SlideShare a Scribd company logo
1 of 106
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM VĂN TOÀN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
Chuyên ngành: Luâ ̣t hình sựvà tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Văn Toàn
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH HÌNH
PHẠT TỬ HÌNH THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM.......................................................................................... 7
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA THI
HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH .......................................................... 7
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành hình phạt tử hình........................ 7
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của việc thi hành hình phạt tử hình......................13
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ CÁC QUY ĐỊNH VỀ THI HÀNH
HÌNH PHẠT TỬ HÌNH Ở VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG
THÁNG 8 NĂM 1945 ĐẾN TRƯỚC KHI CÓ BỘ LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003............................................................15
1.3. THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC...............................................................24
Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ
HÌNH THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ........................29
2.1. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ
HÌNH THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH .....................................................................................29
2.1.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về các
cơ quan có nhiệm vụ thi hành hình phạt tử hình................................29
2.1.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về trình
tự, thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành.............34
2.1.3. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về trình
tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình.................................................42
2.2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH Ở VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN QUA ....................................................58
2.2.1. Thực tiễn xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành..............58
2.2.2. Thực tiễn thi hành hình phạt tử hình..................................................65
2.3. NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT
TỬ HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NÓ......................................69
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ QUY ĐỊNH VIỆC THI
HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG...............................................................................76
3.1. NHU CẦU VÀ QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG................................................76
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH ......79
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH.................................................85
3.3.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục những quy
định của pháp luật tố tụng hình sự và thi hành án hình sự về thi
hành hình phạt tử hình........................................................................85
3.3.2. Giải pháp về công tác tổ chức, cán bộ có nhiệm vụ thi hành hình
phạt tử hình.........................................................................................86
3.3.3. Tăng cường công tác hợp tác quốc tế trong thi hành hình phạt
tử hình................................................................................................90
KẾT LUẬN....................................................................................................93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................96
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Số người bị thi hành hình phạt tử hình từ
năm 2008 - 2013 67
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đất nước ta
chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại với nhiều nước trên thế giới. Sự vận hành của nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang đem lại sự chuyển
biến tích cực trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, được bạn bè
quốc tế đánh giá cao.
Bên cạnh những mặt tích cực đã nêu ở trên, nền kinh tế thị trường cũng
đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó tình hình tội phạm diễn biến
phức tạp. Các vụ án giết người, cướp tài sản, hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em, lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, tham nhũng, buôn lậu, các tội phạm về ma túy… xảy
ra nhiều, với tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng. Tình hình trên không
những xâm hại tính mạng, sức khỏe của người dân, lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, tổ chức làm thiệt hại đến nền kinh tế đất nước, mà còn thực sự đe dọa
phá vỡ chính sách kinh tế xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự
lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, gây ra những hậu quả
nặng nề về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Thậm chí tình hình tội phạm còn
tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tình báo nước ngoài lợi dụng tiến
hành các hoạt động mua chuộc, thu thập tình báo, phá hoại sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trước tình hình trên, các cơ quan bảo vệ pháp luật đã thực hiện các
biện pháp có hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, xử lý kịp thời,
nghiêm minh mọi hành vi phạm tội và người phạm tội. Tòa án các cấp đã xét
xử phạt tử hình nhiều người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, có tác dụng răn
đe, phòng ngừa tội phạm, phục vụ yêu cầu chính trị chung. Việc thi hành hình
2
phạt tử hình đã được các cơ quan chức năng tiến hành theo đúng quy định của
pháp luật, được dư luận nhân dân đồng tình, đồng thời có tác dụng đề cao sự
cần thiết phải áp dụng hình phạt này trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành hình phạt tử hình cũng đã đặt ra nhiều vấn
đề vướng mắc đòi hỏi khoa học luật tố tụng hình sự phải nghiên cứu giải
quyết như: khái niệm thi hành hình phạt tử hình, nội dung của luật thi hành án
hình sự với luật TTHS, Luật hình sự chưa tương thích; cơ sở vật chất, cán bộ
cho việc thi hành hình phạt tử hình; hình thức thi hành hình phạt tử hình bằng
hình thức tiêm thuốc độc nhưng không có nguồn cung ứng thuốc để phục vụ
thi hành án, bởi không có quốc gia nào cho phép một quốc gia khác nhập
khẩu; xác định rõ tiêu chí áp dụng hình phạt tử hình theo hướng hình phạt này
chỉ được áp dụng đối với người phạm một số ít các tội đặc biệt nghiêm trọng
có tính chất dã man, tàn bạo, mất nhân tính hoặc việc phạm tội cũng như
người phạm tội là mối đe dọa nghiêm trọng cho an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội, mặt khác đề xuất bỏ hình phạt tử hình đối với một số tội phạm cụ
thể... Trong khi đó, xét về mặt lý luận, chế định thi hành hình phạt tử hình kể
từ khi Luật thi hành án hình sự được ban hành chưa được quan tâm nghiên
cứu một cách xác đáng và xung quanh chế định này còn nhiều ý kiến khác
nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài: “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về thi hành hình phạt tử hình” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu về thi hành hình phạt tử hình đã được một số học giả
nghiên cứu như:
* Về sách, đề tài nghiên cứu:
- Tác giả Võ Khánh Vinh và Nguyễn Mạnh Kháng với cuốn sách “Pháp
luật thi hành án hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Tư
pháp năm 2006. Trong tác phẩm này, nhóm tác giả đã trình bày những vấn đề
3
lý luận cơ bản về pháp luật thi hành án hình sự, trong đó có các vấn đề như vị
trí, vai trò của pháp luật thi hành án hình sự, các nhóm vấn đề cụ thể của pháp
luật thi hành án hình sự như thi hành án phạt tù, thi hành án tử hình và thi
hành các hình phạt không giam giữ. Công trình cũng đã trình bày về vấn đề
thi hành hình phạt tử hình tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở việc phân tích những
vấn đề cơ bản nhất về thi hành án tử hình và cũng chỉ trình bày trong giới hạn
của một chương nằm trong tổng thể cuốn sách.
- Tác giả Phạm Văn Beo với cuốn sách “Về hình phạt tử hình trong
luật hình sự Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia năm 2010. Đây là công trình
nghiên cứu cơ bản đầu tiên có hệ thống nhất về hình phạt tử hình trong luật
hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, do chỉ nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự do
đó việc phân tích vấn đề thi hành hình phạt tử hình trong cuốn sách này còn
rất hạn chế.
- Tác giả Vũ Trọng Hách với cuốn sách “Hoàn thiện các quy định quản
lý về thi hành án hình sự” Nxb. Tư pháp năm 2010. Công trình nghiên cứu này
đã trình bày một cách có hệ thống nhất về hệ thống các quy định về quản lý
hoạt động thi hành án hình sự, trong đó có thi hành hình phạt tử hình. Tuy
nhiên do chỉ nghiên cứu vấn đề về các quy định quản lý về thi hành án hình sự
nên việc đề cập một cách toàn diện nhất đến vấn đề thi hành hình phạt tử hình
còn hạn chế trong tác phẩm.
- Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) với đề tài khoa học cấp bộ “Áp
dụng và thi hành hình phạt tử hình – những vấn đề lý luận và thực tiễn”,
Hà Nội, 2002.
* Về bài viết khoa học:
- Tác giả Đỗ Minh Giang với bài viết “Một số vấn đề về thi hành án tử
hình” Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9 năm 2006. Công trình đã nghiên
cứu trực tiếp về vấn đề thi hành hình phạt tử hình theo quy định của BLTTHS
4
năm 2003. Tuy nhiên, do được nghiên cứu vào năm 2006 khi mà chưa ban
hành Luật thi hành án hình sự năm 2010 nên công trình chưa giải quyết một
số vấn đề có tính thời sự nhất về thi hành án tử hình trong Luật thi hành án
hình sự mới.
- Tác giả Vũ Trọng Hách với bài viết “Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về
thi hành án hình sự ở nước ta hiện nay” Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5
năm 2002. Công trình nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật về thi hành án hình
sự nói chung, trong đó có trình bày về vấn đề thi hành hình phạt tử hình.
- Tác giả Phạm Văn Beo với bài viết “Một số ý kiến về thi hành án tử
hình trong Dự thảo Luật thi hành án hình sự” Tạp chí Nhà nước và pháp luật
số 6 năm 2010. Công trình của tác giả tập trung phân tích về dự thảo Luật thi
hành án hình sự năm 2010, với những đóng góp hết sức thiết thực.
- Tác giả Nguyễn Xuân Yêm với bài viết “Về đổi mới thủ tục thi
hành hình phạt tử hình trong tiến trình cải cách tư pháp” Tạp chí Nghề
luật số 2 năm 2006.;
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những quy định của luật hình sự Việt Nam về mục
đích, ý nghĩa của hình phạt nói chung, hình phạt tử hình nói riêng; xem xét
thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình cũng như tham khảo pháp luật hình sự của
một số nước trên thế giới quy định về vấn đề này, người viết nhằm lý giải về
sự tồn tại mang tính cần thiết khách quan của hình phạt tử hình trong luật hình
sự Việt Nam. Từ việc phân tích những vấn đề cơ bản về hình phạt tử hình, đề
tài tập trung nghiên cứu về thi hành hình phạt tử hình trong quy định của luật
TTHS và luật THAHS như trình tự, thủ tục ra quyết định thi hành án, kháng
nghị, bác đơn xin ân giảm, quy trình thi hành án tử hình theo quy định của
luật THAHS... Bên cạnh việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về hình phạt
5
tử hình và thi hành hình phạt tử hình, đề tài còn phân tích thực trạng tình hình
áp dụng hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình tại Việt Nam hiện
nay. Qua nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của việc thi hành hình phạt tử
hình, đề tài có đề xuất các phương hướng hoàn thiện quy định của luật TTHS
và luật THAHS liên quan đến chế định thi hành hình phạt tử hình, và các giải
pháp nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt tử hình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ khái niệm thi hành hình phạt tử hình, các hình thức thi
hành hình phạt tử hình.
- Phân tích, làm rõ sự hình thành và phát triển các quy định của pháp
luật về thi hành hình phạt tử hình ở Việt Nam.
- Nghiên cứu, làm rõ các quy định của pháp luật về thi hành hình phạt
tử hình của một số nước trên thế giới.
- Làm sáng tỏ các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật về thi hành hình phạt tử hình ở nước ta.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp việc áp dụng các quy định
của pháp luật về thi hành hình phạt tử hình.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề nêu trên chủ yếu dựa trên cơ sở quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Luật thi hành án hình sự năm
2010 và có sự so sánh, đối chiếu với các quy định tương ứng trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988 và các quy định của Bộ luật hình sự năm 2010 về hình
phạt tử hình. Về thực tiễn, luận văn nghiên cứu thực trạng thi hành hình phạt
tử hình tại Việt Nam trong 5 năm từ 2008 đến 2013.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
6
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta.
Trong luận văn tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp lịch sử, so sánh; phương pháp
thống kê, khảo sát thực tiễn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên
cứu một cách toàn diện, có hệ thống về những vấn đề lý luận và thực tiễn của
việc thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, trên cơ sở
đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về thi hành hình phạt tử hình ở Việt Nam. Có thể xem những nội dung sau
đây là những đóng góp mới của luận văn:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thi hành hình phạt tử hình.
- Phân tích làm rõ thực trạng những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự hiện hành về thi hành hình phạt tử hình và thực tiễn áp dụng ở nước ta.
- Nghiên cứu, so sánh những quy định của pháp luật tố tụng hình sự của
Việt Nam về thi hành hình phạt tử hình với những quy định tương ứng trong
pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới để rút ra những giá trị
hợp lý về hoạt động lập pháp tố tụng hình sự.
- Đề xuất phương hướng nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thi hành hình phạt tử hình theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 2: Những quy định về thi hành hình phạt tử hình theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện thi hành hình phạt tử hình
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA THI
HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành hình phạt tử hình
Để có thể hiểu về khái niệm của thi hành hình phạt tử hình, trước hết
chúng ta cần nghiên cứu về khái niệm hình phạt tử hình. Hình phạt tử hình là
hình phạt nghiêm khắc nhất do Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng (thường gọi là tội chết, tội tử) để loại trừ vĩnh viễn người
đó ra khỏi đời sống xã hội. Hình phạt tử hình chỉ áp dụng đối với người phạm
tội có tính nguy hiểm đặc biệt cao cho xã hội. Trong hệ thống hình phạt thì tử
hình là một hình phạt nghiêm khắc nhất, thể hiện mức độ trừng trị cao nhất
của Nhà nước đối với người phạm tội, bởi lẽ nó tước bỏ đi quyền sống của
người bị kết án, loại bỏ sự tồn tại của người phạm tội khỏi đời sống cộng
đồng. Hiện nay, trên thế giới còn tồn tại hai loại quan điểm trái ngược nhau về
hình phạt tử hình:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, để bảo đảm an ninh xã hội, công bằng và
công lý, cần thiết phải duy trì hình phạt tử hình đối với những tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng; đối với những kẻ khủng bố quốc tế, giết người hàng loạt,
thì không thể có biện pháp giáo dục nào có tác dụng, ngoài việc tước đi sự tồn
tại của chúng.
Quan điểm thứ hai cho rằng, cần phải bỏ hình phạt tử hình, vì sự sống
của con người là thiêng liêng nhất mà tạo hóa đã dành cho họ; việc áp dụng
hình phạt này là tàn khốc, vô nhân tính, không thể chấp nhận được trong xã hội
văn minh. Mặt khác, các cơ quan tố tụng có thể sai lầm khi áp dụng hình phạt
8
này và khi phát hiện ra sai lầm, thì lại không thể khắc phục được, bởi lẽ người
đã chết, thì không thể có biện pháp nào có thể khắc phục để họ sống trở lại.
Thể hiện hai quan điểm trên, theo số liệu chính thức của Ủy ban về
quyền con người của Liên hợp quốc, hiện có 71 quốc gia vẫn duy trì hình phạt
tử hình, 15 quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình đối với các tội thông thường,
nhưng vẫn duy trì hình phạt tử hình đối với tội giết người; 77 quốc gia hoàn
toàn xóa bỏ hình phạt tử hình, 33 quốc gia tuy còn quy định hình phạt tử hình,
nhưng không thi hành hình phạt tử hình trên thực tế. Như vậy, 110 quốc gia
đã xóa bỏ hình phạt tử hình hoặc không thi hành hình phạt tử hình trên thực
tế, chỉ còn 86 quốc gia vẫn duy trì loại hình phạt này. Đáng chú ý, một số
quốc gia lớn và đông dân như Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa Ấn
Độ, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Vương quốc Nhật Bản, Cộng hòa Inđônêxia...
vẫn còn duy trì hình phạt này.
Việt Nam là quốc gia vẫn duy trì hình phạt tử hình. Cơ sở lý luận của
việc duy trì hình phạt này là: do tính chất đặc biệt nghiêm trọng của tội phạm
đã được thực hiện và những đặc điểm về nhân thân người phạm tội, Nhà nước
ta xét thấy không còn khả năng giáo dục, cải tạo họ. Vì vậy, hình phạt tử hình
không đặt ra mục đích giáo dục, cải tạo đối với người bị kết án. Việc tước bỏ
mạng sống của người bị kết án là nhằm loại bỏ hoàn toàn khả năng thực hiện
tội phạm ở họ, đồng thời răn đe mạnh mẽ những người không vững vàng, dễ
bước vào con đường phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội, góp phần nâng cao khí
thế đấu tranh phòng, chống tội phạm của người dân. Cơ sở thực tiễn của việc
duy trì hình phạt tử hình này là thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở
nước ta cho thấy, địa phương nào hữu khuynh, không áp dụng hình phạt
nghiêm khắc nhất đối với những kẻ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng với nhiều
tình tiết tăng nặng, thì ở đó tình hình tội phạm diễn biến phức tạp cả về tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và phong trào quần chúng tham gia đấu
9
tranh phòng, chống tội phạm không mạnh. Vì vậy, hình phạt tử hình cần được
áp dụng đối với những người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, gây ảnh hưởng
xấu đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bị dư luận kịch liệt lên án.
Do những đặc điểm tâm lý, thể chất của người chưa thành niên, phụ nữ có
thai và xuất phát từ quan điểm nhân đạo, luật hình sự Việt Nam quy định
không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, phụ
nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Như vậy có thể hiểu hình phạt tử hình là hình phạt đặc biệt, tước đi
mạng sống của người phạm tội và chỉ được áp dụng đối với những người
phạm tội có tính nguy hiểm đặc biệt cao cho xã hội.
Vấn đề cần làm rõ thứ hai là khái niệm thi hành án hình sự, Hiến pháp
hiện hành của nước ta khẳng định: các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân
đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng, những
người và đơn vị hữu quan phải chấp hành nghiêm chỉnh. Yêu cầu mang tính
