câu như:
“Đốt đốt phù vân hề phú quý,
Hu hu quá khích hề niên quang”
(Ối ối! Giàu sang chừ, lưng trời mây nổi
Chà chà! Năm tháng chừ, bóng ngựa lướt ngang!)
Cùng mang âm hưởng như bài thơ trên, Tuệ Trung Thượng Sĩ còn có những
bài khác như Giang hồ tự thích, Thế thái hư huyễn...
Đến cuối đời Trần, khi triều đại bắt đầu suy vong, tư tưởng thoát tục của Lão -
Trang có dịp thâm nhập vào những vần thơ cảm khái của những nhà thơ bắt đầu băn
khoăn trước thời cuộc. Ta bắt gặp điều này trong bài Đề Nguyệt Giản Đạo Lục thái
cực chi Quan Diệu đường của Trần Nguyên Đán (Doanh Châu, Bồng Đảo biết là ở
đâu, không ham muốn, không tham lam, ta là tiên…)
Cùng tồn tại với Nho giáo và Phật giáo nhưng rõ ràng tư tưởng Lão - Trang có
sức ảnh hưởng đến văn học giai đoạn thế kỉ X đến XV không bằng những triết
thuyết thuyết tôn giáo khác. Tuy nhiên sự thâm nhập của tư tưởng Lão - Trang vào
văn học cũng thể hiện ở nhiều cấp độ: từ mục đích, phương thức sáng tác, đề tài,
cảm hứng, đến ngữ liệu, điển cố… Mặc dù phải tồn tại bên cạnh Nho, Phật và đôi
khi với hình thức đạo thuật, nghi thức tôn giáo nhưng tư tưởng Lão - Trang vô hình
chung đã ngầm tác động đến tâm hồn, tâm lý sáng tạo của thi nhân, làm phong phú
thêm diện mạo văn học của giai đoạn này.
1.4.2. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học thế kỷ XV - XVI
Triều Trần suy vong, Hồ Quý Ly tiếm ngôi nhà Trần mở ra triều đại nhà Hồ
(1400-1407). Triều Minh lấy cớ phò Trần diệt Hồ sang xâm lược nước ta. Lê Lợi
sau đó dấy binh khởi nghĩa và khởi nghĩa Lam Sơn kéo dài suốt 10 năm (1418-
1427). Lê Lợi lên ngôi mở ra triều đại Hậu Lê (1428-1789). Nhà Lê đi vào xây
dựng đất nước và đạt tới cực thịnh vào thế kỉ XV. Nhà nước phong kiến Hậu Lê đã
biết tận dụng những điều kiện của một quốc gia vừa giành được độc lập, một dân
tộc vừa mới được giải phóng để phục hồi và phát triển kinh tế đất nước. Bộ máy nhà
24
nước phong kiến lúc này được xây dựng chặt chẽ hơn: Chính quyền đời Lê đã trở
thành một nhà nước quân chủ chuyên chế, đồng thời là một nhà nước phong kiến
quan liêu. Để đào tạo, tuyển chọn nhân sự cung cấp cho bộ máy chính quyền đó,
nhà Lê đã lập ra Quốc tử giám ở kinh đô, mở trường học ở các địa phương. Việc thi
cử được tổ chức thường xuyên, tổ chức có nề nếp và và qui mô ngày càng mở rộng.
Điều đó cho thấy Nho học đã phát triển đến độ cực thịnh vào thế kỉ XV. Phật giáo
và Đạo giáo không còn giữ vị trí là tôn giáo được coi trọng như thời Lý, Trần nữa.
Bên cạnh đó nhà nước phong kiến đời Lê đã ít nhiều hạn chế sự phát triển của Phật
giáo và Đạo giáo. Văn học nửa đầu thế kỉ XV với âm hưởng chủ đạo là anh hùng ca
nhưng đâu đó trong góc khuất tâm hồn của những anh hùng hậu chiến tranh vẫn trỗi
lên nỗi niềm riêng tư về thời cuộc. Họ tìm đến tư tưởng Lão - Trang. Nguyễn Trãi,
Lý Tử Tấn, Nguyễn Thiên Tích, Lê Thiếu Dĩnh, Nguyễn Phu Tiên... là những
trường hợp như thế. Trong thơ của Lý Tử Tấn nhiều bài Tạp hứng bộc lộ quan
điểm nhân sinh rất gần với nhân sinh quan Lão - Trang. Hay tâm sự của Lê Thiếu
Dĩnh trong bài Trạch thôn cố viên, cũng là tâm sự chung của nhiều kẻ sĩ đương
thời.
Nửa sau thế kỉ XV, văn học mang tính quan phương. Tuy nhiên Phật giáo và
Đạo giáo vẫn có những ảnh hưởng lớn trong xã hội. Ngay cả Lê Thánh Tông, một
ông vua chuộng Nho giáo cũng viết:
“Gió thông đưa kệ tan niềm tục,
Hồn bướm mơ tiên lẫn sự đời”
Trong Hồng Đức quốc âm thi tập có những bài thể hiện lối sống ẩn dật, ca
tụng lối sống nhàn tản như Lạc tửu IV, Đề Lục Vân Động của Thân Nhân Trung,
Đỗ Nhuận…
Chế độ phong kiến đã phát triển cực thịnh vào thời vua Lê Thánh Tông. Tuy
nhiên bên trong cung đình nhà Hậu Lê không tránh khỏi xung đột. Đặc biệt là sau
khi Lê Thánh Tông qua đời, quan lại nhiều lần chia bè phái đánh nhau. Mạc Đăng
Dung do có công dẹp loạn mà có nhiều quyền binh trong tay, thậm chí lấn át cả vua.
Đến năm 1527 thì Mạc Đăng Dung phế truất ngôi vua và lập ra nhà Mạc. Từ đây
25
lịch sử Việt Nam bước vào thời kì đen tối nhất: thời kì nội chiến. Cuộc chiến Lê -
Mạc, Trịnh - Nguyễn đã cản trở quá trình phát triển của đất nước. Nho giáo vẫn
được đề cao, vẫn được sử dụng để củng cố trật tự phong kiến. Tuy nhiên do sự suy
yếu của chế độ phong kiến, việc học hành, thi cử cũng như nho phong sĩ khí ngày
càng đồi bại, đạo Nho ngày càng suy vi. Mặt khác, do chiến tranh loạn lạc kéo dài,
cuộc sống đầy đau thương tang tóc đã nảy sinh nhu cầu muốn biết trước thời thế và
tìm một thế giới bình an đã làm cho Phật giáo và Đạo giáo có điều kiện chấn hưng.
Những kẻ sĩ có lương tâm thì tìm đến triết thuyết của Lão - Trang như một chỗ dựa
tinh thần. Nổi bật là các nhà nho ẩn dật như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ...
Ảnh hưởng Đạo học sâu sắc hơn cả là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Quan niệm về vũ
trụ nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy có nguồn gốc từ Dịch lý nhưng ta vẫn
thấy ở đó có sự ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang. Ông thường hay nhắc đến
trong thơ luận điểm triết học về lẽ tương sinh, tương khắc, họa phúc dựa vào nhau -
một lối xử thế của Lão - Trang:
“Hoa càng khoe nở hoa nên rữa,
Nước chứa cho đầy nước ắt vơi”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 52)
Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn một lối sống “nhàn”. “Nhàn”, “tiên”, “vô sự” là
nội dung quan trọng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông viết:
“Rồi nhàn thì nhàn tiên vô sự,
Ngâm ngợi cho nên cảnh hữu tình”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 15)
Một học trò nổi tiếng của Nguyễn Bỉnh Khiêm là Phùng Khắc Khoan. Ông là
nhà nho tích cực xuất thế, hết lòng theo giúp nhà Lê Trung Hưng. Khi về già ông
thường ngao du đây đó, thăm thú các danh lam thắng cảnh, cùng bạn bè vui với bầu
rượu túi thơ. Tuy nhiên phần thơ chịu ảnh hưởng tư tưởng Lão - Trang lại được làm
lúc ông bị đày ở thành Nam khi còn trẻ, gồm có Đào nguyên hành, Ngư phủ nhập
đào nguyên và Lâm tuyền vãn, hiện chỉ còn Lâm tuyền vãn mở đầu bằng những
câu:
26
“Vô sự là tiểu thần tiên,
Gẫm xem cảnh thú lâm tuyền chăng vui?”
Nguyễn Dữ, một người sống cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, nổi tiếng với
tập truyện được xem là “thiên cổ kỳ bút”: Truyền kỳ mạn lục, tác phẩm có cả tư
tưởng của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo và văn hóa dân gian. Riêng tư tưởng Lão -
Trang ảnh hưởng đến tác phẩm này ở việc tác giả xây dựng bối cảnh truyện, nhân
vật, hướng giải quyết mâu thuẫn... mà truyện Từ Thức lấy vợ tiên, Chuyện đối đáp
của người tiều phu ở núi Na (Na sơn tiều đối lục) là những ví dụ. Từ Thức treo ấn
từ quan, ngao du sơn thủy lạc vào động tiên mới được một năm mà khi quay về trần
thế mà đã gần cả trăm năm. Ông tiều trong Na sơn tiều đối lục vừa đi vừa ngâm:
Mặc ai xe ngựa/ Mặc ai phố phường/ Nước non riêng chiếm, bụi đời không vương
nhưng Hồ Hán Thương chỉ gặp được một lần như trong giấc chiêm bao.
Bối cảnh lịch sử xã hội giai đoạn thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XVI đã làm cho
văn học có diện mạo riêng. Nho giáo trên bước đường suy thoái đã không còn giữ
được vai trò là tư tưởng chủ đạo. Trong khi đó Phật giáo và Đạo giáo tiếp tục mở
rộng ảnh hưởng đến đời sống xã hội lúc bấy giờ. Tư tưởng Lão - Trang thâm nhập
vào các tác phẩm văn học thông qua các nhà văn nhà thơ bất mãn trước thời cuộc và
những người có tinh thần tự do phóng khoáng. Điều này cho thấy tư tưởng Lão -
Trang khơi gợi nơi người sáng tác không chỉ cảm hứng triết học mà còn cảm hứng
nghệ thuật nữa.
27
Chương 2. NHỮNG BIỂN HIỆN NHÂN SINH QUAN CỦA LÃO -
TRANG TRONG THƠ NGUYỄN BỈNH KHIÊM
2.1. Biết dừng lại, quay về với cuộc sống ẩn dật, thanh cao - một biểu hiện của
tinh thần tri túc, cầu nhàn.
2.1.1. Tri túc, cầu nhàn - một vấn đề cơ bản trong tư tưởng Lão - Trang
Quan niệm tri túc thường lạc là một triết lí truyền thống mang đậm dấu ấn
văn hóa của dân tộc Trung Hoa. Tri túc là hài lòng với những gì mình có, với cái mà
trời ban cho. Giống như chuyện con chim cưu, con ve thấy chim bằng bay được
mấy nghìn dặm, từ biển Bắc sang biển Nam với đôi cánh rộng lớn. Hai con thấy vậy
chỉ cười rồi nói: “Điêu dữ học cưu tiếu chi viết: Ngã quyết khởi nhi phi thương du
phương, thời tắc bất chí, nhi khống ư địa nhi dĩ hĩ. Hề dĩ chi cửu vạn lý nhi nam vi.
Thích mảng thương giả, tam xan nhi phản, phúc du quả nhiên. Thích bách lí giả, túc
thung lương. Thích thiên lí giả, tam nguyệt tựu lương” [1, tr.108] (Ta quyết bay vụt
lên cây du, cây phượng. Như bay không tới thì có rơi xuống đất thôi chứ không sao!
Bay cao chín muôn dặm sang qua Nam mà làm gì? Ta thích bay đến mấy cánh đồng
gần đây, ăn ba miếng no bụng rồi về. Nếu ta đến chỗ xa trăm dặm, thì ta có lương
thực mỗi ngày. Còn nếu ta đến chỗ xa ngàn dặm, thì ta có ba tháng lương thực).
Vậy, lớn thì thuận theo chỗ lớn, không tự lớn mà sinh kiêu nên không thấy mình
lớn; nhỏ thì thuận theo chỗ nhỏ, nên không thấy mình là nhỏ. Như con chim cưu
bay vụt lên cây du, cây phượng dù bay không tới thì rơi xuống đất đâu cần phải ham
muốn cái rộng lớn như chim bằng.
Con người cũng vậy. Trang Tử nói: “Cố phù trí hiệu nhất quan, hạnh tỉ nhất
hương, đức hợp nhất quân năng trưng, nhất quốc giả, kỳ tự thị dã, diệc nhược thử
hĩ” [1, tr.119] (Có người tài trí đủ để làm một chức quan, có người hạnh làm gương
được cho một làng, có người đức đáng làm vua mà được cả nước phục, nhưng dù
thuộc hạng nào thì cũng đều tự cảm thấy an vui như thế). Điều đó cũng có nghĩa là
sống với một thái độ bất đãi, nghĩa là không chờ đợi điều gì, không mong hơn cái
mà mình đáng được hưởng.
28
Mọi sự tranh chấp đều bắt nguồn từ lòng tham không biết thế nào là đủ của
con người. Lão Tử có nói: “Họa mạc đại vu bất tri túc, cữu mạc đại vu dục đắc. Cố
tri túc chi túc, thường túc hĩ” [30, tr.58] (Họa không gì lớn bằng là không biết thế
nào là đủ, hại không gì là ham muốn vượt bậc. Cho nên biết thế là đủ và thỏa mãn
về cái đủ đó thì luôn luôn thấy đủ). Sở dĩ cái sự biết đủ thì luôn luôn đủ như thế là
vì đấy là bí quyết của quân bình trong trường vận động lưu hành của các thế lực tự
nhiên trong trời đất. Đạo trời bớt cái thừa mà bù chỗ không đủ. “Thiên chi đạo tổn
hữu dư, nhi bổ bất túc”. Còn đạo của người thì trái lại, không như thế cho nên trong
nhân loại hay mất quân bình vậy.
Muốn tri túc và bất đãi con người phải biết quả dục (giảm thiểu dục vọng).
Lão Tử có chỉ ra rằng: “kiện tố, bão phác, thiểu tư, quả dục” [29, tr.31] (biểu hiện
sự mộc mạc, giữ sự chất phác, giảm tư tâm, bớt dục vọng). Quả dục để dần dẫn đến
vô dục. Ta phải hiểu chữ vô ở đây như trong chữ vô vi. Có nghĩa là không phải
không ham muốn bất cứ thứ gì mà chỉ là không ham muốn những gì vượt ra ngoài
những nhu cầu tối thiểu tự nhiên của con người.
Tư tưởng Lão - Trang đề cao thái độ dứt khoát, ứng xử hợp lý khi đã ở đỉnh
cao công danh, phải biết đủ để lui về, sống đời nhàn tản, ung dung. Đây là một
phương thức sống chủ động và sáng suốt, một biểu hiện của minh triết phương
Đông.
2.1.2. Nhàn - cách ứng xử thức thời và chủ động của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm là tác giả tiêu biểu của một giai đoạn văn học. Các sáng
tác của ông là tiếng nói chung của cả một tầng lớp trí thức dân tộc phải sống trong
buổi suy vi của chế độ phong kiến. Nổi bật trong tiếng nói ấy là chữ “nhàn”. Về mặt
này xưa nay đã có những luồng ý kiến khác nhau. Phan Huy Chú thì cho rằng
Nguyễn Bỉnh Khiêm hành hay tàng đều có thể xem là được hướng dẫn bởi những
quy tắc tư tưởng nho gia “dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng”, “an bần lạc đạo”
mà các bậc á thánh trong làng nho Trung Quốc và Việt Nam đã nêu gương như
Nhan Hồi, Tăng Điểm, Chu An. Còn các nhà nghiên cứu ngày nay như Lê Trí Viễn
cũng nghĩ đến những nguyên nhân khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm lui về ở ẩn là thời thế
29
loạn lạc, nhà Mạc suy thoái không xứng đáng là một mẫu hình triều đại lí tưởng,
không có khả năng sử dụng người tài… Song xuất phát từ truyền thống hội nhập
tam giáo Nho, Phật, Lão nhiều học giả lại lí giải rằng triết lí nhàn dật của Nguyễn
Bỉnh Khiêm có nội dung Lão - Trang và cả Phật giáo. Đó là sự lánh đời tìm đến
cách sống thanh cao, hòa đồng cùng tự nhiên.
Một con người suốt đời ôm niềm ưu dân, ái quốc tại sao có thể dễ dàng phủi áo
ra đi bỏ lại tâm huyết của cả đời mình như vậy. Phải chăng có một sự bức bách rất
dữ dội mà chỉ có những người trong cuộc mới có thể lí giải hết được.
Sống trong thời buổi nhiễu nhương, quyết định ra đi của nhà thơ là dễ dàng
thấu hiểu. Nhà Mạc đã không giống như kỳ vọng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, là một
vương triều lí tưởng chúa thánh, tôi hiền, người dân được sống trong cản thái bình,
