SlideShare a Scribd company logo
1 of 138
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Từ Thị Thơ
KHẢO SÁT
VĂN HỌC DÂN GIAN STIÊNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Từ Thị Thơ
KHẢO SÁT
VĂN HỌC DÂN GIAN STIÊNG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP
Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến cô Nguyễn Thị Ngọc Điệp, người đã
trực tiếp hướng dẫn, hết lòng giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện
luận văn.
Xin bày tỏ lòng biết ơn đến thầy Phan An, anh Phạm Hữu Hiến, già
làng Điểu Hum, chú Điểu Bứa, chú Điểu Hích, ca sĩ Điểu Thị Kim Anh và
toàn thể đồng bào Stiêng trên địa bàn tỉnh Bình Phước, đặc biệt là đồng
bào Stiêng ở xã Lộc Hòa, huyện Lộc Ninh, đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong
những ngày tôi đi thực tế điền dã tìm hiểu văn học dân gian Stiêng.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn phòng Khoa học Công nghệ – sau
đại học trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, quý thầy cô
trong Khoa Ngữ văn, các anh (chị) trong tổ Văn phòng Sở Giáo dục và
Đào tạo tỉnh Bình Phước, gia đình, bạn bè, đã tạo mọi điều kiện, giúp đỡ,
động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Luận văn không tránh khỏi thiếu sót, chúng tôi kính mong nhận được
sự góp ý của quý thầy cô và các bạn.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 5/2013
Từ Thị Thơ
MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................... 1
MỞ ĐẦU............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài – Mục đích nghiên cứu.................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề............................................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 8
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 9
5. Đóng góp của luận văn ............................................................................ 10
6. Cấu trúc của luận văn ..............................................................................11
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI STIÊNG...................................... 13
1.1. Lịch sử tộc người Stiêng ................................................................... 13
1.2. Hoạt động kinh tế ..............................................................................16
1.3. Tổ chức xã hội truyền thống.............................................................. 20
1.4. Đặc điểm văn hóa tộc người Stiêng .................................................. 24
1.5. Tình hình tư liệu văn học dân gian Stiêng ........................................ 32
Chương 2: THẦN THOẠI, TRUYỀN THUYẾT, TRUYỆN CỔ TÍCH
STIÊNG.............................................................................................................39
2.1. Thần thoại .........................................................................................39
2.1.1. Đặc điểm nội dung..........................................................................39
2.1.2. Đặc điểm nghệ thuật ....................................................................... 46
2.2. Truyền thuyết....................................................................................48
2.2.1. Đặc điểm nội dung........................................................................... 48
2.2.2. Đặc điểm nghệ thuật ....................................................................... 55
2.3. Truyện cổ tích ...................................................................................60
2.3.1. Đặc điểm nội dung........................................................................... 61
2.3.2. Đặc điểm nghệ thuật ........................................................................ 64
Chương 3: CA DAO-DÂN CA, SỬ THI STIÊNG .......................................... 70
3.1. Ca dao-dân ca.....................................................................................70
3.1.1. Đặc điểm nội dung..........................................................................70
3.1.2. Đặc điểm nghệ thuật ....................................................................... 75
3.2. Sử thi..................................................................................................82
3.2.1. Đặc điểm nội dung..........................................................................83
3.2.2. Đặc điểm nghệ thuật ....................................................................... 90
3.2.3. Giá trị văn hóa của sử thi Stiêng................................................... 111
KẾT LUẬN.....................................................................................................122
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................126
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài – Mục đích nghiên cứu
Bình Phước – miền đất được coi như “Phần mái của Nam Sơn” (Trường
Sơn Nam) là một vùng đất có lịch sử lâu đời, giàu truyền thống đấu tranh
cách mạng. Ngay từ rất xa xưa, Bình Phước đã là vùng đất cư trú của nhiều
dân tộc ít người như Stiêng, Mnông, Mạ, Chơro, Chăm, Khmer…Có thể nói
rằng, đây là nơi hội tụ và giao lưu văn hóa của nhiều dân tộc anh em, tạo nên
sự đa dạng và thống nhất trong bản sắc văn hóa của khu vực này nói riêng,
của cả nước nói chung.
Trong số các dân tộc ít người sinh sống ở Bình Phước thì người Stiêng –
một trong những chủ nhân lâu đời của vùng đất phía bắc tỉnh Bình Phước – là
dân tộc có số dân đông nhất. Cho nên, có thể gọi Bình Phước là “trung tâm”
của văn hóa Stiêng ở Việt Nam.
Là một dân tộc thuộc cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, dân tộc Stiêng
có một nền văn hóa vừa mang nhiều sắc thái chung với những dân tộc anh em
sống xung quanh vừa mang những nét riêng, độc đáo của dân tộc mình. Điều
đó được thể hiện một cách rõ nét qua vốn văn học dân gian của dân tộc này.
Chúng tôi chọn đề tài “Khảo sát văn học dân gian Stiêng” vì những lí do
sau:
Góp phần tìm hiểu đặc điểm văn học dân gian Stiêng: Vốn văn học dân
gian của dân tộc này như thế nào? Có những nét nổi bật nào về đặc điểm cơ
cấu, thể loại? Mỗi thể loại có những đặc điểm nào cần chú ý? Vai trò, ý nghĩa
của văn học dân gian trong đời sống cộng đồng Stiêng? Mối quan hệ giữa văn
học dân gian Stiêng và văn hóa Stiêng như thế nào? Trả lời những câu hỏi
trên sẽ giúp chúng tôi nhận diện bức tranh toàn cảnh về đời sống tinh thần của
người Stiêng trên địa bàn tỉnh Bình Phước nói riêng cũng như đời sống tinh
2
thần của các dân tộc anh em nói chung, góp phần làm phong phú thêm bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Chuyến đi thực tế điền dã đã giúp chúng tôi có điều kiện thu thập được
nhiều thông tin bổ ích, nhiều văn bản văn học dân gian chưa được biết đến.
Qua luận văn này, chúng tôi muốn cung cấp thêm nhiều tư liệu quý, giúp
người dạy, người học, các nhà nghiên cứu có cái nhìn khái quát hơn trong
quá trình tiếp cận văn học dân gian Stiêng.
Góp phần bảo tồn, lưu giữ vốn văn hóa tinh thần đặc sắc của dân tộc
Stiêng: Người Stiêng không có chữ viết. Vốn văn học dân gian của họ được
lưu giữ qua truyền miệng, bằng trí nhớ của những già làng. Hiện nay, nhiều
dấu hiệu cho thấy bản sắc văn hóa của dân tộc Stiêng ở tỉnh Bình Phước nói
chung, ở các huyện cư trú chủ yếu của người Stiêng nói riêng đang đứng
trước nguy cơ mất mát lớn. Do đó, cần tiến hành sưu tầm, khảo sát, nghiên
cứu đồng bộ trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là vốn văn học dân gian – thể hiện rõ
nhất đời sống tinh thần của người Stiêng – để từ đó có thể đánh giá và khôi
phục kịp thời vốn văn hóa đặc sắc này.
Đồng thời, luận văn cũng là món quà nhỏ mà chúng tôi muốn dành
tặng những nghệ nhân Stiêng – những người có nhiều tâm huyết trong việc
giữ gìn và phát huy vốn văn học dân gian của dân tộc mình.
2. Lịch sử vấn đề
So với các dân tộc khác ở Tây Nguyên và Đông Nam bộ, văn học dân
gian của người Stiêng được biết đến khá muộn. Số lượng các công trình sưu
tầm, nghiên cứu về văn học dân gian Stiêng rất ít. Có thể điểm qua một số
công trình sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian Stiêng sau:
Truyện kể dân gian Stiêng được người đọc biết đến đầu tiên qua Tuyển
tập truyện cổ tích các dân tộc ở Việt Nam (1987). Tuyển tập sưu tuyển và
3
giới thiệu truyện kể dân gian của các dân tộc ít người ở Việt Nam, trong đó có
01 bản kể Sự tích kiêng ăn thịt Cà héc của dân tộc Stiêng.
Dân ca Sông Bé (1991) là kết quả chuyến đi thực tế sưu tầm – nghiên
cứu dân ca Nam bộ của tập thể tác giả Lư Nhất Vũ, Nguyễn Văn Hoa, Lê
Giang, Từ Nguyên Thạch. Các nhà nghiên cứu đã lặn lội đến các làng, các ấp,
các phum sóc và đã ghi thu được hàng trăm làn điệu dân ca, hàng ngàn câu
hát dân gian vô cùng quý hiếm. Trong chương 2, tác giả Lư Nhất Vũ và
Nguyễn Quang Hoa có bài viết giới thiệu Đặc trưng nghệ thuật âm nhạc
trong dân ca các dân tộc ở Sông Bé, trong đó có dân tộc Stiêng. Họ cho
rằng: “Nhìn chung các làn điệu dân ca Stiêng chủ yếu là dựa vào một âm hình
chủ đạo xuất hiện đầu bài, sau đó được khắc họa âm hình bằng cách tái hiện
đi đôi với biến hóa ở mức độ chưa cao; nó bình dị và mộc mạc như củ khoai
lùi, như trái bắp nướng, như chùm trái gùi chín…[75, 90]. Tập sáchcòn giới
thiệu 12 bài dân ca Stiêng (cả phần kí âm và dịch nghĩa) do nhóm sưu tầm
trên địa bàn tỉnh Bình Phước [75, 273-300].
Tác giả Nguyễn Phương Thảo sưu tuyển và giới thiệu truyện kể dân gian
Nam bộ, trong đó có 01 bản kể truyện dân gian Stiêng Truyền thuyết về thác
nước Lieng Hur qua công trình Huyền thoại miệt vườn (1994).
Trong Hợp tuyển truyện cổ tích Việt Nam (1996), Lữ Huy Nguyên và
Đặng Văn Lung sưu tuyển và giới thiệu truyện kể dân gian Việt Nam, trong
đó có 01 bản kể truyện dân gian Stiêng Người mồ côi.
Nguyễn Thị Huế và Trần Thị An sưu tuyển và giới thiệu các tác phẩm
văn học dân gian tập hợp trong Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam
(1999). Trong các tác phẩm được sưu tuyển và giới thiệu có 01 bản kể truyện
dân gian Stiêng Nguồn gốc loài người.
Trong bài viết Bước đầu tìm hiểu truyện cổ Stiêng đăng trên website
của Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học KHXH&NV TP.HCM
4
(ngày 25/09/2009), tác giả Phan Xuân Viện đã thống kê, phân loại, nhận diện
và phân tích sơ lược 135 truyện kể dân gian Stiêng. Số lượng truyện kể nói
trên là kết quả chuyến đi thực tế, sưu tầm điền dã văn học dân gian Bình
Phước trong đó có văn học dân gian/truyện kể dân gian Stiêng của đoàn sinh
viên Khoa Văn học và Ngôn ngữ Trường Đại học KHXH&NV TP.HCM. Tác
giả bài viết kết luận: “Kết quả khảo sát bước đầu cho thấy vốn truyện cổ
Stiêng vừa rất phong phú về số lượng, vừa đa dạng về thể loại” [87].
Cùng chủ đề nêu trên, trong bài viết Tìm hiểu truyện cổ tộc người
Stiêng ở Bình Phước đăng trên website của Khoa Văn học và Ngôn ngữ,
Trường Đại học KHXH&NV TP.HCM (ngày 23/01/2012), Phan Xuân Viện
đã giúp người đọc có cái nhìn cụ thể hơn về vốn truyện cổ Stiêng nói riêng,
văn học dân gian Stiêng nói chung. Tác giả viết: “Kho tàng văn học dân gian
Stiêng ở Bình Phước rất phong phú với đủ thể loại như thần thoại, truyền
thuyết, sử thi, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, thơ ca, hát nói
dân gian. Qua hai đợt sưu tầm điền dã văn học dân gian trong hai năm 2008
và 2009, tổng số truyện kể dân gian sưu tầm tại gần 40 xã điểm có đồng bào
Stiêng sinh sống thuộc 6 huyện như Bình Long, Đồng Phú, Lộc Ninh, Bù Đốp,
Phước Long và Bù Đăng gồm có 233 truyện” [88]. Bài viết đi sâu khảo sát
nội dung và nghệ thuật của các thể loại và tiểu loại truyện cổ dân gian Stiêng,
từ đó rút ra những đặc điểm cơ bản của từng thể loại tự sự dân gian, giúp
người đọc có cái nhìn đầy đủ hơn trong việc nhận biết và phân tích vốn truyện
cổ phong phú này. Bài viết cũng mở ra những hướng nghiên cứu mới cho
người đọc. Đó là chứng minh quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa giữa các tộc
người láng giềng cộng cư và xen cư như Ê Đê, Mnông, Khmer, Việt…với tộc
người Stiêng ở tỉnh Sông Bé – Bình Phước từng xảy ra trong quá khứ xa và
gần thông qua những truyện cổ Stiêng như Rùa và Khỉ, Ji Băch Ji Bay,
Người vợ khôn ngoan, Chuyện trạng Achơi…
5
Cũng dựa vào kết quả sưu tầm trên1
, Nguyễn Thị Tuyết Sương thực hiện
luận văn tốt nghiệp đại học với đề tài Văn học dân gian Bình Phước –
Truyện kể dân gian (2009). Tác giả luận văn đã phân tích sơ lược về các thể
loại trong văn học dân gian các dân tộc ở Bình Phước (trong đó có văn học
dân gian Stiêng) như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười,
truyện ngụ ngôn. Bước đầu, luận văn đã giúp người đọc thấy được những đặc
điểm về nội dung và nghệ thuật trong truyện kể dân gian Stiêng. Phần cuối
luận văn là phần sưu tuyển các tác phẩm thuộc các thể loại nói trên.
Luận văn tốt nghiệp đại học của Trương Thị Thu Thảo với đề tài Văn
học dân gian Bình Phước – Tục ngữ và câu đố (2009) đem đến cho người
đọc cái nhìn khái quát về hai thể loại tục ngữ và câu đố trong văn học dân
gian các dân tộc ở Bình Phước (trong đó có văn học dân gian Stiêng). Phần
cuối của luận văn cũng là phần sưu tuyển tác phẩm thuộc hai thể loại nêu trên.
Hoàng Thị Lệ Hằng với đề tài luận văn tốt nghiệp đại học Văn học dân
gian Bình Phước – Ca dao dân ca (2009) cũng đã đem đến cho người đọc
cái nhìn khái quát về thể loại ca dao-dân ca trong văn học dân gian Bình
Phước, trong đó có ca dao-dân ca của dân tộc Stiêng.
Thế nhưng, phần lớn các tác phẩm được sưu tuyển trong hai tài liệu Văn
học dân gian Bình Phước – Tục ngữ và câu đố (2009) và Văn học dân gian
Bình Phước – Ca dao dân ca (2009) chủ yếu là của người Kinh, một số tác
phẩm có nhiều nghi vấn nên chúng tôi không chọn hai tài liệu này để khảo
sát.
Mặc dù có nhiều đóng góp trong nghiên cứu văn học dân gian Bình
Phước nói chung, văn học dân gian Stiêng nói riêng, nhưng các đề tài tốt
nghiệp trên cũng chỉ dừng lại ở việc chỉnh lí, phân loại, giới thiệu và mô tả tài
1
Nguồn tài liệu này cũng là nguồn tài liệu mà tác giả Phan Xuân Viện sử dụng trong bài viết của ông.
6
liệu sưu tầm từ chuyến đi thực tế, điền dã, chưa đi sâu nghiên cứu một cách
có hệ thống, chưa đánh giá đầy đủ, cụ thể về đối tượng.
Trong bài viết Đi tìm câu hát dân ca Stiêng (đăng trên trang điện tử báo
Tuổi trẻ, ngày 28/02/2004), tác giả Lam Điền đã cho người đọc thấy được vốn
ca dao-dân ca phong phú của người Stiêng. Thế nhưng, vốn ca dao-dân ca này
hiện đang còn tiềm ẩn. Tác giả viết: “Từ bà Điểu Thị K’hen, mọi người mới
phát hiện rằng người Stiêng có cả ca dao, tục ngữ. Lối ca kể được gọi là tâm
pớt của người Stiêng còn chứa đựng những câu chuyện ngụ ngôn. Bà K’hen
còn thuộc nhiều câu chuyện về con rùa và con khỉ, con cheo với con cọp. Bà
K’hen ngồi hát tâm pớt một đoạn nói về lịch sử của núi Bà Rá, núi Bà
Đen...với những câu chuyện truyền thuyết có từ ngàn đời mà hiện nay không
dễ tìm người còn nhớ được…Theo ước đoán của ông Điểu Đươu, hiện nay
toàn Bù Đăng có khoảng hai người hát được tâm pớt kéo dài hai ngày hai
đêm mới hết....Chúng tôi rời Đăk Nhau với hình ảnh của người phụ nữ 54 tuổi
còn giữ hàng ngàn câu ca trong tâm khảm…”.
Qua bài viết Người Stiêng đi tìm lời ru của mẹ (đăng trên trang tin điện
tử của báo Công an nhân dân, ngày 07/01/2009) của tác giả Anh Ngọc, người
đọc thấy được những khó khăn, gian khổ, thiếu thốn cũng như những thành
tựu bước đầu của Điểu Đức – người con ưu tú của dân tộc Stiêng – trong hành
trình đi tìm “lời ru của mẹ”. Tác giả bài viết cho biết: “Sau gần 2 năm lặn lội
tìm tòi, được chính quyền và một số nghệ nhân giúp đỡ, Điểu Đức đã ghi âm
lại được 10 làn điệu dân ca Stiêng với hàng ngàn bài hát ru, hát giao duyên,
hát ngợi ca đất nước, con người và rừng núi. Cũng trong cuộc hành trình ấy,
Điểu Đức còn ghi chép lại được hàng ngàn bài ca dao Stiêng với nhiều chủ
đề khác nhau, 10 bài sử thi Stiêng. Mỗi bài sử thi nói về một con người, về
một câu chuyện trong một giai đoạn lịch sử cụ thể, nói về ông Tiên, về lịch sử
hình thành trời đất, về một con sông, con suối thiêng, về thời đồ đá, đồ đồng
7
mà người Stiêng đã từng trải qua và in đậm trong tiềm thức của họ…”.
Tháng 3/2007, những giai điệu dân ca Stiêng này đã được các nghệ sĩ Stiêng
ở Bình Phước biểu diễn trên sân khấu trong Chương trình Liên hoan Dân ca
truyền hình toàn quốc được tổ chức tại Bình Dương. Từ những cơ hội này, lần
đầu tiên công chúng cả nước được biết đến cái hay, cái đẹp của dân ca Stiêng:
“Nếu như dân ca của người Stiêng ở các tỉnh vùng Tây Nguyên hừng hực như
có lửa, dân ca của người Kinh thì sâu lắng, thiết tha thì dân ca của người
Stiêng ở Bình Phước lại duyên dáng và nền nã” [76].
“Sử thi tộc người Stiêng Krông Kơ Laas đoạt hồn nàng Rơ Liêng
Mas” (2010) của tập thể tác giả Phan Xuân Viện, Phùng Thị Thanh Lài, Điểu
Mí, Điểu Hích là công trình sưu tầm, nghiên cứu đầu tiên về sử thi Stiêng.
Tập thể tác giả đã tiến hành ghi âm, kí âm, biên dịch sử thi Krông Kơ Laas
đoạt hồn nàng Rơ Liêng Mas và giới thiệu cùng người đọc sử thi này. Trước
khi giới thiệu văn bản tác phẩm (cả phần kí âm tiếng Stiêng và tiếng Việt),
các tác giả đã dành 40 trang phân tích tác phẩm. Phần phân tích này hướng
vào một số nội dung chính như: xác định thể loại tác phẩm (qua việc xác định
chức năng thể loại trong đời sống cộng đồng, tính diễn xướng cộng đồng, đề
tài, nội dung và yếu tố thi pháp; nêu bật giá trị văn hóa tinh thần của tộc người
Stiêng qua tác phẩm; xác định phương thức lưu truyền sử thi Krông Kơ Laas
đoạt hồn nàng Rơ Liêng Mas. Công trình nằm trong Dự án Công bố, phổ
biến tài sản văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam và đã đạt giải ba của
Hội văn nghệ dân gian Việt Nam. Đây là công trình có tính chất tiên phong,
gợi mở các đề tài nghiên cứu về văn học dân gian Stiêng nói chung, sử thi
Stiêng nói riêng. Lần đầu tiên, người đọc biết đến sử thi Stiêng và giá trị của
nó: “Mặc dù không mang tầm cỡ là “bộ bách khoa thư” hay là “từ điển
sống” như các bộ sử thi Tây Nguyên khác đã được công bố nhưng sử thi
Krông Kơ Laas đoạt hồn nàng Rơ Liêng Mas cũng mang những giá trị phản
8
ánh đời sống lịch sử xã hội cùng những biến chuyển của nó. Tác phẩm đã
phản ánh quá trình hình thành và phát triển của các chế độ xã hội, đặc biệt ở
đây là xã hội song hệ với các mối quan hệ khá đa dạng. Đồng thời, nó cũng
phản ánh sự hình thành và ổn định đời sống văn hóa của dân tộc, các nghi lễ,
phong tục, tập quán…của xã hội Stiêng xưa kia. Chính điều này đã tạo nên
giá trị văn hóa cao về nhiều mặt cho tác phẩm sử thi. Bên cạnh đó, tác phẩm
cũng là nguồn sử liệu quan trọng trong nghiên cứu lịch sử và nguồn gốc tộc
người thông qua những mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên,
đời sống xã hội của tộc người nơi đây, phong tục tập quán. Từ đây sẽ góp
phần tạo dựng bản sắc văn hóa tộc người” [68, 52-53].
Trên đây, chúng tôi đã giới thiệu một cách ngắn gọn các công trình sưu
tầm, nghiên cứu về văn học dân gian Stiêng. Qua đó, có thể thấy văn học dân
gian Stiêng đã được các nhà nghiên cứu quan tâm, tiếp cận từ nhiều góc độ,
bình diện khác nhau. Tuy nhiên, phần lớn các công trình trên chỉ mang tính
chất sưu tầm, giới thiệu các tác phẩm văn học dân gian một cách tản mạn,
chung chung chứ chưa thành hệ thống, chưa được sắp xếp một cách khoa học,
đầy đủ.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu cơ cấu thể loại, hệ thống thể loại,
tình hình văn bản, số lượng tác phẩm, giá trị tác phẩm thuộc các thể loại trong
văn học dân gian Stiêng nhằm giúp người đọc có cái nhìn khái quát hơn về
diện mạo văn học dân gian Stiêng là một việc làm hết sức cần thiết. Đó cũng
chính là mục đích và nhiệm vụ của chúng tôi trong luận văn này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Như tên đề tài luận văn đã chỉ rõ, đối tượng
nghiên cứu của luận văn là Văn học dân gian Stiêng. Sau khi điểm qua tình
hình tư liệu sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian Stiêng, chúng tôi tiến hành
khảo sát các thể loại trong văn học dân gian Stiêng, từ đó phác thảo diện mạo
9
chung cho văn học dân gian của tộc người Stiêng trên địa bàn tỉnh Bình
Phước. Chúng tôi quan tâm, chú ý nhiều hơn đến thể loại sử thi vì đây là thể
loại phản ánh đầy đủ nhất những nét văn hóa độc đáo, đặc trưng của người
Stiêng.
Phạm vi nghiên cứu:
+ Luận văn chủ yếu tìm hiểu những nội dung liên quan đến văn học dân
gian Stiêng trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Có 5 vùng chủ yếu: Bù Đăng, Lộc
Ninh, Chơn Thành, thị xã Phước Long và thị xã Đồng Xoài. Đặc biệt, chúng
tôi quan tâm nhiều nhất đến xã Lộc Hòa, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước vì
đây là vùng đất “đậm đặc văn hóa Stiêng” nhất cho đến tận ngày nay.
+ Luận văn chủ yếu khảo sát năm thể loại cơ bản trong văn học dân gian
Stiêng: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao-dân ca.
Nguồn tư liệu: Nghiên cứu dựa trên nguồn tác phẩm đã được công bố
trước đây và nguồn tác phẩm do tác giả luận văn điền dã, sưu tầm.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
Phương pháp điền dã dân tộc học: Với phương pháp này, chúng tôi
trực tiếp đi đến những vùng đất đã hoạch định (Bù Đăng, Lộc Ninh, Chơn
Thành, thị xã Phước Long và thị xã Đồng Xoài); gặp gỡ và phỏng vấn nhiều
đối tượng ở mọi lứa tuổi để nắm bắt thông tin, phục vụ cho đề tài nghiên cứu;
gặp gỡ các già làng, các nghệ nhân để tiến hành sưu tầm tác phẩm. Trên cơ sở
những tác phẩm đã sưu tầm được, chúng tôi soi chiếu dưới góc độ lí thuyết
của thể loại và quá trình diễn xướng của nghệ nhân để xác định thể loại văn
học dân gian.
10
Phương pháp này là phương pháp cơ bản. Với phương pháp này, chúng
tôi có được cơ sở dữ liệu và những thông tin quan trọng cho việc nghiên cứu
đề tài cũng như đảm bảo tính khách quan của đề tài.
Phương pháp thống kê, miêu tả: thống kê tất cả tác phẩm chúng tôi
được tiếp cận của những người đi trước và những tác phẩm mà chúng tôi đã
sưu tầm được thành các số liệu làm căn cứ cho việc đưa ra những kết luận
khoa học. Thống kê những chi tiết, tần số xuất hiện các motif, các biện pháp
nghệ thuật trong tác phẩm để kết luận những đặc điểm có tính quy luật. Từ đó
tiến hành miêu tả kết cấu, nội dung, những mẫu số chung để làm cơ sở kết
luận cho đề tài nghiên cứu.
Phương pháp loại hình, lịch sử: Sử dụng phương pháp này để thấy
được đặc điểm văn hóa tộc người, mối quan hệ giữa văn hóa và văn học dân
gian. Qua việc khảo sát văn học dân gian Stiêng, giúp người đọc có được cái
nhìn toàn cảnh về bản sắc văn hóa dân tộc Stiêng.
Phương pháp phân loại, hệ thống: Phân loại những tác phẩm đã được
tiếp cận trực tiếp và những tác phẩm sưu tầm theo tiêu chí đặt ra để giới hạn
đối tượng nghiên cứu. Sắp xếp các tác phẩm vào một hệ thống để phân tích, lí
giải mối liên hệ giữa các yếu tố để thấy được tính chỉnh thể của vấn đề.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Dựa trên nguồn tài liệu đã được sưu
tầm và nguồn tài liệu của chúng tôi trong chuyến đi thực tế, điền dã, chúng tôi
tiến hành phân tích, tìm hiểu từng thể loại cụ thể (thần thoại, sử thi, truyền
thuyết, truyện cổ tích, ca dao-dân ca) ở cả hai mặt nội dung và nghệ thuật, từ
đó đưa ra những kết luận có tính khái quát về văn học dân gian Stiêng.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn có những đóng góp sau:
- Bước đầu giúp người đọc có cái nhìn khái quát về văn học dân gian
Stiêng, những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian Stiêng cũng như vai trò,
11
ý nghĩa, thực trạng của văn học dân gian Stiêng hiện nay trên địa bàn tỉnh
Bình Phước.
- Bổ sung nguồn tư liệu cho việc nghiên cứu văn học dân gian Stiêng
cũng như nghiên cứu những lĩnh vực khác về tộc người Stiêng như văn hóa,
lịch sử…
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Nội dung luận văn được triển khai trong
ba chương:
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI STIÊNG
Gồm 25 trang. Nội dung của chương này là cái nhìn tổng quan về tộc
người Stiêng: tên gọi, lịch sử tộc người, sự phân bố dân cư, hoạt động kinh tế,
tổ chức xã hội, đặc điểm văn hóa và tình hình tư liệu sưu tầm, nghiên cứu về
văn học dân gian Stiêng.
Chương 2: THẦN THOẠI, TRUYỀN THUYẾT, TRUYỆN CỔ
TÍCH STIÊNG
Gồm 30 trang. Nội dung của chương này là thống kê số lượng bản kể,
xác định các đặc điểm về nội dung, nghệ thuật của thần thoại, truyền thuyết,
truyện cổ tích Stiêng…
Chương 3: CA DAO-DÂN CA, SỬ THI STIÊNG
Gồm 50 trang. Nội dung của chương này là tìm hiểu hai thể loại ca dao-
dân ca và sử thi Stiêng về các mặt: số lượng bản kể, đặc điểm nội dung, đặc
điểm nghệ thuật, đặc biệt là thể loại sử thi. Qua quá trình phân tích sẽ làm rõ
nhận định: “Sử thi Stiêng được coi là thể loại rõ nét nhất phản ánh bản sắc
văn hóa dân tộc Stiêng”.
Ngoài ra, luận văn còn có phần phụ lục được in thành một tập riêng. Nội
dung phụ lục là những thông tin chúng tôi nắm bắt được trong chuyến đi thực
tế, điền dã. Chúng tôi tiến hành thực hiện phụ lục đính kèm luận văn nhằm
12
giúp người đọc có cái nhìn khái quát hơn về văn học dân gian Stiêng nói
riêng, vùng đất và con người Stiêng nói chung mà trong giới hạn nội dung
luận văn chúng tôi chưa có dịp giới thiệu.
13
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI STIÊNG
1.1. Lịch sử tộc người Stiêng
Tên gọi
Trong bảng danh mục các dân tộc Việt Nam (Ban hành theo quyết định
số 121 – TCTK/PPCĐ ngày 02 tháng 3 năm 1979) của Tổng cục thống kê, số
thứ tự 22 có ghi dân tộc Xtiêng. Ngoài ra còn có một số cách gọi và cách viết
khác như: Satiêng, Sađiêng, Xađiêng, XaChiêng, XaTiêng, Xêdiêng…Trong
thời Pháp thuộc, danh từ dùng để chỉ các tộc người thiểu số ở vùng cao là