nguyên tắc hiến định này đã khẳng định hiệu lực thi hành của tất cả các phán
quyết của Tòa án khi có hiệu lực pháp luật, đồng thời khẳng định ý nghĩa quan
trọng của vấn đề thi hành án nói chung và thi hành án hình sự nói riêng.
Trong khoa học pháp lý hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về bản
chất của thi hành án hình sự. Có người cho rằng thi hành án hình sự là một
giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự. Song cũng có ý kiến cho rằng, thi
hành án hình sự là một hoạt động hành chính - tư pháp hình sự, có những nét
đặc thù riêng khác với hoạt động tố tụng hình sự. Một số khác thì coi thi hành
án hình sự như là luật hình sự kéo dài. Việc xác định thi hành án hình sự là
một giai đoạn tố tụng, luật hình sự kéo dài hay là hoạt động hành chính tư
pháp có ý nghĩa quan trọng để làm sáng tỏ bản chất thi hành án hình sự, mà
xác định bản chất của thi hành án hình sự là một trong những vấn đề lý luận
cơ bản của thi hành án hình sự.
10
"Thi hành" theo Hán Việt Từ điển của tác giả Đào Duy Anh là "đem
cái việc đã định sẵn mà làm cho có hiệu quả"[2, tr.398]; theo Từ điển tiếng
Việt của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, "thi hành" là "làm cho thành, có
hiệu lực điều đã được chính thức quyết định"[70, tr.936]; còn theo Đại từ
điển tiếng Việt thì "thi hành" được hiểu là "thực hiện điều đã chính thức
quyết định"[73, tr.1559]. Thi hành bản án và quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tòa án có thể được hiểu theo một cách chung nhất là “việc các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội và các cá nhân có liên quan theo quy định của
pháp luật nhằm đưa bản án, quyết định đó ra thi hành làm cho nó phát huy
hiệu lực trên thực tế”[21, tr.371].
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm thi hành án hình sự như
sau: Thi hành án hình sự là việc các các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội,
các cá nhân có liên quan đưa bản án và quyết định hình sự đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án ra thi hành làm cho nó phát huy hiệu lực trên thực tế.
Từ khái niệm trên có thể rút ra các đặc điểm của thi hành án hình sự
như sau:
Một là, thi hành án hình sự là giai đoạn cuối cùng của hoạt động tố
tụng hình sự, phản ánh kết quả của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc giải quyết
vụ án hình sự.
Hai là, mục đích của hình phạt chỉ có thể được thực hiện thông qua thi
hành án hình sự. Điều đó có nghĩa, thi hành án hình sự chính là quá trình thực
tiễn hóa mục đích của hình phạt. Ngoài ra, thi hành án hình sự còn có mục
đích: đưa vào cuộc sống một cách đúng đắn và đầy đủ mọi nội dung của hình
phạt đã được Tòa án phán quyết trong bản án, quyết định hình sự, khắc phục
hậu quả do chính tội phạm đó gây ra cho xã hội, làm mất khả năng phạm tội
của kẻ phạm tội, giáo dục, cải tạo kẻ phạm tội thành người lương thiện và tái
hòa nhập cộng đồng người đó thành người có ích cho gia đình và xã hội.
11
Ba là, thi hành án hình sự trước hết được điều chỉnh bằng các quy
phạm pháp luật tố tụng hình sự và do nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân thi hành
nhằm bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật và công bằng xã hội. Ngoài ra,
do thi hành án hình sự thường diễn ra trong thời gian dài, liên quan đến nhiều
lĩnh vực, cho nên, ngoài các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự, cho nên thi
hành án hình sự còn được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật khác như
hành chính, dân sự, lao động...
Bốn là, trong quá trình thi hành, các cơ quan thi hành án tác động trực
tiếp tới đối tượng phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng biện
pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết
định của Tòa án.
Thi hành hình phạt tử hình cũng là một bộ phận của thi hành án hình
sự. Bởi lẽ, hình phạt tử hình là một hình phạt trong hệ thống hình phạt được
quy định trong BLHS và trên thực tế hình phạt tử hình vẫn được áp dụng trên
thực tế ở nước ta hiện nay. Thi hành hình phạt tử hình cũng có những đặc
điểm chung và đặc điểm riêng như thi hành án hình sự. Từ khái niệm thi hành
án hình sự theo phân tích trên ta có thể đưa ra khái niệm thi hành hình phạt tử
hình như sau: Thi hành hình phạt tử hình là hoạt động của cơ quan nhà nước,
cá nhân có thẩm quyền nhằm đưa bản án tử hình của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật ra thực hiện trên thực tế theo những trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định nhằm mục đích tước bỏ quyền sống của người chấp hành án
Thi hành hình phạt tử hình cũng mang đầy đủ các đặc điểm của thi
hành án hình sự, ngoài ra còn có những đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, thi hành hình phạt tử hình là sự thực hiện trên thực tế việc
tước đi quyền sống của người phạm tội, do đó cơ quan thi hành án hình sự
phải tuân theo những thủ tục hết sức nghiêm ngặt, chặt chẽ. Đây là đặc điểm
chủ yếu nhất để có thể phân biệt việc thi hành hình phạt tử hình với thi hành
12
các loại hình phạt, biện pháp tư pháp khác. Việc tước bỏ tính mạng của người
bị áp dụng là đặc điểm cơ bản nhất của hình phạt tử hình và đồng thời nó
cũng là một đặc điểm cơ bản nhất của thi hành hình phạt tử hình. Ví dụ: trong
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, cũng như trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003, đều đã quy định thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi
hành, trong đó quy định rất cụ thể về trình tự, thủ tục gửi hồ sơ vụ án lên
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, gửi bản án cho Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, thời hạn quy định Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định kháng nghị hoặc quyết
định không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm; thủ tục xin ân giảm
trình lên Chủ tịch nước... Đây là những thủ tục mà đối với việc thi hành các
hình phạt, biện pháp tư pháp khác, pháp luật tố tụng hình sự không quy định.
Thứ hai, khác với việc thi hành các hình phạt, biện pháp tư pháp khác,
nếu việc thi hành hình phạt tử hình có sai lầm, thì không thể khắc phục được
hậu quả. Đặc điểm này bắt nguồn từ bản chất của hình phạt tử hình là tước đi
quyền sống của người bị kết án, vì vậy, nếu như thi hành hình phạt tử hình
không đúng đối tượng bị kết án, thì sai lầm này không thể khắc phục được.
Đây là một đặc điểm của hình phạt tử hình cũng như đặc điểm của thi hành
hình phạt tử hình. Hiện nay, các luồng quan điểm cho rằng cần loại bỏ hình
phạt tử hình ra khỏi hệ thống hình phạt cũng xuất phát từ quan điểm này khi
cho rằng nếu áp dụng hình phạt tử hình sẽ không thể khắc phục được các sai
lầm (nếu có). Bởi bản chất của hình phạt tử hình nếu đã được thi hành thì
không thể khắc phục được. Điều này cũng là lý do mà khi thi hành hình phạt
tử hình cần những thủ tục hết sức chặt chẽ và có những bước xem xét lại bản
án, đơn xin ân giảm... rất phức tạp. Tất cả những hoạt động đó để đảm bảo
nếu đã thi hành hình phạt tử hình thì không có những sai lầm đáng tiếp xảy ra.
Thứ ba, việc thi hành hình phạt tử hình không những tước đi sự sống
13
của người bị kết án, mà còn gây ra nỗi đau thương, mất mát lâu dài cho người
thân của họ, đồng thời có những tác động tâm lý tiêu cực nhất định lên những
cá nhân trực tiếp thực hiện việc thi hành hình phạt tử hình. Đây là đặc điểm
chúng ta cần lưu ý khi thực hiện công tác chính trị, tư tưởng đối với người
thân của người bị kết án, cũng như đối với số cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm
nhiệm vụ tước đi mạng sống của người bị kết án.
Thứ tư, thi hành hình phạt tử hình không có tính linh hoạt trong quá
trình thi hành. Về lý luận cũng như thực tế đã chỉ ra rằng hình phạt tử hình
bản thân nó chứa đựng duy nhất chỉ một mức độ không thể tăng lên hay giảm
xuống trong những trường hợp tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm khác
nhau. Bên cạnh đó, việc thi hành hình phạt tử hình cũng chỉ có áp dụng duy
nhất một lần và một mức độ. Hình phạt tử hình khi đã được áp dụng thì không
có các hoạt động miễn, giảm chấp hành án như hình phạt tù chung thân, tù có
thời hạn, cải tạo không giam giữ... Chính vì vậy, việc thi hành hình phạt tử
hình cần phải thông qua các bước xem xét, ân giảm cần thiết trước khi đưa ra
thi hành trên thực tế.
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của việc thi hành hình phạt tử hình
Chế định thi hành hình phạt tử hình lần đầu tiên được quy định trong
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 của nước
ta, có ý nghĩa về mặt lập pháp hết sức to lớn. Nó đánh dấu sự trưởng thành về
kỹ thuật lập pháp tố tụng hình sự của nước ta.
Trong chế định thi hành hình phạt tử hình, khái niệm thi hành hình phạt
tử hình là khái niệm cơ bản, khái niệm xuất phát, để từ đó xác định các quy
phạm khác của chế định thi hành hình phạt tử hình như hình thức thi hành hình
phạt tử hình, trình tự, thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành,
trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình, thủ tục hoãn thi hành án... Việc
nhận thức và áp dụng đúng đắn chế định thi hành hình phạt tử hình trong thực
14
tiễn là bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong lĩnh vực thi hành án hình sự, nhằm thi hành hình phạt tử hình đúng
người, không để xảy ra oan, sai trong lĩnh vực cực kỳ nhạy cảm này.
Trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự nói
chung, thi hành hình phạt tử hình nói riêng, đóng vai trò hết sức quan trọng
trong việc bảo đảm hiệu quả đạt được của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự. Vì
vậy, việc quy định chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình
sự góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn, vững
mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
tài sản của công dân. Tuy nhiên, việc áp dụng chế định thi hành hình phạt tử
hình một cách tùy tiện, không đúng pháp luật, bị coi là những hành vi vi phạm
pháp luật nghiêm trọng, bởi nó xâm phạm quyền được sống là một trong những
quyền con người cơ bản, xâm phạm đến tình cảm thiêng liêng của những người
thân thích của họ. Những hành vi vi phạm pháp luật về thi hành hình phạt tử
hình không những xâm hại hoạt động đúng đắn của các cơ quan bảo vệ pháp
luật, xâm hại quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, mà còn làm
giảm sút lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước. Do vậy, việc quy định một cách chặt chẽ chế định thi hành hình phạt
tử hình trong luật tố tụng hình sự thể hiện sự tôn trọng quyền con người của
Nhà nước ta, bảo đảm sự giám sát của nhân dân, xã hội trong hoạt động thi
hành án hình sự nói chung, thi hành hình phạt tử hình nói riêng.
Việc quy định trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình trong luật tố
tụng hình sự, ngoài ý nghĩa về mặt lập pháp tố tụng hình sự, còn có ý nghĩa
nâng cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp
luật nói riêng về sự cần thiết phải tuân thủ các quy định chặt chẽ của pháp
luật tố tụng hình sự trong lĩnh vực thi hành hình phạt tử hình. Mặt khác, việc
quy định cụ thể, chi tiết trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình còn giúp
15
các cơ quan bảo vệ pháp luật nắm vững nội dung, bản chất pháp lý, từ đó áp
dụng đúng đắn chế định này, góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm, động viên quần chúng nhân dân tham gia tích vào
cuộc đấu tranh này.
Ngoài ra, chế định thi hành hình phạt tử hình, còn có ý nghĩa là cơ sở
pháp lý cho một số ngành khoa học pháp lý có liên quan chặt chẽ với khoa
học luật tố tụng hình sự như tội phạm học, tâm lý học tư pháp, khoa học kỹ
thuật hình sự... Đối với tội phạm học, chế định thi hành hình phạt tử hình
trong luật tố tụng hình sự là cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu về nhân
thân người bị kết án tử hình, từ đó tìm ra quy luật phạm tội của những người
này. Đối với tâm lý học tư pháp, chế định thi hành hình phạt tử hình có ý
nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu đặc điểm tâm lý của người bị kết án
tử hình ở giai đoạn xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành, cũng
như ở giai đoạn thi hành hình phạt tử hình, nhất là ở thời điểm trước khi thi
hành án. Kết quả nghiên cứu đặc điểm tâm lý của những người bị kết án tử
hình trong hoạt động thi hành hình phạt tử hình, sẽ là tài liệu quan trọng phục
vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử những người phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng và góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Đối với khoa học kỹ thuật hình sự, việc quy định trình tự, thủ tục thi
hành hình phạt tử hình là cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu, đề xuất các
hình thức thi hành hình phạt tử hình tiết kiệm, dễ áp dụng, "nhân đạo" nhất
cho phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ CÁC QUY ĐỊNH VỀ THI HÀNH HÌNH
PHẠT TỬ HÌNH Ở VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945
ĐẾN TRƯỚC KHI CÓ BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003
Cách mạng tháng 8 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ra đời. Là nhà nước công nông đầu tiền ở khu vực Đông Nam Á. Ngay sau
16
khi cách mạng thành công, thực dân Pháp đã bắt đầu quay lại xâm chiếm
nước ta một lần nữa. Vì vậy, trong suốt thời kỳ từ khi bắt đầu cuộc xâm lược
của thực dân Pháp cho đến năm 1954 là thời điểm ký Hiệp định Giơnevơ,
Quốc hội ta là Quốc hội kháng chiến, Chính phủ ta là Chính phủ kháng chiến,
pháp luật của ta cũng là pháp luật kháng chiến.
Theo Sắc lệnh số 64-SL ngày 23/11/1945 quy định án tử hình do Tòa
án đặc biệt tuyên sẽ được thi hành trong vòng 48 giờ. Ngoài án tử hình được
tuyên bởi Tòa án đặc biệt, án tử hình tuyên bởi Tòa án binh tối cáo, Tòa á
binh khu Trung ương, Tòa án binh Khu, phạm nhân đều có quyền đệ đơn lên
Chủ tịch nước để xin ân giảm. Khi đơn xin ân giảm bị bác, phạm nhân mới bị
đem đi hành hình. Đối với bản án tử hình của Tòa án nhân dân thường, theo
Thông tư số 335/TTg, sau khi Tòa án đã tuyên án tử hình, phạm nhân cũng có
quyền đệ đơn lên Chủ tịch Chính phủ xin ân giảm, ân xá. Đơn xin ân giảm, ân
xá do Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu chuyển lên Bộ Tư pháp và Bộ
này sẽ làm tờ trình lên Chủ tịch chính phủ quyết định. Ngoài ra, Sắc lệnh số
4-SL ngày 28/12/1946 còn quy định: Uỷ ban bảo vệ khu có quyền ân xá, ân
giảm, phóng thích tội nhân do các Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự hoặc Tòa
án binh kết án. Khi bị kết án tử hình, phạm nhân chỉ được ân giảm hoặc ân xá
sau khi được toàn thể ủy ban và giám đốc tư pháp đồng ý. Tuy nhiên, quy
định này được Sắc lệnh số 26-SL sửa lại như sau: “Nếu tội nhân bị kết án tử
hình thì chỉ được ân xá hay ân giảm sau khi được đa số trong Hội đồng gồm
có toàn thể Uỷ ban kháng chiến và Giám đốc Tư pháp khu ưng thuận”.[18]
Về hình thức thi hành án tử hình, Thông tư số 498/P-4 ngày 31-6-1946,
Bộ Tư pháp đã ban hành thông tư số 498, trong đó quy định: "Thi hành hình
phạt tử hình từ nay dùng súng thay máy chém"[13]. Quy định về hình thức tử
hình này thể hiện bản chất nhân đạo của chế độ mới, khác về chất so với hình
thức tử hình dã man dùng máy chém của chế độ thực dân phong kiến.
17
Trong Quy tắc trại giam được ban hành ngày 12-6-1951, đã quy định
vấn đề chuẩn bị và kết thúc việc thi hành án tử hình tại Điều 6: "Mỗi khi đưa
phạm nhân ra chịu án tử hình, Ban Giám thị phải xét kỹ căn cước để đề
phòng nhầm lẫn" và tại Điều 21 quy định: "Khi thi hành xong một án tử hình,
Tòa án phải báo cho Ủy ban hành chính sở tại để đăng ký việc tử". Vấn đề
xét ân giảm án tử hình cũng đã được quy định trong Thông tư số 335/TTg
ngày 6-7-1954 của Thủ tướng phủ. Theo đó sau khi Tòa án nhân dân đã lên án
tử hình, phạm nhân vẫn có quyền đệ đơn lên Chủ tịch nước xin ân giảm. Đơn
xin ân xá, ân giảm do Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu chuyển lên Bộ
Tư pháp. Bộ Tư pháp làm tờ trình lên Chủ tịch nước quyết định.
Nghiên cứu các văn bản pháp luật quy định việc thi hành hình phạt tử
hình trong thời kỳ này, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, pháp luật trong giai đoạn này mang tính chất thời chiến,
nhưng cũng đã kịp thời quy định một số vấn đề cơ bản của việc thi hành hình
phạt tử hình. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thi hành hình phạt tử
hình, góp phần vào cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và tay sai.
Thứ hai, việc thi hành hình phạt tử hình được quy định trong nhiều
văn bản pháp luật dẫn tới khó khăn trong việc thống nhất áp dụng pháp
luật. Mặt khác, các văn bản quy định về việc thi hành hình phạt tử hình đều
là những văn bản dưới luật do cơ quan hành pháp ban hành, hiệu lực pháp
lý không cao.
Thứ ba, nhiều vấn đề về thi hành hình phạt tử hình chưa được pháp luật
điều chỉnh như cơ quan chịu trách nhiệm thi hành hình phạt tử hình, trình tự,
thủ tục xử bắn tại pháp trường... Đây là những nhược điểm cần được khắc
phục trong thời gian tới.
Từ năm 1954 đến năm 1974, việc thi hành án tử hình do các khu, sở, ty
Công an phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân ở địa phương
18
thi hành. Ngày 13- 2-1974, Bộ Công an ra Chỉ thị số 138-KC1 quy định cụ
thể về công việc chuẩn bị, thủ tục và trình tự những việc làm từ lúc bắt đầu
cho đến khi kết thúc cuộc thi hành án, những trường hợp cần tạm hoãn thi
hành án. Về địa điểm pháp trường, thời gian thi hành án, Chỉ thị quy định:
Tùy trường hợp, pháp trường có thể bố trí gần trại giam, hoặc ở nơi xảy
ra vụ án, nhưng nguyên tắc là phải bảo đảm tuyệt đối an toàn cho nhân dân
(xa nhà ở của dân, không để dân qua lại khu vực pháp trường)...
Ngày giờ thi hành án, nếu không phải trường hợp cấp bách, thì không
nên định vào ngày kỷ niệm, ngày tết và các ngày lễ chính của các tôn giáo,
dân tộc.[12]
Quy định này hoàn toàn phù hợp với phong tục, tập quán của dân tộc và
bảo đảm sự an toàn của nhân dân trong quá trình thi hành hình phạt tử hình.
Về công tác chuẩn bị thi hành án tử hình, Chỉ thị quy định:
Lãnh đạo Khu, Sở, Ty Công an phải thành lập Hội đồng thi hành án tử
hình, lập kế hoạch và định ngày, giờ, địa điểm, pháp trường, bố trí lực lượng
vũ trang. Thành phần Hội đồng thi hành án tử hình bao gồm:
- Một đại diện của cơ quan Công an (Chánh hoặc Phó giám đốc,
Trưởng hoặc Phó ty Công an).
- Một đại diện của Viện kiểm sát nhân dân (Viện trưởng, Viện phó hoặc
Ủy viên kiểm sát).
- Một đại diện của Tòa án nhân dân (Chánh án, Phó chánh án hoặc Ủy
viên thẩm phán).
- Một bác sĩ pháp y (do Hội đồng giám định pháp y ở địa phương chỉ định).
- Một đại diện của trại giam (Chánh hoặc Phó giám thị).
Người chứng kiến việc thi hành án là một đại diện của Ủy ban hành
chính cơ sở nơi bố trí pháp trường. Người này có nhiệm vụ lập giấy khai tử
cho kẻ bị áp dụng hình phạt tử hình sau khi bắn.
19
Trước khi đưa phạm nhân ra pháp trường, cán bộ căn cước của Sở, Ty
Công an phải đến trại giam, lập danh chỉ bản mới, đem đối chiếu với danh chỉ
bản cũ và các tài liệu khác đầy đủ, chính xác và xác định phạm nhân đó đúng
là phạm nhân bị kết án tử hình và đúng là kẻ sắp bị thi hành án trong kế hoạch
đã định.[12]
Về trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình, Chỉ thị quy định:
4. Sau khi trói tay phạm nhân vào cọc đã trông sẵn, thì đại
diện Tòa án nhân dân công bố tóm tắt tội trạng của phạm nhân và
đọc phần kết luận trong bản quyết định duyệt án tử hình hoặc quyết
