SlideShare a Scribd company logo
1 of 87
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TRUNG TÍNH
QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO THEO PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 10,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TRUNG TÍNH
QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO THEO PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 10,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số : 60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS. TS. VÕ KHÁNH VINH
HÀ NỘI – 2017
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chương 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN KHÁNG
CÁO CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.................................... 8
1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền kháng cáo trong Tố tụng
hình sự....................................................................................................... 8
1.2. Chủ thể có quyền kháng cáo và chủ thể có trách nhiệm đảm bảo
thực hiện quyền kháng cáo...................................................................... 21
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của quyền kháng cáo trong pháp
luật Tố tụng hình sự ................................................................................ 24
Chương 2 : THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO ......... 33
2.1. Quy định của pháp luật về chủ thể và phạm vi kháng cáo....................... 33
2.2. Quy định của pháp luật về thời hạn kháng cáo........................................ 36
2.3. Quy định của pháp luật về thủ tục thực hiện quyền kháng cáo ............... 44
2.4. Một số quy định khác về quyền kháng cáo............................................. 48
Chương 3 : THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO TẠI QUẬN 10,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM
QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO ....................................................... 56
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về quyền kháng cáo
của bị cáo tại Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh.................................... 56
3.2. Các giải pháp đảm bảo quyền kháng cáo của bị cáo .............................. 69
KẾT LUẬN ................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 81
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tàỉ
Có thể nói, quyền con người là thành quả của quá trình phát triển lâu
dài của lịch sử nhân loại, là một trong những giá trị quý báu nhất của nền văn
minh trong thời đại ngày nay. Ghi nhận và bảo vệ quyền con người trên thực
tế là thể hiện của một Nhà nước nhân dân, tiến bộ, dân chủ, văn minh. Các
quyền con người trở thành đối tượng bảo vệ trong việc ghi nhận về pháp lý,
trong hoạt động thi hành pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật của Nhà nước.
Quyền kháng cáo là một quyền cơ bản của người tham gia tố tụng, đây
là cách thức để người tham gia tố tụng có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của chính mình trước những phán quyết không hợp pháp, không có căn
cứ của Tòa án cấp sơ thẩm. Bảo vệ và nâng cao quyền kháng cáo cũng góp
phần bảo vệ quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự.
Việt Nam đang ra sức xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, một nhà nước mà trong đó quyền con
người đươc thừa nhân, tôn trọng và bảo vệ. Vì vậy, bảo đảm quyền còn người
nói chung và quyền kháng cáo nói riêng là một yêu cầu cấp thiết nhằm thực
hiện đúng đắn, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về cải
cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay.
Trong tố tụng hình sự Việt Nam, quyền kháng cáo được ghi nhận từ lâu
và không ngừng được hoàn thiện, mở rộng nhằm đảm bảo quyền con người
của người tham gia tố tụng, về cơ bản các quy định về quyền kháng cáo trong
pháp luật Tố tụng hình sự hiện hành đã đáp ứng được yêu cầu của việc thực
hiện quyền này trên thực tế, đảm bảo được ý nghĩa thực sự của nó.
2
Tuy nhiên, trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự hiện nay, nhiều quy
định về quyền kháng cáo đã dần bộc lộ một số vướng mắc, hạn chế cũng như
những bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền,
lợi ích của người tham gia tố tụng mà đặc biệt là đối với bị cáo. Do đó, việc
hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự về quyền kháng cáo cũng như đưa ra
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền kháng cáo đối
với bị cáo là một nhu cầu tất yếu khách quan trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước pháp quyền hiện nay.
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã được xây dựng với nhiều thay đổi
quan trọng, trong đó quyền kháng cáo của bị cáo được nâng cao hơn. Cùng
với việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã được thể hiện
trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị và công
cuộc xây dựng Nhà nước pháp quvền đang được đẩy mạnh, việc nghiên cứu
một cách hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành các quy định về
quyền kháng cáo, từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật Tố tụng hình sự và nâng cao hiệu quả thực hiện quyền này là hết
sức quan trọng, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ những nhu cầu đó, để có cái nhìn toàn diện, sâu sắc về
quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam, tác giả chọn đề
tài “Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn
Quận 10 – Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kháng cáo là một chế định quan trọng trong Tố tụng hình sự, do đó về
vấn đề này có khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và nghiên cứu. Như : Luận
văn thạc sỹ Luật học “Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt
Nam” của tác giả Võ Ngọc Triều (2014) năm 2014, Trường đại học Luật
3
Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sỹ Luật học “Quyền kháng cáo trong
Tố tụng hình sự Việt Nam” (2015) của tác giả Lê Thị Thùy Dương, Trường
đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều đề cập đến quyền kháng
cáo. Tuy nhiên các công trình hoặc nghiên cứu quyền kháng cáo của bị cáo và
của những người tham gia tố tụng khác trong Tố tụng hình sự Việt Nam, hoặc
nghiên cứu quyền kháng cáo của bị cáo trên phạm vi địa phương nhất định, có
đặc điểm kinh tế xã hội khác nhau nên kết quả nghiên cứu có thể khác nhau
khi liên hệ với thực tiễn.
Do đó, việc nghiên cứu, tiếp cận quyền kháng cáo bị cáo trong Tố tụng
Hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh dưới góc độ
là một quyền tố tụng, nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề lý luận,
đồng thời tổng kết đánh giá qua các vụ án hình sự đã đưa ra xét xử trên thực
tế, xem xét quy định của Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự 2015 để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo là điều cần thiết trong gia đoạn hiện
nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu luận văn là từ việc nghiên cứu lý luận, các quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự về quyền kháng cáo và thực tiễn thi hành
các quy định này trong thực tiễn xét xử trong phạm vi xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự tại Toà án nhân dân Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh, phân tích
các điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, từ đó có kết luận, đề xuất các
giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả việc thực
hiện quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự.
4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn bao gồm :
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền kháng cáo của bị cáo
trong Tố tụng hình sự.
- Nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt
Nam về quyền kháng cáo của bị cáo. Thực tiễn thực hiện các quy định của
pháp luật về quyền kháng cáo của bị cáo tại Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh
- Đưa ra các giải pháp bảo đảm quyền kháng cáo của bị cáo
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về quyền
kháng cáo; các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành
về quyền kháng cáo và thực tiễn thi hành các quy định về quyền kháng cáo
trong những năm gần đây trên địa bàn Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, đồng thời để phù hợp với
mục đích, đối tượng nghiên cứu, tác giả tập trung vào một số vấn đề sau:
- Những quy định của pháp luật tố tụng hiện hành về quyền kháng cáo
của bị cáo và một số quy định về quyền kháng cáo theo pháp luật Tố tụng
hình sự quốc tế và một số nước trên thế giới.
- Nghiên cứu thực tiễn việc thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo và
việc đảm bảo thực hiện quyền kháng cáo của các cơ quan có thẩm quyền từ
thực tiễn Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây.
5
- Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền kháng
cáo của bị cáo, tập trung ở việc hoàn thiện các quy định của Pháp luật Tố tụng
hình sự.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Tác giải vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và lý
luận về nhận thức của triết học Mác - Lê Nin; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và Pháp luật, về quyền con người; Quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam về vấn đề cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm :
- Phương pháp phân tích, so sánh, chứng minh dùng để làm rõ về mặt
lý luận các quy định về quyền kháng cáo của bị cáo;
- Phương pháp lịch sử được vận dụng nhằm phân tích, đánh giá sự kế
thừa và phát triển của các quy định trong Pháp luật tố tụng hình sự;
- Phương pháp thống kê, tham khảo ý kiến chuyên gia, khảo sát kết quả
hoạt động xét xử thông qua các bản án sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm để
đánh giá về thực tiễn;
- Phương pháp tổng hợp những kết quả nghiên cứu để đưa ra những
kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định về quyền kháng cáo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
6
So với các công trình khác, đề tài tiếp cận, nghiên cứu quyền kháng cáo
dưới góc độ đây là một quyền năng tố tụng của những người tham gia tố tụng.
Luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quyền kháng cáo trong Tố
tụng hình sự; góp phần vào việc nhận thức được bản chất, đặc điểm, ý nghĩa
của quyền kháng cáo cũng như mối quan hệ giữa quyền kháng cáo và các
quyền tố tụng khác trong tư pháp hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đã phân tích, đánh giá một cách khoa học những quy định của
Pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về quyền kháng cáo cũng như
đánh giá một cách khách quan về thực tiễn thực hiện quyền kháng cáo. Chỉ rõ
những bất cập trong quy định của pháp luật cần hoàn thiện cũng như những
vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật cần khắc phục. Trên những cơ
sở đó, luận văn đã đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật hiện hành về quyền kháng cáo cũng như những giải pháp nâng cao
hiệu quả của việc thực hiện quyền kháng cáo.
Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong giảng
dạy, học tập về pháp luật Tố tụng hình sự. Đây cũng cỏ thể là nguồn tư liệu
mang tính lý luận và thực tiễn cao, dùng để tham khảo trong quá trình sửa đổi,
bổ sung để hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1 : Những vấn đề lý luận về quyền kháng cáo của bị cáo trong
Tố tụng hình sự
Chương 2 : Thực trạng quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt
Nam về quyền kháng cáo của bị cáo
7
Chương 3 : Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về quyền
kháng cáo của bị cáo tại Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh và các giải pháp
bảo đảm quyền kháng cáo của bị cáo
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ
CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền kháng cáo trong Tố
tụng hình sự
1.1.1 Khái niệm quyền kháng cáo trong Tố tụng hình sự
Tố tụng hình sự là một lĩnh vực mang tính nhạy cảm và phức tạp, hoạt
động này có thể tác động một cách trực tiếp đến quyền tự do dân chủ của con
người, của công dân. Các phán quyết của Tòa án sẽ quyết định số phận pháp
lý của một cá nhân, quyết định ngay cả đối với quyền được sống của người
phạm tội. Mọi sai lầm, dù lớn hay nhỏ cũng có thể để lại những hậu quả tiêu
cực và có thể sẽ không khắc phục được. Do đó, để có thể phát hiện chính xác,
nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt
tội phạm, không làm oan người vô tội, pháp luật Tố tụng hình sự đã đặt ra rất
nhiều cơ chế, cách thức khác nhau. Một trong những phương thức để đảm bảo
tính chính xác trong phán quyết của Tòa án đó chính việc quy định và đảm
bảo thực hiện có hiệu quả quyền kháng cáo bị cáo để phát sinh thủ tục xét xử
lại ở cấp phúc thẩm.
Quyền kháng cáo là một trong những quyền cơ bản của một số người
tham gia tố tụng nói chung và của bị cáo nói riêng. Hiểu và thực hiện một
cách hiệu quả quyền này giúp bị cáo có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Các vấn đề liên quan đến quyền kháng cáo như chủ thể có
quyền kháng cáo, thời hạn kháng cáo, thủ tục kháng cáo...được pháp luật quy
định khá rõ ràng và cụ thể, nhưng văn bản pháp lý hiện hành vẫn chưa đưa ra
được một cách hiểu thống nhất về quyền kháng cáo. Việc thống nhất khái
9
niệm về quyền kháng cáo là một cơ sở để nghiên cứu quyền này trong pháp
luật Tố tụng hình sự.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt: "Kháng cáo là chống án, yêu cầu Tòa án
cấp trên xét xử" [38, tr.888] hay theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ
học thì kháng cáo là “Chống án lên Tòa án cấp trên yêu cầu xét xử lại” [33,
tr.492]. Như vậy, nếu xét về mặt ngôn ngữ thì kháng cáo là chống án, phản
đối bản án và quyền kháng cáo là quyền được chống lại bản án, thể hiện sự
không đồng ý với các phán quyết của Tòa án. Sự phản đối này được thể hiện
bằng cách “yêu cầu xét xử lại” chứ không phải “chống đối” bằng một hành vi
khác. Khái niệm này đã nêu được bản chất của quyền kháng cáo, đó chính là
“chống án” và “yêu cầu xét xử lại”. Tuy nhiên, đây chi mới là một khái niệm
giải quyết được về mặt ngôn ngữ, mang tính khái quát, rất chung chung và
chưa cụ thể; những vấn đề có liên quan như đối tượng kháng cáo là gì, chủ thể
kháng cáo là ai chưa được đề cập trong khái niệm này.
Theo Từ điển Luật Học –Nhà xuất bản Tư pháp thì “Kháng cáo là
hành vi chống án, yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm đối với bản án,
quyết định chưa có hiệu lực pháp luật trong trường hợp đương sự không đồng
ý với toàn bộ bản án hoặc một phần của bản án, quyết định sơ thẩm” [34,
tr.417]. Khái niệm này đã nêu được cơ bản những vấn đề như chủ thể, đối
tượng, mục đích nhưng vẫn còn một số điểm chưa đầy đủ.
Cách đồng nhất khái niệm “kháng cáo” và”chống án” như trên là không
hợp lý bởi thuật ngữ “chống án” hiện nay khoa học pháp lý đã không còn ghi
nhận và thuật ngữ “đương sự” chỉ phù hợp với Tố tụng dân sự chứ không phù
hợp với Tố tụng hình sự bởi trong Tố tụng hình sự, khái niệm đương sự
không được quy định. Nếu suy ra từ Điều 54 Bộ luật Tố tụng hình sự thì
đương sự có thể hiểu là Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
10
người có quyền nghĩa vụ liên quan, điểm không hợp lý ở đây chính là quyền
kháng cáo không chi dành riêng cho những chủ thể này mà còn có những
người khác.
Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “Kháng cáo là biểu thị sự bất đồng của
mình đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa
án cấp trên xét xử lại ”[10, tr. 215]. Khái niệm này về cơ bản đã giải quyết
được một số vấn đề có liên quan như chủ thể, đối tượng. Tuy nhiên, vẫn còn
những điểm chưa hợp lý như : Khái niệm chỉ mới đề cập đến đối tượng kháng
cáo là bản án hoặc quyết định của Tòa án mà không kèm theo điều kiện phải
là bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật; Tác giả dùng từ “mình” khi
nói về chủ thể có quyền kháng cáo, cách sử dụng đại từ này không thể xác
định một cách cụ thể là ai có quyền kháng cáo; Thẩm quyền xét xử phúc thẩm
theo khái niệm mà tác giả Đinh Văn Quế đã đưa ra là thuộc về “Tòa án cấp
trên” là chưa cụ thể.
Theo Luật Tổ chức Tòa án năm 2014 thì hệ thống Tòa án nhân dân
nước ta hiện nay được tổ chức theo 4 cấp : Tòa án nhân dân cấp huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân cấp cao và Toà án nhân dân tối
cao. Vì vậy, nếu phát biểu như định nghĩa trên có thể hiểu rằng chỉ cần là Tòa
án cấp trên của Tòa án đã xét xử sơ thẩm là Tòa án có thẩm quyền. Phát biểu
như vậy là chưa chuẩn xác vì Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm theo
quy định hiện hành phải là Tòa án cấp trên trực tiếp.
Theo giáo trình Luật Tố tụng hình sự của trường Đại học Luật Tp. Hồ
Chí Minh, quyền kháng cáo được hiểu “là quyền của những chủ thể theo quy
định của pháp luật được đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại bản án
và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ”[28, tr.
11
525]. Với khái niệm này, có thể đã có được cái nhìn khái quát về kháng cáo
trong Tố tụng hình sự Việt Nam. Nhưng để đưa ra được khái niệm về quyền
kháng cáo trong Tố tụng hình sự theo đúng bản chất của nó thì cần phải thông
nhất một số vấn đề sau:
Thứ nhất, quyền kháng cáo nói chung và kháng cáo trong Tố tụng hình
sự nói riêng là một trong số những quyền cơ bản của con người, của công dân
đã được pháp luật thừa nhận và đảm bảo thực hiện. Quyền này đã được ghi
nhận trong Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966, cũng
như một số công ước mang yếu tố vùng như Nghị định thư số 7, Công ước
bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do cơ bản của cộng đồng Châu Âu hay
Công ước Châu Mỹ về nhân quyền. Quyền kháng cáo thể hiện khả năng của
công dân được trình bày thái độ “chống đối” của mình đối với bản án, quyết
định của Tòa bằng việc yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại đối với vụ án. Với
pháp luật nước ta thì Tòa án cấp phúc thẩm phải là Tòa án cấp trên trực tiếp.
Như vậy, nếu tiếp cận ở mức độ chung nhất thì có thể hiểu kháng cáo là
quyền của công dân nhằm chống lại bản án, quyết định của Toà án, yêu cầu
Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại.
Thứ hai, quyền kháng cáo là quyền cơ bản của công dân nhưng trong
Tố tụng hình sự quyền này chỉ có thể thực hiện khi công dân đó trở thành bị
cáo trong một vụ án hình sự cụ thể. Điều đó không có nghĩa rằng, quyền
kháng cáo là quyền giành riêng cho bị cáo. Nhưng không phải tất cả những
người tham gia tố tụng đều có quyền này bởi thực hiện quyền kháng cáo trước
hết là để tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng đối với
những phán quyết của Tòa án mà theo họ là không hợp lý, không đảm bảo
tính có căn cứ và hợp pháp. Vì vậy, chỉ những người tham gia tố tụng nào có
quyền và lợi ích bị ảnh hưởng bởi những phán quyết của Tòa án thì mới có
12
quyền thể hiện sự bất đồng của mình thông qua việc thực hiện quyền kháng
cáo.
Thứ ba, đối tượng để bị cáo kháng cáo là những bản án, quyết định của
Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật. Để đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử, bản