“mọi”, “man”, trong đó có người Stiêng.
Trong luận văn này, chúng tôi thống nhất cách viết và gọi tên “Stiêng”.
Chúng tôi đi thực tế điền dã và hỏi người Stiêng về tên gọi của dân tộc mình.
Phần lớn họ đồng ý với cách gọi tên và phiên âm như trên. Đây cũng là cách
dùng phổ biến của một số nhà nghiên cứu trong thời gian gần đây.
“Theo tiếng Stiêng và cách phát âm gốc thì phải viết là Sdiêng. Do chữ
D trong tiếng Stiêng rất khó phát âm, không đọc như chữ D, Đ trong tiếng
Việt, người Stiêng thường đọc chữ D như cách phát âm trong tiếng Anh, dần
dần họ viết và đọc hẳn như chữ Đ trong tiếng Việt nên những người làm
nghiên cứu và ghi chép về người Stiêng đã biến đổi tên từ Sdiêng thành
Stiêng” [64, 7].
Người Stiêng có nhiều nhóm địa phương. Một số tài liệu cho rằng, có
bốn nhóm là: Bù Đíp, Bù Lách, Bù Dek, Bù Lơ. Một vài tài liệu khác cũng
ghi nhận có bốn nhóm địa phương Stiêng là: Bù Dih – Vu Dih (vùng thấp),
Bù Lơ – Vu Lơ (vùng cao), Bù Biêt – Vu Viêt (nhóm ảnh hưởng người
Mnông, số đầu người sông Đak Quit và tại tỉnh MunĐunKiRi) và Bù Las –
Vu Las (nhóm sống ở khu vực trảng). Hiện nay, người Stiêng chủ yếu còn tồn
14
tại hai nhóm chính là Bù Lơ và Bù Dek.
Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước từ
trước đến nay đều thống nhất xếp ngôn ngữ Stiêng vào họ Nam Á, nhóm Môn
– Khmer. Trong quá khứ cũng như hiện tại, người Stiêng có những quan hệ về
nguồn gốc, lịch sử phát triển tộc người, có mối giao lưu văn hóa với các dân
tộc ít người ở Tây Nguyên như Mnông, Mạ, Kơho, Khmer…
Lịch sử tộc người
Những tài liệu khảo cổ học, nhân chủng học ở miền Đông Nam bộ, đặc
biệt là ở tỉnh Bình Phước còn quá ít để có thể giúp chúng ta hiểu thấu đáo về
lịch sử, nguồn gốc tộc người Stiêng thời cổ đại. Những di tích, di chỉ tìm
được ở Dốc Chùa (Tân Uyên, Bình Dương), thành Cổ Tròn (Bình Long, Bình
Phước), bộ đàn đá (Lộc Ninh, Bình Phước) là những phát hiện quan trọng.
Tuy nhiên, những phát hiện ấy chưa là căn cứ chính xác để khẳng định rằng
người Stiêng là chủ nhân của các nền văn hóa cổ xưa ấy.
Những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, một số nhà nghiên cứu người
Pháp như Taber (1838), Azémar (1887), Barthélémy (1904), Raulin
(1936)…đã nghiên cứu và cho ra đời một số tác phẩm về người Stiêng ở Bình
Phước. Qua những tài liệu khảo cổ học, nhân chủng học, dân tộc học của các
tác giả nêu trên, chúng ta có thể hình dung về địa bàn sinh sống của người
Stiêng như sau: từ thời kì Đá mới đến thời kì Đồ đồng ở miền Nam Đông
Dương, trong đó có vùng đất Bình Phước ngày nay là địa bàn sinh sống của
người Stiêng (nhóm Indônêdiêng) cổ đại, ngôn ngữ nhóm Môn – Khmer. Đây
là vùng đất của tổ tiên người Stiêng và một số dân tộc khác như Mạ, Mnông
và nhiều dân tộc khác ở Tây Nguyên [1, 10-13].
Từ khoảng thế kỉ II đến thế kỉ III, tộc người Stiêng phát triển mạnh, khu
vực cư trú ngày càng được mở rộng ở vùng Nam Tây Nguyên và Đông Nam
bộ. Sau thế kỉ X, người Stiêng đã trở thành một tộc người hùng mạnh. Một số
15
tài liệu đã nhắc đến một “Vương quốc Stiêng”, “Vương quốc Mạ”…cho thấy
sự phát triển hùng mạnh của các tộc người ở đây nhưng có lẽ đó chưa phải là
một quốc gia theo đầy đủ ý nghĩa của nó [1, 48-49].
Theo những phần ghi chép trong sách địa lí, lịch sử thời Nguyễn và một
vài công trình khảo sát của người Pháp ghi lại thì vùng cư trú của người
Stiêng trước thế kỉ XIX khá rộng lớn, chiếm gần hết tỉnh Bình Phước, lan
sang một phần tỉnh Tây Ninh hiện nay. Đây cũng là khu vực tranh chấp giữa
người Chăm và người Khmer trong nhiều thế kỉ. Về sau, một số nhóm người
Khmer từ phía Tây và Tây Bắc đã chuyển cư vào vùng phía Tây tỉnh Bình
Phước, đẩy lùi và thu hẹp địa bàn cư trú của người Stiêng. Một vài nhóm
người Chăm trong cuộc tranh chấp với người Khmer cũng trụ lại phía Tây
Nam, vùng giữa sông Sài Gòn và sông Bé, góp phần làm thu hẹp địa bàn cư
trú của người Stiêng lui về phía Bắc. Đến cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX,
sự hiện diện của người Việt trong cuộc Nam tiến đã nhanh chóng đẩy người
Stiêng rút khỏi các vùng cư trú dọc các chi lưu sông Sài Gòn và sông Bé,
sông Đồng Nai. Vào khoảng những năm 20 – 30 của thế kỉ XX, công cuộc
bình định và thành lập các đồn điền cao su của thực dân Pháp đã xua đuổi
người Stiêng rời khỏi vùng đất đỏ phía Tây Bắc Thủ Dầu Một vào các thung
lũng đất xám.
Người Stiêng vốn là một nhóm người từ phía Bắc, di chuyển xuống phía
Nam bán đảo Đông Dương, cùng thời với những đợt chuyển cư lớn ở Đông
Nam Á lục địa. Người Stiêng có thể đã định cư ở miền Nam Tây Nguyên từ
những thế kỉ trước công nguyên. Họ đã nhanh chóng thích ứng với điều kiện
địa lí tự nhiên khu vực rừng mưa nhiệt đới Nam Tây Nguyên, đặc biệt là
những cánh rừng mưa nhiệt đới ở vùng Phước Long và rừng savan, nơi thềm
dốc của cao nguyên đổ xuống vùng Đông Nam bộ hiện nay. Trong quá trình
làm quen với vùng đất mới, hẳn đã diễn ra sự tiếp xúc với các tộc người láng
16
giềng, người Stiêng đã tiếp thu, học hỏi và xây dựng cho mình một diện mạo
kinh tế - văn hóa - xã hội khá đặc sắc.
Theo số liệu của Ban Dân tộc tỉnh Bình Phước, tính đến ngày
01/01/2011, dân số người Stiêng ở tỉnh là 80.726 người. Stiêng Bù Lơ là
nhóm người Stiêng sinh sống ở vùng núi cao, tập trung cư trú ở một số xã:
Đăk Ơ, Đăk Nhau, Thọ Sơn, Thống Nhất của các huyện Bù Đăng, Đồng Phú
và thị xã Phước Long. Stiêng Bù Dek ở vùng đất thấp, sống ở nhà sàn, biết sử
dụng trâu bò kéo cày làm ruộng nước, tập trung ở thị xã Bình Long, Bù Đốp,
Lộc Ninh, Chơn Thành. Đồng bào dân tộc cư trú khắp các huyện trong tỉnh
nhưng đông nhất là các huyện Bù Gia Mập2
, Hớn Quản3
, Bù Đăng, Lộc Ninh,
thị xã Bình Long.
Như vậy, có thể nói rằng, Bình Phước là địa bàn cư trú chủ yếu của
người Stiêng, là “trung tâm” của văn hóa Stiêng ở Việt Nam, là vùng đất lưu
giữ vốn văn học dân gian Stiêng đậm đà bản sắc dân tộc.
1.2. Hoạt động kinh tế
Canh tác nương rẫy, lúa nước
Kinh tế nương rẫy là loại hình kinh tế truyền thống chủ yếu của người
Stiêng. Sống trong điều kiện tự nhiên khá thuận lợi: đất đai màu mỡ, khí hậu
nhiệt đới gió mùa, người Stiêng từ lâu đã biết đến việc canh tác lúa rẫy cũng
như đã tích lũy cho mình khá nhiều kinh nghiệm gieo trồng.
Người Stiêng Bù Lơ và Bù Dek hiện nay vẫn duy trì việc canh tác lúa
rẫy. Riêng người Stiêng Bù Dek đã biết đến kĩ thuật canh tác lúa nước.
Người Stiêng gọi rẫy là mir. Để chọn đất làm rẫy, từ tháng mười hai âm
lịch, họ đã bắt đầu đi rừng để tìm đất, ra dấu, khoanh vùng. Việc chọn rẫy sẽ
2
Huyện mới của tỉnh Bình Phước, được tách ra từ huyện Phước Long
3
Huyện mới của tỉnh Bình Phước, được tách ra từ huyện Bình Long
17
do người đứng đầu trong làng (tom poh) bàn bạc với những người đứng đầu
trong gia đình, dòng họ (mpoh) và phụ thuộc rất nhiều vào sự đồng ý hay
không đồng ý của thần linh. Ngay đêm đầu tiên nằm ngủ trên mảnh đất sẽ
chọn làm rẫy, nếu người Stiêng mơ thấy cây có trái, lúa có bông, có nhiều ong
bay lượn…thì đó là điềm lành, báo hiệu sự đồng ý của thần linh, cho phép họ
phát rẫy, dọn rẫy và canh tác tại mảnh đất này. Nếu họ mơ thấy lũ lụt, giông
bão, trâu bò chết, trăn chết thì đó là điềm gở, báo hiệu sự phản đối của thần
linh. Dù mảnh đất ấy có màu mỡ, có vị trí tốt đến cỡ nào thì họ cũng có thể bỏ
đi. Bởi theo người Stiêng, nếu bất chấp sự phản đối của thần linh thì họ chỉ
chuốc lấy tai họa mà thôi. Ngay cả khi rẫy đã phát xong, đốt xong, nếu thấy
con trăn chết trên rẫy thì họ cũng không làm vì họ cho rằng con trăn chết
chính là điềm báo sẽ có xác người.
Khi rẫy đã đốt và dọn xong (tháng ba âm lịch), đồng bào tiến hành tỉa
bắp, lúa ngắn ngày, trồng cà, bầu, bí, mướp…để lấy ngắn nuôi dài. Đến tháng
tư (âm lịch), đồng bào mới trồng những giống lúa dài ngày khác. Một đám
rẫy, đồng bào có thể trồng nhiều giống lúa và hoa màu khác nhau.
Sau khi thu hoạch, họ không để lúa trên rẫy mà đem về nhà. Ở vùng
Stiêng Bù Lơ, họ làm sạch và cất lúa trong các bồ đựng thóc ngay trên giàn
bếp. Ở vùng Stiêng Bù Dek, họ cất lúa trong những kho nhỏ ở gần nhà ở. Sau
khi thu hoạch, họ nghỉ ngơi và tổ chức lễ hội “Lúa mới”.
Kĩ thuật canh tác nương rẫy đơn giản, theo phương pháp “phát, đốt,
chọc, trỉa” truyền thống.
Ở vùng Stiêng Bù Dek, người Stiêng đã biết sử dụng các công cụ hiện
đại trong việc canh tác lúa nước, sử dụng hệ thống thủy lợi và đưa vào gieo
trồng các giống lúa mới cho năng suất cao, làm cho đời sống của đồng bào
nơi đây được cải thiện.
Săn bắt và hái lượm
18
Sống trong khu vực địa lí có nhiều thuận lợi nên hoạt động săn bắt và hái
lượm của người Stiêng rất phát triển. Hoạt động này chiếm một vị trí quan
trọng trong đời sống kinh tế của người Stiêng.
“Hoạt động săn bắt của người Stiêng đạt đến đỉnh cao với việc chế tác
các loại nỏ, mang cung4
, bẫy lớn nhỏ và các phương tiện săn bắt cá nhân, tập
thể” [1, 89]. Việc săn bắt các loài thú lớn trong một thời gian dài đã chiếm ưu
thế trong sinh hoạt kinh tế của người Stiêng. Trong ghi chép của các giáo sĩ
phương Tây, đặc biệt là của H.Azémar, cảnh săn bắt thú rừng của người
Stiêng hiện lên khá rõ nét với sự dũng cảm, thông minh của con người, với
những kĩ thuật săn bắt đa dạng, độc đáo. Kĩ thuật săn bắt của người Stiêng
không thua kém gì kĩ thuật săn bắt của những người anh em láng giềng trong
khu vực Tây Nguyên [1, 89-92].
Tên ná là vũ khí săn bắt chủ yếu của người Stiêng. Trong quá trình săn
bắt, người Stiêng đã biết dùng các loại thuốc độc chế tạo bằng các nhựa cây
rừng. Những loại thuốc độc này là bí mật gia truyền trong các gia đình dòng
họ Stiêng.
Người Stiêng thường hay tổ chức những cuộc đi săn tập thể của toàn
poh. Đó thực sự là những ngày hội đối với họ. Hoạt động săn bắt ngoài niềm
vui giải trí còn mang lại nguồn thực phẩm dự trữ lâu dài và góp phần bảo vệ
mùa màng, nương rẫy.
Khu vực cư trú của người Stiêng thường ở gần những con sông, suối lớn.
Đây là điều kiện thuận lợi để họ phát triển nghề đánh bắt cá. Có hai dịp đánh
bắt cá trong năm đó là vào mùa mưa, khi nước dâng ngập sông suối và các
vùng đất trũng, người Stiêng bắt đầu tổ chức đánh bắt cá. Dịp khác là vào
4
Mang cung là tên gọi một loại bẫy săn bắt thú của người Stiêng
19
cuối mùa khô, khi nước đã cạn dần, họ đưa cả gia đình ra gần bờ sông, suối,
che tạm nơi trú ẩn và cả gia đình cùng đánh bắt cá.
Người Stiêng rất có ý thức trong việc bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên
nhiên. Khi săn bắt cũng như khi đánh cá, họ tránh vào mùa các con vật sinh
sản, tránh bắt các con vật nhỏ, không phá tổ, hang hốc của chúng.
Ngoài hoạt động săn bắt, hoạt động hái lượm cũng là hoạt động kinh tế
giữ vị trí khá quan trọng trong đời sống của người Stiêng.
Người phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động hái lượm của
người Stiêng. Chỉ cần một chiếc gùi, một cái chà gạc, đi vào rừng một lúc là
người phụ nữ Stiêng có thể mang về một bữa ăn đạm bạc cho cả gia đình
gồm: lá nhíp, rau tàu bay, nấm, củ mài, củ chụp, măng lồ ô, chuột rừng…
Các nghề thủ công truyền thống
Nghề rèn
Sử thi Stiêng còn lưu giữ những đoạn miêu tả các công đoạn, kĩ thuật rèn
gươm, dao, công cụ chặt đẽo của các nghệ nhân, các vị tổ sư người Stiêng.
Nghề rèn của người Stiêng nổi tiếng một thời trong khu vực Nam Tây
Nguyên với những công cụ, vật dụng, vũ khí tinh xảo. Những vũ khí, công cụ
của người Stiêng và phần lớn các dân tộc ở Tây Nguyên đều giống nhau, song
có sự khác nhau về loại hình. Chỉ ở người Stiêng mới có những chiếc chà gạc
wir cổ sơ theo tập quán tháp buộc bằng dây và những chiếc chà gạc wir to lớn
về hình thù được lắp ráp theo kiểu đóng vòng thông qua nghệ thuật rèn. Đó là
một dạng đặc biệt mà ít có dân tộc nào có được. Một dụng cụ khác rất tiêu
biểu cho đặc trưng của người Stiêng đó là con dao tay có lưỡi nhọn theo hình
trăng lưỡi liềm (peh). Con dao này là dụng cụ vạn năng đối với đời sống đồng
bào và được tôi luyện rất sắc. Con dao này cũng thường gặp ở một số dân tộc
khác với những dạng phát triển hơn nhưng khả năng vạn năng lại không bằng
con dao của đồng bào Stiêng. Peh được dùng để vót tên độc trong các cuộc đi
20
săn, làm bẫy diệt thú, vót nan, đan lát, điêu khắc trang trí trên gỗ và tre, mổ
thịt gia súc, làm cá, làm bù tọc, nhái, ếch phơi khô…Những công cụ sản xuất
nêu trên đều bắt nguồn từ kĩ thuật rèn và nghề rèn nổi tiếng của người Stiêng.
“Nghề rèn của người Stiêng còn giữ được những nét đặc trưng về tộc người
rất rõ nét” [18, 27].
Nghề dệt vải
Nghề dệt vải cũng là một trong những nghề thủ công truyền thống của
đồng bào Stiêng. Phụ nữ người Stiêng ngay lúc còn ở với cha mẹ đã được bà,
được mẹ dạy cho cách quay tơ, dệt vải để khi về nhà chồng, biết trồng bông
dệt vải, biết đan khố, đan chăn cho chồng con hoặc mang đi trao đổi. Vì vậy,
nghề dệt ở người Stiêng tồn tại theo hình thức gia truyền.
Sản phẩm dệt của người Stiêng có nhiều nét gần gũi với các dân tộc khác
ở Tây Nguyên. Các loại hoa văn trang trí chủ yếu dùng các màu trắng, đen,
đỏ, vàng. Người Stiêng chủ yếu dùng hai gam màu chính là trắng và đen. Họ
đặc biệt chú ý đến các đường viền hoa văn quanh tấm vải, tạo nên vẻ độc đáo
và đẹp mắt.
Trước đây, người Stiêng tự trồng bông vải trên rẫy chen với các loại hoa
màu hoặc ngay trong khu vực đất đai quanh nhà ở để có nguồn nguyên liệu
dệt. Ngày nay, việc trồng bông vải không còn được phổ biến. Để có nguyên
liệu, họ phải mua sợi từ những vùng khác nhau. Nghề dệt đến nay vẫn còn
phổ biến trong đồng bào Stiêng.
1.3. Tổ chức xã hội truyền thống
Hệ thống xã hội tộc người Stiêng có nhiều nét tương đồng với các tộc
người khác ở Tây Nguyên. Dạng tập hợp người tồn tại phổ biến trong xã hội
người Stiêng gồm có dạng tập hợp người theo khu vực cư trú (poh), dạng tập
hợp người dựa trên quan hệ gia đình (yau và nak) và dạng tập hợp người theo
quan hệ dòng họ (găp mpol).
21
Poh
Người Stiêng gọi đơn vị cư trú của mình là poh, bon hoặc wang tùy theo
vùng. So với một vài dân tộc ở Tây Nguyên, đơn vị cư trú poh của người
Stiêng có quy mô nhỏ hơn. Các poh của người Stiêng phân bố rải rác theo các
dòng suối nhỏ. Mỗi poh có khoảng trên dưới năm ngôi nhà dài. Ở vùng Stiêng
Bù Dek, đơn vị cư trú thường gọi là wang, có khi gọi là sóc, đó là những poh
Stiêng gần với người Khmer.
Poh của người Stiêng được gọi tên bắt đầu phần lớn là từ bù và từ đak.
Từ bù có nhiều ý nghĩa khác nhau. Theo nghĩa hẹp chỉ họ, người ta. Theo
nghĩa rộng chỉ cộng đồng trong một khu vực nhất định nào đó (Bù Gia Mập,
Bù Nho, Bù Môn, Bù Lố, Bù Du, Bù Nga, Bù Na, Bù Đăng, Bù Đốp, Bù
Nó…). Từ đak, tiếng gốc là dac, nghĩa là nước (Đak Ơ, Đak Nhau, Đak
Ur…). Cách gọi tên đơn vị cư trú của người Stiêng như vậy cũng có nhiều nét
tương tự như các dân tộc Mnông, Mạ…là những anh em láng giềng thuộc ngữ
hệ Môn – Khmer.
Ở mỗi poh, thường có người đứng đầu, gọi là tom poh (tom có nghĩa là
cây, được hiểu là trụ, gốc). Người đứng đầu poh là người chuyên lo điều
hành, giải quyết các công việc nội bộ của poh. Bu kuông (hay còn gọi là
m’ranh) là những người già có uy tín lớn, hiểu biết sâu sắc vốn văn hóa, tập
quán của cộng đồng mình và lo việc cố vấn cho các tom poh để nhằm duy trì
trật tự, giữ gìn các tập tục truyền thống, văn hóa của làng. Mê prak là thầy
bói, thầy cúng. Theo quan niệm của người Stiêng, mê prak là người có khả
năng giao tiếp được với thần linh, có khả năng chữa bệnh cho mọi người
trong poh và là người tiến hành các nghi thức cúng tế thần linh.
Yau và nak
Trong quan hệ gia đình, do đặc điểm riêng về hôn nhân nên cấu trúc gia
đình của hai nhóm cũng có những khác biệt nhất định. Ở gia đình Stiêng Bù
22
Lơ là gia đình lớn phụ hệ do người đàn ông nắm quyền quản lý các nak của
mình và người phụ nữ chỉ là nhân tố phụ chịu trách nhiệm dạy dỗ con cái.
Còn trong đại gia đình người Stiêng Bù Dek lại tính theo huyết thống về phía
người đàn bà nên trong gia đình vai trò của người đàn bà rất quan trọng. Họ
chịu trách nhiệm quản lý về dòng họ và sinh hoạt gia đình, còn người đàn ông
giữ một vai trò nhất định trong hoạt động sản xuất, kinh tế của gia đình.
Yau, tiếng Stiêng có nghĩa là nhà. Tập quán ở nhà dài của người Stiêng
thực chất là mô hình gia đình nhiều thế hệ. Với mô hình này, cha mẹ muốn
quản lí con cái của mình thật chặt chẽ cũng như muốn chứng minh với làng về
vị thế của mình, về sự đoàn kết trong gia đình.
Mỗi yau của người Stiêng bao gồm từ 3 đến 5 nak (bếp). Mỗi nak được
coi như một hộ gia đình, gồm vợ chồng và con cái chưa trưởng thành. Trong
một yau thì các nak được đánh dấu bằng số bếp dùng đun nấu. Phía trên dàn
bếp là vựa thóc của riêng nak đó. Giới hạn của các nak trong yau được đánh
dấu một cách tương đối, không có phên che hay vách ngăn. Phía trên đầu nằm
của các gian ngủ thường để chiêng, ché, các tài sản quý của nak đó.
Mối quan hệ giữa các nak với nhau trong cùng một yau mang tính chất
huyết thống được tính về phía người đàn bà. Thông thường mỗi yau bao gồm
một nak của cha mẹ và các nak của con gái sống cùng chàng rể. Một vài yau
còn có thể thêm một người bà con xa hay người từ nơi khác đến và đã được
xem như người nhà. Nak của những người này thường ở phía cuối nhà.
Để chỉ người chủ nhà dài, người Stiêng gọi là tom yau, nhưng từ này
không thông dụng lắm. Khái niệm “chủ nhà” của người Stiêng chỉ có một ý
nghĩa tương đối. Tom yau chỉ là người đứng ra giao tiếp với bên ngoài theo
tính chất lễ nghi, còn trách nhiệm quản lí yau hầu như không có vị trí mấy, vì
các nak mang tính độc lập khá rõ. Trường hợp quyết định những công việc
chung của các yau, các nak thỏa thuận thống nhất ý kiến. Cùng với việc khẳng
23
định ngày càng vững chắc cơ sở kinh tế độc lập của các nak thì vai trò tom
yau ngày càng mờ nhạt.
Găp mpol
Người Stiêng phân biệt rất rõ trong quan hệ dòng họ của mình. Họ gọi
quan hệ này là găp mpol. Bên trong găp mpol được chia làm hai phần là mput
và mpang. Mput là dòng họ tính từ ông bà, cha mẹ, con cháu và mpang là bà
con tính theo hàng ngang cùng thế hệ như anh em, chị em. Quan hệ họ hàng
của người Stiêng còn được mở rộng bởi những quan hệ hôn nhân như put sai,
pang sai, có nghĩa là họ hàng phía bên vợ. Như vậy, mỗi cá nhân Stiêng là
thành viên của hai găp mpol có quan hệ hôn nhân với nhau. Cũng chính vì
mối quan hệ được mở rộng như trên nên những dòng họ Stiêng được phân bố
trên địa bàn khá rộng.
Nam giới Stiêng thường mang họ Điểu. Họ Điểu xuất hiện vào khoảng
cuối thế kỉ XIX do triều đình nhà Nguyễn và thực dân Pháp đặt ra nhằm kiểm
soát địa bàn cư trú của người Stiêng. Còn nữ giới Stiêng mang họ Thị, một số
ít khác mang họ Đrâu.
Những người già bu kuông (m’ranh) và cả chủ nhà tom yau có nhiệm vụ
duy trì mối quan hệ dòng họ. Mỗi dòng họ của người Stiêng có thể có địa bàn
cư trú riêng, hoặc xen kẽ với các dòng họ khác nên việc xác định mối quan hệ
dòng họ rất khó khăn và phức tạp. Trách nhiệm của các thành viên trong một
găp mpol là phải bảo vệ sự tồn tại và phát triển của dòng họ mình, đặc biệt là
bảo vệ danh dự, bảo vệ sự trong sạch của dòng họ. Nếu người ngoài dòng họ
phát hiện người trong găp mpol của mình có ma lai (chă)5
thì dòng họ đó bắt
5
Ma lai (chă): là những người ban đêm biến thành ma quỷ đi hút máu làm người khác ốm đau, chết chóc.
Đồng bào có nhiều cách thử như đổ chì vào lòng bàn tay, hoặc lặn nước... Người bị nghi là ma lai sẽ bị dân
làng đưa vào rừng thủ tiêu bằng cách chặt đầu hoặc chôn sống, vợ và con sẽ bán đi nơi xa làm tôi tớ.
24
buộc phải tự xử lý đối với người có ma lai. Trường hợp loạn luân (đoăng ih)
cũng vậy, nội bộ dòng họ phải tự giải quyết và xử lí công khai trước các dòng
họ khác.
Vào những ngày lễ hội cúng lúa mới, các dòng họ thường tổ chức những
cuộc vui kéo dài. Đây chính là dịp tốt để mọi người nhận mặt họ hàng và để
thắt chặt tình đoàn kết trong một găp mpol.
1.4. Đặc điểm văn hóa tộc người Stiêng
Văn hóa vật chất
Ăn
Nguồn lương thực chính của người Stiêng là gạo và bắp. Thức ăn hàng
ngày của họ là các loại cá, thịt rừng, rau rừng (đọt mây, lá nhíp, măng rừng).
Người Stiêng thích ăn rau nhíp, một loại cây rừng lá mỏng rất ngấm mỡ
thường được nấu canh và ăn với mì tôm. Mỗi khi thịt trâu, bò hay đi săn về
được con thú lớn, ăn không hết, đồng bào để dành một ít treo trên gác bếp, khi
cần tiếp khách hay khi thiếu đồ ăn thì mang ra chế biến. Riêng muối và cá khô
được dùng chủ yếu trong mùa mưa.
Thức ăn được chế biến đơn giản: luộc, nướng và kho. Chủ yếu là nướng.
Người Stiêng vùng Lộc Ninh rất thích ăn thịt heo rừng nướng chấm muối ớt.
Món ăn đặc sắc nhất của người Stiêng là món canh thụt, cơm lam. Canh
thụt là món ăn được chế biến từ nhiều loại rau rừng như đọt chuối, lá nhíp.
Các loại rau này được vò nát rồi cho vào một ống lồ ô, đôi khi có cả cá, thịt
rừng, ếch nhái, và thêm một ít muối trắng. Bữa cơm có canh thụt, cơm lam, có
thêm dĩa thịt heo rừng nướng chấm muối ớt là biểu hiện sự mến khách của
người Stiêng.
Người Stiêng, đặc biệt là phụ nữ, có tục kiêng ăn thịt khỉ. Những người
già cho rằng, khỉ là loài vật đã dạy cho người Stiêng biết cách sinh đẻ. Từ đó,
họ kiêng ăn thịt khỉ như một cách để trả ơn cho loài vật này.
25
Khi lên rẫy, đồng bào Stiêng thường bỏ thức ăn vào trong quả bầu đắng.
Ngoài đựng thức ăn, quả bầu đắng còn dùng để đựng nước, đựng rượu cần.
Quả bầu đắng là vật không thể thiếu trong đời sống của người Stiêng. Có thể
nói rằng, quả bầu đắng chính là một trong những nét văn hóa độc đáo của
người Stiêng.
Cũng như nhiều dân tộc khác ở Tây Nguyên, người Stiêng có tục uống
rượu cần vào những dịp quan trọng, trong lễ tết, hội hè, đình đám…
Hút thuốc lá cũng khá phổ biến trong người Stiêng. Đàn ông, đàn bà và
cả trẻ em đều thích hút thuốc lá. Họ có thể hút cả ngày. Đặc biệt, người Stiêng
thích hút loại thuốc lá do chính tay họ trồng. Khi hút, họ thường quấn thuốc
bằng lá rừng, lá chuối hoặc vỏ bắp khô theo kiểu sâu kèn.
Mặc
Trang phục của người Stiêng khá giản dị, thuận tiện cho sinh hoạt và lao
động. Đàn ông đóng khố, ở trần. Đàn bà mặc váy ngắn đến bắp chân, mặc áo
chui đầu. Ở một số nơi gần khu vực người Khmer sinh sống, phụ nữ Stiêng
thường quấn váy của người Khmer. Dù vậy, khi đi vào những vùng người
Stiêng sinh sống, ta vẫn bắt gặp những người già (phụ nữ) cao tuổi ở trần, cổ
đeo nhiều chuỗi vòng hạt cườm nhiều màu, dái tai căng rộng bởi đôi hoa tai
ngà voi. Họ cũng là lớp người cuối cùng có những chiếc răng cửa hàm trên bị
cắt cụt do tục cà răng.
Cách đóng khố của người Stiêng tạo nên hình chữ T và múi khố bỏ về
đằng trước. Các trang trí trên khố thường nằm ở hai đầu khố với những búp
tua màu sắc sặc sỡ, còn trang trí trên váy thường nằm ở thân, gấu váy và sử
dụng các gam màu nguyên như đỏ, trắng trên nền vải đen.
Trang sức của người đàn ông và đàn bà Stiêng thường tập trung vào mái
tóc. Tóc để dài được búi thành búi nhỏ sau gáy, cài lược sắt hoặc giắt các loại
26
lông chim có màu sắc sặc sỡ. Trên vai người đàn ông còn mắc thêm một chiếc
chà gạc hoặc giắt hông một chiếc dao peh.
Người già, người trẻ, nam hay nữ đều thích đeo các loại vòng. Chủ yếu
là các vòng tay bằng đồng và các chuỗi cườm nhiều màu sắc. Tục cà răng
căng tai, xăm mình, xăm mặt chỉ còn thấy ở một số người già.
Ngày nay, lớp trẻ Stiêng đã bắt đầu ăn mặc giống người Kinh. Họ chỉ
đóng khố, mặc váy vào những dịp lễ tết, hội hè…
Ở
Ngôi nhà dài truyền thống trở thành nét văn hóa đặc sắc của người
Stiêng. Tuy nhiên cấu trúc ngôi nhà có sự khác nhau giữa hai vùng Stiêng Bù
Lơ và Bù Dek.
Người Stiêng Bù Lơ ở miền cao sinh sống trong những ngôi nhà dài nền
đất, mái tranh, vách bằng tre nứa.
Nhà dài của người Stiêng thường dài khoảng 25-30m, mái thấp gần
chạm đất và có hai cửa ra vào ở hai đầu nhà. Một số nhà dài ở vùng Đắk Ơ có
đặc điểm 4 góc nhà lượn tròn chứ không vuông như nhà bình thường. Theo
tìm hiểu của chúng tôi, hiện nay toàn tỉnh Bình Phước chỉ còn lại duy nhất
một ngôi nhà dài của gia đình ông Điểu Đố, ở số 27, sóc Bù Môn, xã Đoàn
Kết, thị trấn Đức Phong, huyện Bù Đăng. Chủ nhà cho biết ngôi nhà này được
làm cách đây hơn 60 năm và hiện là ngôi nhà dài duy nhất còn lại ở tỉnh Bình
Phước cho đến tận ngày nay.
Người Stiêng Bù Dek cũng sống trong những ngôi nhà dài nhưng là nhà
sàn dài. Nhà sàn Stiêng Bù Dek có hai dạng: loại nhà sàn dài và nhà sàn ngắn,
bé cho từng hộ gia đình. Ở Bình Long còn một số nhà sàn cổ theo truyền
thống Stiêng: cột lớn, vách nhà nghiêng loe ra ở phía trên. Do quá trình cư trú
gần người Khmer nên ngôi nhà sàn dài của nhóm này chịu ảnh hưởng ít nhiều
27
về kiến trúc ngôi nhà của người Khmer như có sàn cao, có cầu thang lên
xuống.
Văn hóa tinh thần
Tập quán, tín ngưỡng
Người Stiêng quan niệm “vạn vật hữu linh”, rằng bất cứ vật gì cũng có
hồn từ con người đến con vật, từ đồ vật trong nhà đến cây cối, rừng, núi,
sông, suối, do đó họ thờ đa thần: Thần Mặt Trời, Thần Mặt Trăng, Thần Gió,
Thần Mưa, Thần Sấm, Thần Sét, Thần Núi, Thần Sông, Thần Thác Nước....
Nhưng quan trọng đối với người Stiêng là vị Thần Yang Liêng, người đã khai
sáng ra vùng đất của người Stiêng hiện nay. Bên cạnh đó là các vị thần được
tôn thờ như Thần Núi Yang Yumbra (cư ngụ trên đỉnh núi Bà Rá), Thần Thác
Liêng Hur, người chiến thắng các Thần Thác Nước khác trong vùng. Họ luôn
kính cẩn lễ cúng thần linh bất cứ trong trường hợp nào, tin rằng thần linh lúc
nào cũng ở bên họ, vừa giúp đỡ, chở che, vừa trừng phạt khi họ trái ý thần
linh. Khi cúng bái, họ không cầu khấn riêng một vị thần nào, họ gọi tên rất
nhiều vị thần mà họ có thể nhớ để được sự giúp đỡ.
Mọi hoạt động của người Stiêng đều chịu sự chi phối bởi nhiều phong
tục và kiêng kị. Sinh đẻ, hôn nhân, tang ma đối với họ là những việc rất hệ
trọng:
Sinh đẻ: Phụ nữ kiêng cữ cẩn thận ngay từ thời kỳ mang thai. Xưa kia,
người phụ nữ khi sinh đẻ thường phải tự xoay xở một mình ngoài rừng.