thịnh trị “Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn”. Trái lại, triều đại này đã bộc lộ
quá nhiều hạn chế, càng ngày càng trở nên mục ruỗng và thối nát, không hồi cứu
vãn. Bằng những vần thơ của mình ông đã ghi lại chân thật thảm cảnh đất nước điên
đảo dưới triều Mạc lúc bấy giờ.
Trong bài Tăng thử, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ví bọn thống trị tàn ác như loài
chuột tham lam, ăn bám chỉ “chui vào góc thành, ẩn trong hang hốc ở nền xá”, núp
vào đó để tính “mưu gian”, để “ngấm ngầm ăn trộm, ăn vụng”, “quét sạch tài sản
của nhân dân”, gây ra cảnh tượng thê lương khắp nơi. Bọn chúng chẳng khác gì
phường sâu dân mọt nước, làm cho dân cùng, nước kiệt. Một thực tế nữa cũng
khuấy động tâm hồn nhà thơ đó là sự đen bạc của cảnh đời: con người tham lam,
hám tiền, trọng lợi hơn nghĩa, coi rẻ tình nghĩa, kể cả tình cha con, anh em, vợ
chồng, bà con. Tiền của như mật, như mỡ, như nhị kết, hoa thơm mà con người thì
như ong, như kiến, như ruồi. Người đời không những tham lam mà hiểm giảo. Con
người ích kỷ, tự thiên, tham lam, gì cũng muốn vơ hết về mình “Lập danh, cỡi hạc
lại đeo tiền” (Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 124). Tác giả than thở:
“Hiểm mạc hiểm thế đồ,
Bất tiễn tiện kinh cức.
Nguy mạc nguy nhân tâm,
30
Nhất phóng tiện qui quắc”
(Trung Tân ngụ hứng)
(Không gì hiểm bằng đường đời,
Không cắt đi thì toàn là gai góc.
Không gì nguy bằng lòng người,
Buông lỏng ra thì đều là quỷ quái)
(Thơ ngụ hứng ở quán Trung Tân)
Quan trường thì hiểm trở, đầy sóng gió, ở đó con người ta sống với nhau bằng
hận thù, ganh ghét, lừa lọc, thậm chí sẵn sàng chà đạp lên nhau miễn sao dành cái
lợi ích về phần mình. Cụ Trạng đã sớm nhận ra một thực tế đau lòng mà dường như
đã trở thành quy luật ở chốn “lao xao” ấy: nơi nào có công danh thì nơi đó tất có
hiểm họa. Danh và lụy đi đôi với nhau như một cặp phạm trù nhân quả không thể
tách rời, trong đó “danh” là nguyên nhân và “lụy” là kết quả:
“Mùi thế gian nhiều mặn lạt,
Đường danh lợi có chông gai”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 40)
“Vì danh cho phải danh làm lụy”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 18)
“Vì danh cho phải lụy đôi phen”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 22)
Ở mãi trên đống công danh, bao bọc bởi cuộc sống giàu sang, phú quý nếu
không bị hãm hại thì con người lúc nào cũng phải sống trong sự nom nớp, lo âu
không biết tai họa sẽ giáng xuống mình lúc nào:
“Mọi sự chăng còn mắc mớ,
Nỗi hay vụng liệu phải lo”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 27)
Thế nên Lão Tử khuyên người đời khi đã được mãn doanh, đã hội đủ công
danh, phú quý thì phải sớm liệu lui về ẩn dật, nếu không ắt bị kẻ khác hãm hại, khó
giữ được trọn vẹn thân thể và danh giá của mình: “Danh dữ thân thục thân? Thân
31
dữ hóa thục đa? Đắc giữ vong thục bệnh? Thị cố thâm ái tất đại phí, đa tàng tất
hậu vong” và chủ trương “khứ thậm, khứ xa, khứ thái” [29, tr.56] (bỏ những gì thái
quá). Nguyễn Bỉnh Khiêm ý thức được điều đó, nhà thơ không để công danh làm
mờ mắt mình mà luôn luôn chủ động trong vấn đề xuất xử. Ông đã có sự lựa chọn
đúng đắn: dứt khoát lìa bỏ công danh để bảo toàn thanh danh, tính mệnh của mình
mà không chút luyến tiếc:
“Nẻo có công danh thì có lụy,
Cho hay dù có chẳng bằng chăng”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 16)
“Bất ư phú quý, lý nguy ky (cơ),
Tố đắc nhàn trung dữ lão kỳ”
(Sang giàu chẳng ở, hiểm nguy thôi!
Tuổi cả quay về sống thảnh thơi)
(Ngụ Hứng, H.30)
Ở Việt Nam, Nguyễn Trãi đời Lê, Nguyễn Văn Thành đời Nguyễn cũng vì
thịnh danh mà phải chết một cách oan uổng. Ở địa vị cao sang rất nguy hiểm, vì dễ
bị nhà vua ngờ vực, các quan ganh ghét hãm hại. Lão Tử cho rằng để có được lối
sống “thảnh thơi” con người phải biết “tri túc”. “Tri túc” là hài lòng với những gì
mình có, với cái mà trời ban cho. “Tri túc thường lạc” là một đúc kết rất có ý nghĩa
đối với con người, nhất là khi mà con người cứ mãi lao vào cuộc đua tranh để đạt
đến đỉnh cao của tiền tài và danh vọng mà không biết rằng đôi khi tai họa đang chực
chờ ở phía trước. Cho nên muốn khỏi lụy thân thì phải sớm biết đủ (tri túc) và biết
dừng lại (tri chỉ) “Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi, khả dĩ trường cửu” [29, tr.56].
Tinh thông Dịch lí, hơn ai hết Nguyễn Bỉnh Khiêm hiểu rằng “Vật cực tắc phản” và
thường đề cập đến lẽ doanh hư: đầy ắt phải đổ nên nhà thơ coi việc giới mãn doanh
là một cách giữ mình, và cho rằng người ta ở địa vị càng cao lại càng phải thận
trọng đừng để cho quá đầy, phải biết làm cho nó vơi đi:
“Cố ngã cư nguy cụ mãn doanh”
(Tạ Cao Xá hữu nhân tỉnh bệnh thuật hoài, H.55)
32
(Xét tôi ở nơi cao rất sợ sự quá đầy)
(Cảm tạ bạn Cao Xá thăm hỏi bệnh tình, tỏ bày hoài cảm, H.55)
“Tự cổ thành công giới mãn doanh”
(Lưu đề Đoan quốc công, H.64)
(Từ xưa muốn thành công phải giữ đừng để cho quá đầy)
(Đề thơ để lại Đoan quốc công, H.64)
“Hễ lộc triều quan đã có ngần,
Làm chi tham được, nhọc băn khoăn?”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 20)
“Hai chữ mãn doanh nay khá gẫm,
Mấy người trọn được chữ thân doanh”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 13)
“Thửa nơi doanh mãn là nơi tồn,
Hãy gẫm cho hay mới kẻo âu”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 9)
Cơ sở để hình thành quan điểm tri túc chính là luật phản phục mà Lão Tử đã
nêu: Vạn vật khi phát triển đến cùng cực thì quay trở lại. Am hiểu Chu Dịch, kết
hợp với hiện thực đời sống mà nhà thơ đã trải, Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng mọi
vật, mọi việc trong trời đất đều tồn tại trong bản thân nó những mặt đối lập:
“Độc bất kiến:
Thiên hạ bản doanh hư,
Bội nhập diệc bội xuất.
Hựu bất kiến:
Quỷ thần bản ố doanh,
Bạo đắc tùy bạo thất.
Tòng đầu sắc thị không,
Bản lai vô nhất vật.
(Cảm thời cổ ý)
( Riêng chẳng thấy:
33
Trời đất vốn là đầy, lại là vơi,
Bỗng vào mà lại bỗng ra.
Lại chẳng thấy:
Quỷ thần vốn ghét sự thịnh mãn,
Được một cách phũ phàng thì cũng mất một cách phũ phàng.
Từ đầu, thì sắc đã là không,
Vốn là không có một vật gì cả)
(Ý xưa cảm khái về thời thế)
Đồng thời mọi sự vật luôn luôn biến đổi, chuyển hóa lẫn nhau, không khi nào
tĩnh tại, bất biến.
“Hoa càng khoe nở, hoa nên rữa,
Nước chứa cho đầy, nước ắt vơi”
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 48)
Nhìn lại chặng đường làm quan tám năm của mình, nhà thơ không lấy gì làm
hổ thẹn mà trái lại rất lấy làm tự hào nữa là khác. Ông đã không vào luồn ra cúi,
dám phanh phui sự thật, tố cáo bọn gian thần trước mặt nhà vua. Cùng thời làm
quan ấy, mấy ai làm được như cụ Trạng. Chí đã phỉ nguyền, cho nên lúc treo ấn từ
quan về quê ở ẩn ta thấy Cụ thanh thản, an nhiên như một người đã thấu suốt mọi lẽ
biến dịch ở đời:
“Hễ làm quan đã có duyên,
Tới lui mặc phận tự nhiên.
Thân xưa hương lửa chăng còn ước,
Chí cũ công danh đã phỉ nguyền.
……………………………….
Cho về cho ở dầu ơn chúa
Ngại bước chân chen áng cửa quyền”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 51)
“Yến khan trọc thế đẩu phù vinh,
Tân quán thân nhàn ngã độc thanh”
34
(Chán nhìn trò đua chen vinh hoa hão ở cái đời vẩn đục này,
Thâu nhàn trong quán Trung Tân, riêng ta trong sạch)
(Ngụ hứng)
Rõ ràng cụ Trạng xem việc làm quan của mình là do duyên số, quan trường chỉ
là nơi cụ gửi gắm thân mình vào đấy để thỏa nguyện chí bình sinh. Một khi chí lớn
không thành, thì công danh với Cụ không còn mang ý nghĩa gì. Ảo tưởng về công
danh trong Nguyễn Bỉnh Khiêm hoàn toàn sụp đổ, khi nhắc về nó nhà thơ đầy ngán
ngẩm:
“Danh toại công thành, hưu hĩ hưu,
Đẳng nhàn thế cố nhất hư chu?”
(Công đã thành, danh đã toại, nên nghỉ đi thôi!
Việc đời phó mặc cho con thuyền không lênh đênh)
(Ngụ Ý, H.102)
Sao bằng gác bỏ việc đời, gửi thân trên chiếc thuyền không mà hưởng thú
thanh nhàn:
“Công danh bất hệ nhất hư chu,
Liêu hướng điền viên mịch thắng du”
(Công danh như một con thuyền rỗng, chẳng buộc vào đâu,
Hãy hướng về vườn ruộng mà tìm thú ngao du thắng cảnh)
(Ngụ hứng, bài 3)
“Thuyền không” (hư chu) ở đây không chỉ có nghĩa đơn thuần là nói đến cuộc
sống nhàn tản, phóng khoáng trên sông sau khi tác giả đã ra khỏi vòng cương tỏa
của danh lợi, mà còn hàm ý triết lí sâu xa. Trong Nam Hoa Kinh, Trang Tử đã
mượn việc một chiếc đò qua sông bị một chiếc thuyền không (hư thuyền) trôi đụng
để từ đó rút ra một thái độ xử thế: nếu biết đem cái lòng trống không mà xử sự với
đời thì không ai hại mình. “Phương châu nhi tế ư hà, hữu hư thuyền lai xúc chu, tuy
hữu biển tâm chi nhơn bất nộ. Hữu nhất nhơn tại kỳ thượng tắc hô trương hấp chi.
Nhất hô nhi bất văn, tái hô nhi bất văn, ư thị tam hô da, tắc tất dĩ ác thinh tùy chi.
Hướng dã bất nộ, nhi kim dã nộ. Hướng dã hư nhi kim dã thật. Nhơn năng hư kỷ dĩ
35
du thế, kỳ thục năng hại chi” [1, tr.642-643] (Chiếc đò qua sông, bị phải chiếc
thuyền không trôi đụng. Dù người có hẹp lòng đến đau cũng không giận. Nếu có
người trên thuyền, thì đã thấy chủ đò giận dữ, phùng trợn. La lối một lần mà bên
thuyền chẳng ai nghe, tất la lối đến hai lần. Hai lần mà cũng chẳng ai nghe, tất la lối
đến ba lần, rồi buông lời chửi mắng. Trước không giận mà nay lại giận là vì sao? Vì
trước thì không có người mà nay thì lại có người. Nếu biết đem cái lòng trống
không mà đối xử với đời, thì ai hại mình.). “Hư thuyền” của Trang Tử chính là “hư
chu” của Nguyễn Bỉnh Khiêm vậy.
Lão Tử đã từng khuyên con người nên biết dùng cái tâm trống không ấy để đối
đãi với đời. Bậc chân nhân ấy đã hơn một lần khuyên người đời về việc nên đi mà
không ở lại “Vì không ở lại, nên không bỏ đi”, hoặc “Hậu kỳ thân nhi tiên, ngoại kỳ
thân nhi tồn”. (Để thân ra ngoài mà thân được còn) và “Nên việc lui thân đấy là
đạo trời” [29, tr.19]. Nếu làm được điều ấy sẽ bảo toàn được thanh danh, tránh
được họa cho mình về sau: Tiêu Hà và Hàn Tín sau khi giúp nhà Hán thành công,
không biết toan tính đường về, vẫn cứ tham quyền cố vị, sau đó Tiêu Hà bị Hán Cao
tổ bắt giam, còn Hàn Tín thì bị Lã Hậu giết. Trương Lương thì ngược lại, sau khi
giúp nhà Hán thành công, ông thác là nhiều bệnh, rồi từ chối tước lộc, xin đi theo
Xích Tùng tử tu tiên, do đó tránh được tai vạ:
“Hán gia tam kiệt trong ba ấy,
Ai chẳng hay toan? Ai khéo toan?”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 62)
Thấy rõ điều tai hại ấy, đến lượt mình Nguyễn Bỉnh Khiêm không tham quyền
cố vị, trái lại ông luôn nghĩ đến cảnh điền viên và chỉ muốn xin về ẩn dật:
“Vật vờ thành thị làm chi nữa,
Ít tiếng khen thì vắng tiếng chê”
(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 61)
Cuộc sống thành thị chỉ tổn làm cho con người ta nhọc xác, được ít mà mất
nhiều. Chi bằng tìm về với chốn lâm tuyền mà tâm hồn được thư thái, nhàn hạ.
Trong cuộc hành trình quy ẩn ấy Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ví mình như con cá côn,
36
con chim bằng nơi biển Bắc có sức bơi xa, bay cao nghìn dặm, nhưng vì cá không
gặp nước, chim không gặp gió, không có không gian cao rộng và như người không
gặp thời nên phải xếp đôi cánh lớn, quay về chốn non xanh:
“Vạn lí bằng minh tảo phấn thân,
Không thời liêu thả tập tu lân.
Tích liên Kim Mã Ngọc Đường khách,
Kim bạn thanh sơn bích thủy nhân”
(Sớm có chí bay nhảy như chim bằng ở biển Bắc,
Nhưng gặp lúc cùng hãy tạm thu lại cánh vay.
Xưa làm khách Kim Mã Ngọc Đường,
Nay là người bạn non xanh nước biếc)
(Tự Thuật, H.31)
Theo Nguyễn Bỉnh Khiêm, con người cũng giống tạo vật. Chim kia đang bay
trên bầu trời xanh, có lúc mỏi cánh cũng muốn tìm một nơi hạ cánh. Cây quạt nọ
tuy đem gió mát đến cho đời nhưng khi mùa thu đến thì phải xếp lại cất đi. Con
người cũng thế, khi có thời cơ thuận lợi để thi thố tài năng thì phải dốc sức, dốc
lòng; nhưng lúc nhận ra thời cơ đã trôi qua rồi thì phải biết lui về:
“Chim thấy non cao, chim đến đỗ,
Quạt hay thu đến, quạt càng thâu”
(Bạch vân quốc ngữ thi, bài 54)
Xuất hay xử là lý thuyết của Nho giáo, nhưng khi đã không thực hiện được chí
hướng của mình, các nhà Nho lui về ở ẩn đã không tìm thấy ở lý luận Nho giáo chỗ
dựa tinh thần cho họ. Nho giáo không cho họ triết lý để sống cô độc, không cho họ
nhìn ra cái đẹp của thiên nhiên mà vui thú, nhìn ra cái vô nghĩa của cuộc đời để xa
lánh, có thể yên tâm hưởng cảnh nhàn. Những người ẩn dật thường tìm những chỗ
thiếu thốn đó ở Lão - Trang. Thái độ sống nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một
thái độ triết lí bắt nguồn từ sự hiểu biết qui luật thời thế ở ông. Dù ở trong hoàn
cảnh nào ông cũng có những ứng xử chủ động và đầy tự tin vào bản thân mình và
vào con đường mình lựa chọn. Lẽ sống nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể bị
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ
Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ

More Related Content

What's hot

Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...nataliej4
 
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI nataliej4
 
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...nataliej4
 
KHÓA LUẬN ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT TRINH THÁM HIGASHINO KEIGO 5652858.pdf
KHÓA LUẬN ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT TRINH THÁM HIGASHINO KEIGO 5652858.pdfKHÓA LUẬN ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT TRINH THÁM HIGASHINO KEIGO 5652858.pdf
KHÓA LUẬN ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT TRINH THÁM HIGASHINO KEIGO 5652858.pdfNuioKila
 
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfMan_Ebook
 
Luận án: Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản cho học sinh trung học phổ thôn...
Luận án: Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản cho học sinh trung học phổ thôn...Luận án: Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản cho học sinh trung học phổ thôn...
Luận án: Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản cho học sinh trung học phổ thôn...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

What's hot (20)

Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đLuận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
 
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOTLuận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
 
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả: Vi Thùy Linh, Ly ...
 
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
 
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAYLuận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
Luận văn: Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, HAY
 
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyếtLuận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
 
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
 
Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, HAY
Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, HAYYếu tố kì ảo trong tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, HAY
Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, HAY
 
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAYLuận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
 
KHÓA LUẬN ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT TRINH THÁM HIGASHINO KEIGO 5652858.pdf
KHÓA LUẬN ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT TRINH THÁM HIGASHINO KEIGO 5652858.pdfKHÓA LUẬN ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT TRINH THÁM HIGASHINO KEIGO 5652858.pdf
KHÓA LUẬN ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT TRINH THÁM HIGASHINO KEIGO 5652858.pdf
 
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt NamLuận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
 
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOTCảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
 
Đề tài: Dạy học tích hợp trong một số tác phẩm trong môn Ngữ Văn 10
Đề tài: Dạy học tích hợp trong một số tác phẩm trong môn Ngữ Văn 10Đề tài: Dạy học tích hợp trong một số tác phẩm trong môn Ngữ Văn 10
Đề tài: Dạy học tích hợp trong một số tác phẩm trong môn Ngữ Văn 10
 
Luận án: Ba mô hình truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt Nam
Luận án: Ba mô hình truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt NamLuận án: Ba mô hình truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt Nam
Luận án: Ba mô hình truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt Nam
 
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
 
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốcLuận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
 
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAYLuận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
 
Luận án: Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản cho học sinh trung học phổ thôn...
Luận án: Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản cho học sinh trung học phổ thôn...Luận án: Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản cho học sinh trung học phổ thôn...
Luận án: Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản cho học sinh trung học phổ thôn...
 
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên LộcLuận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
 
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt namLuận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
 

Similar to Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ

TƢ DUY NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN KHẮC THẠCH_10303312052019
TƢ DUY NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN KHẮC THẠCH_10303312052019TƢ DUY NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN KHẮC THẠCH_10303312052019
TƢ DUY NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN KHẮC THẠCH_10303312052019phamhieu56
 
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn KhuyếnKhóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn KhuyếnDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...KhoTi1
 
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...nataliej4
 
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...NuioKila
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách nataliej4
 

Similar to Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ (20)

Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyếnKhóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
Khóa luận tốt nghiệp cái say trong thơ nguyễn khuyến
 
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đLuận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
 
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAYLuận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
 
TƢ DUY NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN KHẮC THẠCH_10303312052019
TƢ DUY NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN KHẮC THẠCH_10303312052019TƢ DUY NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN KHẮC THẠCH_10303312052019
TƢ DUY NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN KHẮC THẠCH_10303312052019
 
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn KhuyếnKhóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
Khóa luận tốt nghiệp văn học về Cái say trong thơ của Nguyễn Khuyến
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, HAY
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, HAYLuận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, HAY
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, HAY
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
 
Bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều
Bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện KiềuBút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều
Bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều
 
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAYLuận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
 
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAYLuận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
 
Luận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Luận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đạiLuận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Luận văn: Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
 
Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đạiThơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
Thơ Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn của lí thuyết hậu hiện đại
 
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đThế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975, 9đ
 
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
LUẬN VĂN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU NĂM 1975_102537...
 
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
Dạy học các tác phẩm thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương ở trung học phổ thông theo h...
 
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
Tiểu Luận Vai Trò Của Báo Chí Với Phản Ánh Tiêu Cực Của Xã Hội Hiện Nay 42728...
 
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đLuận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
 
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAYLuận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, HAY
 
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đLuận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
Luận văn: Thế giới biểu tượng trong Lĩnh Nam chích quái, 9đ
 
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại Chân Dung Và Phong Cách
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào môBryan Williams
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx22146042
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11zedgaming208
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 

Recently uploaded (20)

