SlideShare a Scribd company logo
1 of 168
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ THỊ HẰNG
TƢ TƢỞNG LẬP HIẾN HỒ CHÍ MINH:
NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
MÃ SỐ: 60 31 02 03
Hà Nội - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ THỊ HẰNG
TƢ TƢỞNG LẬP HIẾN HỒ CHÍ MINH:
NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
Mã số: 62 31 02 04
: 60 31 Ma02 03
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS. TS Lại Quốc Khánh
2. PGS. TS Lý Việt Quang
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn
đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Lê Thị Hằng
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng lập hiến là một bộ phận
quan trọng. Tư tưởng ấy được định hình trong 30 năm Người hoạt động ở nước
ngoài, được bổ sung và phát triển trên cơ sở trực tiếp chỉ đạo xây dựng các bản
hiến pháp dân chủ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tư tưởng lập hiến Hồ
Chí Minh đã kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống dân tộc và tinh hoa của
tư tưởng lập hiến trên thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Với tính chất là
hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về lập hiến kiểu mới ở Việt Nam, tư tưởng
lập hiến Hồ Chí Minh đã luận giải hàng loạt nội dung cơ bản nhất và cốt lõi nhất
về xây dựng hiến pháp. Đó là quan điểm về vai trò, quyền lập hiến, các nội dung
và điều kiện lập hiến. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, trong các luồng tư
tưởng lập hiến Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, chỉ có tư tưởng lập hiến Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh là duy nhất đúng đắn, tiến bộ và phù hợp với Việt Nam. Tư
tưởng lập hiến Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng cho việc xây dựng các bản hiến
pháp dân chủ trong lịch sử hiện đại của dân tộc Việt Nam.
Là người khai sinh Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và giữ cương
vị Chủ tịch nước trong suốt 24 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở đầu cho nền
lập hiến cách mạng Việt Nam. Dấu ấn của Người thể hiện sâu sắc trong quá
trình chỉ đạo xây dựng Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 với tư cách Trưởng
ban Dự thảo hai bản Hiến pháp nói trên. Đặc biệt, Hiến pháp 1946 đã đánh dấu
mốc quan trọng trong nền lập pháp của Việt Nam, được các nhà nghiên cứu và
thực thi pháp luật đánh giá là “rất Việt Nam, mang đậm dấu ấn dân tộc và sắc
thái phương Đông, đồng thời có vận dụng nhiều kinh nghiệm của Pháp và một
phần của Mỹ về tổ chức nhà nước, thực sự biểu hiện tư duy sáng tạo của Hồ Chí
Minh, của Đảng và nhân dân về vấn đề nhà nước” [36, tr.217].
Nhận thức rõ những giá trị lớn lao của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh,
trong quá trình tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước đã tổ chức triển
khai nghiên cứu và vận dụng có hiệu quả tư tưởng của Người. Nếu như Hiến
2
pháp 1980 gần như mô phỏng hoàn toàn mô hình Hiến pháp Xô viết thì đến
Hiến pháp 1992, trên nhiều mặt, đã trở lại giá trị Hiến pháp 1946. Hiến pháp
1992 đến nay đã qua hai lần bổ sung, sửa đổi vào năm 2001 và gần đây nhất là
năm 2013. So với lần sửa đổi, bổ sung năm 2001, Hiến pháp 2013 được đánh
giá là có nhiều điểm mới, tiến bộ, phù hợp với xu thế của thế giới, đánh dấu một
bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của đất nước. Nhiều điểm mới, tiến bộ trong
Hiến pháp năm 2013 là sự kế thừa và phát triển tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế của nước ta.
Hiện nay, để nhận thức, tiếp tục hoàn thiện và thực thi Hiến pháp 2013
hiện nay, việc nghiên cứu tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, đặc biệt nhận thức rõ
hơn các giá trị về tính nhân văn, tính khoa học của bản hiến pháp dân chủ;
về mô hình tổ chức quyền lực nhà nước, kinh nghiệm, bài học về cách
thức tổ chức xây dựng hiến pháp, về vận dụng, học tập kinh nghiệm nước
ngoài vào thực tiễn Việt Nam sẽ góp phần sáng tỏ soi sáng nhiều vấn đề
đang và sẽ đặt ra cả trong nhận thức lý luận và thực tiễn.
Bên cạnh đó, tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh dù chứa đựng nhiều nội
dung và giá trị to lớn, nhưng đến nay vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu
trực tiếp, toàn diện, có hệ thống về tư tưởng lập hiến của Người. Đây là điểm
cần tiếp tục bổ sung trong nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh chọn vấn đề: Tư tưởng lập
hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ nội dung và giá trị của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ nội hàm các khái niệm: Hiến pháp, lập hiến, tư tưởng lập hiến Hồ
Chí Minh; cơ sở, quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh.
- Phân tích có hệ thống nội dung cơ bản của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh.
- Luận giải giá trị của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh.
3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nội dung tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh và những giá trị của tư tưởng này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung:
Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh hiểu theo nghĩa rộng bao gồm nhiều nội
dung từ soạn thảo, ban hành, sửa đổi và thực thi hiến pháp. Trong khuôn khổ
luận án, tác giả trình bày những nội dung cơ bản nhất, gồm: vai trò lập hiến,
quyền lập hiến; nội dung cơ bản của hiến pháp với hai vấn đề cốt lõi là Chính
thể Dân chủ Cộng hòa, quyền và nghĩa vụ công dân; các nhân tố đảm bảo lập
hiến.
- Thời gian: Toàn bộ quá trình hình thành và phát triển tư tưởng lập hiến
Hồ Chí Minh từ năm 1911 đến năm 1969
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
các quan điểm của Đảng, Nhà nước về lập hiến, các lý thuyết lập hiến phù hợp
với đối tượng nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp chuyên ngành
và liên ngành để thực hiện đề tài, cụ thể là phương pháp lịch sử, phương pháp
logic phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh,
phương pháp khái quát hoá - trừu tượng hoá, phương pháp phỏng vấn chuyên
gia, v.v., để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Luận án làm rõ tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh một cách có hệ thống: từ
nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển, đến nội dung và giá trị của tư
tưởng, cũng như có sự phân tích, đánh giá sâu về nội dung và giá trị của tư
4
tưởng này. Trong đó, qua tư liệu biên bản các kỳ họp Quốc hội, các phiên họp
của Ban sửa đổi Hiến pháp được khai thác tại các Trung tâm lưu trữ, tác giả
trình bày, luận giải một số nhận thức mới về nội dung tư tưởng lập hiến Hồ Chí
Minh, từ đó có những nhận định, đánh giá sâu sắc và đầy đủ hơn về giá trị của
tư tưởng này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần bổ sung những nhận thức mới về tư tưởng lập hiến Hồ Chí
Minh, từ đó góp phần khẳng định vai trò nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung,
tư tưởng lập hiến của Người nói riêng đối với Đảng và cách mạng Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Với những kết quả đạt được, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong việc nghiên cứu, giảng dạy và tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh; góp
phần cung cấp luận cứ khoa học cho đổi mới tư duy lập hiến, xây dựng và thực
thi hiến pháp ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
được kết cấu thành 4 chương, 12 tiết
5
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về nội dung tƣ tƣởng lập hiến Hồ Chí Minh
Nghiên cứu về các vấn đề chung của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, có
một số công trình tiêu biểu sau:
Là một trí thức lớn, một luật gia được đào tạo từ thời Pháp thuộc, từng có
thời gian làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, được làm việc trực tiếp với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Vũ Đình Hòe có những
luận giải về tư tưởng Hồ Chí Minh trong Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh
(2001). Tác giả cho rằng “Tư tưởng hiến chính của Nguyễn Ái Quốc nảy mầm là
do sự kết hợp công lý và pháp lý Đông Tây, qua sự quan sát thực tế chế độ dân
chủ ở cả các nước Tây Phương lẫn đất nước của Lênin. Quý hơn nữa, do đó mà
vững vàng hơn: tư tưởng pháp quyền dân chủ ở Ông Nguyễn bắt rễ sâu vào
truyền thống “lệ làng” của dân tộc ta”[44, tr. 342]. Tác giả cho rằng, những
mầm mống của tư tưởng hiến chính của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện trong
các tác phẩm Bản yêu sách nhân dân An Nam; Nhời hô hoán cùng Vạn Quốc hội
với việc sắp đặt một nền hiến pháp theo những lý tưởng dân quyền. Từ giữa
những năm 20 của thế kỉ XX (khi trở về Trung Quốc hoạt động) đến năm 1945,
Nguyễn Ái Quốc suy nghĩ định hướng cho một kiểu hiến pháp thích hợp Việt
Nam, chứ không nhất thiết kiểu Cộng hòa Xô viết: từ hình thức chính quyền
công nông trong Đường Kách mệnh (1925) sang ý niệm chính quyền nhân dân
(1941). Giai đoạn định hình rõ nét tư tưởng hiến chính từ khi Người trở về Tổ
quốc, thể hiện trong việc xây dựng chính quyền ở những vùng giải phóng, ở các
quy tắc bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích của toàn dân, hình thức chính quyền
dân chủ trực tiếp tự nhiên tiến lên dân chủ đại diện, mà theo tác giả “đó là mầm
mống của một chế độ pháp quyền dân chủ tư sản kiểu mới” [44, tr. 347]. Tác giả
đánh giá sự kiện Đại hội quốc dân Tân Trào và Hội nghị Diên Hồng kiểu mới là
6
bước cuối cùng của quá trình sáng tạo tư duy “hiến chính dân tộc dân chủ của
Chủ tịch Hồ Chí Minh” [44, tr. 348].
Tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh của Bùi Ngọc Sơn là một trong số ít
cuốn sách trình bày có hệ thống và phân tích những vấn đề cơ bản trong tư
tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nguyên tắc của hiến pháp; quyền lập hiến và sửa
đổi hiến pháp; tổ chức quyền lực nhà nước và vấn đề dân quyền. Tác giả cho
rằng, trong tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, có những tư tưởng, quan điểm mang
tính chất chỉ đạo cho việc tổ chức quyền lực nhà nước, xác lập mối quan hệ giữa
quốc quyền với dân quyền, đó là: đoàn kết dân tộc, chủ quyền nhân dân, định
hướng xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Quyền lập hiến thuộc
về nhân dân và lập hiến bằng tổ chức Tổng tuyển cử để nhân dân bầu ra Quốc
hội, và Quốc hội sẽ soạn thảo ra hiến pháp, tức là bằng con đường Quốc hội lập
hiến. Việc sửa đổi Hiến pháp, theo tác giả, có thể nhìn nhận tư duy của Hồ Chí
Minh từ điều 70 của Hiến pháp 1946; “chủ thể đề nghị sửa đổi hiến pháp được
trao cho cơ quan lập pháp” [109, tr. 85], với điều kiện có 2/3 tổng số nghị viên
yêu cầu. Về vấn đề dân quyền, tác giả khẳng định đó là một đối tượng điều
chỉnh quan trọng của hiến pháp và nêu một số quyền công dân theo tư tưởng Hồ
Chí Minh được ghi nhận trong Hiến pháp 1946: các quyền chính trị, các quyền
tự do cá nhân, các quyền kinh tế - xã hội, các quyền văn hóa. Điều tác giả lưu ý
là các quyền này trong Hiến pháp được thiết kế theo nguyên tắc dân quyền xuất
phát từ nhân quyền, nên đó là những quyền tự nhiên của con người. Về quyền
lực nhà nước, tác giả trình bày về sự chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà
nước và bước đầu có sự đánh giá, so sánh với mô hình tổ chức nhà nước khác.
Quốc hội do nhân dân bầu ra là cơ quan đại diện toàn dân, cơ quan có quyền lực
nhà nước cao nhất, quyết định vấn đề quan trọng nhất [109, tr. 101]. Chủ tịch