Người Stiêng cho rằng nếu sinh đẻ ở nhà sẽ xúc phạm đến “Thần Lúa”. Ngày
nay, người phụ nữ được sinh đẻ ngay trong nhà của mình, nhưng khi sinh đẻ
xong cũng phải cúng một con lợn cho Thần Lúa.
Cưới xin: Người Stiêng quan niệm hôn nhân là một sự kiện trọng đại
trong cuộc đời và là việc chung của dòng họ. Tuy cùng chung những nghi
thức hôn nhân giống nhau nhưng nhóm Stiêng Bù Lơ theo chế độ phụ hệ nên
28
quyền chủ động ở người nhà trai, còn nhóm Stiêng Bù Dek theo chế độ mẫu
hệ nên hôn nhân do nhà gái đảm nhiệm.
Vì theo chế độ mẫu hệ nên ở nhóm Stiêng Bù Dek, người phụ nữ có vai
trò rất lớn trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Một trong những quyền đó là
quyền được cưới chồng và con cái mang họ mẹ. Trước đây, độ tuổi kết hôn
của nam và nữ người Stiêng là từ 15 đến 17 tuổi. Điều kiện kết hôn là cả nam
và nữ đều phải trải qua lễ thành đinh bằng việc hoàn thành lễ cà răng, căng
tai. Khi đến tuổi trưởng thành, các cô gái Stiêng Bù Dek nếu thích chàng trai
nào đó sẽ bắt chuyện làm quen.
Nội hôn là đặc điểm nổi bật trong hôn nhân dân tộc Stiêng ở Bình
Phước. Họ thích kết hôn với người đồng tộc và khó chấp nhận người xa lạ vì
cho rằng những tai họa bất trắc như hạn hán, mất mùa, bệnh dịch rất dễ xảy ra
khi kết hôn với đối tượng ngoài tộc. Hai hình thức hôn nhân đặc biệt vẫn còn
tồn tại là hôn nhân anh em chồng-chị em vợ và hôn nhân con cô-con cậu. Hôn
nhân anh em chồng-chị em vợ còn được gọi là tục nối dây như tập tục ở một
số dân tộc Tây Nguyên. Tục nối dây diễn ra chủ yếu với mục đích giữ lại tài
sản của dòng họ.
Theo phong tục truyền thống của người Stiêng, trong đêm cưới, hai vợ
chồng buộc chỉ đỏ vào tay nhau hoặc trao cườm thay cho lời thề nguyền
chung thủy. Sau khi mọi người ăn uống vui chơi, cô dâu và chú rể thực hiện
một nghi thức: cùng bước vào nhà dưới sự chứng kiến của những người phụ
nữ lớn tuổi trong dòng họ. Chờ lúc cô dâu, chú rể vào hẳn bên trong nhà thì 3
người phụ nữ lấy chày giã vào cối không. Hành động này tượng trưng cho tín
ngưỡng phồn thực của người Stiêng.
Sau đám cưới, người Stiêng còn có tục trả của. Lễ trả của có thể tổ chức
bên nhà trai hay bên nhà gái đều được. Nếu sau nhiều năm chung sống mà
không có con hoặc gia đình giàu có cần thêm người làm và quản lý, người
29
chồng có thể xin vợ cả cho cưới thêm vợ bé. Vợ cả và vợ bé phải coi nhau
như chị em và con cái của họ đẻ ra đều phải gọi họ bằng mẹ. Người Stiêng
cũng cho phép cha mẹ giao ước với nhau về hôn nhân của con cái.
Theo già làng Điểu Hum, ấp 8B, xã Lộc Hòa, huyện Lộc Ninh, một điều
đáng tự hào trong đời sống hiện nay mà người Stiêng còn giữ được đó là một
số quy tắc ứng xử trong cộng đồng. Một trong những quy tắc đó là mỗi người
Stiêng dù bất cứ trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ được cái sự lễ phép khi
giao tiếp. Lễ phép với ông bà, cha mẹ, anh chị, với già làng, với những người
lớn tuổi và cả với những người đã khuất. Mỗi lần hát kể sử thi hay hát ru cho
chúng tôi nghe, những nghệ nhân thường làm một động tác đó là cầu khấn
ông bà, tổ tiên. Bà Thị Vớ, ấp 8C, xã Lộc Hòa, huyện Lộc Ninh cho rằng, việc
làm lễ vái trâu, cúng rượu, cúng trầu cau trước khi hát kể sử thi hay hát ru
chính là cách để tỏ lòng biết ơn ông bà tổ tiên vì đã có công dạy dỗ con cháu.
Đó còn là cách cầu xin ông bà tổ tiên cho phép con cháu được kể, được hát
theo yêu cầu.
Lễ hội
Như nhiều dân tộc ít người khác, người Stiêng cũng có nhiều lễ hội: lễ
hội “quay đầu trâu” mừng lúa mới, lễ hội phá bàu, lễ hội cầu mưa, lễ hội bà
bóng. Mỗi lễ hội mang một nét đặc trưng riêng. Chúng tôi có dịp tham dự hai
lễ hội của người Stiêng. Đó là lễ phá bàu và lễ cúng bà bóng. Chúng tôi xin
được giới thiệu ngắn gọn về hai lễ hội này:
• Lễ hội phá bàu:
Lễ hội phá bàu cứ 5 năm được tổ chức một lần. Đây còn gọi là lễ hội
bắt cá (phá bàu bắt cá). Có nơi người dân gọi chệch đi là phá bào. Lễ hội
diễn ra cả tuần với nhiều hoạt động sôi nổi. Thời gian diễn ra lễ hội thường
vào khoảng tháng ba dương lịch. Theo ông Điểu Ganh, xã Quang Minh,
huyện Chơn Thành, lễ hội này có từ rất xa xưa. Trước khi diễn ra lễ hội, già
30
làng làm lễ cúng thần linh, xin phép cho mọi người được xuống bàu bắt cá.
Tiếp đến là nghi lễ đánh cồng chiêng, uống rượu cần. Sau khi lễ xong, tất cả
mọi người cùng xuống bàu bắt cá, nướng cá lên và cùng ăn cá, uống rượu cần,
chơi các trò chơi dân gian ngay tại chỗ từ ngày này qua ngày khác.
Lễ hội phá bàu là một trong những lễ hội quan trọng của người Stiêng,
mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Stiêng. Ngoài giá trị tôn vinh, bảo lưu
nghề cá, đây còn là dịp thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn kết cộng đồng và tạo
điều kiện vui chơi cho bà con sau những ngày vất vả trên nương rẫy.
• Lễ hội bà bóng:
Phần lớn lễ bà bóng thường tổ chức vào ban đêm. Khi trong nhà có con
bệnh, chủ nhà sai người đi mời bà bóng (mê prak) đến tận nhà để cúng bái.
Nhưng khi cúng xong, bà bóng sẽ tự đi về một mình, đó là tục lệ riêng của
người Stiêng.
Khi cúng bà bóng, lễ vật thường là gà, heo, trâu. Bà bóng lên đồng, đọc
thần chú và bắt đầu cúng bái. Tiếng trống, tiếng cồng chiêng nổi lên hòa vào
những điệu nhảy, những lời khấn nguyện của bà bóng. Vào khoảng giữa đêm,
khi nghe nhạc cồng chiêng nổi lên, đó là lúc đang cúng bà bóng.
Cúng bà bóng là một cách để cầu xin thần linh, ông bà tổ tiên, ma quỷ
tha cho con bệnh. Người Stiêng tin rằng, mọi sự ốm đau, bệnh tật của con
người chính là do đắc tội với thần linh, với ông bà cõi âm. Đó là một hình
thức trừng phạt. Muốn khỏi bệnh, phải làm lễ cúng, cầu xin thần linh, ông bà
cõi âm tha tội. Sau khi cúng bà bóng, nếu lành bệnh thì phải trả lễ cho thần
linh, ông bà dưới cõi âm. Cúng gà, heo hoặc cúng trâu, bò. Sau đó lấy máu
heo, gà, trâu, bò vấy vào cây nêu, coi như đã trả lễ. Sau khi trả lễ, mọi người
tổ chức vui chơi, giết heo, gà, trâu, bò ăn mừng, uống rượu cần, đánh cồng
chiêng từ ngày này qua ngày khác (có khi kéo dài cả tháng).
31
Phần lễ bà bóng diễn ra trong phạm vi gia đình. Nếu người trong gia
đình khỏi bệnh, mọi người trong làng cùng nhau ăn mừng, lúc này, phần hội
diễn ra trong phạm vi cộng đồng.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, ở xã Lộc Hòa, Lộc An và một số xã thuộc
huyện Lộc Ninh, lễ hội bà bóng còn rất phổ biến nhưng với quy mô nhỏ hơn
trước đây.
Âm nhạc
Những ai đã từng đặt chân đến các poh, các bon, các wang của người
Stiêng trên khắp dải đất Bình Phước đều có chung một nhận xét rằng: người
Stiêng bản tính đôn hậu, mến khách, dễ gần, yêu tự do và đặc biệt rất yêu ca
hát.
Nhắc đến âm nhạc cổ truyền của người Stiêng, không thể không nhắc
đến cồng chiêng. Cũng như nhiều dân tộc anh em sinh sống trên dọc dãy
Trường Sơn, cồng chiêng gắn bó với cộng đồng Stiêng như máu thịt. Cồng
chiêng trở thành biểu tượng cho sức mạnh vật chất, sức mạnh tinh thần của
đồng bào Stiêng. Nghệ thuật cồng chiêng Stiêng mang nhiều nét chung của
cồng chiêng Tây Nguyên nhưng cũng có nhiều yếu tố độc đáo mang tính đặc
thù của dân tộc mình. Theo tục lệ của người Stiêng, cồng chiêng chỉ được
đánh trong làng, không được đem ra ngoài làng hoặc đem đi xa. Trước khi
đánh cồng chiêng đồng bào thường làm lễ cúng xin phép thần linh. Bộ chiêng
của người Stiêng thường gồm 6 chiếc. Cách đánh cồng chiêng của người
Stiêng có nhiều điểm khác so với cách đánh cồng chiêng của một số dân tộc ít
người ở Tây Nguyên. Và đồng bào chỉ đánh cồng chiêng trong những dịp
quan trọng như trong lễ hội, ma chay, cưới hỏi…Nếu không có việc gì quan
trọng, tự tiện đánh cồng chiêng là điều hết sức kiêng kị đối với người Stiêng.
Sinh hoạt văn hóa cồng chiêng đối với người dân Stiêng hiện nay vẫn
còn phổ biến. Cồng chiêng vẫn là tài sản quý giá của mỗi gia đình, của toàn
32
thể cộng đồng. Theo chúng tôi tìm hiểu, cho đến thời điểm hiện nay, nhiều
vùng dân tộc Stiêng còn lưu giữ những bộ cồng chiêng có giá trị. Tiêu biểu là
xã Lộc Hòa, toàn xã hiện có hơn 40 bộ cồng chiêng có giá trị.
Không những yêu ca hát, người Stiêng còn là những bậc thầy trong việc
chế tác và sử dụng nhiều nhạc cụ. Nhiều nhạc sĩ nhận xét rằng, người Stiêng
có trình độ thẩm âm độc đáo. Những nhạc cụ nổi tiếng của người Stiêng như
kèn Mbuốt, sáo Tơ lết, sáo U-Kooc-le, sáo Pia, sáo Nhôm, kèn Nung biên, đàn
Đình-put, khèn bầu và một số loại trống…Dân nhạc Stiêng là những bài ngắn,
gọn, đơn giản và thường mô phỏng tiếng suối chảy, tiếng gió thổi, tiếng con
chim hót…những hiện tượng tự nhiên gần gũi với cuộc sống của đồng bào.
Văn học dân gian
Người Stiêng nổi tiếng với lối hát nói, hát kể (tâm pơt). Tâm pớt là lối
hát nói, hát kể, do một hay hai người thể hiện. Đó là một hình thức diễn
xướng chung cho nhiều thể loại như: ca dao-dân ca, sử thi, truyền thuyết, thần
thoại…(chủ yếu là diễn xướng sử thi). Vùng Stiêng Bù Đek còn gọi hình thức
này là hát pơn raw. Người càng cao tuổi càng biết nhiều bài tâm pơt và hát
càng hay. Ngoài ra, người Stiêng còn có thể loại tình ca (Nao lan), trường ca
(O Kroong), hát ru, hát đồng dao...
Người Stiêng có khá nhiều thần thoại, sử thi, truyền thuyết, thơ ca dân
gian về nguồn gốc dân tộc, lai lịch các vị thần, về lịch sử đấu tranh và xây
dựng cộng đồng, về tình yêu nam nữ, về những hiện tượng tự nhiên trong đời
sống và sinh hoạt của đồng bào. Vốn văn học dân gian của người Stiêng khá
phong phú và đa dạng nhưng hiện nay vẫn đang còn tiềm ẩn, chưa được khai
thác nhiều.
1.5. Tình hình tư liệu văn học dân gian Stiêng
33
Để giúp người đọc dễ hình dung về tình hình tư liệu văn học dân gian
Stiêng, chúng tôi tiến hành sắp xếp các công trình sưu tầm, nghiên cứu văn
học dân gian Stiêng theo thể loại:
*Thần thoại:
Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam (Tập 1, thần thoại) [63]: có 01
bản kể thần thoại của người Stiêng. Đó là: Nguồn gốc loài người.
Tìm hiểu truyện cổ tộc người Stiêng ở Bình Phước [88]: Phan Xuân
Viện đã thống kê được 30 bản kể thần thoại (dựa trên 02 đợt thực tế, sưu tầm,
điền dã văn học dân gian Bình Phước trong đó có văn học dân gian/truyện kể
dân gian Stiêng của tập thể sinh viên và giảng viên Khoa Văn học và Ngôn
ngữ, trường Đại học KHXH&NV TP.HCM). Tuy nhiên, chỉ có 12 trong tổng
số 30 bản kể thần thoại nói trên được công bố. Đây cũng chính là 12 bản kể
mà tác giả Nguyễn Thị Tuyết Sương sưu tuyển và giới thiệu trong luận văn
tốt nghiệp đại học của mình với đề tài Văn học dân gian Bình Phước –
Truyện kể dân gian [53].
Như vậy, số lượng bản kể thần thoại Stiêng mà chúng tôi tiếp cận được
là 13.
*Sử thi:
Sử thi tộc người Stiêng – Krông Kơ Laas đoạt hồn nàng Rơ Liêng Mas
[68]: giới thiệu kết quả sưu tầm và nghiên cứu 01 bản kể sử thi Stiêng. Đó là
sử thi Krông Kơ Laas đoạt hồn nàng Rơ Liêng Mas.
Trong chuyến đi thực tế điền dã, chúng tôi tìm hiểu và được biết nguời
Stiêng có hơn 10 sử thi. Nhưng vì hạn chế thời gian nên chúng tôi chỉ tiến
hành ghi âm, kí âm và biên dịch 04 sử thi Stiêng6
. Đó là các sử thi: Jiang
xuống từ xứ Thánh, Nglon Hơr lưu lạc trốn thân, Tung Vrơ Lênh mơ ước
6
Bốn sử thi này chúng tôi sưu tầm ở Lộc Ninh (thuộc vùng Stiêng Bù Dek)
34
cái khiên thần, Vram đoạn tuyệt với L’hab Kruôt-Vram làm lễ kết hôn với
R’liang Mas.
Như vậy, số lượng bản kể sử thi Stiêng mà chúng tôi tiếp cận được là 05.
*Truyền thuyết:
Huyền thoại miệt vườn [54]: có 01 bản kể truyền thuyết Stiêng. Đó là
Truyền thuyết về thác nước Lieng Hur.
Tuyển tập truyện cổ tích các dân tộc ở Việt Nam [66]: có 01 bản kể
truyền thuyết của người Stiêng: Sự tích kiêng ăn thịt Cà héc.
Tìm hiểu truyện cổ tộc người Stiêng ở Bình Phước [88]: Phan Xuân
Viện đã thống kê được 29 bản kể truyền thuyết. Tuy nhiên, chỉ có 13 trong
tổng số 29 bản kể nói trên được công bố. Đây cũng chính là 13 bản kể mà tác
giả Nguyễn Thị Tuyết Sương sưu tuyển và giới thiệu trong luận văn tốt
nghiệp đại học của mình với đề tài Văn học dân gian Bình Phước – Truyện
kể dân gian [53].
Trong chuyến đi thực tế, điền dã, chúng tôi đã sưu tầm được 07 bản kể
truyền thuyết của người Stiêng. Đó là: Truyền thuyết về Bưng Jiang, sông
Măng, Truyền thuyết về mộ đá Rlêm, Truyền thuyết về núi Bà Đen và Bà
Rá, Truyền thuyết về đá phụ tử, Truyền thuyết về bãi đá voi, Truyền thuyết
về thác Đăk U, Truyền thuyết về trảng cỏ Bàu Lạch.
Như vậy, số lượng bản kể truyền thuyết Stiêng mà chúng tôi tiếp cận
được là 22.
*Truyện cổ tích:
Hợp tuyển truyện cổ tích Việt Nam [44]: có 01 bản kể truyện cổ tích của
người Stiêng. Đó là: Người mồ côi.
Tìm hiểu truyện cổ tộc người Stiêng ở Bình Phước [88]: Phan Xuân
Viện đã thống kê được 160 truyện cổ tích. Tuy nhiên, chỉ có 67 trong tổng số
160 bản kể nói trên được công bố. Đây cũng chính là 67 truyện cổ tích mà tác
35
giả Nguyễn Thị Tuyết Sương sưu tuyển và giới thiệu trong luận văn tốt
nghiệp đại học của mình với đề tài Văn học dân gian Bình Phước – Truyện
kể dân gian [53].
Trong chuyến đi thực tế, điền dã, chúng tôi đã sưu tầm được 03 truyện
cổ tích của người Stiêng. Đó là: Rùa và cọp, Ốc và thỏ, Ông dạy dỗ con
cháu.
Như vậy, số lượng truyện cổ tích Stiêng mà chúng tôi tiếp cận được là
71.
*Truyện cười:
Tìm hiểu truyện cổ tộc người Stiêng ở Bình Phước [88]: Phan Xuân
Viện đã thống kê được 13 truyện cười. Tuy nhiên, chưa có bản kể nào được
công bố.
*Truyện ngụ ngôn:
Tìm hiểu truyện cổ tộc người Stiêng ở Bình Phước [88]: Phan Xuân
Viện đã thống kê được 01 truyện ngụ ngôn. Đây cũng chính là bản kể mà tác
giả Nguyễn Thị Tuyết Sương sưu tuyển và giới thiệu trong luận văn tốt
nghiệp đại học của mình với đề tài Văn học dân gian Bình Phước – Truyện
kể dân gian [53].
Như vậy, số lượng bản kể truyện ngụ ngôn Stiêng mà chúng tôi tiếp cận
được là 01.
*Ca dao-dân ca:
Dân ca Sông Bé [75]: Công bố 12 bài dân ca Stiêng (cả phần kí âm và
dịch nghĩa).
Qua 2 năm sưu tầm văn học dân gian Stiêng, Điểu Đức đã công bố và
phổ nhạc 10 bài ca dao-dân ca Stiêng [tài liệu do Hội Văn học nghệ thuật tỉnh
Bình Phước cung cấp].
36
Trong chuyến đi thực tế, điền dã, chúng tôi đã ghi âm, sưu tầm được 03
bài hát ru.
Như vậy, số lượng ca dao-dân ca Stiêng mà chúng tôi tiếp cận được là 25
bài.
Có thể tóm tắt số lượng tác phẩm văn học dân gian Stiêng (dựa trên
nguồn tác phẩm đã được công bố trước đây và nguồn tác phẩm do tác giả luận
văn sưu tầm) qua bảng sau:
Bảng khảo sát tình hình tư liệu văn học dân gian Stiêng
(dựa trên nguồn tác phẩm đã được công bố)
STT Thể loại Tài liệu khảo sát Số lượng
1 Thần thoại [53], [63], [88] 13
2 Sử thi [68] 01
3 Truyền thuyết [53], [54], [66], [88] 15
4 Truyện cổ tích [44], [53], [88] 68
5 Truyện cười [53], [88] 0
6 Truyện ngụ ngôn [53], [88] 01
7 Ca dao-dân ca [75], [76] 22
Bảng khảo sát tình hình tư liệu văn học dân gian Stiêng
(do tác giả luận văn sưu tầm, điền dã)
STT Thể loại Số lượng
1 Thần thoại 0
2 Sử thi 04
3 Truyền thuyết 07
4 Truyện cổ tích 03
5 Truyện cười 0
6 Truyện ngụ ngôn 0
7 Ca dao-dân ca 03
37
Cơ cấu thể loại và số lượng tác phẩm ở mỗi thể loại
trong văn học dân gian Stiêng
STT Thể loại Số lượng tác phẩm Tỷ lệ (%)
1 Thần thoại 13 9,48
2 Sử thi 5 3,64
3 Truyền thuyết 22 16,05
4 Truyện cổ tích 71 51,82
5 Truyện cười 0 0
6 Truyện ngụ ngôn 1 0,72
7 Ca dao-dân ca 25 18,24
Qua các bảng thống kê trên có thể thấy thiếu sót của những người đi
trước (trong quá trình sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian Stiêng) khi
không để ý nhiều đến thể loại sử thi, bỏ lọt nhiều tác phẩm sử thi. Và kết quả
sưu tầm, điền dã của chúng tôi đã góp phần làm thay đổi cơ cấu thể loại trong
văn học dân gian Stiêng.
Cũng qua kết quả nghiên cứu về tình hình tư liệu văn học dân gian
Stiêng, có thể rút ra một vài kết luận sau:
Về phương diện thể loại, văn học dân gian Stiêng mang những nét chung
của văn học dân gian cả nước. Văn học dân gian Stiêng có khá đầy đủ các thể
loại như: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, ca
dao – dân ca…
Thế nhưng, cơ cấu thể loại và số lượng tác phẩm ở mỗi thể loại lại phân
bố không đồng đều. Cụ thể như sau:
Truyện cổ tích có số lượng tác phẩm nhiều nhất: 71 (chiếm 51,82 %),
truyền thuyết: 22 (chiếm 16,05%), thần thoại: 13 (chiếm 9,48 %), ca dao-dân
ca: 25 (chiếm 18,24 %), sử thi: 05 (chiếm 3,64 %) truyện ngụ ngôn: 01
(chiếm 0,72 %).
Như vậy, có thể thấy, truyện cổ tích là thể loại chiếm ưu thế trong văn
học dân gian Stiêng. Truyện ngụ ngôn có số lượng tác phẩm ít nhất trong văn
38
học dân gian Stiêng. Riêng hai thể loại tục ngữ và câu đố chúng tôi chưa thể
kết luận điều gì. Vì như đã nêu ở phần mở đầu, các tác phẩm được sưu tuyển
trong hai tài liệu Văn học dân gian Bình Phước – Tục ngữ và câu đố (2009)
và Văn học dân gian Bình Phước – Ca dao dân ca (2009) chủ yếu là của
người Kinh, một số tác phẩm có nhiều nghi vấn nên chúng tôi không chọn hai
tài liệu này để khảo sát.
Kết quả khảo sát bước đầu cho thấy, văn học dân gian Stiêng khá phong
phú và đa dạng nhưng vẫn còn ở dạng tiềm ẩn, chưa được sưu tầm, nghiên
cứu nhiều. Việc công bố tác phẩm còn rải rác, chưa tập trung.
Dựa vào những nguồn tài liệu trên, chúng tôi không có tham vọng đi sâu
phân tích, lí giải một cách cụ thể, cặn kẽ các thể loại cũng như các đặc điểm
của từng thể loại trong văn học dân gian Stiêng. Chúng tôi chỉ dám coi đây
như một bước thử nghiệm tiếp cận các thể loại trong văn học dân gian Stiêng
bằng phương pháp thống kê, mô tả, phân tích để giúp người đọc nhận diện
được phần nào bức tranh toàn cảnh về văn học dân gian Stiêng qua tư liệu
nghiên cứu của những người đi trước và qua kết quả chuyến đi thực tế, điền
dã của chúng tôi.
Do thời gian có hạn nên trong chuyến đi thực tế, điền dã chúng tôi chỉ
khảo sát thể loại sử thi và một số thể loại khác như thần thoại, truyền thuyết,
truyện cổ tích và ca dao-dân ca. Vì thế, ở chương 2 và chương 3, chúng tôi tập
trung tìm hiểu tình hình bản kể, đặc điểm nội dung, đặc điểm nghệ thuật của
05 thể loại: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao-dân ca.
Trong đó, sử thi Stiêng vẫn là thể loại mà chúng tôi quan tâm nhất (vì nhiều lí
do khách quan và chủ quan). Điều này chúng tôi sẽ làm rõ ở các chương sau.
39
Chương 2
THẦN THOẠI, TRUYỀN THUYẾT,
TRUYỆN CỔ TÍCH STIÊNG
Ở chương 1, chúng tôi đã trình bày những nét khái quát nhất về đặc điểm
tộc người Stiêng đồng thời tiến hành xác định diện mạo văn học dân gian
Stiêng qua tình hình tư liệu sưu tầm, nghiên cứu của những người đi trước và
qua thực tế điền dã của chúng tôi. Trên cơ sở đó, chúng tôi đã đưa ra những
kết luận khái quát về hệ thống thể loại, cơ cấu thể loại trong văn học dân gian
Stiêng. Những khái quát bước đầu ấy là cơ sở cho việc tìm hiểu đặc điểm nội
dung và nghệ thuật của các thể loại trong văn học dân gian Stiêng. Trong
chương này, chúng tôi sẽ tiến hành xác định số lượng bản kể, đặc điểm nội
dung và nghệ thuật của một số thể loại trong văn học dân gian Stiêng như:
thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích.
2.1. Thần thoại
2.1.1. Đặc điểm nội dung
Thần thoại ra đời là kết quả của nhu cầu muốn tìm hiểu, khám phá, lí giải
vũ trụ, chinh phục thế giới tự nhiên của con người trong buổi bình minh của
nhân loại. Với trí tưởng tượng phong phú, bay bổng, óc quan sát logic, cụ thể,
con người đã hình dung, lí giải sự hình thành vũ trụ, cũng như nguồn gốc các
sự vật hiện tượng trong thế giới tự nhiên bằng những hình ảnh kì vĩ, to lớn,
đẹp đẽ tạo nên những câu chuyện sinh động, hấp dẫn, trở thành “nhữngtiêu
chuẩn, như những mẫu mực không thể nào bắt chước được” [33, 291]. Có thể
nói rằng, thần thoại là một hình thái ý thức nguyên hợp. Nó vừa là khoa học,
nghệ thuật vừa là tín ngưỡng, tôn giáo của loài người thuở ấu thơ. Nó gợi
nhắc trong ta sự cảm thông, trân trọng với quá khứ nguyên vẹn, tinh khiết,
40
tươi trẻ của con người trong buổi đầu hồng hoang của nhân loại.
Thần thoại của các dân tộc ít người ở nước ta phản ánh một cách kì diệu
nhận thức về vũ trụ, về công cuộc đấu tranh thiên nhiên, sinh hoạt xã hội và tư
duy xã hội của các dân tộc anh em trong thời kì cổ sơ.
Số lượng thần thoại của người Stiêng theo khảo sát là 13 bản kể, gồm 03
đề tài cơ bản: thần thoại suy nguyên về vũ trụ (01 bản kể), thần thoại suy
nguyên về nhân loại, tộc người (06 bản kể) và thần thoại về sáng tạo văn hóa
(06 bản kể).
Cũng như bao dân tộc khác, ngay từ buổi hồng hoang, vũ trụ luôn là điều
bí ẩn nhưng có sức hấp dẫn đối với người Stiêng. Người Stiêng vẫn luôn đặt
cho mình những câu hỏi về nguồn gốc của trời đất, cây cỏ, núi sông. Có thể
nói rằng đây chính là điểm mở đầu của tư duy thần thoại nảy sinh ở người cổ
đại.
Nếu như người Hmông quy công cho người sinh ra mặt đất và bầu trời là
Ông Chày, Bà Chày; người Bana quy công cho hai ông bà Bôc Kây Tây và
Dá Kon Ké; người Chăm quy công cho Thần Trời và Thần Đất thì người
Stiêng quy công cho nhiều vị thần trong quá trình sáng tạo ra vũ trụ, muôn
loài. Các vị thần đó là Krong Dong, Krang Dang, Xiêng, Khẻn, Nung, Nú.
Chuyện kể rằng: “Khi trời đất chưa phân chia, khi con người chưa sinh ra,
chỉ có duy nhất một vị thần khổng lồ là Krong Dong. Krong Dong sinh ra
Krang Dang. Krang Dang làm ra một cái cột đá khổng lồ. Và từ cột đá, có
một con bướm và một con rùa. Con bướm nhảy một lần là lại thấy một con
vật được sinh ra. Con rùa nhảy một lần là lại thấy một con người sinh ra.
Ông Xiêng, ông Tiêng, ông Têy cũng sinh ra từ đó. Họ gọi cột đá đó là mẹ.
Ông Xiêng, ông Tiêng, ông Têy lấy một nắm đất ra, bỏ vào đó bảy con giun
rồi bảy con giun xoay quanh nắm đất đó cho đất nở ra và đất bắt đầu được
sinh ra” (Nguồn gốc vũ trụ và muôn loài). Người Stiêng giải thích nguồn gốc
41
ra đời của vũ trụ bằng quan niệm vạn vật nhất thể có tính duy vật thô sơ, hồn
nhiên. Theo đó, mọi sự vật hiện tượng trong trời đất đều từ “cột đá mẹ” mà ra
và đều nằm trong một hệ thống kết cấu thống nhất. Vị thần Krong Dong tạo ra
“cột đá mẹ”, từ “cột đá mẹ” hình thành nên bướm và rùa. Từ bướm và rùa
hình thành nên con người và các loài khác.
Các vị thần sáng tạo ra trời đất trong thần thoại của người Mnông, người
Chăm và người Bana đều nằm trong xu hướng chung là cặp đôi: nam – nữ
(Ông Chày và Bà Chày, ông bà Bôc Kây Tây và Dá Kon Ké, Thần Trời và
Thần Đất…). Họ là những cặp vợ chồng khai sáng vũ trụ có tầm vóc kì vĩ.
Trời đất đã được sinh ra từ sự hôn phối của họ. Thần thoại Stiêng không có
đặc điểm này. Trong thần thoại Stiêng chỉ có một vị thần chủ chốt là Krong
Dong. Thần Krong Dong sinh ra Krang Dang, Krang Dang tiếp tục công việc
của mình là tạo ra cột đá mẹ, rồi lần lượt các vị thần khác tạo ra vũ trụ và
muôn loài. Như vậy, theo người Stiêng, vị thần Krong Dong là vị thần tối cao,
vị thần khai sáng. Các vị thần khác tiếp nối công việc của Krong Dong trong
việc sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài. Người Stiêng tin rằng, ở trên trời cũng
như ở dưới đất đều có nhiều vị thần trú ngụ. Mỗi vị thần đều có nhiệm vụ
riêng của mình. Đây cũng chính là nguồn gốc của những quan điểm thần linh
siêu nhiên trong tư duy truyền thống của người Stiêng.
Tuy còn ở trình độ sơ khai nhưng cách giải thích nguồn gốc ra đời của
vũ trụ và muôn loài của người Stiêng thể hiện sự phát triển một cách sinh
động quá trình nhận thức về sự tồn tại khách quan của thế giới thông qua óc
quan sát cụ thể, logic của họ. Các thần chính là sản phẩm của niềm tin và sự
sùng bái tự nhiên đan cài với nhận thức có tính vật chất về thế giới. Để cải
biến được thế giới tự nhiên cũng như kiến tạo được vũ trụ, các thần cũng phải
lao động như con người: “Có đất, có trời rồi nhưng đất còn chật quá, con nai
chưa đứng được. Sau đó, ông Khẻn, ông Nung làm lại đất cho đất cao thêm,
42
rộng thêm. Có đất ở rộng rãi rồi nhưng ông trời cứ sáng mãi. Thấy thế, ông
Nú bèn che mặt trời để trời tối lại. Từ đó, ngày đêm được phân chia, mặt
trăng ra đời” (Nguồn gốc vũ trụ và muôn loài). Đất cao thêm, rộng thêm
không phải tự nhiên mà có. Đó chính là do quá trình lao động cật lực của ông
Khẻn, ông Nung. Xuất phát từ thực tế lao động, người Stiêng đã lí giải sự
hình thành vũ trụ bằng trí tưởng tượng phong phú, bay bổng, lãng mạn nhưng
vô cùng sinh động và cụ thể. Hình ảnh ông Nú che mặt trời để trời tối lại cho
con người yêu nhau thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên của người Stiêng.
Đó cũng là khát vọng muôn đời không bao giờ nguôi của nhân loại.
Ở đề tài suy nguyên về nhân loại, tộc người, phải kể đến các truyện thần
thoại sau: Nguồn gốc loài người, Người học khỉ đỡ đẻ (1), Người học khỉ đỡ
đẻ (2), Người học khỉ đỡ đẻ (3), Vì sao loài vật không biết nói và phải giúp
việc cho con người?, Vì sao người Stiêng có vóc dáng như bây giờ?.
Theo người Stiêng, loài người ra đời từ tảng đá lớn. Chuyện kể rằng:
“Vào thuở xa xưa, khi trời và đất còn mờ mịt, các loài thú sống chen chúc và
rất hòa thuận với nhau…Một hôm khi các con thú đang nô đùa bên một ngọn
núi cao có nhiều tảng đá to thì nghe phát ra một tiếng kì lạ…Theo lệnh của
khỉ, các con vật nhất loạt dùng các vật mà chúng có đập mạnh vào tảng đá thì
bỗng có một tiếng nổ lớn phát ra, trời đất tối sầm…cây cối đổ rạp, một số con
vật chết ngay tức khắc…Sau tiếng nổ, trời quang mây tạnh, tảng đá vỡ ra,
một người con trai và một người con gái hiện ra, đó là con người đầu tiên
trên trái đất…” (Nguồn gốc loài người).
Người Stiêng ở vùng Bù Dek cho rằng: Vị tổ của người Stiêng là ông
Jiang. Ông là con trai của vua trời. Vua trời xuống trần gian lấy vợ rồi sinh ra
Jiang và Krơ Vôm Jiang. Jiang được sinh ra từ nách còn Krơ Vôm Jiang sinh
ra bình thường. Đây cũng chính là nội dung của sử thi Stiêng “Jiang xuống
từ xứ Thánh”. Có thể thấy rằng, cũng như nhiều dân tộc khác ở Tây Nguyên,
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ

More Related Content

What's hot

Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfMan_Ebook
 
Co dinh mot dam may nguyen ngoc tu
Co dinh mot dam may nguyen ngoc tuCo dinh mot dam may nguyen ngoc tu
Co dinh mot dam may nguyen ngoc tuPhan Book
 
Hiến pháp 1992 sửa đổi 2001
Hiến pháp 1992 sửa đổi 2001Hiến pháp 1992 sửa đổi 2001
Hiến pháp 1992 sửa đổi 2001Học Huỳnh Bá
 
Bài tiểu luận tư tưởng hồ chí minh
Bài tiểu luận tư tưởng hồ chí minhBài tiểu luận tư tưởng hồ chí minh
Bài tiểu luận tư tưởng hồ chí minhHuynh Loc
 
Các yếu tố ảnh hưởng đến động lực học tập của sinh viên Đại học Kinh Tế, HAY!
Các yếu tố ảnh hưởng đến động lực học tập của sinh viên Đại học Kinh Tế, HAY!Các yếu tố ảnh hưởng đến động lực học tập của sinh viên Đại học Kinh Tế, HAY!
Các yếu tố ảnh hưởng đến động lực học tập của sinh viên Đại học Kinh Tế, HAY!Nhận Viết Đề Tài Trọn Gói ZALO 0932091562
 
GIÁO ÁN POWERPOINT TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS - KẾT NỐI TRI THỨC - GAME PHONG...
GIÁO ÁN POWERPOINT TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS - KẾT NỐI TRI THỨC - GAME PHONG...GIÁO ÁN POWERPOINT TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS - KẾT NỐI TRI THỨC - GAME PHONG...
GIÁO ÁN POWERPOINT TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS - KẾT NỐI TRI THỨC - GAME PHONG...Nguyen Thanh Tu Collection
 
HƯỚNG DẪN LÀM MC ĐÁM CƯỚI CHUYÊN NGHIỆP
HƯỚNG DẪN LÀM MC ĐÁM CƯỚI CHUYÊN NGHIỆPHƯỚNG DẪN LÀM MC ĐÁM CƯỚI CHUYÊN NGHIỆP
HƯỚNG DẪN LÀM MC ĐÁM CƯỚI CHUYÊN NGHIỆPHoàng Thái Việt
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Tthcm chương 5
Tthcm chương 5Tthcm chương 5
Tthcm chương 5thuyettrinh
 

What's hot (20)

Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
 
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hửLuận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
 
Co dinh mot dam may nguyen ngoc tu
Co dinh mot dam may nguyen ngoc tuCo dinh mot dam may nguyen ngoc tu
Co dinh mot dam may nguyen ngoc tu
 
Hiến pháp 1992 sửa đổi 2001
Hiến pháp 1992 sửa đổi 2001Hiến pháp 1992 sửa đổi 2001
Hiến pháp 1992 sửa đổi 2001
 
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
Luận án: Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
 
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAYLuận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
 
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đLuận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đLuận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
 
Bài tiểu luận tư tưởng hồ chí minh
Bài tiểu luận tư tưởng hồ chí minhBài tiểu luận tư tưởng hồ chí minh
Bài tiểu luận tư tưởng hồ chí minh
 
Luận văn: Hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAYLuận văn: Hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
 
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt NamLuận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
 
Quản lí vốn đầu tư trong phát triển kết cấu giao thông đô thị, HAY
Quản lí vốn đầu tư trong phát triển kết cấu giao thông đô thị, HAYQuản lí vốn đầu tư trong phát triển kết cấu giao thông đô thị, HAY
Quản lí vốn đầu tư trong phát triển kết cấu giao thông đô thị, HAY
 
Các yếu tố ảnh hưởng đến động lực học tập của sinh viên Đại học Kinh Tế, HAY!
Các yếu tố ảnh hưởng đến động lực học tập của sinh viên Đại học Kinh Tế, HAY!Các yếu tố ảnh hưởng đến động lực học tập của sinh viên Đại học Kinh Tế, HAY!
Các yếu tố ảnh hưởng đến động lực học tập của sinh viên Đại học Kinh Tế, HAY!
 