50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 

Luận văn: Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang, HAY, 9đ

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Tuyết Đào ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN LÃO - TRANG TRONG THƠ NGUYỄN BỈNH KHIÊM LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
  • 2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Tuyết Đào ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN LÃO - TRANG TRONG THƠ NGUYỄN BỈNH KHIÊM Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN KIM CHÂU Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
  • 3. LỜI CẢM ƠN  Sau một thời gian đầu tư thực hiện, luận văn “Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh khiêm” đã được hoàn thành đúng thời hạn. Đó là kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc với sự hỗ trợ nhiều mặt từ phía nhà trường, quý thầy cô cùng bạn bè, đồng nghiệp. Dù rất cố gắng nhưng luận văn vẫn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong nhận được ý kiến đóng góp, đề xuất để công trình nghiên cứu của chúng tôi hoàn thiện hơn. Trước tiên, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Tiến sĩ Nguyễn Kim Châu - người đã hướng dẫn tôi thực hiện đề tài luận văn nói trên. Sự quan tâm, hướng dẫn, chỉ bảo tận tâm của Thầy đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt thời gian thực hiện luận văn. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến phòng Sau đại học trường Đại học sư phạm TP. HCM, các giảng viên cùng cán bộ thư viện trường Đại học Sư phạm TP. HCM đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho học viên cao học chuyên ngành Văn học Việt Nam khóa 21 chúng tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn tại trường. Sau cùng, tôi xin được cảm ơn những người thân trong gia đình, những người bạn, những người đồng nghiệp đã luôn động viên, khích lệ và giúp đỡ tôi trong cả quá trình học tập và nghiên cứu luận văn. Nguyễn Thị Tuyết Đào
  • 4. MỤC LỤC  A. DẪN NHẬP...........................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề.....................................................................................................2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................5 4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................6 5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................7 6. Kết cấu của luận văn...........................................................................................7 B. NỘI DUNG............................................................................................................9 Chương 1. Khái quát về tư tưởng Lão – Trang và tác giả, tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm................................................................................................................9 1.1. Tác giả, tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm...........................................................9 1.1.1. Tác giả ......................................................................................................9 1.1.2. Tác phẩm ................................................................................................12 1.2. Lão Tử và Đạo Đức Kinh, Trang Tử và Nam Hoa Kinh...............................14 1.2.1. Lão Tử và Đạo Đức Kinh.......................................................................14 1.2.1.1. Lão Tử...........................................................................................14 1.2.1.2. Đạo Đức Kinh...............................................................................14 1.2.2. Trang Tử và Nam Hoa Kinh...................................................................14 1.2.2.1. Trang Tử .......................................................................................14 1.2.2.2. Nam Hoa Kinh..............................................................................15 1.3. Hành trình du nhập của tư tưởng Lão - Trang vào Việt Nam .......................15 1.4. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học Việt Nam trước thế kỷ XVI.17 1.4.1. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học thế kỷ X - XIV....17 1.4.2. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học thế kỷ XV - XVI .23 Chương 2. Những biển hiện nhân sinh quan của Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm..............................................................................................................27
  • 5. 2.1. Biết dừng lại, quay về với cuộc sống ẩn dật, thanh cao - một biểu hiện của tinh thần tri túc, cầu nhàn..........................................................................................27 2.1.1. Tri túc, cầu nhàn - một vấn đề cơ bản trong tư tưởng Lão - Trang........27 2.1.2. Nhàn - cách ứng xử thức thời và chủ động của Nguyễn Bỉnh Khiêm ...28 2.1.3. Nhàn - Sự tâm đắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm khi chọn được lẽ sống theo ý mình....................................................................................................37 2.2. Hòa hợp, gắn bó với thiên nhiên và cuộc sống làng quê - một biểu hiện của tinh thần vô vi, tiêu dao.............................................................................................44 2.2.1. Tinh thần vô vi, tiêu dao của Lão - Trang..............................................44 2.2.2. Niềm hạnh phúc, gắn bó với thiên nhiên và cuộc sống làng quê trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm........................................................................47 2.3. Xem công danh như áng phù vân - một biểu hiện của quan niệm “đời là giấc mộng” ...................................................................................................64 2.3.1. Quan niệm đời là giấc mộng của Trang Tử............................................64 2.3.2. Giấc mộng công danh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm...........................66 2.3.3. Sự biến đổi thăng trầm nhanh chóng của vinh và nhục - hệ quả của được và mất trên đường công danh trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.....71 Chương 3. Tương quan Nho – Phật – Đạo và những yếu tố nhân sinh quan tích cực trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm........................................................................79 3.1. Tương quan Nho học và Đạo học trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm................79 3.1.1. Cách ứng xử vừa hợp với tư tưởng Nho gia vừa hợp với tư tưởng Đạo gia 79 3.1.2. Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, phần Nho sĩ vẫn lấn át phần ẩn sĩ ......83 3.2. Tương quan Phật học và Đạo học trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm...............91 3.2.1. Cách ứng xử vừa hợp với tư tưởng Đạo vừa hợp với tư tưởng Thiền ..91 3.2.2. Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, phần Nho sĩ, ẩn sĩ vẫn đậm nét hơn phần cư sĩ...............................................................................................96 C. KẾT LUẬN.......................................................................................................100 D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................102
  • 6. 1 A. DẪN NHẬP 1. Lý do chọn đề tài Văn học trung đại Việt Nam gắn liền với những tên tuổi không bao giờ bị lãng quên như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan… Và thật thiếu sót nếu không nhắc đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà thơ tiêu biểu của văn học thế kỉ XVI - một nhà nho, một vị quan trong sạch, ngay thẳng, một ẩn sĩ. Sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là một trong những chiếc cầu nối giữa hai thời đại văn học - thời đại Nguyễn Trãi trước đó và thời đại Nguyễn Du sau này. Quá trình hành - tàng, xuất - xử của nhà thơ này rất phức tạp, liên quan đến nhiều biến động lịch sử. Tài năng bản lĩnh nhưng ông giấu mình suốt khoảng thời trai trẻ vì bất mãn trước thời cuộc, thực hiện lối sống ẩn nhẫn đợi thời của một người ẩn sĩ với những thú vui tao nhã: uống rượu, ngâm thơ, ngao du ở bên sông. Mãi đến năm 45 tuổi, xét thấy tình hình chính trị xã hội ổn định Nguyễn Bỉnh Khiêm mới bắt đầu con đường hành đạo, quyết định ra làm quan cho nhà Mạc với mong muốn thực hiện lí tưởng “kinh bang tế thế” của mình. Gần 8 năm tại vị, dốc hết lòng vì chúa, chứng kiến nhiều cảnh trái tai, gai mắt nhưng không can gián được. Bất mãn ông trí sĩ xin về quê ở ẩn, náu thú sơn lâm, sống nhàn hạ đến cuối đời. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng theo dòng mà biến đổi như cuộc đời nhà thơ vậy. Đó là tiếng nói của một con người tích cực nhập thế, hành đạo giúp đời, lắm lúc là tiếng nói của một con người đã nắm vững mọi quy luật của cuộc sống, nhận thấy đời người vô thường với kiếp sống ngắn ngủi, có đó rồi lại mất đó nên chọn giải pháp lui về quê “lánh đục tìm trong”. Rõ ràng, thơ ông là một sự kết hợp tuyệt vời của ba luồng tư tưởng Nho - Phật - Đạo. Sự chi phối các luồng tư tưởng này trong thơ ông ở mức độ không đều nhau: lúc đậm, lúc nhạt. Tuy nhiên bước đầu khảo sát thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng tôi nhận thấy sự xuất hiện liên tục những từ “nhàn, tiên, vô sự,” - biểu thị một lối sống phiêu diêu, tự tại đối lập hoàn toàn với thực tế xã hội mục ruỗng, thối nát đương thời .
  • 7. 2 Từ bỏ chốn quan trường trở về với cuộc sống ẩn dật, ông đã xây dựng rất sớm cho mình một quan niệm sống nhàn, lánh xa danh lợi, tìm niềm vui trong sự gắn bó với thiên nhiên, và nhất là biết thuận theo quy luật của tạo hóa theo đúng tinh thần Lão - Trang. Tuy nhiên, vẫn cần phải khẳng định rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm thân nhàn nhưng tâm không nhàn, lui về quê sống ẩn dật nhưng lòng lúc nào cũng lo nước thương dân. Nói cách khác, trong thơ ông, lý tưởng Nho gia vẫn chiếm một phần quan trọng. Vấn đề đặt ra là trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, phần ảnh hưởng của nhân sinh quan Lão - Trang hay của Nho giáo quan trọng hơn, đậm đặc hơn và sự lựa chọn, dung hòa giữa các hệ tư tưởng đó có ý nghĩa gì đối với quan niệm sống, cách ứng xử của Nguyễn Bỉnh Khiêm? Đó là những vấn đề cần được khảo sát cụ thể để tìm lời giải đáp thỏa đáng. Mặt khác, hiện nay thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm được đưa vào giảng dạy trong chương trình Trung Học Phổ Thông. Là một giáo viên, tôi nhận thấy những kiến thức chuyên sâu liên quan đến tư tưởng, tình cảm của tác giả sẽ là nền tảng quan trọng giúp tôi hiểu sâu hơn, giảng dạy tốt hơn tác phẩm văn học trung đại nói chung và tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm nói riêng. Với những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Ảnh hưởng nhân sinh quan của Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm” để thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Lịch sử vấn đề Từ trước đến nay, có khá nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về cuộc đời và tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm. Mỗi công trình có những góc nhìn riêng, những phát hiện mới nhằm khẳng định giá trị và đóng góp của tác giả vào tiến trình phát triển văn học. Trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu về nhà thơ này, người viết đã thu thập một số công trình, bài viết tiêu biểu sau: Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia và tác phẩm - Trần Thị Băng Thanh, Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu: Đây là công trình quy tụ 67 bài viết tập trung nghiên cứu Nguyễn Bỉnh Khiêm ở nhiều phương diện. Trong đó phần thứ nhất tập trung làm rõ thời đại ông sống, tư tưởng chính trị xã hội của Nguyễn Bỉnh Khiêm
  • 8. 3 qua thơ văn: “Nguyễn Bỉnh Khiêm giữa thế kỉ XVI đầy biến động”. Phần thứ hai phác họa diện mạo tư tưởng nhà thơ với tư cách là ẩn sĩ, nho sĩ, cư sĩ: “Triết nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm - tư tưởng và nhân cách”. Phần thứ ba nêu những vấn đề chung về sự nghiệp văn học, những thành tựu trong thơ văn chữ Hán và chữ Nôm của nhà thơ: “Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ”. Phần thứ tư nhấn mạnh vị trí của nhà thơ trong lòng dân tộc xưa và nay. Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc - Viện khoa học và xã hội - Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm: Công trình này tập hợp 28 bài viết đi sâu khai thác hoàn cảnh lịch sử, thân thế, tư tưởng và thơ văn… của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong đó đáng chú ý là những bài viết ở phần thứ hai, các nhà nghiên cứu đã đi sâu khai thác được vẻ đẹp tài hoa và nhân cách tuyệt vời của Bạch Vân cư sĩ. Thơ Văn Nguyễn Bỉnh Khiêm - Đinh Gia Khánh (chủ biên): Đây là bộ hợp tuyển giới thiệu 161 bài thơ Nôm và gần 100 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng với lời giới thiệu của tác giả Đinh Gia Khánh. Nội dung xoay quanh vấn đề văn bản, giá trị tư tưởng và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân Am thi tập - Nguyễn Khuê: Đây là công trình khá công phu gồm bốn phần, với các vấn đề lớn sau: hoàn cảnh lịch sử, cuộc đời, tác phẩm Hán Nôm của nhà thơ; khai thác sâu thế giới tình cảm và tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua thơ; xác định giá trị nội dung và nghệ thuật của Bạch Vân am thi tập và giới thiệu 102 bài thơ trong Bạch Vân am thi tập được dịch khá công phu. Tập kỉ yếu về trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: Công trình được thực hiện nhân kỉ niêm 500 năm ngày sinh của ông. Bao gồm 52 bài tham luận xoay quanh những vấn đề về sự nghiệp sáng tác và cuộc đời của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các bài viết được sắp xếp theo một chủ đề gồm bốn phần, trong đó phần thứ nhất giới thiệu về quê hương Vĩnh Bảo và thời đại của ông; phần thứ hai, gồm các bài viết trình bày cảm nhận sâu sắc của các nhà nghiên cứu về con người và tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm; phần ba đề cập đến sự nghiệp văn chương của Nguyễn
  • 9. 4 Bỉnh Khiêm với những lời bình sâu sắc; phần thứ tư là những ý kiến đáng trân trọng về vị trí của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tâm thức con người hiện nay. Ngoài ra còn có những công trình nghiên cứu khác có giá trị về Nguyễn Bỉnh Khiêm của Bùi Duy Tân, Bùi Văn Nguyên, Mai Quốc Liên, Vũ Tiến Quỳnh, Vũ Tiến Phúc, Trần Lê sáng… Điểm qua những công trình chủ yếu nêu trên để thấy được mức độ quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là cây đại thụ của văn chương thế kỷ XVI. Qua khảo sát những công trình này, người viết nhận thấy có một số ý kiến quan trọng có liên quan đến phạm vi khảo sát của đề tài, tiêu biểu như: - Nguyễn Huệ Chi nhận định: “Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một hình thức biểu hiện của ung dung tự tại, của một phong thái sống hồ hởi, cởi mở với tạo vật, biết gắn mình với thiên nhiên, sống theo qui luật tự nhiên, hiểu được đến cội nguồn cái đẹp chân chất của sự sống, cái đẹp hồn nhiên của sự chuyển dần, thay đổi luôn diễn ra xung quanh mình…” [37, tr.391]. - Trần Thị Băng Băng và Vũ Thanh cho rằng: “Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là “cái nhàn triết học của một triết nhân” và cũng gợi ra Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà nho có bản lĩnh, một trí giả. Tìm đến với sự nhàn dật chính là Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tìm về với cái vụng, cái chuyết mà theo quan niệm của nho gia, đã được điều chỉnh dưới cái nhìn của đạo Lão, mới là bản chất tự nhiên của sự vật. Chính quan niệm nhàn dật đạt tới ý vị triết học đó đã tạo nên một Nguyễn Bỉnh Khiêm - Bạch Vân cư sĩ tự do, tự tại, phản giác, hồn nhiên, lạc quan, khỏe khoắn, rất hiếm thấy trong làng thơ nhàn thời trung đại” [37, tr.34]. - Trần Đình Hượu nhấn mạnh: “Nguyễn Bỉnh Khiêm coi mình là loại người “chí để ở sự nhàn dật”, tự gọi mình là “ông nhàn”…Ông nhàn đặc biệt quan tâm đến lạc thú nhưng thú vui của ông nhàn không phải là sự sung sướng theo lẽ thường tình” [37, tr.130]. - Phạm Tú Châu lại đưa ra một nhận định khá sắc sảo về nhàn dật của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Những bài thơ nói chí bằng chữ Hán cho người đọc thấy rõ Nguyễn