nước có quyền hành lớn và “mang những đặc thù của loại hình chính thể cộng
hòa dân chủ nhân dân” [109, tr. 112]. Chính phủ là cơ quan trọng yếu trong
chính thể nhà nước, “thực hiện quyền hành pháp, do Quốc hội thành lập, chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác với Quốc hội” [109, tr. 124]. Tòa án là “cơ
7
quan giữ vị trí độc lập trong hệ thống cơ quan nhà nước, thực hiện quyền xét
xử” [109, tr. 127]. Qua sự phân tích đó, tác giả khẳng định tính dân tộc và dân
chủ sâu sắc của bộ máy nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ở chương 1 cuốn sách Hiến pháp năm 1946 – Bản Hiến pháp đặt nền
móng cho nền lập hiến Nhà nước Việt Nam của Đỗ Ngọc Hải [39], tác giả trình
bày khái quát tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh thể hiện qua các tác phẩm Bản
yêu sách của dân An Nam, Nhời hô hoán cùng Vạn Quốc hội, Chánh cương vắn
tắt, Chương trình cách mạng của Mặt trận Việt Minh, Chương trình Mười điểm,
Tuyên ngôn độc lập. Từ đó, tác giả rút ra một số nhận xét: khái niệm hiến pháp
có rất sớm ở Hồ Chí Minh từ năm 1919, ngay cả khi Người chưa tìm thấy con
đường đi cho dân tộc, nhưng đã nhận thấy vai trò, tác dụng của hiến pháp trong
quản lý xây dựng đất nước; phải tự lập ra hiến pháp mới đáp ứng được yêu cầu
nhân dân và phù hợp với điều kiện lịch sử đất nước mình; nội dung hiến pháp
phải thể hiện học thuyết Mác- Lênin, thể hiện hiến pháp cộng hòa dân chủ. Tiếp
đó, tác giả phân tích tư tưởng lập hiến của Hiến pháp 1946 là sự thể hiện cụ thể
của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: hiến pháp vì dân, ban hành hiến pháp là để
mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, mọi người dân được hưởng lợi; hiến
pháp phải ghi lấy thành tích vẻ vang của cách mạng được thể hiện trong Lời nói
đầu; hiến pháp là yếu tố trước tiên của một nhà nước dân chủ, nhà nước pháp
quyền và là khuôn mẫu cho tổ chức, hoạt động của nhà nước dân chủ. Hồ Chí
Minh lựa chọn sáng suốt những đại biểu soạn thảo Dự thảo Hiến pháp và “vai
trò chọn người trong Ủy ban dự thảo Hiến pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
yếu tố cơ bản dẫn tới thành công của Ủy ban dự thảo” [39, tr. 61]. Trong bài viết
Hồ Chủ tịch với những tư tưởng lập hiến trong Hiến pháp năm 1946, Đỗ Ngọc
Hải đã phân tích rõ hơn và khẳng định trong bốn nội dung tư tưởng lập hiến Hồ
Chí Minh, thì “tư tưởng lập hiến vì dân là trọng tâm, cơ bản. Vì tất cả những tư
tưởng sau chỉ để phục vụ cho tư tưởng thứ nhất. Nó phù hợp với quan điểm
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin: Tất cả mọi khoa học phải vì con người,
phục vụ con người” [40, tr. 6].
8
Trong cuốn Những vấn đề lý luận và thực tiễn về sửa đổi, bổ sung Hiến
pháp năm 1992 do Võ Khánh Vinh chủ biên [155], có đề cập đến một số quan
điểm về lập hiến Hồ Chí Minh: sự cần thiết của hiến pháp; điều kiện ra đời của
bản hiến pháp là độc lập dân tộc và chế độ dân chủ; mối quan hệ độc lập dân tộc
và dân quyền, trong đó độc lập là nền tảng thực hiện dân quyền, muốn có dân
quyền thì trước hết dân tộc phải độc lập, bởi vậy trước hết phải tập trung cho
việc giành độc lập, dân quyền được thực hiện từng bước để phục vụ cho việc
giành độc lập; quan điểm về chính thể nhân dân và “thực hiện chính quyền
mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”. Tác giả nhận định Hồ Chí Minh là người
khởi xướng tư tưởng lập hiến dân chủ nhân dân ở Việt Nam. Đó là tư tưởng lập
hiến duy nhất đúng cho xã hội Việt Nam, được khảo chứng và phát huy trong
thực tiễn. Tác giả nêu lên một số nội dung cơ bản của Hiến pháp 1946, là sự kết
tinh và hiện thực hóa tư tưởng lập hiến kiểu mới Hồ Chí Minh: ba nguyên tắc
trong Lời nói đầu; tổ chức chính quyền dân chủ với sự phân công nhiệm vụ cho
từng cơ quan và thiết kế nhiều cơ chế kiểm tra, giam sát lẫn nhau giữa các cơ
quan quyền lực nhà nước; tư tưởng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ; ghi nhận quyền cơ bản của con người mà trước đó người dân Việt Nam
chưa được thụ hưởng.
Trong Lịch sử lập hiến cách mạng Việt Nam của Phan Đăng Thanh và
Trương Thị Hòa [116], các tác giả nêu lên những nét đặc trưng của tư tưởng
pháp quyền - lập hiến Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam: sự cần thiết
của hiến pháp; về độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia; về tự do, nhân quyền
và dân quyền; về tổ chức và hoạt động của nhà nước; về biểu tượng quốc gia:
quốc kỳ, quốc ca. Bên cạnh đó, các tác giả chỉ ra một số quan điểm về lập hiến
của Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát triển của tư tưởng lập hiến mácxít: Đảng
Cộng sản giữ độc quyền lãnh đạo toàn xã hội; Nhà nước chuyên chính vô sản
được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền chứ không phải phân quyền và nhà
nước thống nhất quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân; các tổ chức xã hội, đoàn
thể quần chúng phải được chú ý củng cố và phát huy vai trò trong hệ thống
9
chính trị. Các tác giả dành một mục phân tích nội dung và tính chất lập hiến của
Tuyên ngôn độc lập: đề cao quan hệ quốc tế bình đẳng, đề cao nguyên tắc quốc
gia thống nhất, chủ quyền dân tộc và tự do dân chủ; xây dựng chế độ nhà nước
cộng hòa, bảo đảm quyền độc lập dân tộc, tự do dân chủ cho công dân Việt
Nam. Những tư tưởng trong Tuyên ngôn “cũng chính là sự tổng kết hùng hồn tư
tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh và nhiều nhà cách mạng yêu nước Việt Nam
khác, tích lũy trong suốt quá trình đấu tranh lập hiến liên tục suốt gần nửa thế kỷ
trước ngày lịch sử 2-9-1945” [116, tr. 105]. Qua việc trình bày sự phát triển tư
tưởng lập hiến trong nửa đầu thế kỉ XX ở Việt Nam, các tác giả khẳng định các
luồng tư tưởng lập hiến “muôn màu, muôn vẻ”, không ngừng đấu tranh, cọ xát
với nhau, trong đó, đi theo con đường đấu tranh lập hiến xã hội chủ nghĩa, đi
theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì chỉ có Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Nhận thức về Hiến pháp theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Võ Thị Thúy Hà
[38] trình bày khái quát nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về hiến pháp. Hiến
pháp phải đảm bảo các quyền tự do dân chủ cho nhân dân, phải ghi nhận được
những giá trị cơ bản nhất và quyền cao quý nhất của con người. Hiến pháp phải
đề ra được các nguyên tắc thực hiện quyền lực nhà nước, nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước. Nguyên tắc hiệu lực của hiến pháp thể hiện rõ
nét ở quy định về thủ tục lập hiến và sửa đổi hiến pháp, việc giám sát của cơ
quan quyền lực nhà nước đối với cơ quan và cá nhân có thẩm quyền.
Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh về một bản hiến pháp dân chủ, của Trần
Ngọc Đường [33], trình bày ba nội dung trong tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh.
Thứ nhất, nước phải có độc lập, quốc gia có chủ quyền là điều kiện tiên quyết
của hiến pháp và hiến pháp tuyên bố về mặt pháp lý một nhà nước độc lập, có
chủ quyền, là phương tiện bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước. Thứ hai, hiến
pháp phải là một bản hiến pháp dân chủ, dân chủ là điều kiện đủ cho sự ra đời
của hiến pháp, dân chủ thể hiện ở trong nội dung và cách thức ban hành, đồng
thời là phương tiện để nhân dân được hưởng quyền tự do dân chủ. Thứ ba,
10
“Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” bằng sức mạnh
“thần linh pháp quyền” của hiến pháp.
Đi sâu, tập trung phân tích những nội dung cụ thể của tư tưởng lập hiến
Hồ Chí Minh về các vấn đề vai trò, vị trí của hiến pháp; chủ quyền nhân dân;
mô hình chính thể; tổ chức quyền lực nhà nước; về quyền con người, có một số
bài viết, cuốn sách đáng chú ý
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của hiến pháp của Tào Thị Quyên
[106] phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của hiến pháp đối với việc
khẳng định chủ quyền của quốc gia, quy định thể chế nhà nước và đảm bảo
quyền công dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng hiến pháp của Hà Thị Thùy
Dương [25] nêu lên một số vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng một bản
hiến pháp theo tư tưởng Hồ Chí Minh: kế thừa những điểm tích cực trong các
bản hiến pháp trước; phản ánh tình hình hiện tại và xu thế phát triển của đất
nước trong tương lai; đảm bảo đầy đủ quyền con người, quyền công dân; đảm
bảo bản hiến pháp phải thực sự của nhân dân; quá trình xây dựng hiến pháp phải
là quá trình làm việc rất công phu cẩn thận, nghiêm túc.
Vấn đề chủ quyền nhân dân được các nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng
Dung, Trần Ngọc Đường, Nguyễn Xuân Tế, Đào Trí Úc….khẳng định trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến và “bằng quyền lập
hiến, nhân dân trao cho nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp” [18, 114], cũng như có sự phân biệt giữa hoạt động lập pháp và hoạt động
lập hiến, tức là quyền lập các quyền với các quyền đã được lập ra. Việc sửa đổi
hiến pháp cũng phải được quyết định bởi nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền
lập hiến thông qua bầu Quốc hội lập hiến và thực hiện trưng cầu dân ý. Và chỉ
khi nào thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến thì mới đảm bảo tính
hiệu lực tối cao của hiến pháp.
Trong mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân, các tác giả khẳng định
nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, xây dựng nhà nước của dân, do
11
dân, vì dân. Nhà nước chỉ là cơ quan đại diện được nhân dân trao quyền, cán bộ,
công chức là “công bộc” của nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân phải được
thể hiện trực tiếp ở phương thức cơ bản thiết lập bộ máy nhà nước là bầu cử trực
tiếp, theo nguyên tắc “phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”. Quan
điểm này được Nguyễn Đình Lộc phân tích hệ thống trong cuốn sách Tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân, [71] với những nội dung:
không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ nhân dân; nêu cao tinh thần phụ trách
trước dân, không được hao phí sức dân, phải làm mực thước cho dân; phải yêu
dân, kính dân, không quan liêu, tham nhũng, chống quan liêu tham nhũng; dựa
trên ý thức làm chủ Nhà nước của công dân; Nhà nước và nhân dân phải có quan
hệ công bằng, “trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.
Hoàng Chí Bảo trong bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chính
thể dân chủ và nhà nước pháp quyền để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
[5], nêu lên trong một chính thể dân chủ, thì nhân dân là chủ; cán bộ, đảng viên
cũng như nhiệm vụ của chính quyền và đoàn thể là phụng sự nhân dân. Dân đã
có quyền làm chủ thì cũng phải thi hành nghĩa vụ của người chủ. Để thực thi
dân chủ và quyền làm chủ của dân trong thực tế, Hồ Chí Minh đề cao sức mạnh
của luật pháp, của pháp chế và pháp quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền.
Trong chương 3 cuốn sách Góp phần nghiên cứu hiến pháp và nhà nước
pháp quyền của Bùi Ngọc Sơn, từ nêu dẫn chứng lịch sử, tác giả làm rõ vai trò
Hồ Chí Minh với tiến trình xác lập chính thể Cộng hòa dân chủ nhân dân ở Việt
Nam. Năm 1930, Hồ Chí Minh xác định sau khi giành độc lập sẽ tổ chức Chính
phủ công - nông - binh, thực chất là việc tổ chức quyền lực nhà nước theo chính
thể cộng hòa Xô-viết. Tuy nhiên, sau khi về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng,