định bác đơn xin ân giảm của phạm nhân.
5. Bịt mắt phạm nhân bằng một vải băng đen.
6. Hội đồng thi hành án ra lệnh thì cán bộ chỉ huy lực lượng
thi hành án hô đội viên (5 đội viên bắn giỏi được lựa chọn) bắn một
loạt súng trường nhằm thẳng vào tim phạm nhân. Để kết thúc việc
thi hành án tử hình, cán bộ chỉ huy bắn thêm một phát súng ngắn
vào thái dương của phạm nhân.
7. Bác sĩ pháp y khám nghiệm, xác định là phạm nhân đã
chết hẳn.
8. Chôn phạm nhân ngay tại gần nơi thi hành án (không cho
phép thân nhân xin xác đem về chôn); tại mả có cắm một biển gỗ
nhỏ ghi rõ họ, tên tuổi và nguyên quán phạm nhân.[12]
Việc không cho phép thân nhân người bị kết án xin xác về chôn trong
Chỉ thị số 138-KC1 là phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh chiến tranh lúc đó.
Đặc biệt, trong Chỉ thị này quy định rất rõ các trường hợp tạm hoãn thi
hành hình phạt tử hình. Đây là những quy định, mặc dù không có trong Bộ
luật tố tụng hình sự hiện hành, nhưng hiện nay vẫn được áp dụng:
- Phạm nhân tự thú những tội phạm nghiêm trọng khác của y
mà xét thấy những việc ấy cần điều tra, xác minh thêm để kết luận.
20
- Phạm nhân tố giác tội phạm của người khác mà xét thấy
việc ấy có tính chất nghiêm trọng và việc điều tra, kết luận nhất
thiết phải có mặt phạm nhân.
- Phạm nhân kêu oan mà xét thấy việc đó có thể có căn cứ.[12]
Bên cạnh đó, ngày 12/3/1974, Tòa án nhân dân tối cao cũng ra Chỉ thị số
07/TATC xác định nhiệm vụ của Tòa án nhân dân trong việc thi hành án tử hình.
Theo đó, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân phải tống đạt cho phạm nhân quyết định
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao duyệt án tử hình (trường hợp
phạm nhân không xin ân giảm) và công bố tóm tắt tội trạng của phạm nhân trước
khi bị hành hình. Việc hành hình sẽ được tiến hành bằng xử bắn.
Theo quy định của Pháp lệnh về việc ân giảm án tử hình và xét duyệt án
tử hình ngày 30-11-1978 quy định: “Thời hạn xin ân giảm án tử hình do các
Tòa án nhân dân thường và Tòa án quân sự xử phạt là bảy ngày kể từ ngày
bản án có hiệu lực pháp luật"[65]. Theo Bản hướng dân về trình tự tố tụng
phúc thẩm về hình sự kèm theo Thông tư số 19/TATC ngày 02/10/1974 của
Tòa án nhân dân tối cao, bản án tử hình sẽ có hiệu lực pháp luật 30 ngày sau
khi tuyên án. Về thẩm quyền xét duyệt bản án tử hình, Điều 2 Pháp lệnh nêu rõ
"Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao" có quyền xét duyệt án tử hình.
Về thủ tục xét đơn xin ân giảm, ngày 28-8-1981 Hội đồng Nhà nước đã
ban hành Nghị quyết số 14-NQ-HĐNN7, theo Điều 1 của Nghị quyết này,
Đối với những vụ án tử hình mà tội trạng và chứng cứ đã rõ ràng, xét không
thể ân giảm được thì áp dụng thủ tục lấy ý kiến tại nhà của các thành viên Hội
đồng Nhà nước. Khi đó, các thành viên của Hội đồng Nhà nước sẽ nhận được
tờ trình về vụ án, sau đó ghi ý kiến của mình, ký tên vào tờ trình gửi lại Chủ
nhiệm Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước. Nếu toàn thể Hội đồng
Nhà nước nhất trí tán thành việc bác đơn xin ân giảm thì Chủ tịch Hội đồng
Nhà nước ký nghị quyết (Điều 2). Tuy nhiên, đối với những bản án tử hình
21
thấy có thể ân giảm hoặc chưa rõ nên bác hay ân giảm hoặc ý kiến của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao khác với ý kiến của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao thì sau khi lấy ý kiến của Tổng thư ký Hội đồng Nhà nước,
Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội và Hội đồng nhà nước trình ra phiên họp để
Hội đồng Nhà nước xét và quyết định (Điều 3).
Trước những yêu cầu cấp thiết của việc ban hành một văn bản ở cấp độ
bộ luật điều chỉnh các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự đã được ban hành lần đầu tiên năm 1988. Trong Bộ
luật tố tụng hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được Quốc hội thông qua ngày 28/06/1988, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-
1989. đã được sửa đổi, bổ sung ba lần vào các năm: 1990, 1992, 2000, (sau
đây gọi tắt là Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988), việc thi hành hình phạt tử
hình được quy định tại chương XXV.
Thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành được quy định
cụ thể tại Điều 228 với những nội dung cụ thể như sau:
Thứ nhất, về việc kiểm tra lại bản án tử hình. Khoản 1 Điều 228 Bộ luật
quy định:
Sau khi bản án tử hình có hiệu lực pháp luật, hồ sơ vụ án phải
được gửi ngay lên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và bản sao bản
án được gửi ngay lên Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Trong thời gian hai tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án
và bản sao bản án, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định kháng nghị
hoặc không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.[43]
So sánh với các văn bản quy định về thi hành hình phạt tử hình trước
đây, quy định trên đã bãi bỏ chế độ duyệt án tử hình được quy định trong Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 và bổ sung quy định về trình tự giám đốc
22
thẩm hoặc tái thẩm của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Thứ hai, về thủ tục gửi đơn xin ân giảm. Khoản 1 Điều 228 Bộ luật quy
định: "Trong thời hạn bảy ngày kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người
bị kết án được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước". So sánh với quy định
về thủ tục gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước được quy định tại Thông tư
số 335/TTg ngày 6-7-1954 của Thủ tướng phủ, thì thời hạn được quy định rõ
ràng, cụ thể hơn.
Thứ ba, về điều kiện thi hành bản án tử hình. Khoản 2 Điều 228 Bộ luật
quy định:
Bản án tử hình được thi hành, nếu không có kháng nghị của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hoặc của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Trong
trường hợp người bị kết án xin ân giảm án tử hình thì bản án tử hình
được thi hành sau khi Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm.[43]
Thủ tục thi hành hình phạt tử hình được quy định tại Điều 229 Bộ luật
tố tụng hình sự năm 1988 với những nội dung cụ thể sau:
Một là, về việc ra quyết định thi hành án và thành lập Hội đồng thi
hành án tử hình. Khoản 1 Điều 229 Bộ luật quy định:
Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án và
thành lập Hội đồng thi hành án.
Hội đồng thi hành án gồm đại diện Tòa án, Viện Kiểm sát và
Công an. Hội đồng thi hành án phải kiểm tra căn cước của người bị
kết án trước khi thi hành.[43]
So với quy định về việc thành lập Hội đồng thi hành án trong Chỉ thị số
138-KC1, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã trao thẩm quyền thành lập Hội
đồng thi hành án từ cơ quan Công an sang Tòa án và không quy định bác sĩ
pháp y là thành phần bắt buộc của Hội đồng.
23
Trong trường hợp người bị kết án là phụ nữ thì trước khi ra quyết định
thi hành án, Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm phải tổ chức kiểm tra các điều
kiện không áp dụng hình phạt tử hình được quy định tại Điều 35 Bộ luật hình
sự năm 1985. Đây có thể nói là bước tiến bộ về kỹ thuật lập pháp tố tụng hình
sự, thể hiện truyền thống nhân đạo, nhân văn và tôn trọng quyền con người,
tôn trọng phụ nữ của dân tộc ta.
Hai là, về thủ tục trước khi thi hành án.
Khoản 2 Điều 229 Bộ luật quy định:
Trước khi thi hành án, phải giao cho người bị kết án đọc
quyết định thi hành án, quyết định không kháng nghị của Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao và nếu người bị kết án đã có đơn xin ân giảm án tử hình thì
giao cho họ đọc bản sao quyết định của Chủ tịch nước bác đơn xin
ân giảm.[43]
So với quy định tương ứng trong các văn bản trước đây, quy định là
một bước tiến về kỹ thuật lập pháp tố tụng hình sự theo hướng bảo đảm dân
chủ và chặt chẽ hơn. Việc tống đạt cho phạm nhân (đọc cho phạm nhân)
quyết định của Hội đồng toàn thể thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao duyệt
án tử hình và quyết định bác đơn xin ân giảm của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội đã được thay thế bằng việc giao cho phạm nhân tự đọc quyết định thi hành
án, quyết định không kháng nghị và bản sao quyết định của Chủ tịch nước bác
đơn xin ân giảm.
Ba là, về hình thức thi hành hình phạt tử hình.
Tương tự như quy định tại Thông tư số 498 ngày 31-6-1946 của Bộ Tư
pháp, khoản 3 Điều 229 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định: "Hình
phạt tử hình được thi hành bằng xử bắn".
Bốn là, về các trường hợp hoãn thi hành án tử hình.
24
Khoản 5 Điều 229 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định: "Trong
trường hợp có tình tiết đặc biệt, Hội đồng thi hành án hoãn thi hành và báo
cáo Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án để báo cáo Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao"[43]. Tuy nhiên, Bộ luật đã không đưa ra khái niệm thế
nào là trường hợp có tình tiết đặc biệt và trên thực tế, các cơ quan có trách
nhiệm thi hành án tử hình vẫn áp dụng ba trường hợp được hoãn thi hành án tử
hình được quy định tại Chỉ thị số 138-KC1 ngày 13-2-1974 của Bộ Công an.
1.3. THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC
Tử hình là một trong những hình phạt lâu đời nhất trong lịch sử tồn tại
và phát triển của loài người, cho nên các nước trên thế giới còn duy trì hình
phạt tử hình, đều quy định rất cụ thể về trình tự, thủ tục thi hành hình phạt
này. Nghiên cứu những quy định về thi hành hình phạt tử hình trong pháp luật
tố tụng hình sự của Liên bang Nga, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Vương
quốc Nhật Bản... cho thấy, các nước quy định rất khác nhau về vấn đề này.
Về hình thức thi hành hình phạt tử hình, pháp luật tố tụng hình sự nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho phép lựa chọn các hình thức khác nhau,
nhưng phổ biến là hình thức xử bắn và tiêm thuốc độc. Điều 344 Giải thích
của Tòa án nhân dân tối cao về một số vấn đề chấp hành luật tố tụng hình sự
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngày 8-9-1998 quy định:
Việc tử hình được thi hành bằng cách xử bắn hoặc tiêm thuốc.
Nếu chọn phương pháp tiêm thuốc để thi hành án tử hình, thì
phải thi hành tại nơi chỉ định hoặc trong trại giam. Trình tự cụ thể,
phải dựa theo các quy định của pháp luật.
Nếu chọn các phương pháp khác, ngoài xử bắn, tiêm thuốc
ra, để thi hành án tử hình thì trước đó phải báo cáo xin Tòa án nhân
dân tối cao phê chuẩn.[10]
25
Khác với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, ở Vương quốc Nhật Bản, hình
thức thi hành hình phạt tử hình được quy định tại Điều 11 Bộ luật hình sự:
1. Hình phạt tử hình được thi hành bằng cách treo cổ người bị
kết án tại nhà tù;
2. Người bị kết án tử hình được giam giữ ở nhà tù cho đến
khi hình phạt được thi hành.[68]
Tương tự như Vương quốc Nhật Bản, ở Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào, hình thức thi hành hình phạt tử hình cũng được quy định tại Bộ luật hình
sự. Điều 30 Bộ luật quy định: "Tử hình được thực hiện bằng cách bắn".[8]
Nếu như các nước nói trên không quy định việc thi hành hình phạt tử
hình được tiến hành công khai hay không, thì Điều 186 Bộ luật thi hành án
hình sự Liên bang Nga quy định cụ thể: "Tử hình được thi hành bằng cách xử
bắn không công khai".[63]
Về trình tự gửi đơn xin ân giảm và xét đơn xin ân giảm, giống như
pháp luật tố tụng hình sự nước ta, pháp luật thi hành án hình sự Liên bang
Nga không quy định thời hạn xét đơn xin ân giảm của Tổng thống. Khoản 2
Điều 184 Bộ luật thi hành án hình sự Liên bang Nga quy định: "Trường hợp
người bị kết án tử hình gửi đơn xin ân giảm, bản án tử hình phải hoãn thi hành
cho đến khi có quyết định của Tổng thống Liên bang Nga".
Về việc ra quyết định thi hành hình phạt tử hình, khác với quy định
của pháp luật tố tụng hình sự nước ta, Điều 475 Bộ luật tố tụng hình sự
Nhật Bản quy định:
1. Hình phạt tử hình được thi hành theo lệnh của Bộ trưởng
Bộ Tư pháp
2. Lệnh nói tại khoản 1 trên đây được ban hành trong sáu tháng
kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Tuy vậy, trong trường hợp có
yêu cầu phục hồi quyền kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm hoặc yêu
26
cầu tái thẩm hoặc giám đốc thẩm hoặc có đơn hay đề nghị xin ân xá,
thì thời hạn để kết thúc thủ tục đó và thời hạn bản án được tuyên đối
với các bị cáo sẽ không được tính vào thời hạn nói trên.[68]
Trong Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa,
việc ra quyết định thi hành hình phạt tử hình được quy định tại Điều 153:
"Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ký lệnh thi hành ngay những bản án tử
hình do Tòa án nhân dân tối cao xét xử và phê chuẩn".[10]
Về cơ quan được giao nhiệm vụ thi hành hình phạt tử hình, Điều 154 Bộ
luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: "Tòa án nhân dân
cấp dưới phải thi hành án tử hình nội trong bảy ngày kể từ khi nhận được lệnh
của Tòa án nhân dân tối cao"[10]. Điều 155 quy định: "Trước khi thi hành án
tử hình, Tòa án nhân dân phải báo để Viện Kiểm sát nhân dân ngang cấp cử
nhân viên đến giám sát việc thi hành"[10]. Khác với quy định này, trong Bộ
luật tố tụng hình sự Vương quốc Nhật Bản, việc thi hành hình phạt tử hình
được giao cho Viện Công tố. Điều 472 Bộ luật này quy định: "Việc thi hành án
do công tố viên của Viện Công tố tương ứng với Tòa án đã ra bản án đó chỉ
đạo"[68]; "Hình phạt tử hình sẽ được thi hành với sự có mặt của công tố viên,
sĩ quan trợ lý công tố viên, giám thị trại giam hoặc đại diện của giám thị"[68].
Tương tự như quy định này, Điều 186 Bộ luật thi hành án hình sự Liên bang
Nga quy định: "Hình phạt tử hình được thi hành với sự có mặt của công tố
viên, đại diện trại giam nơi thi hành hình phạt tử hình và bác sĩ".[63]
Về thủ tục lập biên bản việc thi hành hình phạt tử hình, Điều 154 Bộ
luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định:
Sau khi thi hành xong án tử hình, thư ký phải ghi thành biên bản ngay
tại pháp trường, Tòa án nhân dân có thẩm quyền thi hành án tử hình phải báo
cáo tình hình thi hành án lên Tòa án nhân dân tối cao.
Sau khi thi hành xong án tử hình, Tòa án nhân dân có thẩm quyền thi
hành án tử hình phải báo cho gia đình phạm nhân biết.[10]
27
Điều 478 Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản quy định: "Sĩ quan trợ lý
công tố viên tham gia thi hành án tử hình sẽ lập biên bản thi hành án. biên
bản đó sẽ do sĩ quan trợ lý công tố viên ký và đóng dấu cùng với chữ ký của
công tố viên và giám thị trại giam hoặc đại diện của giám thị trại giam".[68]
Về vấn đề thi thể người bị kết án, pháp luật các nước quy định khác
nhau. Có nước không cho phép thân nhân nhận thi thể người bị kết án về
chôn cất như Điều 186 Bộ luật thi hành án hình sự Liên bang Nga quy định:
"Chính quyền cơ quan nơi thi hành án tử hình có trách nhiệm thông báo về
việc thi hành án cho Tòa án đã ra bản án tử hình và thân nhân người bị kết
án. Thi thể người bị kết án không được trao trả và nơi chôn cất của người đó
cũng không được thông báo"[63]; có nước lại cho phép thân nhân đem thi thể
người bị kết án về chôn cất như Điều 347 Giải thích của Tòa án nhân dân tối
cao về một số vấn đề chấp hành luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa ngày 8-9-1998 quy định:
Sau khi thi hành án tử hình, Tòa án nhân dân chịu trách nhiệm thi hành
án, cần làm các việc sau: “Thông báo cho gia đình tội phạm trong thời hạn
nhất định tới nhận thi thể tội phạm, nếu có điều kiện hỏa táng, thì thông báo
tới nhận hài cốt. Nếu quá hạn không tới lấy, thì Tòa án thông báo cho đơn vị
hữu quan xử lý”.[10]
Về các trường hợp hoãn thi hành hình phạt tử hình, pháp luật các nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Vương quốc Nhật Bản, Liên bang Nga đều rất
quy định cụ thể. Điều 341 Giải thích của Tòa án nhân dân tối cao về một số
chấp hành luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngày
8-9-1998 quy định:
Tòa án nhân dân cấp dưới sau khi nhận lệnh thi hành án tử hình, nếu
phát hiện có một trong những tình tiết sau đây, phải ngừng việc thi hành và
lập tức báo cáo với Tòa án nhân dân đã phê chuẩn tử hình, để Tòa án nhân
dân phê chuẩn tử hình ra quyết định:
28
1. Trước khi thi hành, phát hiện việc phán quyết có khả năng
mắc sai lầm;
2. Trước khi thi hành, tội phạm khai báo sự thật quan trọng
hoặc có biểu hiện lập công lớn khác, có thể cần thay đổi phán quyết;
3. Tội phạm đang mang thai.[10]
Các trường hợp hoãn thi hành hình phạt tử hình được quy định tại
Điều 479 Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản:
1. Nếu người bị kết án tử hình đang ở trong tình trạng rối
loạn thần kinh thì việc thi hành án sẽ được hoãn theo lệnh của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp.
2. Nếu phụ nữ bị kết án tử hình đang có thai thì việc thi hành
án sẽ được hoãn theo lệnh của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
3. Khi việc thi hành án tử hình đã được hoãn theo quy định
tại khoản 1 và 2 trên đây thì hình phạt tử hình sẽ không được thi
hành trừ phi có lệnh của Bộ trưởng Bộ Tư pháp được ra sau khi hồi
phục tình trạng rối loạn thần kinh hoặc sau khi sinh con.
4. Quy định của khoản 2 Điều 475 được áp dụng với những
thay đổi tương ứng, đối với lệnh nói tại khoản 3 trên đây. Trong
trường hợp này, "ngày bản án có hiệu lực pháp luật" nói trong điều
này có nghĩa là "ngày hồi phục tình trạng rối loạn thần kinh hoặc
ngày sau khi sinh con.[68]
Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự các nước nói trên về các
trường hợp hoãn thi hành hình phạt tử hình là những tài liệu tham khảo có giá
trị cho việc nghiên cứu, hoàn thiện chế định thi hành hình phạt tử hình trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam.
29
Chương 2
NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
2.1.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
các cơ quan có nhiệm vụ thi hành hình phạt tử hình
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án
hình sự hiện hành, ở nước ta không có cơ quan chuyên trách thi hành hình
phạt tử hình, mà nhiệm vụ này được giao cho ba cơ quan, đó là Tòa án nhân
dân, Viện Kiểm sát nhân dân và tổ chức thi hành án hình sự
* Tòa án nhân dân
Tòa án là cơ quan có thẩm quyền xét xử và tuyên án tử hình đối với
người bị phạm tội (Tòa án cấp tỉnh trở lên). Trong việc thi hành hình phạt tử
hình, Tòa án giữ một vai trò hết sức quan trọng. Điều 20 Luật Thi hành án
hình sự quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân trong thi hành án
hình sự. Theo đó, Tòa án nhân dân có quyền ra quyết định thi hành án; quyết
định thành lập Hội đồng thi hành án tử hình và xem xét, giải quyết việc cho
nhận tử thi của người chấp hành án tử hình.
Quy định cụ thể Điều 20 này, Điều 54 Luật Thi hành án hình sự năm 2010
quy định về thủ tục ra quyết định thi hành án tử hình của Tòa án nhân dân đã xét
xử sơ thẩm mà có tuyên án tử hình như sau: “Chánh án Tòa án đã xét xử sơ
thẩm ra quyết định thi hành án tử hình. Quyết định phải ghi rõ ngày, tháng, năm
ra quyết định, họ tên, chức vụ của người ra quyết định; bản án, quyết định được
thi hành; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người bị kết án.”[47]
30
Đồng thời Luật thi hành án hình sự năm 2010 cũng quy định về quyền
hạn thành lập Hội đồng thi hành án tử hình của Tòa án nhân dân. Theo Điều
55 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định:
Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày ra quyết định thi hành án,
Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án phải ra quyết định