  • 10. 5 Bỉnh Khiêm tuy chí thích nhàn dật nhưng ông không để chí ở việc ẩn dật…” [37, tr.355]. - Lê Trọng Khánh - Lê Anh Trà cho rằng: “Tính chất nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm thực chất không phải yếm thế, xu thời, ích kỷ và hoàn toàn hưởng lạc, tư tưởng nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm có những khía cạnh tích cực, phù hợp với tư tưởng hành đạo của Nho giáo. Cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một lối phản ứng của tầng lớp nho sĩ bất lực trước thời cuộc lúc bấy giờ, phản ứng bằng hình thức tiêu cực nhưng vẫn bao hàm một nội dung đấu tranh bằng phương pháp theo lẽ tự nhiên” [37, tr.247]. - Lê Trí Viễn nhìn nhận: “Xa lánh chốn phồn hoa, sống một cuộc đời giản dị, thanh bạch, bạn bè với sách vở, với thơ rượu; đó là cảnh nhàn, cảnh “vô sự”, đó là thái độ ẩn dật, phong thái phóng khoáng của tác giả” [37, tr.476]. - Trường Lưu, Phạm Vũ Dũng, Băng Thanh: “Một nét mới của ẩn sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm là dù tàng, dù ẩn nhưng không ngoảnh đi, trái lại ông chăm chú nhìn vào đời, sẵn sang làm những gì đời cần đến, chỉ miễn là không phải lao vào vòng danh lợi, làm hoen ố tấm lòng trung trinh của một nhà nho chí sĩ” [37, tr.146]. - Các tác giả bộ Lịch sử Việt Nam: “Trong thơ văn ông có tố cáo cảnh thối nát của xã hội, phê phán thói đời xấu xa, nhưng chủ đề nổi bật là ca ngợi chữ “nhàn”…Tư tưởng của ông là sự kết hợp giữa hệ ý thức Nho giáo và tư tưởng Lão Trang” [29, tr.306]. Nhìn chung, có khá nhiều bài viết đề cập đến những ảnh hưởng của nhân sinh quan Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhiều ý kiến đánh giá hết sức xác đáng và thuyết phục mà người viết xem là cơ sở quan trọng để tiếp tục phát triển trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng vẫn chưa có một công trình chuyên sâu nghiên cứu một cách toàn diện về những ảnh hưởng của nhân sinh quan Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Tư liệu chúng tôi dùng để khảo sát thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm phục vụ cho luận văn là Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm - Đinh Gia Khánh, Nxb Văn học, Hà Nội
  • 11. 6 (1983), Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập - Nguyễn Khuê, Nxb TP. HCM, 1997 và các sách có liên quan đến thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng như con người thời đại mà ông đang sống. Từ đó mà hiểu rõ hơn về tư tưởng nhân cách của ông cũng như cảm thụ đúng hơn nội dung tác phẩm thơ văn của ông. Tư tưởng Lão - Trang ảnh hưởng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ở cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Luận văn chủ yếu xem xét ảnh hưởng trên phương diện nội dung, cụ thể là xem xét sự tác động của tư tưởng Lão - Trang đến cảm hứng sáng tác để hình thành nội dung trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong quá trình phân tích những khía cạnh nội dung, chúng tôi cũng khảo sát những yếu tố nghệ thuật có liên quan đến học thuyết Lão - Trang được dùng như phương tiện thể hiện những nội dung đó. Bên cạnh đó chúng tôi còn tìm hiểu thêm các tư liệu khác mà nội dung đề cập đến Đạo giáo, Nho giáo, Phật giáo góp phần hỗ trợ đắc lực để làm sáng tỏ nội dung đề tài. Đề cập đến Lão - Trang còn có các khái niệm Đạo gia và Đạo giáo. Luận văn chỉ xem xét ảnh hưởng tư tưởng Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mà không xem xét tất cả những gì thuộc về Đạo gia hay Đạo giáo. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong bài viết này người viết sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính sau: Phương pháp phân tích - tổng hợp: Nhằm chỉ ra những biểu hiện cụ thể của tinh thần Lão - Trang trong những câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sau đó chúng tôi khái quát lại vấn đề nhằm nhấn mạnh một lần sự ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Phương pháp thống kê: Chúng tôi thu thập những câu chữ thể thể hiện tư tưởng Lão - Trang nhằm giúp cho thao tác phân tích được rõ ràng và thuyết phục hơn. Phương pháp tiếp nhận: Góp phần lí giải sự tồn tại sự song song của ba luồng tư tưởng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, đặc biệt là luồng tư tưởng Đạo giáo.
  • 12. 7 Phương pháp thực chứng tiểu sử: Giúp người đọc có cơ sở hiểu thêm về con người và cách hành xử của nhà thơ. 5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Dựa trên những thành tựu cũng như những vấn đề chưa được giải quyết một cách triệt để trong thực tiễn nghiên cứu ảnh hưởng nhân sinh quan Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, luận văn này nhằm hướng đến giải quyết những vấn đề sau: - Khảo sát, phân tích những biểu hiện nhân sinh quan Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ yếu ở phương diện nội dung. Cụ thể là tìm những khía cạnh của tư tưởng Lão - Trang đã tác động đến việc hình thành cảm hứng sáng tác ở nhà thơ. - Xác định mức độ ảnh hưởng nhân sinh quan Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm từ đó thử đưa ra những lí giải về nguyên nhân của sự ảnh hưởng này nhằm có cái nhìn tổng quan về tâm sự của Nguyễn Bỉnh Khiêm được gửi gắm qua thơ. - Không chỉ dừng lại tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm dưới ảnh hưởng của nhân sinh quan Lão - Trang, mà qua những tập thơ của ông chúng tôi còn mong muốn phân tích sự dung hòa trong việc hội nhập cả hai luồng tư tưởng khác là Nho học và Phật học trong thơ ông. Từ đó có cái nhìn, cách hiểu đúng hơn về nhà thơ. 6. Kết cấu của luận văn Sau khi xác định lý do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, mục đích và phương pháp nghiên cứu, nhằm làm rõ những yêu cầu mà đề tài đặt ra, chúng tôi trình bày hướng phát triển của đề tài như sau: Chương 1: Khái quát về tác giả - tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm và tư tưởng Lão - Trang Ở phần này chúng tôi chỉ trình bày một cách khái quát về cuộc đời và thân thế, sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đồng thời cung cấp thêm vài nét về cuộc đời Lão Tử, Trang Tử và hai sáng tác của hai vị Đạo gia này với những
  • 13. 8 nội dung cơ bản nhất. Qua đó cho thấy sự ảnh hưởng của tư tởng Lão - Trang vào văn học trung đại Việt Nam, trong đó có nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chương 2: Những biểu hiện của nhân sinh quan Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm Ở phần này chúng tôi không đi một cách chung chung, sơ lược ở dạng phác thảo như chương 1, mà chúng tôi dừng lại đi sâu phân tích chỉ ra sự ảnh hưởng cụ thể của tư tưởng Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ở những khía cạnh riêng như: Biết dừng lại, quay về với cuộc sống ẩn dật, thanh cao - một biểu hiện của tinh thần tri túc, cầu nhàn. Hoà hợp, gắn bó với thiên nhiên và cuộc sống làng quê - một biểu hiện của tinh thần vô vi, tiêu dao. Xem công danh như áng phù vân - một biểu hiện của quan niệm “Đời là giấc mộng”. Chương 3: Tương quan Nho - Phật - Đạo và những yếu tố nhân sinh quan tích cực trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chương này người viết đi vào phân tích làm rõ sự đa nhân cách trong con người Nguyễn Bỉnh Khiêm để thấy rằng nhà thơ rất linh hoạt trong phương cách ứng xử của mình. Đồng thời qua đó thấy được nhà thơ không hẳn phụ đạo quên đời khi chọn lựa lối sống theo Lão - Trang. Phần kết luận: Kết luận ngắn gọn về những vấn đề đã trình bày ở phần nội dung, khẳng định lại vị thế của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lòng người dân Việt.
  • 14. 9 B. NỘI DUNG Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG LÃO – TRANG VÀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM NGUYỄN BỈNH KHIÊM 1.1. Tác giả, tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm 1.1.1. Tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491), còn có tên là Văn Đạt, tên chữ là Hạnh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, Xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Ông mất ngày 28 tháng 11 năm Ất Sửu (17/01/1585), sống gần trọn thế kỉ XVI đầy biến động. Ông xuất thân trong một gia đình Nho học. Tổ phụ là Văn Tĩnh được ấm phong Thiếu bảo Tư quận công. Tổ mẫu là Phạm Thị Trinh Huệ được ấm phong Chinh phu nhân. Ông ngoại là thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan. Cha là Nguyễn Văn Định, hiệu Cù Xuyên tiên sinh, học rộng đức cao, được phong Thái bảo Nghiêm quận công, được sung chức Thái học sinh. Ông là người thông minh, có tài văn thơ, thông kinh kịch, giàu nghị lực, có chí khí khác thường, có công lớn trong việc dạy dỗ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thân mẫu họ Nhữ được phong Từ Thục phu nhân. Bà thông kinh sử, giỏi văn chương, tinh thông thuật số. Xét cho cùng thì Nguyễn Bỉnh Khiêm thừa hưởng nhiều điều tốt đẹp từ gia đình, chính những phẩm chất nổi trội, ưu tú từ cha và mẹ đã tôi luyện và cho ra đời một Nguyễn Bỉnh Khiêm lỗi lạc, được mọi người tôn kính cho đến ngày nay. Tương truyền Nguyễn Bỉnh Khiêm thông minh từ nhỏ, tư chất hơn hẳn người thường, một tuổi đã nói sõi, năm tuổi đã thuộc nhiều thơ ca quốc âm do mẹ dạy truyền khẩu. Lớn lên, ông được theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng (người Lạch Triệu, Hoằng Hóa, Thanh Hóa) - một vị quan thanh liêm, một người thầy xuất sắc nên ông đã sớm hấp thu những phẩm chất tốt đẹp đó. Có thể nói thời thơ ấu của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong giai đoạn được coi là thịnh trị nhất của nhà nước phong kiến theo thể chế Nho giáo ở Việt Nam. Thế nhưng những ngày này đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm thật ngắn ngủi.
  • 15. 10 Dựa vào các cột mốc lịch sử và những hoạt động, chúng tôi chia cuộc đời của nhà thơ làm ba chặng: Chặng thứ nhất: tính từ thời niên thiếu đến năm 1534: Ngay từ thuở ấu thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm được mẹ nuôi dạy, chăm sóc cẩn thận cả về thể lực và trí lực. Đến tuổi trưởng thành Nguyễn Bỉnh Khiêm được học với quan hưu trí Hộ bộ Thượng thư Dương Đức Nhan và trở thành con rể của ông. Sau đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm nghe tiếng cụ Bảng nhãn Lương Đức Bằng là bậc văn chương cái thế, bèn lặn lội tìm đến học. Đây là khoảng thời gian trong triều đình và ngoài xã hội có nhiều biến động: nội chiến phi nghĩa, cướp bóc loạn lạc, sưu cao thuế nặng, nhân dân đói khổ lầm than cơ cực… Trong khoảng thời gian 1523 và 1526, triều Lê Tương Dực có mở khoa thi nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn mai danh ẩn tích. Cho đến khi Mạc Dăng Dung cướp ngôi nhà Lê, nhà Mạc đã có một số chính sách mới nhằm ổn định trật tự xã hội, thúc đẩy sự phát triển của đất nước về mọi mặt. Vì thế, uy tín nhà Mạc được củng cố, và được một số quan lại nhà Lê cũ phò trợ đắc lực. Thời điểm này nhà Mạc cũng tổ chức một số khoa thi như thi Hương, thi Hội để kén chọn nhân tài, các sĩ tử hưởng ứng rất đông nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn ẩn cư dạy học, lấy đạo làm vui, chẳng cầu danh tiếng. Cho đến năm 1530, khi Mạc Đăng Doanh lên ngôi, nhà thơ tự nhận mình chưa bằng Khổng Tử, chưa thấu suốt được lẽ đương nhiên của tạo vật, còn băn khoăn chưa xác định được hướng đi, còn trăn trở là có nên ứng thí để đem đạo học ra giúp nước cứu đời được hay không, vì con đường trước mặt còn đen tối như mực. Chặng thứ hai: tính từ lúc ra làm quan (1535 - 1542): Nguyễn Bỉnh Khiêm quyết định nhập thế. Mặc dù đã 44 tuổi, ông vẫn đi thi Hương và đỗ giải Nguyên khoa Giáp ngọ dưới triều Mạc Đăng Doanh (1534). Năm 1535 dự thi Hội bốn kì đều đạt giải nhất, đỗ Hội nguyên; dự thi Đình, đỗ Trạng nguyên. Làm quan được 8 năm, ông dâng sớ xin chém đầu 18 tên nịnh thần nhưng không được vua Mạc chấp thuận. Tiếp đó lấy cớ con rể Phạm Dao cậy quyền thế làm nhiều điều bất nghĩa, ông thác bệnh xin về trí sĩ vào thời Mạc Phúc Hải (1543).
  • 16. 11 Chặng thứ ba: Tính từ năm 1543 đến 1585. Trong thời gian ở ẩn, Nguyễn Bỉnh Khiêm dựng am Bạch Vân, bắc hai chiếc cầu Nghinh Phong và Tràng Xuân, tu bổ chùa chiền, dựng một ngôi quán gọi là Trung Tân trên bến Tuyết Giang, được học trò tôn xưng là Tuyết Giang Phu tử. Trong Công dư tiệp kí, Vũ Phương Đề cho rằng tuy Nguyễn Bỉnh Khiêm ẩn cư dạy học nhưng với tài đức cao vời vợi của Trạng Trình, vua Mạc vẫn lấy “sư lễ” đãi ông. Những khi nhà nước có việc gì quan trọng, triều đình đều sai sứ đến hỏi, có khi triệu ông về kinh thung dung trù liệu kế hoạch, rồi lại trở về am chứ không ở lại. Bên cạnh đó cả những người phù Lê cũng luôn tôn trọng, vị nể Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sau 2 năm Mạc Phúc Hải gia phong cho ông chức Trình Tuyền hầu (Hầu Tước khơi nguồn dòng suối triết học của họ Trình). Người đời thường gọi ông là Trạng Trình. Với một tấm lòng nhân đạo, Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn mong muốn cho đất nước được thịnh vượng, thái bình. Với sự uyên thâm vốn có, ông nhận thấy vận mệnh của đất nước trong hoàn cảnh bi đát này không thể trao vào tay bất cứ một lực lượng chính trị nào. Bởi vì lúc này các tập đoàn phong kiến quyết chiến với nhau chỉ vì muốn tranh giành quyền lực. Vì vậy tương truyền để tránh những cuộc binh đao khói lửa lan tràn đến cuộc sống của nhân dân, ông đều bày cho các phe phái những phương sách khác nhau để giữ thế “chân vạc”. Chẳng hạn năm 1568, Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm hãm hại, sợ mầm họa sẽ xảy ra cho bản thân, đã ngầm cho thân cận đến hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm về kế an thân. Được ông mách bảo: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (Dựa vào một dải Hoành sơn có thể lập nghiệp được lâu dài), Nguyễn Hoàng liền xin anh rể là Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa (từ Đèo Ngang trở vào) và sống bình yên trong nhiều năm. Thời ấy tại kinh thành Thăng Long, chúa Trịnh cũng ra sức ức hiếp vua Lê, làm nhiều điều bạo ngược kể cả có ý định muốn phế bỏ vua Lê. Khi chúa Trịnh cho người đến hỏi ý kiến của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không trả lời mà lẳng lặng dẫn sứ giả của triều đình ra thăm chùa và nói nói với nhà sư trong chùa: “Giữ chùa thờ phật thì ăn oản” (Ngụ ý muốn khuyên chúa Trịnh cứ tôn thờ nhà Lê thì quyền hành sẽ nắm trong tay, nếu tự ý phế lập sẽ dẫn đến chiến tranh).
  • 17. 12 Riêng đối với nhà Mạc, sau nhiều trận đánh diễn ra liên miên, nhà Mạc phải bỏ chạy lên Cao Bằng. Vua Mạc có ý cho người về hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông đã trả lời “Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thế” (Cao Bằng tuy đất hẹp nhưng có thể giữ được vài đời). Quả nhiên mãi đến năm 1688, sau ba đời giữ đất Cao Bằng, nhà Mạc mới bị diệt. Sở dĩ nhân dân đưa ra những truyền thuyết trên là vì muốn chứng minh rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm có tài tiên đoán, do nắm được bí truyền của sách Thái ất thần kinh. Ngoài ra còn có rất nhiều truyền thuyết khác về Trạng Trình trong tập Trình quốc công sấm kí. Thực hư, có hay không có, khẳng định hay phủ định sự việc còn là vấn đề mà các học giả Việt Nam cần phải nghiên cứu kĩ để trả lại vị trí xứng đáng cho Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lòng dân tộc và cả trên lĩnh vực văn học. Một điều chắc chắn là đối với nhân dân Việt Nam Nguyễn Bỉnh Khiêm thật sự là nhà học giả “thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lí, trung tri nhân sự”. Và trong thời gian trí sĩ ở điền viên, ông chính là một người thầy mẫu mực, cao minh đã đào tạo biết bao danh sĩ tài năng cho đất nước như Giáp Hải, Lương Hữu Khánh, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Quyện… Tuy nhiên, Nguyễn Khuê khi nghiên cứu Bạch Vân am thi tập cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi lui về ở ẩn vẫn mang trong mình tấm lòng nhiệt huyết của kẻ mang “tấm lòng tiên ưu đến già chưa thôi” nên vẫn tiếp tục nhận lời mời của vua Mạc mà ra làm quan, trực tiếp tham gia những cuộc chinh phạt của triều Mạc ở phía Tây nữa rồi mới quy lão ở tuổi 73 (1563). Đến ngày 28 tháng 11 năm Diên Thành thứ 8 (1585) Nguyễn Bỉnh Khiêm mất hưởng thọ 95 tuổi. Mạc Hậu Hợp sai Mạc Kính Điển đến dự tế, truy phong Thượng thư bộ Lại, Thái phó Trình quốc công và tặng mấy chữ trước cửa ở đền thờ: “Mạc triều Trạng nguyên Tể tướng từ”. 1.1.2. Tác phẩm Tuyết Giang Phu Tử có nói là rất vụng trong nghề thơ, tuy nhiên khi nghiên cứu thơ văn của ông, người viết nhận thấy sự nghiệp văn chương của Trạng Trình là tấm gương sáng về quá trình lao động sáng tạo không ngừng. Tác giả đã để lại cho