quan điểm về chính thể nhà nước của Hồ Chí Minh đã có những điều chỉnh phù
hợp, từ hình thức chính phủ công - nông - binh sang hình thức chính phủ nhân
dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tác giả phân tích: Cộng hòa dân
chủ nhân dân thuộc loại hình chính thể cộng hòa dân chủ, …là một loại hình
chính thể của Nhà nước vô sản, có những dấu hiệu đặc thù khác về bản chất so
12
với hình thức chính thể cộng hòa dân chủ tư sản [106, 212]. Điểm khác nổi bật
là tổ chức quyền lực nhà nước phải được đặt trên cơ sở khối đại đoàn kết dân
tộc, quyền lực thống nhất vào nhân dân thì quyền lực nhà nước cũng có sự thống
nhất và phải có sự phân công minh bạch giữa các cơ quan nhà nước. Bên cạnh
đó, đây là hình thức chính trị của chuyên chính vô sản, bảo đảm sự phát triển
của xã hội Việt Nam theo định hướng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Nguyễn Thị Lan Phương trong Luận án Hồ Chí Minh với việc xây dựng
thể chế chính trị Việt Nam Dân chủ cộng hòa, [105] đưa ra và phân tích năm
quan điểm của Hồ Chí Minh về thể chế chính trị dành cho Việt Nam: Mô hình
thể chế chính trị dành cho Việt Nam sau ngày độc lập là thể chế cộng hòa dân
chủ nhân dân, nhà nước không thể chuyên quyền và phi pháp quyền, chủ thể
quyền lực là nhân dân, nhà nước gồm ba nhánh quyền lực được tổ chức theo
nguyên tắc tập trung quyền lực, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà
nước. Tư tưởng ấy được hiện thực hóa trong quá trình Hồ Chí Minh lãnh đạo
xây dựng thể chế chính trị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa qua việc chỉ đạo thiết
lập mô hình chính quyền trước Cách mạng tháng Tám; chỉ đạo soạn thảo, ban
hành hai bản Hiến pháp, tham gia xây dựng và trực tiếp thực hiện chế định Chủ
tịch nước, chỉ đạo xây dựng các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Với vấn đề xây dựng nhà nước, các tác giả đều thống nhất tư tưởng xuyên
suốt của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước hợp hiến, hợp pháp từ việc Người
chủ trương thành lập chính quyền cách mạng ở các khu giải phóng, triệu tập
Quốc dân đại hội Tân Trào cử ra Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam đến đọc
bản Tuyên ngôn độc lập; tổ chức Tổng tuyển cử và soạn thảo hiến pháp. Tổ chức
quyền lực nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh và được thể hiện rõ nét trong
hai bản Hiến pháp 1946, 1959, cũng như trong thực tiễn xây dựng nhà nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa là: quyền lực nhà nước là thống nhất, thuộc về nhân dân,
có sự phân công, phối hợp giữa các nhánh: lập pháp, hành pháp, tư pháp, thông
qua việc phân định rạch ròi nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước;
ngăn ngừa sự lạm quyền của cơ quan nhà nước. Trong đó, Hồ Chí Minh rất quan
13
tâm đến việc xây dựng một nền hành chính mạnh, một Chính phủ mạnh và dám
chịu trách nhiệm trước nhân dân. Có thể nêu một số cuốn sách, bài viết nghiên
cứu vấn đề này như:
Trong cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền, [18]
các tác giả luận giải về một số quan điểm cơ bản về nhà nước pháp quyền theo
tư tưởng Hồ Chí Minh: nhà nước được tổ chức theo hiến pháp do nhân dân
thông qua; một nhà nước dân tộc, tập trung mọi quyền lực vào Quốc hội nhưng
vẫn có sự phân công quyền lực giữa ba nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp,
trong đó thủ lĩnh của đảng cầm quyền là người đứng đầu hành pháp và tư pháp
độc lập; một nhà nước chịu trách nhiệm trước nhân dân và “nếu Chính phủ làm
hại đến dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”.
Trần Đình Huỳnh và Lê Thị Thanh trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước, pháp luật và hành chính nhà nước, phân tích tổ chức bộ máy Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được xác lập trong bản Hiến pháp 1946 và Hiến pháp
1959. Các tác giả cho rằng là Người chủ trì xây dựng bản Hiến pháp đầu tiên, thông
qua những quy định về cơ cấu nhà nước, nhiệm vụ, chức năng của các nhánh quyền
lực nhà nước, Hồ Chí Minh giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa cơ quan hành
pháp với cơ quan lập pháp và cơ quan tư pháp. Điểm đặc sắc trong tư duy Hồ Chí
Minh là rất coi trọng hoạt động hành chính và đã chủ trương xây dựng hành chính
mạnh, quy định rõ trách nhiệm của thành viên Chính phủ từ Chủ tịch nước đến
từng Bộ trưởng và các nhân viên cơ quan nhà nước.
Đức Vượng trong bài viết Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây
dựng chính quyền trong Hiến pháp 1946 và Hiến pháp năm 1959 [138] nêu
vấn đề: Toàn bộ vấn đề chính quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể
hiện trong Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 là chính quyền của dân, do
dân, vì dân. Theo quan điểm của Người, hiến pháp của nhà nước ta phải thể
hiện cho được nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc bầu cử và điều hành
của bộ máy chính quyền; có sự phân định rõ ràng chức năng, quyền hạn của
14
từng cơ quan; phải thể hiện cho được tinh thần đoàn kết và tinh thần cần,
kiệm, liêm, chính của hoạt động chính quyền nhà nước.
Nguyễn Văn Thảo trong bài viết Thiết kế bộ máy nhà nước theo tư tưởng
Hồ Chí Minh, in trong Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật, [151, tr. 111-135] cho rằng tư tưởng về thiết lập một chính quyền mạnh,
sáng suốt của nhân dân, hoạt động vì lợi ích của nhân dân là tư tưởng nhất quán
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đã thiết kết một bộ máy nhà nước thể
hiện tập trung ở các định chế Hiến pháp 1946, được hoàn thiện trong Hiến pháp
1959. Bộ máy nhà nước gồm: Quốc hội (Nghị viện nhân dân) là cơ quan cao
nhất của đất nước nhưng không phải là cơ quan tập trung mọi quyền lực, Chính
phủ là cơ quan hành chính cao nhất, Tòa án thực hiện quyền xét xử theo nguyên
tắc độc lập.
Luận giải vấn đề phân công quyền lực nhà nước, Nguyễn Minh Tuấn
[140, tr. 214-227] cho rằng trong Hiến pháp 1946 có cơ chế phân quyền tương
đối được thể hiện theo chiều ngang và chiều dọc nhằm chống độc quyền, chuyên
chế, bảo vệ chính quyền nhân dân. Nội dung bản Hiến pháp cho thấy có sự
thống nhất quyền lực, nhưng chưa rõ về quyền lực tuyệt đối, các nhánh quyền
lực vẫn có tính độc lập tương đối, không có bất kỳ một cơ quan nào nào, dù
thẩm quyền cao đến đâu có thể nắm toàn bộ quyền lực. Phân quyền theo chiều
dọc làm cho chính quyền địa phương được chủ động theo từng cấp, đồng thời
minh thị cơ chế chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu mắc sai lầm. Việc kiểm
soát quyền lực được thực hiện bằng kiểm soát bên trong giữa các cơ quan nhà
nước, đặc biệt giữa Nghị viện nhân dân với Chính phủ; kiểm soát bên ngoài
bằng hàng loạt các quyền hiến định, được thừa nhận, bảo đảm và bảo vệ.
So sánh những thay đổi tổ chức bộ máy nhà nước từ Hiến pháp 1946 đến
1959, có quan điểm đánh giá đó là sự thay đổi cần thiết, phù hợp với tình hình
đất nước “Sự thay đổi ở đây là thay đổi cả nội dung nhiệm vụ nhà nước, thay đổi
cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, thay đổi cả những quy định về chức năng
quyền hạn của Chủ tịch nước” [123, tr. 82] và “Điều đó chứng tỏ rằng, Hồ Chí
15
Minh luôn luôn thấm nhuần tinh thần đổi mới và thực hiện sự đổi mới trong quá
trình xây dựng nhà nước và pháp luật ở nước ta” [123, tr. 83]. Có tác giả cho
rằng, đã có sự phát triển về mặt lý luận và thực tiễn về tổ chức bộ máy nhà nước
trong giai đoạn thực hiện Hiến pháp 1959 trên ba điểm: nguyên tắc chỉ đạo việc
tổ chức và xây dựng bộ máy nhà nước; mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước;
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước [17,
tr. 23]. Bên cạnh đó, có quan điểm cho rằng bộ máy nhà nước của Hiến pháp
1959 có nhiều quy tắc thể hiện những nguyên tắc của việc tổ chức và hoạt động
của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Các quy định của việc phân công, phân nhiệm
rạch ròi giữa các cơ quan, sự kìm chế và đối trọng giữa các thiết chế quyền lực
nhà nước không còn trong nội dung các quy định của Hiến pháp, mà nhường
chỗ cho các quy định thể hiện sự tập trung quyền lực vào các cơ quan đại diện
do nhân dân bầu ra. [17, tr. 26-27].
Vấn đề quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân trong tư tưởng lập
hiến Hồ Chí Minh đã được một số công trình đề cập đến. Các tác giả thống nhất
nhận định với Hồ Chí Minh, quyền con người là một nội dung cơ bản của hiến
pháp. Quyền con người gắn bó chặt chẽ với quyền dân tộc và quyền dân tộc,
quyền con phải được thể chế hoá bằng hiến pháp - đạo luật cơ bản của đất nước.
Trong các bản Hiến pháp do Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo, quyền và
nghĩa vụ công dân được trang trọng đặt ngay ở chương đầu tiên, khẳng định đó
là những quyền vốn có, tự nhiên của con người chứ không phải là sự ban phát từ
nhà nước. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân chỉ có thể được thực hiện khi có một bộ máy nhà nước vững mạnh,
nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, Phạm Ngọc Anh
chủ biên, [1], các tác giả trình bày một cách hệ thống những nội dung cơ bản của
tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người: các quyền chính trị - dân sự, quyền
kinh tế, văn hóa xã hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; các quyền theo giới,
lứa tuổi, dân tộc: quyền phụ nữ, quyền trẻ em, quyền các dân tộc thiểu số trong
16
cộng đồng dân tộc Việt Nam. Trên thực tế, những quyền con người chính đáng
đó đã được ghi nhận trang trọng trong hai bản Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí
Minh làm Trưởng ban soạn thảo, cũng như trong các bản Hiến pháp về sau của
Việt Nam.
Phạm Ngọc Dũng trong Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác- Lênin về xây dựng nhà nước pháp quyền, [24], khẳng định đảm
bảo quyền con người là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh. Nhà nước pháp
quyền theo quan điểm của Người là nhà nước trước hết phải bảo vệ quyền con
người.
Bài viết Hiến pháp Việt Nam và vấn đề quyền con người, quyền công dân
của Hoàng Văn Hảo phân tích tư tưởng lập pháp vì con người của Hồ Chí Minh
được thể hiện trong Yêu sách của nhân dân An Nam và cụ thể hóa qua những
quy định cụ thể về các quyền bình đẳng, quyền chính trị, quyền tư hữu tài sản…
trong các điều khoản của các bản Hiến pháp Việt Nam. Tác giả đánh giá cao
những giá trị quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp 1946 “mặc dù ra
đời trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, nhưng Hiến pháp 1946 đã long trọng ghi
nhận những giá trị quyền con người mà nhân dân ta đã giành được, xem nó là
nội dung cốt lõi của Hiến pháp dân chủ” [138, tr. 223].
Trên thế giới, các nghiên cứu về tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, trong đó
có tư tưởng lập hiến còn khá ít ỏi. Tsuboi Yoshiharu trong tham luận “Khảo cứu
lại Hồ Chí Minh” cho rằng Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa cộng hòa
và giá trị mà Hồ Chí Minh coi trọng nhất trong suốt cuộc đời của mình là những
giá trị của nền Cộng hòa. Từ sự phân tích nhận thức Hồ Chí Minh về tinh thần
nền Cộng hòa Pháp, tác giả cho rằng “có lẽ Hồ Chí Minh là lãnh đạo chính trị
duy nhất ở Đông Á nhận thức một cách đúng đắn nhất tinh thần nền Cộng hòa
và Ông đã cố gắng đưa nó vào Việt Nam.” [129].
Geetesh Sharman trong bài Đấng cứu tinh của hòa bình, độc lập và hạnh
phúc, [35] khẳng định nhân dân luôn là tâm điểm của quá trình tư tưởng Hồ Chí