án, quyết định của Tòa án sơ thẩm chưa phát sinh hiệu lực ngay mà pháp luật
giành cho bị cáo một khoản thời gian nhất định để xem xét và thể hiện ý kiến
của mình thông qua việc thực hiện quyền kháng cáo. Như vậy, có thể khẳng
định rằng bản án, quyết định của Tòa án đã phát sinh hiệu lực thì không thể là
đối tượng kháng cáo để phát sinh thủ tục phúc thẩm, nếu trong trường hợp cần
xem xét lại vì có vi phạm thì sẽ xem xét theo thủ tục Giám đốc thẩm hoặc thủ
tục Tái thẩm.
Thứ tư, quyền kháng cáo là quyền của bị cáo, quyền này sẽ được đảm
bảo thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, quyền kháng cáo
phải được thực hiện một cách hợp pháp theo đúng quy định về thời hạn, thủ
tục, đúng cách thức cũng như các quy định khác mà pháp luật đã ghi nhận. Có
như vậy, thì kháng cáo mới được xem là cơ sở để phát sinh thủ tục phúc thẩm.
Như vậy, khái niệm về quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình
sự có thể được hiểu như sau:
“Quyền kháng cáo phúc thẩm hình sự là quyền của một số người tham
gia tố tụng mà pháp luật ghi nhận trong thời hạn bằng thủ tục luật định được
yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án xét lại quyết định mà bản
án, quyết định sơ thẩm đó chưa phát sinh hiệu lực pháp luật”.
1.1.2 Đặc điểm của quyền kháng cáo của bị cáo
Thông qua việc phân tích khái niệm quyền kháng cáo cũng như nghiên
cứu các quy định về quyền kháng cáo trong pháp luật quốc tế và pháp luật
13
Việt Nam có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của quyền kháng cáo của bị
cáo như sau:
Thứ nhất, quyền kháng cáo là quyền cơ bản của bị cáo trong lĩnh vực
tư pháp hình sự, là phương tiện để bị cáo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình
Bảo đảm quyền con người là một trong những nội dung và cũng là mục
đích của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tư pháp
hình sự là lĩnh vực hoạt động đặc thù của Nhà nước thông qua các cơ quan có
thẩm quyền của mình nhằm thực hiện quyền tư pháp. Lĩnh vực này mang tính
nhạy cảm do nó tác động trực tiếp đến quyền cơ bản của công dân. Nguy cơ
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, đặc iệt
là bị cáo từ phía những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền là rất cao nếu như có
sai lầm trong việc phát hiện và xử lý tội phạm. Vì vậy, vấn đề bảo vệ quyền
con người trong lĩnh vực này là hết sức cần thiết.
Trong lĩnh vực tư pháp, bị cáo có nhiều quyền khác nhau như quyền
bào chữa, quyền được suy đoán vô tội, quyền bất khả xâm phạm về tính
mạng, sức khỏe, danh dự...trong đó có quyền kháng cáo đối với những bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Đây chính là khả năng mà
pháp luật cho phép bị cáo được quyền bày tỏ sự không đồng ý với phán quyết
cùa Tòa án cấp sơ thẩm và yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án, quyết
định. Quyền kháng cáo được xem là một quyền cơ bản của người người tham
gia tố tụng, đặc biệt là đối với bị cáo.
Thứ hai, quyền kháng cáo của bị cáo là quyền gắn liền với một xã hội
mang tính dân chủ
Sự hình thành và phát triển của quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố
tụng hình sự gắn liền với sự hình thành và phát triển các tư tưởng, các nguyên
14
tắc dân chủ, tiến bộ của Tố tụng hình sự như công bằng, nhân đạo, suy đoán
vô tội, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo... Quyền kháng cáo ra đời
như một tất yếu khách quan khi các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự
ngày càng hướng đến việc bảo vệ hiệu quả quyền con người.
Quy định quyền kháng cáo và đảm bảo thực hiện quyền này đã tạo cơ
hội cho bị cáo được nói lên được tiếng nói của mình, thể hiện thái độ bất đồng
với những phán quyết của Tòa án sơ thẩm, qua đó góp phần bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ thông qua thủ tục xét xử phúc thẩm. Điều đó khẳng
định quyền kháng cáo chỉ có thề tồn tại trong Tố tụng tụng hình sự của những
chế độ có nền dân chủ, tôn trọng quyền con người. Còn ở những chế độ phi
dân chủ như chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, khi vấn đề quyền con người
không được xem trọng thì người bị kết tội sẽ không có quyền phản đối những
phản quyết của Tòa án.
Thứ ba, quyền kháng cáo của bị cáo là quyền mang tính quốc tế
Sự ra đời của quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự như
một tất yếu khách quan xuất phát từ bản chất dân chủ, tiến bộ của hệ thống tư
pháp hiện đại. Ở bất cứ quốc gia nào mà vấn đề quyền con người trong lĩnh
vực tư pháp hình sự được quan tâm thì ở đó, quyền kháng cáo sẽ tồn tại.
Chính vì vậy, không chỉ được ghi nhận trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt
Nam, quyền kháng cáo còn được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế,
cũng như trong quy định pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới.
Quyền kháng cáo được đề ra lần đầu tiên trong kỳ họp thứ 14 của ủy
ban thứ 3 Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên sau đó, vấn đề này bị
dừng lại, không bàn bạc thêm và cũng không pháp điển hóa thành một quy
định trong Công ước về nhân quyền và các quyền tự do cơ bản của Cộng
đồng Châu Âu. Năm 1966, khi Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
15
chính trị được thông qua, quyền kháng cáo của bị cáo đã chính thức được ghi
nhận tại Khoản 5 Điều 14 của Công ước: “Bất cứ người nào bị kết án là phạm
tội đều có quyền yêu cầu toà án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt
đối với mình theo quy định pháp luật. ”
Một văn bản pháp lý khác ghi nhận quyền kháng cáo đó chính là Công
ước Châu Mỹ về nhân quyền; Quyền kháng cáo được quy định tại Khoản 2
Điều 8 của Công ước: "... Trong tố tụng, bất kì ai cũng đều hoàn toàn bình
đẳng trong việc bảo đảm những điều tối thiểu sau đây : Quyền kháng cáo bản
án lên toà cấp cao hơn…” [27, tr 30 và tr. 257].
Như vậy, có thể khẳng định rằng quyền kháng cáo của bị cáo là một
quyền cơ bản của con người; quyền năng này mang tính quốc tế, trở thành
một chuẩn mực chung cho cộng đồng các quốc gia trên thế giới. Việc ghi
nhận và thực hiện quyền kháng cáo không còn là câu chuyện nội bộ của một
quốc gia, mà trở thành trách nhiệm của các quốc gia thành viên khi tham gia
vào các công ước có liên quan.
Thứ tư, quyền kháng cáo của bị cáo có mối liên hệ với quyền được xét
xử công bằng
Trong hoạt động xét xử của Tòa án, quyền được xét xử công bằng thể
hiện ở quy định : mọi công dân được bình đẳng trước pháp luật, trước Toà án
và được xét xử bởi Toà án độc lập, công khai và không thiên vị. Quyết định
hình phạt đối với người phạm tội phải tương xứng với tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi, với các đặc điểm nhân thân của người phạm tội, với
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ... Đồng thời, quyền được xét xử công bằng
còn thể hiện ở việc trong những điều kiện và hoàn cảnh phạm tội giống nhau
thì người phạm tội phải bị kết án và xử phạt như nhau. Để đưa ra một phán
quyết mang tính chính xác, đòi hỏi Hội đồng xét xử phải thật sự khách quan,
16
không thiên vị, đưa ra các quyết định trên cơ sở chứng cứ và quy định của
pháp luật. Tuy nhiên, yêu cầu này không phải bao giờ cũng đạt được do nhiều
nguyên nhân khác nhau.
Thực hiện quyền kháng cáo là cơ hội để bị cáo yêu cầu Tòa án cấp trên
xét xử lại bản án, quyết định mà họ cho rằng là bất lợi đối với họ. Việc xem
xét nội dung kháng cáo chưa chắc sẽ được giải quyết bằng một kết quả có lợi
hơn so với phán quyết ban đầu nhưng thông qua thủ tục phúc thẩm, công tác
kiểm tra được thực hiện và tính chính xác của các phán quyết sẽ cao hơn, đó
chính là sự đảm bảo quyền được xét xử công bằng. Quyền kháng cáo sẽ trở
thành sự thúc đẩy mạnh mẽ cho các Thẩm phán làm việc một cách tận tình và
tránh các sai sót hay sự chuyên quyền.
Như vậy, quyền kháng cáo của bị cáo và quyền được xét xử công bằng
có mối liên hệ mật thiết với nhau. Trong đó, quyền kháng cáo là một cách
thức để thực hiện hiệu quả quyền được xét xử công bằng. Ngược lại, quyền
được xét xử công bằng trở thành mục tiêu để thực hiện quyền kháng cáo.
Thứ năm, quyền kháng cáo của bị cáo có mối liên hệ với quyền bào
chữa
Quyền bào chữa là tổng hợp tất cả các quyền mà pháp luật giành cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sử dụng để chống lại sự buộc tội hoặc làm
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ. Quyền bào chữa được thực hiện bằng
nhiều cách thức khác nhau như : đưa ra tài liệu, đồ vật, tham gia tranh luận
với bên buộc tội. Đối với bị cáo, quyền bào chữa và quyền kháng cáo có mối
liên hệ mật thiết với nhau. Trong đó, quyền kháng cáo là một biểu hiện của
việc thực hiện quyền bào chữa, bởi khi bị cáo thực hiện quyền kháng cáo thì
bị cáo đã chống lại sự buộc tội của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc nhằm làm giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ bằng cách yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại
17
để đảm bảo quyền lợi ích cho mình. Ngược lại, chính quyền kháng cáo của bị
cáo đã tạo điều kiện cho quyền bào chữa được kéo dài và phát huy được hiệu
quả.
Khi xem xét nội dung kháng cáo, Tòa án phải mở phiên tòa và tại phiên
tòa, bị cáo có quyền tiếp tục thực hiện các cách thức khác nhau để bào chữa
cho mình, hoặc có thể nhờ người bào chữa bảo vệ quyền lợi cho mình. Như
vậy, tương tự như quyền được xét xử công bằng, quyền kháng cáo của bị cáo
và quyền bào chữa của bị cáo có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau.
1.1.3. Ý nghĩa của quyền kháng cáo của bị cáo trong tố tụng hình sự
Quyền kháng cáo trong Tố tụng hình sự là quyền năng tố tụng có vai
trò quan trọng đối với những người tham gia tố tụng khác nói chung, đối với
bị cáo nói riêng và đối với các cơ quan có thẩm quyền. Xét cả về mặt lí luận
và thực tiễn, kháng cáo phúc thẩm hình sự là chế định không thể thiếu được
trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam, nó là cơ sở pháp lý để đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo. Nếu không quy định quyền kháng cáo,
những bản án oan, sai được đưa ra thi hành có thể sẽ rất nhiều và quyền, lợi
ích hợp pháp của bị cáo không được xem xét. Ý nghĩa của quyền kháng cáo
được khẳng định thông qua một số nội dung sau:
Thứ nhất, quyền kháng cáo là phương thức để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị cáo
Quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo được Nhà nước bảo hộ bằng
nhiều cách thức khác nhau và quyền kháng cáo là một trong những cách thức
đó. Thực hiện quyền kháng cáo tức là bị cáo thể hiện một sự bất đồng với
những phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm và yêu cầu Tòa án cấp trên trực
tiếp xét xử lại những vụ án đó nhằm đảm bảo tính chính xác trong việc xét xử.
18
Yêu cầu của việc xét xử là phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tuy nhiên, không phải bao giờ kết quả của hoạt động xét xử cũng đảm bảo
yêu cầu đó. Việc áp dụng có thể có những sai sót do nhiều nguyên nhân khác
nhau. Quyền kháng cáo giúp bị cáo được trình bày ý kiến, nguyện vọng cũng
như những yêu cầu của mình đối với Tòa án khi cho rằng quyền và lợi ích của
họ đã bị xâm phạm do chính nội dung bản án, quyết định mà Tòa án đó đã
ban hành. Khi kháng cáo hợp pháp, vụ án sẽ được xét xử lại theo thủ tục phúc
thẩm để kiểm tra, phát hiện và khắc phục những sai lầm thiếu sót nếu có.
Chính vì vậy, quyền kháng cáo là một phương tiện quan trọng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.
Thứ hai, quyền kháng cáo của bị cáo là biểu hiện của việc giám sát
hoạt động xét xử của Tòa án
Hoạt động xét xử của Tòa án được xem là trọng tâm của quá trình giải
quyết vụ án. Vai trò của hoạt động này rất quan trọng bởi thông qua những
phán quyết của Tòa án, số phận pháp lý của một cá nhân sẽ được quyết định,
thậm chí quyết định cả quyền được sống của một con người. Chính vì vậy,
việc giám sát, kiểm sát hoạt động xét xử được đặt ra như một nhu cầu tất yếu.
Hoạt động kiểm sát xét xử được thực hiện bởi Viện kiểm sát thông qua việc
Kiểm sát viên phải tham gia phiên tòa; Còn hoạt động giám sát của người dân
thì bên cạnh vai trò của Hội thẩm khi trực tiếp tham gia vào hoạt động xét xử,
còn thể hiện thông qua những người tham gia phiên tòa, đặc biệt là đối với bị
cáo.
Thông qua việc giám sát đó, nếu phát hiện có sai phạm trong việc xử lý
vụ án thì bị cáo có quyền kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét lại để
đảm bảo tính chính xác trong các phán quyết. Như vậy, có thể nói quyền
19
kháng cáo của bị cáo là cơ chế để hoạt động giám sát xét xử được thực hiện
một cách hiệu quả.
Thứ ba, quyền kháng cáo là điều kiện để phát sinh thủ tục phúc thẩm;
là cách thức để đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử
Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án chưa
có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Vai
trò của thủ tục phúc thẩm là rất quan trọng, tuy nhiên không phải bất cứ vụ án
nào đã được xét xử sơ thẩm đều phải trải qua giai đoạn xét xử phúc thẩm vì
đây không phải là thủ tục đương nhiên phát sinh mà là thủ tục phát sinh có
điều kiện. Một trong những điều kiện để phát sinh thủ tục phúc thẩm chính là
quyền kháng cáo của bị cáo.
Như vậy, việc quy định và thực hiện quyền kháng cáo là một trong
những căn cứ, cơ sở pháp lý quan trọng làm phát sinh thủ tục phúc thẩm,
đồng thời cũng là căn cứ xác định phạm vi xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm.
Khi kháng cáo hợp pháp, Tòa án cấp phúc thẩm phải mở phiên tòa xét xử và
giải quyết lại đối với vụ án bị kháng cáo đó. Thủ tục phúc thẩm phát sinh là
biểu hiện của nguyên tắc hai cấp xét xử và chính kháng cáo là điều kiện để
đảm bảo thực hiện nguyên tắc này.
Nguyên tắc hai cấp xét xử là nguyên tắc cơ bản của pháp luật Tố tụng
hình sự, có tính bắt buộc chung, thể hiện quan điểm có tính định hướng của
Nhà nước trong việc tổ chức tố tụng để xét xử các vụ án hình sự. Nguyên tắc
thể hiện sự thận trọng của Nhà nước trong việc đưa ra những phán quyết,
quyết định số phận pháp lý của một con người. Chính quyền kháng cáo của bị
cáo đã trở thành một trong những điều kiện tiên quyết để Tòa án có thể xét xử
lại, là cơ chế để có thể đảm bảo được nguyên tắc này.
20
Thứ tư, quyền kháng cáo của bị cáo tạo điều kiện cho Tòa án có thể tự
kiểm tra, đánh giá hoạt động của mình; phát hiện, khắc phục những sai lầm
thiếu sót đồng thời có những hướng sửa chữa, khắc phục
Như đã phân tích, hoạt động xét xử không phải bao giờ cũng đảm bảo
được những yêu cầu đã đặt ra. Vì vậy, khi bị cáo thực hiện quyền kháng cáo
phúc thẩm cũng chính là cơ hội để Tòa án tự kiểm tra, đánh giá lại hoạt động
xét xử của mình. Thông qua việc xem xét kháng cáo, Tòa án cấp trên không
chỉ khắc phục những sai sót của Tòa án cấp dưới mà còn có có thể hướng dẫn
cho Tòa án cấp dưới nhận thức và áp dụng đúng đắn, thống nhất pháp luật,
nâng cao chất lượng xét xử các bản án.
Bên cạnh đó, việc xem xét kháng cáo cũng giúp cho Tòa án phát hiện
những điểm còn vướng mắc trong quy định của pháp luật. Bởi lẽ, một trong
số những nguyên nhân dẫn đến những sai phạm chính là thiếu sót, bất cập
trong quy định của pháp luật. Thông qua thủ tục xét xử phúc thẩm, Tòa án có
thẩm quyền sẽ xem xét và phát hiện được những lỗ hổng của pháp luật, những
điểm còn vướng trong quá trình áp dụng, từ đó có cơ sở để kiến nghị sửa đổi,
bổ sung các quy định có liên quan cho phù hợp với thực tiễn áp dụng.
Thứ năm, quy định và thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo giúp tạo niềm tin
của nhân dân vào Đảng, nhà nước và pháp luật
Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Nhà nước ban hành
pháp luật đồng thời thành lập các cơ quan nhằm đảm bảo việc thực hiện pháp
luật. Tuy nhiên, để có một xã hội ổn định, nhân dân tin tưởng và làm theo các
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thì việc xây dựng và củng cố
lòng tin trong nhân dân là rất quan trọng. Tòa án là cơ quan thực hiện chức
năng xét xử, Tòa án có quyền nhân danh Nhà nước ra bản án, quyết định. Mỗi
bản án, quyết định đều có khả năng ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích
21
của cá nhân, tổ chức có liên quan. Đồng thời, các bản án quyết định đó còn
được đảm bảo thực hiện bởi sức mạnh cưỡng chế trong quá trình thi hành án.
Do đó, nếu bản án được đưa ra thi hành là những bản án không đảm bảo tính
có căn cứ, tính hợp pháp thì không những ảnh hưởng trực tiếp đến những
người có liên quan đến vụ án mà còn kéo theo những hiệu ứng tiêu cực như
giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và pháp luật.
Qua việc thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo, Tòa án cấp trên trực
tiếp có cơ hội để kiểm tra, xem xét lại, đảm bảo một cách tối đa nhất tính
chính xác của những bản án, quyết định được đưa ra thi hành. Tạo niềm tin
tuyệt đối cho nhân dân vào kết quả của hoạt động xét xử. Bên cạnh đó, những
quy định về quyền kháng cáo cũng thể hiện được rằng Nhà nước ta là Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; luôn quan tâm và có cơ chế
để đảm bảo quyền lợi của nhân dân.
1.2. Chủ thể có quyền kháng cáo và chủ thể có trách nhiệm đảm
bảo thực hiện quyền kháng cáo
1.2.1. Chủ thể có quyền kháng cáo
Quyền kháng cáo trong Tố tụng hình sự là quyền cơ bản của con người
trong lĩnh vực tư pháp hình sự; nhưng quyền này chỉ có thể được thực hiện
khi họ tham gia tố tụng trong một vụ án hình sự. Đây là phương tiện để người
tham gia tố tụng tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên,
không phải tất cả những người tham gia tố tụng đều có quyền kháng cáo.
Theo Tố tụng hình sự hiện hành, người tham gia tố tụng hiện nay được chia
thành 3 nhóm:
Người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích trong vụ án: Người bị tạm
giữ; bị can; bị cáo; người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có
quyền, nghĩa vụ liên quan.
22
Người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích cho người khác và
góp phần bảo vệ công lý: Người bào chữa; người bảo vệ quyền lợi cho đương
sự.
Người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý: Người làm chứng; người
giám định; người phiên dịch.
Trong ba nhóm người tham gia tố tụng này, phù hợp với lý luận Tố
tụng hình sự thì chỉ có một số chủ thể thuộc nhóm thứ nhất có quyền kháng
cáo, vì đây là những chủ thể có quyền và nghĩa vụ pháp lý liên quan đến vụ
án, họ có khả năng bị ảnh hưởng bởi bản án, quyết định của Tòa án, cụ thể đó
là: bị cáo; người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự;người có quyền,
nghĩa vụ liên quan.
Nội dung mà người có quyền kháng cáo được yêu cầu xét xử lại sẽ xác
định tương ứng với mức độ ảnh hưởng của bản án đến quyền và lợi ích của
họ. Theo đó, quyền, lợi ích của người kháng cáo bị tác động bởi phần nào của
bản án thì sẽ có quyền kháng cáo, yêu cầu xét xử lại phần đó; mức độ ảnh
hưởng nhiều thì phạm vi kháng cáo rộng, ảnh hưởng ít thì phạm vi kháng cáo
hẹp hơn. Chính vì vậy, phạm vi kháng cáo sẽ khác nhau giữa các chủ thể do
mức độ ảnh hưởng của bản án, quyết định đến quyền và lợi ích của họ là khác
nhau.
Tóm lại, thực hiện quyền kháng cáo bao gồm nhiều chủ thể khác nhau
theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, tác giả
chỉ đi sâu nghiên cứu quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, là
người bị Toà án cấp sơ thẩm phán quyết là có tội và phải chịu hình phạt theo
bản án sơ thẩm.
23
1.2.2. Chủ thể có trách nhiệm đảm bảo thực hiện quyền kháng cáo
Xuất phát từ vấn đề mang tính lý luận, quyền của chủ thể này thì việc
đảm bảo thực hiện quyền đó sẽ là nghĩa vụ của chủ thể khác. Quyền kháng
cáo là một trong những quyền cơ bản của bị cáo và trách nhiệm đảm bảo thực
hiện quyền này sẽ thuộc về các cơ quan Nhà nước.
Khác với các quyền khác, quyền kháng cáo chỉ phát sinh khi phiên tòa
sơ thẩm đã kết thúc và bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa phát
sinh hiệu lực pháp luật. Ở giai đoạn này, chủ thể có trách nhiệm đảm bảo cho
việc thực hiện quyền kháng cáo chỉ có thể là Tòa án và cơ quan công an mà
cụ thể là Nhà tạm giam trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam hoặc bị bắt
tạm giam sau khi Tòa tuyên án. Tòa án, bao gồm cả Tòa án cấp sơ thẩm và
Tòa án cấp phúc thẩm là chủ thể chủ yếu có trách nhiệm đảm bảo cho bị cáo
thực hiện quyền kháng cáo bởi lẽ Tòa án là cơ quan tiếp nhận kháng cáo, xử
lý kháng cáo cũng như giải quyết, xem xét nội dung kháng cáo.
Trách nhiệm này đòi hỏi Tòa án phải thực hiện một số hoạt động cụ thể
như: Tòa án phải đảm bảo việc tuyên và giải thích quyền kháng cáo cho bị
cáo có mặt tại phiên tòa sơ thẩm; đảm bảo vấn đề giao bản án hoặc trích lục
bản án. Khi tiếp nhận kháng cáo, Tòa án phải có trách nhiệm xem xét, hướng
dẫn, giải thích cho người kháng cáo, hạn chế trường hợp kháng cáo không
hợp pháp do sai về mặt thủ tục, sai phạm vi kháng cáo.
Đối với trường hợp bị cáo đang bị tạm giam hoặc bị bắt tạm giam sau
khi tuyên án thì vai trò của Ban giám thị trại tạm giam là rất lớn trong việc
đảm bảo thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo. Ban giám thị trại tạm giam
phải có trách nhiệm tạo điều kiện cho bị cáo như cung cấp giấy, bút để bị cáo
viết đơn kháng cáo. Khi nhận được đơn kháng cáo từ bị cáo, Ban giám thị trại
24
tạm giam phải có trách nhiệm xác nhận ngày kháng cáo và gởi ngay đến Tòa
án có thẩm quyền.
Như vậy, trách nhiệm đảm bảo thực hiện quyền này lại thuộc về Tòa án
và Ban giám thị trại tạm giam. Ngoài những cơ chế đảm bảo thi hành đã được
quy định, trong thực tiễn áp dụng, các cơ quan như Tòa án, Ban giám thị trại
tạm giam phải phát huy vai trò cũng như thực hiện tốt các trách nhiệm của
mình nhằm tạo điều kiện để quyền kháng cáo được thực hiện một cách có
hiệu quả.
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển quyền kháng cáo của bị cáo
trong pháp luật Tố tụng hình sự
1.3.1. Quy định pháp luật về quyền kháng cáo của bị cáo giai đoạn từ
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước năm 1960
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã xóa bỏ chính quyền
nhà nước thực dân phong kiến, lập ra nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
là nhà nước độc lập dân chủ thực sự của nhân dân, mở ra một kỷ nguyên mới
trong lịch sử phát triển của nước ta. Dưới chế độ thực dân phong kiến, chế độ
tư bản, nền tư pháp chủ yếu là một bộ máy đàn áp, một bộ máy bóc lột tư sản.
Vì vậy, nhiệm vụ tuyệt đối của cách mạng vô sản không phải là cải cách các
chế định tư pháp..., mà là hủy bỏ toàn bộ, phá hủy đến tận gốc rễ nền tư pháp
cũ và bộ máy nhà nước.
Trong những ngày đầu sau khi giành được chính quyền, Nhà nước non
trẻ phải thực hiện nhiều nhiệm vụ nhắm chống lại thù trong, giặc ngoài, đồng
thời khẩn trương bắt tay xây dựng, củng cố bộ máy nhà nước để bảo vệ thành
quả cách mạng, xây dựng một Nhà nước của nhân dân, vì nhân dân.
Ngày 13/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh số 33C thành lập
Tòa án quân sự ở các địa phận khác nhau trong cả nước. Các Tòa án quân sự
25
ban đầu chưa phải là tổ chức chuyên trách, thường trực mà chỉ khi có vụ án
thì lập ra Tòa án để xét xử. Tại Điều 1 của sắc lệnh quy định : “Toà án quân
sự xử tất cả các người nào phạm một việc gì, sau hay trước ngày 19 tháng 8
dương lịch năm 1945, có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hoà…trừ khi phạm nhân là binh sỹ thì thuộc về nhà binh tự
xử lý theo quân luật”.
Hệ thống Tòa án trong giai đoạn này chỉ được tổ chức ở một cấp, do đó
"Những quyết nghị của Toà quân sự sẽ đem thi hành ngay, không có quyền
chống án, trừ trường hợp sau này nếu bản án tuyên xử tử, thì tội nhân có
quyền đệ đơn lên Chủ tịch Chính phủ xin ân giảm. Bán ản sẽ hoãn thi hành
chờ quyết nghị của ông Chủ tịch Chính phủ " (Điều 3)
Như vậy, theo quy định này thì bản án, quyết định của Tòa án sẽ có giá
trị thi hành ngay sau khi tuyên án, đồng nghĩa với việc không thừa nhận
quyền kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Quy định này là phù hợp với tình
hình đất nước lúc bấy giờ, bè lũ phản cách mạng đang tìm cách chống phá
chính quyền còn non trẻ nên những bản án, quyết định của Tòa án cần phải
được thi hành ngay để nghiêm trị kịp thời, làm gương cho kẻ khác. Quyền
kháng cáo của bị cáo trong gia đoạn này không được ghi nhận.
Nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu lực của bộ máy Nhà nước nói chung
và Tòa án nói riêng, ngày 24.01.1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã ra sắc
lệnh số 13 về Tổ chức của Tòa án và ngạch Thẩm phán. Đây là sắc lệnh đầu
tiên quy định một cách đầy đủ về tổ chức, giải quyết các tranh chấp, xử phạt
các vi phạm ở cơ sở cũng như tổ chức của Tòa án. Đồng thời trong sắc lệnh
này, tại Điều 34 đã quy định: “Tòa đại hình xử sơ thẩm. Ông biện lý, bị can,
nguyên đơn có quyền chống án lên tòa thượng thẩm ”. Như vậy, quyền kháng
cáo đã được chính thức ghi nhận dưới thuật ngữ “chống án”. Đây là cơ sở cho
26
việc cụ thể hóa và hoàn thiện các quy định của chế định này trong các giai
đoạn sau này.
Ngày 17/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 51/SL quy định
về thẩm quyền của Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án.
sắc lệnh quy định : ‘Tòa đệ nhị cấp có quyền xử chung thẩm những án vi cảnh
của Tòa án sơ cấp bị kháng cáo... (Điều thứ 10). “Tòa Thượng thẩm có quyền
xét xử những việc kháng cáo án sơ thẩm của các Tòa đệ nhị cấp và Phòng
luận tội của Tòa Thượng thẩm xét xử kháng cáo những mệnh lệnh của Dự
thẩm (Điều thứ 13). Biện lý và các đương sự trong đó có bị cáo, có quyền
kháng cáo những mệnh lệnh của Dự thẩm (Điều thứ 24)...”
Như vậy, bên cạnh việc xác định những bản án, mệnh lệnh nào có thể
bị kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, sắc lệnh 51/SL cũng đã khẳng định Tòa
án có thẩm quyền xét kháng cáo là Tòa án đệ nhị cấp, Tòa thượng thẩm. Đây
đều là những Tòa án cấp trên trực tiếp với Tòa án có bản án, quyết định bị
kháng cáo. Để cụ thể hơn những quy định về quyền kháng cáo, ngày
28/6/1946, sắc lệnh 112/SL được ban hành, quy định một cách chi tiết hơn về
việc kháng cáo.
Với hai sắc lệnh này, những quy định về quyền kháng cáo của bị cáo đã
được ghi nhận một cách khá cụ thể và được áp dụng thống nhất trong phạm vi
cả nước. Nhìn chung, trong giai đoạn này, mặc dù đất nước còn nhiều khó
khăn, tình hình xã hội còn nhiều phức tạp do chính quyền còn non trẻ nhưng
Nhà nước vẫn quan tâm, chú ý đến công tác xét xử nói chung và quyền kháng
cáo nói riêng. Thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm được duy trì để
phù hợp với tình hình xã hội, nhưng bên cạnh đó pháp luật vẫn ghi nhận và có
những quy định nhằm thực hiện tốt quyền kháng cáo. Đây sẽ là những cơ sở
27
ban đầu để Nhà nước tiếp tục ghi nhận và không ngừng hoàn thiện các quy
định về quyền kháng cáo của bị cáo sau này.
1.3.2. Quy định pháp luật về quyền kháng cáo của bị cáo giai đoạn từ
năm 1960 đến trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
Sự ra đời của Hiến pháp năm 1959 thay thế cho Hiến pháp năm 1946 là
một bước ngoặc lớn trong lịch sự lập pháp nước ta. Hiến pháp năm 1959 đã
dành một chương riêng để quy định về Tòa án. Căn cứ vào quy định của Hiến
pháp năm 1959, ngày 14/07/1960 tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa khóa II đã thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.
Theo Điều 9 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, lần đầu tiên nguyên
tắc hai cấp xét xử được ghi nhận : “Toà án nhân dân thực hành chế độ hai
cấp xét xử. Đương sự có quyền chống bản án hoặc quyết định của Toà án
nhân dân sơ thẩm lên trên một cấp ”.
Để đảm bảo thực hiện các quy định về quyền kháng cáo, nhiều văn bản
hướng dẫn khác của Toà án nhân dân tối cao đã được ban hành như: Công
văn số 570/TC ngày 2/4/1963 về thủ tục gửi hồ sơ án bị kháng án hoặc bị
kháng nghị; Công văn số 1932/NCLP ngày 4/9/1963 về giải quyết đơn kháng
cáo quá hạn; Thông tư số 03/NCLP ngày 15/9/1967 quy định về thời hạn
kháng cáo, kháng nghị...
Tuy nhiên, những văn bản này bộc lộ nhiều hạn chế. Chính vì thế, bản
hướng dẫn về trình tự xét xử phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao ban hành
kèm theo Thông tư số 19/TANDTC ngày 2/10/2974 đã có hướng dẫn cụ thể
về chủ thể có quyền kháng cáo, thủ tục, thời hạn kháng cáo.
Năm 1975, đất nước hoàn toàn giải phóng, sự ra đời của Hiến pháp
năm 1980 và Luật tổ chức Tòa án năm 1981 đã tiếp tục ghi nhận và hoàn
thiện hơn nữa các quy định về quyền kháng cáo. Các văn bản pháp luật hướng
28
dẫn cụ thể các vấn đề liên quan đến quyền kháng cáo liên tiếp được ban hành.
Với những nội dung đã được cụ thể hóa như đối tượng kháng cáo, thời hạn,
thủ tục kháng cáo...đã khẳng định được sự phát triển vượt bậc trong công tác
lập pháp về nội dung lẫn kỹ thuật.
Tuy nhiên, vấn đề quyền kháng cáo của bị cáo nói riêng và các quy
định về Tố tụng hình sự nói chung cũng chỉ mới được thể hiện trong những
văn bản pháp luật đơn hành mà chưa được pháp điển hóa thành một bộ luật
chuyên ngành mang tính hệ thống. Đồng thời, pháp luật lúc bấy giờ vẫn duy
trì thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm của Tòa hình sự Toà án
nhân dân tối cao cũng như Toà án nhân dân đặc biệt tại Thành phố Hồ Chí
Minh, điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyền kháng cáo của bị cáo và đây
chính là vấn đề cần phải được hoàn thiện trong các giai đoạn sau đó.
1.3.3. Quy định pháp luật về quyền kháng cáo của bị cáo từ khi ban
hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đến trước khi ban hành Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, toàn Đảng,
toàn quân và toàn dân ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, khắc phục những sai lầm, khuyết điểm trước
đây, mở ra những hướng mới, nhằm thoát khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế-
xã hội. Trong bối cảnh đó, những văn bản quy phạm pháp luật Tố tụng hình
sự không thể hiện được toàn diện, đầy đủ chính sách của Đảng và Nhà nước
ta trong lĩnh vực điều tra, truy tố, xét xử...Chính vì vậy, việc ban hành Bộ luật
Tố tụng hình sự là vấn đề mang tính khách quan và cấp thiết. Ngày
28/6/1988, tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam khóa VIII, đã thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự, có hiệu lực từ
ngày 1/1/1989.
29
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đã dành chương XII quy định xét xử
phúc thẩm và quyền kháng cáo, kháng nghị với tất cả 10 điều luật (từ Điều
205 đến Điều 213). Để phù họp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 1988 đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1990,
1992, 2000. Các quy định về kháng cáo ngày được hoàn thiện hơn qua các lần
sửa đổi, bổ sung. Các văn bản hướng dẫn về kháng cáo cũng được ban hành
kịp thời, như Thông tư 01/TTLN ngày 8/12/1988 của Tòa án tối cao — Viện
công tố tối cao hướng dẫn cụ thể về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm; Công
văn số 20/CNLP ngày 18/1/1994 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một
số điều về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm...
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đã quy định một cách cơ bản tất cả
các vấn đề liên quan đến quyền kháng cáo và cách thức thực hiện quyền
kháng cáo như: chủ thể có quyền kháng cáo (Điều 205), đối tượng, giới hạn
của việc kháng cáo (Điều 205); thủ tục kháng cáo (Điều 207); thời hạn kháng
cáo (Điều 208); kháng cáo quá hạn (Điều 209); bổ sung, thay đổi, rút kháng
cáo (Điều 212) và kháng cáo những quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm (Điều
213).
Nhìn chung, trên cơ sở kế thừa các quy định trước đó, Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 1988 đã khá thành công trong việc quy định những nội dung liên
quan đến quyền kháng cáo của bị cáo. Tuy nhiên, qua thời gian, những quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 cũng dần bộc lộ những hạn chế,
những điểm chưa phù hợp với những thay đổi của xã hội.
Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp đã được các Nghị quyết của
Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 08/NQ-TW, ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị
“Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đặt ra,
đồng thời cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp năm 1992 đã được sửa
30
đổi cũng như đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất với các văn bản pháp luật
có nội dung liên quan như Bộ luật Hình sự năm 1999, Luật tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2002, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002... Ngày
26/11/2003, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã được Quốc Hội khóa XI,
kỳ họp thứ tư thông qua toàn văn và có hiệu lực từ ngày 1/1/2004.
Bộ luật dành Phần thứ tư: “Xét xử phúc thẩm ”, với Chương XXIII:
‘‘Tính chất của xét xử phúc thẩm và quyền kháng cáo, kháng nghị” và
Chương XXIV: “Thủ tục phúc thẩm ” quy định về kháng cáo và các vấn đề
liên quan đến chế định này. Các quy định về kháng cáo trong Bộ luật Tố tụng
hình sự 2003 có nhiều điểm mới và ngày càng hoàn thiện, khắc phục những
hạn chế của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988. Thêm vào đó, để các quy định
về kháng cáo được áp dụng một cách thống nhất và chính xác, Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP
ngày 8 tháng 12 năm 2005 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần
thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003.
Với những quy định cụ thể, tiến bộ, quá trình áp dụng Bộ luật Tố tụng
hình sự 2003 cho thấy, các quy định của Bộ luật đã góp phần tích cực vào
việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nêu cao trách
nhiệm, tính chủ động của cơ quan và của người tiến hành tố tụng, nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Tuy nhiên, quá trình hơn 10 năm triển khai áp dụng, Bộ luật Tố tụng
dân sự 2003 đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế, không còn phù hợp trong tình hình
mới. Cùng với việc sửa đổi và ban hành Hiến pháp 2013, Luật tổ chức Toà án
nhân dân 2014, Bộ luật Hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được Quốc
hội khoá XIII thông qua tại kỳ họp thứ 10 với 510 điều chia làm 9 phần, 36
chương có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2015. Bộ luật được xây dựng trên
31
cơ sở khoa học, tiếp thu những tiến bộ và rút kinh nghiệm thực tiễn áp dụng
trong đời sống xã hội.
Tuy nhiên do điều kiện ban hành vội vã, Bộ luật Hình sự 2015 cũng
như Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có nhiều khiếm khuyết về mặt kỹ thuật
cần phải sửa chữa nên Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 144/2016/QH13
ngày 29/6/2016 về lùi ngày có hiệu lực của 02 bộ luật để xem xét sửa chữa
cho phù hợp. Tuy vậy, để đảm bảo nguyên tắc có lợi cho bị cáo, các quy định
có lợi trong 02 bộ luật vẫn được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án cho
đến khi các bộ luật mới được sửa chữa, bổ sung.
Kết luận Chương 1
Quyền kháng cáo phúc thẩm hình sự của bị cáo là quyền mà pháp luật
cho phép trong thời hạn và bằng thủ tục luật định mà bị cáo được yêu cầu Tòa
án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định mà bản án, quyết
định sơ thẩm đó chưa phát sinh hiệu lực. Đây là một trong những quyền cơ
bản của bị cáo trong pháp luật Tố tụng hình sự, là phương tiện để bị cáo tự
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình thông qua việc bày tỏ sự không đồng
ý với kết luận của Tòa án cấp sơ thẩm về tội danh, hình phạt hoặc các vấn đề
khác có liên quan và yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án, xét lại quyết
định đó.
Việc thực hiện quyền kháng cáo có ý nghĩa rất quan trọng đối với
người kháng cáo, đặc biệt là đối với bị cáo cũng như đối với quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Các cơ quan có thẩm quyền như Tòa án, Trại tạm giam
phải có trách nhiệm đảm bảo thực hiện quyền này. Ngoài những cơ chế đảm
bảo thi hành đã được quy định, trong thực tiễn áp dụng, các cơ quan như Tòa
án, Ban giám thị trại tạm giam phải phát huy vai trò cũng như thực hiện tốt
32
các trách nhiệm của mình nhằm tạo điều kiện để quyền kháng cáo của bị cáo
được thực hiện một cách có hiệu quả.
Thông qua thực hiện quyền kháng cáo, hoạt động xét xử của Tòa án sẽ
được sự giám sát từ phía người tham gia tố tụng, cụ thể là từ phía bị cáo, đảm
bảo nguyên tắc hai cấp xét xử và là điều kiện để Tòa án có thể tự kiểm tra,
đánh giá hoạt động của mình, phát hiện, khắc phục những sai lầm thiếu sót,
đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội và đúng quy định pháp luật, qua đó
tạo niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và pháp luật.
33
Chương 2
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO
2.1. Quy định của pháp luật về chủ thể và phạm vi kháng cáo
Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là một quyền năng tố tụng của một
số chủ thể tham gia tố tụng. Việc thực hiện quyền này thể hiện sự đánh giá
chủ quan của những người tham gia tố tụng đối với các quyết định của Tòa án
có thẩm quyền trong việc xử lý vụ án, có thể là sự bất đồng với các quyết định
đó và yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét lại cho phù hợp. Vấn đề đặt ra là chủ
thể nào có quyền kháng cáo và người kháng cáo có quyền yêu cầu xem xét lại
những nội dung nào liên quan đến bản án, một phần nội dung bản án hay toàn
bộ nội dung bản án. Đây chính là việc xác định chủ thể và phạm vi kháng cáo.
Như đã phân tích ở Chương I, chủ thể có quyền kháng cáo là những
người tham gia tố tụng có quyền, lợi ích liên quan đến bản án, quyết định sơ
thẩm và phạm vi kháng cáo của từng chủ thể sẽ phụ thuộc vào tư cách tố tụng
của chủ thể đó. Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định chủ thể và
phạm vi kháng cáo của bị cáo như sau : “Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp
pháp của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm… người
được Toà án tuyên bố là không có tội có quyền kháng cáo phần lý do bản án
sơ thẩm đã tuyên là họ không có tội”.
Trong phạm vi luận văn, tác giả chỉ nguyên cứu về chủ thể là bị cáo
trong vụ án hình sự. Đây là chủ thể quan trọng nhất trong vụ án hình sự, có
quyền kháng cáo bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án
cấp sơ thẩm. Tuy nhiên, ngoài bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo
cũng có quyền kháng cáo theo các quy định cụ thể như sau :
+ Đối với bị cáo :
34
Theo nguyên tắc suy đoán vô tội, một người chỉ bị xem là người có tội
khi họ “được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật (Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013). Bị cáo
là người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử, thời điểm bị can trở thành bị cáo
là thời điểm thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa
vụ án ra xét xử.
Bị cáo là chủ thể chịu nhiều ảnh hưởng từ bản án, quyết định của Tòa
án, bởi lẽ bị cáo có thể bị buộc tội, phải gánh chịu một hình phạt, phải thực
hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội của mình gây ra hoặc
phải chịu trách nhiệm khác theo quy định pháp luật. Vì vậy, việc ghi nhận
quyền kháng cáo của bị cáo là cách thức để bị cáo có thể tự bảo vệ mình trước
những quyết định không đúng đắn của Tòa án sơ thẩm. Quyền kháng cáo này
dành cho chính bị cáo, nếu bị cáo là người đã thành niên, không có nhược
điểm về thể chất hoặc tinh thần, không ai có thể thực hiện thay.
Nội dung bản án, quyết định sơ thẩm có ảnh hưởng rất lớn đến quyền
và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Chính vì vậy, phạm vi kháng cáo của bị cáo
khá rộng, Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định : “Bị cáo, người đại
diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm ”.
Như vậy, bị cáo có thể kháng cáo một phần hoặc toàn bộ nội dung bản án,
quyết định; có thể kháng cáo phần hình sự (tội danh, hình phạt…), kháng cáo
phần dân sự trong bản án hình sự (mức bồi thường, chủ thể bồi thường...).
Trong trường hợp bị cáo được Toà án tuyên bố là không có tội cũng có
quyền kháng cáo phần lý do của bản án sơ thẩm đã tuyên là họ không có tội.
Đây là quyền của bị cáo nhằm yêu cầu Tòa án khôi phục một cách triệt để
quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, đồng thời góp phần làm cho bản án,
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm phù hợp với thực tế hơn.
35
Tuy nhiên, cách quy định phạm vi kháng cáo của bị cáo như pháp luật
hiện hành rất dễ gây nhầm lẫn. Theo cách quy định này, bị cáo có thể kháng
cáo đối với toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án. Vấn đề này không phù hợp
về mặt lý luận bởi vì không phải lúc nào toàn bộ nội dung bản án, quyết định
của Tòa án sơ thẩm cũng ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo,
nhất là trong vụ án có nhiều đồng phạm, hoặc vụ án ghép của nhiều vụ án.
Trường hợp này, bị cáo chỉ được quyền yêu cầu xem xét lại những phần nào
liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các phần khác
không liên quan, bị cáo sẽ không có quyền kháng cáo.
+ Người đại diện hợp pháp của bị cáo
Quyền kháng cáo của bị cáo sẽ do chính bị cáo thực hiện nếu bị cáo là
người đã thành niên, không có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần. Nhưng
nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc là người có nhược điểm về thể chất
hoặc tâm thần, thì bị cáo vẫn có thể tự mình thực hiện quyền kháng cáo hoặc
thực hiện thông qua người đại diện hợp pháp của bị cáo. Trong trường hợp
này, quyền kháng cáo của bị cáo và người đại diện hợp pháp là độc lập, không
phụ thuộc vào yêu cầu của bị cáo và không làm mất đi quyền kháng cáo của
bị cáo.
Như vậy, quyền kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị cáo chỉ
phát sinh khi bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể
chất hoặc tâm thần. Thực hiện quyền kháng cáo là nhằm mục đích bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo nên phạm vi kháng cáo của người đại diện
hợp pháp trong trường hợp này được xác định tương tự bị cáo. Người đại diện
của bị cáo có thể kháng cáo một phần hoặc toàn bộ nội dung bản án, quyết
định; có thể kháng cáo phần hình sự (tội danh, loại hình phạt, mức hình phạt),
kháng cáo phần dân sự trong bản án hình sự (mức bồi thường, chủ thể bồi
36
thường...) liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo. Và chỉ
kháng cáo theo hướng có lợi cho bị cáo, người mà họ làm đại diện mà thôi.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (chưa có hiệu lực thi hành) quy định
về người kháng cáo và phạm vi kháng cáo tại điều 331 : “Bị cáo, người đại
diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm”.
Quy định của bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đối với quyền kháng cáo của
bị cáo không có thay đổi so với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
Khác biệt ở cách xây dựng điều luật, phân chia thành các khoản 1,2,3…. tạo
sự thuận lợi hơn khi tra cứu và trích dẫn.
2.2 Quy định của pháp luật về thời hạn kháng cáo
Thời hạn kháng cáo là khoảng thời gian mà pháp luật quy định cho các
chủ thể có quyền kháng cáo thực hiện quyền kháng cáo của mình. Sự hợp
pháp về thời hạn kháng cáo là một trong những điều kiện làm phát sinh hiệu
lực của kháng cáo. Do đó mọi kháng cáo phải được thực hiện đúng thời hạn,
trừ trường hợp kháng cáo quá hạn khi có lý do chính đáng và được Tòa án có
thẩm quyền chấp nhận.
2.2.1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm
Điều 234 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định : “Thời hạn kháng
cáo là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đổi với bị cáo, đương sự vắng mặt tại
phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc
được niêm yết”. Như vậy, thời gian thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo là
15 ngày nếu là kháng cáo đối với bản án nhưng tùy trường hợp mà thời hạn
này được tính từ những mốc sự kiện pháp lý khác nhau.
Trường hợp thứ nhất, bị cáo có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo
đối với bản án là 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Đây là một quy định hợp
lý vì các chủ thể này đã biết rõ mình bị Tòa án xét xử như thế nào, các phán
37
quyết trong bản án của Tòa án cấp sơ thẩm ảnh hưởng như thế nào đến quyền,
lợi ích hợp pháp của mình nên có thể thực hiện ngay việc kháng cáo.
Trường hợp thứ hai, bị cáo vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng
cáo cũng là 15 ngày nhưng được tính từ ngày bản án được giao cho họ, hoặc
được niêm yết. Bị cáo vắng mặt tại Tòa chỉ có thể biết được số phận pháp lý
của mình sau khi đã được nhận bản án từ Tòa án giao cho họ hoặc được niêm
yết. Do đó, quyền kháng cáo được phát sinh kể từ những thời điểm trên cũng
là một quy định hợp lý cho việc bảo vệ quyền, lợi ích của bị cáo, thể hiện triệt
để nguyên tắc nhân đạo của pháp luật nước ta.
Thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của thời hạn kháng cáo không
được quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 nhưng được hướng
dẫn tại tiểu mục 4.1, mục 4, phần I, Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP. Theo đó,
thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo là ngày tiếp theo của ngày xác định.
“Ngày xác định là ngày Tòa án tuyên án hoặc ra quyết định trong trường hợp
Viện kiểm sát, bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa hoặc là ngày bản án,
quyết định được giao hoặc niêm yết trong trường hợp bị cáo, đương sự vắng
mặt tại phiên tòa”. Như vậy, ngày được xác định không được tính vào thời
hạn kháng cáo nhưng điều đó không cản trở việc những người có quyền
kháng cáo thực hiện quyền này ngay trong ngày xác định, trường hợp ngay
trong ngày Tòa án tuyên án hoặc ra quyết định mà bị cáo có mặt tại Tòa có
đơn kháng cáo ngay thì Tòa án cấp sơ thẩm nhận đơn kháng cáo theo thủ tục
chung.
Thời hạn kháng cáo sẽ kết thúc vào ngày cuối cùng của thời hạn. Ngày
cuối cùng của thời hạn là ngày tròn : “Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo,
kháng nghị là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn... Thời điểm kết
thúc ngày cuối cùng của thời hạn vào lúc hai mươi tư giờ của ngày đó. Trong
38
trường hợp ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ
nhật) hoặc ngày nghỉ lễ, thời hạn kháng cáo kết thúc tại thời điểm kết thúc
ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó”.
Ngoài ra, Pháp luật Tố tụng hình sự quy định có lợi cho chủ thể kháng
cáo, đó là việc xác định thời điểm thực hiện quyền kháng cáo của người
kháng cáo. Điều 234 Bộ luật Tố tụng hình sự : "Nếu đơn kháng cáo gửi qua
bưu điện thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi
đóng dấu ở phong bì. Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Ban giám thị
trại tạm giam, thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày Ban giám thị
trại tạm giam nhận được đơn kháng cáo”.
Để giải quyết trường hợp người kháng cáo nộp đơn trực tiếp cho Tòa
án hoặc đến Tòa án trình bày trực tiếp, tiểu mục 4.2, mục 4, phần I Nghị
quyết số 05/2005/NQ-HĐTP quy định rõ : "Trong trường hợp người kháng
cáo đến nộp đơn kháng cáo tại Toà án hoặc trong trường hợp họ đến Toà án
cấp sơ thẩm trình bày trực tiếp về việc kháng cáo, thì ngày kháng cáo là ngày
Toà án nhận đơn hoặc là ngày Toà án lập biên bản về việc kháng cáo".
Như vậy, việc xác định ngày kháng cáo có thể khác nhau tùy theo cách
thức bị cáo thực hiện quyền kháng cáo. Việc xác định ngày kháng cáo rất
quan trọng, bởi đây sẽ là căn cứ để Tòa án có thẩm quyền xác định việc kháng
cáo có đúng thời hạn luật định hay không.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (chưa có hiệu lực thi hành) quy định
về thời hạn kháng cáo tại điều 333. Bộ luật mới có bổ sung về thời hạn kháng
cáo đối với quyết định là 07 ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận
được quyết định. Đồng thời, các hướng dẫn về thời hạn kháng cáo, cách xác
định ngày kháng cáo tại tiểu mục 4.1, mục 4, phần I, và tiểu mục 4.2, mục 4,
phần I - Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP như phân tích ở trên đã được pháp
39
điển hoá, bổ sung vào điều luật mới, đây là sự tiến bộ trong xây dựng luật,
đảm bảo sự thống nhất cũng như đảm bảo quyền lợi của bị cáo.
2.2.2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định sơ thẩm
Thời hạn kháng cáo đổi với các quyết định của Tòa án sơ thẩm được
quy định tại Khoản 2 Điều 239 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 là 7 ngày kể từ
ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định. Thời điểm bắt đầu,
thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo cũng như thời điểm thực hiện quyền
kháng cáo của người có quyền được xác định tương tự như kháng cáo đối với
bản án đã phân tích ở trên.
Quy định về thời hạn kháng cáo đối với quyết định sơ thẩm của Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015 (chưa có hiệu lực thi hành) vẫn là 07 ngày kể từ
ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định, tương tự như bộ Luật
Tố tụng hình sự 2003 nhưng không ghi thành điều luật riêng mà ghép vào
điều luật quy định thời hạn kháng cáo của bản án (khoản 2 Điều 333). Cách
quy định của điều luật mới giúp dễ dàng tra cứu quy định pháp luật.
Nhìn chung, thời hạn kháng cáo đối với bản án, quyết định của Tòa án
như quy định hiện hành là tương đối hợp lý. Tuy nhiên, qua nghiên cửu, tôi
nhận thấy có một vài hạn chế sau đây:
Thứ nhất, thời hạn kháng cáo sẽ được xác định như thế nào đối với
trường hợp bị cáo tham gia phiên tòa nhưng lại bỏ về hoặc bỏ trốn trong thời
gian Hội đồng xét xử nghị án. Thời hạn kháng cáo sẽ là 15 ngày kể từ ngày
tuyên án hay là 15 ngày tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm
yết. Vấn đề này hiện nay còn nhiều quan điểm, có quan điểm cho rằng nên
tính từ ngày bị cáo nhận được bản án để đảm bảo quyền kháng cáo của bị cáo.
Nhưng cũng có quan điểm cho rằng thời hạn kháng cáo được tính kể từ khi
Tòa tuyên án do bởi bị cáo có mặt tại phiên toà khi tiến hành phần thủ tục nên
40
sau đó có bỏ về thì cũng xem như có mặt tại phiên toà. Vấn đề này chưa được
pháp luật ghi nhận một cách cụ thể, do đó cần phải có quy định hoặc hướng
dẫn thống nhất.
Thứ hai, mặc dù thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc thời hạn kháng
cáo được hướng dẫn khá rõ ràng và cụ thể tại Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP
nhưng cách quy định tại Điều 234 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 và Điều 333
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có thể gây nhầm lẫn : “15 ngày kể từ ngày
tuyên án….". Người đọc dễ nhầm tưởng là ngày Tòa tuyên án sẽ là thời điểm
bắt đầu của thời hạn kháng cáo. Mặc dù, kháng cáo được thực hiện ngay trong
ngày Tòa tuyên án vẫn được chấp nhận nhưng nếu nhận thức về ngày bắt đầu
không đúng thì việc xác định ngày kết thúc cũng sẽ không chính xác. Bên
cạnh đó, pháp luật Tố tụng hình sự chỉ quy định hưởng xử lý khi ngày cuối
cùng của thời hạn kháng cáo rơi vào ngày nghỉ, ngày lễ; còn trường hợp nếu
ngày bắt đầu của thời hạn này rơi vào ngày lễ, ngày nghỉ thì vẫn chưa có
hướng dẫn.
Mặc khác, việc xác định đúng thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc
của quyền kháng cáo là rất quan trọng vì nó sẽ ảnh hưởng đến tính hợp pháp
của kháng cáo. Nhưng nội dung này lại không được quy định trực tiếp trong
Bộ luật Tố tụng hình sự mà lại được hướng dẫn tại một Nghị quyết của Hội
đồng thẩm phán. Ngay cả, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 cũng chưa được bổ
sung quy định này. Vì vậy, theo quan điểm của chúng tôi là nên pháp điển hóa
nội dung của Nghị quyết về vấn đề này thành một điều luật trong Bộ luật Tố
tụng hình sự để tạo điều kiện cho mọi người tiếp cận, nghiên cứu những vấn
đề liên quan đến quyền và lợi ích của họ.
41
2.2.3. Kháng cáo quá hạn
Về nguyên tắc, mọi kháng cáo phải được thực hiện trong thời hạn luật
định. Tuy nhiên trong thực tế, không phải lúc nào bị cáo cũng có thể thực hiện
đúng thời hạn kháng cáo theo quy định của pháp luật. Có thể có những lý do
khách quan hoặc chủ quan và việc kháng cáo bị chậm trễ, quá thời hạn luật
định được gọi là kháng cáo quá hạn. Nhằm đảm bảo một cách triệt để quyền,
lợi ích hợp pháp của những người có quyền kháng cáo, pháp luật Tố tụng hình
sự nước ta ghi nhận và cho phép người có quyền kháng cáo được kháng cáo
quá hạn và có thể sẽ được chấp nhận trong những trường hợp có lý do chính
đáng.
Điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định : “Việc kháng cáo quá hạn
có thể được chấp nhận nếu có lý do chính đáng”. Lý do chính đáng ở đây có
thể hiểu là những lý do khiến cho người có quyền kháng cáo mặc dù mong
muốn thực hiện việc kháng cáo nhưng không thể thực hiện được việc kháng
cáo hoặc không thể gửi được đơn kháng cáo đúng thời hạn mặc dù đã áp dụng
hết khả năng hiện có để có thể thực hiện việc kháng cáo hoặc gửi đơn kháng
cáo.
Việc kháng cáo quá hạn có thể được chấp nhận hoặc không tùy thuộc
vào lý do mà người kháng cáo đưa ra có chính đáng hay không. Bộ luật Tố
tụng hình sự không quy định rõ như thế nào là lý do chính đáng, nhưng tại
tiểu mục 5.1 mục 5 phần I Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP đã giải thích: “Lý
do chính đáng là những trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan
khác mà người kháng cáo không thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời
hạn luật định, ví dụ: do thiên tai, lũ lụt; do ốm đau, tai nạn phải nằm viện..”.
Trong trường hợp này, người kháng cáo cần nói rõ lý do kháng cáo quá
hạn và phải làm đơn kháng cáo ngay sau khi cản trở không còn nữa. Thẩm
42
quyền xét kháng cáo quá hạn thuộc về Tòa án cấp phúc thẩm. Cụ thể : “Tòa
án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng xét xử gồm ba thẩm phán để xét lý do
kháng cáo quá hạn. Hội đồng xét xử có quyền chấp nhận hoặc không chấp
nhận việc kháng cáo quá hạn ’’(Điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003).
Điều này cũng đồng nghĩa với việc không phải trong mọi trường hợp có
lý do chính đáng thì việc kháng cáo quá hạn đều được chấp nhận. Theo quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, phiên họp xét lý do kháng cáo được
thực hiện trước khi mở phiên toà phúc thẩm. Quyết định chấp nhận hoặc
không chấp nhận kháng cáo quá hạn phải được gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm và
người kháng cáo quá hạn. Nếu việc kháng cáo quá hạn được chấp nhận thì
Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành xét xử phúc thẩm theo quy định chung.
Việc ghi nhận quyền kháng cáo quá hạn là một quy định thể hiện rất rõ
tính nhân đạo, phù hợp với thực tiễn. Bởi nhìn từ góc độ thực tế, cuộc sống có
nhiều trở ngại khách quan mà bản thân bị cáo cũng như các đương sự khác
không lường trước và không khắc phục ngay được: như ốm đau, thiên tai, lũ
lụt... Vì vậy, đối với những trường hợp này, pháp luật cần phải tạo điều kiện
giúp đỡ họ để họ được bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Nhưng không vì thế mà áp dụng một cách tùy tiện, dễ dẫn đến trường
hợp bị cáo, đương sự lợi dụng quy định này mà cố tình vi phạm thời hạn
kháng cáo. Việc kháng cáo quá hạn chỉ được chấp nhận khi có lý do chính
đáng. Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP đã phần nào làm rõ thế nào là lý do
chính đáng. Tuy nhiên, các nhà làm luật trong phạm vi có thể nên chỉ rõ các
trường hợp cụ thể nào thì được xem là có lý do chính đáng để thống nhất áp
dụng trên thực tế. Mặc khác, hiện cũng chưa có quy định thời hạn mà chủ thể
có quyền kháng cáo phải thực hiện hoạt động này sau khi chấm dứt lý do bất
43
khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Vì vậy cần quy định rõ nội dung này để
đảm bảo cơ sở pháp lý khi áp dụng.
Hạn chế của Bộ luật Tố tụng hình 2003 sự còn thể hiện qua quy định
thành lập “Hội đồng xét xử” để xét lý do kháng cáo quá hạn để quyết định
chấp nhận hay không chấp nhận ở Điều 235. Về mặt lý luận, hoạt động xét xử
của Tòa án luôn gắn liền với hoạt động buộc tội, giải quyết toàn bộ nội dung
vụ án. Trong trường hợp này, việc thành lập Hội đồng là để xét lý do kháng
cáo quá hạn, để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận chứ hoàn toàn
không thực hiện hoạt động xét xử. Do vậy, dùng cụm từ xét xử ở quy định
này là chưa thật chuẩn xác. Thêm vào đó, Tiểu mục 5.3 mục 5 phần I Nghị
quyết số 05/2005/NQ- HĐTP quy định “Phiên họp xét lý do kháng cáo quá
hạn không bất buộc phải có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng
cấp”. Theo quan điểm của chúng tôi thì việc xét lý do kháng cáo quá hạn là
một hoạt động gây ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người kháng cáo cũng như những người có liên quan. Do đó, để đảm bảo tính
chính xác, hợp pháp và có căn cứ trong việc xét lý do kháng cáo quá hạn, sự
giám sát từ phía Viện kiểm sát là nhu cầu tất yếu.
Các hạn chế nên trên đã được khắc phục tại Bộ luật Tố tụng hình sự
2015. Khoản 1 Điều 335 quy định : “Việc kháng cáo quá hạn được chấp nhận
nếu có lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan...”, đã phần nào làm
rõ được cụm từ “lý do chính đáng” của luật cũ. Ngoài ra, bộ luật Tố tụng hình
sự 2015 quy định Toà phúc thẩm sẽ thành lập “Hội đồng xét kháng cáo quá
hạn” thay vì thành lập Hội đồng xét xử như quy định tại Bộ luật Tố tụng hình
sự 2003. Ngoài ra, phiên họp xét kháng cáo quá hạn phải có Viện kiểm sát
tham gia. Những thay đổi này đã khắc phục được hạn chế của điều luật, đảm
bảo quyền lợi của bị cáo.
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