  • 18. 13 đời một di sản thơ đồ sộ chứa đựng nhiều tư tưởng thâm sâu, nhiều bài học giáo hóa rất thiết thực cho đời. Về chữ Hán có Bạch Vân am thi tập, Trung Tân quán bi kí, Thạch khánh kí và một số bài văn tế. Theo Bạch Vân am thi tập tiền tự do chính tác giả viết thì thơ chữ Hán có khoảng 1000 bài. Hiện nay số còn lại chỉ khoảng hai phần ba. Tập thơ là tiếng nói của con người nhập thế hành đạo, vừa là tiếng nói của một cao sĩ ẩn dật, vừa là tiếng nói của một con người ưu thời mẫn thế. Về chữ Nôm có Bạch Vân quốc ngữ thi tập (còn gọi là Trình quốc công Bạch Vân quốc ngữ thi tập) với khoảng 170 bài thơ. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm làm theo thể Đường luật và Đường luật xen lục ngôn. Thơ không có đề mục cho từng bài và từng môn loại. Nội dung xoay quanh một số đề tài nhất định: sự suy tàn của đạo đức phong kiến, cuộc đời nhàn dật, phong cảnh thiên nhiên, ý nghĩ về bổn phận với vua, với nước. Ở hai tập thơ chúng ta nhận thấy ở nhà thơ một tư tưởng thoát li mang đậm dấu ấn tư tưởng Lão - Trang. Đó là tư tưởng tiêu dao, nhàn phóng coi nhẹ cuộc đời, coi nhẹ công danh, thoát mình khỏi chốn cạnh tranh, vui chơi với thiên nhiên, với thơ rượu. Ngoài thơ Nôm, trong dân gian còn lưu hành nhiều câu sấm Trạng. Các tập sấm kí Nôm thường mang tên Trạng Trình và phần lớn viết theo thể lục bát như Trình quốc công sấm kí, Trình tiên sinh quốc ngữ. Sấm Trạng Trình là một hiện tượng văn học cần phải được tìm hiểu và xác minh thêm. Theo Phả kí của Vũ Khâm Lân, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có bài phú bằng quốc âm. Bài phú này hiện nay vẫn chưa được tìm thấy. Nguyễn Bỉnh Khiêm có phong cách thơ rất riêng không lẫn với các nhà thơ cùng thời mặc dù vẫn tuân theo nguyên tắc sáng tác thơ văn trung đại. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm mang đậm chất triết học nhưng vẫn gần gũi và dễ tiếp nhận. Đặc biệt là hai tập thơ chữ Hán và chữ Nôm, chất triết thể hiện rõ rệt và đậm nét nhất - triết học đạo gia, mà đại diện tiêu biểu là Lão Tử và Trang Tử. Đọc thơ ông, người đọc rất dễ dàng nhận ra sự ảnh hưởng ấy.
  • 19. 14 1.2. Lão Tử và Đạo Đức Kinh, Trang Tử và Nam Hoa Kinh 1.2.1. Lão Tử và Đạo Đức Kinh 1.2.1.1. Lão Tử Lão Tử tức chưa rõ năm sinh, năm mất, nhưng theo ý kiến chung nhất là ông sống vào khoảng thế kỉ thứ VI - V trước công nguyên, là một nhà tư tưởng vĩ đại của Trung Hoa cổ đại, là người sáng lập trường phái Đạo gia (đạo Lão). Ông tên thật là Lý Nhĩ, tên thường gọi là lão Đam, người làng Khúc Nhân, hương Lệ, nước Sở. Ông làm chức quan giữ sách nhà Chu, học rộng biết nhiều, sau về quê ở ẩn. Về giai thoại của Lão Tử: Tương truyền, trước khi về ở ẩn đến cửa quan, viên quan coi cửa là Doãn Hỉ bảo: “Ông sắp đi ở ẩn, ráng vì tôi mà viết sách để lại”. Thế là Lão Tử viết một cuốn sách chỉ gồm khoảng năm ngàn chữ bàn về “Đạo” và “Đức” (tức Đạo Đức Kinh). Viết xong rồi bỏ đi, về sau không ai còn nghe đến, không biết sống chết ra sao. 1.2.1.2. Đạo Đức Kinh Cuốn Đạo Đức Kinh tổng cộng gồm có 81 chương, hơn 5000 chữ Hán gồm có hai thiên, thiên trước bàn về Đạo (Thượng Kinh), thiên sau bàn về Đức (Hạ Kinh). Thượng Kinh gồm 37 chương, bắt đầu bằng câu: “Đạo khả Đạo phi thường Đạo”. Hạ Kinh gồm 44 chương, bắt đầu bằng câu: “Thượng Đức bất Đức thị dĩ hữu Đức”. Tư tưởng của Lão Tử truyền lại trong tác phẩm Đạo Đức Kinh rất phong phú và uyên thâm, dù trải qua mấy ngàn năm người đọc vẫn có thể tiếp thu được những điều bổ ích. 1.2.2. Trang Tử và Nam Hoa Kinh 1.2.2.1. Trang Tử Trang Tử (369 - 286 TCN) tên là Chu, người nước Tống, huyện Mông, Ở khoảng giữa hai tỉnh Sơn Đông và Hồ Nam ngày nay. Ông là một nhà Lão học danh tiếng nhất trong làng Lão học cổ điển. Theo Sử ký mục “Lão Trang Thân Hàn Liệt truyện”, ông đồng thời với vua Huệ Vương nước Lương và Tuyên Vương nước Tề, tức là đồng thời với Mạnh Tử. Là nhà tư tưởng lớn trong phái Đạo gia, là người kế tục tư tưởng của Lão Tử. Cũng như Lão Tử, tư liệu sớm nhất chép về Trang Tử là ở
  • 20. 15 bộ Sử ký của Tư Mã Thiên. Sử gia Tư Mã Thiên viết về Trang Tử khá vắn tắt: “Trang tử, người đất Mông, tên Chu, làm quan lại ở Vườn Sơn (Tất Viên)” sau đó sống ẩn dật cho đến cuối đời. Nhưng điều chắc chắn là Trang Tử sống cùng thời với Mạnh Tử và Huệ Thi thời Lương Huệ Vương và Tề Tuyên Vương. Đất Mông được xác định nằm trong đất Tống, thuộc tỉnh Hà Nam (Trung Quốc) ngày nay. Trang Tử là một trong những nhà tư tưởng đặc biệt vào loại hạng nhất thời ấy, rất giỏi kể chuyện, có sức tưởng tượng vô cùng phong phú. Tác phẩm Nam Hoa Kinh của Trang Tử viết theo thể văn xuôi, mang màu sắc ngụ ngôn. Ở cuốn sách này Trang Tử có sự nhất trí về quan điểm, tư tưởng với Lão Tử. Ông và Lão Tử được xem là hai tác giả nồng cốt của Đạo gia và làm nên học thuyết Lão - Trang, một trào lưu tư tưởng ở Trung Quốc cổ đại có ảnh hưởng mạnh mẽ từ xưa tới nay, từ phương Đông tới phương Tây. 1.2.2.2. Nam Hoa Kinh Có người lý giải, sở dĩ bộ sách có tên Nam Hoa Kinh (hay còn gọi là Nam Hoa Chân Kinh) bởi nó được viết khi Trang Tử ở ẩn tại núi Nam Hoa thuộc nước Tống. Đây là bộ sách mà Kim Thánh Thán liệt vào hạng nhất trong lục tài tử thư của Trung Quốc. Bản lưu hành ngày nay gồm 33 chương, chia làm ba phần: Nội thiên - gồm 7 thiên có tựa đề là: Tiêu dao du, Tề vật luận, Dưỡng sinh chủ, Nhân gian thế, Đức sung phù, Đại tôn sư, Ứng đế vương. Ngoại thiên - gồm 15 thiên có tựa đề là: Biền mẫu, Mã đề, Khư khiếp, Tại hựu, Thiên địa, Thiên đạo, Thiên vận, Khắc ý, Thiện tính, Thu thủy, Chí lạc, Đạt sinh, Sơn mộc, Điền tử phương, Tri bắc du. Tạp thiên - gồm 11 thiên: Canh tang sở, Từ vô quỉ, Tắc dương, Ngoại vật, Ngụ ngôn, Nhượng vương, Đạo chích, Thuyết kiếm, Ngư phủ, Liệt ngự khấu, Thiên hạ. 1.3. Hành trình du nhập của tư tưởng Lão - Trang vào Việt Nam Với cốt lõi là lối hành xử thuận theo tự nhiên, tinh thần phóng khoáng, chuộng tự do, yêu thiên nhiên, theo đuổi lối sống tiêu dao, tự tại, tư tưởng Lão - Trang có
  • 21. 16 một sức hấp dẫn đặc biệt đối với nhiều nghệ sĩ từ cổ chí kim trên hầu khắp các quốc gia nằm trong vùng ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa. Ở Việt Nam, trong suốt thời kỳ trung đại, biểu hiện của sự ảnh hưởng này trong văn học tuy đậm nhạt khác nhau ở từng giai đoạn cụ thể nhưng chúng ta đều có thể tìm thấy sự có mặt tư tưởng Lão - Trang trong nhiều tác phẩm của các nhà thơ, nhà văn lớn. Khi nghiên cứu “Ảnh hưởng nhân sinh quan Lão - Trang trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm”, chúng tôi cũng muốn khảo sát sự ảnh hưởng của tư tưởng này trong cả tiến trình văn học trung đại để có một cái nhìn bao quát và có hệ thống. Chúng tôi vẫn biết rằng để có được một cái nhìn toàn diện và đưa ra những kết luận với những luận cứ xác đáng mang tính khoa học cao cho cả một tiến trình văn học dài cả ngàn năm đòi hỏi mất nhiều thời gian và công sức. Trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi sẽ cố gắng đưa ra những nét lớn về ảnh hưởng tư tưởng Lão - Trang trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam. Các nhà nghiên cứu thường gọi sự ảnh hưởng “tư tưởng Lão - Trang” là sự ảnh hưởng “Đạo gia - Đạo giáo”. Tuy nhiên cũng nên có sự phân biệt ở đây. Theo chúng tôi, khi nói đến tư tưởng Lão - Trang là nói đến hệ thống triết thuyết mà Lão - Trang đề xướng. Nói đến Đạo gia là nói đến những người có cùng tư tưởng hoặc theo khuynh hướng tư tưởng Lão - Trang, lấy Đạo làm hạt nhân để xây dựng triết thuyết của mình. Những người sống gần với Lão - Trang thuộc Đạo gia có thể kể đến như Dương Tử, Liệt Tử … Còn Đạo giáo là tổ chức tôn giáo lấy triết thuyết của Lão - Trang làm nền tảng thuyết lý và nâng lên thành những hoạt động mang tính chất tín ngưỡng như học cách tu tiên, xây dựng những nhân vật thần tiên trong một thế giới thần tiên để ngưỡng vọng, luyện phép thuật, luyện thuốc trường sinh bất lão... và tất cả đã thông qua sự tiếp nhận của nhà thơ nhà văn mà đi vào thế giới thơ văn. Suy cho cùng tất cả đều xuất phát từ lý thuyết về Đạo mà Lão - Trang xây dựng. Những từ ngữ, hình ảnh từ Đạo gia - Đạo giáo đi vào thơ văn cũng chính là sản phẩm nảy sinh từ tư tưởng Lão - Trang mà thôi. Cho nên khi xem xét ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam, chúng tôi cũng xem xét cả những yếu tố ảnh hưởng thuộc về Đạo gia - Đạo giáo. Có xem
  • 22. 17 xét những yếu tố này chúng ta sẽ thấy được một quá trình vận động đi từ sự ảnh hưởng ở phương diện tôn giáo đến phương diện triết học của học thuyết Lão - Trang. Văn học trung đại Việt Nam là cả một chặng đường dài có thể tính tròn mười thế kỉ. Trong đó có nhiều biến cố lịch sử xảy ra làm thay đổi sâu sắc đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và tất nhiên có cả văn học. Khi khảo sát ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam chúng tôi nhận thấy cần xem xét sự thâm nhập, tồn tại và tác động của các khuynh hướng tư tưởng trong mối tương quan với bối cảnh lịch sử xã hội, chính trị của thời kỳ đó. Mỗi một thời kỳ, một giai đoạn với bối cảnh lịch sử xã hội, chính trị khác nhau sẽ quyết định sự tồn tại hay mức độ ảnh hưởng của từng khuynh hướng tư tưởng đối với xã hội nói chung và văn học nói riêng. Vì vậy, chúng tôi dựa vào quan điểm phân kỳ văn học gần đây để vừa lý giải, vừa chỉ ra sự ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam. Theo đó văn học trung đại Việt Nam trải qua bốn giai đọan: - Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV - Từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII - Từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX - Nửa cuối thế kỉ XIX Nhưng do giới hạn đề tài nghiên cứu người viết chỉ tìm hiểu sự thâm nhập và ảnh hưởng tư tưởng Lão - Trang ở hai giai đoạn: Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV và thế kỷ XV đến thế kỷ XVI. 1.4. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học Việt Nam trước thế kỷ XVI 1.4.1. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học thế kỷ X - XIV Hơn một thế kỷ đất nước chúng ta chịu sự đô hộ và kiểm soát của đất nước Trung Hoa nên việc chịu ảnh hưởng và tiếp biến văn hóa từ Trung Hoa là điều không tránh khỏi. Và hệ tư tưởng đầu tiên ở Trung Quốc có ảnh hưởng đến Việt Nam là Nho giáo với những nội dung chủ yếu như: mệnh trời, đức trị và chính
  • 23. 18 danh, đạo đức với những đại diện ưu tú bậc nhất thời bấy giờ Chu Công Đáng, Khổng Tử, Mạnh Tử, Đổng Trọng Thư… Tuy nhiên tư tưởng Nho giáo không đáp ứng được nhu cầu đời sống chính trị, xã hội bấy giờ. Bên cạnh Nho giáo thì Phật giáo cũng đóng một vai trò rất lớn không thể thiếu trong ý thức xã hội phong kiến Việt Nam, ý niệm phật giáo chủ yếu xoay quanh hai vấn đề cơ bản: Đạo phật quan niệm vạn vật không do một thượng đế nào làm ra mà do vận động của bản thân nó, đạo phật quan niệm cuộc đời là bể khổ, và muốn giải thoát khỏi bể khổ ấy thì phải biết tu tâm. Phật giáo có nhiều tông phái mà nổi trội lên hết ở Việt Nam là phái Thiền Tông. Tuy nhiên trong quá trình hội nhập hai học thuyết này ít nhiều đã bộc lộ những hạn chế và thiếu sót của mình, không đủ khả năng dẫn dắt con người thoát khỏi bể khổ nhân sinh, cho nên Đạo giáo xuất hiện. Đạo giáo chủ trương vô vi, nghĩa là thuận theo tự nhiên mà sống, đơn giản hóa chính trị, nới lỏng pháp luật, hình thành ở con người một lối sống tiêu dao, phóng nhiệm, không màng nhân thế, ưa thích thiên nhiên và nhàn tản. Người sáng lập ra Đạo giáo đầu tiên phải kể đến là Lão Tử, Trang Tử mới là người tiếp nối và phát triển tư tưởng của ông. Ở hai bậc Đạo gia này về tư tưởng có rất nhiều điểm tương đồng và thống nhất, cho nên sau này người ta thống nhất tên gọi Đạo gia và những tư tưởng của Đạo gia là tư tưởng Lão - Trang hay học thuyết Lão - Trang. Ba hệ tư tưởng trên đây đều nhập vào nước ta vào thời kì phong kiến phương Bắc thống trị nên có sự giao thoa với nhau. Đặc biệt là ở buổi đầu từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, ba hệ tư tưởng này đều được coi trọng theo chủ trương tam giáo đồng nguyên. Văn học trung đại Việt Nam ra đời cùng với sự ra đời của quốc gia Đại Việt sau chiến thắng của Ngô Quyền năm 938, chiến thắng đã mở ra một thời kỳ độc lập tự chủ của dân tộc. Nhân dân ta giành được độc lập sau cả ngàn năm mất nước, chịu cảnh bị đô hộ cho nên nhiệm vụ quan trọng nhất của giai đoạn lịch sử này là xây dựng quốc gia thống nhất, độc lập, tự chủ và chống ngoại xâm. Chính vì thế, sự kiện loạn 12 sứ quân sau khi Ngô Quyền mất đã không ngăn cản được đà phát triển ý thức độc lập tự cường của dân tộc. Loạn 12 sứ quân bị dẹp tan, nhà Đinh và Tiền Lê tiếp tục công cuộc của Ngô Quyền dang dở. Nhà Lý, nhà Trần tiếp nối bằng việc
  • 24. 19 phát triển đất nước về mọi mặt và nâng vị thế quốc gia lên một tầm cao mới. Để khẳng định nền độc lập của mình, nhà nước phong kiến Đại Việt một mặt phải củng cố kinh tế vững chắc, quân đội hùng mạnh, một mặt phải xây dựng nền văn hóa riêng biệt. Bên cạnh đó, nhà nước phong kiến Đại Việt còn có ý thức sử dụng văn hóa như một phương tiện thống trị. Do đó các vương triều Lý, Trần đã khéo kết hợp những thành tựu văn hóa dân tộc dân gian với các hệ tư tưởng mà từ lâu giai cấp thống trị Trung Quốc xem như nền tảng tinh thần của chế độ phong kiến như Nho, Phật, Lão. Đầu thế kỉ thứ X khi nước nhà giành được độc lập thì Phật giáo và Đạo giáo đang rất thịnh hành vì đã được các triều đại Trung Hoa, nhất là nhà Đường khuyến khích, đề cao. Tuy nhiên, có đôi chỗ quan điểm của Phật giáo và Đạo giáo tỏ ra không phù hợp với quyền lợi của nhà nước nhất là trong việc củng cố địa vị thống trị và mở mang cơ đồ. Nho giáo đã trở thành công cụ đắc lực trong việc kiện toàn bộ máy nhà nước và mở mang bở cõi. Ngoài việc đều đặn tổ chức các kỳ thi Nho học, nhà nước phong kiến ở giai đoạn này còn mở trường Quốc tử giám, lập Văn miếu để thờ các vị thánh hiền của Nho gia. Nhà nước phong kiến Đại Việt tuy đề cao Nho giáo nhưng vẫn giữ sự dung hòa với Phật giáo và Đạo giáo. Việc tổ chức kỳ thi Tam giáo vào thời vua Lý Cao Tông năm 1195 là một bằng chứng. Vì thế giai đoạn này thịnh hành quan niệm “tam giáo đồng nguyên”. Có thể nói rằng, chính bối cảnh lịch sử xã hội của thời kỳ đầu giành độc lập cùng với đường lối, sách lược của nhà nước phong kiến Đại Việt đã tạo điều kiện cho các hệ tư tưởng khác nhau thâm nhập vào nước ta, trong đó có tư tưởng Lão - Trang được cụ thể hóa bằng hình thức Đạo giáo. Dấu vết tư tưởng Lão - Trang ảnh hưởng đến văn học giai đoạn này thông qua hình thức giáng bút, giáng thiên thư của Đạo giáo. Trong triết học Lão - Trang ta gặp khái niệm “thiên cơ” nhằm để chỉ một guồng máy (cơ) vận hành mọi thứ trong vũ trụ theo nguyên lý tự nhiên (thiên). Điều này được Đạo giáo xây dựng thành đấng tạo hóa, là hóa công, là Ngọc Hoàng hay Thượng Đế, người có quyền quyết định mọi thứ trên đời. Thiên cơ thường được tiết lộ hay báo trước một sự việc sắp xảy ra bằng lời sấm truyền thường là một bài thơ gọi là sấm thi. Đại Việt sử ký toàn