Minh. Trong lời nói và việc làm của Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến độc lập
17
và phúc lợi của nhân dân; luôn đề ra và thực thi những chính sách, chiến lược
theo hướng coi nhân dân là nhân tố quyết định. Người đã đồng hóa cái cốt lõi
của toàn bộ kinh nghiệm với triết lý của mình và do đó triết lý chính trị theo
định hướng vì nhân dân hoàn toàn thực dụng và thực tiễn. So với các vĩ nhân
của thời kỳ hiện tại thì những lý tưởng và chính sách của Hồ Chí Minh dễ hiểu
hơn đối với quyền lợi của nhân dân.
Mark Sidel trong cuốn sách một cuốn sách “The Constitution of Vietnam -
A Contextual Anlysis.” (Hiến pháp Việt Nam - Phân tích bối cảnh) [74] đánh giá
Hiến pháp 1946 là một bản Hiến chương cho độc lập và thống nhất. Khác biệt so
với các hiến pháp xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp năm 1946 đã cố gắng xây dựng
tính đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trước một Chính phủ non trẻ [74, tr. 27]. “Hiến
pháp 1946 không đặt ra các lý thuyết kinh tế, không sử dụng một cách dập
khuôn các tư tưởng cộng sản, cũng như sự chiến thắng của chuyên chính vô sản.
Hiến pháp 1946 không giống Hiến pháp của nền Đệ tứ Cộng hòa Pháp năm
1946 nhìn từ các quy định cụ thể... Giống như Bản Tuyên ngôn độc lập, Hiến
pháp 1946 chịu ảnh hưởng của các nhà nước Alglo-Saxon, đặc biệt là Hoa Kỳ”.
[74, tr. 27-28]. Những điểm mà Mark Sidel đánh giá là tiến bộ của Hiến pháp
1946 đó là quyền bầu cử ứng cử, quyền bảo đảm sở hữu tài sản, phúc quyết và
bãi miễn; tổ chức quyền lực nhà nước đã trao cho Chủ tịch nước vị trí đặc biệt
và quy định về bỏ phiếu không tín nhiệm với Bộ trưởng, Nội các; tính dân chủ
trong quy trình tư pháp. Theo tác giả, Hiến pháp 1946 có vai trò quan trọng
trong việc đảm bảo thống nhất quốc gia dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
bằng cách xác lập khuôn khổ tổ chức một nhà nước và thu hút tối đa sự ủng hộ
của mọi tầng lớp trong xã hội đối với Nhà nước mới [74, tr. 33-34]. Những điểm
hạn chế là Hiến pháp 1946 không có quy định nào trực tiếp về bảo hiến, quyền
lực quá lớn của Ban Thường vụ, thiếu cơ chế bảo đảm tính độc lập của Tòa án,
Hiến pháp không được công bố nên một số hoạt động thực thi chính sách sau đó
có dấu hiệu vi hiến như vấn đề thực thi chính sách ruộng đất.
18
Jean-Marie Crouzatier, một giáo sư luật của Pháp cho rằng Hiến pháp đầu
tiên ở Việt Nam không có chút nào của các bản hiến pháp xã hội chủ nghĩa.
Hiến pháp 1946 có mục tiêu phù hợp với tối đa nguyện vọng của đa số người
dân trong các quy định về quyền chính trị, kinh tế, xã hội; bảo đảm vai trò của
người dân thông qua quyền phúc quyết toàn dân, bảo đảm tư hữu tài sản, thiết
lập chế độ chịu trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội, thiết lập một Nghị
viện có nhiệm kỳ ngắn tối thiểu (3 năm) [59, tr. 56].
Trái với quan điểm trên, Stein Tonnesson trong bài viết “Ho Chi Minhs
First Constitution (1946) - Hiến pháp đầu tiên của Hồ Chí Minh (1946) [113]
cho rằng bản hiến pháp đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh lại không có vị trí
đáng kể trong lịch sử Việt Nam. Giải thích điều này, tác giả đưa ra 5 lý do. Thứ
nhất là những khiếm khuyết về nội dung của bản hiến pháp: vấn đề chủ quyền
nhân dân; không có sự phân chia quyền lực giữa các ngành lập pháp, hành pháp
và tư pháp; thiếu vắng cơ chế bảo hiến. Thứ hai, về quy trình lập hiến đã không
tập hợp được toàn bộ các yếu tố và lực lượng chính trị cốt lõi, có ảnh hưởng ở
Việt Nam vào thời điểm đó và thể hiện trong hiến pháp. Thứ ba, hiến pháp Việt
Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc, có thể nói là sao chép cả quy trình lập hiến và nội
dung của bản Hiến pháp Đệ tứ Cộng hòa Pháp năm 1946. Thứ tư, hiến pháp
không được trưng cầu dân ý. Thứ năm, hiến pháp được xây dựng trong một giai
đoạn lịch sử đặc biệt của phong trào cộng sản quốc tế, nên Đảng Cộng sản theo
đuổi chính sách dân tộc thay vì giai cấp.
Mặc dù có những quan điểm trái chiều, nhưng các bài viết giúp chúng ta
có một cái nhìn đầy đủ hơn, đa chiều hơn về hiến pháp Việt Nam, cũng như các
vấn đề khi nghiên cứu tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh được thể hiện qua Hiến
pháp 1946.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về giá trị tƣ tƣởng lập hiến Hồ Chí Minh
Đến nay các công trình nghiên cứu về tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh chủ
yếu mới nêu và phân tích về phần nội dung tư tưởng, ít công trình đi sâu khảo
cứu về phần giá trị. Tuy nhiên, trong các cuốn sách, bài viết về hiến pháp, đặc
19
biệt là Hiến pháp 1946, các tác giả phần nào đề cập giá trị tư tưởng lập hiến Hồ
Chí Minh ở việc đặt nền móng chủ nghĩa lập hiến mới và chế độ chính trị mới ở
Việt Nam, sự sáng tạo về mô hình nhà nước, đề cao chủ quyền nhân dân, quyền
công dân... được thể hiện trong nội dung và cách thức xây dựng bản Hiến pháp
này.
Từ tư tưởng lập hiến Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đến Hiến pháp
1946 của Ngô Văn Thâu trình bày sự phát triển tư tưởng lập hiến Hồ Chí
Minh từ những năm Người ra đi tìm đường cứu nước đến bản Hiến pháp
1946, trong đó tác giả tập trung phân tích ba nguyên tắc được ghi trong Hiến
pháp 1946 “là sự thể hiện tập trung nhất tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh.
Đấy là những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và cách
mạng, là những phạm trù lập hiến của các nước phương Tây, của Liên Xô
được khái quát hóa và vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trên cơ sở
phát huy truyền thống yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm, nhân ái, đoàn kết
của nhân dân ta” và “ba nguyên tắc ấy là một thể thống nhất, có quan hệ nội
tại cần được nghiên cứu, vận dụng” [119, tr. 16].
Bài viết Bác Hồ với Quốc hội và bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam
Dân Chủ cộng hòa của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đánh giá cao Hiến pháp
1946 dưới sự điều hành của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Mặc dầu đất nước đang hết
sức bộn bề với muôn vàn công việc khẩn cấp, Ban dự thảo Hiến pháp đã họp
nhiều phiên dưới sự chủ tọa trực tiếp của Bác. Với trí tuệ uyên bác, với quan
điểm lấy dân làm gốc, Bác đã đưa vào bản Hiến pháp đầu tiên ở nước ta những
điều luật ngang tầm với nền chính trị tiên tiến của thế giới lúc bấy giờ và nhiều
điều còn có giá trị nóng hổi tính thời sự đến ngày hôm nay” [138, tr. 22].
Bài “Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về hiến trị, đức trị” của Lê
Văn Hòe [43], từ sự phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về lập pháp, lập hiến tác
giả kết luận: Tư tưởng hiến trị, pháp trị dân chủ của Hồ Chí Minh thể hiện tính
khoa học, sáng tạo sâu sắc. Tư tưởng ấy mãi mãi là kim chỉ nam cho sự nghiệp
20
xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam cùng với công cuộc xây dựng nhà
nước và pháp luật hiện nay.
Trong bài Sự phát triển của chủ nghĩa lập hiến hiện đại ở Việt Nam, Đào
Trí Úc, khẳng định: Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập ra nhà nước Việt
Nam mới sau khi Việt Nam giành độc lập năm 1945, đồng thời là người sáng lập
về chủ nghĩa lập hiến Việt Nam hiện đại. Trong tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh,
các yếu tố dân chủ, hiến pháp và pháp luật, quyền con người gắn bó với nhau vì
hiến pháp được coi là tiền đề, nền tảng pháp lý cho quyền lực chính trị của nhân
dân và bảo đảm quyền tự do, thực sự con người. “Tư tưởng Hồ Chí Minh là tiền
đề quan trọng cho việc xây dựng và phát triển một nền chính trị trên nền tảng hiến
pháp” [131, tr. 3].
Trong bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền lập hiến Việt Nam, [102]
Bùi Đình Phong rút ra một số giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng lập hiến
Hồ Chí Minh. Về giá trị lý luận, tác giả nêu ba điểm: giá trị nhân văn, tất cả vì
con người; giá trị khoa học thể hiện ở việc chắt lọc quan điểm lập hiến của Anh,
Pháp, Mỹ, Nga và từ thực tiễn Việt Nam; giá trị cách mạng trong việc xóa cái
ác, trau dồi cái thiện. Về giá trị thực tiễn, tác giả cho rằng cần vận dụng tư tưởng
lập hiến Hồ Chí Minh trong xây dựng con người, tăng cường giáo dục văn hóa
làm người, nâng cao năng lực lãnh đạo cầm quyền và phẩm chất đạo đức của
Đảng, cán bộ đảng viên và mỗi công dân trong quá trình vận hành bộ máy nhà
nước pháp quyền.
Phân tích giá trị mô hình nhà nước trong Hiến pháp 1946, các nhà nghiên
cứu về cơ bản thống nhất nhận định: tổ chức quyền lực Hiến pháp 1946 là sự thể
hiện rõ nét tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ của dân, do dân, vì dân.
Hồ Chí Minh lựa chọn mô hình tập quyền, quyền lực cao nhất thuộc về các cơ
quan dân cử, nhưng có sự phân công rành mạch, hợp lý giữa các nhánh quyền
lực. Người không áp dụng mô hình phân quyền như các nước tư sản, không tạo
ra sự phân lập giữa các quyền theo kiểu quyền lực đối chọi quyền lực. Điểm nổi
bật trong mô hình tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 1946 là đề cao vai
21
trò của Nghị viện nhân dân, nhấn mạnh vai trò của Nghị viện trong giám sát
Chính phủ, đề cao tính độc lập của hệ thống Tòa án, phân quyền rõ nét và hợp lý
cho chính quyền địa phương.
Trong Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh [44], Vũ Đình Hòe cho rằng
“Hiến chính Hồ Chí Minh mà Cách mạng tháng Tám xác nhận và thực thi bằng
bản Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bằng
hệ thống Quốc hội và Hội đồng nhân dân - Ủy ban hành chính xuất hiện dồn dập
- là một Hiến chính dân tộc dân chủ, mang đậm sắc thái đất nước và con người
Việt Nam” [44, tr. 348]. Tác giả nhận định cái bất biến trong tư tưởng hiến
chính Hồ Chí Minh là quyền tự do, bình đẳng của con người, cái bất biến trong
tình cảm và lý trí của Người là nhân đạo và chính nghĩa, là yêu nước, thương
nòi. Cốt lõi trong tư tưởng của Người là Nhân nghĩa, là Pháp lý tự nhiên, pháp
lý nhân bản, chứa đựng tư tưởng hiến chính sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Điều này tiếp tục được tác giả khẳng định và làm rõ ở cuốn sách cùng tên
xuất bản sau đó “Hai bản Hiến pháp 1946, 1959 được xây dựng trên những
nguyên tắc dân chủ đặc sắc, chưa từng thấy ở đâu, là một Nhà nước toàn dân,
một nền pháp quyền toàn dân và một mô hình cao quý Đảng toàn dân. Ngay cả
những luận điểm Nhà nước - pháp quyền, xã hội công dân, đến nay thế giới mới
nêu thì trên thực tiễn cách mạng Việt Nam, không có gì xa lạ với Bác Hồ chúng
ta” [45, tr. 741].
Trong một số bài viết của mình, Nguyễn Đăng Dung so sánh thể chế nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Hiến pháp 1946 với các thể chế nhà
nước Xô viết, Cộng hòa Đại nghị, Tổng thống Cộng hòa để thấy rõ sự sáng tạo
tài tình của Hồ Chí Minh trong thiết lập thể chế nhà nước độc đáo, phù hợp với
thực tiễn Việt Nam. Tác giả khẳng định “Có thể nói, Hồ Chủ tịch và các đồng
chí của Người đã tìm ra một mô hình đặc thù của nhà nước Việt Nam phù hợp
với điều kiện ở một dân tộc phương Đông muốn thoát khỏi chế độ thực dân nửa
phong kiến, muốn xây dựng một cuộc sống đầy đủ, ấm no cho nhân dân, độc lập
có chủ quyền cho quốc gia của mình và không phải phụ thuộc vào các nước
22
mạnh khác” [19, tr. 19]. Với việc sáng tạo một chính thể cộng hòa đặc biệt, Hồ
Chí Minh đã đặt nền móng cho sự hình thành một loại hình của chính thể lưỡng
tính cộng hòa hiện đại. Tác giả cho rằng giá trị lớn nhất của mô hình tổ chức nhà