More Related Content

What's hot

99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

What's hot (20)

Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí MinhLuận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
 
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt NamLuận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
 
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiPhân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đLuận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
 
Định tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOT
Định tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOTĐịnh tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOT
Định tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOT
 
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sựĐề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
Đề tài: Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự
 
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAYĐề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
 
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩmLuận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
 

Similar to Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

Luận văn: Quyền của bị can, bị cáo theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn ...
Luận văn: Quyền của bị can, bị cáo theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn ...Luận văn: Quyền của bị can, bị cáo theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn ...
Luận văn: Quyền của bị can, bị cáo theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiXét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...phamhieu56
 
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...TiLiu5
 
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...jackjohn45
 

Similar to Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620 (20)

Bện pháp xử lý vi phạm hành chính tại Tòa án tỉnh Quảng Nam
Bện pháp xử lý vi phạm hành chính tại Tòa án tỉnh Quảng NamBện pháp xử lý vi phạm hành chính tại Tòa án tỉnh Quảng Nam
Bện pháp xử lý vi phạm hành chính tại Tòa án tỉnh Quảng Nam
 
Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án tỉnh Bến Tre, 9đ
Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án tỉnh Bến Tre, 9đÁp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án tỉnh Bến Tre, 9đ
Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án tỉnh Bến Tre, 9đ
 
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụngLuận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
 
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đLuận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
 
Giám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.doc
Giám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.docGiám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.doc
Giám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.doc
 
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
 
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAIGIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
 
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAYLuận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
 
Bảo đảm quyền tố tụng của đương sự trong tố tụng dân sự, HOT
Bảo đảm quyền tố tụng của đương sự trong tố tụng dân sự, HOTBảo đảm quyền tố tụng của đương sự trong tố tụng dân sự, HOT
Bảo đảm quyền tố tụng của đương sự trong tố tụng dân sự, HOT
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đ
Luận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đLuận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đ
Luận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đ
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại Tòa án quận 7, 9đ
Luận văn: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại Tòa án quận 7, 9đLuận văn: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại Tòa án quận 7, 9đ
Luận văn: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn tại Tòa án quận 7, 9đ
 
Luận văn: Quyền của bị can, bị cáo theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn ...
Luận văn: Quyền của bị can, bị cáo theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn ...Luận văn: Quyền của bị can, bị cáo theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn ...
Luận văn: Quyền của bị can, bị cáo theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn ...
 
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiXét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình ĐịnhLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh PhúcLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
 
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
 
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
 
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
 
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sựLuận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
 
Luận án: Án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận án: Án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận án: Án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận án: Án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docxtiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docxPhimngn
 
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcK61PHMTHQUNHCHI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Triết lý kinh do...
Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Triết lý kinh do...Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Triết lý kinh do...
Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Triết lý kinh do...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápHệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháplamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 

Recently uploaded (20)

tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docxtiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
 
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
 
Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Triết lý kinh do...
Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Triết lý kinh do...Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Triết lý kinh do...
Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Triết lý kinh do...
 
Đồ án Công Nghệ Truyền Số Liệu L3VPN MPLS
Đồ án Công Nghệ Truyền Số Liệu L3VPN MPLSĐồ án Công Nghệ Truyền Số Liệu L3VPN MPLS
Đồ án Công Nghệ Truyền Số Liệu L3VPN MPLS
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
 
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápHệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
 

Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TRUNG TÍNH QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2017
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TRUNG TÍNH QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC GS. TS. VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI – 2017
  • 3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 Chương 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.................................... 8 1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền kháng cáo trong Tố tụng hình sự....................................................................................................... 8 1.2. Chủ thể có quyền kháng cáo và chủ thể có trách nhiệm đảm bảo thực hiện quyền kháng cáo...................................................................... 21 1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của quyền kháng cáo trong pháp luật Tố tụng hình sự ................................................................................ 24 Chương 2 : THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO ......... 33 2.1. Quy định của pháp luật về chủ thể và phạm vi kháng cáo....................... 33 2.2. Quy định của pháp luật về thời hạn kháng cáo........................................ 36 2.3. Quy định của pháp luật về thủ tục thực hiện quyền kháng cáo ............... 44 2.4. Một số quy định khác về quyền kháng cáo............................................. 48 Chương 3 : THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO TẠI QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO ....................................................... 56 3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về quyền kháng cáo của bị cáo tại Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh.................................... 56 3.2. Các giải pháp đảm bảo quyền kháng cáo của bị cáo .............................. 69 KẾT LUẬN ................................................................................................... 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 81
  • 4. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tàỉ Có thể nói, quyền con người là thành quả của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là một trong những giá trị quý báu nhất của nền văn minh trong thời đại ngày nay. Ghi nhận và bảo vệ quyền con người trên thực tế là thể hiện của một Nhà nước nhân dân, tiến bộ, dân chủ, văn minh. Các quyền con người trở thành đối tượng bảo vệ trong việc ghi nhận về pháp lý, trong hoạt động thi hành pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật của Nhà nước. Quyền kháng cáo là một quyền cơ bản của người tham gia tố tụng, đây là cách thức để người tham gia tố tụng có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình trước những phán quyết không hợp pháp, không có căn cứ của Tòa án cấp sơ thẩm. Bảo vệ và nâng cao quyền kháng cáo cũng góp phần bảo vệ quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự. Việt Nam đang ra sức xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, một nhà nước mà trong đó quyền con người đươc thừa nhân, tôn trọng và bảo vệ. Vì vậy, bảo đảm quyền còn người nói chung và quyền kháng cáo nói riêng là một yêu cầu cấp thiết nhằm thực hiện đúng đắn, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay. Trong tố tụng hình sự Việt Nam, quyền kháng cáo được ghi nhận từ lâu và không ngừng được hoàn thiện, mở rộng nhằm đảm bảo quyền con người của người tham gia tố tụng, về cơ bản các quy định về quyền kháng cáo trong pháp luật Tố tụng hình sự hiện hành đã đáp ứng được yêu cầu của việc thực hiện quyền này trên thực tế, đảm bảo được ý nghĩa thực sự của nó.
  • 5. 2 Tuy nhiên, trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự hiện nay, nhiều quy định về quyền kháng cáo đã dần bộc lộ một số vướng mắc, hạn chế cũng như những bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người tham gia tố tụng mà đặc biệt là đối với bị cáo. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự về quyền kháng cáo cũng như đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền kháng cáo đối với bị cáo là một nhu cầu tất yếu khách quan trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay. Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã được xây dựng với nhiều thay đổi quan trọng, trong đó quyền kháng cáo của bị cáo được nâng cao hơn. Cùng với việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã được thể hiện trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị và công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quvền đang được đẩy mạnh, việc nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành các quy định về quyền kháng cáo, từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự và nâng cao hiệu quả thực hiện quyền này là hết sức quan trọng, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ những nhu cầu đó, để có cái nhìn toàn diện, sâu sắc về quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam, tác giả chọn đề tài “Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 10 – Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Kháng cáo là một chế định quan trọng trong Tố tụng hình sự, do đó về vấn đề này có khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và nghiên cứu. Như : Luận văn thạc sỹ Luật học “Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Võ Ngọc Triều (2014) năm 2014, Trường đại học Luật
  • 6. 3 Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sỹ Luật học “Quyền kháng cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam” (2015) của tác giả Lê Thị Thùy Dương, Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều đề cập đến quyền kháng cáo. Tuy nhiên các công trình hoặc nghiên cứu quyền kháng cáo của bị cáo và của những người tham gia tố tụng khác trong Tố tụng hình sự Việt Nam, hoặc nghiên cứu quyền kháng cáo của bị cáo trên phạm vi địa phương nhất định, có đặc điểm kinh tế xã hội khác nhau nên kết quả nghiên cứu có thể khác nhau khi liên hệ với thực tiễn. Do đó, việc nghiên cứu, tiếp cận quyền kháng cáo bị cáo trong Tố tụng Hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh dưới góc độ là một quyền tố tụng, nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề lý luận, đồng thời tổng kết đánh giá qua các vụ án hình sự đã đưa ra xét xử trên thực tế, xem xét quy định của Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo là điều cần thiết trong gia đoạn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu luận văn là từ việc nghiên cứu lý luận, các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về quyền kháng cáo và thực tiễn thi hành các quy định này trong thực tiễn xét xử trong phạm vi xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Toà án nhân dân Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh, phân tích các điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, từ đó có kết luận, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự.
  • 7. 4 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn bao gồm : - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự. - Nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về quyền kháng cáo của bị cáo. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về quyền kháng cáo của bị cáo tại Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh - Đưa ra các giải pháp bảo đảm quyền kháng cáo của bị cáo 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về quyền kháng cáo; các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về quyền kháng cáo và thực tiễn thi hành các quy định về quyền kháng cáo trong những năm gần đây trên địa bàn Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, đồng thời để phù hợp với mục đích, đối tượng nghiên cứu, tác giả tập trung vào một số vấn đề sau: - Những quy định của pháp luật tố tụng hiện hành về quyền kháng cáo của bị cáo và một số quy định về quyền kháng cáo theo pháp luật Tố tụng hình sự quốc tế và một số nước trên thế giới. - Nghiên cứu thực tiễn việc thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo và việc đảm bảo thực hiện quyền kháng cáo của các cơ quan có thẩm quyền từ thực tiễn Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây.
  • 8. 5 - Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo, tập trung ở việc hoàn thiện các quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Tác giải vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và lý luận về nhận thức của triết học Mác - Lê Nin; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, về quyền con người; Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm : - Phương pháp phân tích, so sánh, chứng minh dùng để làm rõ về mặt lý luận các quy định về quyền kháng cáo của bị cáo; - Phương pháp lịch sử được vận dụng nhằm phân tích, đánh giá sự kế thừa và phát triển của các quy định trong Pháp luật tố tụng hình sự; - Phương pháp thống kê, tham khảo ý kiến chuyên gia, khảo sát kết quả hoạt động xét xử thông qua các bản án sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm để đánh giá về thực tiễn; - Phương pháp tổng hợp những kết quả nghiên cứu để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về quyền kháng cáo. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận
  • 9. 6 So với các công trình khác, đề tài tiếp cận, nghiên cứu quyền kháng cáo dưới góc độ đây là một quyền năng tố tụng của những người tham gia tố tụng. Luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quyền kháng cáo trong Tố tụng hình sự; góp phần vào việc nhận thức được bản chất, đặc điểm, ý nghĩa của quyền kháng cáo cũng như mối quan hệ giữa quyền kháng cáo và các quyền tố tụng khác trong tư pháp hình sự. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn đã phân tích, đánh giá một cách khoa học những quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về quyền kháng cáo cũng như đánh giá một cách khách quan về thực tiễn thực hiện quyền kháng cáo. Chỉ rõ những bất cập trong quy định của pháp luật cần hoàn thiện cũng như những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật cần khắc phục. Trên những cơ sở đó, luận văn đã đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về quyền kháng cáo cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc thực hiện quyền kháng cáo. Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập về pháp luật Tố tụng hình sự. Đây cũng cỏ thể là nguồn tư liệu mang tính lý luận và thực tiễn cao, dùng để tham khảo trong quá trình sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương: Chương 1 : Những vấn đề lý luận về quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự Chương 2 : Thực trạng quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về quyền kháng cáo của bị cáo
  • 10. 7 Chương 3 : Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về quyền kháng cáo của bị cáo tại Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh và các giải pháp bảo đảm quyền kháng cáo của bị cáo
  • 11. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền kháng cáo trong Tố tụng hình sự 1.1.1 Khái niệm quyền kháng cáo trong Tố tụng hình sự Tố tụng hình sự là một lĩnh vực mang tính nhạy cảm và phức tạp, hoạt động này có thể tác động một cách trực tiếp đến quyền tự do dân chủ của con người, của công dân. Các phán quyết của Tòa án sẽ quyết định số phận pháp lý của một cá nhân, quyết định ngay cả đối với quyền được sống của người phạm tội. Mọi sai lầm, dù lớn hay nhỏ cũng có thể để lại những hậu quả tiêu cực và có thể sẽ không khắc phục được. Do đó, để có thể phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, pháp luật Tố tụng hình sự đã đặt ra rất nhiều cơ chế, cách thức khác nhau. Một trong những phương thức để đảm bảo tính chính xác trong phán quyết của Tòa án đó chính việc quy định và đảm bảo thực hiện có hiệu quả quyền kháng cáo bị cáo để phát sinh thủ tục xét xử lại ở cấp phúc thẩm. Quyền kháng cáo là một trong những quyền cơ bản của một số người tham gia tố tụng nói chung và của bị cáo nói riêng. Hiểu và thực hiện một cách hiệu quả quyền này giúp bị cáo có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Các vấn đề liên quan đến quyền kháng cáo như chủ thể có quyền kháng cáo, thời hạn kháng cáo, thủ tục kháng cáo...được pháp luật quy định khá rõ ràng và cụ thể, nhưng văn bản pháp lý hiện hành vẫn chưa đưa ra được một cách hiểu thống nhất về quyền kháng cáo. Việc thống nhất khái
  • 12. 9 niệm về quyền kháng cáo là một cơ sở để nghiên cứu quyền này trong pháp luật Tố tụng hình sự. Theo Đại từ điển Tiếng Việt: "Kháng cáo là chống án, yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử" [38, tr.888] hay theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì kháng cáo là “Chống án lên Tòa án cấp trên yêu cầu xét xử lại” [33, tr.492]. Như vậy, nếu xét về mặt ngôn ngữ thì kháng cáo là chống án, phản đối bản án và quyền kháng cáo là quyền được chống lại bản án, thể hiện sự không đồng ý với các phán quyết của Tòa án. Sự phản đối này được thể hiện bằng cách “yêu cầu xét xử lại” chứ không phải “chống đối” bằng một hành vi khác. Khái niệm này đã nêu được bản chất của quyền kháng cáo, đó chính là “chống án” và “yêu cầu xét xử lại”. Tuy nhiên, đây chi mới là một khái niệm giải quyết được về mặt ngôn ngữ, mang tính khái quát, rất chung chung và chưa cụ thể; những vấn đề có liên quan như đối tượng kháng cáo là gì, chủ thể kháng cáo là ai chưa được đề cập trong khái niệm này. Theo Từ điển Luật Học –Nhà xuất bản Tư pháp thì “Kháng cáo là hành vi chống án, yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật trong trường hợp đương sự không đồng ý với toàn bộ bản án hoặc một phần của bản án, quyết định sơ thẩm” [34, tr.417]. Khái niệm này đã nêu được cơ bản những vấn đề như chủ thể, đối tượng, mục đích nhưng vẫn còn một số điểm chưa đầy đủ. Cách đồng nhất khái niệm “kháng cáo” và”chống án” như trên là không hợp lý bởi thuật ngữ “chống án” hiện nay khoa học pháp lý đã không còn ghi nhận và thuật ngữ “đương sự” chỉ phù hợp với Tố tụng dân sự chứ không phù hợp với Tố tụng hình sự bởi trong Tố tụng hình sự, khái niệm đương sự không được quy định. Nếu suy ra từ Điều 54 Bộ luật Tố tụng hình sự thì đương sự có thể hiểu là Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
  • 13. 10 người có quyền nghĩa vụ liên quan, điểm không hợp lý ở đây chính là quyền kháng cáo không chi dành riêng cho những chủ thể này mà còn có những người khác. Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “Kháng cáo là biểu thị sự bất đồng của mình đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại ”[10, tr. 215]. Khái niệm này về cơ bản đã giải quyết được một số vấn đề có liên quan như chủ thể, đối tượng. Tuy nhiên, vẫn còn những điểm chưa hợp lý như : Khái niệm chỉ mới đề cập đến đối tượng kháng cáo là bản án hoặc quyết định của Tòa án mà không kèm theo điều kiện phải là bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật; Tác giả dùng từ “mình” khi nói về chủ thể có quyền kháng cáo, cách sử dụng đại từ này không thể xác định một cách cụ thể là ai có quyền kháng cáo; Thẩm quyền xét xử phúc thẩm theo khái niệm mà tác giả Đinh Văn Quế đã đưa ra là thuộc về “Tòa án cấp trên” là chưa cụ thể. Theo Luật Tổ chức Tòa án năm 2014 thì hệ thống Tòa án nhân dân nước ta hiện nay được tổ chức theo 4 cấp : Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân cấp cao và Toà án nhân dân tối cao. Vì vậy, nếu phát biểu như định nghĩa trên có thể hiểu rằng chỉ cần là Tòa án cấp trên của Tòa án đã xét xử sơ thẩm là Tòa án có thẩm quyền. Phát biểu như vậy là chưa chuẩn xác vì Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm theo quy định hiện hành phải là Tòa án cấp trên trực tiếp. Theo giáo trình Luật Tố tụng hình sự của trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, quyền kháng cáo được hiểu “là quyền của những chủ thể theo quy định của pháp luật được đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ”[28, tr.
  • 14. 11 525]. Với khái niệm này, có thể đã có được cái nhìn khái quát về kháng cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam. Nhưng để đưa ra được khái niệm về quyền kháng cáo trong Tố tụng hình sự theo đúng bản chất của nó thì cần phải thông nhất một số vấn đề sau: Thứ nhất, quyền kháng cáo nói chung và kháng cáo trong Tố tụng hình sự nói riêng là một trong số những quyền cơ bản của con người, của công dân đã được pháp luật thừa nhận và đảm bảo thực hiện. Quyền này đã được ghi nhận trong Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966, cũng như một số công ước mang yếu tố vùng như Nghị định thư số 7, Công ước bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do cơ bản của cộng đồng Châu Âu hay Công ước Châu Mỹ về nhân quyền. Quyền kháng cáo thể hiện khả năng của công dân được trình bày thái độ “chống đối” của mình đối với bản án, quyết định của Tòa bằng việc yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại đối với vụ án. Với pháp luật nước ta thì Tòa án cấp phúc thẩm phải là Tòa án cấp trên trực tiếp. Như vậy, nếu tiếp cận ở mức độ chung nhất thì có thể hiểu kháng cáo là quyền của công dân nhằm chống lại bản án, quyết định của Toà án, yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại. Thứ hai, quyền kháng cáo là quyền cơ bản của công dân nhưng trong Tố tụng hình sự quyền này chỉ có thể thực hiện khi công dân đó trở thành bị cáo trong một vụ án hình sự cụ thể. Điều đó không có nghĩa rằng, quyền kháng cáo là quyền giành riêng cho bị cáo. Nhưng không phải tất cả những người tham gia tố tụng đều có quyền này bởi thực hiện quyền kháng cáo trước hết là để tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng đối với những phán quyết của Tòa án mà theo họ là không hợp lý, không đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp. Vì vậy, chỉ những người tham gia tố tụng nào có quyền và lợi ích bị ảnh hưởng bởi những phán quyết của Tòa án thì mới có
  • 15. 12 quyền thể hiện sự bất đồng của mình thông qua việc thực hiện quyền kháng cáo. Thứ ba, đối tượng để bị cáo kháng cáo là những bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật. Để đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử, bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm chưa phát sinh hiệu lực ngay mà pháp luật giành cho bị cáo một khoản thời gian nhất định để xem xét và thể hiện ý kiến của mình thông qua việc thực hiện quyền kháng cáo. Như vậy, có thể khẳng định rằng bản án, quyết định của Tòa án đã phát sinh hiệu lực thì không thể là đối tượng kháng cáo để phát sinh thủ tục phúc thẩm, nếu trong trường hợp cần xem xét lại vì có vi phạm thì sẽ xem xét theo thủ tục Giám đốc thẩm hoặc thủ tục Tái thẩm. Thứ tư, quyền kháng cáo là quyền của bị cáo, quyền này sẽ được đảm bảo thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, quyền kháng cáo phải được thực hiện một cách hợp pháp theo đúng quy định về thời hạn, thủ tục, đúng cách thức cũng như các quy định khác mà pháp luật đã ghi nhận. Có như vậy, thì kháng cáo mới được xem là cơ sở để phát sinh thủ tục phúc thẩm. Như vậy, khái niệm về quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự có thể được hiểu như sau: “Quyền kháng cáo phúc thẩm hình sự là quyền của một số người tham gia tố tụng mà pháp luật ghi nhận trong thời hạn bằng thủ tục luật định được yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án xét lại quyết định mà bản án, quyết định sơ thẩm đó chưa phát sinh hiệu lực pháp luật”. 1.1.2 Đặc điểm của quyền kháng cáo của bị cáo Thông qua việc phân tích khái niệm quyền kháng cáo cũng như nghiên cứu các quy định về quyền kháng cáo trong pháp luật quốc tế và pháp luật
  • 16. 13 Việt Nam có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của quyền kháng cáo của bị cáo như sau: Thứ nhất, quyền kháng cáo là quyền cơ bản của bị cáo trong lĩnh vực tư pháp hình sự, là phương tiện để bị cáo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình Bảo đảm quyền con người là một trong những nội dung và cũng là mục đích của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tư pháp hình sự là lĩnh vực hoạt động đặc thù của Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền của mình nhằm thực hiện quyền tư pháp. Lĩnh vực này mang tính nhạy cảm do nó tác động trực tiếp đến quyền cơ bản của công dân. Nguy cơ xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, đặc iệt là bị cáo từ phía những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền là rất cao nếu như có sai lầm trong việc phát hiện và xử lý tội phạm. Vì vậy, vấn đề bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực này là hết sức cần thiết. Trong lĩnh vực tư pháp, bị cáo có nhiều quyền khác nhau như quyền bào chữa, quyền được suy đoán vô tội, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự...trong đó có quyền kháng cáo đối với những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Đây chính là khả năng mà pháp luật cho phép bị cáo được quyền bày tỏ sự không đồng ý với phán quyết cùa Tòa án cấp sơ thẩm và yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án, quyết định. Quyền kháng cáo được xem là một quyền cơ bản của người người tham gia tố tụng, đặc biệt là đối với bị cáo. Thứ hai, quyền kháng cáo của bị cáo là quyền gắn liền với một xã hội mang tính dân chủ Sự hình thành và phát triển của quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự gắn liền với sự hình thành và phát triển các tư tưởng, các nguyên
  • 17. 14 tắc dân chủ, tiến bộ của Tố tụng hình sự như công bằng, nhân đạo, suy đoán vô tội, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo... Quyền kháng cáo ra đời như một tất yếu khách quan khi các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự ngày càng hướng đến việc bảo vệ hiệu quả quyền con người. Quy định quyền kháng cáo và đảm bảo thực hiện quyền này đã tạo cơ hội cho bị cáo được nói lên được tiếng nói của mình, thể hiện thái độ bất đồng với những phán quyết của Tòa án sơ thẩm, qua đó góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ thông qua thủ tục xét xử phúc thẩm. Điều đó khẳng định quyền kháng cáo chỉ có thề tồn tại trong Tố tụng tụng hình sự của những chế độ có nền dân chủ, tôn trọng quyền con người. Còn ở những chế độ phi dân chủ như chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, khi vấn đề quyền con người không được xem trọng thì người bị kết tội sẽ không có quyền phản đối những phản quyết của Tòa án. Thứ ba, quyền kháng cáo của bị cáo là quyền mang tính quốc tế Sự ra đời của quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự như một tất yếu khách quan xuất phát từ bản chất dân chủ, tiến bộ của hệ thống tư pháp hiện đại. Ở bất cứ quốc gia nào mà vấn đề quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự được quan tâm thì ở đó, quyền kháng cáo sẽ tồn tại. Chính vì vậy, không chỉ được ghi nhận trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam, quyền kháng cáo còn được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế, cũng như trong quy định pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới. Quyền kháng cáo được đề ra lần đầu tiên trong kỳ họp thứ 14 của ủy ban thứ 3 Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên sau đó, vấn đề này bị dừng lại, không bàn bạc thêm và cũng không pháp điển hóa thành một quy định trong Công ước về nhân quyền và các quyền tự do cơ bản của Cộng đồng Châu Âu. Năm 1966, khi Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
  • 18. 15 chính trị được thông qua, quyền kháng cáo của bị cáo đã chính thức được ghi nhận tại Khoản 5 Điều 14 của Công ước: “Bất cứ người nào bị kết án là phạm tội đều có quyền yêu cầu toà án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định pháp luật. ” Một văn bản pháp lý khác ghi nhận quyền kháng cáo đó chính là Công ước Châu Mỹ về nhân quyền; Quyền kháng cáo được quy định tại Khoản 2 Điều 8 của Công ước: "... Trong tố tụng, bất kì ai cũng đều hoàn toàn bình đẳng trong việc bảo đảm những điều tối thiểu sau đây : Quyền kháng cáo bản án lên toà cấp cao hơn…” [27, tr 30 và tr. 257]. Như vậy, có thể khẳng định rằng quyền kháng cáo của bị cáo là một quyền cơ bản của con người; quyền năng này mang tính quốc tế, trở thành một chuẩn mực chung cho cộng đồng các quốc gia trên thế giới. Việc ghi nhận và thực hiện quyền kháng cáo không còn là câu chuyện nội bộ của một quốc gia, mà trở thành trách nhiệm của các quốc gia thành viên khi tham gia vào các công ước có liên quan. Thứ tư, quyền kháng cáo của bị cáo có mối liên hệ với quyền được xét xử công bằng Trong hoạt động xét xử của Tòa án, quyền được xét xử công bằng thể hiện ở quy định : mọi công dân được bình đẳng trước pháp luật, trước Toà án và được xét xử bởi Toà án độc lập, công khai và không thiên vị. Quyết định hình phạt đối với người phạm tội phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi, với các đặc điểm nhân thân của người phạm tội, với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ... Đồng thời, quyền được xét xử công bằng còn thể hiện ở việc trong những điều kiện và hoàn cảnh phạm tội giống nhau thì người phạm tội phải bị kết án và xử phạt như nhau. Để đưa ra một phán quyết mang tính chính xác, đòi hỏi Hội đồng xét xử phải thật sự khách quan,