GIÁO ÁN POWERPOINT TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS - KẾT NỐI TRI THỨC - GAME PHONG...
GIÁO ÁN POWERPOINT TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS - KẾT NỐI TRI THỨC - GAME PHONG...GIÁO ÁN POWERPOINT TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS - KẾT NỐI TRI THỨC - GAME PHONG...
GIÁO ÁN POWERPOINT TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS - KẾT NỐI TRI THỨC - GAME PHONG...
 
HƯỚNG DẪN LÀM MC ĐÁM CƯỚI CHUYÊN NGHIỆP
HƯỚNG DẪN LÀM MC ĐÁM CƯỚI CHUYÊN NGHIỆPHƯỚNG DẪN LÀM MC ĐÁM CƯỚI CHUYÊN NGHIỆP
HƯỚNG DẪN LÀM MC ĐÁM CƯỚI CHUYÊN NGHIỆP
 
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đLuận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
 
Tthcm chương 5
Tthcm chương 5Tthcm chương 5
Tthcm chương 5
 
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyếtLuận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
 
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc MườngLuận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
 

Similar to Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ

Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533jackjohn45
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồngTh s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồnghttps://www.facebook.com/garmentspace
 
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gianSkkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân giannataliej4
 
Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện na
Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện naVấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện na
Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện naDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Nông thôn và người nông dân trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của...
Nông thôn và người nông dân trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của...Nông thôn và người nông dân trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của...
Nông thôn và người nông dân trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của...nataliej4
 

Similar to Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ (20)

Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh NiêLuận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê
 
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê và Niê Thanh Mai
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê và Niê Thanh MaiLuận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê và Niê Thanh Mai
Luận văn: Bản sắc văn hóa Tây Nguyên trong văn xuôi H’Linh Niê và Niê Thanh Mai
 
Luận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai Châu
Luận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai ChâuLuận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai Châu
Luận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai Châu
 
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
Khảo sát tục ngữ cổ truyền về thái bình từ góc nhìn văn hóa 6791533
 
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca TàyẢnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
 
luan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoi
luan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoiluan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoi
luan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoi
 
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, 9đ
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, 9đLễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, 9đ
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, 9đ
 
Luận văn: Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi tỉnh Hải Dương, HAYLuận văn: Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi tỉnh Hải Dương, HAY
 
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam TânLễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân
Lễ hội đền thờ Mạc Đĩnh Chi Xã Nam Tân
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn h...
 
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, HAY
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, HAYLuận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, HAY
Luận văn: Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, HAY
 
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và TháiLuận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
Luận án: So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và Thái
 
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
 
Đề tài: Ca trù tại làng Đông Môn huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng
Đề tài: Ca trù tại làng Đông Môn huyện Thủy Nguyên, Hải PhòngĐề tài: Ca trù tại làng Đông Môn huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng
Đề tài: Ca trù tại làng Đông Môn huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng
 
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồngTh s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
 
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gianSkkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
 
Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện na
Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện naVấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện na
Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện na
 
Nông thôn và người nông dân trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của...
Nông thôn và người nông dân trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của...Nông thôn và người nông dân trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của...
Nông thôn và người nông dân trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của...
 
Luận văn thạc sĩ: Truyện cổ dân gian Châu Ro, HAY, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Truyện cổ dân gian Châu Ro, HAY, 9đLuận văn thạc sĩ: Truyện cổ dân gian Châu Ro, HAY, 9đ
Luận văn thạc sĩ: Truyện cổ dân gian Châu Ro, HAY, 9đ
 
Chăm phồn thực
Chăm phồn thựcChăm phồn thực
Chăm phồn thực
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGhoinnhgtctat
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn thạc sĩ: Khảo sát văn học dân gian Stiêng, HOT, 9đ