nước của Hiến pháp 1946 là quy định về bản chất dân tộc, không phân biệt giai
cấp của nhà nước.
Trong cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới
ở Việt Nam, Nguyễn Anh Tuấn chủ biên, từ sự phân tích đặc điểm mô hình
chính thể Cộng hòa nhân dân, các tác giả đánh giá “Xét một cách tổng thể, chính
thể cộng hòa nhân dân là một chính thể đặc thù, sản phẩm của sự sáng tạo độc
đáo của Hồ Chí Minh từ thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tính chất đặc thù của
chính thể Cộng hòa dân chủ nhân dân mà Chủ tịch sáng tạo ra không ngừng
được phát huy trong quá trình hoàn thiện mô hình tổ chức quyền lực Nhà nước
Việt Nam” [126, tr. 82-83].
Trong chương 3 cuốn sách Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp kinh nghiệm
Việt Nam và thế giới, các tác giả dành một mục để phân tích những giá trị của
Hiến pháp 1946 là tạo ra mô hình tổ chức nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa không hoàn toàn giống bất kì mô hình nhà nước nào: cơ sở nhà nước là toàn
dân tộc không phân biệt giai cấp và tài sản, một cơ cấu nhà nước với bộ máy
hành pháp mạnh; so với bản hiến pháp sau này là bản Hiến pháp có nhiều dấu ấn
chủ nghĩa hợp hiến hơn cả thể hiện cách tiếp cận gần với quyền con người nhất,
điều khoản về quyền tư hữu tài sản, suy đoán vô tội và quy định về sự phân
quyền nhằm hạn chế quyền lực, chống lại sự lạm quyền của các cơ quan nhà
nước nhằm bảo vệ nhân quyền. Các tác giả phân tích vai trò điều hành của Hồ
Chí Minh với sự ra đời của bản Hiến pháp 1946, đặc biệt trong việc tập hợp
nhân tài soạn thảo hiến pháp. Từ đó các tác giả rút ra bài học: “Muốn cách mạng
thành công việc áp dụng các học thuyết và kinh nghiệm của các nước trên thế
giới vào Việt Nam phải có sự vận dụng sáng tạo và ngược lại, không có sự vận
dụng sáng tạo đều tạo ra những cơ sở cho sự thất bại” [20, tr.246-247].
23
Bùi Ngọc Sơn nêu những vấn đề cần tiếp tục kế thừa và phát triển tư
tưởng lập hiến trong điều kiện hiện nay. Đó là tư tưởng về một nền pháp quyền
với việc tăng cường các thiết chế giám sát quyền lực ở các cơ quan lập pháp, tư
pháp; với việc xây dựng đạo đức và hình thành tư duy phục vụ trong công
quyền. Bên cạnh đó, từ sự phân tích các nội dung, một số điểm hạn chế trong
Hiến pháp 1992, tác giả nêu lên yêu cầu phải trở lại giá trị tư tưởng Hồ Chí
Minh về bảo đảm thực sự quyền lập hiến thuộc về nhân dân, các vấn đề về dân
quyền, về triết lý thần linh pháp quyền, về Chính phủ và một nền tư pháp. Đối
với việc xây dựng Chính phủ trong một nền pháp quyền, tác giả nêu lên các yêu
cầu: cơ cấu phải tinh gọn, thẩm quyền phải mạnh, Chính phủ phải tồn tại trong
môi trường đạo đức trong sạch, Chính phủ phải minh bạch và tăng cường ý thức
trách nhiệm trong hoạt động của mình. Đối với việc xây dựng nền tư pháp độc
lập, tác giả nhấn mạnh các yếu tố: cần tổ chức tòa án theo cấp xét xử, cải tiến
thủ tục tố tụng, tăng cường và nâng cao chất lượng cũng như có sự quan tâm
đúng mức đến đời sống của các thẩm phán, thiết lập hệ thống những thông số để
đánh giá về mức độ độc lập của toà án [109].
Đối với vấn đề quyền con người, các nhà nghiên cứu khẳng định: Hồ Chí
Minh có cách tiếp cận sáng tạo về quyền con người, có sự kết hợp hài hòa giữa
những giá trị tiến bộ của văn minh phương Tây với tư tưởng nhân văn cộng sản
và điều kiện, hoàn cảnh đặc thù của dân tộc Việt Nam. Những quan điểm của
Người được thể chế hóa trong các bản Hiến pháp, rõ nét nhất là bản Hiến pháp
1946. Có tác giả nhận định “Xét tổng quát, trong lịch sử lập hiến ở Việt Nam, cho
đến thời điểm hiện nay, đỉnh cao của tinh thần tôn trọng, đề cao nhân quyền vẫn
là bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946. ….Trong bản Hiến pháp này, vấn đề quyền
con người, quyền công dân được đặc biệt đề cao, theo những cách thức và mức độ
hơn hẳn so với tất cả các bản Hiến pháp về sau của Việt Nam” [140, 124-125]
Bên cạnh đó, sau khi Hiến pháp 2013 ban hành, có nhiều bài viết của các
nghiên cứu, nhà luật học phân tích và khẳng định những điểm mới, điểm tiến bộ
trong Hiến pháp 2013 như vấn đề chủ thể quyền lập hiến, phân định quyền lập
24
hiến và quyền lập pháp; quyền con người, quyền công dân; vấn đề phân quyền
và kiểm soát quyền lực nhà nước; tổ chức bộ máy nhà nước, mối quan hệ giữa
quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước…. là sự kế thừa, phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh trong Hiến pháp 1946 trong thời kỳ mới. Qua đó, chứng minh giá
trị và sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ Chí Minh, đặt ra yêu cầu tiếp tục nghiên
cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực thi hiến pháp và xây dựng
nền pháp quyền Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, trong các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước, pháp luật; về lịch sử lập hiến và các bản Hiến pháp Việt Nam như Tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân, Nxb Chính trị quốc gia, 1998;
Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng
Nhà nước pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia, 2009; Bàn về lập hiến do Phạm Văn
Hùng ch.b, Nxb Lao động, 2010, Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm
soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính
trị quốc gia, 2011; Tư tưởng pháp lý dân tộc, dân chủ tuyệt vời của Hồ Chủ Tịch
của Phạm Thành Vinh, tạp chí Luật học số 2/1975; Hồ Chí Minh với việc xây dựng
một nền hành chính vững mạnh, có hiệu lực (qua Hiến pháp 1946) của Lê Phương
Thảo, Đoàn Minh Huấn tạp chí Lịch sử Đảng số 1/1999, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
Người sáng lập nền Cộng hòa dân chủ Việt Nam, Người đặt nền móng cho việc xây
dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta của Trần Đình Huỳnh - Lê Thị Thanh, tạp
chí Cộng sản tháng 9/2016.... có đề cập đến những nội dung liên quan tư tưởng lập
hiến Hồ Chí Minh. Đây là những tài liệu tham khảo có giá trị, giúp sáng tỏ thêm
các vấn đề luận án cần nghiên cứu.
1.2. THÀNH TỰU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.2.1. Những vấn đề đã đƣợc nghiên cứu
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ở trên cho thấy
nghiên cứu tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, các tác giả đề cập đến các vấn đề sau:
Các tác giả về cơ bản đều thống nhất tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh là
một nội dung quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng ấy
25
được hình thành trong những điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam và thế giới cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX; qua quá trình hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh.
Các nội dung trong tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh được các tác giả đề cập
đến: về sự cần thiết của hiến pháp, nguyên tắc xây dựng hiến pháp, quan điểm về độc
lập dân tộc, về chủ quyền nhân dân, vấn đề chính thể Cộng hòa Dân chủ, tổ chức
quyền lực nhà nước theo mô hình tập quyền nhưng vẫn có sự phân công rành mạch
giữa các nhánh quyền lực, quyền và nghĩa vụ công dân. Có tác giả cho rằng ba
nguyên tắc được ghi trong Hiến pháp 1946 là đoàn kết dân tộc, đảm bảo các quyền
tự do dân chủ, thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân chính là
nội dung cơ bản nhất của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh. Có tác giả khẳng định tư
tưởng lập hiến Hồ Chí Minh được thể hiện tập trung ở các nội dung: nguyên tắc hiến
pháp, quyền lập hiến, tổ chức quyền lực nhà nước và vấn đề dân quyền.
Phân tích giá trị tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu đã
thống nhất và khẳng định Hồ Chí Minh là người đặt nền móng nền lập hiến cách
mạng Việt Nam. Trong các luồng tư tưởng lập hiến đa dạng đầu thế kỉ XX, tư
tưởng lập hiến Hồ Chí Minh là duy nhất đúng đắn, phù hợp với Việt Nam. Những
tư tưởng lập hiến của Người có giá trị to lớn trong công cuộc xây dựng hiến pháp
và nền pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Ở từng góc độ khác nhau, các tác giả
phân tích giá trị tư tưởng này trong việc sáng tạo mô hình Chính thể độc đáo và phù
hợp với Việt Nam; thiết kế bộ máy Nhà nước có hiệu lực, linh hoạt, đảm bảo thực
thi quyền con người, quyền công dân. Bên cạnh đó, những bài học kinh nghiệm từ
hoạt động thực tiễn Hồ Chí Minh chỉ đạo xây dựng Hiến pháp 1946, Hiến pháp
1959, đặc biệt là bài học tập hợp, phát huy sức mạnh trí tuệ của nhân sĩ, trí thức,
phát huy sức mạnh của toàn thể nhân dân được nhiều tác giả đề cập đến.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra đƣợc luận án tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở thành quả nghiên cứu đã có về tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh,
tác giả luận án tiếp tục nghiên cứu tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh ở những vấn
đề sau:
26
Thứ nhất, luận án cần trình bày đầy đủ, chính xác nội hàm khái niệm tư
tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, làm định hướng việc nghiên cứu một cách đúng
hướng và toàn diện.
Thứ hai, làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, trong đó
tập trung phân tích những quan trọng nhất, trực tiếp nhất như: chủ nghĩa hiến
pháp, lý luận Mác - Lênin về hiến pháp, tư tưởng lập hiến của các nhà cách mạng
Việt Nam tiền bối. Đồng thời, có sự phân chia các giai đoạn theo mốc quan trọng,
đánh dấu bước phát triển trong việc hình thành và phát triển tư tưởng lập hiến Hồ
Chí Minh.
Thứ ba, do cách tiếp cận và mục tiêu của các công trình nghiên cứu khác
nhau, nên các vấn đề nghiên cứu mà các tác giả đã tập trung bàn tới là vai trò của
hiến pháp trong việc định danh chính thể mới, ghi nhận quyền con người; tổ chức
quyền lực nhà nước và vấn đề quyền và nghĩa vụ công dân. Những quan điểm của
Hồ Chí Minh về quyền lập hiến, các nhân tố đảm bảo lập hiến ít được bàn tới
hoặc mới chỉ nêu khái lược, chưa có sự phân tích và có những dẫn chứng cụ thể
trong các tác phẩm, trong thực tiễn hoạt động của Hồ Chí Minh. Bởi vậy, luận án
tiếp tục nghiên cứu nội dung tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh với tư cách là một
chỉnh thể thống nhất và đi sâu phân tích, cung cấp thêm tư liệu để làm rõ các quan
điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về lập hiến, bao gồm: vai trò của hiến pháp trong
việc định danh chính thể mới, ghi nhận quyền con người, tuyên bố chủ quyền
quốc gia, đặt nền móng xây dựng nhà nước pháp quyền; quyền lập hiến và
phương thức thực hiện quyền lập hiến của nhân dân; chính thể và tổ chức quyền
lực nhà nước; quyền và nghĩa vụ công dân; các nhân tố đảm bảo lập hiến.
Thứ tư, phân tích một số giá trị cốt lõi trong tư tưởng lập hiến Hồ Chí
Minh. Luận án cần chỉ rõ những điểm mà Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kết tinh,
phát triển và sáng tạo các tư tưởng chính trị pháp lý của dân tộc và thế giới,
cũng như vai trò nền tảng, định hướng của tư tưởng này; sự vận dụng trong việc
xây dựng các bản Hiến pháp của dân tộc. Từ đó, gợi mở một số vấn đề cần tiếp
27
tục nghiên cứu để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và hoàn thiện
hiến pháp hiện nay.
Tiểu kết chƣơng 1
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trên lĩnh vực lập hiến, lập
pháp, Hồ Chí Minh đã để lại nhiều di sản quý báu. Tư tưởng lập hiến Hồ Chí
Minh là hệ thống các quan điểm về những vấn đề cốt lõi hình thành thể chế
chính trị của một đất nước: sự cần thiết ban hành hiến pháp, chủ quyền nhân