thành lập Hội đồng thi hành án tử hình do Chánh án hoặc Phó
Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án làm Chủ tịch Hội
đồng thi hành án tử hình. Quyết định thành lập Hội đồng thi hành
án tử hình phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định, họ tên, chức
vụ của người ra quyết định; căn cứ ra quyết định; họ tên, chức vụ
của người tham gia Hội đồng.[47]
Như vậy, quy định trên của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 đã có sự
thay đổi so với quy định của BLTTHS năm 2003 về Hội đồng thi hành án tử
hình. Theo Điều 259 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: "Chánh án
Tòa án đã xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án và thành lập Hội đồng thi hành
án tử hình gồm đại diện Tòa án, Viện Kiểm sát và Công an". Trong Hội đồng
thi hành án, Chánh án hoặc Phó Chánh án hoặc Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh làm
Chủ tịch Hội đồng, có chức năng chỉ đạo quá trình thi hành án tử hình.
Sau khi Hội đồng thi hành án được thành lập, Chủ tịch Hội đồng thi
hành án phải chủ trì công tác chuẩn bị như mời đại diện của các cơ quan là
thành viên Hội đồng thi hành án đến họp bàn về kế hoạch, mời bác sĩ giám
định pháp y và cử một cán bộ Tòa án làm thư ký Hội đồng thi hành án.
Ngoài ra theo quy định của Điều 258 BLTTHS năm 2003 thì Tòa án
còn có một vai trò quan trọng nữa trong việc thi hành hình phạt tử hình đó
chính là vai trò của Chánh án Tòa án nhân dân tối cáo trong việc xem xét bản
án tử hình trước khi đưa ra thi hành. Theo đó, Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao có quyền quyết định kháng nghị hoặc quyết định không kháng nghị giám
31
đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án tử hình. Và bản án tử hình được thi
hành, nếu Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
* Viện Kiểm sát
Viện Kiểm sát có nhiệm vụ thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong toàn bộ hoạt động thi hành hình phạt tử hình, từ kiểm sát nội dung quyết
định thi hành bản án tử hình, thành phần Hội đồng thi hành án, kiểm sát việc
thực hiện các thủ tục về thi hành án tử hình trong suốt quá trình từ khi tiến hành
đến khi kết thúc việc thi hành án nhằm bảo đảm theo đúng quy định tại Điều
258, 259 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Viện Kiểm sát phải cử Viện trưởng
hoặc Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
tham gia Hội đồng thi hành án tử hình. Trong Hội đồng thi hành án tử hình, đại
diện Viện Kiểm sát phải thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm:
- Bảo đảm việc kiểm tra căn cước của người bị kết án trước khi thi hành án.
- Nếu người bị kết án là phụ nữ thì phải bảo đảm việc kiểm tra các tài
liệu liên quan đến điều kiện không thi hành hình phạt tử hình được quy định
tại Điều 35 Bộ luật hình sự năm 1999.
- Bảo đảm cho người bị kết án trước khi thi hành án được đọc các quyết
định: quyết định thi hành án, quyết định không kháng nghị của Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao và quyết định không kháng nghị của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; bản sao quyết định của Chủ tịch nước bác đơn xin
ân giảm (nếu người bị kết án có đơn xin ân giảm án tử hình).
- Bảo đảm thực hiện quyền của người bị kết án được viết thư và gửi đồ
vật cho thân nhân (nếu có).
- Bảo đảm việc thi hành hình phạt tử hình được thực hiện bằng hình
thức xử bắn.
- Bảo đảm biên bản thi hành hình phạt tử hình phải phản ánh đúng, đầy
đủ hoạt động thi hành án tử hình theo quy định của pháp luật.
32
- Bảo đảm quyết định hoãn thi hành án tử hình của Hội đồng thi hành
án (nếu có) có căn cứ đúng pháp luật.
Sau khi kiểm sát thi hành hình phạt tử hình, Viện Kiểm sát thực hiện
công tác kiểm sát đó có trách nhiệm báo cáo kết quả thi hành hình phạt tử
hình cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đồng thời lập hồ sơ kiểm sát thi
hành hình phạt tử hình gồm đầy đủ các tài liệu liên quan đến việc thi hành án
tử hình để lưu trữ.
* Cơ quan thi hành án hình sự
Theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 thì tổ chức hệ
thống cơ quan thi hành án hình sự bao gồm:
- Cơ quan quản lý thi hành án hình sự gồm: Cơ quan quản lý thi hành
án hình sự thuộc Bộ Công an; Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ
Quốc phòng.
- Cơ quan thi hành án hình sự: Trại giam thuộc Bộ Công an, trại giam
thuộc Bộ Quốc phòng, trại giam thuộc quân khu; Cơ quan thi hành án hình sự
Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Cơ quan thi hành án hình sự
Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Cơ quan thi hành án hình
sự quân khu và tương đương.
- Cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự: Trại tạm
giam thuộc Bộ Công an, trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại tạm giam
thuộc Công an cấp tỉnh, trại tạm giam cấp quân khu; Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn; Đơn vị quân đội cấp trung đoàn và tương đương.
Theo quy định của Luật thi hành án hình sự năm 2010 và Thông tư liên
tịch số 05/2013/TTLT-BCA-BQP- BYT-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn tổ
chức thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc thì Đại diện Cơ quan
thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh hoặc đại diện Cơ quan thi hành án hình
sự cấp quân khu tham gia Hội đồng thi hành án tử hình là Thủ trưởng hoặc
33
Phó Thủ trưởng Cơ quan thi hành án hình sự. Như vậy, khác với quy định
trước kia của BLTTHS năm 2003 thì người tham gia Hội đồng thi hành án tử
hình là Giám đốc hoặc Phó giám đốc công an tỉnh, thành phố (thường là Phó
giám đốc phụ trách Cảnh sát) thì hiện nay theo quy định của Luật thi hành án
tử hình và các văn bản hướng dẫn thi hành thì vấn đề này được giao cho Thủ
trưởng, hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh
(Phòng cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp) hoặc Cơ quan thi hành
án hình sự cấp quân khu. Quy định như trên là một tiến bộ trong việc phân
công cụ thể nhiệm vụ cho các chủ thể có thẩm quyền tiến hành hoạt động thi
hành án hình sự, nhằm tránh tình trạng tất cả các vấn đề liên quan đến công
việc cụ thể thủ trưởng Công an tỉnh đều phải giải quyết.
Đồng thời cũng theo quy định của Điều 59 Luật Thi hành án hình sự
năm 2010 thì còn thể hiện cụ thể vai trò của các đơn vị thuộc lực lượng thi
hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp như: Căn cứ quyết định thi hành án tử hình
và yêu cầu của Chủ tịch Hội đồng thi hành án tử hình, Cảnh sát hỗ trợ tư pháp
hoặc Cảnh vệ tư pháp thực hiện áp giải người chấp hành án đến nơi làm việc
của Hội đồng thi hành án tử hình; Thực hiện yêu cầu của Hội đồng thi hành
án tử hình, cán bộ chuyên môn thuộc Công an nhân dân hoặc Quân đội nhân
dân tiến hành lăn tay, kiểm tra danh bản, chỉ bản, đối chiếu với hồ sơ, tài liệu
có liên quan; chụp ảnh, ghi hình quá trình làm thủ tục lăn tay, kiểm tra và lập
biên bản; báo cáo Hội đồng thi hành án tử hình về kết quả kiểm tra; Cơ quan
thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân
khu có trách nhiệm bảo quản tử thi, tổ chức mai táng, vẽ sơ đồ mộ người đã bị
thi hành án. Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi thi hành án có nhiệm vụ phối hợp với
cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp
quân khu trong việc mai táng và quản lý mộ của người đã bị thi hành án...
Như vậy, vai trò của Cơ quan thi hành án hình sự trong việc thi hành
34
hình phạt tử hình đó chính là vai trò hỗ trợ cho Hội đồng thi hành án tử hình
trong các vấn đề có liên quan đến quá trình thi hành án. Đây cũng là một chủ
thể có vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện các quy định của pháp
luật về thi hành hình phạt tử hình.
2.1.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
trình tự, thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành
Theo quy định chung, bản án và quyết định của Tòa án khi đã có hiệu
lực pháp luật thì Tòa án sẽ ra quyết định thi hành, nhưng đối với bản án tử
hình, pháp luật tố tụng hình sự quy định thêm thủ tục xem xét bản án tử hình
trước khi đưa ra thi hành. Đây là yêu cầu bắt buộc của pháp luật tố tụng hình
sự đối với các cơ quan tư pháp có thẩm quyền liên quan đến việc thi hành án
tử hình. Quy định này cũng góp phần vào việc đảm bảo quyền con người của
người bị kết án, và cũng là một yêu cầu mang tính bắt buộc xuất phát từ tính
đặc thù của hình phạt tử hình - là hình phạt không thể khắc phục được nếu
gặp phải sai lầm trong quá trình áp dụng và thi hành án.
Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh trở
lên có thẩm quyền xét xử và tuyên án tử hình đối với người phạm tội. Nếu
không có kháng cáo, kháng nghị thì bản án có hiệu lực pháp luật. Nếu có
kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử theo thủ tục phúc thẩm và
khi Tòa phúc thẩm quyết định, bản án có hiệu lực thi hành ngay. Điều 72
Hiến pháp năm 1992 đã quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình
phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật...” Như
vậy, muốn đem bản án tử hình ra xem xét để đưa ra thi hành, thì trước hết đó
phải là bản án tử hình đã có hiệu lực pháp luật.
Thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành trải qua
các bước sau:
- Kiểm tra lại bản án tử hình
35
Việc kiểm tra lại bản án tử hình được quy định tại khoản 1 Điều 258 Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003. Theo đó:
Sau khi bản án tử hình có hiệu lực pháp luật, hồ sơ vụ án phải
được gửi ngay lên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và bản án
được gửi ngay lên Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Trong thời hạn hai tháng, kể từ ngày nhận được bản án và hồ
sơ vụ án, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định kháng nghị hoặc quyết
định không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật,
người bị kết án được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước.[46]
Là hình phạt đặc biệt, nên hình phạt tử hình không chỉ mang tính chất
đặc biệt khi Tòa án áp dụng, mà việc thi hành nó cũng phải tuân theo những
trình tự, thủ tục đặc biệt. Sau khi bản án tử hình có hiệu lực pháp luật, Tòa án
đã ra bản án có hiệu lực pháp luật phải gửi hồ sơ vụ án lên Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao và gửi bản sao bản án lên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao để xác định việc xét xử có chính xác hay không và có căn cứ để
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm hay không. Quy định
của Điều 258 đã xác định cụ thể trách nhiệm cá nhân của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đồng thời
bảo đảm quyền lợi cho người bị kết án. Đây là thủ tục bắt buộc và được xem
như là bước đầu tiên trong thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi
hành - bước kiểm tra lại bản án tử hình.
Đối với bản án có hiệu lực pháp luật, Điều 278 và Điều 295 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 quy định thời hạn kháng nghị theo hướng có lợi cho
người bị kết án là một năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm) hoặc một năm kể từ ngày nhận được tin báo
36
về tình tiết mới được phát hiện (kháng nghị theo thủ tục tái thẩm); còn kháng
nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án thì không hạn chế về thời gian và
được tiến hành trong cả trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan
cho họ. Đối với bản án tử hình, không thể thi hành xong hình phạt tử hình, rồi
sau đó mới phát hiện sai lầm, cho nên, trong thời hạn hai tháng kể từ ngày
nhận được bản án và hồ sơ vụ án, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định kháng nghị hoặc
không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Việc ra một
trong các quyết định này của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao là bắt buộc, không phụ thuộc vào việc
người bị kết án có gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước hay không. Nếu
người bị kết án đã gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước, nhưng Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
thấy việc xét xử không chính xác, thì vẫn có quyền kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Sau khi đã có kháng nghị, Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phải báo
cáo Chủ tịch nước biết về việc bản án tử hình đã bị kháng nghị.
- Thủ tục gửi đơn và giải quyết đơn xin ân giảm lên chủ tịch nước
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì ngoài bước
kiểm tra lại bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành xem có cần kháng nghị
hay không thì còn một bước nữa trong quá trình trước khi đưa bản án tử hình
ra thi hành đó là bước người bị tuyên án tử hình được quyền gửi đơn xin ân
giảm án tử hình lên Chủ tịch nước và Chủ tịch nước sẽ xem xét đơn xin ân
giảm này. Theo khoản 1 Điều 258 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định:
“Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết
án được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước”.[46]
Trong trường hợp người bị kết án làm đơn xin ân giảm án tử hình thì
37
theo quy định tại khoản 4 Điều 25 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002:
"Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước ý kiến của mình về
những trường hợp người bị kết án xin ân giảm án tử hình" và quy định tại
khoản 6 Điều 27 Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2002: "Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân trình Chủ tịch nước ý kiến của mình về những
trường hợp người bị kết án xin ân giảm án tử hình". Theo quy định, trường
hợp người bị kết án gửi đơn xin ân giảm tử hình thì Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải trình tờ trình
về ý kiến của mình lên Chủ tịch nước về hình phạt tử hình đối với người bị
kết án, sau đó chuyển hồ sơ cùng vụ án cùng đơn xin ân giảm của người bị kết
án lên Văn phòng Chủ tịch nước để trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định.
Để đảm bảo việc xét đơn xin ân giảm được nhanh chóng và hiệu quả,
ngày 5/9/2003, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước có quyết định 60-QĐ-
VP-PL ban hành Quy chế xử lý hồ sơ xin ân giảm hình phạt tử hình ở cơ quan
văn phòng Chủ tịch nước. Theo đó thời gian giải quyết đối với mỗi hồ sơ vụ
án tại cơ quan Văn phòng Chủ tịch nước trung bình là 45 ngày kể từ ngày hồ
sơ đến Văn phòng chủ tịch nước. Những trường hợp đặc biệt do Chủ tịch
nước quyết định. Quy chê này cũng quy định về trình tự thủ tục xử lý hồ sơ
vụ án tại Văn phòng Chủ tịch nước. Cùng với quy chế nêu trên, ngày
30/10/2003, Văn phòng Chủ tịch nước và Tòa án nhân dân tối cao đã ban
hành Quy chế số 72-QC-LT về phối hợp công tác giữa hai cơ quan này. Tại
mục V của Quy chế 72 quy định việc xét đơn xin ân giảm hình phạt tử hình,
về trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp giữa Văn phòng Chủ tịch nước và
Tòa án nhân dân tối cao trong việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết hồ sơ xin ân
giảm hình phạt tử hình. Những trường hợp đơn xin ân giảm mà có nội dung
kêu oan thì Văn phòng Chủ tịch nước trả hồ sơ về cho Tòa án nhân dân tối
cao giải quyết. Đối với những trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ hoặc Văn phòng
38
Chủ tịch nước có yêu cầu báo cáo bổ sung thì Tòa án nhân dân có trách nhiệm
xác minh, bổ sung tài liệu trong thời hạn không quá 30 ngày. Trường hợp mà
Chủ tịch nước chấp nhận đơn xin ân giảm của người bị kết án tử hình thì hình
phạt tử hình được chuyển xuống thanh tù chung thân. Hai quy chế này đã
khắc phục được những vướng mắc trong trình tự xét đơn xin ân giảm án tử
hình mà Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 chưa quy định cụ thể.
Quy định cụ thể về hồ sơ, trình tự, thủ tục xem xét ân giảm án tử hình,
điểm 8 khoản 3 Điều 2 Quyết định số 207-QĐ/CTN ngày 6-7-1994 của Chủ
tịch nước về chức năng nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức của Văn phòng Chủ
tịch nước quy định: "Văn phòng Chủ tịch nước có nhiệm vụ, quyền hạn về đặc
xá". Theo Thông báo số 10-TB/VP-PL ngày 25-3-1999 của Văn phòng Chủ
tịch nước, hồ sơ trình Chủ tịch nước xét đơn xin ân giảm của người bị kết án
bao gồm: đơn xin ân giảm của người bị kết án viết trong thời hạn quy định
(bảy ngày kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật) hoặc đơn quá hạn có lý do
chính đáng (Đơn xin ân giảm phải là bản chính, có chữ ký hoặc điểm chỉ của
người bị kết án, trường hợp đơn xin ân giảm do người khác viết hộ hoặc phiên
dịch, thì cũng phải có chữ ký, ghi rõ họ, tên của những người đó. Đơn xin ân
giảm phải có xác nhận của đơn vị giam giữ người bị kết án); Tờ trình của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Tờ trình của Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao; quyết định không kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao; quyết định không kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao; các bản án sơ thẩm, phúc thẩm; đơn xin ân giảm cho người
bị kết án của các tổ chức xã hộ, nhân dân, chính quyền địa phương hoặc của
những người thân thích như bố, mẹ, anh chị em ruột của người bị kết án (nếu
có); biên bản khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của người bị kết án gây
ra như đền bù vật chất cho người bị hại (nếu có); giấy tờ, tài liệu khác có liên
quan đến việc xem xét đơn xin ân giảm của người bị kết án như giấy chứng
nhận gia đình có công với cách mạng, Huân chương, Huy chương...
39
Đối với những trường hợp người bị kết án không gửi đơn xin ân giảm
lên Chủ tịch nước, Công văn số 127/KHXX ngày 9-1-1997 của Tòa án nhân
dân tối cao về thi hành hình phạt tử hình đã hướng dẫn:
Sau khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự xong mà trong đó có người bị xử
tử hình nhưng hết thời hạn kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm không nhận được
đơn kháng cáo và cũng không nhận được đơn xin ân giảm án tử hình, thì Tòa
án cấp sơ thẩm cần phối hợp với trại tạm giam nơi đang giam giữ người bị
phạt tử hình để xác minh xem người bị xử phạt tử hình có làm đơn kháng cáo
hoặc có làm đơn xin ân giảm án tử hình hay không. Cần phải lập biên bản về
kết quả xác minh này. Biên bản phải có chữ ký của cán bộ Tòa án, cán bộ trại
tạm giam và người bị xử phạt tử hình...
Nếu kết quả xác minh cho thấy người bị xử phạt tử hình không làm đơn
kháng cáo mà có làm đơn xin ân giảm, nhưng bị thất lạc, nay muốn làm đơn
xin ân giảm án tử hình, thì cho người bị xử phạt tử hình viết đơn xin ân giảm
án tử hình. Biên bản xác minh đơn xin ân giảm án tử hình và hồ sơ vụ án phải
được gửi ngay cho Ban thư ký Tòa án nhân dân tối cao.
Nếu kết quả xác minh cho thấy người bị xử phạt tử hình không làm đơn
kháng cáo và không làm đơn xin ân giảm án tử hình, thì trong biên bản phải
ghi rõ việc người bị xử phạt tử hình không có kháng cáo và không làm đơn
xin ân giảm án tử hình. Biên bản xác minh cùng hồ sơ vụ án phải gửi ngay
cho Ban thư ký Tòa án nhân tối cao.[58]
Quy định hướng dẫn cụ thể trên đây đã được áp dụng trong thời gian dài,
và đã có những ý nghĩa nhất định trong việc đảm bảo quyền lợi của người bị
kết án tử hình trong thời gian chờ thi hành án. Sau một thời gian dài áp dụng,
nhằm đảm bảo triệt để quyền lợi của người bị kết án, cũng như tránh trường
hợp tử hình oan, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành
Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 hướng dẫn thi hành một số
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot

More Related Content

What's hot

Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sựTé Lầu
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...OnTimeVitThu
 
BÀI MẪU Báo cáo thực tập ĐỊNH HƯỚNG nghề nghiệp ngành luật tại công ty luật -...
BÀI MẪU Báo cáo thực tập ĐỊNH HƯỚNG nghề nghiệp ngành luật tại công ty luật -...BÀI MẪU Báo cáo thực tập ĐỊNH HƯỚNG nghề nghiệp ngành luật tại công ty luật -...
BÀI MẪU Báo cáo thực tập ĐỊNH HƯỚNG nghề nghiệp ngành luật tại công ty luật -...Viết thuê báo cáo thực tập giá rẻ
 
Bãi bỏ án tử hình nên hay không
Bãi bỏ án tử hình nên hay khôngBãi bỏ án tử hình nên hay không
Bãi bỏ án tử hình nên hay khôngPham Van van Dinh
 

What's hot (20)

So sánh quy định về hình phạt của pháp luật Việt Nam và Pháp
So sánh quy định về hình phạt của pháp luật Việt Nam và PhápSo sánh quy định về hình phạt của pháp luật Việt Nam và Pháp
So sánh quy định về hình phạt của pháp luật Việt Nam và Pháp
 
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOTBiện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
 
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễnLuận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sựLuận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
 
Luận văn: Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật
Luận văn: Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luậtLuận văn: Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật
Luận văn: Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sự
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ động vật rừng nguy cấp, quý hiếm
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ động vật rừng nguy cấp, quý hiếmLuận văn: Pháp luật về bảo vệ động vật rừng nguy cấp, quý hiếm
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ động vật rừng nguy cấp, quý hiếm
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
 
Đề tài: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản
Đề tài: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sảnĐề tài: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản
Đề tài: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản
 
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sựLuận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
 
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt NamLuận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
 
Luận văn: Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
BÀI MẪU Báo cáo thực tập ĐỊNH HƯỚNG nghề nghiệp ngành luật tại công ty luật -...
BÀI MẪU Báo cáo thực tập ĐỊNH HƯỚNG nghề nghiệp ngành luật tại công ty luật -...BÀI MẪU Báo cáo thực tập ĐỊNH HƯỚNG nghề nghiệp ngành luật tại công ty luật -...
BÀI MẪU Báo cáo thực tập ĐỊNH HƯỚNG nghề nghiệp ngành luật tại công ty luật -...
 
Bãi bỏ án tử hình nên hay không
Bãi bỏ án tử hình nên hay khôngBãi bỏ án tử hình nên hay không
Bãi bỏ án tử hình nên hay không
 
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 

Similar to luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot

Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

Similar to luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot (20)

Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAYLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
 
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt NamLuận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
 
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đLuận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
 
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
 
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAYThực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
 
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAYĐề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
 
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đLuận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
 
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOTLuận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
 
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
 
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sự
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sựLuận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sự
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sự
 
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAMTỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
 
TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật về đặc xá ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Áp dụng pháp luật về đặc xá ở Việt Nam, HAYLuận văn: Áp dụng pháp luật về đặc xá ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Áp dụng pháp luật về đặc xá ở Việt Nam, HAY
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đLuận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
 
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCM
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCMLuận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCM
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Gò Vấp, Tp HCM
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 

Recently uploaded (20)

GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 

luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM VĂN TOÀN MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH Chuyên ngành: Luâ ̣t hình sựvà tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Phạm Văn Toàn
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.......................................................................................... 7 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH .......................................................... 7 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành hình phạt tử hình........................ 7 1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của việc thi hành hình phạt tử hình......................13 1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ CÁC QUY ĐỊNH VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH Ở VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945 ĐẾN TRƯỚC KHI CÓ BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003............................................................15 1.3. THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC...............................................................24 Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ........................29 2.1. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH .....................................................................................29 2.1.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về các cơ quan có nhiệm vụ thi hành hình phạt tử hình................................29 2.1.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về trình tự, thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành.............34
  • 4. 2.1.3. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình.................................................42 2.2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA ....................................................58 2.2.1. Thực tiễn xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành..............58 2.2.2. Thực tiễn thi hành hình phạt tử hình..................................................65 2.3. NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NÓ......................................69 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ QUY ĐỊNH VIỆC THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG...............................................................................76 3.1. NHU CẦU VÀ QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG................................................76 3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH ......79 3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH.................................................85 3.3.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục những quy định của pháp luật tố tụng hình sự và thi hành án hình sự về thi hành hình phạt tử hình........................................................................85 3.3.2. Giải pháp về công tác tổ chức, cán bộ có nhiệm vụ thi hành hình phạt tử hình.........................................................................................86 3.3.3. Tăng cường công tác hợp tác quốc tế trong thi hành hình phạt tử hình................................................................................................90 KẾT LUẬN....................................................................................................93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................96
  • 5. DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Số người bị thi hành hình phạt tử hình từ năm 2008 - 2013 67
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đất nước ta chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với nhiều nước trên thế giới. Sự vận hành của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang đem lại sự chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Bên cạnh những mặt tích cực đã nêu ở trên, nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó tình hình tội phạm diễn biến phức tạp. Các vụ án giết người, cướp tài sản, hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tham nhũng, buôn lậu, các tội phạm về ma túy… xảy ra nhiều, với tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng. Tình hình trên không những xâm hại tính mạng, sức khỏe của người dân, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức làm thiệt hại đến nền kinh tế đất nước, mà còn thực sự đe dọa phá vỡ chính sách kinh tế xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, gây ra những hậu quả nặng nề về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Thậm chí tình hình tội phạm còn tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tình báo nước ngoài lợi dụng tiến hành các hoạt động mua chuộc, thu thập tình báo, phá hoại sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trước tình hình trên, các cơ quan bảo vệ pháp luật đã thực hiện các biện pháp có hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, xử lý kịp thời, nghiêm minh mọi hành vi phạm tội và người phạm tội. Tòa án các cấp đã xét xử phạt tử hình nhiều người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, có tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm, phục vụ yêu cầu chính trị chung. Việc thi hành hình
  • 7. 2 phạt tử hình đã được các cơ quan chức năng tiến hành theo đúng quy định của pháp luật, được dư luận nhân dân đồng tình, đồng thời có tác dụng đề cao sự cần thiết phải áp dụng hình phạt này trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành hình phạt tử hình cũng đã đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học luật tố tụng hình sự phải nghiên cứu giải quyết như: khái niệm thi hành hình phạt tử hình, nội dung của luật thi hành án hình sự với luật TTHS, Luật hình sự chưa tương thích; cơ sở vật chất, cán bộ cho việc thi hành hình phạt tử hình; hình thức thi hành hình phạt tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc nhưng không có nguồn cung ứng thuốc để phục vụ thi hành án, bởi không có quốc gia nào cho phép một quốc gia khác nhập khẩu; xác định rõ tiêu chí áp dụng hình phạt tử hình theo hướng hình phạt này chỉ được áp dụng đối với người phạm một số ít các tội đặc biệt nghiêm trọng có tính chất dã man, tàn bạo, mất nhân tính hoặc việc phạm tội cũng như người phạm tội là mối đe dọa nghiêm trọng cho an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, mặt khác đề xuất bỏ hình phạt tử hình đối với một số tội phạm cụ thể... Trong khi đó, xét về mặt lý luận, chế định thi hành hình phạt tử hình kể từ khi Luật thi hành án hình sự được ban hành chưa được quan tâm nghiên cứu một cách xác đáng và xung quanh chế định này còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thi hành hình phạt tử hình” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học luật. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Việc nghiên cứu về thi hành hình phạt tử hình đã được một số học giả nghiên cứu như: * Về sách, đề tài nghiên cứu: - Tác giả Võ Khánh Vinh và Nguyễn Mạnh Kháng với cuốn sách “Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Tư pháp năm 2006. Trong tác phẩm này, nhóm tác giả đã trình bày những vấn đề
  • 8. 3 lý luận cơ bản về pháp luật thi hành án hình sự, trong đó có các vấn đề như vị trí, vai trò của pháp luật thi hành án hình sự, các nhóm vấn đề cụ thể của pháp luật thi hành án hình sự như thi hành án phạt tù, thi hành án tử hình và thi hành các hình phạt không giam giữ. Công trình cũng đã trình bày về vấn đề thi hành hình phạt tử hình tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở việc phân tích những vấn đề cơ bản nhất về thi hành án tử hình và cũng chỉ trình bày trong giới hạn của một chương nằm trong tổng thể cuốn sách. - Tác giả Phạm Văn Beo với cuốn sách “Về hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia năm 2010. Đây là công trình nghiên cứu cơ bản đầu tiên có hệ thống nhất về hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, do chỉ nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự do đó việc phân tích vấn đề thi hành hình phạt tử hình trong cuốn sách này còn rất hạn chế. - Tác giả Vũ Trọng Hách với cuốn sách “Hoàn thiện các quy định quản lý về thi hành án hình sự” Nxb. Tư pháp năm 2010. Công trình nghiên cứu này đã trình bày một cách có hệ thống nhất về hệ thống các quy định về quản lý hoạt động thi hành án hình sự, trong đó có thi hành hình phạt tử hình. Tuy nhiên do chỉ nghiên cứu vấn đề về các quy định quản lý về thi hành án hình sự nên việc đề cập một cách toàn diện nhất đến vấn đề thi hành hình phạt tử hình còn hạn chế trong tác phẩm. - Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) với đề tài khoa học cấp bộ “Áp dụng và thi hành hình phạt tử hình – những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Hà Nội, 2002. * Về bài viết khoa học: - Tác giả Đỗ Minh Giang với bài viết “Một số vấn đề về thi hành án tử hình” Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9 năm 2006. Công trình đã nghiên cứu trực tiếp về vấn đề thi hành hình phạt tử hình theo quy định của BLTTHS
  • 9. 4 năm 2003. Tuy nhiên, do được nghiên cứu vào năm 2006 khi mà chưa ban hành Luật thi hành án hình sự năm 2010 nên công trình chưa giải quyết một số vấn đề có tính thời sự nhất về thi hành án tử hình trong Luật thi hành án hình sự mới. - Tác giả Vũ Trọng Hách với bài viết “Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về thi hành án hình sự ở nước ta hiện nay” Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5 năm 2002. Công trình nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật về thi hành án hình sự nói chung, trong đó có trình bày về vấn đề thi hành hình phạt tử hình. - Tác giả Phạm Văn Beo với bài viết “Một số ý kiến về thi hành án tử hình trong Dự thảo Luật thi hành án hình sự” Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6 năm 2010. Công trình của tác giả tập trung phân tích về dự thảo Luật thi hành án hình sự năm 2010, với những đóng góp hết sức thiết thực. - Tác giả Nguyễn Xuân Yêm với bài viết “Về đổi mới thủ tục thi hành hình phạt tử hình trong tiến trình cải cách tư pháp” Tạp chí Nghề luật số 2 năm 2006.; 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích những quy định của luật hình sự Việt Nam về mục đích, ý nghĩa của hình phạt nói chung, hình phạt tử hình nói riêng; xem xét thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình cũng như tham khảo pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới quy định về vấn đề này, người viết nhằm lý giải về sự tồn tại mang tính cần thiết khách quan của hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam. Từ việc phân tích những vấn đề cơ bản về hình phạt tử hình, đề tài tập trung nghiên cứu về thi hành hình phạt tử hình trong quy định của luật TTHS và luật THAHS như trình tự, thủ tục ra quyết định thi hành án, kháng nghị, bác đơn xin ân giảm, quy trình thi hành án tử hình theo quy định của luật THAHS... Bên cạnh việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về hình phạt
  • 10. 5 tử hình và thi hành hình phạt tử hình, đề tài còn phân tích thực trạng tình hình áp dụng hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình tại Việt Nam hiện nay. Qua nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của việc thi hành hình phạt tử hình, đề tài có đề xuất các phương hướng hoàn thiện quy định của luật TTHS và luật THAHS liên quan đến chế định thi hành hình phạt tử hình, và các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt tử hình. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm sáng tỏ khái niệm thi hành hình phạt tử hình, các hình thức thi hành hình phạt tử hình. - Phân tích, làm rõ sự hình thành và phát triển các quy định của pháp luật về thi hành hình phạt tử hình ở Việt Nam. - Nghiên cứu, làm rõ các quy định của pháp luật về thi hành hình phạt tử hình của một số nước trên thế giới. - Làm sáng tỏ các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thi hành hình phạt tử hình ở nước ta. - Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp việc áp dụng các quy định của pháp luật về thi hành hình phạt tử hình. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các vấn đề nêu trên chủ yếu dựa trên cơ sở quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Luật thi hành án hình sự năm 2010 và có sự so sánh, đối chiếu với các quy định tương ứng trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và các quy định của Bộ luật hình sự năm 2010 về hình phạt tử hình. Về thực tiễn, luận văn nghiên cứu thực trạng thi hành hình phạt tử hình tại Việt Nam trong 5 năm từ 2008 đến 2013. 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
  • 11. 6 Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Trong luận văn tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp lịch sử, so sánh; phương pháp thống kê, khảo sát thực tiễn. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Đây là công trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình ở Việt Nam. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới của luận văn: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thi hành hình phạt tử hình. - Phân tích làm rõ thực trạng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thi hành hình phạt tử hình và thực tiễn áp dụng ở nước ta. - Nghiên cứu, so sánh những quy định của pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam về thi hành hình phạt tử hình với những quy định tương ứng trong pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới để rút ra những giá trị hợp lý về hoạt động lập pháp tố tụng hình sự. - Đề xuất phương hướng nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về thi hành hình phạt tử hình theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam Chương 2: Những quy định về thi hành hình phạt tử hình theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện thi hành hình phạt tử hình
  • 12. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành hình phạt tử hình Để có thể hiểu về khái niệm của thi hành hình phạt tử hình, trước hết chúng ta cần nghiên cứu về khái niệm hình phạt tử hình. Hình phạt tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất do Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng (thường gọi là tội chết, tội tử) để loại trừ vĩnh viễn người đó ra khỏi đời sống xã hội. Hình phạt tử hình chỉ áp dụng đối với người phạm tội có tính nguy hiểm đặc biệt cao cho xã hội. Trong hệ thống hình phạt thì tử hình là một hình phạt nghiêm khắc nhất, thể hiện mức độ trừng trị cao nhất của Nhà nước đối với người phạm tội, bởi lẽ nó tước bỏ đi quyền sống của người bị kết án, loại bỏ sự tồn tại của người phạm tội khỏi đời sống cộng đồng. Hiện nay, trên thế giới còn tồn tại hai loại quan điểm trái ngược nhau về hình phạt tử hình: Quan điểm thứ nhất cho rằng, để bảo đảm an ninh xã hội, công bằng và công lý, cần thiết phải duy trì hình phạt tử hình đối với những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; đối với những kẻ khủng bố quốc tế, giết người hàng loạt, thì không thể có biện pháp giáo dục nào có tác dụng, ngoài việc tước đi sự tồn tại của chúng. Quan điểm thứ hai cho rằng, cần phải bỏ hình phạt tử hình, vì sự sống của con người là thiêng liêng nhất mà tạo hóa đã dành cho họ; việc áp dụng hình phạt này là tàn khốc, vô nhân tính, không thể chấp nhận được trong xã hội văn minh. Mặt khác, các cơ quan tố tụng có thể sai lầm khi áp dụng hình phạt
  • 13. 8 này và khi phát hiện ra sai lầm, thì lại không thể khắc phục được, bởi lẽ người đã chết, thì không thể có biện pháp nào có thể khắc phục để họ sống trở lại. Thể hiện hai quan điểm trên, theo số liệu chính thức của Ủy ban về quyền con người của Liên hợp quốc, hiện có 71 quốc gia vẫn duy trì hình phạt tử hình, 15 quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình đối với các tội thông thường, nhưng vẫn duy trì hình phạt tử hình đối với tội giết người; 77 quốc gia hoàn toàn xóa bỏ hình phạt tử hình, 33 quốc gia tuy còn quy định hình phạt tử hình, nhưng không thi hành hình phạt tử hình trên thực tế. Như vậy, 110 quốc gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình hoặc không thi hành hình phạt tử hình trên thực tế, chỉ còn 86 quốc gia vẫn duy trì loại hình phạt này. Đáng chú ý, một số quốc gia lớn và đông dân như Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa Ấn Độ, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Vương quốc Nhật Bản, Cộng hòa Inđônêxia... vẫn còn duy trì hình phạt này. Việt Nam là quốc gia vẫn duy trì hình phạt tử hình. Cơ sở lý luận của việc duy trì hình phạt này là: do tính chất đặc biệt nghiêm trọng của tội phạm đã được thực hiện và những đặc điểm về nhân thân người phạm tội, Nhà nước ta xét thấy không còn khả năng giáo dục, cải tạo họ. Vì vậy, hình phạt tử hình không đặt ra mục đích giáo dục, cải tạo đối với người bị kết án. Việc tước bỏ mạng sống của người bị kết án là nhằm loại bỏ hoàn toàn khả năng thực hiện tội phạm ở họ, đồng thời răn đe mạnh mẽ những người không vững vàng, dễ bước vào con đường phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội, góp phần nâng cao khí thế đấu tranh phòng, chống tội phạm của người dân. Cơ sở thực tiễn của việc duy trì hình phạt tử hình này là thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta cho thấy, địa phương nào hữu khuynh, không áp dụng hình phạt nghiêm khắc nhất đối với những kẻ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng với nhiều tình tiết tăng nặng, thì ở đó tình hình tội phạm diễn biến phức tạp cả về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và phong trào quần chúng tham gia đấu
  • 14. 9 tranh phòng, chống tội phạm không mạnh. Vì vậy, hình phạt tử hình cần được áp dụng đối với những người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bị dư luận kịch liệt lên án. Do những đặc điểm tâm lý, thể chất của người chưa thành niên, phụ nữ có thai và xuất phát từ quan điểm nhân đạo, luật hình sự Việt Nam quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Như vậy có thể hiểu hình phạt tử hình là hình phạt đặc biệt, tước đi mạng sống của người phạm tội và chỉ được áp dụng đối với những người phạm tội có tính nguy hiểm đặc biệt cao cho xã hội. Vấn đề cần làm rõ thứ hai là khái niệm thi hành án hình sự, Hiến pháp hiện hành của nước ta khẳng định: các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng, những người và đơn vị hữu quan phải chấp hành nghiêm chỉnh. Yêu cầu mang tính nguyên tắc hiến định này đã khẳng định hiệu lực thi hành của tất cả các phán quyết của Tòa án khi có hiệu lực pháp luật, đồng thời khẳng định ý nghĩa quan trọng của vấn đề thi hành án nói chung và thi hành án hình sự nói riêng. Trong khoa học pháp lý hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về bản chất của thi hành án hình sự. Có người cho rằng thi hành án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự. Song cũng có ý kiến cho rằng, thi hành án hình sự là một hoạt động hành chính - tư pháp hình sự, có những nét đặc thù riêng khác với hoạt động tố tụng hình sự. Một số khác thì coi thi hành án hình sự như là luật hình sự kéo dài. Việc xác định thi hành án hình sự là một giai đoạn tố tụng, luật hình sự kéo dài hay là hoạt động hành chính tư pháp có ý nghĩa quan trọng để làm sáng tỏ bản chất thi hành án hình sự, mà xác định bản chất của thi hành án hình sự là một trong những vấn đề lý luận cơ bản của thi hành án hình sự.
  • 15. 10 "Thi hành" theo Hán Việt Từ điển của tác giả Đào Duy Anh là "đem cái việc đã định sẵn mà làm cho có hiệu quả"[2, tr.398]; theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, "thi hành" là "làm cho thành, có hiệu lực điều đã được chính thức quyết định"[70, tr.936]; còn theo Đại từ điển tiếng Việt thì "thi hành" được hiểu là "thực hiện điều đã chính thức quyết định"[73, tr.1559]. Thi hành bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thể được hiểu theo một cách chung nhất là “việc các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các cá nhân có liên quan theo quy định của pháp luật nhằm đưa bản án, quyết định đó ra thi hành làm cho nó phát huy hiệu lực trên thực tế”[21, tr.371]. Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm thi hành án hình sự như sau: Thi hành án hình sự là việc các các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, các cá nhân có liên quan đưa bản án và quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án ra thi hành làm cho nó phát huy hiệu lực trên thực tế. Từ khái niệm trên có thể rút ra các đặc điểm của thi hành án hình sự như sau: Một là, thi hành án hình sự là giai đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng hình sự, phản ánh kết quả của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự. Hai là, mục đích của hình phạt chỉ có thể được thực hiện thông qua thi hành án hình sự. Điều đó có nghĩa, thi hành án hình sự chính là quá trình thực tiễn hóa mục đích của hình phạt. Ngoài ra, thi hành án hình sự còn có mục đích: đưa vào cuộc sống một cách đúng đắn và đầy đủ mọi nội dung của hình phạt đã được Tòa án phán quyết trong bản án, quyết định hình sự, khắc phục hậu quả do chính tội phạm đó gây ra cho xã hội, làm mất khả năng phạm tội của kẻ phạm tội, giáo dục, cải tạo kẻ phạm tội thành người lương thiện và tái hòa nhập cộng đồng người đó thành người có ích cho gia đình và xã hội.
  • 16. 11 Ba là, thi hành án hình sự trước hết được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự và do nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân thi hành nhằm bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật và công bằng xã hội. Ngoài ra, do thi hành án hình sự thường diễn ra trong thời gian dài, liên quan đến nhiều lĩnh vực, cho nên, ngoài các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự, cho nên thi hành án hình sự còn được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật khác như hành chính, dân sự, lao động... Bốn là, trong quá trình thi hành, các cơ quan thi hành án tác động trực tiếp tới đối tượng phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án. Thi hành hình phạt tử hình cũng là một bộ phận của thi hành án hình sự. Bởi lẽ, hình phạt tử hình là một hình phạt trong hệ thống hình phạt được quy định trong BLHS và trên thực tế hình phạt tử hình vẫn được áp dụng trên thực tế ở nước ta hiện nay. Thi hành hình phạt tử hình cũng có những đặc điểm chung và đặc điểm riêng như thi hành án hình sự. Từ khái niệm thi hành án hình sự theo phân tích trên ta có thể đưa ra khái niệm thi hành hình phạt tử hình như sau: Thi hành hình phạt tử hình là hoạt động của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền nhằm đưa bản án tử hình của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thực hiện trên thực tế theo những trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm mục đích tước bỏ quyền sống của người chấp hành án Thi hành hình phạt tử hình cũng mang đầy đủ các đặc điểm của thi hành án hình sự, ngoài ra còn có những đặc điểm riêng sau: Thứ nhất, thi hành hình phạt tử hình là sự thực hiện trên thực tế việc tước đi quyền sống của người phạm tội, do đó cơ quan thi hành án hình sự phải tuân theo những thủ tục hết sức nghiêm ngặt, chặt chẽ. Đây là đặc điểm chủ yếu nhất để có thể phân biệt việc thi hành hình phạt tử hình với thi hành
  • 17. 12 các loại hình phạt, biện pháp tư pháp khác. Việc tước bỏ tính mạng của người bị áp dụng là đặc điểm cơ bản nhất của hình phạt tử hình và đồng thời nó cũng là một đặc điểm cơ bản nhất của thi hành hình phạt tử hình. Ví dụ: trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, cũng như trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, đều đã quy định thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành, trong đó quy định rất cụ thể về trình tự, thủ tục gửi hồ sơ vụ án lên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, gửi bản án cho Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, thời hạn quy định Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định kháng nghị hoặc quyết định không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm; thủ tục xin ân giảm trình lên Chủ tịch nước... Đây là những thủ tục mà đối với việc thi hành các hình phạt, biện pháp tư pháp khác, pháp luật tố tụng hình sự không quy định. Thứ hai, khác với việc thi hành các hình phạt, biện pháp tư pháp khác, nếu việc thi hành hình phạt tử hình có sai lầm, thì không thể khắc phục được hậu quả. Đặc điểm này bắt nguồn từ bản chất của hình phạt tử hình là tước đi quyền sống của người bị kết án, vì vậy, nếu như thi hành hình phạt tử hình không đúng đối tượng bị kết án, thì sai lầm này không thể khắc phục được. Đây là một đặc điểm của hình phạt tử hình cũng như đặc điểm của thi hành hình phạt tử hình. Hiện nay, các luồng quan điểm cho rằng cần loại bỏ hình phạt tử hình ra khỏi hệ thống hình phạt cũng xuất phát từ quan điểm này khi cho rằng nếu áp dụng hình phạt tử hình sẽ không thể khắc phục được các sai lầm (nếu có). Bởi bản chất của hình phạt tử hình nếu đã được thi hành thì không thể khắc phục được. Điều này cũng là lý do mà khi thi hành hình phạt tử hình cần những thủ tục hết sức chặt chẽ và có những bước xem xét lại bản án, đơn xin ân giảm... rất phức tạp. Tất cả những hoạt động đó để đảm bảo nếu đã thi hành hình phạt tử hình thì không có những sai lầm đáng tiếp xảy ra. Thứ ba, việc thi hành hình phạt tử hình không những tước đi sự sống