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Từ Thị Thơ KHẢO SÁT VĂN HỌC DÂN GIAN STIÊNG LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
  • 2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Từ Thị Thơ KHẢO SÁT VĂN HỌC DÂN GIAN STIÊNG Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
  • 3. LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến cô Nguyễn Thị Ngọc Điệp, người đã trực tiếp hướng dẫn, hết lòng giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Xin bày tỏ lòng biết ơn đến thầy Phan An, anh Phạm Hữu Hiến, già làng Điểu Hum, chú Điểu Bứa, chú Điểu Hích, ca sĩ Điểu Thị Kim Anh và toàn thể đồng bào Stiêng trên địa bàn tỉnh Bình Phước, đặc biệt là đồng bào Stiêng ở xã Lộc Hòa, huyện Lộc Ninh, đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong những ngày tôi đi thực tế điền dã tìm hiểu văn học dân gian Stiêng. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn phòng Khoa học Công nghệ – sau đại học trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, quý thầy cô trong Khoa Ngữ văn, các anh (chị) trong tổ Văn phòng Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bình Phước, gia đình, bạn bè, đã tạo mọi điều kiện, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Luận văn không tránh khỏi thiếu sót, chúng tôi kính mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô và các bạn. TP. Hồ Chí Minh, tháng 5/2013 Từ Thị Thơ
  • 4. MỤC LỤC MỤC LỤC........................................................................................................... 1 MỞ ĐẦU............................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài – Mục đích nghiên cứu.................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề............................................................................................ 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 8 4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 9 5. Đóng góp của luận văn ............................................................................ 10 6. Cấu trúc của luận văn ..............................................................................11 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI STIÊNG...................................... 13 1.1. Lịch sử tộc người Stiêng ................................................................... 13 1.2. Hoạt động kinh tế ..............................................................................16 1.3. Tổ chức xã hội truyền thống.............................................................. 20 1.4. Đặc điểm văn hóa tộc người Stiêng .................................................. 24 1.5. Tình hình tư liệu văn học dân gian Stiêng ........................................ 32 Chương 2: THẦN THOẠI, TRUYỀN THUYẾT, TRUYỆN CỔ TÍCH STIÊNG.............................................................................................................39 2.1. Thần thoại .........................................................................................39 2.1.1. Đặc điểm nội dung..........................................................................39 2.1.2. Đặc điểm nghệ thuật ....................................................................... 46 2.2. Truyền thuyết....................................................................................48 2.2.1. Đặc điểm nội dung........................................................................... 48 2.2.2. Đặc điểm nghệ thuật ....................................................................... 55 2.3. Truyện cổ tích ...................................................................................60 2.3.1. Đặc điểm nội dung........................................................................... 61 2.3.2. Đặc điểm nghệ thuật ........................................................................ 64 Chương 3: CA DAO-DÂN CA, SỬ THI STIÊNG .......................................... 70
  • 5. 3.1. Ca dao-dân ca.....................................................................................70 3.1.1. Đặc điểm nội dung..........................................................................70 3.1.2. Đặc điểm nghệ thuật ....................................................................... 75 3.2. Sử thi..................................................................................................82 3.2.1. Đặc điểm nội dung..........................................................................83 3.2.2. Đặc điểm nghệ thuật ....................................................................... 90 3.2.3. Giá trị văn hóa của sử thi Stiêng................................................... 111 KẾT LUẬN.....................................................................................................122 TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................126
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài – Mục đích nghiên cứu Bình Phước – miền đất được coi như “Phần mái của Nam Sơn” (Trường Sơn Nam) là một vùng đất có lịch sử lâu đời, giàu truyền thống đấu tranh cách mạng. Ngay từ rất xa xưa, Bình Phước đã là vùng đất cư trú của nhiều dân tộc ít người như Stiêng, Mnông, Mạ, Chơro, Chăm, Khmer…Có thể nói rằng, đây là nơi hội tụ và giao lưu văn hóa của nhiều dân tộc anh em, tạo nên sự đa dạng và thống nhất trong bản sắc văn hóa của khu vực này nói riêng, của cả nước nói chung. Trong số các dân tộc ít người sinh sống ở Bình Phước thì người Stiêng – một trong những chủ nhân lâu đời của vùng đất phía bắc tỉnh Bình Phước – là dân tộc có số dân đông nhất. Cho nên, có thể gọi Bình Phước là “trung tâm” của văn hóa Stiêng ở Việt Nam. Là một dân tộc thuộc cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, dân tộc Stiêng có một nền văn hóa vừa mang nhiều sắc thái chung với những dân tộc anh em sống xung quanh vừa mang những nét riêng, độc đáo của dân tộc mình. Điều đó được thể hiện một cách rõ nét qua vốn văn học dân gian của dân tộc này. Chúng tôi chọn đề tài “Khảo sát văn học dân gian Stiêng” vì những lí do sau: Góp phần tìm hiểu đặc điểm văn học dân gian Stiêng: Vốn văn học dân gian của dân tộc này như thế nào? Có những nét nổi bật nào về đặc điểm cơ cấu, thể loại? Mỗi thể loại có những đặc điểm nào cần chú ý? Vai trò, ý nghĩa của văn học dân gian trong đời sống cộng đồng Stiêng? Mối quan hệ giữa văn học dân gian Stiêng và văn hóa Stiêng như thế nào? Trả lời những câu hỏi trên sẽ giúp chúng tôi nhận diện bức tranh toàn cảnh về đời sống tinh thần của người Stiêng trên địa bàn tỉnh Bình Phước nói riêng cũng như đời sống tinh
  • 7. 2 thần của các dân tộc anh em nói chung, góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Chuyến đi thực tế điền dã đã giúp chúng tôi có điều kiện thu thập được nhiều thông tin bổ ích, nhiều văn bản văn học dân gian chưa được biết đến. Qua luận văn này, chúng tôi muốn cung cấp thêm nhiều tư liệu quý, giúp người dạy, người học, các nhà nghiên cứu có cái nhìn khái quát hơn trong quá trình tiếp cận văn học dân gian Stiêng. Góp phần bảo tồn, lưu giữ vốn văn hóa tinh thần đặc sắc của dân tộc Stiêng: Người Stiêng không có chữ viết. Vốn văn học dân gian của họ được lưu giữ qua truyền miệng, bằng trí nhớ của những già làng. Hiện nay, nhiều dấu hiệu cho thấy bản sắc văn hóa của dân tộc Stiêng ở tỉnh Bình Phước nói chung, ở các huyện cư trú chủ yếu của người Stiêng nói riêng đang đứng trước nguy cơ mất mát lớn. Do đó, cần tiến hành sưu tầm, khảo sát, nghiên cứu đồng bộ trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là vốn văn học dân gian – thể hiện rõ nhất đời sống tinh thần của người Stiêng – để từ đó có thể đánh giá và khôi phục kịp thời vốn văn hóa đặc sắc này. Đồng thời, luận văn cũng là món quà nhỏ mà chúng tôi muốn dành tặng những nghệ nhân Stiêng – những người có nhiều tâm huyết trong việc giữ gìn và phát huy vốn văn học dân gian của dân tộc mình. 2. Lịch sử vấn đề So với các dân tộc khác ở Tây Nguyên và Đông Nam bộ, văn học dân gian của người Stiêng được biết đến khá muộn. Số lượng các công trình sưu tầm, nghiên cứu về văn học dân gian Stiêng rất ít. Có thể điểm qua một số công trình sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian Stiêng sau: Truyện kể dân gian Stiêng được người đọc biết đến đầu tiên qua Tuyển tập truyện cổ tích các dân tộc ở Việt Nam (1987). Tuyển tập sưu tuyển và
  • 8. 3 giới thiệu truyện kể dân gian của các dân tộc ít người ở Việt Nam, trong đó có 01 bản kể Sự tích kiêng ăn thịt Cà héc của dân tộc Stiêng. Dân ca Sông Bé (1991) là kết quả chuyến đi thực tế sưu tầm – nghiên cứu dân ca Nam bộ của tập thể tác giả Lư Nhất Vũ, Nguyễn Văn Hoa, Lê Giang, Từ Nguyên Thạch. Các nhà nghiên cứu đã lặn lội đến các làng, các ấp, các phum sóc và đã ghi thu được hàng trăm làn điệu dân ca, hàng ngàn câu hát dân gian vô cùng quý hiếm. Trong chương 2, tác giả Lư Nhất Vũ và Nguyễn Quang Hoa có bài viết giới thiệu Đặc trưng nghệ thuật âm nhạc trong dân ca các dân tộc ở Sông Bé, trong đó có dân tộc Stiêng. Họ cho rằng: “Nhìn chung các làn điệu dân ca Stiêng chủ yếu là dựa vào một âm hình chủ đạo xuất hiện đầu bài, sau đó được khắc họa âm hình bằng cách tái hiện đi đôi với biến hóa ở mức độ chưa cao; nó bình dị và mộc mạc như củ khoai lùi, như trái bắp nướng, như chùm trái gùi chín…[75, 90]. Tập sáchcòn giới thiệu 12 bài dân ca Stiêng (cả phần kí âm và dịch nghĩa) do nhóm sưu tầm trên địa bàn tỉnh Bình Phước [75, 273-300]. Tác giả Nguyễn Phương Thảo sưu tuyển và giới thiệu truyện kể dân gian Nam bộ, trong đó có 01 bản kể truyện dân gian Stiêng Truyền thuyết về thác nước Lieng Hur qua công trình Huyền thoại miệt vườn (1994). Trong Hợp tuyển truyện cổ tích Việt Nam (1996), Lữ Huy Nguyên và Đặng Văn Lung sưu tuyển và giới thiệu truyện kể dân gian Việt Nam, trong đó có 01 bản kể truyện dân gian Stiêng Người mồ côi. Nguyễn Thị Huế và Trần Thị An sưu tuyển và giới thiệu các tác phẩm văn học dân gian tập hợp trong Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam (1999). Trong các tác phẩm được sưu tuyển và giới thiệu có 01 bản kể truyện dân gian Stiêng Nguồn gốc loài người. Trong bài viết Bước đầu tìm hiểu truyện cổ Stiêng đăng trên website của Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học KHXH&NV TP.HCM
  • 9. 4 (ngày 25/09/2009), tác giả Phan Xuân Viện đã thống kê, phân loại, nhận diện và phân tích sơ lược 135 truyện kể dân gian Stiêng. Số lượng truyện kể nói trên là kết quả chuyến đi thực tế, sưu tầm điền dã văn học dân gian Bình Phước trong đó có văn học dân gian/truyện kể dân gian Stiêng của đoàn sinh viên Khoa Văn học và Ngôn ngữ Trường Đại học KHXH&NV TP.HCM. Tác giả bài viết kết luận: “Kết quả khảo sát bước đầu cho thấy vốn truyện cổ Stiêng vừa rất phong phú về số lượng, vừa đa dạng về thể loại” [87]. Cùng chủ đề nêu trên, trong bài viết Tìm hiểu truyện cổ tộc người Stiêng ở Bình Phước đăng trên website của Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học KHXH&NV TP.HCM (ngày 23/01/2012), Phan Xuân Viện đã giúp người đọc có cái nhìn cụ thể hơn về vốn truyện cổ Stiêng nói riêng, văn học dân gian Stiêng nói chung. Tác giả viết: “Kho tàng văn học dân gian Stiêng ở Bình Phước rất phong phú với đủ thể loại như thần thoại, truyền thuyết, sử thi, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, thơ ca, hát nói dân gian. Qua hai đợt sưu tầm điền dã văn học dân gian trong hai năm 2008 và 2009, tổng số truyện kể dân gian sưu tầm tại gần 40 xã điểm có đồng bào Stiêng sinh sống thuộc 6 huyện như Bình Long, Đồng Phú, Lộc Ninh, Bù Đốp, Phước Long và Bù Đăng gồm có 233 truyện” [88]. Bài viết đi sâu khảo sát nội dung và nghệ thuật của các thể loại và tiểu loại truyện cổ dân gian Stiêng, từ đó rút ra những đặc điểm cơ bản của từng thể loại tự sự dân gian, giúp người đọc có cái nhìn đầy đủ hơn trong việc nhận biết và phân tích vốn truyện cổ phong phú này. Bài viết cũng mở ra những hướng nghiên cứu mới cho người đọc. Đó là chứng minh quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa giữa các tộc người láng giềng cộng cư và xen cư như Ê Đê, Mnông, Khmer, Việt…với tộc người Stiêng ở tỉnh Sông Bé – Bình Phước từng xảy ra trong quá khứ xa và gần thông qua những truyện cổ Stiêng như Rùa và Khỉ, Ji Băch Ji Bay, Người vợ khôn ngoan, Chuyện trạng Achơi…
  • 10. 5 Cũng dựa vào kết quả sưu tầm trên1 , Nguyễn Thị Tuyết Sương thực hiện luận văn tốt nghiệp đại học với đề tài Văn học dân gian Bình Phước – Truyện kể dân gian (2009). Tác giả luận văn đã phân tích sơ lược về các thể loại trong văn học dân gian các dân tộc ở Bình Phước (trong đó có văn học dân gian Stiêng) như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn. Bước đầu, luận văn đã giúp người đọc thấy được những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật trong truyện kể dân gian Stiêng. Phần cuối luận văn là phần sưu tuyển các tác phẩm thuộc các thể loại nói trên. Luận văn tốt nghiệp đại học của Trương Thị Thu Thảo với đề tài Văn học dân gian Bình Phước – Tục ngữ và câu đố (2009) đem đến cho người đọc cái nhìn khái quát về hai thể loại tục ngữ và câu đố trong văn học dân gian các dân tộc ở Bình Phước (trong đó có văn học dân gian Stiêng). Phần cuối của luận văn cũng là phần sưu tuyển tác phẩm thuộc hai thể loại nêu trên. Hoàng Thị Lệ Hằng với đề tài luận văn tốt nghiệp đại học Văn học dân gian Bình Phước – Ca dao dân ca (2009) cũng đã đem đến cho người đọc cái nhìn khái quát về thể loại ca dao-dân ca trong văn học dân gian Bình Phước, trong đó có ca dao-dân ca của dân tộc Stiêng. Thế nhưng, phần lớn các tác phẩm được sưu tuyển trong hai tài liệu Văn học dân gian Bình Phước – Tục ngữ và câu đố (2009) và Văn học dân gian Bình Phước – Ca dao dân ca (2009) chủ yếu là của người Kinh, một số tác phẩm có nhiều nghi vấn nên chúng tôi không chọn hai tài liệu này để khảo sát. Mặc dù có nhiều đóng góp trong nghiên cứu văn học dân gian Bình Phước nói chung, văn học dân gian Stiêng nói riêng, nhưng các đề tài tốt nghiệp trên cũng chỉ dừng lại ở việc chỉnh lí, phân loại, giới thiệu và mô tả tài 1 Nguồn tài liệu này cũng là nguồn tài liệu mà tác giả Phan Xuân Viện sử dụng trong bài viết của ông.
  • 11. 6 liệu sưu tầm từ chuyến đi thực tế, điền dã, chưa đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống, chưa đánh giá đầy đủ, cụ thể về đối tượng. Trong bài viết Đi tìm câu hát dân ca Stiêng (đăng trên trang điện tử báo Tuổi trẻ, ngày 28/02/2004), tác giả Lam Điền đã cho người đọc thấy được vốn ca dao-dân ca phong phú của người Stiêng. Thế nhưng, vốn ca dao-dân ca này hiện đang còn tiềm ẩn. Tác giả viết: “Từ bà Điểu Thị K’hen, mọi người mới phát hiện rằng người Stiêng có cả ca dao, tục ngữ. Lối ca kể được gọi là tâm pớt của người Stiêng còn chứa đựng những câu chuyện ngụ ngôn. Bà K’hen còn thuộc nhiều câu chuyện về con rùa và con khỉ, con cheo với con cọp. Bà K’hen ngồi hát tâm pớt một đoạn nói về lịch sử của núi Bà Rá, núi Bà Đen...với những câu chuyện truyền thuyết có từ ngàn đời mà hiện nay không dễ tìm người còn nhớ được…Theo ước đoán của ông Điểu Đươu, hiện nay toàn Bù Đăng có khoảng hai người hát được tâm pớt kéo dài hai ngày hai đêm mới hết....Chúng tôi rời Đăk Nhau với hình ảnh của người phụ nữ 54 tuổi còn giữ hàng ngàn câu ca trong tâm khảm…”. Qua bài viết Người Stiêng đi tìm lời ru của mẹ (đăng trên trang tin điện tử của báo Công an nhân dân, ngày 07/01/2009) của tác giả Anh Ngọc, người đọc thấy được những khó khăn, gian khổ, thiếu thốn cũng như những thành tựu bước đầu của Điểu Đức – người con ưu tú của dân tộc Stiêng – trong hành trình đi tìm “lời ru của mẹ”. Tác giả bài viết cho biết: “Sau gần 2 năm lặn lội tìm tòi, được chính quyền và một số nghệ nhân giúp đỡ, Điểu Đức đã ghi âm lại được 10 làn điệu dân ca Stiêng với hàng ngàn bài hát ru, hát giao duyên, hát ngợi ca đất nước, con người và rừng núi. Cũng trong cuộc hành trình ấy, Điểu Đức còn ghi chép lại được hàng ngàn bài ca dao Stiêng với nhiều chủ đề khác nhau, 10 bài sử thi Stiêng. Mỗi bài sử thi nói về một con người, về một câu chuyện trong một giai đoạn lịch sử cụ thể, nói về ông Tiên, về lịch sử hình thành trời đất, về một con sông, con suối thiêng, về thời đồ đá, đồ đồng
  • 12. 7 mà người Stiêng đã từng trải qua và in đậm trong tiềm thức của họ…”. Tháng 3/2007, những giai điệu dân ca Stiêng này đã được các nghệ sĩ Stiêng ở Bình Phước biểu diễn trên sân khấu trong Chương trình Liên hoan Dân ca truyền hình toàn quốc được tổ chức tại Bình Dương. Từ những cơ hội này, lần đầu tiên công chúng cả nước được biết đến cái hay, cái đẹp của dân ca Stiêng: “Nếu như dân ca của người Stiêng ở các tỉnh vùng Tây Nguyên hừng hực như có lửa, dân ca của người Kinh thì sâu lắng, thiết tha thì dân ca của người Stiêng ở Bình Phước lại duyên dáng và nền nã” [76]. “Sử thi tộc người Stiêng Krông Kơ Laas đoạt hồn nàng Rơ Liêng Mas” (2010) của tập thể tác giả Phan Xuân Viện, Phùng Thị Thanh Lài, Điểu Mí, Điểu Hích là công trình sưu tầm, nghiên cứu đầu tiên về sử thi Stiêng. Tập thể tác giả đã tiến hành ghi âm, kí âm, biên dịch sử thi Krông Kơ Laas đoạt hồn nàng Rơ Liêng Mas và giới thiệu cùng người đọc sử thi này. Trước khi giới thiệu văn bản tác phẩm (cả phần kí âm tiếng Stiêng và tiếng Việt), các tác giả đã dành 40 trang phân tích tác phẩm. Phần phân tích này hướng vào một số nội dung chính như: xác định thể loại tác phẩm (qua việc xác định chức năng thể loại trong đời sống cộng đồng, tính diễn xướng cộng đồng, đề tài, nội dung và yếu tố thi pháp; nêu bật giá trị văn hóa tinh thần của tộc người Stiêng qua tác phẩm; xác định phương thức lưu truyền sử thi Krông Kơ Laas đoạt hồn nàng Rơ Liêng Mas. Công trình nằm trong Dự án Công bố, phổ biến tài sản văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam và đã đạt giải ba của Hội văn nghệ dân gian Việt Nam. Đây là công trình có tính chất tiên phong, gợi mở các đề tài nghiên cứu về văn học dân gian Stiêng nói chung, sử thi Stiêng nói riêng. Lần đầu tiên, người đọc biết đến sử thi Stiêng và giá trị của nó: “Mặc dù không mang tầm cỡ là “bộ bách khoa thư” hay là “từ điển sống” như các bộ sử thi Tây Nguyên khác đã được công bố nhưng sử thi Krông Kơ Laas đoạt hồn nàng Rơ Liêng Mas cũng mang những giá trị phản
  • 13. 8 ánh đời sống lịch sử xã hội cùng những biến chuyển của nó. Tác phẩm đã phản ánh quá trình hình thành và phát triển của các chế độ xã hội, đặc biệt ở đây là xã hội song hệ với các mối quan hệ khá đa dạng. Đồng thời, nó cũng phản ánh sự hình thành và ổn định đời sống văn hóa của dân tộc, các nghi lễ, phong tục, tập quán…của xã hội Stiêng xưa kia. Chính điều này đã tạo nên giá trị văn hóa cao về nhiều mặt cho tác phẩm sử thi. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng là nguồn sử liệu quan trọng trong nghiên cứu lịch sử và nguồn gốc tộc người thông qua những mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên, đời sống xã hội của tộc người nơi đây, phong tục tập quán. Từ đây sẽ góp phần tạo dựng bản sắc văn hóa tộc người” [68, 52-53]. Trên đây, chúng tôi đã giới thiệu một cách ngắn gọn các công trình sưu tầm, nghiên cứu về văn học dân gian Stiêng. Qua đó, có thể thấy văn học dân gian Stiêng đã được các nhà nghiên cứu quan tâm, tiếp cận từ nhiều góc độ, bình diện khác nhau. Tuy nhiên, phần lớn các công trình trên chỉ mang tính chất sưu tầm, giới thiệu các tác phẩm văn học dân gian một cách tản mạn, chung chung chứ chưa thành hệ thống, chưa được sắp xếp một cách khoa học, đầy đủ. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu cơ cấu thể loại, hệ thống thể loại, tình hình văn bản, số lượng tác phẩm, giá trị tác phẩm thuộc các thể loại trong văn học dân gian Stiêng nhằm giúp người đọc có cái nhìn khái quát hơn về diện mạo văn học dân gian Stiêng là một việc làm hết sức cần thiết. Đó cũng chính là mục đích và nhiệm vụ của chúng tôi trong luận văn này. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Như tên đề tài luận văn đã chỉ rõ, đối tượng nghiên cứu của luận văn là Văn học dân gian Stiêng. Sau khi điểm qua tình hình tư liệu sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian Stiêng, chúng tôi tiến hành khảo sát các thể loại trong văn học dân gian Stiêng, từ đó phác thảo diện mạo
  • 14. 9 chung cho văn học dân gian của tộc người Stiêng trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Chúng tôi quan tâm, chú ý nhiều hơn đến thể loại sử thi vì đây là thể loại phản ánh đầy đủ nhất những nét văn hóa độc đáo, đặc trưng của người Stiêng. Phạm vi nghiên cứu: + Luận văn chủ yếu tìm hiểu những nội dung liên quan đến văn học dân gian Stiêng trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Có 5 vùng chủ yếu: Bù Đăng, Lộc Ninh, Chơn Thành, thị xã Phước Long và thị xã Đồng Xoài. Đặc biệt, chúng tôi quan tâm nhiều nhất đến xã Lộc Hòa, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước vì đây là vùng đất “đậm đặc văn hóa Stiêng” nhất cho đến tận ngày nay. + Luận văn chủ yếu khảo sát năm thể loại cơ bản trong văn học dân gian Stiêng: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao-dân ca. Nguồn tư liệu: Nghiên cứu dựa trên nguồn tác phẩm đã được công bố trước đây và nguồn tác phẩm do tác giả luận văn điền dã, sưu tầm. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp điền dã dân tộc học: Với phương pháp này, chúng tôi trực tiếp đi đến những vùng đất đã hoạch định (Bù Đăng, Lộc Ninh, Chơn Thành, thị xã Phước Long và thị xã Đồng Xoài); gặp gỡ và phỏng vấn nhiều đối tượng ở mọi lứa tuổi để nắm bắt thông tin, phục vụ cho đề tài nghiên cứu; gặp gỡ các già làng, các nghệ nhân để tiến hành sưu tầm tác phẩm. Trên cơ sở những tác phẩm đã sưu tầm được, chúng tôi soi chiếu dưới góc độ lí thuyết của thể loại và quá trình diễn xướng của nghệ nhân để xác định thể loại văn học dân gian.
  • 15. 10 Phương pháp này là phương pháp cơ bản. Với phương pháp này, chúng tôi có được cơ sở dữ liệu và những thông tin quan trọng cho việc nghiên cứu đề tài cũng như đảm bảo tính khách quan của đề tài. Phương pháp thống kê, miêu tả: thống kê tất cả tác phẩm chúng tôi được tiếp cận của những người đi trước và những tác phẩm mà chúng tôi đã sưu tầm được thành các số liệu làm căn cứ cho việc đưa ra những kết luận khoa học. Thống kê những chi tiết, tần số xuất hiện các motif, các biện pháp nghệ thuật trong tác phẩm để kết luận những đặc điểm có tính quy luật. Từ đó tiến hành miêu tả kết cấu, nội dung, những mẫu số chung để làm cơ sở kết luận cho đề tài nghiên cứu. Phương pháp loại hình, lịch sử: Sử dụng phương pháp này để thấy được đặc điểm văn hóa tộc người, mối quan hệ giữa văn hóa và văn học dân gian. Qua việc khảo sát văn học dân gian Stiêng, giúp người đọc có được cái nhìn toàn cảnh về bản sắc văn hóa dân tộc Stiêng. Phương pháp phân loại, hệ thống: Phân loại những tác phẩm đã được tiếp cận trực tiếp và những tác phẩm sưu tầm theo tiêu chí đặt ra để giới hạn đối tượng nghiên cứu. Sắp xếp các tác phẩm vào một hệ thống để phân tích, lí giải mối liên hệ giữa các yếu tố để thấy được tính chỉnh thể của vấn đề. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Dựa trên nguồn tài liệu đã được sưu tầm và nguồn tài liệu của chúng tôi trong chuyến đi thực tế, điền dã, chúng tôi tiến hành phân tích, tìm hiểu từng thể loại cụ thể (thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao-dân ca) ở cả hai mặt nội dung và nghệ thuật, từ đó đưa ra những kết luận có tính khái quát về văn học dân gian Stiêng. 5. Đóng góp của luận văn Luận văn có những đóng góp sau: - Bước đầu giúp người đọc có cái nhìn khái quát về văn học dân gian Stiêng, những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian Stiêng cũng như vai trò,
  • 16. 11 ý nghĩa, thực trạng của văn học dân gian Stiêng hiện nay trên địa bàn tỉnh Bình Phước. - Bổ sung nguồn tư liệu cho việc nghiên cứu văn học dân gian Stiêng cũng như nghiên cứu những lĩnh vực khác về tộc người Stiêng như văn hóa, lịch sử… 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Nội dung luận văn được triển khai trong ba chương: Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI STIÊNG Gồm 25 trang. Nội dung của chương này là cái nhìn tổng quan về tộc người Stiêng: tên gọi, lịch sử tộc người, sự phân bố dân cư, hoạt động kinh tế, tổ chức xã hội, đặc điểm văn hóa và tình hình tư liệu sưu tầm, nghiên cứu về văn học dân gian Stiêng. Chương 2: THẦN THOẠI, TRUYỀN THUYẾT, TRUYỆN CỔ TÍCH STIÊNG Gồm 30 trang. Nội dung của chương này là thống kê số lượng bản kể, xác định các đặc điểm về nội dung, nghệ thuật của thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích Stiêng… Chương 3: CA DAO-DÂN CA, SỬ THI STIÊNG Gồm 50 trang. Nội dung của chương này là tìm hiểu hai thể loại ca dao- dân ca và sử thi Stiêng về các mặt: số lượng bản kể, đặc điểm nội dung, đặc điểm nghệ thuật, đặc biệt là thể loại sử thi. Qua quá trình phân tích sẽ làm rõ nhận định: “Sử thi Stiêng được coi là thể loại rõ nét nhất phản ánh bản sắc văn hóa dân tộc Stiêng”. Ngoài ra, luận văn còn có phần phụ lục được in thành một tập riêng. Nội dung phụ lục là những thông tin chúng tôi nắm bắt được trong chuyến đi thực tế, điền dã. Chúng tôi tiến hành thực hiện phụ lục đính kèm luận văn nhằm
  • 17. 12 giúp người đọc có cái nhìn khái quát hơn về văn học dân gian Stiêng nói riêng, vùng đất và con người Stiêng nói chung mà trong giới hạn nội dung luận văn chúng tôi chưa có dịp giới thiệu.