dân, chính thể và tổ chức quyền lực nhà nước, quyền con người, quyền và nghĩa
vụ công dân, điều kiện thực hiện lập hiến. Tư tưởng ấy thể hiện trí tuệ, nhãn
quan chính trị và tầm nhìn của lãnh tụ đối với việc kiến thiết mô hình xây dựng
đất nước độc lập và dân chủ.
Nhận thức tầm quan trọng của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh với xây
dựng hiến pháp nói riêng, xây dựng nền pháp quyền nói chung ở Việt Nam hiện
nay, tác giả lựa chọn vấn đề này để nghiên cứu. Qua quá trình nghiên cứu, tác
giả nhận thấy tuy đã có một số công trình nghiên cứu về tư tưởng lập hiến Hồ
Chí Minh cũng như sự vận dụng tư tưởng đó với việc xây dựng các bản hiến
pháp trong lịch sử dân tộc, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, nhưng
chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống những quan điểm
cơ bản và phân tích những giá trị cốt lõi của tư tưởng này, từ đó nêu lên những
vấn đề đặt ra với việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực thi hiến pháp và
xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay. Những công trình nghiên cứu đã nêu
trên là nguồn tư liệu quan trọng để nghiên cứu sinh tiếp thu, kế thừa, phục vụ
cho việc nghiên cứu, hoàn thành luận án của mình.
28
Chƣơng 2: CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TƢ TƢỞNG LẬP HIẾN HỒ CHÍ MINH
2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
2.2.1. Hiến pháp
Thuật ngữ hiến pháp đã ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại. Theo tiếng
Latinh “hiến pháp” - “constitutio”, có nghĩa là sự thiết lập, xác định. Nhà nước
La Mã cổ đại dùng thuật ngữ này để gọi các văn bản quy định của Hoàng đế.
Nhưng sự ra đời của “hiến pháp” với tính chất là đạo luật cơ bản của nhà nước,
có giá trị giới hạn quyền lực nhà nước là sản phẩm của chủ nghĩa lập hiến và
gắn liền với thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản. Theo quan điểm của các
nhà Khai sáng Pháp, cần phải có bản Khế ước chung giữa nhân dân và nhà
nước, trong đó nhân dân trao quyền lực của mình một cách có điều kiện, có giới
hạn cho nhà nước để phục vụ và bảo vệ nhân dân. Theo cách định nghĩa hiện đại
và phổ biến ngày nay trong cuốn Từ điển Luật, thì “hiến pháp là luật tổ chức cơ
bản của một quốc gia hay một nhà nước thiết lập các thể chế và bộ máy chính
quyền, xác định phạm vi quyền lực của chính quyền và bảo đảm các quyền và tự
do của công dân” [8, tr. 353].
Chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm pháp luật nói chung, hiến pháp nói
riêng trên cơ sở bản chất giai cấp: Hiến pháp là của ai? Phục vụ cho lợi ích của
giai cấp (hoặc các giai cấp) nào? Hiến pháp được tạo ra vì một trật tự xã hội theo
định hướng giai cấp nào? Theo đó, mọi hiến pháp đều là sản phẩm của đấu tranh
giai cấp, đều là công cụ mà giai cấp hoặc liên minh chính trị cầm quyền sử dụng
để khẳng định và duy trì sự thống trị của mình.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “hiến pháp” được đề cập khá phổ biến trong các
cuốn sách, giáo trình, tài liệu nghiên cứu về Luật Hiến pháp, lập pháp, lập hiến.
Theo Từ điển chính trị vắn tắt, “Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước,
quy định các nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội và nhà nước, hệ thống các cơ
quan Nhà nước, thể chế tổ chức và hoạt động của các cơ quan đó, các quyền và
nghĩa vụ của công dân” [61, tr. 164].
29
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Hiến pháp là luật lệ căn bản của Nhà nước, quy
định chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, tổ
chức bộ máy nhà nước” [128, tr. 456].
Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng, “Hiến pháp là đạo
luật cơ bản quy định những vấn đề quan trọng nhất như chế độ chính trị, văn
hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, hệ
thống tổ chức, nguyên tắc hoạt động và thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước”
[69, tr. 125].
Thuật ngữ Hiến pháp được Hồ Chí Minh đề cập sớm, từ năm 1919 khi diễn
ca Yêu sách của nhân dân An Nam: “Bảy xin hiến pháp ban hành”. Trong khi
chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng
nêu ra nhiệm vụ sau khi giành độc lập, sẽ xây dựng bản hiến pháp mới cho Việt
Nam theo tinh thần dân chủ. Với quan niệm “hiến pháp là luật chính” [55, tr. 85],
sau khi cách mạng thành công, Người chỉ đạo xây dựng các bản hiến pháp của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với yêu cầu: ghi lấy thành tích vẻ vang của
cách mạng, tuyên bố tuyên bố thế giới quyền tự do của dân tộc Việt Nam, quyền
bình đẳng nam - nữ, bình đẳng giai cấp và tinh thần đoàn kết dân tộc.
Qua các cách tiếp cận trên, trong luận án, hiến pháp được hiểu theo nghĩa là
luật gốc, là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản pháp luật
quốc gia, quy định chế độ chính trị quốc gia, ấn định cách tổ chức và phân công
quyền lực nhà nước; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
2.1.2. Lập hiến
Trong tiếng Hán, chữ “lập” có các nghĩa: “1. Đứng, đứng vững; 2. Dựng
lên; 3. Đứng thẳn; 4. Gây dựng, lập, ký kết ; 5. Sống còn, tồn tại; 6. Ngay tức
khắc, lập tức”. [12, tr. 691-692]. Chữ “hiến” được viết trong Kinh thi (thế kỷ
VIII trước Công nguyên) mang ý nghĩa là khuôn phép, khuôn mẫu dành cho các
bậc vua, chúa; trong Kinh thi (thế kỷ V trước Công nguyên) với nghĩa là pháp
lệnh. Trong bộ sử cổ nhất của Việt Nam còn tồn tại đến ngày nay (Đại Việt sử
ký toàn thư, quyển số 7, tờ 12) có chép: “Quốc gia đã có hiến, nước Tàu và
30
nước Nam khác nhau”. Chữ hiến trong câu này có nghĩa là phép tắc, chế độ nói
chung, chứ không phải là “hiến pháp” theo nghĩa ngày nay. Theo Tự điển Hán
Việt của Trần Văn Chánh thì ““hiến” có nghĩa là: 1. Pháp lệnh; 2. Hiến pháp:
Lập hiến” [12, tr. 356]. Hiểu theo nghĩa này, thuật ngữ lập hiến có nghĩa là gây
dựng, thành lập nên pháp lệnh, phép nước.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa thì lập hiến
có nghĩa là lập nên hiến pháp và làm tiêu chuẩn cho chính thể: Chính thể lập
hiến.
Theo Từ điển Luật học, lập hiến được hiểu là: “Định ra hiến pháp (Quốc
hội lập hiến, quân chủ lập hiến....). Quyền lập hiến là quyền làm hiến pháp (biểu
quyết tán thành thông qua theo trình tự lập hiến) và sửa đổi, bổ sung hiến pháp
hoặc làm hiến pháp mới” [7, tr. 459]
Theo Từ điển Tiếng Việt, lập hiến là định ra hiến pháp [128, tr. 534].
Bàn về khái niệm lập hiến, Trần Ngọc Đường trong cuốn Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn về việc xây dựng và ban hành hiến pháp cho rằng: “Lập hiến
là ban hành hiến pháp, là một quyền không giới hạn, nghĩa là, các chủ thể có
quyền lập hiến không bị ràng buộc bởi một thủ tục pháp lý nào và không hạn
chế về nội dung của hiến pháp”[34, tr. 344].
Trả lời lập hiến là gì, trong cuốn sách ABC về hiến pháp - 83 câu hỏi đáp,
Nguyễn Đăng Dung giải thích: “Xây dựng hiến pháp (còn được gọi là lập hiến
hay làm “hiến pháp”) là việc thảo luận, soạn thảo, ban hành hiến pháp” [23, tr. 7].
Hồ Chí Minh tuy không đưa ra định nghĩa lập hiến, nhưng qua việc làm
cụ thể của Người như chỉ đạo tổ chức bầu Quốc hội lập hiến, thành lập Ủy ban
soạn thảo hiến pháp, tổ chức kỳ họp Quốc hội và lấy ý kiến nhân dân, sau đó
Quốc hội thông qua để ban hành Hiến pháp, có thể nói, Người đã tiếp cận lập
hiến theo nghĩa xây dựng hiến pháp gồm các bước: soạn thảo, thảo luận, thông
qua, ban hành bản Hiến pháp.
Từ những các hiểu trên, trong luận án sử dụng thuật ngữ lập hiến theo
nghĩa là xây dựng hiến pháp, hay nói cách khác là toàn bộ quy trình và tổng thể
31
hoạt động tạo lập nên một bản hiến pháp từ khi lên kế hoạch cho đến khi được
thông qua và có hiệu lực trong thực tế. Lập hiến bao gồm cả việc lập nên bản
hiến pháp mới hoặc sửa đổi, bổ sung hiến pháp hiện hành.
2.1.3. Tƣ tƣởng lập hiến
Sự ra đời của một bản hiến pháp đều dựa trên những tư tưởng, quan điểm
chỉ đạo về xây dựng và sửa đổi hiến pháp nhất định. Nội dung của một bản hiến
pháp đều là kết quả của việc thể chế hoá các tư tưởng, quan điểm đó.
Tư tưởng lập hiến còn được gọi là tư tưởng về xây dựng hiến pháp được
phổ biến rộng rãi trong thời kỳ cách mạng tư sản. Trong thời kỳ này, bên cạnh
việc giương cao ngọn cờ tự do, dân chủ, bình đẳng, giai cấp tư sản đề ra khẩu
hiệu lập hiến với mục đích huy động quần chúng nhân dân tham gia cuộc cách
mạng tư sản lật đổ giai cấp phong kiến cầm quyền. Nội dung chủ yếu của khẩu
hiệu lập hiến thể hiện ở việc yêu cầu xây dựng một bản hiến pháp, trong đó ghi
nhận chủ quyền nhân dân, tổ chức quyền lực nhà nước, mối quan hệ công dân -
nhà nước; từ đó làm cơ sở pháp lý vững chắc cho sự ra đời của một nhà nước
mới và bảo vệ quyền cơ bản của con người.
Trong các nghiên cứu ở Việt Nam về hiến pháp, đã có những công trình đề
cập đến khái niệm tư tưởng lập hiến. Trong Luận án Lịch sử tư tưởng lập hiến nửa
đầu thế kỉ XX và sự ra đời của bản Hiến pháp đầu tiên ở Việt Nam, Đặng Thanh
Xuân nêu định nghĩa: “Tư tưởng lập hiến là những quan điểm, chính kiến liên quan
đến yêu cầu xây dựng, hoàn thiện bản hiến pháp ở Việt Nam với tư cách là một văn
kiện pháp lý cơ bản của nhà nước và những ý kiến, quan điểm liên quan đến thủ tục
xây dựng hiến pháp, liên quan đến nội dung văn kiện hiến pháp mà cụ thể là về thể
chế chính trị, về quốc gia và chủ quyền quốc gia, về quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân, về tổ chức bộ máy nhà nước, về các biểu tượng quốc gia như quốc kỳ,
quốc ca, quốc hiệu” [157, tr. 13]. Với những đặc điểm đó, tác giả khẳng định: “Tư
tưởng lập hiến là một bộ phận quan trọng của tư tưởng pháp quyền, thuộc lĩnh vực
chính trị, nó chịu ảnh hưởng sâu sắc, trực tiếp của quan điểm, tư tưởng chính trị”
[157, tr. 14].
32
Võ Khánh Vinh trong Những vấn đề lý luận và thực tiễn về sửa đổi, bổ
sung Hiến pháp năm 1992 cho rằng “Tư tưởng lập hiến, hay còn gọi tư tưởng về
hiến pháp, bao hàm các quan niệm về sự cần thiết phải có một đạo luật cơ bản, để
làm nền tảng pháp lý cho thể chế chính trị nhà nước và toàn bộ hệ thống pháp luật
của mỗi quốc gia, về phương thức tổ chức quyền lực nhà nước, tức là chính thể
nhà nước mà trong đó cốt lõi là việc thay thế chế độ quân chủ chuyên chế bằng
chế độ đại nghị, về dân quyền và mối quan hệ qua lại giữa công dân với nhà
nước” [155, tr. 75].
Như vậy, có thể hiểu, tư tưởng tư tưởng lập hiến là những nhận thức, lý
luận, quan điểm chỉ đạo về xây dựng hiến pháp, bao hàm các quan niệm về vai
trò, chủ thể lập hiến và những nội dung cơ bản của hiến pháp.
2.1.4. Tƣ tƣởng lập hiến Hồ Chí Minh
Từ những năm tháng hoạt động ở Pháp, Hồ Chí Minh phê phán chế độ cai
trị thực dân và nhận thấy sự cần thiết ban hành hiến pháp nói riêng, pháp luật
nói chung nhằm hạn chế lạm quyền của nhà nước, ghi nhận, đảm bảo quyền tự
do dân chủ của nhân dân. Một trong những yêu sách đầu tiên mà Người gửi đến
các nước đế quốc, là yêu sách về ban hành chế độ ra đạo luật thay các sắc lệnh,
dành cho người bản xứ những đảm bảo về pháp luật như người châu Âu. Khi về
nước lãnh đạo nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền, Người cũng
đồng thời chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho sự ra đời của một chế độ mới
và một bản hiến pháp của dân tộc. Những vấn đề về bầu cử, về chính thể, về mô
hình tổ chức bộ máy; về việc ghi nhận, đảm bảo thực hiện các quyền tự do dân
chủ cho nhân dân được Người nêu ra. Sau Cách mạng Tháng Tám, trong sáu
nhiệm vụ cấp bách của chính quyền cách mạng, chỉ sau nhiệm vụ giải quyết nạn