  • 18. 13 của người bị kết án, mà còn gây ra nỗi đau thương, mất mát lâu dài cho người thân của họ, đồng thời có những tác động tâm lý tiêu cực nhất định lên những cá nhân trực tiếp thực hiện việc thi hành hình phạt tử hình. Đây là đặc điểm chúng ta cần lưu ý khi thực hiện công tác chính trị, tư tưởng đối với người thân của người bị kết án, cũng như đối với số cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm nhiệm vụ tước đi mạng sống của người bị kết án. Thứ tư, thi hành hình phạt tử hình không có tính linh hoạt trong quá trình thi hành. Về lý luận cũng như thực tế đã chỉ ra rằng hình phạt tử hình bản thân nó chứa đựng duy nhất chỉ một mức độ không thể tăng lên hay giảm xuống trong những trường hợp tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm khác nhau. Bên cạnh đó, việc thi hành hình phạt tử hình cũng chỉ có áp dụng duy nhất một lần và một mức độ. Hình phạt tử hình khi đã được áp dụng thì không có các hoạt động miễn, giảm chấp hành án như hình phạt tù chung thân, tù có thời hạn, cải tạo không giam giữ... Chính vì vậy, việc thi hành hình phạt tử hình cần phải thông qua các bước xem xét, ân giảm cần thiết trước khi đưa ra thi hành trên thực tế. 1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của việc thi hành hình phạt tử hình Chế định thi hành hình phạt tử hình lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 của nước ta, có ý nghĩa về mặt lập pháp hết sức to lớn. Nó đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp tố tụng hình sự của nước ta. Trong chế định thi hành hình phạt tử hình, khái niệm thi hành hình phạt tử hình là khái niệm cơ bản, khái niệm xuất phát, để từ đó xác định các quy phạm khác của chế định thi hành hình phạt tử hình như hình thức thi hành hình phạt tử hình, trình tự, thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành, trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình, thủ tục hoãn thi hành án... Việc nhận thức và áp dụng đúng đắn chế định thi hành hình phạt tử hình trong thực
  • 19. 14 tiễn là bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực thi hành án hình sự, nhằm thi hành hình phạt tử hình đúng người, không để xảy ra oan, sai trong lĩnh vực cực kỳ nhạy cảm này. Trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự nói chung, thi hành hình phạt tử hình nói riêng, đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo đảm hiệu quả đạt được của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự. Vì vậy, việc quy định chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn, vững mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân. Tuy nhiên, việc áp dụng chế định thi hành hình phạt tử hình một cách tùy tiện, không đúng pháp luật, bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, bởi nó xâm phạm quyền được sống là một trong những quyền con người cơ bản, xâm phạm đến tình cảm thiêng liêng của những người thân thích của họ. Những hành vi vi phạm pháp luật về thi hành hình phạt tử hình không những xâm hại hoạt động đúng đắn của các cơ quan bảo vệ pháp luật, xâm hại quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, mà còn làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Do vậy, việc quy định một cách chặt chẽ chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự thể hiện sự tôn trọng quyền con người của Nhà nước ta, bảo đảm sự giám sát của nhân dân, xã hội trong hoạt động thi hành án hình sự nói chung, thi hành hình phạt tử hình nói riêng. Việc quy định trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự, ngoài ý nghĩa về mặt lập pháp tố tụng hình sự, còn có ý nghĩa nâng cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng về sự cần thiết phải tuân thủ các quy định chặt chẽ của pháp luật tố tụng hình sự trong lĩnh vực thi hành hình phạt tử hình. Mặt khác, việc quy định cụ thể, chi tiết trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình còn giúp
  • 20. 15 các cơ quan bảo vệ pháp luật nắm vững nội dung, bản chất pháp lý, từ đó áp dụng đúng đắn chế định này, góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, động viên quần chúng nhân dân tham gia tích vào cuộc đấu tranh này. Ngoài ra, chế định thi hành hình phạt tử hình, còn có ý nghĩa là cơ sở pháp lý cho một số ngành khoa học pháp lý có liên quan chặt chẽ với khoa học luật tố tụng hình sự như tội phạm học, tâm lý học tư pháp, khoa học kỹ thuật hình sự... Đối với tội phạm học, chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự là cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu về nhân thân người bị kết án tử hình, từ đó tìm ra quy luật phạm tội của những người này. Đối với tâm lý học tư pháp, chế định thi hành hình phạt tử hình có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu đặc điểm tâm lý của người bị kết án tử hình ở giai đoạn xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành, cũng như ở giai đoạn thi hành hình phạt tử hình, nhất là ở thời điểm trước khi thi hành án. Kết quả nghiên cứu đặc điểm tâm lý của những người bị kết án tử hình trong hoạt động thi hành hình phạt tử hình, sẽ là tài liệu quan trọng phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử những người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đối với khoa học kỹ thuật hình sự, việc quy định trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình là cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu, đề xuất các hình thức thi hành hình phạt tử hình tiết kiệm, dễ áp dụng, "nhân đạo" nhất cho phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. 1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ CÁC QUY ĐỊNH VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH Ở VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945 ĐẾN TRƯỚC KHI CÓ BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 Cách mạng tháng 8 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Là nhà nước công nông đầu tiền ở khu vực Đông Nam Á. Ngay sau
  • 21. 16 khi cách mạng thành công, thực dân Pháp đã bắt đầu quay lại xâm chiếm nước ta một lần nữa. Vì vậy, trong suốt thời kỳ từ khi bắt đầu cuộc xâm lược của thực dân Pháp cho đến năm 1954 là thời điểm ký Hiệp định Giơnevơ, Quốc hội ta là Quốc hội kháng chiến, Chính phủ ta là Chính phủ kháng chiến, pháp luật của ta cũng là pháp luật kháng chiến. Theo Sắc lệnh số 64-SL ngày 23/11/1945 quy định án tử hình do Tòa án đặc biệt tuyên sẽ được thi hành trong vòng 48 giờ. Ngoài án tử hình được tuyên bởi Tòa án đặc biệt, án tử hình tuyên bởi Tòa án binh tối cáo, Tòa á binh khu Trung ương, Tòa án binh Khu, phạm nhân đều có quyền đệ đơn lên Chủ tịch nước để xin ân giảm. Khi đơn xin ân giảm bị bác, phạm nhân mới bị đem đi hành hình. Đối với bản án tử hình của Tòa án nhân dân thường, theo Thông tư số 335/TTg, sau khi Tòa án đã tuyên án tử hình, phạm nhân cũng có quyền đệ đơn lên Chủ tịch Chính phủ xin ân giảm, ân xá. Đơn xin ân giảm, ân xá do Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu chuyển lên Bộ Tư pháp và Bộ này sẽ làm tờ trình lên Chủ tịch chính phủ quyết định. Ngoài ra, Sắc lệnh số 4-SL ngày 28/12/1946 còn quy định: Uỷ ban bảo vệ khu có quyền ân xá, ân giảm, phóng thích tội nhân do các Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự hoặc Tòa án binh kết án. Khi bị kết án tử hình, phạm nhân chỉ được ân giảm hoặc ân xá sau khi được toàn thể ủy ban và giám đốc tư pháp đồng ý. Tuy nhiên, quy định này được Sắc lệnh số 26-SL sửa lại như sau: “Nếu tội nhân bị kết án tử hình thì chỉ được ân xá hay ân giảm sau khi được đa số trong Hội đồng gồm có toàn thể Uỷ ban kháng chiến và Giám đốc Tư pháp khu ưng thuận”.[18] Về hình thức thi hành án tử hình, Thông tư số 498/P-4 ngày 31-6-1946, Bộ Tư pháp đã ban hành thông tư số 498, trong đó quy định: "Thi hành hình phạt tử hình từ nay dùng súng thay máy chém"[13]. Quy định về hình thức tử hình này thể hiện bản chất nhân đạo của chế độ mới, khác về chất so với hình thức tử hình dã man dùng máy chém của chế độ thực dân phong kiến.
  • 22. 17 Trong Quy tắc trại giam được ban hành ngày 12-6-1951, đã quy định vấn đề chuẩn bị và kết thúc việc thi hành án tử hình tại Điều 6: "Mỗi khi đưa phạm nhân ra chịu án tử hình, Ban Giám thị phải xét kỹ căn cước để đề phòng nhầm lẫn" và tại Điều 21 quy định: "Khi thi hành xong một án tử hình, Tòa án phải báo cho Ủy ban hành chính sở tại để đăng ký việc tử". Vấn đề xét ân giảm án tử hình cũng đã được quy định trong Thông tư số 335/TTg ngày 6-7-1954 của Thủ tướng phủ. Theo đó sau khi Tòa án nhân dân đã lên án tử hình, phạm nhân vẫn có quyền đệ đơn lên Chủ tịch nước xin ân giảm. Đơn xin ân xá, ân giảm do Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu chuyển lên Bộ Tư pháp. Bộ Tư pháp làm tờ trình lên Chủ tịch nước quyết định. Nghiên cứu các văn bản pháp luật quy định việc thi hành hình phạt tử hình trong thời kỳ này, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét như sau: Thứ nhất, pháp luật trong giai đoạn này mang tính chất thời chiến, nhưng cũng đã kịp thời quy định một số vấn đề cơ bản của việc thi hành hình phạt tử hình. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thi hành hình phạt tử hình, góp phần vào cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và tay sai. Thứ hai, việc thi hành hình phạt tử hình được quy định trong nhiều văn bản pháp luật dẫn tới khó khăn trong việc thống nhất áp dụng pháp luật. Mặt khác, các văn bản quy định về việc thi hành hình phạt tử hình đều là những văn bản dưới luật do cơ quan hành pháp ban hành, hiệu lực pháp lý không cao. Thứ ba, nhiều vấn đề về thi hành hình phạt tử hình chưa được pháp luật điều chỉnh như cơ quan chịu trách nhiệm thi hành hình phạt tử hình, trình tự, thủ tục xử bắn tại pháp trường... Đây là những nhược điểm cần được khắc phục trong thời gian tới. Từ năm 1954 đến năm 1974, việc thi hành án tử hình do các khu, sở, ty Công an phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân ở địa phương
  • 23. 18 thi hành. Ngày 13- 2-1974, Bộ Công an ra Chỉ thị số 138-KC1 quy định cụ thể về công việc chuẩn bị, thủ tục và trình tự những việc làm từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc cuộc thi hành án, những trường hợp cần tạm hoãn thi hành án. Về địa điểm pháp trường, thời gian thi hành án, Chỉ thị quy định: Tùy trường hợp, pháp trường có thể bố trí gần trại giam, hoặc ở nơi xảy ra vụ án, nhưng nguyên tắc là phải bảo đảm tuyệt đối an toàn cho nhân dân (xa nhà ở của dân, không để dân qua lại khu vực pháp trường)... Ngày giờ thi hành án, nếu không phải trường hợp cấp bách, thì không nên định vào ngày kỷ niệm, ngày tết và các ngày lễ chính của các tôn giáo, dân tộc.[12] Quy định này hoàn toàn phù hợp với phong tục, tập quán của dân tộc và bảo đảm sự an toàn của nhân dân trong quá trình thi hành hình phạt tử hình. Về công tác chuẩn bị thi hành án tử hình, Chỉ thị quy định: Lãnh đạo Khu, Sở, Ty Công an phải thành lập Hội đồng thi hành án tử hình, lập kế hoạch và định ngày, giờ, địa điểm, pháp trường, bố trí lực lượng vũ trang. Thành phần Hội đồng thi hành án tử hình bao gồm: - Một đại diện của cơ quan Công an (Chánh hoặc Phó giám đốc, Trưởng hoặc Phó ty Công an). - Một đại diện của Viện kiểm sát nhân dân (Viện trưởng, Viện phó hoặc Ủy viên kiểm sát). - Một đại diện của Tòa án nhân dân (Chánh án, Phó chánh án hoặc Ủy viên thẩm phán). - Một bác sĩ pháp y (do Hội đồng giám định pháp y ở địa phương chỉ định). - Một đại diện của trại giam (Chánh hoặc Phó giám thị). Người chứng kiến việc thi hành án là một đại diện của Ủy ban hành chính cơ sở nơi bố trí pháp trường. Người này có nhiệm vụ lập giấy khai tử cho kẻ bị áp dụng hình phạt tử hình sau khi bắn.
  • 24. 19 Trước khi đưa phạm nhân ra pháp trường, cán bộ căn cước của Sở, Ty Công an phải đến trại giam, lập danh chỉ bản mới, đem đối chiếu với danh chỉ bản cũ và các tài liệu khác đầy đủ, chính xác và xác định phạm nhân đó đúng là phạm nhân bị kết án tử hình và đúng là kẻ sắp bị thi hành án trong kế hoạch đã định.[12] Về trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình, Chỉ thị quy định: 4. Sau khi trói tay phạm nhân vào cọc đã trông sẵn, thì đại diện Tòa án nhân dân công bố tóm tắt tội trạng của phạm nhân và đọc phần kết luận trong bản quyết định duyệt án tử hình hoặc quyết định bác đơn xin ân giảm của phạm nhân. 5. Bịt mắt phạm nhân bằng một vải băng đen. 6. Hội đồng thi hành án ra lệnh thì cán bộ chỉ huy lực lượng thi hành án hô đội viên (5 đội viên bắn giỏi được lựa chọn) bắn một loạt súng trường nhằm thẳng vào tim phạm nhân. Để kết thúc việc thi hành án tử hình, cán bộ chỉ huy bắn thêm một phát súng ngắn vào thái dương của phạm nhân. 7. Bác sĩ pháp y khám nghiệm, xác định là phạm nhân đã chết hẳn. 8. Chôn phạm nhân ngay tại gần nơi thi hành án (không cho phép thân nhân xin xác đem về chôn); tại mả có cắm một biển gỗ nhỏ ghi rõ họ, tên tuổi và nguyên quán phạm nhân.[12] Việc không cho phép thân nhân người bị kết án xin xác về chôn trong Chỉ thị số 138-KC1 là phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh chiến tranh lúc đó. Đặc biệt, trong Chỉ thị này quy định rất rõ các trường hợp tạm hoãn thi hành hình phạt tử hình. Đây là những quy định, mặc dù không có trong Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, nhưng hiện nay vẫn được áp dụng: - Phạm nhân tự thú những tội phạm nghiêm trọng khác của y mà xét thấy những việc ấy cần điều tra, xác minh thêm để kết luận.
  • 25. 20 - Phạm nhân tố giác tội phạm của người khác mà xét thấy việc ấy có tính chất nghiêm trọng và việc điều tra, kết luận nhất thiết phải có mặt phạm nhân. - Phạm nhân kêu oan mà xét thấy việc đó có thể có căn cứ.[12] Bên cạnh đó, ngày 12/3/1974, Tòa án nhân dân tối cao cũng ra Chỉ thị số 07/TATC xác định nhiệm vụ của Tòa án nhân dân trong việc thi hành án tử hình. Theo đó, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân phải tống đạt cho phạm nhân quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao duyệt án tử hình (trường hợp phạm nhân không xin ân giảm) và công bố tóm tắt tội trạng của phạm nhân trước khi bị hành hình. Việc hành hình sẽ được tiến hành bằng xử bắn. Theo quy định của Pháp lệnh về việc ân giảm án tử hình và xét duyệt án tử hình ngày 30-11-1978 quy định: “Thời hạn xin ân giảm án tử hình do các Tòa án nhân dân thường và Tòa án quân sự xử phạt là bảy ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật"[65]. Theo Bản hướng dân về trình tự tố tụng phúc thẩm về hình sự kèm theo Thông tư số 19/TATC ngày 02/10/1974 của Tòa án nhân dân tối cao, bản án tử hình sẽ có hiệu lực pháp luật 30 ngày sau khi tuyên án. Về thẩm quyền xét duyệt bản án tử hình, Điều 2 Pháp lệnh nêu rõ "Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao" có quyền xét duyệt án tử hình. Về thủ tục xét đơn xin ân giảm, ngày 28-8-1981 Hội đồng Nhà nước đã ban hành Nghị quyết số 14-NQ-HĐNN7, theo Điều 1 của Nghị quyết này, Đối với những vụ án tử hình mà tội trạng và chứng cứ đã rõ ràng, xét không thể ân giảm được thì áp dụng thủ tục lấy ý kiến tại nhà của các thành viên Hội đồng Nhà nước. Khi đó, các thành viên của Hội đồng Nhà nước sẽ nhận được tờ trình về vụ án, sau đó ghi ý kiến của mình, ký tên vào tờ trình gửi lại Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước. Nếu toàn thể Hội đồng Nhà nước nhất trí tán thành việc bác đơn xin ân giảm thì Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký nghị quyết (Điều 2). Tuy nhiên, đối với những bản án tử hình
  • 26. 21 thấy có thể ân giảm hoặc chưa rõ nên bác hay ân giảm hoặc ý kiến của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao khác với ý kiến của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì sau khi lấy ý kiến của Tổng thư ký Hội đồng Nhà nước, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội và Hội đồng nhà nước trình ra phiên họp để Hội đồng Nhà nước xét và quyết định (Điều 3). Trước những yêu cầu cấp thiết của việc ban hành một văn bản ở cấp độ bộ luật điều chỉnh các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự đã được ban hành lần đầu tiên năm 1988. Trong Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 28/06/1988, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1- 1989. đã được sửa đổi, bổ sung ba lần vào các năm: 1990, 1992, 2000, (sau đây gọi tắt là Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988), việc thi hành hình phạt tử hình được quy định tại chương XXV. Thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành được quy định cụ thể tại Điều 228 với những nội dung cụ thể như sau: Thứ nhất, về việc kiểm tra lại bản án tử hình. Khoản 1 Điều 228 Bộ luật quy định: Sau khi bản án tử hình có hiệu lực pháp luật, hồ sơ vụ án phải được gửi ngay lên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và bản sao bản án được gửi ngay lên Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Trong thời gian hai tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản sao bản án, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định kháng nghị hoặc không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.[43] So sánh với các văn bản quy định về thi hành hình phạt tử hình trước đây, quy định trên đã bãi bỏ chế độ duyệt án tử hình được quy định trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 và bổ sung quy định về trình tự giám đốc
  • 27. 22 thẩm hoặc tái thẩm của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Thứ hai, về thủ tục gửi đơn xin ân giảm. Khoản 1 Điều 228 Bộ luật quy định: "Trong thời hạn bảy ngày kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước". So sánh với quy định về thủ tục gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước được quy định tại Thông tư số 335/TTg ngày 6-7-1954 của Thủ tướng phủ, thì thời hạn được quy định rõ ràng, cụ thể hơn. Thứ ba, về điều kiện thi hành bản án tử hình. Khoản 2 Điều 228 Bộ luật quy định: Bản án tử hình được thi hành, nếu không có kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hoặc của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Trong trường hợp người bị kết án xin ân giảm án tử hình thì bản án tử hình được thi hành sau khi Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm.[43] Thủ tục thi hành hình phạt tử hình được quy định tại Điều 229 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 với những nội dung cụ thể sau: Một là, về việc ra quyết định thi hành án và thành lập Hội đồng thi hành án tử hình. Khoản 1 Điều 229 Bộ luật quy định: Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án và thành lập Hội đồng thi hành án. Hội đồng thi hành án gồm đại diện Tòa án, Viện Kiểm sát và Công an. Hội đồng thi hành án phải kiểm tra căn cước của người bị kết án trước khi thi hành.[43] So với quy định về việc thành lập Hội đồng thi hành án trong Chỉ thị số 138-KC1, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã trao thẩm quyền thành lập Hội đồng thi hành án từ cơ quan Công an sang Tòa án và không quy định bác sĩ pháp y là thành phần bắt buộc của Hội đồng.
  • 28. 23 Trong trường hợp người bị kết án là phụ nữ thì trước khi ra quyết định thi hành án, Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm phải tổ chức kiểm tra các điều kiện không áp dụng hình phạt tử hình được quy định tại Điều 35 Bộ luật hình sự năm 1985. Đây có thể nói là bước tiến bộ về kỹ thuật lập pháp tố tụng hình sự, thể hiện truyền thống nhân đạo, nhân văn và tôn trọng quyền con người, tôn trọng phụ nữ của dân tộc ta. Hai là, về thủ tục trước khi thi hành án. Khoản 2 Điều 229 Bộ luật quy định: Trước khi thi hành án, phải giao cho người bị kết án đọc quyết định thi hành án, quyết định không kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và nếu người bị kết án đã có đơn xin ân giảm án tử hình thì giao cho họ đọc bản sao quyết định của Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm.[43] So với quy định tương ứng trong các văn bản trước đây, quy định là một bước tiến về kỹ thuật lập pháp tố tụng hình sự theo hướng bảo đảm dân chủ và chặt chẽ hơn. Việc tống đạt cho phạm nhân (đọc cho phạm nhân) quyết định của Hội đồng toàn thể thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao duyệt án tử hình và quyết định bác đơn xin ân giảm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã được thay thế bằng việc giao cho phạm nhân tự đọc quyết định thi hành án, quyết định không kháng nghị và bản sao quyết định của Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm. Ba là, về hình thức thi hành hình phạt tử hình. Tương tự như quy định tại Thông tư số 498 ngày 31-6-1946 của Bộ Tư pháp, khoản 3 Điều 229 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định: "Hình phạt tử hình được thi hành bằng xử bắn". Bốn là, về các trường hợp hoãn thi hành án tử hình.
  • 29. 24 Khoản 5 Điều 229 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định: "Trong trường hợp có tình tiết đặc biệt, Hội đồng thi hành án hoãn thi hành và báo cáo Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án để báo cáo Chánh án Tòa án nhân dân tối cao"[43]. Tuy nhiên, Bộ luật đã không đưa ra khái niệm thế nào là trường hợp có tình tiết đặc biệt và trên thực tế, các cơ quan có trách nhiệm thi hành án tử hình vẫn áp dụng ba trường hợp được hoãn thi hành án tử hình được quy định tại Chỉ thị số 138-KC1 ngày 13-2-1974 của Bộ Công an. 1.3. THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC Tử hình là một trong những hình phạt lâu đời nhất trong lịch sử tồn tại và phát triển của loài người, cho nên các nước trên thế giới còn duy trì hình phạt tử hình, đều quy định rất cụ thể về trình tự, thủ tục thi hành hình phạt này. Nghiên cứu những quy định về thi hành hình phạt tử hình trong pháp luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Vương quốc Nhật Bản... cho thấy, các nước quy định rất khác nhau về vấn đề này. Về hình thức thi hành hình phạt tử hình, pháp luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho phép lựa chọn các hình thức khác nhau, nhưng phổ biến là hình thức xử bắn và tiêm thuốc độc. Điều 344 Giải thích của Tòa án nhân dân tối cao về một số vấn đề chấp hành luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngày 8-9-1998 quy định: Việc tử hình được thi hành bằng cách xử bắn hoặc tiêm thuốc. Nếu chọn phương pháp tiêm thuốc để thi hành án tử hình, thì phải thi hành tại nơi chỉ định hoặc trong trại giam. Trình tự cụ thể, phải dựa theo các quy định của pháp luật. Nếu chọn các phương pháp khác, ngoài xử bắn, tiêm thuốc ra, để thi hành án tử hình thì trước đó phải báo cáo xin Tòa án nhân dân tối cao phê chuẩn.[10]
  • 30. 25 Khác với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, ở Vương quốc Nhật Bản, hình thức thi hành hình phạt tử hình được quy định tại Điều 11 Bộ luật hình sự: 1. Hình phạt tử hình được thi hành bằng cách treo cổ người bị kết án tại nhà tù; 2. Người bị kết án tử hình được giam giữ ở nhà tù cho đến khi hình phạt được thi hành.[68] Tương tự như Vương quốc Nhật Bản, ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, hình thức thi hành hình phạt tử hình cũng được quy định tại Bộ luật hình sự. Điều 30 Bộ luật quy định: "Tử hình được thực hiện bằng cách bắn".[8] Nếu như các nước nói trên không quy định việc thi hành hình phạt tử hình được tiến hành công khai hay không, thì Điều 186 Bộ luật thi hành án hình sự Liên bang Nga quy định cụ thể: "Tử hình được thi hành bằng cách xử bắn không công khai".[63] Về trình tự gửi đơn xin ân giảm và xét đơn xin ân giảm, giống như pháp luật tố tụng hình sự nước ta, pháp luật thi hành án hình sự Liên bang Nga không quy định thời hạn xét đơn xin ân giảm của Tổng thống. Khoản 2 Điều 184 Bộ luật thi hành án hình sự Liên bang Nga quy định: "Trường hợp người bị kết án tử hình gửi đơn xin ân giảm, bản án tử hình phải hoãn thi hành cho đến khi có quyết định của Tổng thống Liên bang Nga". Về việc ra quyết định thi hành hình phạt tử hình, khác với quy định của pháp luật tố tụng hình sự nước ta, Điều 475 Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản quy định: 1. Hình phạt tử hình được thi hành theo lệnh của Bộ trưởng Bộ Tư pháp 2. Lệnh nói tại khoản 1 trên đây được ban hành trong sáu tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Tuy vậy, trong trường hợp có yêu cầu phục hồi quyền kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm hoặc yêu