  • 25. 20 thư và Đại Việt sử lược đều trích dẫn câu sấm báo trước như sau: “Đỗ Thích thí Đinh Đinh/Lê gia xuất thánh minh/Cạnh đầu đa hoành tử/Đạo lộ tuyệt nhân hành...”. Bài thơ được dịch là: Đỗ Thích giết hai Đinh (Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn)/Họ Lê xuất hiện bậc thánh minh (chỉ Lê Hoàn)/Tranh nhau nhiều kẻ chết oan uổng/Đường sá vắng hẳn người qua lại. Cũng trong Đại Việt sử ký toàn thư và Đại Việt sử lược có ghi một bài sấm thi ngầm dự báo một loạt sự kiện về sự thay đổi và kế tiếp nhau ở các triều đại Đinh, tiền Lê, Lý, Trần. Các thiền sư như Định không, Vạn Hạnh cũng có những bài sấm thi như thế. Sự xuất hiện những bài sấm thi trong bối cảnh thay đổi triều đại, nhất là sự “dọn đường” của các nhà sư có uy tín trong triều cho Lý Công Uẩn lên ngôi đã cho ta thấy Đạo giáo được sử dụng với mục đích chính trị rõ rệt và sức ảnh hưởng lớn của Đạo giáo đối với đời sống tinh thần của xã hội. Đến đời nhà Trần có lẽ do hoàn cảnh xã hội đã thay đổi nên hầu như không thấy sấm thi xuất hiện. Đến cuối đời Trần, khi Hồ Quý Ly thao túng quyền binh trong triều và mọi người nhận thấy rằng sẽ có một cuộc soán ngôi, lúc này mới xuất hiện bài Xích chủy hầu được cho là của Trần Duệ Tông. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, tháng 3 năm 1394, vua Trần Nghệ Tông chiêm bao thấy vua em Trần Duệ Tông đem quân đến và đọc bài thơ báo vận mệnh của nhà Trần sẽ hết. Các yếu tố liên quan đến Đạo giáo trong giai đoạn này còn xuất hiện ở loại thơ hành chánh. Ở trong bài Thơ Thần (Nam quốc sơn hà), bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta được cho là của Lý Thường Kiệt, ta thấy có từ “thiên thư” (“Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”) là một thuật ngữ của Đạo giáo nhằm để chỉ việc “giáng bút” của đấng linh thiêng tối cao. Trước đó, một bài thơ được sáng tác với mục đích ngoại giao của một nhà sư cũng đã xuất hiện các từ ngữ có nguồn gốc Đạo gia. Đó là bài từ có tên là Vương lang quy, được Khuông Việt thiền sư làm theo lệnh của vua Lê Đại Hành khi tiễn sứ thần Lý Giác. Trong bài thơ có từ “thần tiên” và “đế hương”. Từ “đế hương” ngoài nghĩa là nơi vua ở còn có nghĩa là tiên cung, nơi tiên ở. Những từ này được dùng nhiều trong các tác phẩm thơ văn của các tác gia Trung Hoa thuộc Đạo gia như Trang Tử, Đào Tiềm, Bào Chiếu, Lưu Hương...
  • 26. 21 Có lẽ cảm quan Đạo giáo đã nâng cảm xúc của một vị thiền sư bay bổng nên những từ trên vừa có sắc thái trang trọng phù hợp với tính chất ngoại giao vừa đậm đà thi vị. Trong bài thơ - kệ Quốc tộ, khi được hỏi về vận nước Pháp Thuận thiền sư đã dùng chữ “vô vi” để trả lời vua Lê Đại Hành (Vô vi cư điện các). Thuật ngữ “vô vi” được cả Phật giáo và Đạo giáo sử dụng, nhưng từ này có vai trò cốt lõi trong việc phản ánh tư tưởng Lão - Trang. Pháp Thuận thiền sư đã mượn thuyết “vô vi nhi trị” của Lão Tử để khuyên nhà vua lưu tâm đến đường lối trị nước. Do chủ trương “tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri” (Lão Tử) nên những người theo tư tưởng Lão - Trang thường ít để lại những trước tác trình bày về quan điểm, tư tưởng của mình. Thơ văn trực tiếp nói đến tư tưởng, giáo lý của đạo gia lại càng hiếm. Trong một cuộc thi thố phép thuật của một nhà sư và một đạo sĩ, vua Lý Nhân Tông đã làm một bài tán sử dụng từ ngữ liên quan đến Đạo giáo: “Giác Hải tâm như hải - Thông Huyền đạo diệc huyền - Thần thông kiêm biến hóa - Nhất phật nhất thần tiên” (Giác Hải tâm như biển - Thông huyền đạo rất huyền - Thần thông và biến hóa - Một người là Phật, một người là Thần tiên). Vào thời Lý - Trần, các thiền sư còn mượn những thuật ngữ xuất phát từ triết thuyết của Lão - Trang để chuyển tải tư tưởng, giáo lý Phật giáo. Có thể thấy điều này trong các bài kệ của những thiền sư như Hiện Quang, Chân Không, Tuệ Trung thượng sĩ, vua Trần Thánh Tông... các thuật ngữ thường được vay mượn đó là: vô vi, tiêu dao, trùng huyền, thần tiên, hoàn đan, hoán cốt, hòa quang đồng trần... hay các điển tích: Hứa chân quân, Từ Phúc, Quách Phác, Hoàng diện công (Lão Tử), điệp mộng... ví dụ trong bài kệ Cảm hoài, Chân Không thiền sư viết: “Nhân nhân tận thức vô vi lạc - Nhược đắc vô vi thủy thị gia” (Ai nấy đều thấu hiểu vô vi là vui - Nếu được vô vi thì mới coi là nhà). Vô vi ở đây được hiểu là vô vi pháp, tức là những cảnh giới bất biến, không sinh, không diệt. Sự vay mượn này cho thấy cách tiếp nhận rất cởi mở của Phật giáo thông qua những thiền sư tinh thông tam giáo và có tinh thần phóng khoáng, đồng thời cho thấy sức hấp dẫn của tư tưởng Lão - Trang đối với các tôn giáo khác.
  • 27. 22 Từ những điều đã trình bày ở trên chúng ta có thể nhận định rằng: sự ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang đến văn học thời Lý trở về trước chủ yếu thể hiện trên bề mặt câu chữ bằng những thuật ngữ, hình ảnh, điển tích... phản ánh những hoạt động, phương thuật mang tính chất tôn giáo của Đạo giáo ở các loại thơ sấm vĩ, hành chính, thuyết lý được gọi chung là thơ chức năng. Đến đời Trần, sự ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang đến văn học được mở rộng sang các loại hình thơ nghệ thuật. Sự thâm nhập có biểu hiện tinh tế hơn, cách chuyển hóa vào trong thơ đa dạng hơn, nhất là ở mảng thơ trữ tình. Mang dấu ấn tư tưởng Lão - Trang rõ nét nhất là ở thơ vịnh cảnh. Những vị vua đầu đời Trần có những bài thơ vịnh cảnh mà ở đó cảm quan thế giới Đạo gia đã gợi thi hứng cho nhà thơ. Cách nhìn của những vị vua này về cảnh đẹp thiên nhiên của quê hương đất nước là cảnh tiên, cảnh bồng lai, thượng giới, con người như cũng thoát tục, hòa nhập, đắm mình với thiên nhiên. Ông vẽ nên cảnh hành cung Thiên Trường với những vẻ đẹp lung linh, huyền ảo và thoát tục như thế: …Thập nhị tiên châu thử nhất châu …Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự (Hạnh Thiên Trường hành cung - Trần Thánh Tông) Trong bài Cư trần lạc đạo phú, vua Trần Nhân Tông có viết: “Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao; Triền vắng am thanh, chỉn thực cảnh đạo nhân du hí” thì đó chính là sự thừa nhận một cách thú vị của nhà vua đối với tư tưởng của Đạo gia. Trong thơ của vị tổ Thiền Trúc Lâm này ta thấy tư tưởng triết học “tiêu dao du” của Trang Tử đã thăng hoa thành tứ thơ đẹp lung linh, huyền ảo để nhà thơ vẽ nên một cảnh tiên nơi hạ giới. Sự thăng hoa cảm hứng thơ từ những điểm nội dung trong triết học Lão - Trang như thế ta còn thấy trong thơ của vua Trần Anh Tông (Đông cảnh), Phạm Sư Mạnh (Đăng Dục Thuý sơn lưu đề), Trần Nguyên Đán (Đề Huyền Thiên Tử Cực cung), Nguyễn Phi Khanh (Đề Tiên Du tự)… Ở loại thơ cảm hoài - cảm khái, Lão - Trang để lại dấu ấn bằng tư tưởng cuồng phóng tiêu dao, tự do tự tại trong thơ của nhiều thi sĩ đời Trần. Trước tiên phải kể
  • 28. 23 đến Tuệ Trung Thượng Sĩ, một quý tộc, một danh tướng, một nhà thiền học đầu đời Trần. Ông nổi tiếng với bài Phóng cuồng ngâm, trong đó có những câu như: “Đốt đốt phù vân hề phú quý, Hu hu quá khích hề niên quang” (Ối ối! Giàu sang chừ, lưng trời mây nổi Chà chà! Năm tháng chừ, bóng ngựa lướt ngang!) Cùng mang âm hưởng như bài thơ trên, Tuệ Trung Thượng Sĩ còn có những bài khác như Giang hồ tự thích, Thế thái hư huyễn... Đến cuối đời Trần, khi triều đại bắt đầu suy vong, tư tưởng thoát tục của Lão - Trang có dịp thâm nhập vào những vần thơ cảm khái của những nhà thơ bắt đầu băn khoăn trước thời cuộc. Ta bắt gặp điều này trong bài Đề Nguyệt Giản Đạo Lục thái cực chi Quan Diệu đường của Trần Nguyên Đán (Doanh Châu, Bồng Đảo biết là ở đâu, không ham muốn, không tham lam, ta là tiên…) Cùng tồn tại với Nho giáo và Phật giáo nhưng rõ ràng tư tưởng Lão - Trang có sức ảnh hưởng đến văn học giai đoạn thế kỉ X đến XV không bằng những triết thuyết thuyết tôn giáo khác. Tuy nhiên sự thâm nhập của tư tưởng Lão - Trang vào văn học cũng thể hiện ở nhiều cấp độ: từ mục đích, phương thức sáng tác, đề tài, cảm hứng, đến ngữ liệu, điển cố… Mặc dù phải tồn tại bên cạnh Nho, Phật và đôi khi với hình thức đạo thuật, nghi thức tôn giáo nhưng tư tưởng Lão - Trang vô hình chung đã ngầm tác động đến tâm hồn, tâm lý sáng tạo của thi nhân, làm phong phú thêm diện mạo văn học của giai đoạn này. 1.4.2. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang trong văn học thế kỷ XV - XVI Triều Trần suy vong, Hồ Quý Ly tiếm ngôi nhà Trần mở ra triều đại nhà Hồ (1400-1407). Triều Minh lấy cớ phò Trần diệt Hồ sang xâm lược nước ta. Lê Lợi sau đó dấy binh khởi nghĩa và khởi nghĩa Lam Sơn kéo dài suốt 10 năm (1418- 1427). Lê Lợi lên ngôi mở ra triều đại Hậu Lê (1428-1789). Nhà Lê đi vào xây dựng đất nước và đạt tới cực thịnh vào thế kỉ XV. Nhà nước phong kiến Hậu Lê đã biết tận dụng những điều kiện của một quốc gia vừa giành được độc lập, một dân tộc vừa mới được giải phóng để phục hồi và phát triển kinh tế đất nước. Bộ máy nhà
  • 29. 24 nước phong kiến lúc này được xây dựng chặt chẽ hơn: Chính quyền đời Lê đã trở thành một nhà nước quân chủ chuyên chế, đồng thời là một nhà nước phong kiến quan liêu. Để đào tạo, tuyển chọn nhân sự cung cấp cho bộ máy chính quyền đó, nhà Lê đã lập ra Quốc tử giám ở kinh đô, mở trường học ở các địa phương. Việc thi cử được tổ chức thường xuyên, tổ chức có nề nếp và và qui mô ngày càng mở rộng. Điều đó cho thấy Nho học đã phát triển đến độ cực thịnh vào thế kỉ XV. Phật giáo và Đạo giáo không còn giữ vị trí là tôn giáo được coi trọng như thời Lý, Trần nữa. Bên cạnh đó nhà nước phong kiến đời Lê đã ít nhiều hạn chế sự phát triển của Phật giáo và Đạo giáo. Văn học nửa đầu thế kỉ XV với âm hưởng chủ đạo là anh hùng ca nhưng đâu đó trong góc khuất tâm hồn của những anh hùng hậu chiến tranh vẫn trỗi lên nỗi niềm riêng tư về thời cuộc. Họ tìm đến tư tưởng Lão - Trang. Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Nguyễn Thiên Tích, Lê Thiếu Dĩnh, Nguyễn Phu Tiên... là những trường hợp như thế. Trong thơ của Lý Tử Tấn nhiều bài Tạp hứng bộc lộ quan điểm nhân sinh rất gần với nhân sinh quan Lão - Trang. Hay tâm sự của Lê Thiếu Dĩnh trong bài Trạch thôn cố viên, cũng là tâm sự chung của nhiều kẻ sĩ đương thời. Nửa sau thế kỉ XV, văn học mang tính quan phương. Tuy nhiên Phật giáo và Đạo giáo vẫn có những ảnh hưởng lớn trong xã hội. Ngay cả Lê Thánh Tông, một ông vua chuộng Nho giáo cũng viết: “Gió thông đưa kệ tan niềm tục, Hồn bướm mơ tiên lẫn sự đời” Trong Hồng Đức quốc âm thi tập có những bài thể hiện lối sống ẩn dật, ca tụng lối sống nhàn tản như Lạc tửu IV, Đề Lục Vân Động của Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận… Chế độ phong kiến đã phát triển cực thịnh vào thời vua Lê Thánh Tông. Tuy nhiên bên trong cung đình nhà Hậu Lê không tránh khỏi xung đột. Đặc biệt là sau khi Lê Thánh Tông qua đời, quan lại nhiều lần chia bè phái đánh nhau. Mạc Đăng Dung do có công dẹp loạn mà có nhiều quyền binh trong tay, thậm chí lấn át cả vua. Đến năm 1527 thì Mạc Đăng Dung phế truất ngôi vua và lập ra nhà Mạc. Từ đây
  • 30. 25 lịch sử Việt Nam bước vào thời kì đen tối nhất: thời kì nội chiến. Cuộc chiến Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn đã cản trở quá trình phát triển của đất nước. Nho giáo vẫn được đề cao, vẫn được sử dụng để củng cố trật tự phong kiến. Tuy nhiên do sự suy yếu của chế độ phong kiến, việc học hành, thi cử cũng như nho phong sĩ khí ngày càng đồi bại, đạo Nho ngày càng suy vi. Mặt khác, do chiến tranh loạn lạc kéo dài, cuộc sống đầy đau thương tang tóc đã nảy sinh nhu cầu muốn biết trước thời thế và tìm một thế giới bình an đã làm cho Phật giáo và Đạo giáo có điều kiện chấn hưng. Những kẻ sĩ có lương tâm thì tìm đến triết thuyết của Lão - Trang như một chỗ dựa tinh thần. Nổi bật là các nhà nho ẩn dật như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ... Ảnh hưởng Đạo học sâu sắc hơn cả là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Quan niệm về vũ trụ nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy có nguồn gốc từ Dịch lý nhưng ta vẫn thấy ở đó có sự ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang. Ông thường hay nhắc đến trong thơ luận điểm triết học về lẽ tương sinh, tương khắc, họa phúc dựa vào nhau - một lối xử thế của Lão - Trang: “Hoa càng khoe nở hoa nên rữa, Nước chứa cho đầy nước ắt vơi” (Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 52) Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn một lối sống “nhàn”. “Nhàn”, “tiên”, “vô sự” là nội dung quan trọng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông viết: “Rồi nhàn thì nhàn tiên vô sự, Ngâm ngợi cho nên cảnh hữu tình” (Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 15) Một học trò nổi tiếng của Nguyễn Bỉnh Khiêm là Phùng Khắc Khoan. Ông là nhà nho tích cực xuất thế, hết lòng theo giúp nhà Lê Trung Hưng. Khi về già ông thường ngao du đây đó, thăm thú các danh lam thắng cảnh, cùng bạn bè vui với bầu rượu túi thơ. Tuy nhiên phần thơ chịu ảnh hưởng tư tưởng Lão - Trang lại được làm lúc ông bị đày ở thành Nam khi còn trẻ, gồm có Đào nguyên hành, Ngư phủ nhập đào nguyên và Lâm tuyền vãn, hiện chỉ còn Lâm tuyền vãn mở đầu bằng những câu:
  • 31. 26 “Vô sự là tiểu thần tiên, Gẫm xem cảnh thú lâm tuyền chăng vui?” Nguyễn Dữ, một người sống cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, nổi tiếng với tập truyện được xem là “thiên cổ kỳ bút”: Truyền kỳ mạn lục, tác phẩm có cả tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo và văn hóa dân gian. Riêng tư tưởng Lão - Trang ảnh hưởng đến tác phẩm này ở việc tác giả xây dựng bối cảnh truyện, nhân vật, hướng giải quyết mâu thuẫn... mà truyện Từ Thức lấy vợ tiên, Chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na (Na sơn tiều đối lục) là những ví dụ. Từ Thức treo ấn từ quan, ngao du sơn thủy lạc vào động tiên mới được một năm mà khi quay về trần thế mà đã gần cả trăm năm. Ông tiều trong Na sơn tiều đối lục vừa đi vừa ngâm: Mặc ai xe ngựa/ Mặc ai phố phường/ Nước non riêng chiếm, bụi đời không vương nhưng Hồ Hán Thương chỉ gặp được một lần như trong giấc chiêm bao. Bối cảnh lịch sử xã hội giai đoạn thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XVI đã làm cho văn học có diện mạo riêng. Nho giáo trên bước đường suy thoái đã không còn giữ được vai trò là tư tưởng chủ đạo. Trong khi đó Phật giáo và Đạo giáo tiếp tục mở rộng ảnh hưởng đến đời sống xã hội lúc bấy giờ. Tư tưởng Lão - Trang thâm nhập vào các tác phẩm văn học thông qua các nhà văn nhà thơ bất mãn trước thời cuộc và những người có tinh thần tự do phóng khoáng. Điều này cho thấy tư tưởng Lão - Trang khơi gợi nơi người sáng tác không chỉ cảm hứng triết học mà còn cảm hứng nghệ thuật nữa.
  • 32. 27 Chương 2. NHỮNG BIỂN HIỆN NHÂN SINH QUAN CỦA LÃO - TRANG TRONG THƠ NGUYỄN BỈNH KHIÊM 2.1. Biết dừng lại, quay về với cuộc sống ẩn dật, thanh cao - một biểu hiện của tinh thần tri túc, cầu nhàn. 2.1.1. Tri túc, cầu nhàn - một vấn đề cơ bản trong tư tưởng Lão - Trang Quan niệm tri túc thường lạc là một triết lí truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa của dân tộc Trung Hoa. Tri túc là hài lòng với những gì mình có, với cái mà trời ban cho. Giống như chuyện con chim cưu, con ve thấy chim bằng bay được mấy nghìn dặm, từ biển Bắc sang biển Nam với đôi cánh rộng lớn. Hai con thấy vậy chỉ cười rồi nói: “Điêu dữ học cưu tiếu chi viết: Ngã quyết khởi nhi phi thương du phương, thời tắc bất chí, nhi khống ư địa nhi dĩ hĩ. Hề dĩ chi cửu vạn lý nhi nam vi. Thích mảng thương giả, tam xan nhi phản, phúc du quả nhiên. Thích bách lí giả, túc thung lương. Thích thiên lí giả, tam nguyệt tựu lương” [1, tr.108] (Ta quyết bay vụt lên cây du, cây phượng. Như bay không tới thì có rơi xuống đất thôi chứ không sao! Bay cao chín muôn dặm sang qua Nam mà làm gì? Ta thích bay đến mấy cánh đồng gần đây, ăn ba miếng no bụng rồi về. Nếu ta đến chỗ xa trăm dặm, thì ta có lương thực mỗi ngày. Còn nếu ta đến chỗ xa ngàn dặm, thì ta có ba tháng lương thực). Vậy, lớn thì thuận theo chỗ lớn, không tự lớn mà sinh kiêu nên không thấy mình lớn; nhỏ thì thuận theo chỗ nhỏ, nên không thấy mình là nhỏ. Như con chim cưu bay vụt lên cây du, cây phượng dù bay không tới thì rơi xuống đất đâu cần phải ham muốn cái rộng lớn như chim bằng. Con người cũng vậy. Trang Tử nói: “Cố phù trí hiệu nhất quan, hạnh tỉ nhất hương, đức hợp nhất quân năng trưng, nhất quốc giả, kỳ tự thị dã, diệc nhược thử hĩ” [1, tr.119] (Có người tài trí đủ để làm một chức quan, có người hạnh làm gương được cho một làng, có người đức đáng làm vua mà được cả nước phục, nhưng dù thuộc hạng nào thì cũng đều tự cảm thấy an vui như thế). Điều đó cũng có nghĩa là sống với một thái độ bất đãi, nghĩa là không chờ đợi điều gì, không mong hơn cái mà mình đáng được hưởng.