  • 18. 13 Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI STIÊNG 1.1. Lịch sử tộc người Stiêng Tên gọi Trong bảng danh mục các dân tộc Việt Nam (Ban hành theo quyết định số 121 – TCTK/PPCĐ ngày 02 tháng 3 năm 1979) của Tổng cục thống kê, số thứ tự 22 có ghi dân tộc Xtiêng. Ngoài ra còn có một số cách gọi và cách viết khác như: Satiêng, Sađiêng, Xađiêng, XaChiêng, XaTiêng, Xêdiêng…Trong thời Pháp thuộc, danh từ dùng để chỉ các tộc người thiểu số ở vùng cao là “mọi”, “man”, trong đó có người Stiêng. Trong luận văn này, chúng tôi thống nhất cách viết và gọi tên “Stiêng”. Chúng tôi đi thực tế điền dã và hỏi người Stiêng về tên gọi của dân tộc mình. Phần lớn họ đồng ý với cách gọi tên và phiên âm như trên. Đây cũng là cách dùng phổ biến của một số nhà nghiên cứu trong thời gian gần đây. “Theo tiếng Stiêng và cách phát âm gốc thì phải viết là Sdiêng. Do chữ D trong tiếng Stiêng rất khó phát âm, không đọc như chữ D, Đ trong tiếng Việt, người Stiêng thường đọc chữ D như cách phát âm trong tiếng Anh, dần dần họ viết và đọc hẳn như chữ Đ trong tiếng Việt nên những người làm nghiên cứu và ghi chép về người Stiêng đã biến đổi tên từ Sdiêng thành Stiêng” [64, 7]. Người Stiêng có nhiều nhóm địa phương. Một số tài liệu cho rằng, có bốn nhóm là: Bù Đíp, Bù Lách, Bù Dek, Bù Lơ. Một vài tài liệu khác cũng ghi nhận có bốn nhóm địa phương Stiêng là: Bù Dih – Vu Dih (vùng thấp), Bù Lơ – Vu Lơ (vùng cao), Bù Biêt – Vu Viêt (nhóm ảnh hưởng người Mnông, số đầu người sông Đak Quit và tại tỉnh MunĐunKiRi) và Bù Las – Vu Las (nhóm sống ở khu vực trảng). Hiện nay, người Stiêng chủ yếu còn tồn
  • 19. 14 tại hai nhóm chính là Bù Lơ và Bù Dek. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước từ trước đến nay đều thống nhất xếp ngôn ngữ Stiêng vào họ Nam Á, nhóm Môn – Khmer. Trong quá khứ cũng như hiện tại, người Stiêng có những quan hệ về nguồn gốc, lịch sử phát triển tộc người, có mối giao lưu văn hóa với các dân tộc ít người ở Tây Nguyên như Mnông, Mạ, Kơho, Khmer… Lịch sử tộc người Những tài liệu khảo cổ học, nhân chủng học ở miền Đông Nam bộ, đặc biệt là ở tỉnh Bình Phước còn quá ít để có thể giúp chúng ta hiểu thấu đáo về lịch sử, nguồn gốc tộc người Stiêng thời cổ đại. Những di tích, di chỉ tìm được ở Dốc Chùa (Tân Uyên, Bình Dương), thành Cổ Tròn (Bình Long, Bình Phước), bộ đàn đá (Lộc Ninh, Bình Phước) là những phát hiện quan trọng. Tuy nhiên, những phát hiện ấy chưa là căn cứ chính xác để khẳng định rằng người Stiêng là chủ nhân của các nền văn hóa cổ xưa ấy. Những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, một số nhà nghiên cứu người Pháp như Taber (1838), Azémar (1887), Barthélémy (1904), Raulin (1936)…đã nghiên cứu và cho ra đời một số tác phẩm về người Stiêng ở Bình Phước. Qua những tài liệu khảo cổ học, nhân chủng học, dân tộc học của các tác giả nêu trên, chúng ta có thể hình dung về địa bàn sinh sống của người Stiêng như sau: từ thời kì Đá mới đến thời kì Đồ đồng ở miền Nam Đông Dương, trong đó có vùng đất Bình Phước ngày nay là địa bàn sinh sống của người Stiêng (nhóm Indônêdiêng) cổ đại, ngôn ngữ nhóm Môn – Khmer. Đây là vùng đất của tổ tiên người Stiêng và một số dân tộc khác như Mạ, Mnông và nhiều dân tộc khác ở Tây Nguyên [1, 10-13]. Từ khoảng thế kỉ II đến thế kỉ III, tộc người Stiêng phát triển mạnh, khu vực cư trú ngày càng được mở rộng ở vùng Nam Tây Nguyên và Đông Nam bộ. Sau thế kỉ X, người Stiêng đã trở thành một tộc người hùng mạnh. Một số
  • 20. 15 tài liệu đã nhắc đến một “Vương quốc Stiêng”, “Vương quốc Mạ”…cho thấy sự phát triển hùng mạnh của các tộc người ở đây nhưng có lẽ đó chưa phải là một quốc gia theo đầy đủ ý nghĩa của nó [1, 48-49]. Theo những phần ghi chép trong sách địa lí, lịch sử thời Nguyễn và một vài công trình khảo sát của người Pháp ghi lại thì vùng cư trú của người Stiêng trước thế kỉ XIX khá rộng lớn, chiếm gần hết tỉnh Bình Phước, lan sang một phần tỉnh Tây Ninh hiện nay. Đây cũng là khu vực tranh chấp giữa người Chăm và người Khmer trong nhiều thế kỉ. Về sau, một số nhóm người Khmer từ phía Tây và Tây Bắc đã chuyển cư vào vùng phía Tây tỉnh Bình Phước, đẩy lùi và thu hẹp địa bàn cư trú của người Stiêng. Một vài nhóm người Chăm trong cuộc tranh chấp với người Khmer cũng trụ lại phía Tây Nam, vùng giữa sông Sài Gòn và sông Bé, góp phần làm thu hẹp địa bàn cư trú của người Stiêng lui về phía Bắc. Đến cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, sự hiện diện của người Việt trong cuộc Nam tiến đã nhanh chóng đẩy người Stiêng rút khỏi các vùng cư trú dọc các chi lưu sông Sài Gòn và sông Bé, sông Đồng Nai. Vào khoảng những năm 20 – 30 của thế kỉ XX, công cuộc bình định và thành lập các đồn điền cao su của thực dân Pháp đã xua đuổi người Stiêng rời khỏi vùng đất đỏ phía Tây Bắc Thủ Dầu Một vào các thung lũng đất xám. Người Stiêng vốn là một nhóm người từ phía Bắc, di chuyển xuống phía Nam bán đảo Đông Dương, cùng thời với những đợt chuyển cư lớn ở Đông Nam Á lục địa. Người Stiêng có thể đã định cư ở miền Nam Tây Nguyên từ những thế kỉ trước công nguyên. Họ đã nhanh chóng thích ứng với điều kiện địa lí tự nhiên khu vực rừng mưa nhiệt đới Nam Tây Nguyên, đặc biệt là những cánh rừng mưa nhiệt đới ở vùng Phước Long và rừng savan, nơi thềm dốc của cao nguyên đổ xuống vùng Đông Nam bộ hiện nay. Trong quá trình làm quen với vùng đất mới, hẳn đã diễn ra sự tiếp xúc với các tộc người láng
  • 21. 16 giềng, người Stiêng đã tiếp thu, học hỏi và xây dựng cho mình một diện mạo kinh tế - văn hóa - xã hội khá đặc sắc. Theo số liệu của Ban Dân tộc tỉnh Bình Phước, tính đến ngày 01/01/2011, dân số người Stiêng ở tỉnh là 80.726 người. Stiêng Bù Lơ là nhóm người Stiêng sinh sống ở vùng núi cao, tập trung cư trú ở một số xã: Đăk Ơ, Đăk Nhau, Thọ Sơn, Thống Nhất của các huyện Bù Đăng, Đồng Phú và thị xã Phước Long. Stiêng Bù Dek ở vùng đất thấp, sống ở nhà sàn, biết sử dụng trâu bò kéo cày làm ruộng nước, tập trung ở thị xã Bình Long, Bù Đốp, Lộc Ninh, Chơn Thành. Đồng bào dân tộc cư trú khắp các huyện trong tỉnh nhưng đông nhất là các huyện Bù Gia Mập2 , Hớn Quản3 , Bù Đăng, Lộc Ninh, thị xã Bình Long. Như vậy, có thể nói rằng, Bình Phước là địa bàn cư trú chủ yếu của người Stiêng, là “trung tâm” của văn hóa Stiêng ở Việt Nam, là vùng đất lưu giữ vốn văn học dân gian Stiêng đậm đà bản sắc dân tộc. 1.2. Hoạt động kinh tế Canh tác nương rẫy, lúa nước Kinh tế nương rẫy là loại hình kinh tế truyền thống chủ yếu của người Stiêng. Sống trong điều kiện tự nhiên khá thuận lợi: đất đai màu mỡ, khí hậu nhiệt đới gió mùa, người Stiêng từ lâu đã biết đến việc canh tác lúa rẫy cũng như đã tích lũy cho mình khá nhiều kinh nghiệm gieo trồng. Người Stiêng Bù Lơ và Bù Dek hiện nay vẫn duy trì việc canh tác lúa rẫy. Riêng người Stiêng Bù Dek đã biết đến kĩ thuật canh tác lúa nước. Người Stiêng gọi rẫy là mir. Để chọn đất làm rẫy, từ tháng mười hai âm lịch, họ đã bắt đầu đi rừng để tìm đất, ra dấu, khoanh vùng. Việc chọn rẫy sẽ 2 Huyện mới của tỉnh Bình Phước, được tách ra từ huyện Phước Long 3 Huyện mới của tỉnh Bình Phước, được tách ra từ huyện Bình Long
  • 22. 17 do người đứng đầu trong làng (tom poh) bàn bạc với những người đứng đầu trong gia đình, dòng họ (mpoh) và phụ thuộc rất nhiều vào sự đồng ý hay không đồng ý của thần linh. Ngay đêm đầu tiên nằm ngủ trên mảnh đất sẽ chọn làm rẫy, nếu người Stiêng mơ thấy cây có trái, lúa có bông, có nhiều ong bay lượn…thì đó là điềm lành, báo hiệu sự đồng ý của thần linh, cho phép họ phát rẫy, dọn rẫy và canh tác tại mảnh đất này. Nếu họ mơ thấy lũ lụt, giông bão, trâu bò chết, trăn chết thì đó là điềm gở, báo hiệu sự phản đối của thần linh. Dù mảnh đất ấy có màu mỡ, có vị trí tốt đến cỡ nào thì họ cũng có thể bỏ đi. Bởi theo người Stiêng, nếu bất chấp sự phản đối của thần linh thì họ chỉ chuốc lấy tai họa mà thôi. Ngay cả khi rẫy đã phát xong, đốt xong, nếu thấy con trăn chết trên rẫy thì họ cũng không làm vì họ cho rằng con trăn chết chính là điềm báo sẽ có xác người. Khi rẫy đã đốt và dọn xong (tháng ba âm lịch), đồng bào tiến hành tỉa bắp, lúa ngắn ngày, trồng cà, bầu, bí, mướp…để lấy ngắn nuôi dài. Đến tháng tư (âm lịch), đồng bào mới trồng những giống lúa dài ngày khác. Một đám rẫy, đồng bào có thể trồng nhiều giống lúa và hoa màu khác nhau. Sau khi thu hoạch, họ không để lúa trên rẫy mà đem về nhà. Ở vùng Stiêng Bù Lơ, họ làm sạch và cất lúa trong các bồ đựng thóc ngay trên giàn bếp. Ở vùng Stiêng Bù Dek, họ cất lúa trong những kho nhỏ ở gần nhà ở. Sau khi thu hoạch, họ nghỉ ngơi và tổ chức lễ hội “Lúa mới”. Kĩ thuật canh tác nương rẫy đơn giản, theo phương pháp “phát, đốt, chọc, trỉa” truyền thống. Ở vùng Stiêng Bù Dek, người Stiêng đã biết sử dụng các công cụ hiện đại trong việc canh tác lúa nước, sử dụng hệ thống thủy lợi và đưa vào gieo trồng các giống lúa mới cho năng suất cao, làm cho đời sống của đồng bào nơi đây được cải thiện. Săn bắt và hái lượm
  • 23. 18 Sống trong khu vực địa lí có nhiều thuận lợi nên hoạt động săn bắt và hái lượm của người Stiêng rất phát triển. Hoạt động này chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế của người Stiêng. “Hoạt động săn bắt của người Stiêng đạt đến đỉnh cao với việc chế tác các loại nỏ, mang cung4 , bẫy lớn nhỏ và các phương tiện săn bắt cá nhân, tập thể” [1, 89]. Việc săn bắt các loài thú lớn trong một thời gian dài đã chiếm ưu thế trong sinh hoạt kinh tế của người Stiêng. Trong ghi chép của các giáo sĩ phương Tây, đặc biệt là của H.Azémar, cảnh săn bắt thú rừng của người Stiêng hiện lên khá rõ nét với sự dũng cảm, thông minh của con người, với những kĩ thuật săn bắt đa dạng, độc đáo. Kĩ thuật săn bắt của người Stiêng không thua kém gì kĩ thuật săn bắt của những người anh em láng giềng trong khu vực Tây Nguyên [1, 89-92]. Tên ná là vũ khí săn bắt chủ yếu của người Stiêng. Trong quá trình săn bắt, người Stiêng đã biết dùng các loại thuốc độc chế tạo bằng các nhựa cây rừng. Những loại thuốc độc này là bí mật gia truyền trong các gia đình dòng họ Stiêng. Người Stiêng thường hay tổ chức những cuộc đi săn tập thể của toàn poh. Đó thực sự là những ngày hội đối với họ. Hoạt động săn bắt ngoài niềm vui giải trí còn mang lại nguồn thực phẩm dự trữ lâu dài và góp phần bảo vệ mùa màng, nương rẫy. Khu vực cư trú của người Stiêng thường ở gần những con sông, suối lớn. Đây là điều kiện thuận lợi để họ phát triển nghề đánh bắt cá. Có hai dịp đánh bắt cá trong năm đó là vào mùa mưa, khi nước dâng ngập sông suối và các vùng đất trũng, người Stiêng bắt đầu tổ chức đánh bắt cá. Dịp khác là vào 4 Mang cung là tên gọi một loại bẫy săn bắt thú của người Stiêng
  • 24. 19 cuối mùa khô, khi nước đã cạn dần, họ đưa cả gia đình ra gần bờ sông, suối, che tạm nơi trú ẩn và cả gia đình cùng đánh bắt cá. Người Stiêng rất có ý thức trong việc bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Khi săn bắt cũng như khi đánh cá, họ tránh vào mùa các con vật sinh sản, tránh bắt các con vật nhỏ, không phá tổ, hang hốc của chúng. Ngoài hoạt động săn bắt, hoạt động hái lượm cũng là hoạt động kinh tế giữ vị trí khá quan trọng trong đời sống của người Stiêng. Người phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động hái lượm của người Stiêng. Chỉ cần một chiếc gùi, một cái chà gạc, đi vào rừng một lúc là người phụ nữ Stiêng có thể mang về một bữa ăn đạm bạc cho cả gia đình gồm: lá nhíp, rau tàu bay, nấm, củ mài, củ chụp, măng lồ ô, chuột rừng… Các nghề thủ công truyền thống Nghề rèn Sử thi Stiêng còn lưu giữ những đoạn miêu tả các công đoạn, kĩ thuật rèn gươm, dao, công cụ chặt đẽo của các nghệ nhân, các vị tổ sư người Stiêng. Nghề rèn của người Stiêng nổi tiếng một thời trong khu vực Nam Tây Nguyên với những công cụ, vật dụng, vũ khí tinh xảo. Những vũ khí, công cụ của người Stiêng và phần lớn các dân tộc ở Tây Nguyên đều giống nhau, song có sự khác nhau về loại hình. Chỉ ở người Stiêng mới có những chiếc chà gạc wir cổ sơ theo tập quán tháp buộc bằng dây và những chiếc chà gạc wir to lớn về hình thù được lắp ráp theo kiểu đóng vòng thông qua nghệ thuật rèn. Đó là một dạng đặc biệt mà ít có dân tộc nào có được. Một dụng cụ khác rất tiêu biểu cho đặc trưng của người Stiêng đó là con dao tay có lưỡi nhọn theo hình trăng lưỡi liềm (peh). Con dao này là dụng cụ vạn năng đối với đời sống đồng bào và được tôi luyện rất sắc. Con dao này cũng thường gặp ở một số dân tộc khác với những dạng phát triển hơn nhưng khả năng vạn năng lại không bằng con dao của đồng bào Stiêng. Peh được dùng để vót tên độc trong các cuộc đi
  • 25. 20 săn, làm bẫy diệt thú, vót nan, đan lát, điêu khắc trang trí trên gỗ và tre, mổ thịt gia súc, làm cá, làm bù tọc, nhái, ếch phơi khô…Những công cụ sản xuất nêu trên đều bắt nguồn từ kĩ thuật rèn và nghề rèn nổi tiếng của người Stiêng. “Nghề rèn của người Stiêng còn giữ được những nét đặc trưng về tộc người rất rõ nét” [18, 27]. Nghề dệt vải Nghề dệt vải cũng là một trong những nghề thủ công truyền thống của đồng bào Stiêng. Phụ nữ người Stiêng ngay lúc còn ở với cha mẹ đã được bà, được mẹ dạy cho cách quay tơ, dệt vải để khi về nhà chồng, biết trồng bông dệt vải, biết đan khố, đan chăn cho chồng con hoặc mang đi trao đổi. Vì vậy, nghề dệt ở người Stiêng tồn tại theo hình thức gia truyền. Sản phẩm dệt của người Stiêng có nhiều nét gần gũi với các dân tộc khác ở Tây Nguyên. Các loại hoa văn trang trí chủ yếu dùng các màu trắng, đen, đỏ, vàng. Người Stiêng chủ yếu dùng hai gam màu chính là trắng và đen. Họ đặc biệt chú ý đến các đường viền hoa văn quanh tấm vải, tạo nên vẻ độc đáo và đẹp mắt. Trước đây, người Stiêng tự trồng bông vải trên rẫy chen với các loại hoa màu hoặc ngay trong khu vực đất đai quanh nhà ở để có nguồn nguyên liệu dệt. Ngày nay, việc trồng bông vải không còn được phổ biến. Để có nguyên liệu, họ phải mua sợi từ những vùng khác nhau. Nghề dệt đến nay vẫn còn phổ biến trong đồng bào Stiêng. 1.3. Tổ chức xã hội truyền thống Hệ thống xã hội tộc người Stiêng có nhiều nét tương đồng với các tộc người khác ở Tây Nguyên. Dạng tập hợp người tồn tại phổ biến trong xã hội người Stiêng gồm có dạng tập hợp người theo khu vực cư trú (poh), dạng tập hợp người dựa trên quan hệ gia đình (yau và nak) và dạng tập hợp người theo quan hệ dòng họ (găp mpol).
  • 26. 21 Poh Người Stiêng gọi đơn vị cư trú của mình là poh, bon hoặc wang tùy theo vùng. So với một vài dân tộc ở Tây Nguyên, đơn vị cư trú poh của người Stiêng có quy mô nhỏ hơn. Các poh của người Stiêng phân bố rải rác theo các dòng suối nhỏ. Mỗi poh có khoảng trên dưới năm ngôi nhà dài. Ở vùng Stiêng Bù Dek, đơn vị cư trú thường gọi là wang, có khi gọi là sóc, đó là những poh Stiêng gần với người Khmer. Poh của người Stiêng được gọi tên bắt đầu phần lớn là từ bù và từ đak. Từ bù có nhiều ý nghĩa khác nhau. Theo nghĩa hẹp chỉ họ, người ta. Theo nghĩa rộng chỉ cộng đồng trong một khu vực nhất định nào đó (Bù Gia Mập, Bù Nho, Bù Môn, Bù Lố, Bù Du, Bù Nga, Bù Na, Bù Đăng, Bù Đốp, Bù Nó…). Từ đak, tiếng gốc là dac, nghĩa là nước (Đak Ơ, Đak Nhau, Đak Ur…). Cách gọi tên đơn vị cư trú của người Stiêng như vậy cũng có nhiều nét tương tự như các dân tộc Mnông, Mạ…là những anh em láng giềng thuộc ngữ hệ Môn – Khmer. Ở mỗi poh, thường có người đứng đầu, gọi là tom poh (tom có nghĩa là cây, được hiểu là trụ, gốc). Người đứng đầu poh là người chuyên lo điều hành, giải quyết các công việc nội bộ của poh. Bu kuông (hay còn gọi là m’ranh) là những người già có uy tín lớn, hiểu biết sâu sắc vốn văn hóa, tập quán của cộng đồng mình và lo việc cố vấn cho các tom poh để nhằm duy trì trật tự, giữ gìn các tập tục truyền thống, văn hóa của làng. Mê prak là thầy bói, thầy cúng. Theo quan niệm của người Stiêng, mê prak là người có khả năng giao tiếp được với thần linh, có khả năng chữa bệnh cho mọi người trong poh và là người tiến hành các nghi thức cúng tế thần linh. Yau và nak Trong quan hệ gia đình, do đặc điểm riêng về hôn nhân nên cấu trúc gia đình của hai nhóm cũng có những khác biệt nhất định. Ở gia đình Stiêng Bù
  • 27. 22 Lơ là gia đình lớn phụ hệ do người đàn ông nắm quyền quản lý các nak của mình và người phụ nữ chỉ là nhân tố phụ chịu trách nhiệm dạy dỗ con cái. Còn trong đại gia đình người Stiêng Bù Dek lại tính theo huyết thống về phía người đàn bà nên trong gia đình vai trò của người đàn bà rất quan trọng. Họ chịu trách nhiệm quản lý về dòng họ và sinh hoạt gia đình, còn người đàn ông giữ một vai trò nhất định trong hoạt động sản xuất, kinh tế của gia đình. Yau, tiếng Stiêng có nghĩa là nhà. Tập quán ở nhà dài của người Stiêng thực chất là mô hình gia đình nhiều thế hệ. Với mô hình này, cha mẹ muốn quản lí con cái của mình thật chặt chẽ cũng như muốn chứng minh với làng về vị thế của mình, về sự đoàn kết trong gia đình. Mỗi yau của người Stiêng bao gồm từ 3 đến 5 nak (bếp). Mỗi nak được coi như một hộ gia đình, gồm vợ chồng và con cái chưa trưởng thành. Trong một yau thì các nak được đánh dấu bằng số bếp dùng đun nấu. Phía trên dàn bếp là vựa thóc của riêng nak đó. Giới hạn của các nak trong yau được đánh dấu một cách tương đối, không có phên che hay vách ngăn. Phía trên đầu nằm của các gian ngủ thường để chiêng, ché, các tài sản quý của nak đó. Mối quan hệ giữa các nak với nhau trong cùng một yau mang tính chất huyết thống được tính về phía người đàn bà. Thông thường mỗi yau bao gồm một nak của cha mẹ và các nak của con gái sống cùng chàng rể. Một vài yau còn có thể thêm một người bà con xa hay người từ nơi khác đến và đã được xem như người nhà. Nak của những người này thường ở phía cuối nhà. Để chỉ người chủ nhà dài, người Stiêng gọi là tom yau, nhưng từ này không thông dụng lắm. Khái niệm “chủ nhà” của người Stiêng chỉ có một ý nghĩa tương đối. Tom yau chỉ là người đứng ra giao tiếp với bên ngoài theo tính chất lễ nghi, còn trách nhiệm quản lí yau hầu như không có vị trí mấy, vì các nak mang tính độc lập khá rõ. Trường hợp quyết định những công việc chung của các yau, các nak thỏa thuận thống nhất ý kiến. Cùng với việc khẳng
  • 28. 23 định ngày càng vững chắc cơ sở kinh tế độc lập của các nak thì vai trò tom yau ngày càng mờ nhạt. Găp mpol Người Stiêng phân biệt rất rõ trong quan hệ dòng họ của mình. Họ gọi quan hệ này là găp mpol. Bên trong găp mpol được chia làm hai phần là mput và mpang. Mput là dòng họ tính từ ông bà, cha mẹ, con cháu và mpang là bà con tính theo hàng ngang cùng thế hệ như anh em, chị em. Quan hệ họ hàng của người Stiêng còn được mở rộng bởi những quan hệ hôn nhân như put sai, pang sai, có nghĩa là họ hàng phía bên vợ. Như vậy, mỗi cá nhân Stiêng là thành viên của hai găp mpol có quan hệ hôn nhân với nhau. Cũng chính vì mối quan hệ được mở rộng như trên nên những dòng họ Stiêng được phân bố trên địa bàn khá rộng. Nam giới Stiêng thường mang họ Điểu. Họ Điểu xuất hiện vào khoảng cuối thế kỉ XIX do triều đình nhà Nguyễn và thực dân Pháp đặt ra nhằm kiểm soát địa bàn cư trú của người Stiêng. Còn nữ giới Stiêng mang họ Thị, một số ít khác mang họ Đrâu. Những người già bu kuông (m’ranh) và cả chủ nhà tom yau có nhiệm vụ duy trì mối quan hệ dòng họ. Mỗi dòng họ của người Stiêng có thể có địa bàn cư trú riêng, hoặc xen kẽ với các dòng họ khác nên việc xác định mối quan hệ dòng họ rất khó khăn và phức tạp. Trách nhiệm của các thành viên trong một găp mpol là phải bảo vệ sự tồn tại và phát triển của dòng họ mình, đặc biệt là bảo vệ danh dự, bảo vệ sự trong sạch của dòng họ. Nếu người ngoài dòng họ phát hiện người trong găp mpol của mình có ma lai (chă)5 thì dòng họ đó bắt 5 Ma lai (chă): là những người ban đêm biến thành ma quỷ đi hút máu làm người khác ốm đau, chết chóc. Đồng bào có nhiều cách thử như đổ chì vào lòng bàn tay, hoặc lặn nước... Người bị nghi là ma lai sẽ bị dân làng đưa vào rừng thủ tiêu bằng cách chặt đầu hoặc chôn sống, vợ và con sẽ bán đi nơi xa làm tôi tớ.
  • 29. 24 buộc phải tự xử lý đối với người có ma lai. Trường hợp loạn luân (đoăng ih) cũng vậy, nội bộ dòng họ phải tự giải quyết và xử lí công khai trước các dòng họ khác. Vào những ngày lễ hội cúng lúa mới, các dòng họ thường tổ chức những cuộc vui kéo dài. Đây chính là dịp tốt để mọi người nhận mặt họ hàng và để thắt chặt tình đoàn kết trong một găp mpol. 1.4. Đặc điểm văn hóa tộc người Stiêng Văn hóa vật chất Ăn Nguồn lương thực chính của người Stiêng là gạo và bắp. Thức ăn hàng ngày của họ là các loại cá, thịt rừng, rau rừng (đọt mây, lá nhíp, măng rừng). Người Stiêng thích ăn rau nhíp, một loại cây rừng lá mỏng rất ngấm mỡ thường được nấu canh và ăn với mì tôm. Mỗi khi thịt trâu, bò hay đi săn về được con thú lớn, ăn không hết, đồng bào để dành một ít treo trên gác bếp, khi cần tiếp khách hay khi thiếu đồ ăn thì mang ra chế biến. Riêng muối và cá khô được dùng chủ yếu trong mùa mưa. Thức ăn được chế biến đơn giản: luộc, nướng và kho. Chủ yếu là nướng. Người Stiêng vùng Lộc Ninh rất thích ăn thịt heo rừng nướng chấm muối ớt. Món ăn đặc sắc nhất của người Stiêng là món canh thụt, cơm lam. Canh thụt là món ăn được chế biến từ nhiều loại rau rừng như đọt chuối, lá nhíp. Các loại rau này được vò nát rồi cho vào một ống lồ ô, đôi khi có cả cá, thịt rừng, ếch nhái, và thêm một ít muối trắng. Bữa cơm có canh thụt, cơm lam, có thêm dĩa thịt heo rừng nướng chấm muối ớt là biểu hiện sự mến khách của người Stiêng. Người Stiêng, đặc biệt là phụ nữ, có tục kiêng ăn thịt khỉ. Những người già cho rằng, khỉ là loài vật đã dạy cho người Stiêng biết cách sinh đẻ. Từ đó, họ kiêng ăn thịt khỉ như một cách để trả ơn cho loài vật này.
  • 30. 25 Khi lên rẫy, đồng bào Stiêng thường bỏ thức ăn vào trong quả bầu đắng. Ngoài đựng thức ăn, quả bầu đắng còn dùng để đựng nước, đựng rượu cần. Quả bầu đắng là vật không thể thiếu trong đời sống của người Stiêng. Có thể nói rằng, quả bầu đắng chính là một trong những nét văn hóa độc đáo của người Stiêng. Cũng như nhiều dân tộc khác ở Tây Nguyên, người Stiêng có tục uống rượu cần vào những dịp quan trọng, trong lễ tết, hội hè, đình đám… Hút thuốc lá cũng khá phổ biến trong người Stiêng. Đàn ông, đàn bà và cả trẻ em đều thích hút thuốc lá. Họ có thể hút cả ngày. Đặc biệt, người Stiêng thích hút loại thuốc lá do chính tay họ trồng. Khi hút, họ thường quấn thuốc bằng lá rừng, lá chuối hoặc vỏ bắp khô theo kiểu sâu kèn. Mặc Trang phục của người Stiêng khá giản dị, thuận tiện cho sinh hoạt và lao động. Đàn ông đóng khố, ở trần. Đàn bà mặc váy ngắn đến bắp chân, mặc áo chui đầu. Ở một số nơi gần khu vực người Khmer sinh sống, phụ nữ Stiêng thường quấn váy của người Khmer. Dù vậy, khi đi vào những vùng người Stiêng sinh sống, ta vẫn bắt gặp những người già (phụ nữ) cao tuổi ở trần, cổ đeo nhiều chuỗi vòng hạt cườm nhiều màu, dái tai căng rộng bởi đôi hoa tai ngà voi. Họ cũng là lớp người cuối cùng có những chiếc răng cửa hàm trên bị cắt cụt do tục cà răng. Cách đóng khố của người Stiêng tạo nên hình chữ T và múi khố bỏ về đằng trước. Các trang trí trên khố thường nằm ở hai đầu khố với những búp tua màu sắc sặc sỡ, còn trang trí trên váy thường nằm ở thân, gấu váy và sử dụng các gam màu nguyên như đỏ, trắng trên nền vải đen. Trang sức của người đàn ông và đàn bà Stiêng thường tập trung vào mái tóc. Tóc để dài được búi thành búi nhỏ sau gáy, cài lược sắt hoặc giắt các loại
  • 31. 26 lông chim có màu sắc sặc sỡ. Trên vai người đàn ông còn mắc thêm một chiếc chà gạc hoặc giắt hông một chiếc dao peh. Người già, người trẻ, nam hay nữ đều thích đeo các loại vòng. Chủ yếu là các vòng tay bằng đồng và các chuỗi cườm nhiều màu sắc. Tục cà răng căng tai, xăm mình, xăm mặt chỉ còn thấy ở một số người già. Ngày nay, lớp trẻ Stiêng đã bắt đầu ăn mặc giống người Kinh. Họ chỉ đóng khố, mặc váy vào những dịp lễ tết, hội hè… Ở Ngôi nhà dài truyền thống trở thành nét văn hóa đặc sắc của người Stiêng. Tuy nhiên cấu trúc ngôi nhà có sự khác nhau giữa hai vùng Stiêng Bù Lơ và Bù Dek. Người Stiêng Bù Lơ ở miền cao sinh sống trong những ngôi nhà dài nền đất, mái tranh, vách bằng tre nứa. Nhà dài của người Stiêng thường dài khoảng 25-30m, mái thấp gần chạm đất và có hai cửa ra vào ở hai đầu nhà. Một số nhà dài ở vùng Đắk Ơ có đặc điểm 4 góc nhà lượn tròn chứ không vuông như nhà bình thường. Theo tìm hiểu của chúng tôi, hiện nay toàn tỉnh Bình Phước chỉ còn lại duy nhất một ngôi nhà dài của gia đình ông Điểu Đố, ở số 27, sóc Bù Môn, xã Đoàn Kết, thị trấn Đức Phong, huyện Bù Đăng. Chủ nhà cho biết ngôi nhà này được làm cách đây hơn 60 năm và hiện là ngôi nhà dài duy nhất còn lại ở tỉnh Bình Phước cho đến tận ngày nay. Người Stiêng Bù Dek cũng sống trong những ngôi nhà dài nhưng là nhà sàn dài. Nhà sàn Stiêng Bù Dek có hai dạng: loại nhà sàn dài và nhà sàn ngắn, bé cho từng hộ gia đình. Ở Bình Long còn một số nhà sàn cổ theo truyền thống Stiêng: cột lớn, vách nhà nghiêng loe ra ở phía trên. Do quá trình cư trú gần người Khmer nên ngôi nhà sàn dài của nhóm này chịu ảnh hưởng ít nhiều
  • 32. 27 về kiến trúc ngôi nhà của người Khmer như có sàn cao, có cầu thang lên xuống. Văn hóa tinh thần Tập quán, tín ngưỡng Người Stiêng quan niệm “vạn vật hữu linh”, rằng bất cứ vật gì cũng có hồn từ con người đến con vật, từ đồ vật trong nhà đến cây cối, rừng, núi, sông, suối, do đó họ thờ đa thần: Thần Mặt Trời, Thần Mặt Trăng, Thần Gió, Thần Mưa, Thần Sấm, Thần Sét, Thần Núi, Thần Sông, Thần Thác Nước.... Nhưng quan trọng đối với người Stiêng là vị Thần Yang Liêng, người đã khai sáng ra vùng đất của người Stiêng hiện nay. Bên cạnh đó là các vị thần được tôn thờ như Thần Núi Yang Yumbra (cư ngụ trên đỉnh núi Bà Rá), Thần Thác Liêng Hur, người chiến thắng các Thần Thác Nước khác trong vùng. Họ luôn kính cẩn lễ cúng thần linh bất cứ trong trường hợp nào, tin rằng thần linh lúc nào cũng ở bên họ, vừa giúp đỡ, chở che, vừa trừng phạt khi họ trái ý thần linh. Khi cúng bái, họ không cầu khấn riêng một vị thần nào, họ gọi tên rất nhiều vị thần mà họ có thể nhớ để được sự giúp đỡ. Mọi hoạt động của người Stiêng đều chịu sự chi phối bởi nhiều phong tục và kiêng kị. Sinh đẻ, hôn nhân, tang ma đối với họ là những việc rất hệ trọng: Sinh đẻ: Phụ nữ kiêng cữ cẩn thận ngay từ thời kỳ mang thai. Xưa kia, người phụ nữ khi sinh đẻ thường phải tự xoay xở một mình ngoài rừng. Người Stiêng cho rằng nếu sinh đẻ ở nhà sẽ xúc phạm đến “Thần Lúa”. Ngày nay, người phụ nữ được sinh đẻ ngay trong nhà của mình, nhưng khi sinh đẻ xong cũng phải cúng một con lợn cho Thần Lúa. Cưới xin: Người Stiêng quan niệm hôn nhân là một sự kiện trọng đại trong cuộc đời và là việc chung của dòng họ. Tuy cùng chung những nghi thức hôn nhân giống nhau nhưng nhóm Stiêng Bù Lơ theo chế độ phụ hệ nên