  • 31. 26 cầu tái thẩm hoặc giám đốc thẩm hoặc có đơn hay đề nghị xin ân xá, thì thời hạn để kết thúc thủ tục đó và thời hạn bản án được tuyên đối với các bị cáo sẽ không được tính vào thời hạn nói trên.[68] Trong Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, việc ra quyết định thi hành hình phạt tử hình được quy định tại Điều 153: "Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ký lệnh thi hành ngay những bản án tử hình do Tòa án nhân dân tối cao xét xử và phê chuẩn".[10] Về cơ quan được giao nhiệm vụ thi hành hình phạt tử hình, Điều 154 Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: "Tòa án nhân dân cấp dưới phải thi hành án tử hình nội trong bảy ngày kể từ khi nhận được lệnh của Tòa án nhân dân tối cao"[10]. Điều 155 quy định: "Trước khi thi hành án tử hình, Tòa án nhân dân phải báo để Viện Kiểm sát nhân dân ngang cấp cử nhân viên đến giám sát việc thi hành"[10]. Khác với quy định này, trong Bộ luật tố tụng hình sự Vương quốc Nhật Bản, việc thi hành hình phạt tử hình được giao cho Viện Công tố. Điều 472 Bộ luật này quy định: "Việc thi hành án do công tố viên của Viện Công tố tương ứng với Tòa án đã ra bản án đó chỉ đạo"[68]; "Hình phạt tử hình sẽ được thi hành với sự có mặt của công tố viên, sĩ quan trợ lý công tố viên, giám thị trại giam hoặc đại diện của giám thị"[68]. Tương tự như quy định này, Điều 186 Bộ luật thi hành án hình sự Liên bang Nga quy định: "Hình phạt tử hình được thi hành với sự có mặt của công tố viên, đại diện trại giam nơi thi hành hình phạt tử hình và bác sĩ".[63] Về thủ tục lập biên bản việc thi hành hình phạt tử hình, Điều 154 Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: Sau khi thi hành xong án tử hình, thư ký phải ghi thành biên bản ngay tại pháp trường, Tòa án nhân dân có thẩm quyền thi hành án tử hình phải báo cáo tình hình thi hành án lên Tòa án nhân dân tối cao. Sau khi thi hành xong án tử hình, Tòa án nhân dân có thẩm quyền thi hành án tử hình phải báo cho gia đình phạm nhân biết.[10]
  • 32. 27 Điều 478 Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản quy định: "Sĩ quan trợ lý công tố viên tham gia thi hành án tử hình sẽ lập biên bản thi hành án. biên bản đó sẽ do sĩ quan trợ lý công tố viên ký và đóng dấu cùng với chữ ký của công tố viên và giám thị trại giam hoặc đại diện của giám thị trại giam".[68] Về vấn đề thi thể người bị kết án, pháp luật các nước quy định khác nhau. Có nước không cho phép thân nhân nhận thi thể người bị kết án về chôn cất như Điều 186 Bộ luật thi hành án hình sự Liên bang Nga quy định: "Chính quyền cơ quan nơi thi hành án tử hình có trách nhiệm thông báo về việc thi hành án cho Tòa án đã ra bản án tử hình và thân nhân người bị kết án. Thi thể người bị kết án không được trao trả và nơi chôn cất của người đó cũng không được thông báo"[63]; có nước lại cho phép thân nhân đem thi thể người bị kết án về chôn cất như Điều 347 Giải thích của Tòa án nhân dân tối cao về một số vấn đề chấp hành luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngày 8-9-1998 quy định: Sau khi thi hành án tử hình, Tòa án nhân dân chịu trách nhiệm thi hành án, cần làm các việc sau: “Thông báo cho gia đình tội phạm trong thời hạn nhất định tới nhận thi thể tội phạm, nếu có điều kiện hỏa táng, thì thông báo tới nhận hài cốt. Nếu quá hạn không tới lấy, thì Tòa án thông báo cho đơn vị hữu quan xử lý”.[10] Về các trường hợp hoãn thi hành hình phạt tử hình, pháp luật các nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Vương quốc Nhật Bản, Liên bang Nga đều rất quy định cụ thể. Điều 341 Giải thích của Tòa án nhân dân tối cao về một số chấp hành luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngày 8-9-1998 quy định: Tòa án nhân dân cấp dưới sau khi nhận lệnh thi hành án tử hình, nếu phát hiện có một trong những tình tiết sau đây, phải ngừng việc thi hành và lập tức báo cáo với Tòa án nhân dân đã phê chuẩn tử hình, để Tòa án nhân dân phê chuẩn tử hình ra quyết định:
  • 33. 28 1. Trước khi thi hành, phát hiện việc phán quyết có khả năng mắc sai lầm; 2. Trước khi thi hành, tội phạm khai báo sự thật quan trọng hoặc có biểu hiện lập công lớn khác, có thể cần thay đổi phán quyết; 3. Tội phạm đang mang thai.[10] Các trường hợp hoãn thi hành hình phạt tử hình được quy định tại Điều 479 Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản: 1. Nếu người bị kết án tử hình đang ở trong tình trạng rối loạn thần kinh thì việc thi hành án sẽ được hoãn theo lệnh của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. 2. Nếu phụ nữ bị kết án tử hình đang có thai thì việc thi hành án sẽ được hoãn theo lệnh của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. 3. Khi việc thi hành án tử hình đã được hoãn theo quy định tại khoản 1 và 2 trên đây thì hình phạt tử hình sẽ không được thi hành trừ phi có lệnh của Bộ trưởng Bộ Tư pháp được ra sau khi hồi phục tình trạng rối loạn thần kinh hoặc sau khi sinh con. 4. Quy định của khoản 2 Điều 475 được áp dụng với những thay đổi tương ứng, đối với lệnh nói tại khoản 3 trên đây. Trong trường hợp này, "ngày bản án có hiệu lực pháp luật" nói trong điều này có nghĩa là "ngày hồi phục tình trạng rối loạn thần kinh hoặc ngày sau khi sinh con.[68] Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự các nước nói trên về các trường hợp hoãn thi hành hình phạt tử hình là những tài liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu, hoàn thiện chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
  • 34. 29 Chương 2 NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH 2.1.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về các cơ quan có nhiệm vụ thi hành hình phạt tử hình Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án hình sự hiện hành, ở nước ta không có cơ quan chuyên trách thi hành hình phạt tử hình, mà nhiệm vụ này được giao cho ba cơ quan, đó là Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và tổ chức thi hành án hình sự * Tòa án nhân dân Tòa án là cơ quan có thẩm quyền xét xử và tuyên án tử hình đối với người bị phạm tội (Tòa án cấp tỉnh trở lên). Trong việc thi hành hình phạt tử hình, Tòa án giữ một vai trò hết sức quan trọng. Điều 20 Luật Thi hành án hình sự quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân trong thi hành án hình sự. Theo đó, Tòa án nhân dân có quyền ra quyết định thi hành án; quyết định thành lập Hội đồng thi hành án tử hình và xem xét, giải quyết việc cho nhận tử thi của người chấp hành án tử hình. Quy định cụ thể Điều 20 này, Điều 54 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định về thủ tục ra quyết định thi hành án tử hình của Tòa án nhân dân đã xét xử sơ thẩm mà có tuyên án tử hình như sau: “Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án tử hình. Quyết định phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định, họ tên, chức vụ của người ra quyết định; bản án, quyết định được thi hành; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người bị kết án.”[47]
  • 35. 30 Đồng thời Luật thi hành án hình sự năm 2010 cũng quy định về quyền hạn thành lập Hội đồng thi hành án tử hình của Tòa án nhân dân. Theo Điều 55 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định: Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày ra quyết định thi hành án, Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án phải ra quyết định thành lập Hội đồng thi hành án tử hình do Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án làm Chủ tịch Hội đồng thi hành án tử hình. Quyết định thành lập Hội đồng thi hành án tử hình phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định, họ tên, chức vụ của người ra quyết định; căn cứ ra quyết định; họ tên, chức vụ của người tham gia Hội đồng.[47] Như vậy, quy định trên của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 đã có sự thay đổi so với quy định của BLTTHS năm 2003 về Hội đồng thi hành án tử hình. Theo Điều 259 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: "Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án và thành lập Hội đồng thi hành án tử hình gồm đại diện Tòa án, Viện Kiểm sát và Công an". Trong Hội đồng thi hành án, Chánh án hoặc Phó Chánh án hoặc Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh làm Chủ tịch Hội đồng, có chức năng chỉ đạo quá trình thi hành án tử hình. Sau khi Hội đồng thi hành án được thành lập, Chủ tịch Hội đồng thi hành án phải chủ trì công tác chuẩn bị như mời đại diện của các cơ quan là thành viên Hội đồng thi hành án đến họp bàn về kế hoạch, mời bác sĩ giám định pháp y và cử một cán bộ Tòa án làm thư ký Hội đồng thi hành án. Ngoài ra theo quy định của Điều 258 BLTTHS năm 2003 thì Tòa án còn có một vai trò quan trọng nữa trong việc thi hành hình phạt tử hình đó chính là vai trò của Chánh án Tòa án nhân dân tối cáo trong việc xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành. Theo đó, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có quyền quyết định kháng nghị hoặc quyết định không kháng nghị giám
  • 36. 31 đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án tử hình. Và bản án tử hình được thi hành, nếu Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. * Viện Kiểm sát Viện Kiểm sát có nhiệm vụ thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong toàn bộ hoạt động thi hành hình phạt tử hình, từ kiểm sát nội dung quyết định thi hành bản án tử hình, thành phần Hội đồng thi hành án, kiểm sát việc thực hiện các thủ tục về thi hành án tử hình trong suốt quá trình từ khi tiến hành đến khi kết thúc việc thi hành án nhằm bảo đảm theo đúng quy định tại Điều 258, 259 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Viện Kiểm sát phải cử Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tham gia Hội đồng thi hành án tử hình. Trong Hội đồng thi hành án tử hình, đại diện Viện Kiểm sát phải thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm: - Bảo đảm việc kiểm tra căn cước của người bị kết án trước khi thi hành án. - Nếu người bị kết án là phụ nữ thì phải bảo đảm việc kiểm tra các tài liệu liên quan đến điều kiện không thi hành hình phạt tử hình được quy định tại Điều 35 Bộ luật hình sự năm 1999. - Bảo đảm cho người bị kết án trước khi thi hành án được đọc các quyết định: quyết định thi hành án, quyết định không kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và quyết định không kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; bản sao quyết định của Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm (nếu người bị kết án có đơn xin ân giảm án tử hình). - Bảo đảm thực hiện quyền của người bị kết án được viết thư và gửi đồ vật cho thân nhân (nếu có). - Bảo đảm việc thi hành hình phạt tử hình được thực hiện bằng hình thức xử bắn. - Bảo đảm biên bản thi hành hình phạt tử hình phải phản ánh đúng, đầy đủ hoạt động thi hành án tử hình theo quy định của pháp luật.
  • 37. 32 - Bảo đảm quyết định hoãn thi hành án tử hình của Hội đồng thi hành án (nếu có) có căn cứ đúng pháp luật. Sau khi kiểm sát thi hành hình phạt tử hình, Viện Kiểm sát thực hiện công tác kiểm sát đó có trách nhiệm báo cáo kết quả thi hành hình phạt tử hình cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đồng thời lập hồ sơ kiểm sát thi hành hình phạt tử hình gồm đầy đủ các tài liệu liên quan đến việc thi hành án tử hình để lưu trữ. * Cơ quan thi hành án hình sự Theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 thì tổ chức hệ thống cơ quan thi hành án hình sự bao gồm: - Cơ quan quản lý thi hành án hình sự gồm: Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an; Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Quốc phòng. - Cơ quan thi hành án hình sự: Trại giam thuộc Bộ Công an, trại giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại giam thuộc quân khu; Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Cơ quan thi hành án hình sự quân khu và tương đương. - Cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự: Trại tạm giam thuộc Bộ Công an, trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh, trại tạm giam cấp quân khu; Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn; Đơn vị quân đội cấp trung đoàn và tương đương. Theo quy định của Luật thi hành án hình sự năm 2010 và Thông tư liên tịch số 05/2013/TTLT-BCA-BQP- BYT-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn tổ chức thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc thì Đại diện Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh hoặc đại diện Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu tham gia Hội đồng thi hành án tử hình là Thủ trưởng hoặc
  • 38. 33 Phó Thủ trưởng Cơ quan thi hành án hình sự. Như vậy, khác với quy định trước kia của BLTTHS năm 2003 thì người tham gia Hội đồng thi hành án tử hình là Giám đốc hoặc Phó giám đốc công an tỉnh, thành phố (thường là Phó giám đốc phụ trách Cảnh sát) thì hiện nay theo quy định của Luật thi hành án tử hình và các văn bản hướng dẫn thi hành thì vấn đề này được giao cho Thủ trưởng, hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh (Phòng cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp) hoặc Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu. Quy định như trên là một tiến bộ trong việc phân công cụ thể nhiệm vụ cho các chủ thể có thẩm quyền tiến hành hoạt động thi hành án hình sự, nhằm tránh tình trạng tất cả các vấn đề liên quan đến công việc cụ thể thủ trưởng Công an tỉnh đều phải giải quyết. Đồng thời cũng theo quy định của Điều 59 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 thì còn thể hiện cụ thể vai trò của các đơn vị thuộc lực lượng thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp như: Căn cứ quyết định thi hành án tử hình và yêu cầu của Chủ tịch Hội đồng thi hành án tử hình, Cảnh sát hỗ trợ tư pháp hoặc Cảnh vệ tư pháp thực hiện áp giải người chấp hành án đến nơi làm việc của Hội đồng thi hành án tử hình; Thực hiện yêu cầu của Hội đồng thi hành án tử hình, cán bộ chuyên môn thuộc Công an nhân dân hoặc Quân đội nhân dân tiến hành lăn tay, kiểm tra danh bản, chỉ bản, đối chiếu với hồ sơ, tài liệu có liên quan; chụp ảnh, ghi hình quá trình làm thủ tục lăn tay, kiểm tra và lập biên bản; báo cáo Hội đồng thi hành án tử hình về kết quả kiểm tra; Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có trách nhiệm bảo quản tử thi, tổ chức mai táng, vẽ sơ đồ mộ người đã bị thi hành án. Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi thi hành án có nhiệm vụ phối hợp với cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu trong việc mai táng và quản lý mộ của người đã bị thi hành án... Như vậy, vai trò của Cơ quan thi hành án hình sự trong việc thi hành
  • 39. 34 hình phạt tử hình đó chính là vai trò hỗ trợ cho Hội đồng thi hành án tử hình trong các vấn đề có liên quan đến quá trình thi hành án. Đây cũng là một chủ thể có vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về thi hành hình phạt tử hình. 2.1.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về trình tự, thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành Theo quy định chung, bản án và quyết định của Tòa án khi đã có hiệu lực pháp luật thì Tòa án sẽ ra quyết định thi hành, nhưng đối với bản án tử hình, pháp luật tố tụng hình sự quy định thêm thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành. Đây là yêu cầu bắt buộc của pháp luật tố tụng hình sự đối với các cơ quan tư pháp có thẩm quyền liên quan đến việc thi hành án tử hình. Quy định này cũng góp phần vào việc đảm bảo quyền con người của người bị kết án, và cũng là một yêu cầu mang tính bắt buộc xuất phát từ tính đặc thù của hình phạt tử hình - là hình phạt không thể khắc phục được nếu gặp phải sai lầm trong quá trình áp dụng và thi hành án. Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh trở lên có thẩm quyền xét xử và tuyên án tử hình đối với người phạm tội. Nếu không có kháng cáo, kháng nghị thì bản án có hiệu lực pháp luật. Nếu có kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử theo thủ tục phúc thẩm và khi Tòa phúc thẩm quyết định, bản án có hiệu lực thi hành ngay. Điều 72 Hiến pháp năm 1992 đã quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật...” Như vậy, muốn đem bản án tử hình ra xem xét để đưa ra thi hành, thì trước hết đó phải là bản án tử hình đã có hiệu lực pháp luật. Thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành trải qua các bước sau: - Kiểm tra lại bản án tử hình
  • 40. 35 Việc kiểm tra lại bản án tử hình được quy định tại khoản 1 Điều 258 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Theo đó: Sau khi bản án tử hình có hiệu lực pháp luật, hồ sơ vụ án phải được gửi ngay lên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và bản án được gửi ngay lên Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Trong thời hạn hai tháng, kể từ ngày nhận được bản án và hồ sơ vụ án, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định kháng nghị hoặc quyết định không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước.[46] Là hình phạt đặc biệt, nên hình phạt tử hình không chỉ mang tính chất đặc biệt khi Tòa án áp dụng, mà việc thi hành nó cũng phải tuân theo những trình tự, thủ tục đặc biệt. Sau khi bản án tử hình có hiệu lực pháp luật, Tòa án đã ra bản án có hiệu lực pháp luật phải gửi hồ sơ vụ án lên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và gửi bản sao bản án lên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao để xác định việc xét xử có chính xác hay không và có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm hay không. Quy định của Điều 258 đã xác định cụ thể trách nhiệm cá nhân của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đồng thời bảo đảm quyền lợi cho người bị kết án. Đây là thủ tục bắt buộc và được xem như là bước đầu tiên trong thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành - bước kiểm tra lại bản án tử hình. Đối với bản án có hiệu lực pháp luật, Điều 278 và Điều 295 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định thời hạn kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án là một năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm) hoặc một năm kể từ ngày nhận được tin báo
  • 41. 36 về tình tiết mới được phát hiện (kháng nghị theo thủ tục tái thẩm); còn kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án thì không hạn chế về thời gian và được tiến hành trong cả trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ. Đối với bản án tử hình, không thể thi hành xong hình phạt tử hình, rồi sau đó mới phát hiện sai lầm, cho nên, trong thời hạn hai tháng kể từ ngày nhận được bản án và hồ sơ vụ án, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định kháng nghị hoặc không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Việc ra một trong các quyết định này của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao là bắt buộc, không phụ thuộc vào việc người bị kết án có gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước hay không. Nếu người bị kết án đã gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước, nhưng Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thấy việc xét xử không chính xác, thì vẫn có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Sau khi đã có kháng nghị, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phải báo cáo Chủ tịch nước biết về việc bản án tử hình đã bị kháng nghị. - Thủ tục gửi đơn và giải quyết đơn xin ân giảm lên chủ tịch nước Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì ngoài bước kiểm tra lại bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành xem có cần kháng nghị hay không thì còn một bước nữa trong quá trình trước khi đưa bản án tử hình ra thi hành đó là bước người bị tuyên án tử hình được quyền gửi đơn xin ân giảm án tử hình lên Chủ tịch nước và Chủ tịch nước sẽ xem xét đơn xin ân giảm này. Theo khoản 1 Điều 258 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước”.[46] Trong trường hợp người bị kết án làm đơn xin ân giảm án tử hình thì
  • 42. 37 theo quy định tại khoản 4 Điều 25 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002: "Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước ý kiến của mình về những trường hợp người bị kết án xin ân giảm án tử hình" và quy định tại khoản 6 Điều 27 Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2002: "Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân trình Chủ tịch nước ý kiến của mình về những trường hợp người bị kết án xin ân giảm án tử hình". Theo quy định, trường hợp người bị kết án gửi đơn xin ân giảm tử hình thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải trình tờ trình về ý kiến của mình lên Chủ tịch nước về hình phạt tử hình đối với người bị kết án, sau đó chuyển hồ sơ cùng vụ án cùng đơn xin ân giảm của người bị kết án lên Văn phòng Chủ tịch nước để trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định. Để đảm bảo việc xét đơn xin ân giảm được nhanh chóng và hiệu quả, ngày 5/9/2003, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước có quyết định 60-QĐ- VP-PL ban hành Quy chế xử lý hồ sơ xin ân giảm hình phạt tử hình ở cơ quan văn phòng Chủ tịch nước. Theo đó thời gian giải quyết đối với mỗi hồ sơ vụ án tại cơ quan Văn phòng Chủ tịch nước trung bình là 45 ngày kể từ ngày hồ sơ đến Văn phòng chủ tịch nước. Những trường hợp đặc biệt do Chủ tịch nước quyết định. Quy chê này cũng quy định về trình tự thủ tục xử lý hồ sơ vụ án tại Văn phòng Chủ tịch nước. Cùng với quy chế nêu trên, ngày 30/10/2003, Văn phòng Chủ tịch nước và Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quy chế số 72-QC-LT về phối hợp công tác giữa hai cơ quan này. Tại mục V của Quy chế 72 quy định việc xét đơn xin ân giảm hình phạt tử hình, về trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp giữa Văn phòng Chủ tịch nước và Tòa án nhân dân tối cao trong việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết hồ sơ xin ân giảm hình phạt tử hình. Những trường hợp đơn xin ân giảm mà có nội dung kêu oan thì Văn phòng Chủ tịch nước trả hồ sơ về cho Tòa án nhân dân tối cao giải quyết. Đối với những trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ hoặc Văn phòng
  • 43. 38 Chủ tịch nước có yêu cầu báo cáo bổ sung thì Tòa án nhân dân có trách nhiệm xác minh, bổ sung tài liệu trong thời hạn không quá 30 ngày. Trường hợp mà Chủ tịch nước chấp nhận đơn xin ân giảm của người bị kết án tử hình thì hình phạt tử hình được chuyển xuống thanh tù chung thân. Hai quy chế này đã khắc phục được những vướng mắc trong trình tự xét đơn xin ân giảm án tử hình mà Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 chưa quy định cụ thể. Quy định cụ thể về hồ sơ, trình tự, thủ tục xem xét ân giảm án tử hình, điểm 8 khoản 3 Điều 2 Quyết định số 207-QĐ/CTN ngày 6-7-1994 của Chủ tịch nước về chức năng nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức của Văn phòng Chủ tịch nước quy định: "Văn phòng Chủ tịch nước có nhiệm vụ, quyền hạn về đặc xá". Theo Thông báo số 10-TB/VP-PL ngày 25-3-1999 của Văn phòng Chủ tịch nước, hồ sơ trình Chủ tịch nước xét đơn xin ân giảm của người bị kết án bao gồm: đơn xin ân giảm của người bị kết án viết trong thời hạn quy định (bảy ngày kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật) hoặc đơn quá hạn có lý do chính đáng (Đơn xin ân giảm phải là bản chính, có chữ ký hoặc điểm chỉ của người bị kết án, trường hợp đơn xin ân giảm do người khác viết hộ hoặc phiên dịch, thì cũng phải có chữ ký, ghi rõ họ, tên của những người đó. Đơn xin ân giảm phải có xác nhận của đơn vị giam giữ người bị kết án); Tờ trình của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Tờ trình của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định không kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; quyết định không kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; các bản án sơ thẩm, phúc thẩm; đơn xin ân giảm cho người bị kết án của các tổ chức xã hộ, nhân dân, chính quyền địa phương hoặc của những người thân thích như bố, mẹ, anh chị em ruột của người bị kết án (nếu có); biên bản khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của người bị kết án gây ra như đền bù vật chất cho người bị hại (nếu có); giấy tờ, tài liệu khác có liên quan đến việc xem xét đơn xin ân giảm của người bị kết án như giấy chứng nhận gia đình có công với cách mạng, Huân chương, Huy chương...
  • 44. 39 Đối với những trường hợp người bị kết án không gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước, Công văn số 127/KHXX ngày 9-1-1997 của Tòa án nhân dân tối cao về thi hành hình phạt tử hình đã hướng dẫn: Sau khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự xong mà trong đó có người bị xử tử hình nhưng hết thời hạn kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm không nhận được đơn kháng cáo và cũng không nhận được đơn xin ân giảm án tử hình, thì Tòa án cấp sơ thẩm cần phối hợp với trại tạm giam nơi đang giam giữ người bị phạt tử hình để xác minh xem người bị xử phạt tử hình có làm đơn kháng cáo hoặc có làm đơn xin ân giảm án tử hình hay không. Cần phải lập biên bản về kết quả xác minh này. Biên bản phải có chữ ký của cán bộ Tòa án, cán bộ trại tạm giam và người bị xử phạt tử hình... Nếu kết quả xác minh cho thấy người bị xử phạt tử hình không làm đơn kháng cáo mà có làm đơn xin ân giảm, nhưng bị thất lạc, nay muốn làm đơn xin ân giảm án tử hình, thì cho người bị xử phạt tử hình viết đơn xin ân giảm án tử hình. Biên bản xác minh đơn xin ân giảm án tử hình và hồ sơ vụ án phải được gửi ngay cho Ban thư ký Tòa án nhân dân tối cao. Nếu kết quả xác minh cho thấy người bị xử phạt tử hình không làm đơn kháng cáo và không làm đơn xin ân giảm án tử hình, thì trong biên bản phải ghi rõ việc người bị xử phạt tử hình không có kháng cáo và không làm đơn xin ân giảm án tử hình. Biên bản xác minh cùng hồ sơ vụ án phải gửi ngay cho Ban thư ký Tòa án nhân tối cao.[58] Quy định hướng dẫn cụ thể trên đây đã được áp dụng trong thời gian dài, và đã có những ý nghĩa nhất định trong việc đảm bảo quyền lợi của người bị kết án tử hình trong thời gian chờ thi hành án. Sau một thời gian dài áp dụng, nhằm đảm bảo triệt để quyền lợi của người bị kết án, cũng như tránh trường hợp tử hình oan, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 hướng dẫn thi hành một số