  • 19. 16 không thiên vị, đưa ra các quyết định trên cơ sở chứng cứ và quy định của pháp luật. Tuy nhiên, yêu cầu này không phải bao giờ cũng đạt được do nhiều nguyên nhân khác nhau. Thực hiện quyền kháng cáo là cơ hội để bị cáo yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại bản án, quyết định mà họ cho rằng là bất lợi đối với họ. Việc xem xét nội dung kháng cáo chưa chắc sẽ được giải quyết bằng một kết quả có lợi hơn so với phán quyết ban đầu nhưng thông qua thủ tục phúc thẩm, công tác kiểm tra được thực hiện và tính chính xác của các phán quyết sẽ cao hơn, đó chính là sự đảm bảo quyền được xét xử công bằng. Quyền kháng cáo sẽ trở thành sự thúc đẩy mạnh mẽ cho các Thẩm phán làm việc một cách tận tình và tránh các sai sót hay sự chuyên quyền. Như vậy, quyền kháng cáo của bị cáo và quyền được xét xử công bằng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Trong đó, quyền kháng cáo là một cách thức để thực hiện hiệu quả quyền được xét xử công bằng. Ngược lại, quyền được xét xử công bằng trở thành mục tiêu để thực hiện quyền kháng cáo. Thứ năm, quyền kháng cáo của bị cáo có mối liên hệ với quyền bào chữa Quyền bào chữa là tổng hợp tất cả các quyền mà pháp luật giành cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sử dụng để chống lại sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ. Quyền bào chữa được thực hiện bằng nhiều cách thức khác nhau như : đưa ra tài liệu, đồ vật, tham gia tranh luận với bên buộc tội. Đối với bị cáo, quyền bào chữa và quyền kháng cáo có mối liên hệ mật thiết với nhau. Trong đó, quyền kháng cáo là một biểu hiện của việc thực hiện quyền bào chữa, bởi khi bị cáo thực hiện quyền kháng cáo thì bị cáo đã chống lại sự buộc tội của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc nhằm làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ bằng cách yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại
  • 20. 17 để đảm bảo quyền lợi ích cho mình. Ngược lại, chính quyền kháng cáo của bị cáo đã tạo điều kiện cho quyền bào chữa được kéo dài và phát huy được hiệu quả. Khi xem xét nội dung kháng cáo, Tòa án phải mở phiên tòa và tại phiên tòa, bị cáo có quyền tiếp tục thực hiện các cách thức khác nhau để bào chữa cho mình, hoặc có thể nhờ người bào chữa bảo vệ quyền lợi cho mình. Như vậy, tương tự như quyền được xét xử công bằng, quyền kháng cáo của bị cáo và quyền bào chữa của bị cáo có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau. 1.1.3. Ý nghĩa của quyền kháng cáo của bị cáo trong tố tụng hình sự Quyền kháng cáo trong Tố tụng hình sự là quyền năng tố tụng có vai trò quan trọng đối với những người tham gia tố tụng khác nói chung, đối với bị cáo nói riêng và đối với các cơ quan có thẩm quyền. Xét cả về mặt lí luận và thực tiễn, kháng cáo phúc thẩm hình sự là chế định không thể thiếu được trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam, nó là cơ sở pháp lý để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo. Nếu không quy định quyền kháng cáo, những bản án oan, sai được đưa ra thi hành có thể sẽ rất nhiều và quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo không được xem xét. Ý nghĩa của quyền kháng cáo được khẳng định thông qua một số nội dung sau: Thứ nhất, quyền kháng cáo là phương thức để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo Quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo được Nhà nước bảo hộ bằng nhiều cách thức khác nhau và quyền kháng cáo là một trong những cách thức đó. Thực hiện quyền kháng cáo tức là bị cáo thể hiện một sự bất đồng với những phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm và yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại những vụ án đó nhằm đảm bảo tính chính xác trong việc xét xử.
  • 21. 18 Yêu cầu của việc xét xử là phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, không phải bao giờ kết quả của hoạt động xét xử cũng đảm bảo yêu cầu đó. Việc áp dụng có thể có những sai sót do nhiều nguyên nhân khác nhau. Quyền kháng cáo giúp bị cáo được trình bày ý kiến, nguyện vọng cũng như những yêu cầu của mình đối với Tòa án khi cho rằng quyền và lợi ích của họ đã bị xâm phạm do chính nội dung bản án, quyết định mà Tòa án đó đã ban hành. Khi kháng cáo hợp pháp, vụ án sẽ được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm để kiểm tra, phát hiện và khắc phục những sai lầm thiếu sót nếu có. Chính vì vậy, quyền kháng cáo là một phương tiện quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Thứ hai, quyền kháng cáo của bị cáo là biểu hiện của việc giám sát hoạt động xét xử của Tòa án Hoạt động xét xử của Tòa án được xem là trọng tâm của quá trình giải quyết vụ án. Vai trò của hoạt động này rất quan trọng bởi thông qua những phán quyết của Tòa án, số phận pháp lý của một cá nhân sẽ được quyết định, thậm chí quyết định cả quyền được sống của một con người. Chính vì vậy, việc giám sát, kiểm sát hoạt động xét xử được đặt ra như một nhu cầu tất yếu. Hoạt động kiểm sát xét xử được thực hiện bởi Viện kiểm sát thông qua việc Kiểm sát viên phải tham gia phiên tòa; Còn hoạt động giám sát của người dân thì bên cạnh vai trò của Hội thẩm khi trực tiếp tham gia vào hoạt động xét xử, còn thể hiện thông qua những người tham gia phiên tòa, đặc biệt là đối với bị cáo. Thông qua việc giám sát đó, nếu phát hiện có sai phạm trong việc xử lý vụ án thì bị cáo có quyền kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét lại để đảm bảo tính chính xác trong các phán quyết. Như vậy, có thể nói quyền
  • 22. 19 kháng cáo của bị cáo là cơ chế để hoạt động giám sát xét xử được thực hiện một cách hiệu quả. Thứ ba, quyền kháng cáo là điều kiện để phát sinh thủ tục phúc thẩm; là cách thức để đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Vai trò của thủ tục phúc thẩm là rất quan trọng, tuy nhiên không phải bất cứ vụ án nào đã được xét xử sơ thẩm đều phải trải qua giai đoạn xét xử phúc thẩm vì đây không phải là thủ tục đương nhiên phát sinh mà là thủ tục phát sinh có điều kiện. Một trong những điều kiện để phát sinh thủ tục phúc thẩm chính là quyền kháng cáo của bị cáo. Như vậy, việc quy định và thực hiện quyền kháng cáo là một trong những căn cứ, cơ sở pháp lý quan trọng làm phát sinh thủ tục phúc thẩm, đồng thời cũng là căn cứ xác định phạm vi xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm. Khi kháng cáo hợp pháp, Tòa án cấp phúc thẩm phải mở phiên tòa xét xử và giải quyết lại đối với vụ án bị kháng cáo đó. Thủ tục phúc thẩm phát sinh là biểu hiện của nguyên tắc hai cấp xét xử và chính kháng cáo là điều kiện để đảm bảo thực hiện nguyên tắc này. Nguyên tắc hai cấp xét xử là nguyên tắc cơ bản của pháp luật Tố tụng hình sự, có tính bắt buộc chung, thể hiện quan điểm có tính định hướng của Nhà nước trong việc tổ chức tố tụng để xét xử các vụ án hình sự. Nguyên tắc thể hiện sự thận trọng của Nhà nước trong việc đưa ra những phán quyết, quyết định số phận pháp lý của một con người. Chính quyền kháng cáo của bị cáo đã trở thành một trong những điều kiện tiên quyết để Tòa án có thể xét xử lại, là cơ chế để có thể đảm bảo được nguyên tắc này.
  • 23. 20 Thứ tư, quyền kháng cáo của bị cáo tạo điều kiện cho Tòa án có thể tự kiểm tra, đánh giá hoạt động của mình; phát hiện, khắc phục những sai lầm thiếu sót đồng thời có những hướng sửa chữa, khắc phục Như đã phân tích, hoạt động xét xử không phải bao giờ cũng đảm bảo được những yêu cầu đã đặt ra. Vì vậy, khi bị cáo thực hiện quyền kháng cáo phúc thẩm cũng chính là cơ hội để Tòa án tự kiểm tra, đánh giá lại hoạt động xét xử của mình. Thông qua việc xem xét kháng cáo, Tòa án cấp trên không chỉ khắc phục những sai sót của Tòa án cấp dưới mà còn có có thể hướng dẫn cho Tòa án cấp dưới nhận thức và áp dụng đúng đắn, thống nhất pháp luật, nâng cao chất lượng xét xử các bản án. Bên cạnh đó, việc xem xét kháng cáo cũng giúp cho Tòa án phát hiện những điểm còn vướng mắc trong quy định của pháp luật. Bởi lẽ, một trong số những nguyên nhân dẫn đến những sai phạm chính là thiếu sót, bất cập trong quy định của pháp luật. Thông qua thủ tục xét xử phúc thẩm, Tòa án có thẩm quyền sẽ xem xét và phát hiện được những lỗ hổng của pháp luật, những điểm còn vướng trong quá trình áp dụng, từ đó có cơ sở để kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan cho phù hợp với thực tiễn áp dụng. Thứ năm, quy định và thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo giúp tạo niềm tin của nhân dân vào Đảng, nhà nước và pháp luật Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Nhà nước ban hành pháp luật đồng thời thành lập các cơ quan nhằm đảm bảo việc thực hiện pháp luật. Tuy nhiên, để có một xã hội ổn định, nhân dân tin tưởng và làm theo các chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thì việc xây dựng và củng cố lòng tin trong nhân dân là rất quan trọng. Tòa án là cơ quan thực hiện chức năng xét xử, Tòa án có quyền nhân danh Nhà nước ra bản án, quyết định. Mỗi bản án, quyết định đều có khả năng ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích
  • 24. 21 của cá nhân, tổ chức có liên quan. Đồng thời, các bản án quyết định đó còn được đảm bảo thực hiện bởi sức mạnh cưỡng chế trong quá trình thi hành án. Do đó, nếu bản án được đưa ra thi hành là những bản án không đảm bảo tính có căn cứ, tính hợp pháp thì không những ảnh hưởng trực tiếp đến những người có liên quan đến vụ án mà còn kéo theo những hiệu ứng tiêu cực như giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và pháp luật. Qua việc thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo, Tòa án cấp trên trực tiếp có cơ hội để kiểm tra, xem xét lại, đảm bảo một cách tối đa nhất tính chính xác của những bản án, quyết định được đưa ra thi hành. Tạo niềm tin tuyệt đối cho nhân dân vào kết quả của hoạt động xét xử. Bên cạnh đó, những quy định về quyền kháng cáo cũng thể hiện được rằng Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; luôn quan tâm và có cơ chế để đảm bảo quyền lợi của nhân dân. 1.2. Chủ thể có quyền kháng cáo và chủ thể có trách nhiệm đảm bảo thực hiện quyền kháng cáo 1.2.1. Chủ thể có quyền kháng cáo Quyền kháng cáo trong Tố tụng hình sự là quyền cơ bản của con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự; nhưng quyền này chỉ có thể được thực hiện khi họ tham gia tố tụng trong một vụ án hình sự. Đây là phương tiện để người tham gia tố tụng tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, không phải tất cả những người tham gia tố tụng đều có quyền kháng cáo. Theo Tố tụng hình sự hiện hành, người tham gia tố tụng hiện nay được chia thành 3 nhóm: Người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích trong vụ án: Người bị tạm giữ; bị can; bị cáo; người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền, nghĩa vụ liên quan.
  • 25. 22 Người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích cho người khác và góp phần bảo vệ công lý: Người bào chữa; người bảo vệ quyền lợi cho đương sự. Người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý: Người làm chứng; người giám định; người phiên dịch. Trong ba nhóm người tham gia tố tụng này, phù hợp với lý luận Tố tụng hình sự thì chỉ có một số chủ thể thuộc nhóm thứ nhất có quyền kháng cáo, vì đây là những chủ thể có quyền và nghĩa vụ pháp lý liên quan đến vụ án, họ có khả năng bị ảnh hưởng bởi bản án, quyết định của Tòa án, cụ thể đó là: bị cáo; người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự;người có quyền, nghĩa vụ liên quan. Nội dung mà người có quyền kháng cáo được yêu cầu xét xử lại sẽ xác định tương ứng với mức độ ảnh hưởng của bản án đến quyền và lợi ích của họ. Theo đó, quyền, lợi ích của người kháng cáo bị tác động bởi phần nào của bản án thì sẽ có quyền kháng cáo, yêu cầu xét xử lại phần đó; mức độ ảnh hưởng nhiều thì phạm vi kháng cáo rộng, ảnh hưởng ít thì phạm vi kháng cáo hẹp hơn. Chính vì vậy, phạm vi kháng cáo sẽ khác nhau giữa các chủ thể do mức độ ảnh hưởng của bản án, quyết định đến quyền và lợi ích của họ là khác nhau. Tóm lại, thực hiện quyền kháng cáo bao gồm nhiều chủ thể khác nhau theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, là người bị Toà án cấp sơ thẩm phán quyết là có tội và phải chịu hình phạt theo bản án sơ thẩm.
  • 26. 23 1.2.2. Chủ thể có trách nhiệm đảm bảo thực hiện quyền kháng cáo Xuất phát từ vấn đề mang tính lý luận, quyền của chủ thể này thì việc đảm bảo thực hiện quyền đó sẽ là nghĩa vụ của chủ thể khác. Quyền kháng cáo là một trong những quyền cơ bản của bị cáo và trách nhiệm đảm bảo thực hiện quyền này sẽ thuộc về các cơ quan Nhà nước. Khác với các quyền khác, quyền kháng cáo chỉ phát sinh khi phiên tòa sơ thẩm đã kết thúc và bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa phát sinh hiệu lực pháp luật. Ở giai đoạn này, chủ thể có trách nhiệm đảm bảo cho việc thực hiện quyền kháng cáo chỉ có thể là Tòa án và cơ quan công an mà cụ thể là Nhà tạm giam trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam hoặc bị bắt tạm giam sau khi Tòa tuyên án. Tòa án, bao gồm cả Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm là chủ thể chủ yếu có trách nhiệm đảm bảo cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo bởi lẽ Tòa án là cơ quan tiếp nhận kháng cáo, xử lý kháng cáo cũng như giải quyết, xem xét nội dung kháng cáo. Trách nhiệm này đòi hỏi Tòa án phải thực hiện một số hoạt động cụ thể như: Tòa án phải đảm bảo việc tuyên và giải thích quyền kháng cáo cho bị cáo có mặt tại phiên tòa sơ thẩm; đảm bảo vấn đề giao bản án hoặc trích lục bản án. Khi tiếp nhận kháng cáo, Tòa án phải có trách nhiệm xem xét, hướng dẫn, giải thích cho người kháng cáo, hạn chế trường hợp kháng cáo không hợp pháp do sai về mặt thủ tục, sai phạm vi kháng cáo. Đối với trường hợp bị cáo đang bị tạm giam hoặc bị bắt tạm giam sau khi tuyên án thì vai trò của Ban giám thị trại tạm giam là rất lớn trong việc đảm bảo thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo. Ban giám thị trại tạm giam phải có trách nhiệm tạo điều kiện cho bị cáo như cung cấp giấy, bút để bị cáo viết đơn kháng cáo. Khi nhận được đơn kháng cáo từ bị cáo, Ban giám thị trại
  • 27. 24 tạm giam phải có trách nhiệm xác nhận ngày kháng cáo và gởi ngay đến Tòa án có thẩm quyền. Như vậy, trách nhiệm đảm bảo thực hiện quyền này lại thuộc về Tòa án và Ban giám thị trại tạm giam. Ngoài những cơ chế đảm bảo thi hành đã được quy định, trong thực tiễn áp dụng, các cơ quan như Tòa án, Ban giám thị trại tạm giam phải phát huy vai trò cũng như thực hiện tốt các trách nhiệm của mình nhằm tạo điều kiện để quyền kháng cáo được thực hiện một cách có hiệu quả. 1.3. Lịch sử hình thành và phát triển quyền kháng cáo của bị cáo trong pháp luật Tố tụng hình sự 1.3.1. Quy định pháp luật về quyền kháng cáo của bị cáo giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước năm 1960 Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã xóa bỏ chính quyền nhà nước thực dân phong kiến, lập ra nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là nhà nước độc lập dân chủ thực sự của nhân dân, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của nước ta. Dưới chế độ thực dân phong kiến, chế độ tư bản, nền tư pháp chủ yếu là một bộ máy đàn áp, một bộ máy bóc lột tư sản. Vì vậy, nhiệm vụ tuyệt đối của cách mạng vô sản không phải là cải cách các chế định tư pháp..., mà là hủy bỏ toàn bộ, phá hủy đến tận gốc rễ nền tư pháp cũ và bộ máy nhà nước. Trong những ngày đầu sau khi giành được chính quyền, Nhà nước non trẻ phải thực hiện nhiều nhiệm vụ nhắm chống lại thù trong, giặc ngoài, đồng thời khẩn trương bắt tay xây dựng, củng cố bộ máy nhà nước để bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng một Nhà nước của nhân dân, vì nhân dân. Ngày 13/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh số 33C thành lập Tòa án quân sự ở các địa phận khác nhau trong cả nước. Các Tòa án quân sự
  • 28. 25 ban đầu chưa phải là tổ chức chuyên trách, thường trực mà chỉ khi có vụ án thì lập ra Tòa án để xét xử. Tại Điều 1 của sắc lệnh quy định : “Toà án quân sự xử tất cả các người nào phạm một việc gì, sau hay trước ngày 19 tháng 8 dương lịch năm 1945, có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà…trừ khi phạm nhân là binh sỹ thì thuộc về nhà binh tự xử lý theo quân luật”. Hệ thống Tòa án trong giai đoạn này chỉ được tổ chức ở một cấp, do đó "Những quyết nghị của Toà quân sự sẽ đem thi hành ngay, không có quyền chống án, trừ trường hợp sau này nếu bản án tuyên xử tử, thì tội nhân có quyền đệ đơn lên Chủ tịch Chính phủ xin ân giảm. Bán ản sẽ hoãn thi hành chờ quyết nghị của ông Chủ tịch Chính phủ " (Điều 3) Như vậy, theo quy định này thì bản án, quyết định của Tòa án sẽ có giá trị thi hành ngay sau khi tuyên án, đồng nghĩa với việc không thừa nhận quyền kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Quy định này là phù hợp với tình hình đất nước lúc bấy giờ, bè lũ phản cách mạng đang tìm cách chống phá chính quyền còn non trẻ nên những bản án, quyết định của Tòa án cần phải được thi hành ngay để nghiêm trị kịp thời, làm gương cho kẻ khác. Quyền kháng cáo của bị cáo trong gia đoạn này không được ghi nhận. Nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu lực của bộ máy Nhà nước nói chung và Tòa án nói riêng, ngày 24.01.1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã ra sắc lệnh số 13 về Tổ chức của Tòa án và ngạch Thẩm phán. Đây là sắc lệnh đầu tiên quy định một cách đầy đủ về tổ chức, giải quyết các tranh chấp, xử phạt các vi phạm ở cơ sở cũng như tổ chức của Tòa án. Đồng thời trong sắc lệnh này, tại Điều 34 đã quy định: “Tòa đại hình xử sơ thẩm. Ông biện lý, bị can, nguyên đơn có quyền chống án lên tòa thượng thẩm ”. Như vậy, quyền kháng cáo đã được chính thức ghi nhận dưới thuật ngữ “chống án”. Đây là cơ sở cho
  • 29. 26 việc cụ thể hóa và hoàn thiện các quy định của chế định này trong các giai đoạn sau này. Ngày 17/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 51/SL quy định về thẩm quyền của Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án. sắc lệnh quy định : ‘Tòa đệ nhị cấp có quyền xử chung thẩm những án vi cảnh của Tòa án sơ cấp bị kháng cáo... (Điều thứ 10). “Tòa Thượng thẩm có quyền xét xử những việc kháng cáo án sơ thẩm của các Tòa đệ nhị cấp và Phòng luận tội của Tòa Thượng thẩm xét xử kháng cáo những mệnh lệnh của Dự thẩm (Điều thứ 13). Biện lý và các đương sự trong đó có bị cáo, có quyền kháng cáo những mệnh lệnh của Dự thẩm (Điều thứ 24)...” Như vậy, bên cạnh việc xác định những bản án, mệnh lệnh nào có thể bị kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, sắc lệnh 51/SL cũng đã khẳng định Tòa án có thẩm quyền xét kháng cáo là Tòa án đệ nhị cấp, Tòa thượng thẩm. Đây đều là những Tòa án cấp trên trực tiếp với Tòa án có bản án, quyết định bị kháng cáo. Để cụ thể hơn những quy định về quyền kháng cáo, ngày 28/6/1946, sắc lệnh 112/SL được ban hành, quy định một cách chi tiết hơn về việc kháng cáo. Với hai sắc lệnh này, những quy định về quyền kháng cáo của bị cáo đã được ghi nhận một cách khá cụ thể và được áp dụng thống nhất trong phạm vi cả nước. Nhìn chung, trong giai đoạn này, mặc dù đất nước còn nhiều khó khăn, tình hình xã hội còn nhiều phức tạp do chính quyền còn non trẻ nhưng Nhà nước vẫn quan tâm, chú ý đến công tác xét xử nói chung và quyền kháng cáo nói riêng. Thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm được duy trì để phù hợp với tình hình xã hội, nhưng bên cạnh đó pháp luật vẫn ghi nhận và có những quy định nhằm thực hiện tốt quyền kháng cáo. Đây sẽ là những cơ sở
  • 30. 27 ban đầu để Nhà nước tiếp tục ghi nhận và không ngừng hoàn thiện các quy định về quyền kháng cáo của bị cáo sau này. 1.3.2. Quy định pháp luật về quyền kháng cáo của bị cáo giai đoạn từ năm 1960 đến trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 Sự ra đời của Hiến pháp năm 1959 thay thế cho Hiến pháp năm 1946 là một bước ngoặc lớn trong lịch sự lập pháp nước ta. Hiến pháp năm 1959 đã dành một chương riêng để quy định về Tòa án. Căn cứ vào quy định của Hiến pháp năm 1959, ngày 14/07/1960 tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa II đã thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân. Theo Điều 9 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, lần đầu tiên nguyên tắc hai cấp xét xử được ghi nhận : “Toà án nhân dân thực hành chế độ hai cấp xét xử. Đương sự có quyền chống bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân sơ thẩm lên trên một cấp ”. Để đảm bảo thực hiện các quy định về quyền kháng cáo, nhiều văn bản hướng dẫn khác của Toà án nhân dân tối cao đã được ban hành như: Công văn số 570/TC ngày 2/4/1963 về thủ tục gửi hồ sơ án bị kháng án hoặc bị kháng nghị; Công văn số 1932/NCLP ngày 4/9/1963 về giải quyết đơn kháng cáo quá hạn; Thông tư số 03/NCLP ngày 15/9/1967 quy định về thời hạn kháng cáo, kháng nghị... Tuy nhiên, những văn bản này bộc lộ nhiều hạn chế. Chính vì thế, bản hướng dẫn về trình tự xét xử phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao ban hành kèm theo Thông tư số 19/TANDTC ngày 2/10/2974 đã có hướng dẫn cụ thể về chủ thể có quyền kháng cáo, thủ tục, thời hạn kháng cáo. Năm 1975, đất nước hoàn toàn giải phóng, sự ra đời của Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức Tòa án năm 1981 đã tiếp tục ghi nhận và hoàn thiện hơn nữa các quy định về quyền kháng cáo. Các văn bản pháp luật hướng
  • 31. 28 dẫn cụ thể các vấn đề liên quan đến quyền kháng cáo liên tiếp được ban hành. Với những nội dung đã được cụ thể hóa như đối tượng kháng cáo, thời hạn, thủ tục kháng cáo...đã khẳng định được sự phát triển vượt bậc trong công tác lập pháp về nội dung lẫn kỹ thuật. Tuy nhiên, vấn đề quyền kháng cáo của bị cáo nói riêng và các quy định về Tố tụng hình sự nói chung cũng chỉ mới được thể hiện trong những văn bản pháp luật đơn hành mà chưa được pháp điển hóa thành một bộ luật chuyên ngành mang tính hệ thống. Đồng thời, pháp luật lúc bấy giờ vẫn duy trì thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm của Tòa hình sự Toà án nhân dân tối cao cũng như Toà án nhân dân đặc biệt tại Thành phố Hồ Chí Minh, điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyền kháng cáo của bị cáo và đây chính là vấn đề cần phải được hoàn thiện trong các giai đoạn sau đó. 1.3.3. Quy định pháp luật về quyền kháng cáo của bị cáo từ khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đến trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, khắc phục những sai lầm, khuyết điểm trước đây, mở ra những hướng mới, nhằm thoát khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế- xã hội. Trong bối cảnh đó, những văn bản quy phạm pháp luật Tố tụng hình sự không thể hiện được toàn diện, đầy đủ chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực điều tra, truy tố, xét xử...Chính vì vậy, việc ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự là vấn đề mang tính khách quan và cấp thiết. Ngày 28/6/1988, tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khóa VIII, đã thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự, có hiệu lực từ ngày 1/1/1989.
  • 32. 29 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đã dành chương XII quy định xét xử phúc thẩm và quyền kháng cáo, kháng nghị với tất cả 10 điều luật (từ Điều 205 đến Điều 213). Để phù họp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1990, 1992, 2000. Các quy định về kháng cáo ngày được hoàn thiện hơn qua các lần sửa đổi, bổ sung. Các văn bản hướng dẫn về kháng cáo cũng được ban hành kịp thời, như Thông tư 01/TTLN ngày 8/12/1988 của Tòa án tối cao — Viện công tố tối cao hướng dẫn cụ thể về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm; Công văn số 20/CNLP ngày 18/1/1994 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn một số điều về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm... Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đã quy định một cách cơ bản tất cả các vấn đề liên quan đến quyền kháng cáo và cách thức thực hiện quyền kháng cáo như: chủ thể có quyền kháng cáo (Điều 205), đối tượng, giới hạn của việc kháng cáo (Điều 205); thủ tục kháng cáo (Điều 207); thời hạn kháng cáo (Điều 208); kháng cáo quá hạn (Điều 209); bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo (Điều 212) và kháng cáo những quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm (Điều 213). Nhìn chung, trên cơ sở kế thừa các quy định trước đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đã khá thành công trong việc quy định những nội dung liên quan đến quyền kháng cáo của bị cáo. Tuy nhiên, qua thời gian, những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 cũng dần bộc lộ những hạn chế, những điểm chưa phù hợp với những thay đổi của xã hội. Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp đã được các Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 08/NQ-TW, ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đặt ra, đồng thời cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp năm 1992 đã được sửa