  • 33. 28 quyền chủ động ở người nhà trai, còn nhóm Stiêng Bù Dek theo chế độ mẫu hệ nên hôn nhân do nhà gái đảm nhiệm. Vì theo chế độ mẫu hệ nên ở nhóm Stiêng Bù Dek, người phụ nữ có vai trò rất lớn trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Một trong những quyền đó là quyền được cưới chồng và con cái mang họ mẹ. Trước đây, độ tuổi kết hôn của nam và nữ người Stiêng là từ 15 đến 17 tuổi. Điều kiện kết hôn là cả nam và nữ đều phải trải qua lễ thành đinh bằng việc hoàn thành lễ cà răng, căng tai. Khi đến tuổi trưởng thành, các cô gái Stiêng Bù Dek nếu thích chàng trai nào đó sẽ bắt chuyện làm quen. Nội hôn là đặc điểm nổi bật trong hôn nhân dân tộc Stiêng ở Bình Phước. Họ thích kết hôn với người đồng tộc và khó chấp nhận người xa lạ vì cho rằng những tai họa bất trắc như hạn hán, mất mùa, bệnh dịch rất dễ xảy ra khi kết hôn với đối tượng ngoài tộc. Hai hình thức hôn nhân đặc biệt vẫn còn tồn tại là hôn nhân anh em chồng-chị em vợ và hôn nhân con cô-con cậu. Hôn nhân anh em chồng-chị em vợ còn được gọi là tục nối dây như tập tục ở một số dân tộc Tây Nguyên. Tục nối dây diễn ra chủ yếu với mục đích giữ lại tài sản của dòng họ. Theo phong tục truyền thống của người Stiêng, trong đêm cưới, hai vợ chồng buộc chỉ đỏ vào tay nhau hoặc trao cườm thay cho lời thề nguyền chung thủy. Sau khi mọi người ăn uống vui chơi, cô dâu và chú rể thực hiện một nghi thức: cùng bước vào nhà dưới sự chứng kiến của những người phụ nữ lớn tuổi trong dòng họ. Chờ lúc cô dâu, chú rể vào hẳn bên trong nhà thì 3 người phụ nữ lấy chày giã vào cối không. Hành động này tượng trưng cho tín ngưỡng phồn thực của người Stiêng. Sau đám cưới, người Stiêng còn có tục trả của. Lễ trả của có thể tổ chức bên nhà trai hay bên nhà gái đều được. Nếu sau nhiều năm chung sống mà không có con hoặc gia đình giàu có cần thêm người làm và quản lý, người
  • 34. 29 chồng có thể xin vợ cả cho cưới thêm vợ bé. Vợ cả và vợ bé phải coi nhau như chị em và con cái của họ đẻ ra đều phải gọi họ bằng mẹ. Người Stiêng cũng cho phép cha mẹ giao ước với nhau về hôn nhân của con cái. Theo già làng Điểu Hum, ấp 8B, xã Lộc Hòa, huyện Lộc Ninh, một điều đáng tự hào trong đời sống hiện nay mà người Stiêng còn giữ được đó là một số quy tắc ứng xử trong cộng đồng. Một trong những quy tắc đó là mỗi người Stiêng dù bất cứ trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ được cái sự lễ phép khi giao tiếp. Lễ phép với ông bà, cha mẹ, anh chị, với già làng, với những người lớn tuổi và cả với những người đã khuất. Mỗi lần hát kể sử thi hay hát ru cho chúng tôi nghe, những nghệ nhân thường làm một động tác đó là cầu khấn ông bà, tổ tiên. Bà Thị Vớ, ấp 8C, xã Lộc Hòa, huyện Lộc Ninh cho rằng, việc làm lễ vái trâu, cúng rượu, cúng trầu cau trước khi hát kể sử thi hay hát ru chính là cách để tỏ lòng biết ơn ông bà tổ tiên vì đã có công dạy dỗ con cháu. Đó còn là cách cầu xin ông bà tổ tiên cho phép con cháu được kể, được hát theo yêu cầu. Lễ hội Như nhiều dân tộc ít người khác, người Stiêng cũng có nhiều lễ hội: lễ hội “quay đầu trâu” mừng lúa mới, lễ hội phá bàu, lễ hội cầu mưa, lễ hội bà bóng. Mỗi lễ hội mang một nét đặc trưng riêng. Chúng tôi có dịp tham dự hai lễ hội của người Stiêng. Đó là lễ phá bàu và lễ cúng bà bóng. Chúng tôi xin được giới thiệu ngắn gọn về hai lễ hội này: • Lễ hội phá bàu: Lễ hội phá bàu cứ 5 năm được tổ chức một lần. Đây còn gọi là lễ hội bắt cá (phá bàu bắt cá). Có nơi người dân gọi chệch đi là phá bào. Lễ hội diễn ra cả tuần với nhiều hoạt động sôi nổi. Thời gian diễn ra lễ hội thường vào khoảng tháng ba dương lịch. Theo ông Điểu Ganh, xã Quang Minh, huyện Chơn Thành, lễ hội này có từ rất xa xưa. Trước khi diễn ra lễ hội, già
  • 35. 30 làng làm lễ cúng thần linh, xin phép cho mọi người được xuống bàu bắt cá. Tiếp đến là nghi lễ đánh cồng chiêng, uống rượu cần. Sau khi lễ xong, tất cả mọi người cùng xuống bàu bắt cá, nướng cá lên và cùng ăn cá, uống rượu cần, chơi các trò chơi dân gian ngay tại chỗ từ ngày này qua ngày khác. Lễ hội phá bàu là một trong những lễ hội quan trọng của người Stiêng, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Stiêng. Ngoài giá trị tôn vinh, bảo lưu nghề cá, đây còn là dịp thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn kết cộng đồng và tạo điều kiện vui chơi cho bà con sau những ngày vất vả trên nương rẫy. • Lễ hội bà bóng: Phần lớn lễ bà bóng thường tổ chức vào ban đêm. Khi trong nhà có con bệnh, chủ nhà sai người đi mời bà bóng (mê prak) đến tận nhà để cúng bái. Nhưng khi cúng xong, bà bóng sẽ tự đi về một mình, đó là tục lệ riêng của người Stiêng. Khi cúng bà bóng, lễ vật thường là gà, heo, trâu. Bà bóng lên đồng, đọc thần chú và bắt đầu cúng bái. Tiếng trống, tiếng cồng chiêng nổi lên hòa vào những điệu nhảy, những lời khấn nguyện của bà bóng. Vào khoảng giữa đêm, khi nghe nhạc cồng chiêng nổi lên, đó là lúc đang cúng bà bóng. Cúng bà bóng là một cách để cầu xin thần linh, ông bà tổ tiên, ma quỷ tha cho con bệnh. Người Stiêng tin rằng, mọi sự ốm đau, bệnh tật của con người chính là do đắc tội với thần linh, với ông bà cõi âm. Đó là một hình thức trừng phạt. Muốn khỏi bệnh, phải làm lễ cúng, cầu xin thần linh, ông bà cõi âm tha tội. Sau khi cúng bà bóng, nếu lành bệnh thì phải trả lễ cho thần linh, ông bà dưới cõi âm. Cúng gà, heo hoặc cúng trâu, bò. Sau đó lấy máu heo, gà, trâu, bò vấy vào cây nêu, coi như đã trả lễ. Sau khi trả lễ, mọi người tổ chức vui chơi, giết heo, gà, trâu, bò ăn mừng, uống rượu cần, đánh cồng chiêng từ ngày này qua ngày khác (có khi kéo dài cả tháng).
  • 36. 31 Phần lễ bà bóng diễn ra trong phạm vi gia đình. Nếu người trong gia đình khỏi bệnh, mọi người trong làng cùng nhau ăn mừng, lúc này, phần hội diễn ra trong phạm vi cộng đồng. Theo tìm hiểu của chúng tôi, ở xã Lộc Hòa, Lộc An và một số xã thuộc huyện Lộc Ninh, lễ hội bà bóng còn rất phổ biến nhưng với quy mô nhỏ hơn trước đây. Âm nhạc Những ai đã từng đặt chân đến các poh, các bon, các wang của người Stiêng trên khắp dải đất Bình Phước đều có chung một nhận xét rằng: người Stiêng bản tính đôn hậu, mến khách, dễ gần, yêu tự do và đặc biệt rất yêu ca hát. Nhắc đến âm nhạc cổ truyền của người Stiêng, không thể không nhắc đến cồng chiêng. Cũng như nhiều dân tộc anh em sinh sống trên dọc dãy Trường Sơn, cồng chiêng gắn bó với cộng đồng Stiêng như máu thịt. Cồng chiêng trở thành biểu tượng cho sức mạnh vật chất, sức mạnh tinh thần của đồng bào Stiêng. Nghệ thuật cồng chiêng Stiêng mang nhiều nét chung của cồng chiêng Tây Nguyên nhưng cũng có nhiều yếu tố độc đáo mang tính đặc thù của dân tộc mình. Theo tục lệ của người Stiêng, cồng chiêng chỉ được đánh trong làng, không được đem ra ngoài làng hoặc đem đi xa. Trước khi đánh cồng chiêng đồng bào thường làm lễ cúng xin phép thần linh. Bộ chiêng của người Stiêng thường gồm 6 chiếc. Cách đánh cồng chiêng của người Stiêng có nhiều điểm khác so với cách đánh cồng chiêng của một số dân tộc ít người ở Tây Nguyên. Và đồng bào chỉ đánh cồng chiêng trong những dịp quan trọng như trong lễ hội, ma chay, cưới hỏi…Nếu không có việc gì quan trọng, tự tiện đánh cồng chiêng là điều hết sức kiêng kị đối với người Stiêng. Sinh hoạt văn hóa cồng chiêng đối với người dân Stiêng hiện nay vẫn còn phổ biến. Cồng chiêng vẫn là tài sản quý giá của mỗi gia đình, của toàn
  • 37. 32 thể cộng đồng. Theo chúng tôi tìm hiểu, cho đến thời điểm hiện nay, nhiều vùng dân tộc Stiêng còn lưu giữ những bộ cồng chiêng có giá trị. Tiêu biểu là xã Lộc Hòa, toàn xã hiện có hơn 40 bộ cồng chiêng có giá trị. Không những yêu ca hát, người Stiêng còn là những bậc thầy trong việc chế tác và sử dụng nhiều nhạc cụ. Nhiều nhạc sĩ nhận xét rằng, người Stiêng có trình độ thẩm âm độc đáo. Những nhạc cụ nổi tiếng của người Stiêng như kèn Mbuốt, sáo Tơ lết, sáo U-Kooc-le, sáo Pia, sáo Nhôm, kèn Nung biên, đàn Đình-put, khèn bầu và một số loại trống…Dân nhạc Stiêng là những bài ngắn, gọn, đơn giản và thường mô phỏng tiếng suối chảy, tiếng gió thổi, tiếng con chim hót…những hiện tượng tự nhiên gần gũi với cuộc sống của đồng bào. Văn học dân gian Người Stiêng nổi tiếng với lối hát nói, hát kể (tâm pơt). Tâm pớt là lối hát nói, hát kể, do một hay hai người thể hiện. Đó là một hình thức diễn xướng chung cho nhiều thể loại như: ca dao-dân ca, sử thi, truyền thuyết, thần thoại…(chủ yếu là diễn xướng sử thi). Vùng Stiêng Bù Đek còn gọi hình thức này là hát pơn raw. Người càng cao tuổi càng biết nhiều bài tâm pơt và hát càng hay. Ngoài ra, người Stiêng còn có thể loại tình ca (Nao lan), trường ca (O Kroong), hát ru, hát đồng dao... Người Stiêng có khá nhiều thần thoại, sử thi, truyền thuyết, thơ ca dân gian về nguồn gốc dân tộc, lai lịch các vị thần, về lịch sử đấu tranh và xây dựng cộng đồng, về tình yêu nam nữ, về những hiện tượng tự nhiên trong đời sống và sinh hoạt của đồng bào. Vốn văn học dân gian của người Stiêng khá phong phú và đa dạng nhưng hiện nay vẫn đang còn tiềm ẩn, chưa được khai thác nhiều. 1.5. Tình hình tư liệu văn học dân gian Stiêng
  • 38. 33 Để giúp người đọc dễ hình dung về tình hình tư liệu văn học dân gian Stiêng, chúng tôi tiến hành sắp xếp các công trình sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian Stiêng theo thể loại: *Thần thoại: Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam (Tập 1, thần thoại) [63]: có 01 bản kể thần thoại của người Stiêng. Đó là: Nguồn gốc loài người. Tìm hiểu truyện cổ tộc người Stiêng ở Bình Phước [88]: Phan Xuân Viện đã thống kê được 30 bản kể thần thoại (dựa trên 02 đợt thực tế, sưu tầm, điền dã văn học dân gian Bình Phước trong đó có văn học dân gian/truyện kể dân gian Stiêng của tập thể sinh viên và giảng viên Khoa Văn học và Ngôn ngữ, trường Đại học KHXH&NV TP.HCM). Tuy nhiên, chỉ có 12 trong tổng số 30 bản kể thần thoại nói trên được công bố. Đây cũng chính là 12 bản kể mà tác giả Nguyễn Thị Tuyết Sương sưu tuyển và giới thiệu trong luận văn tốt nghiệp đại học của mình với đề tài Văn học dân gian Bình Phước – Truyện kể dân gian [53]. Như vậy, số lượng bản kể thần thoại Stiêng mà chúng tôi tiếp cận được là 13. *Sử thi: Sử thi tộc người Stiêng – Krông Kơ Laas đoạt hồn nàng Rơ Liêng Mas [68]: giới thiệu kết quả sưu tầm và nghiên cứu 01 bản kể sử thi Stiêng. Đó là sử thi Krông Kơ Laas đoạt hồn nàng Rơ Liêng Mas. Trong chuyến đi thực tế điền dã, chúng tôi tìm hiểu và được biết nguời Stiêng có hơn 10 sử thi. Nhưng vì hạn chế thời gian nên chúng tôi chỉ tiến hành ghi âm, kí âm và biên dịch 04 sử thi Stiêng6 . Đó là các sử thi: Jiang xuống từ xứ Thánh, Nglon Hơr lưu lạc trốn thân, Tung Vrơ Lênh mơ ước 6 Bốn sử thi này chúng tôi sưu tầm ở Lộc Ninh (thuộc vùng Stiêng Bù Dek)
  • 39. 34 cái khiên thần, Vram đoạn tuyệt với L’hab Kruôt-Vram làm lễ kết hôn với R’liang Mas. Như vậy, số lượng bản kể sử thi Stiêng mà chúng tôi tiếp cận được là 05. *Truyền thuyết: Huyền thoại miệt vườn [54]: có 01 bản kể truyền thuyết Stiêng. Đó là Truyền thuyết về thác nước Lieng Hur. Tuyển tập truyện cổ tích các dân tộc ở Việt Nam [66]: có 01 bản kể truyền thuyết của người Stiêng: Sự tích kiêng ăn thịt Cà héc. Tìm hiểu truyện cổ tộc người Stiêng ở Bình Phước [88]: Phan Xuân Viện đã thống kê được 29 bản kể truyền thuyết. Tuy nhiên, chỉ có 13 trong tổng số 29 bản kể nói trên được công bố. Đây cũng chính là 13 bản kể mà tác giả Nguyễn Thị Tuyết Sương sưu tuyển và giới thiệu trong luận văn tốt nghiệp đại học của mình với đề tài Văn học dân gian Bình Phước – Truyện kể dân gian [53]. Trong chuyến đi thực tế, điền dã, chúng tôi đã sưu tầm được 07 bản kể truyền thuyết của người Stiêng. Đó là: Truyền thuyết về Bưng Jiang, sông Măng, Truyền thuyết về mộ đá Rlêm, Truyền thuyết về núi Bà Đen và Bà Rá, Truyền thuyết về đá phụ tử, Truyền thuyết về bãi đá voi, Truyền thuyết về thác Đăk U, Truyền thuyết về trảng cỏ Bàu Lạch. Như vậy, số lượng bản kể truyền thuyết Stiêng mà chúng tôi tiếp cận được là 22. *Truyện cổ tích: Hợp tuyển truyện cổ tích Việt Nam [44]: có 01 bản kể truyện cổ tích của người Stiêng. Đó là: Người mồ côi. Tìm hiểu truyện cổ tộc người Stiêng ở Bình Phước [88]: Phan Xuân Viện đã thống kê được 160 truyện cổ tích. Tuy nhiên, chỉ có 67 trong tổng số 160 bản kể nói trên được công bố. Đây cũng chính là 67 truyện cổ tích mà tác
  • 40. 35 giả Nguyễn Thị Tuyết Sương sưu tuyển và giới thiệu trong luận văn tốt nghiệp đại học của mình với đề tài Văn học dân gian Bình Phước – Truyện kể dân gian [53]. Trong chuyến đi thực tế, điền dã, chúng tôi đã sưu tầm được 03 truyện cổ tích của người Stiêng. Đó là: Rùa và cọp, Ốc và thỏ, Ông dạy dỗ con cháu. Như vậy, số lượng truyện cổ tích Stiêng mà chúng tôi tiếp cận được là 71. *Truyện cười: Tìm hiểu truyện cổ tộc người Stiêng ở Bình Phước [88]: Phan Xuân Viện đã thống kê được 13 truyện cười. Tuy nhiên, chưa có bản kể nào được công bố. *Truyện ngụ ngôn: Tìm hiểu truyện cổ tộc người Stiêng ở Bình Phước [88]: Phan Xuân Viện đã thống kê được 01 truyện ngụ ngôn. Đây cũng chính là bản kể mà tác giả Nguyễn Thị Tuyết Sương sưu tuyển và giới thiệu trong luận văn tốt nghiệp đại học của mình với đề tài Văn học dân gian Bình Phước – Truyện kể dân gian [53]. Như vậy, số lượng bản kể truyện ngụ ngôn Stiêng mà chúng tôi tiếp cận được là 01. *Ca dao-dân ca: Dân ca Sông Bé [75]: Công bố 12 bài dân ca Stiêng (cả phần kí âm và dịch nghĩa). Qua 2 năm sưu tầm văn học dân gian Stiêng, Điểu Đức đã công bố và phổ nhạc 10 bài ca dao-dân ca Stiêng [tài liệu do Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bình Phước cung cấp].
  • 41. 36 Trong chuyến đi thực tế, điền dã, chúng tôi đã ghi âm, sưu tầm được 03 bài hát ru. Như vậy, số lượng ca dao-dân ca Stiêng mà chúng tôi tiếp cận được là 25 bài. Có thể tóm tắt số lượng tác phẩm văn học dân gian Stiêng (dựa trên nguồn tác phẩm đã được công bố trước đây và nguồn tác phẩm do tác giả luận văn sưu tầm) qua bảng sau: Bảng khảo sát tình hình tư liệu văn học dân gian Stiêng (dựa trên nguồn tác phẩm đã được công bố) STT Thể loại Tài liệu khảo sát Số lượng 1 Thần thoại [53], [63], [88] 13 2 Sử thi [68] 01 3 Truyền thuyết [53], [54], [66], [88] 15 4 Truyện cổ tích [44], [53], [88] 68 5 Truyện cười [53], [88] 0 6 Truyện ngụ ngôn [53], [88] 01 7 Ca dao-dân ca [75], [76] 22 Bảng khảo sát tình hình tư liệu văn học dân gian Stiêng (do tác giả luận văn sưu tầm, điền dã) STT Thể loại Số lượng 1 Thần thoại 0 2 Sử thi 04 3 Truyền thuyết 07 4 Truyện cổ tích 03 5 Truyện cười 0 6 Truyện ngụ ngôn 0 7 Ca dao-dân ca 03
  • 42. 37 Cơ cấu thể loại và số lượng tác phẩm ở mỗi thể loại trong văn học dân gian Stiêng STT Thể loại Số lượng tác phẩm Tỷ lệ (%) 1 Thần thoại 13 9,48 2 Sử thi 5 3,64 3 Truyền thuyết 22 16,05 4 Truyện cổ tích 71 51,82 5 Truyện cười 0 0 6 Truyện ngụ ngôn 1 0,72 7 Ca dao-dân ca 25 18,24 Qua các bảng thống kê trên có thể thấy thiếu sót của những người đi trước (trong quá trình sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian Stiêng) khi không để ý nhiều đến thể loại sử thi, bỏ lọt nhiều tác phẩm sử thi. Và kết quả sưu tầm, điền dã của chúng tôi đã góp phần làm thay đổi cơ cấu thể loại trong văn học dân gian Stiêng. Cũng qua kết quả nghiên cứu về tình hình tư liệu văn học dân gian Stiêng, có thể rút ra một vài kết luận sau: Về phương diện thể loại, văn học dân gian Stiêng mang những nét chung của văn học dân gian cả nước. Văn học dân gian Stiêng có khá đầy đủ các thể loại như: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, ca dao – dân ca… Thế nhưng, cơ cấu thể loại và số lượng tác phẩm ở mỗi thể loại lại phân bố không đồng đều. Cụ thể như sau: Truyện cổ tích có số lượng tác phẩm nhiều nhất: 71 (chiếm 51,82 %), truyền thuyết: 22 (chiếm 16,05%), thần thoại: 13 (chiếm 9,48 %), ca dao-dân ca: 25 (chiếm 18,24 %), sử thi: 05 (chiếm 3,64 %) truyện ngụ ngôn: 01 (chiếm 0,72 %). Như vậy, có thể thấy, truyện cổ tích là thể loại chiếm ưu thế trong văn học dân gian Stiêng. Truyện ngụ ngôn có số lượng tác phẩm ít nhất trong văn
  • 43. 38 học dân gian Stiêng. Riêng hai thể loại tục ngữ và câu đố chúng tôi chưa thể kết luận điều gì. Vì như đã nêu ở phần mở đầu, các tác phẩm được sưu tuyển trong hai tài liệu Văn học dân gian Bình Phước – Tục ngữ và câu đố (2009) và Văn học dân gian Bình Phước – Ca dao dân ca (2009) chủ yếu là của người Kinh, một số tác phẩm có nhiều nghi vấn nên chúng tôi không chọn hai tài liệu này để khảo sát. Kết quả khảo sát bước đầu cho thấy, văn học dân gian Stiêng khá phong phú và đa dạng nhưng vẫn còn ở dạng tiềm ẩn, chưa được sưu tầm, nghiên cứu nhiều. Việc công bố tác phẩm còn rải rác, chưa tập trung. Dựa vào những nguồn tài liệu trên, chúng tôi không có tham vọng đi sâu phân tích, lí giải một cách cụ thể, cặn kẽ các thể loại cũng như các đặc điểm của từng thể loại trong văn học dân gian Stiêng. Chúng tôi chỉ dám coi đây như một bước thử nghiệm tiếp cận các thể loại trong văn học dân gian Stiêng bằng phương pháp thống kê, mô tả, phân tích để giúp người đọc nhận diện được phần nào bức tranh toàn cảnh về văn học dân gian Stiêng qua tư liệu nghiên cứu của những người đi trước và qua kết quả chuyến đi thực tế, điền dã của chúng tôi. Do thời gian có hạn nên trong chuyến đi thực tế, điền dã chúng tôi chỉ khảo sát thể loại sử thi và một số thể loại khác như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích và ca dao-dân ca. Vì thế, ở chương 2 và chương 3, chúng tôi tập trung tìm hiểu tình hình bản kể, đặc điểm nội dung, đặc điểm nghệ thuật của 05 thể loại: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao-dân ca. Trong đó, sử thi Stiêng vẫn là thể loại mà chúng tôi quan tâm nhất (vì nhiều lí do khách quan và chủ quan). Điều này chúng tôi sẽ làm rõ ở các chương sau.
  • 44. 39 Chương 2 THẦN THOẠI, TRUYỀN THUYẾT, TRUYỆN CỔ TÍCH STIÊNG Ở chương 1, chúng tôi đã trình bày những nét khái quát nhất về đặc điểm tộc người Stiêng đồng thời tiến hành xác định diện mạo văn học dân gian Stiêng qua tình hình tư liệu sưu tầm, nghiên cứu của những người đi trước và qua thực tế điền dã của chúng tôi. Trên cơ sở đó, chúng tôi đã đưa ra những kết luận khái quát về hệ thống thể loại, cơ cấu thể loại trong văn học dân gian Stiêng. Những khái quát bước đầu ấy là cơ sở cho việc tìm hiểu đặc điểm nội dung và nghệ thuật của các thể loại trong văn học dân gian Stiêng. Trong chương này, chúng tôi sẽ tiến hành xác định số lượng bản kể, đặc điểm nội dung và nghệ thuật của một số thể loại trong văn học dân gian Stiêng như: thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích. 2.1. Thần thoại 2.1.1. Đặc điểm nội dung Thần thoại ra đời là kết quả của nhu cầu muốn tìm hiểu, khám phá, lí giải vũ trụ, chinh phục thế giới tự nhiên của con người trong buổi bình minh của nhân loại. Với trí tưởng tượng phong phú, bay bổng, óc quan sát logic, cụ thể, con người đã hình dung, lí giải sự hình thành vũ trụ, cũng như nguồn gốc các sự vật hiện tượng trong thế giới tự nhiên bằng những hình ảnh kì vĩ, to lớn, đẹp đẽ tạo nên những câu chuyện sinh động, hấp dẫn, trở thành “nhữngtiêu chuẩn, như những mẫu mực không thể nào bắt chước được” [33, 291]. Có thể nói rằng, thần thoại là một hình thái ý thức nguyên hợp. Nó vừa là khoa học, nghệ thuật vừa là tín ngưỡng, tôn giáo của loài người thuở ấu thơ. Nó gợi nhắc trong ta sự cảm thông, trân trọng với quá khứ nguyên vẹn, tinh khiết,
  • 45. 40 tươi trẻ của con người trong buổi đầu hồng hoang của nhân loại. Thần thoại của các dân tộc ít người ở nước ta phản ánh một cách kì diệu nhận thức về vũ trụ, về công cuộc đấu tranh thiên nhiên, sinh hoạt xã hội và tư duy xã hội của các dân tộc anh em trong thời kì cổ sơ. Số lượng thần thoại của người Stiêng theo khảo sát là 13 bản kể, gồm 03 đề tài cơ bản: thần thoại suy nguyên về vũ trụ (01 bản kể), thần thoại suy nguyên về nhân loại, tộc người (06 bản kể) và thần thoại về sáng tạo văn hóa (06 bản kể). Cũng như bao dân tộc khác, ngay từ buổi hồng hoang, vũ trụ luôn là điều bí ẩn nhưng có sức hấp dẫn đối với người Stiêng. Người Stiêng vẫn luôn đặt cho mình những câu hỏi về nguồn gốc của trời đất, cây cỏ, núi sông. Có thể nói rằng đây chính là điểm mở đầu của tư duy thần thoại nảy sinh ở người cổ đại. Nếu như người Hmông quy công cho người sinh ra mặt đất và bầu trời là Ông Chày, Bà Chày; người Bana quy công cho hai ông bà Bôc Kây Tây và Dá Kon Ké; người Chăm quy công cho Thần Trời và Thần Đất thì người Stiêng quy công cho nhiều vị thần trong quá trình sáng tạo ra vũ trụ, muôn loài. Các vị thần đó là Krong Dong, Krang Dang, Xiêng, Khẻn, Nung, Nú. Chuyện kể rằng: “Khi trời đất chưa phân chia, khi con người chưa sinh ra, chỉ có duy nhất một vị thần khổng lồ là Krong Dong. Krong Dong sinh ra Krang Dang. Krang Dang làm ra một cái cột đá khổng lồ. Và từ cột đá, có một con bướm và một con rùa. Con bướm nhảy một lần là lại thấy một con vật được sinh ra. Con rùa nhảy một lần là lại thấy một con người sinh ra. Ông Xiêng, ông Tiêng, ông Têy cũng sinh ra từ đó. Họ gọi cột đá đó là mẹ. Ông Xiêng, ông Tiêng, ông Têy lấy một nắm đất ra, bỏ vào đó bảy con giun rồi bảy con giun xoay quanh nắm đất đó cho đất nở ra và đất bắt đầu được sinh ra” (Nguồn gốc vũ trụ và muôn loài). Người Stiêng giải thích nguồn gốc
  • 46. 41 ra đời của vũ trụ bằng quan niệm vạn vật nhất thể có tính duy vật thô sơ, hồn nhiên. Theo đó, mọi sự vật hiện tượng trong trời đất đều từ “cột đá mẹ” mà ra và đều nằm trong một hệ thống kết cấu thống nhất. Vị thần Krong Dong tạo ra “cột đá mẹ”, từ “cột đá mẹ” hình thành nên bướm và rùa. Từ bướm và rùa hình thành nên con người và các loài khác. Các vị thần sáng tạo ra trời đất trong thần thoại của người Mnông, người Chăm và người Bana đều nằm trong xu hướng chung là cặp đôi: nam – nữ (Ông Chày và Bà Chày, ông bà Bôc Kây Tây và Dá Kon Ké, Thần Trời và Thần Đất…). Họ là những cặp vợ chồng khai sáng vũ trụ có tầm vóc kì vĩ. Trời đất đã được sinh ra từ sự hôn phối của họ. Thần thoại Stiêng không có đặc điểm này. Trong thần thoại Stiêng chỉ có một vị thần chủ chốt là Krong Dong. Thần Krong Dong sinh ra Krang Dang, Krang Dang tiếp tục công việc của mình là tạo ra cột đá mẹ, rồi lần lượt các vị thần khác tạo ra vũ trụ và muôn loài. Như vậy, theo người Stiêng, vị thần Krong Dong là vị thần tối cao, vị thần khai sáng. Các vị thần khác tiếp nối công việc của Krong Dong trong việc sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài. Người Stiêng tin rằng, ở trên trời cũng như ở dưới đất đều có nhiều vị thần trú ngụ. Mỗi vị thần đều có nhiệm vụ riêng của mình. Đây cũng chính là nguồn gốc của những quan điểm thần linh siêu nhiên trong tư duy truyền thống của người Stiêng. Tuy còn ở trình độ sơ khai nhưng cách giải thích nguồn gốc ra đời của vũ trụ và muôn loài của người Stiêng thể hiện sự phát triển một cách sinh động quá trình nhận thức về sự tồn tại khách quan của thế giới thông qua óc quan sát cụ thể, logic của họ. Các thần chính là sản phẩm của niềm tin và sự sùng bái tự nhiên đan cài với nhận thức có tính vật chất về thế giới. Để cải biến được thế giới tự nhiên cũng như kiến tạo được vũ trụ, các thần cũng phải lao động như con người: “Có đất, có trời rồi nhưng đất còn chật quá, con nai chưa đứng được. Sau đó, ông Khẻn, ông Nung làm lại đất cho đất cao thêm,
  • 47. 42 rộng thêm. Có đất ở rộng rãi rồi nhưng ông trời cứ sáng mãi. Thấy thế, ông Nú bèn che mặt trời để trời tối lại. Từ đó, ngày đêm được phân chia, mặt trăng ra đời” (Nguồn gốc vũ trụ và muôn loài). Đất cao thêm, rộng thêm không phải tự nhiên mà có. Đó chính là do quá trình lao động cật lực của ông Khẻn, ông Nung. Xuất phát từ thực tế lao động, người Stiêng đã lí giải sự hình thành vũ trụ bằng trí tưởng tượng phong phú, bay bổng, lãng mạn nhưng vô cùng sinh động và cụ thể. Hình ảnh ông Nú che mặt trời để trời tối lại cho con người yêu nhau thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên của người Stiêng. Đó cũng là khát vọng muôn đời không bao giờ nguôi của nhân loại. Ở đề tài suy nguyên về nhân loại, tộc người, phải kể đến các truyện thần thoại sau: Nguồn gốc loài người, Người học khỉ đỡ đẻ (1), Người học khỉ đỡ đẻ (2), Người học khỉ đỡ đẻ (3), Vì sao loài vật không biết nói và phải giúp việc cho con người?, Vì sao người Stiêng có vóc dáng như bây giờ?. Theo người Stiêng, loài người ra đời từ tảng đá lớn. Chuyện kể rằng: “Vào thuở xa xưa, khi trời và đất còn mờ mịt, các loài thú sống chen chúc và rất hòa thuận với nhau…Một hôm khi các con thú đang nô đùa bên một ngọn núi cao có nhiều tảng đá to thì nghe phát ra một tiếng kì lạ…Theo lệnh của khỉ, các con vật nhất loạt dùng các vật mà chúng có đập mạnh vào tảng đá thì bỗng có một tiếng nổ lớn phát ra, trời đất tối sầm…cây cối đổ rạp, một số con vật chết ngay tức khắc…Sau tiếng nổ, trời quang mây tạnh, tảng đá vỡ ra, một người con trai và một người con gái hiện ra, đó là con người đầu tiên trên trái đất…” (Nguồn gốc loài người). Người Stiêng ở vùng Bù Dek cho rằng: Vị tổ của người Stiêng là ông Jiang. Ông là con trai của vua trời. Vua trời xuống trần gian lấy vợ rồi sinh ra Jiang và Krơ Vôm Jiang. Jiang được sinh ra từ nách còn Krơ Vôm Jiang sinh ra bình thường. Đây cũng chính là nội dung của sử thi Stiêng “Jiang xuống từ xứ Thánh”. Có thể thấy rằng, cũng như nhiều dân tộc khác ở Tây Nguyên,