  • 33. 28 Mọi sự tranh chấp đều bắt nguồn từ lòng tham không biết thế nào là đủ của con người. Lão Tử có nói: “Họa mạc đại vu bất tri túc, cữu mạc đại vu dục đắc. Cố tri túc chi túc, thường túc hĩ” [30, tr.58] (Họa không gì lớn bằng là không biết thế nào là đủ, hại không gì là ham muốn vượt bậc. Cho nên biết thế là đủ và thỏa mãn về cái đủ đó thì luôn luôn thấy đủ). Sở dĩ cái sự biết đủ thì luôn luôn đủ như thế là vì đấy là bí quyết của quân bình trong trường vận động lưu hành của các thế lực tự nhiên trong trời đất. Đạo trời bớt cái thừa mà bù chỗ không đủ. “Thiên chi đạo tổn hữu dư, nhi bổ bất túc”. Còn đạo của người thì trái lại, không như thế cho nên trong nhân loại hay mất quân bình vậy. Muốn tri túc và bất đãi con người phải biết quả dục (giảm thiểu dục vọng). Lão Tử có chỉ ra rằng: “kiện tố, bão phác, thiểu tư, quả dục” [29, tr.31] (biểu hiện sự mộc mạc, giữ sự chất phác, giảm tư tâm, bớt dục vọng). Quả dục để dần dẫn đến vô dục. Ta phải hiểu chữ vô ở đây như trong chữ vô vi. Có nghĩa là không phải không ham muốn bất cứ thứ gì mà chỉ là không ham muốn những gì vượt ra ngoài những nhu cầu tối thiểu tự nhiên của con người. Tư tưởng Lão - Trang đề cao thái độ dứt khoát, ứng xử hợp lý khi đã ở đỉnh cao công danh, phải biết đủ để lui về, sống đời nhàn tản, ung dung. Đây là một phương thức sống chủ động và sáng suốt, một biểu hiện của minh triết phương Đông. 2.1.2. Nhàn - cách ứng xử thức thời và chủ động của Nguyễn Bỉnh Khiêm Nguyễn Bỉnh Khiêm là tác giả tiêu biểu của một giai đoạn văn học. Các sáng tác của ông là tiếng nói chung của cả một tầng lớp trí thức dân tộc phải sống trong buổi suy vi của chế độ phong kiến. Nổi bật trong tiếng nói ấy là chữ “nhàn”. Về mặt này xưa nay đã có những luồng ý kiến khác nhau. Phan Huy Chú thì cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm hành hay tàng đều có thể xem là được hướng dẫn bởi những quy tắc tư tưởng nho gia “dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng”, “an bần lạc đạo” mà các bậc á thánh trong làng nho Trung Quốc và Việt Nam đã nêu gương như Nhan Hồi, Tăng Điểm, Chu An. Còn các nhà nghiên cứu ngày nay như Lê Trí Viễn cũng nghĩ đến những nguyên nhân khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm lui về ở ẩn là thời thế
  • 34. 29 loạn lạc, nhà Mạc suy thoái không xứng đáng là một mẫu hình triều đại lí tưởng, không có khả năng sử dụng người tài… Song xuất phát từ truyền thống hội nhập tam giáo Nho, Phật, Lão nhiều học giả lại lí giải rằng triết lí nhàn dật của Nguyễn Bỉnh Khiêm có nội dung Lão - Trang và cả Phật giáo. Đó là sự lánh đời tìm đến cách sống thanh cao, hòa đồng cùng tự nhiên. Một con người suốt đời ôm niềm ưu dân, ái quốc tại sao có thể dễ dàng phủi áo ra đi bỏ lại tâm huyết của cả đời mình như vậy. Phải chăng có một sự bức bách rất dữ dội mà chỉ có những người trong cuộc mới có thể lí giải hết được. Sống trong thời buổi nhiễu nhương, quyết định ra đi của nhà thơ là dễ dàng thấu hiểu. Nhà Mạc đã không giống như kỳ vọng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, là một vương triều lí tưởng chúa thánh, tôi hiền, người dân được sống trong cản thái bình, thịnh trị “Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn”. Trái lại, triều đại này đã bộc lộ quá nhiều hạn chế, càng ngày càng trở nên mục ruỗng và thối nát, không hồi cứu vãn. Bằng những vần thơ của mình ông đã ghi lại chân thật thảm cảnh đất nước điên đảo dưới triều Mạc lúc bấy giờ. Trong bài Tăng thử, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ví bọn thống trị tàn ác như loài chuột tham lam, ăn bám chỉ “chui vào góc thành, ẩn trong hang hốc ở nền xá”, núp vào đó để tính “mưu gian”, để “ngấm ngầm ăn trộm, ăn vụng”, “quét sạch tài sản của nhân dân”, gây ra cảnh tượng thê lương khắp nơi. Bọn chúng chẳng khác gì phường sâu dân mọt nước, làm cho dân cùng, nước kiệt. Một thực tế nữa cũng khuấy động tâm hồn nhà thơ đó là sự đen bạc của cảnh đời: con người tham lam, hám tiền, trọng lợi hơn nghĩa, coi rẻ tình nghĩa, kể cả tình cha con, anh em, vợ chồng, bà con. Tiền của như mật, như mỡ, như nhị kết, hoa thơm mà con người thì như ong, như kiến, như ruồi. Người đời không những tham lam mà hiểm giảo. Con người ích kỷ, tự thiên, tham lam, gì cũng muốn vơ hết về mình “Lập danh, cỡi hạc lại đeo tiền” (Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 124). Tác giả than thở: “Hiểm mạc hiểm thế đồ, Bất tiễn tiện kinh cức. Nguy mạc nguy nhân tâm,
  • 35. 30 Nhất phóng tiện qui quắc” (Trung Tân ngụ hứng) (Không gì hiểm bằng đường đời, Không cắt đi thì toàn là gai góc. Không gì nguy bằng lòng người, Buông lỏng ra thì đều là quỷ quái) (Thơ ngụ hứng ở quán Trung Tân) Quan trường thì hiểm trở, đầy sóng gió, ở đó con người ta sống với nhau bằng hận thù, ganh ghét, lừa lọc, thậm chí sẵn sàng chà đạp lên nhau miễn sao dành cái lợi ích về phần mình. Cụ Trạng đã sớm nhận ra một thực tế đau lòng mà dường như đã trở thành quy luật ở chốn “lao xao” ấy: nơi nào có công danh thì nơi đó tất có hiểm họa. Danh và lụy đi đôi với nhau như một cặp phạm trù nhân quả không thể tách rời, trong đó “danh” là nguyên nhân và “lụy” là kết quả: “Mùi thế gian nhiều mặn lạt, Đường danh lợi có chông gai” (Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 40) “Vì danh cho phải danh làm lụy” (Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 18) “Vì danh cho phải lụy đôi phen” (Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 22) Ở mãi trên đống công danh, bao bọc bởi cuộc sống giàu sang, phú quý nếu không bị hãm hại thì con người lúc nào cũng phải sống trong sự nom nớp, lo âu không biết tai họa sẽ giáng xuống mình lúc nào: “Mọi sự chăng còn mắc mớ, Nỗi hay vụng liệu phải lo” (Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 27) Thế nên Lão Tử khuyên người đời khi đã được mãn doanh, đã hội đủ công danh, phú quý thì phải sớm liệu lui về ẩn dật, nếu không ắt bị kẻ khác hãm hại, khó giữ được trọn vẹn thân thể và danh giá của mình: “Danh dữ thân thục thân? Thân
  • 36. 31 dữ hóa thục đa? Đắc giữ vong thục bệnh? Thị cố thâm ái tất đại phí, đa tàng tất hậu vong” và chủ trương “khứ thậm, khứ xa, khứ thái” [29, tr.56] (bỏ những gì thái quá). Nguyễn Bỉnh Khiêm ý thức được điều đó, nhà thơ không để công danh làm mờ mắt mình mà luôn luôn chủ động trong vấn đề xuất xử. Ông đã có sự lựa chọn đúng đắn: dứt khoát lìa bỏ công danh để bảo toàn thanh danh, tính mệnh của mình mà không chút luyến tiếc: “Nẻo có công danh thì có lụy, Cho hay dù có chẳng bằng chăng” (Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 16) “Bất ư phú quý, lý nguy ky (cơ), Tố đắc nhàn trung dữ lão kỳ” (Sang giàu chẳng ở, hiểm nguy thôi! Tuổi cả quay về sống thảnh thơi) (Ngụ Hứng, H.30) Ở Việt Nam, Nguyễn Trãi đời Lê, Nguyễn Văn Thành đời Nguyễn cũng vì thịnh danh mà phải chết một cách oan uổng. Ở địa vị cao sang rất nguy hiểm, vì dễ bị nhà vua ngờ vực, các quan ganh ghét hãm hại. Lão Tử cho rằng để có được lối sống “thảnh thơi” con người phải biết “tri túc”. “Tri túc” là hài lòng với những gì mình có, với cái mà trời ban cho. “Tri túc thường lạc” là một đúc kết rất có ý nghĩa đối với con người, nhất là khi mà con người cứ mãi lao vào cuộc đua tranh để đạt đến đỉnh cao của tiền tài và danh vọng mà không biết rằng đôi khi tai họa đang chực chờ ở phía trước. Cho nên muốn khỏi lụy thân thì phải sớm biết đủ (tri túc) và biết dừng lại (tri chỉ) “Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi, khả dĩ trường cửu” [29, tr.56]. Tinh thông Dịch lí, hơn ai hết Nguyễn Bỉnh Khiêm hiểu rằng “Vật cực tắc phản” và thường đề cập đến lẽ doanh hư: đầy ắt phải đổ nên nhà thơ coi việc giới mãn doanh là một cách giữ mình, và cho rằng người ta ở địa vị càng cao lại càng phải thận trọng đừng để cho quá đầy, phải biết làm cho nó vơi đi: “Cố ngã cư nguy cụ mãn doanh” (Tạ Cao Xá hữu nhân tỉnh bệnh thuật hoài, H.55)
  • 37. 32 (Xét tôi ở nơi cao rất sợ sự quá đầy) (Cảm tạ bạn Cao Xá thăm hỏi bệnh tình, tỏ bày hoài cảm, H.55) “Tự cổ thành công giới mãn doanh” (Lưu đề Đoan quốc công, H.64) (Từ xưa muốn thành công phải giữ đừng để cho quá đầy) (Đề thơ để lại Đoan quốc công, H.64) “Hễ lộc triều quan đã có ngần, Làm chi tham được, nhọc băn khoăn?” (Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 20) “Hai chữ mãn doanh nay khá gẫm, Mấy người trọn được chữ thân doanh” (Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 13) “Thửa nơi doanh mãn là nơi tồn, Hãy gẫm cho hay mới kẻo âu” (Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 9) Cơ sở để hình thành quan điểm tri túc chính là luật phản phục mà Lão Tử đã nêu: Vạn vật khi phát triển đến cùng cực thì quay trở lại. Am hiểu Chu Dịch, kết hợp với hiện thực đời sống mà nhà thơ đã trải, Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng mọi vật, mọi việc trong trời đất đều tồn tại trong bản thân nó những mặt đối lập: “Độc bất kiến: Thiên hạ bản doanh hư, Bội nhập diệc bội xuất. Hựu bất kiến: Quỷ thần bản ố doanh, Bạo đắc tùy bạo thất. Tòng đầu sắc thị không, Bản lai vô nhất vật. (Cảm thời cổ ý) ( Riêng chẳng thấy:
  • 38. 33 Trời đất vốn là đầy, lại là vơi, Bỗng vào mà lại bỗng ra. Lại chẳng thấy: Quỷ thần vốn ghét sự thịnh mãn, Được một cách phũ phàng thì cũng mất một cách phũ phàng. Từ đầu, thì sắc đã là không, Vốn là không có một vật gì cả) (Ý xưa cảm khái về thời thế) Đồng thời mọi sự vật luôn luôn biến đổi, chuyển hóa lẫn nhau, không khi nào tĩnh tại, bất biến. “Hoa càng khoe nở, hoa nên rữa, Nước chứa cho đầy, nước ắt vơi” (Bạch Vân quốc ngữ thi tập, bài 48) Nhìn lại chặng đường làm quan tám năm của mình, nhà thơ không lấy gì làm hổ thẹn mà trái lại rất lấy làm tự hào nữa là khác. Ông đã không vào luồn ra cúi, dám phanh phui sự thật, tố cáo bọn gian thần trước mặt nhà vua. Cùng thời làm quan ấy, mấy ai làm được như cụ Trạng. Chí đã phỉ nguyền, cho nên lúc treo ấn từ quan về quê ở ẩn ta thấy Cụ thanh thản, an nhiên như một người đã thấu suốt mọi lẽ biến dịch ở đời: “Hễ làm quan đã có duyên, Tới lui mặc phận tự nhiên. Thân xưa hương lửa chăng còn ước, Chí cũ công danh đã phỉ nguyền. ………………………………. Cho về cho ở dầu ơn chúa Ngại bước chân chen áng cửa quyền” (Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 51) “Yến khan trọc thế đẩu phù vinh, Tân quán thân nhàn ngã độc thanh”
  • 39. 34 (Chán nhìn trò đua chen vinh hoa hão ở cái đời vẩn đục này, Thâu nhàn trong quán Trung Tân, riêng ta trong sạch) (Ngụ hứng) Rõ ràng cụ Trạng xem việc làm quan của mình là do duyên số, quan trường chỉ là nơi cụ gửi gắm thân mình vào đấy để thỏa nguyện chí bình sinh. Một khi chí lớn không thành, thì công danh với Cụ không còn mang ý nghĩa gì. Ảo tưởng về công danh trong Nguyễn Bỉnh Khiêm hoàn toàn sụp đổ, khi nhắc về nó nhà thơ đầy ngán ngẩm: “Danh toại công thành, hưu hĩ hưu, Đẳng nhàn thế cố nhất hư chu?” (Công đã thành, danh đã toại, nên nghỉ đi thôi! Việc đời phó mặc cho con thuyền không lênh đênh) (Ngụ Ý, H.102) Sao bằng gác bỏ việc đời, gửi thân trên chiếc thuyền không mà hưởng thú thanh nhàn: “Công danh bất hệ nhất hư chu, Liêu hướng điền viên mịch thắng du” (Công danh như một con thuyền rỗng, chẳng buộc vào đâu, Hãy hướng về vườn ruộng mà tìm thú ngao du thắng cảnh) (Ngụ hứng, bài 3) “Thuyền không” (hư chu) ở đây không chỉ có nghĩa đơn thuần là nói đến cuộc sống nhàn tản, phóng khoáng trên sông sau khi tác giả đã ra khỏi vòng cương tỏa của danh lợi, mà còn hàm ý triết lí sâu xa. Trong Nam Hoa Kinh, Trang Tử đã mượn việc một chiếc đò qua sông bị một chiếc thuyền không (hư thuyền) trôi đụng để từ đó rút ra một thái độ xử thế: nếu biết đem cái lòng trống không mà xử sự với đời thì không ai hại mình. “Phương châu nhi tế ư hà, hữu hư thuyền lai xúc chu, tuy hữu biển tâm chi nhơn bất nộ. Hữu nhất nhơn tại kỳ thượng tắc hô trương hấp chi. Nhất hô nhi bất văn, tái hô nhi bất văn, ư thị tam hô da, tắc tất dĩ ác thinh tùy chi. Hướng dã bất nộ, nhi kim dã nộ. Hướng dã hư nhi kim dã thật. Nhơn năng hư kỷ dĩ
  • 40. 35 du thế, kỳ thục năng hại chi” [1, tr.642-643] (Chiếc đò qua sông, bị phải chiếc thuyền không trôi đụng. Dù người có hẹp lòng đến đau cũng không giận. Nếu có người trên thuyền, thì đã thấy chủ đò giận dữ, phùng trợn. La lối một lần mà bên thuyền chẳng ai nghe, tất la lối đến hai lần. Hai lần mà cũng chẳng ai nghe, tất la lối đến ba lần, rồi buông lời chửi mắng. Trước không giận mà nay lại giận là vì sao? Vì trước thì không có người mà nay thì lại có người. Nếu biết đem cái lòng trống không mà đối xử với đời, thì ai hại mình.). “Hư thuyền” của Trang Tử chính là “hư chu” của Nguyễn Bỉnh Khiêm vậy. Lão Tử đã từng khuyên con người nên biết dùng cái tâm trống không ấy để đối đãi với đời. Bậc chân nhân ấy đã hơn một lần khuyên người đời về việc nên đi mà không ở lại “Vì không ở lại, nên không bỏ đi”, hoặc “Hậu kỳ thân nhi tiên, ngoại kỳ thân nhi tồn”. (Để thân ra ngoài mà thân được còn) và “Nên việc lui thân đấy là đạo trời” [29, tr.19]. Nếu làm được điều ấy sẽ bảo toàn được thanh danh, tránh được họa cho mình về sau: Tiêu Hà và Hàn Tín sau khi giúp nhà Hán thành công, không biết toan tính đường về, vẫn cứ tham quyền cố vị, sau đó Tiêu Hà bị Hán Cao tổ bắt giam, còn Hàn Tín thì bị Lã Hậu giết. Trương Lương thì ngược lại, sau khi giúp nhà Hán thành công, ông thác là nhiều bệnh, rồi từ chối tước lộc, xin đi theo Xích Tùng tử tu tiên, do đó tránh được tai vạ: “Hán gia tam kiệt trong ba ấy, Ai chẳng hay toan? Ai khéo toan?” (Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 62) Thấy rõ điều tai hại ấy, đến lượt mình Nguyễn Bỉnh Khiêm không tham quyền cố vị, trái lại ông luôn nghĩ đến cảnh điền viên và chỉ muốn xin về ẩn dật: “Vật vờ thành thị làm chi nữa, Ít tiếng khen thì vắng tiếng chê” (Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 61) Cuộc sống thành thị chỉ tổn làm cho con người ta nhọc xác, được ít mà mất nhiều. Chi bằng tìm về với chốn lâm tuyền mà tâm hồn được thư thái, nhàn hạ. Trong cuộc hành trình quy ẩn ấy Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ví mình như con cá côn,
  • 41. 36 con chim bằng nơi biển Bắc có sức bơi xa, bay cao nghìn dặm, nhưng vì cá không gặp nước, chim không gặp gió, không có không gian cao rộng và như người không gặp thời nên phải xếp đôi cánh lớn, quay về chốn non xanh: “Vạn lí bằng minh tảo phấn thân, Không thời liêu thả tập tu lân. Tích liên Kim Mã Ngọc Đường khách, Kim bạn thanh sơn bích thủy nhân” (Sớm có chí bay nhảy như chim bằng ở biển Bắc, Nhưng gặp lúc cùng hãy tạm thu lại cánh vay. Xưa làm khách Kim Mã Ngọc Đường, Nay là người bạn non xanh nước biếc) (Tự Thuật, H.31) Theo Nguyễn Bỉnh Khiêm, con người cũng giống tạo vật. Chim kia đang bay trên bầu trời xanh, có lúc mỏi cánh cũng muốn tìm một nơi hạ cánh. Cây quạt nọ tuy đem gió mát đến cho đời nhưng khi mùa thu đến thì phải xếp lại cất đi. Con người cũng thế, khi có thời cơ thuận lợi để thi thố tài năng thì phải dốc sức, dốc lòng; nhưng lúc nhận ra thời cơ đã trôi qua rồi thì phải biết lui về: “Chim thấy non cao, chim đến đỗ, Quạt hay thu đến, quạt càng thâu” (Bạch vân quốc ngữ thi, bài 54) Xuất hay xử là lý thuyết của Nho giáo, nhưng khi đã không thực hiện được chí hướng của mình, các nhà Nho lui về ở ẩn đã không tìm thấy ở lý luận Nho giáo chỗ dựa tinh thần cho họ. Nho giáo không cho họ triết lý để sống cô độc, không cho họ nhìn ra cái đẹp của thiên nhiên mà vui thú, nhìn ra cái vô nghĩa của cuộc đời để xa lánh, có thể yên tâm hưởng cảnh nhàn. Những người ẩn dật thường tìm những chỗ thiếu thốn đó ở Lão - Trang. Thái độ sống nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một thái độ triết lí bắt nguồn từ sự hiểu biết qui luật thời thế ở ông. Dù ở trong hoàn cảnh nào ông cũng có những ứng xử chủ động và đầy tự tin vào bản thân mình và vào con đường mình lựa chọn. Lẽ sống nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể bị