  • 33. 30 đổi cũng như đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất với các văn bản pháp luật có nội dung liên quan như Bộ luật Hình sự năm 1999, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002... Ngày 26/11/2003, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã được Quốc Hội khóa XI, kỳ họp thứ tư thông qua toàn văn và có hiệu lực từ ngày 1/1/2004. Bộ luật dành Phần thứ tư: “Xét xử phúc thẩm ”, với Chương XXIII: ‘‘Tính chất của xét xử phúc thẩm và quyền kháng cáo, kháng nghị” và Chương XXIV: “Thủ tục phúc thẩm ” quy định về kháng cáo và các vấn đề liên quan đến chế định này. Các quy định về kháng cáo trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 có nhiều điểm mới và ngày càng hoàn thiện, khắc phục những hạn chế của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988. Thêm vào đó, để các quy định về kháng cáo được áp dụng một cách thống nhất và chính xác, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 8 tháng 12 năm 2005 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003. Với những quy định cụ thể, tiến bộ, quá trình áp dụng Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 cho thấy, các quy định của Bộ luật đã góp phần tích cực vào việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nêu cao trách nhiệm, tính chủ động của cơ quan và của người tiến hành tố tụng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Tuy nhiên, quá trình hơn 10 năm triển khai áp dụng, Bộ luật Tố tụng dân sự 2003 đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế, không còn phù hợp trong tình hình mới. Cùng với việc sửa đổi và ban hành Hiến pháp 2013, Luật tổ chức Toà án nhân dân 2014, Bộ luật Hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được Quốc hội khoá XIII thông qua tại kỳ họp thứ 10 với 510 điều chia làm 9 phần, 36 chương có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2015. Bộ luật được xây dựng trên
  • 34. 31 cơ sở khoa học, tiếp thu những tiến bộ và rút kinh nghiệm thực tiễn áp dụng trong đời sống xã hội. Tuy nhiên do điều kiện ban hành vội vã, Bộ luật Hình sự 2015 cũng như Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có nhiều khiếm khuyết về mặt kỹ thuật cần phải sửa chữa nên Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 về lùi ngày có hiệu lực của 02 bộ luật để xem xét sửa chữa cho phù hợp. Tuy vậy, để đảm bảo nguyên tắc có lợi cho bị cáo, các quy định có lợi trong 02 bộ luật vẫn được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án cho đến khi các bộ luật mới được sửa chữa, bổ sung. Kết luận Chương 1 Quyền kháng cáo phúc thẩm hình sự của bị cáo là quyền mà pháp luật cho phép trong thời hạn và bằng thủ tục luật định mà bị cáo được yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định mà bản án, quyết định sơ thẩm đó chưa phát sinh hiệu lực. Đây là một trong những quyền cơ bản của bị cáo trong pháp luật Tố tụng hình sự, là phương tiện để bị cáo tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình thông qua việc bày tỏ sự không đồng ý với kết luận của Tòa án cấp sơ thẩm về tội danh, hình phạt hoặc các vấn đề khác có liên quan và yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án, xét lại quyết định đó. Việc thực hiện quyền kháng cáo có ý nghĩa rất quan trọng đối với người kháng cáo, đặc biệt là đối với bị cáo cũng như đối với quá trình giải quyết vụ án hình sự. Các cơ quan có thẩm quyền như Tòa án, Trại tạm giam phải có trách nhiệm đảm bảo thực hiện quyền này. Ngoài những cơ chế đảm bảo thi hành đã được quy định, trong thực tiễn áp dụng, các cơ quan như Tòa án, Ban giám thị trại tạm giam phải phát huy vai trò cũng như thực hiện tốt
  • 35. 32 các trách nhiệm của mình nhằm tạo điều kiện để quyền kháng cáo của bị cáo được thực hiện một cách có hiệu quả. Thông qua thực hiện quyền kháng cáo, hoạt động xét xử của Tòa án sẽ được sự giám sát từ phía người tham gia tố tụng, cụ thể là từ phía bị cáo, đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử và là điều kiện để Tòa án có thể tự kiểm tra, đánh giá hoạt động của mình, phát hiện, khắc phục những sai lầm thiếu sót, đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội và đúng quy định pháp luật, qua đó tạo niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và pháp luật.
  • 36. 33 Chương 2 THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO 2.1. Quy định của pháp luật về chủ thể và phạm vi kháng cáo Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm là một quyền năng tố tụng của một số chủ thể tham gia tố tụng. Việc thực hiện quyền này thể hiện sự đánh giá chủ quan của những người tham gia tố tụng đối với các quyết định của Tòa án có thẩm quyền trong việc xử lý vụ án, có thể là sự bất đồng với các quyết định đó và yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét lại cho phù hợp. Vấn đề đặt ra là chủ thể nào có quyền kháng cáo và người kháng cáo có quyền yêu cầu xem xét lại những nội dung nào liên quan đến bản án, một phần nội dung bản án hay toàn bộ nội dung bản án. Đây chính là việc xác định chủ thể và phạm vi kháng cáo. Như đã phân tích ở Chương I, chủ thể có quyền kháng cáo là những người tham gia tố tụng có quyền, lợi ích liên quan đến bản án, quyết định sơ thẩm và phạm vi kháng cáo của từng chủ thể sẽ phụ thuộc vào tư cách tố tụng của chủ thể đó. Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định chủ thể và phạm vi kháng cáo của bị cáo như sau : “Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm… người được Toà án tuyên bố là không có tội có quyền kháng cáo phần lý do bản án sơ thẩm đã tuyên là họ không có tội”. Trong phạm vi luận văn, tác giả chỉ nguyên cứu về chủ thể là bị cáo trong vụ án hình sự. Đây là chủ thể quan trọng nhất trong vụ án hình sự, có quyền kháng cáo bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp sơ thẩm. Tuy nhiên, ngoài bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo cũng có quyền kháng cáo theo các quy định cụ thể như sau : + Đối với bị cáo :
  • 37. 34 Theo nguyên tắc suy đoán vô tội, một người chỉ bị xem là người có tội khi họ “được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013). Bị cáo là người bị buộc tội trong giai đoạn xét xử, thời điểm bị can trở thành bị cáo là thời điểm thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Bị cáo là chủ thể chịu nhiều ảnh hưởng từ bản án, quyết định của Tòa án, bởi lẽ bị cáo có thể bị buộc tội, phải gánh chịu một hình phạt, phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội của mình gây ra hoặc phải chịu trách nhiệm khác theo quy định pháp luật. Vì vậy, việc ghi nhận quyền kháng cáo của bị cáo là cách thức để bị cáo có thể tự bảo vệ mình trước những quyết định không đúng đắn của Tòa án sơ thẩm. Quyền kháng cáo này dành cho chính bị cáo, nếu bị cáo là người đã thành niên, không có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần, không ai có thể thực hiện thay. Nội dung bản án, quyết định sơ thẩm có ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Chính vì vậy, phạm vi kháng cáo của bị cáo khá rộng, Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định : “Bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm ”. Như vậy, bị cáo có thể kháng cáo một phần hoặc toàn bộ nội dung bản án, quyết định; có thể kháng cáo phần hình sự (tội danh, hình phạt…), kháng cáo phần dân sự trong bản án hình sự (mức bồi thường, chủ thể bồi thường...). Trong trường hợp bị cáo được Toà án tuyên bố là không có tội cũng có quyền kháng cáo phần lý do của bản án sơ thẩm đã tuyên là họ không có tội. Đây là quyền của bị cáo nhằm yêu cầu Tòa án khôi phục một cách triệt để quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, đồng thời góp phần làm cho bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm phù hợp với thực tế hơn.
  • 38. 35 Tuy nhiên, cách quy định phạm vi kháng cáo của bị cáo như pháp luật hiện hành rất dễ gây nhầm lẫn. Theo cách quy định này, bị cáo có thể kháng cáo đối với toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án. Vấn đề này không phù hợp về mặt lý luận bởi vì không phải lúc nào toàn bộ nội dung bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm cũng ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo, nhất là trong vụ án có nhiều đồng phạm, hoặc vụ án ghép của nhiều vụ án. Trường hợp này, bị cáo chỉ được quyền yêu cầu xem xét lại những phần nào liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các phần khác không liên quan, bị cáo sẽ không có quyền kháng cáo. + Người đại diện hợp pháp của bị cáo Quyền kháng cáo của bị cáo sẽ do chính bị cáo thực hiện nếu bị cáo là người đã thành niên, không có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần. Nhưng nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc là người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, thì bị cáo vẫn có thể tự mình thực hiện quyền kháng cáo hoặc thực hiện thông qua người đại diện hợp pháp của bị cáo. Trong trường hợp này, quyền kháng cáo của bị cáo và người đại diện hợp pháp là độc lập, không phụ thuộc vào yêu cầu của bị cáo và không làm mất đi quyền kháng cáo của bị cáo. Như vậy, quyền kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị cáo chỉ phát sinh khi bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Thực hiện quyền kháng cáo là nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo nên phạm vi kháng cáo của người đại diện hợp pháp trong trường hợp này được xác định tương tự bị cáo. Người đại diện của bị cáo có thể kháng cáo một phần hoặc toàn bộ nội dung bản án, quyết định; có thể kháng cáo phần hình sự (tội danh, loại hình phạt, mức hình phạt), kháng cáo phần dân sự trong bản án hình sự (mức bồi thường, chủ thể bồi
  • 39. 36 thường...) liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo. Và chỉ kháng cáo theo hướng có lợi cho bị cáo, người mà họ làm đại diện mà thôi. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (chưa có hiệu lực thi hành) quy định về người kháng cáo và phạm vi kháng cáo tại điều 331 : “Bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. Quy định của bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đối với quyền kháng cáo của bị cáo không có thay đổi so với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Khác biệt ở cách xây dựng điều luật, phân chia thành các khoản 1,2,3…. tạo sự thuận lợi hơn khi tra cứu và trích dẫn. 2.2 Quy định của pháp luật về thời hạn kháng cáo Thời hạn kháng cáo là khoảng thời gian mà pháp luật quy định cho các chủ thể có quyền kháng cáo thực hiện quyền kháng cáo của mình. Sự hợp pháp về thời hạn kháng cáo là một trong những điều kiện làm phát sinh hiệu lực của kháng cáo. Do đó mọi kháng cáo phải được thực hiện đúng thời hạn, trừ trường hợp kháng cáo quá hạn khi có lý do chính đáng và được Tòa án có thẩm quyền chấp nhận. 2.2.1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm Điều 234 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định : “Thời hạn kháng cáo là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đổi với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết”. Như vậy, thời gian thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo là 15 ngày nếu là kháng cáo đối với bản án nhưng tùy trường hợp mà thời hạn này được tính từ những mốc sự kiện pháp lý khác nhau. Trường hợp thứ nhất, bị cáo có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo đối với bản án là 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Đây là một quy định hợp lý vì các chủ thể này đã biết rõ mình bị Tòa án xét xử như thế nào, các phán
  • 40. 37 quyết trong bản án của Tòa án cấp sơ thẩm ảnh hưởng như thế nào đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình nên có thể thực hiện ngay việc kháng cáo. Trường hợp thứ hai, bị cáo vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo cũng là 15 ngày nhưng được tính từ ngày bản án được giao cho họ, hoặc được niêm yết. Bị cáo vắng mặt tại Tòa chỉ có thể biết được số phận pháp lý của mình sau khi đã được nhận bản án từ Tòa án giao cho họ hoặc được niêm yết. Do đó, quyền kháng cáo được phát sinh kể từ những thời điểm trên cũng là một quy định hợp lý cho việc bảo vệ quyền, lợi ích của bị cáo, thể hiện triệt để nguyên tắc nhân đạo của pháp luật nước ta. Thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của thời hạn kháng cáo không được quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 nhưng được hướng dẫn tại tiểu mục 4.1, mục 4, phần I, Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP. Theo đó, thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo là ngày tiếp theo của ngày xác định. “Ngày xác định là ngày Tòa án tuyên án hoặc ra quyết định trong trường hợp Viện kiểm sát, bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa hoặc là ngày bản án, quyết định được giao hoặc niêm yết trong trường hợp bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa”. Như vậy, ngày được xác định không được tính vào thời hạn kháng cáo nhưng điều đó không cản trở việc những người có quyền kháng cáo thực hiện quyền này ngay trong ngày xác định, trường hợp ngay trong ngày Tòa án tuyên án hoặc ra quyết định mà bị cáo có mặt tại Tòa có đơn kháng cáo ngay thì Tòa án cấp sơ thẩm nhận đơn kháng cáo theo thủ tục chung. Thời hạn kháng cáo sẽ kết thúc vào ngày cuối cùng của thời hạn. Ngày cuối cùng của thời hạn là ngày tròn : “Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn... Thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn vào lúc hai mươi tư giờ của ngày đó. Trong
  • 41. 38 trường hợp ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) hoặc ngày nghỉ lễ, thời hạn kháng cáo kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó”. Ngoài ra, Pháp luật Tố tụng hình sự quy định có lợi cho chủ thể kháng cáo, đó là việc xác định thời điểm thực hiện quyền kháng cáo của người kháng cáo. Điều 234 Bộ luật Tố tụng hình sự : "Nếu đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Ban giám thị trại tạm giam, thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày Ban giám thị trại tạm giam nhận được đơn kháng cáo”. Để giải quyết trường hợp người kháng cáo nộp đơn trực tiếp cho Tòa án hoặc đến Tòa án trình bày trực tiếp, tiểu mục 4.2, mục 4, phần I Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP quy định rõ : "Trong trường hợp người kháng cáo đến nộp đơn kháng cáo tại Toà án hoặc trong trường hợp họ đến Toà án cấp sơ thẩm trình bày trực tiếp về việc kháng cáo, thì ngày kháng cáo là ngày Toà án nhận đơn hoặc là ngày Toà án lập biên bản về việc kháng cáo". Như vậy, việc xác định ngày kháng cáo có thể khác nhau tùy theo cách thức bị cáo thực hiện quyền kháng cáo. Việc xác định ngày kháng cáo rất quan trọng, bởi đây sẽ là căn cứ để Tòa án có thẩm quyền xác định việc kháng cáo có đúng thời hạn luật định hay không. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (chưa có hiệu lực thi hành) quy định về thời hạn kháng cáo tại điều 333. Bộ luật mới có bổ sung về thời hạn kháng cáo đối với quyết định là 07 ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định. Đồng thời, các hướng dẫn về thời hạn kháng cáo, cách xác định ngày kháng cáo tại tiểu mục 4.1, mục 4, phần I, và tiểu mục 4.2, mục 4, phần I - Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP như phân tích ở trên đã được pháp
  • 42. 39 điển hoá, bổ sung vào điều luật mới, đây là sự tiến bộ trong xây dựng luật, đảm bảo sự thống nhất cũng như đảm bảo quyền lợi của bị cáo. 2.2.2. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định sơ thẩm Thời hạn kháng cáo đổi với các quyết định của Tòa án sơ thẩm được quy định tại Khoản 2 Điều 239 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 là 7 ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định. Thời điểm bắt đầu, thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo cũng như thời điểm thực hiện quyền kháng cáo của người có quyền được xác định tương tự như kháng cáo đối với bản án đã phân tích ở trên. Quy định về thời hạn kháng cáo đối với quyết định sơ thẩm của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (chưa có hiệu lực thi hành) vẫn là 07 ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định, tương tự như bộ Luật Tố tụng hình sự 2003 nhưng không ghi thành điều luật riêng mà ghép vào điều luật quy định thời hạn kháng cáo của bản án (khoản 2 Điều 333). Cách quy định của điều luật mới giúp dễ dàng tra cứu quy định pháp luật. Nhìn chung, thời hạn kháng cáo đối với bản án, quyết định của Tòa án như quy định hiện hành là tương đối hợp lý. Tuy nhiên, qua nghiên cửu, tôi nhận thấy có một vài hạn chế sau đây: Thứ nhất, thời hạn kháng cáo sẽ được xác định như thế nào đối với trường hợp bị cáo tham gia phiên tòa nhưng lại bỏ về hoặc bỏ trốn trong thời gian Hội đồng xét xử nghị án. Thời hạn kháng cáo sẽ là 15 ngày kể từ ngày tuyên án hay là 15 ngày tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. Vấn đề này hiện nay còn nhiều quan điểm, có quan điểm cho rằng nên tính từ ngày bị cáo nhận được bản án để đảm bảo quyền kháng cáo của bị cáo. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng thời hạn kháng cáo được tính kể từ khi Tòa tuyên án do bởi bị cáo có mặt tại phiên toà khi tiến hành phần thủ tục nên
  • 43. 40 sau đó có bỏ về thì cũng xem như có mặt tại phiên toà. Vấn đề này chưa được pháp luật ghi nhận một cách cụ thể, do đó cần phải có quy định hoặc hướng dẫn thống nhất. Thứ hai, mặc dù thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo được hướng dẫn khá rõ ràng và cụ thể tại Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP nhưng cách quy định tại Điều 234 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có thể gây nhầm lẫn : “15 ngày kể từ ngày tuyên án….". Người đọc dễ nhầm tưởng là ngày Tòa tuyên án sẽ là thời điểm bắt đầu của thời hạn kháng cáo. Mặc dù, kháng cáo được thực hiện ngay trong ngày Tòa tuyên án vẫn được chấp nhận nhưng nếu nhận thức về ngày bắt đầu không đúng thì việc xác định ngày kết thúc cũng sẽ không chính xác. Bên cạnh đó, pháp luật Tố tụng hình sự chỉ quy định hưởng xử lý khi ngày cuối cùng của thời hạn kháng cáo rơi vào ngày nghỉ, ngày lễ; còn trường hợp nếu ngày bắt đầu của thời hạn này rơi vào ngày lễ, ngày nghỉ thì vẫn chưa có hướng dẫn. Mặc khác, việc xác định đúng thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của quyền kháng cáo là rất quan trọng vì nó sẽ ảnh hưởng đến tính hợp pháp của kháng cáo. Nhưng nội dung này lại không được quy định trực tiếp trong Bộ luật Tố tụng hình sự mà lại được hướng dẫn tại một Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán. Ngay cả, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 cũng chưa được bổ sung quy định này. Vì vậy, theo quan điểm của chúng tôi là nên pháp điển hóa nội dung của Nghị quyết về vấn đề này thành một điều luật trong Bộ luật Tố tụng hình sự để tạo điều kiện cho mọi người tiếp cận, nghiên cứu những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của họ.
  • 44. 41 2.2.3. Kháng cáo quá hạn Về nguyên tắc, mọi kháng cáo phải được thực hiện trong thời hạn luật định. Tuy nhiên trong thực tế, không phải lúc nào bị cáo cũng có thể thực hiện đúng thời hạn kháng cáo theo quy định của pháp luật. Có thể có những lý do khách quan hoặc chủ quan và việc kháng cáo bị chậm trễ, quá thời hạn luật định được gọi là kháng cáo quá hạn. Nhằm đảm bảo một cách triệt để quyền, lợi ích hợp pháp của những người có quyền kháng cáo, pháp luật Tố tụng hình sự nước ta ghi nhận và cho phép người có quyền kháng cáo được kháng cáo quá hạn và có thể sẽ được chấp nhận trong những trường hợp có lý do chính đáng. Điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định : “Việc kháng cáo quá hạn có thể được chấp nhận nếu có lý do chính đáng”. Lý do chính đáng ở đây có thể hiểu là những lý do khiến cho người có quyền kháng cáo mặc dù mong muốn thực hiện việc kháng cáo nhưng không thể thực hiện được việc kháng cáo hoặc không thể gửi được đơn kháng cáo đúng thời hạn mặc dù đã áp dụng hết khả năng hiện có để có thể thực hiện việc kháng cáo hoặc gửi đơn kháng cáo. Việc kháng cáo quá hạn có thể được chấp nhận hoặc không tùy thuộc vào lý do mà người kháng cáo đưa ra có chính đáng hay không. Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định rõ như thế nào là lý do chính đáng, nhưng tại tiểu mục 5.1 mục 5 phần I Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP đã giải thích: “Lý do chính đáng là những trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác mà người kháng cáo không thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời hạn luật định, ví dụ: do thiên tai, lũ lụt; do ốm đau, tai nạn phải nằm viện..”. Trong trường hợp này, người kháng cáo cần nói rõ lý do kháng cáo quá hạn và phải làm đơn kháng cáo ngay sau khi cản trở không còn nữa. Thẩm
  • 45. 42 quyền xét kháng cáo quá hạn thuộc về Tòa án cấp phúc thẩm. Cụ thể : “Tòa án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng xét xử gồm ba thẩm phán để xét lý do kháng cáo quá hạn. Hội đồng xét xử có quyền chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn ’’(Điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003). Điều này cũng đồng nghĩa với việc không phải trong mọi trường hợp có lý do chính đáng thì việc kháng cáo quá hạn đều được chấp nhận. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, phiên họp xét lý do kháng cáo được thực hiện trước khi mở phiên toà phúc thẩm. Quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng cáo quá hạn phải được gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm và người kháng cáo quá hạn. Nếu việc kháng cáo quá hạn được chấp nhận thì Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành xét xử phúc thẩm theo quy định chung. Việc ghi nhận quyền kháng cáo quá hạn là một quy định thể hiện rất rõ tính nhân đạo, phù hợp với thực tiễn. Bởi nhìn từ góc độ thực tế, cuộc sống có nhiều trở ngại khách quan mà bản thân bị cáo cũng như các đương sự khác không lường trước và không khắc phục ngay được: như ốm đau, thiên tai, lũ lụt... Vì vậy, đối với những trường hợp này, pháp luật cần phải tạo điều kiện giúp đỡ họ để họ được bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Nhưng không vì thế mà áp dụng một cách tùy tiện, dễ dẫn đến trường hợp bị cáo, đương sự lợi dụng quy định này mà cố tình vi phạm thời hạn kháng cáo. Việc kháng cáo quá hạn chỉ được chấp nhận khi có lý do chính đáng. Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP đã phần nào làm rõ thế nào là lý do chính đáng. Tuy nhiên, các nhà làm luật trong phạm vi có thể nên chỉ rõ các trường hợp cụ thể nào thì được xem là có lý do chính đáng để thống nhất áp dụng trên thực tế. Mặc khác, hiện cũng chưa có quy định thời hạn mà chủ thể có quyền kháng cáo phải thực hiện hoạt động này sau khi chấm dứt lý do bất
  • 46. 43 khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Vì vậy cần quy định rõ nội dung này để đảm bảo cơ sở pháp lý khi áp dụng. Hạn chế của Bộ luật Tố tụng hình 2003 sự còn thể hiện qua quy định thành lập “Hội đồng xét xử” để xét lý do kháng cáo quá hạn để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận ở Điều 235. Về mặt lý luận, hoạt động xét xử của Tòa án luôn gắn liền với hoạt động buộc tội, giải quyết toàn bộ nội dung vụ án. Trong trường hợp này, việc thành lập Hội đồng là để xét lý do kháng cáo quá hạn, để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận chứ hoàn toàn không thực hiện hoạt động xét xử. Do vậy, dùng cụm từ xét xử ở quy định này là chưa thật chuẩn xác. Thêm vào đó, Tiểu mục 5.3 mục 5 phần I Nghị quyết số 05/2005/NQ- HĐTP quy định “Phiên họp xét lý do kháng cáo quá hạn không bất buộc phải có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp”. Theo quan điểm của chúng tôi thì việc xét lý do kháng cáo quá hạn là một hoạt động gây ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người kháng cáo cũng như những người có liên quan. Do đó, để đảm bảo tính chính xác, hợp pháp và có căn cứ trong việc xét lý do kháng cáo quá hạn, sự giám sát từ phía Viện kiểm sát là nhu cầu tất yếu. Các hạn chế nên trên đã được khắc phục tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Khoản 1 Điều 335 quy định : “Việc kháng cáo quá hạn được chấp nhận nếu có lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan...”, đã phần nào làm rõ được cụm từ “lý do chính đáng” của luật cũ. Ngoài ra, bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định Toà phúc thẩm sẽ thành lập “Hội đồng xét kháng cáo quá hạn” thay vì thành lập Hội đồng xét xử như quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2003. Ngoài ra, phiên họp xét kháng cáo quá hạn phải có Viện kiểm sát tham gia. Những thay đổi này đã khắc phục được hạn chế của điều luật, đảm bảo quyền lợi của bị cáo.