đói, nạn dốt là nhiệm vụ tổng tuyển cử bầu Quốc hội, để Quốc hội thay mặt
nhân dân soạn thảo hiến pháp dân chủ. Như vậy, quan điểm về sự cần thiết của
hiến pháp, về cách thức làm hiến pháp, về nội dung cơ bản của một bản hiến
pháp đã được hình thành trong thời kỳ tìm đường cứu nước, trở thành tư tưởng
nhất quán, xuyên suốt trong quá trình Người lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
33
Trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu tư tưởng lập hiến
được đặt trong phạm trù tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị, chủ yếu được đề
cập trong các công trình về nhà nước, pháp luật và chưa có nhiều công trình
nghiên cứu trực tiếp, chuyên sâu về vấn đề này. Bàn về khái niệm tư tưởng lập
hiến Hồ Chí Minh, có thể kể đến một số tác giả sau:
Bùi Ngọc Sơn trong cuốn Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh đưa ra khái
niệm: “Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh – những quan điểm, ý tưởng về tổ chức
nhà nước bằng hiến pháp là một trong những nội dung cơ bản cấu thành hệ tư
tưởng Hồ Chí Minh” [109, tr. 14].
Trong bài viết “Sự phát triển của chủ nghĩa lập hiến hiện đại ở Việt
Nam”, Đào Trí Úc phân tích khái niệm tư tưởng này ở nội hàm là quan điểm của
Hồ Chí Minh về nội dung của hiến pháp: “Theo tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh,
Hiến pháp là sự tổng hòa của các yếu tố: tư tưởng về dân chủ, sự ràng buộc của
quyền lực nhà nước bởi hiến pháp và pháp luật để qua đó mà kiểm soát quyền
lực, sự bảo đảm của các nguyên tắc pháp quyền, tôn trọng và bảo đảm nhân
quyền.” [131, tr.4].
Trên cơ sở kế thừa các thành tựu trong các công trình nghiên cứu đã công
bố, qua nghiên cứu Hồ Chí Minh, luận án đưa ra khái niệm: Tư tưởng lập hiến
Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện, sâu sắc về vấn đề lập
hiến ở Việt Nam, từ vai trò, chủ thể, nội dung và điều kiện lập hiến, với nội
dung cốt lõi là xây dựng bản Hiến pháp dân chủ. Tư tưởng ấy chứa đựng giá
trị khoa học, cách mạng và nhân văn sâu sắc, trở thành nền tảng lý luận
cho việc xây dựng các bản hiến pháp trong lịch sử lập hiến của dân tộc,
cho sự ra đời tư tưởng lập hiến Việt Nam hiện đại và góp phần bổ sung, phát
triển cho tư tưởng lập hiến của nhân loại.
Định nghĩa trên bao hàm hai nội dung chính:
Thứ nhất, tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh không phải là tập hợp đơn giản
những ý tưởng, suy nghĩ của Hồ Chí Minh về hiến pháp trong các giai đoạn cụ
thể; mà là một hệ thống quan điểm liên hệ chặt chẽ với nhau, mang tính toàn
34
diện, bao quát về những vấn đề cơ bản nhất của lập hiến: vai trò hiến pháp, chủ
thể lập hiến, nội dung hiến pháp và điều kiện lập hiến. Trong đó, hạt nhân cốt lõi
là xây dựng bản Hiến pháp dân chủ cho dân tộc Việt Nam.
Thứ hai, tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh có giá trị to lớn trên phương diện
lý luận và thực tiễn, dân tộc và nhân loại. Tư tưởng ấy đặt nền tảng cho sự ra đời
của tư tưởng lập hiến Việt Nam hiện đại, trở thành nền tảng lý luận để xây dựng
các bản Hiến pháp dân tộc; góp phần bổ sung, phát triển tư tưởng lập hiến nhân
loại ở các nội dung về chính thể nhà nước mới, về mô hình tổ chức quyền lực và
các giá trị nhân văn trong việc khẳng định quyền con người, quyền dân tộc.
2.2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG LẬP HIẾN HỒ CHÍ MINH
2.2.1. Tiền đề tƣ tƣởng – lý luận
2.2.1.1. Chủ nghĩa hiến pháp phương Tây
Từ những năm học ở trường Quốc học Huế, được làm quen với khẩu hiệu
”Tự do - Bình đẳng - Bác ái” của cách mạng tư sản Pháp, Nguyễn Tất Thành có ý
định sang phương Tây tìm hiểu thực chất của tư tưởng đó. Trong thời gian hoạt
động cách mạng ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc tiếp xúc, nghiên cứu chủ nghĩa
hiến pháp đang phát triển rất mạnh mẽ và phổ biến ở các nước phương Tây.
Chủ nghĩa hiến pháp là sản phẩm pháp lý của thời kỳ quá độ từ chế độ
quân chủ chuyên chế sang chế độ tư bản chủ nghĩa, gắn với lịch sử đấu tranh của
giai cấp tư sản nhằm giành quyền lực chính trị và thiết lập một trật tự chính trị -
pháp lý mới. Chủ nghĩa hiến pháp gắn liền với quan niệm về pháp quyền, về
một Chính phủ hữu hạn mà thẩm quyền tối hậu của nó luôn luôn phải tuân thủ
sự đồng ý của nhân dân. Quyền lực của người cầm quyền và các cơ quan Chính
phủ bị giới hạn thông qua những quy trình định sẵn. Đại diện tiêu biểu cho chủ
nghĩa hiến pháp thời kỳ này là các chính khách như Thomát Giécphécxơn và
Giêm Mađisơn, các triết gia như Thômát Hốpbơ, Giôn Lốccơ, Môngtétxkiơ…
Những yếu tố cấu thành chủ nghĩa hiến pháp gồm hai nội dung chính:
quyền lực và nội dung của hiến pháp. Theo đó, hiến pháp phải có quyền lực tối
cao, không một cơ quan nào của chính quyền được đình chỉ thi hành hiến pháp
35
hay đơn phương sửa đổi hiến pháp. Về nội dung hiến pháp là vấn đề chủ quyền
nhân dân, nhân quyền, phân quyền.
Để giới hạn quyền lực nhà nước, các nhà lập hiến chủ trương phân chia,
phân công, phân nhiệm và kiểm tra bằng cơ chế kìm chế và đối trọng. Bằng cách
phân định công việc của nhà nước cho ba ngành độc lập, các nhà soạn thảo hiến
pháp đảm bảo rằng những quyền lực của nhà nước không bị thao túng bởi nhánh
quyền lực nào. Jôn Lốckơ là người khởi thảo học thuyết phân quyền. Ông cho
rằng sự phân biệt các quyền là điều kiện tiên quyết và quan trọng để đảm bảo tự
do. Quyền lực nhà nước được phân chia thành ba quyền: lập pháp, hành pháp và
liên hợp. Trong tác phẩm kinh điển Tinh thần pháp luật, Môngtexkiơ phát triển
quan điểm này khi phân chia quyền lực nhà nước thành ba quyền là lập pháp,
hành pháp và tư pháp; ba nhánh quyền lực này chia tách, độc lập, cân bằng
quyền lực. Đồng thời, mỗi nhánh quyền lực bị kiềm chế, kiểm soát bởi các
quyền của hai nhánh kia. Tương ứng với 3 quyền đó là 3 cơ quan Quốc hội,
Chính phủ và Tòa án độc lập với nhau có phương thức hình thành, cách thức
hoạt động, lĩnh vực hoạt động riêng nhưng ràng buộc lẫn nhau. Phương thức để
nhân dân ủy thác quyền lực cho người đại diện là bầu cử.
Bên cạnh đó, trong quan niệm các nhà lập hiến, vấn đề nhân quyền và bảo
đảm nhân quyền là một nội dung quan trọng của hạn chế quyền lực nhà nước, là
nội dung cơ bản nhất của hiến pháp, chi phối kết cấu và nội dung khác của bản
hiến pháp. Quyền con người không chỉ là những quy định cụ thể trong hiến pháp
mà chủ yếu hiến pháp phải chỉ ra những hành vi mang tính trách nhiệm của nhà
nước trong việc bảo đảm cho những nhân quyền đó không được vi phạm. Các
nhà học giả tư sản đã dựa trên hai nền tảng chủ yếu là quyền tự nhiên và khế ước
xã hội để bảo vệ quyền con người, chống lại sự độc đoán, chuyên quyền của nhà
nước. Tiêu biểu quan điểm này là Rútxô. Trong tác phẩm Khế ước xã hội, Rútxô
khẳng định các quyền con người như quyền tự do, quyền bình đẳng là “quyền tự
nhiên và quyền của mọi người được ấn định bởi luật pháp” [59, tr. 75], cũng như
“luật không áp dụng cho riêng một cá nhân nào” [59, tr. 77]. Ông đề cao chủ
36
quyền nhân dân, tức ý chí chung của cộng đồng xã hội (nhân dân). Theo Rútxô,
chủ quyền nhân dân mang tính chất tối cao, không thể từ bỏ và không thể phân
chia. Việc chia quyền lực nhà nước thành quyền hành pháp, lập pháp, tư pháp
chỉ là biểu hiện bên ngoài, còn thực chất, các bộ phận này đều phụ thuộc vào và
nhằm thực hiện quyền lực tối cao của nhân dân. Quyền lực chính trị của chính
quyền sẽ bị thu hồi bất kỳ lúc nào nếu chính quyền không làm đúng chức năng
được nhân dân giao phó. Từ tư tưởng về chính quyền nhân dân, ông tìm đến giải
pháp chính trị theo chính thể cộng hòa, là hình thức cầm quyền tốt nhất trong đó
quyền lập pháp thuộc về nhân dân, quan chức do nhân dân bầu ra.
Tiếp xúc, nghiên cứu chủ nghĩa hợp hiến phương Tây, Hồ Chí Minh đã
hình thành quan điểm về sự cần thiết, tính tối cao của hiến pháp; về vai trò của
nhân dân trong việc thiết lập hiến pháp và thực thi quyền lực nhà nước; về sự
phân công quyền lực nhằm hạn chế sự lộng quyền của nhà nước. Ngoài ra, quan
điểm về quyền tự nhiên của con người, quyền tự do, bình đẳng con người trước
pháp luật, về chủ quyền nhân dân, luật pháp và chính phủ tồn tại để phục vụ
nguyện vọng của nhân dân mà không phải để áp đặt sự thống trị lên họ được
khẳng định trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền
và dân quyền của Pháp đã được Hồ Chí Minh tiếp thu và hình thành nên các
quan điểm nhất quán về quyền và nghĩa vụ của công dân. Tuy nhiên, không chỉ
nhận thức vai trò hiến pháp với việc khẳng định chủ quyền nhân dân, lập nên
chế độ nhà nước mới, với Hồ Chí Minh, hiến pháp còn là văn kiện để khẳng
định, xác lập nền độc lập dân tộc. Nếu học thuyết “tam quyền phân lập” là sự
phân chia quyền lực một cách tuyệt đối dẫn đến sự đối trọng, kiềm chế lẫn nhau,
thì đến Hồ Chí Minh, sự phân quyền chính là sự phân công hợp lý, cùng phối
hợp nhau trong một chỉnh thể thống nhất của quyền lực nhà nước.
2.2.1.2. Lý luận Mác – Lênin về hiến pháp
Để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh, không thể không nhắc đến cơ
sở lý luận quan trọng nhất: chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ sự nhận thức những hạn
37
chế của nền pháp quyền phương Tây, sau nhiều năm tìm tòi, Hồ Chí Minh đã có
sự lựa chọn đúng đắn là đến với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Bên cạnh kế thừa giá trị tiến bộ của pháp quyền tư sản là đề cao dân chủ,
chủ quyền nhân dân, vị trí tối thượng của pháp luật, trên cơ sở nhìn nhận bản
chất giai cấp của nhà nước, chủ nghĩa Mác cho rằng sự ra đời và phát triển của
hiến pháp bất kỳ nước nào đều là kết quả và sự đúc kết kinh nghiệm đấu tranh
giai cấp, biểu thị mối tương quan của các lực lượng, giai cấp ở những thời kỳ
lịch sử nhất định. Từ thực tế lịch sử, Mác đã chỉ ra rằng, hiến pháp là kết quả sự
vận động của đời sống chính trị, không những nội dung, mà cả hình thức của nó
đều chịu tác động trực tiếp của tiến trình đấu tranh giai cấp. Đó là ý chí của giai
cấp thống trị được nâng lên thành luật để bảo vệ giai cấp mình. Vì vậy, nó mang
bản chất của giai cấp thống trị xã hội. Pháp luật nói chung, hiến pháp nói riêng
là công cụ pháp lý mang tính cưỡng bức của giai cấp nắm quyền lực nhà nước,
nhằm quản lý, điều chỉnh các quan hệ xã hội; bảo vệ và duy trì trật tự công cộng
phù hợp với ý chí, lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Học thuyết Mác tiếp cận vấn đề quyền lực nhà nước từ góc độ quyền lực
chính trị, từ bản chất giai cấp gắn liền với chế độ chính trị, nên không chấp nhận
sự phân chia quyền lực nhà nước. Phê phán quan điểm phân quyền trong nhà
nước tư sản, Mác đã đưa ra quan niệm mới cho rằng, quyền lực nhà nước là
thống nhất và phải tập trung vào trong tay nhân dân. Phân quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp chỉ là sự phân công lao động trong quyền lực nhà nước thống
nhất. Đồng thời, Mác đưa ra những ý tưởng có tính nguyên tắc về nhà nước:
nhân dân bầu, giám sát đại biểu của mình; các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư
pháp đều chịu trách nhiệm trước cử tri, có thể bị bãi miễn; nhà nước thực hiện
đầy đủ nguyên tắc của chế độ tập trung dân chủ; nhân dân tham gia quản lý kinh
tế, văn hóa và xã hội.
Mác khẳng định chủ quyền nhân dân là quyền lực tối cao của nhà nước:
“Chủ quyền của nhân dân không phải là cái phát sinh từ chủ quyền của nhà vua,
mà ngược lại, chủ quyền của nhà vua dựa trên chủ quyền nhân dân” [10, tr.
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY

More Related Content

What's hot

Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
Kien Thuc
 

What's hot (17)

Giáo Trình Lịch Sử Các Học Huyết Pháp Lý
Giáo Trình Lịch Sử Các Học Huyết Pháp Lý Giáo Trình Lịch Sử Các Học Huyết Pháp Lý
Giáo Trình Lịch Sử Các Học Huyết Pháp Lý
 
Luật Hiến pháp và Chính trị học
Luật Hiến pháp và Chính trị họcLuật Hiến pháp và Chính trị học
Luật Hiến pháp và Chính trị học
 
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAYĐề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
Đề tài: Đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, HAY
 
Luận án: Hội quán người Hoa ở Nam Bộ từ cuối XVIII đến giữa XX
Luận án: Hội quán người Hoa ở Nam Bộ từ cuối XVIII đến giữa XXLuận án: Hội quán người Hoa ở Nam Bộ từ cuối XVIII đến giữa XX
Luận án: Hội quán người Hoa ở Nam Bộ từ cuối XVIII đến giữa XX
 
Quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà...
Quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà...Quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà...
Quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà...
 
Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền
Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyềnMối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền
Mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp trong Nhà nước pháp quyền
 
Luận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa
Luận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóaLuận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa
Luận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa
 
Ôn Tập Môn Luật Hiến Pháp
Ôn Tập Môn Luật Hiến Pháp Ôn Tập Môn Luật Hiến Pháp
Ôn Tập Môn Luật Hiến Pháp
 
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOTLuận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
 
Luận văn: Độc lập tư pháp và bảo đảm quyền con người, HAY
Luận văn: Độc lập tư pháp và bảo đảm quyền con người, HAYLuận văn: Độc lập tư pháp và bảo đảm quyền con người, HAY
Luận văn: Độc lập tư pháp và bảo đảm quyền con người, HAY
 
Luận văn: Tổ chức chính quyền đô thị tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Tổ chức chính quyền đô thị tại TPHCM, HAY, 9đLuận văn: Tổ chức chính quyền đô thị tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Tổ chức chính quyền đô thị tại TPHCM, HAY, 9đ
 
Luận văn: Vận dụng thừa kế pháp luật thời nhà Lê, nhà Nguyễn
Luận văn: Vận dụng thừa kế pháp luật thời nhà Lê, nhà NguyễnLuận văn: Vận dụng thừa kế pháp luật thời nhà Lê, nhà Nguyễn
Luận văn: Vận dụng thừa kế pháp luật thời nhà Lê, nhà Nguyễn
 
Tu tuong tri nuoc cua phap gia va vai tro cua no
Tu tuong tri nuoc cua phap gia va vai tro cua  noTu tuong tri nuoc cua phap gia va vai tro cua  no
Tu tuong tri nuoc cua phap gia va vai tro cua no
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tỉnh Lâm Đồng, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tỉnh Lâm Đồng, 9đLuận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tỉnh Lâm Đồng, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tỉnh Lâm Đồng, 9đ
 
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAYLuận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
 
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
Hội thảo Khoa học: Tổ chức Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 (5-2014)
 
Luận văn: Pháp gia trong tư tưởng chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đại
Luận văn: Pháp gia trong tư tưởng chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đạiLuận văn: Pháp gia trong tư tưởng chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đại
Luận văn: Pháp gia trong tư tưởng chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đại
 

Similar to Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY

GT TT HCM chương 1,2,3.pdf
GT TT HCM chương 1,2,3.pdfGT TT HCM chương 1,2,3.pdf
GT TT HCM chương 1,2,3.pdf
HeulwenGo
 

Similar to Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY (20)

Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HOT, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> ...
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HOT, 9đ  - Gửi miễn phí qua zalo=> ...Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HOT, 9đ  - Gửi miễn phí qua zalo=> ...
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HOT, 9đ - Gửi miễn phí qua zalo=> ...
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cách
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cáchTư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cách
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cách
 
Luận văn Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyề...
Luận văn Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyề...Luận văn Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyề...
Luận văn Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyề...
 
Đề tài: Quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp 1946, HAY
Đề tài: Quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp 1946, HAYĐề tài: Quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp 1946, HAY
Đề tài: Quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp 1946, HAY
 
Tiểu Luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Tiểu Luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt NamTiểu Luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Tiểu Luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
 
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...
 
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...
 
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...
 
Luận văn Tư tưởng pháp quyền phương tây cận đại với việc xây dựng nhà nước ph...
Luận văn Tư tưởng pháp quyền phương tây cận đại với việc xây dựng nhà nước ph...Luận văn Tư tưởng pháp quyền phương tây cận đại với việc xây dựng nhà nước ph...
Luận văn Tư tưởng pháp quyền phương tây cận đại với việc xây dựng nhà nước ph...
 
Đề cương chi tiết bài giảng TT HCM (1).pdf
Đề cương chi tiết bài giảng TT HCM (1).pdfĐề cương chi tiết bài giảng TT HCM (1).pdf
Đề cương chi tiết bài giảng TT HCM (1).pdf
 
Giáo trình tư tưởng hcm bộ giáo dục và đào tạo, lần 10
Giáo trình tư tưởng hcm  bộ giáo dục và đào tạo, lần 10Giáo trình tư tưởng hcm  bộ giáo dục và đào tạo, lần 10
Giáo trình tư tưởng hcm bộ giáo dục và đào tạo, lần 10
 
tu-tuong-ho-chi-minh-ve-thoi-ky-qua-do-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-nuoc-ta.pdf
tu-tuong-ho-chi-minh-ve-thoi-ky-qua-do-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-nuoc-ta.pdftu-tuong-ho-chi-minh-ve-thoi-ky-qua-do-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-nuoc-ta.pdf
tu-tuong-ho-chi-minh-ve-thoi-ky-qua-do-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-nuoc-ta.pdf
 
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vn
Tư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vnTư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vn
Tư tưởng Hồ Chí Minh - www.tailieubachkhoa.vn
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí MinhTư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh
 
Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời - Gửi miễn...
Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời - Gửi miễn...Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời - Gửi miễn...
Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện thời - Gửi miễn...
 
Luận án: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện...
Luận án: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện...Luận án: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện...
Luận án: Vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng John Locke và ý nghĩa hiện...
 
GT TT HCM chương 1,2,3.pdf
GT TT HCM chương 1,2,3.pdfGT TT HCM chương 1,2,3.pdf
GT TT HCM chương 1,2,3.pdf
 
Tailieu.vncty.com tu tuong ho chi minh thoi ki qua do len cnxh ở viet nam
Tailieu.vncty.com tu tuong ho chi minh thoi ki qua do len cnxh ở viet namTailieu.vncty.com tu tuong ho chi minh thoi ki qua do len cnxh ở viet nam
Tailieu.vncty.com tu tuong ho chi minh thoi ki qua do len cnxh ở viet nam
 
Ý thức công dân với việc xây dựng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, HAY - Gửi miễn p...
Ý thức công dân với việc xây dựng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, HAY - Gửi miễn p...Ý thức công dân với việc xây dựng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, HAY - Gửi miễn p...
Ý thức công dân với việc xây dựng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, HAY - Gửi miễn p...
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
K61PHMTHQUNHCHI
 

Recently uploaded (20)

Đồ án Công Nghệ Truyền Số Liệu L3VPN MPLS
Đồ án Công Nghệ Truyền Số Liệu L3VPN MPLSĐồ án Công Nghệ Truyền Số Liệu L3VPN MPLS
Đồ án Công Nghệ Truyền Số Liệu L3VPN MPLS
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docxtiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
 
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
 
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápHệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
 
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
 
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
 
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
 
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
 

Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY

  • 1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LÊ THỊ HẰNG TƢ TƢỞNG LẬP HIẾN HỒ CHÍ MINH: NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC MÃ SỐ: 60 31 02 03 Hà Nội - 2019
  • 2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LÊ THỊ HẰNG TƢ TƢỞNG LẬP HIẾN HỒ CHÍ MINH: NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC Mã số: 62 31 02 04 : 60 31 Ma02 03 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS. TS Lại Quốc Khánh 2. PGS. TS Lý Việt Quang Hà Nội - 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Lê Thị Hằng
  • 4. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng lập hiến là một bộ phận quan trọng. Tư tưởng ấy được định hình trong 30 năm Người hoạt động ở nước ngoài, được bổ sung và phát triển trên cơ sở trực tiếp chỉ đạo xây dựng các bản hiến pháp dân chủ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống dân tộc và tinh hoa của tư tưởng lập hiến trên thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Với tính chất là hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về lập hiến kiểu mới ở Việt Nam, tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh đã luận giải hàng loạt nội dung cơ bản nhất và cốt lõi nhất về xây dựng hiến pháp. Đó là quan điểm về vai trò, quyền lập hiến, các nội dung và điều kiện lập hiến. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, trong các luồng tư tưởng lập hiến Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, chỉ có tư tưởng lập hiến Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là duy nhất đúng đắn, tiến bộ và phù hợp với Việt Nam. Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng cho việc xây dựng các bản hiến pháp dân chủ trong lịch sử hiện đại của dân tộc Việt Nam. Là người khai sinh Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và giữ cương vị Chủ tịch nước trong suốt 24 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở đầu cho nền lập hiến cách mạng Việt Nam. Dấu ấn của Người thể hiện sâu sắc trong quá trình chỉ đạo xây dựng Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 với tư cách Trưởng ban Dự thảo hai bản Hiến pháp nói trên. Đặc biệt, Hiến pháp 1946 đã đánh dấu mốc quan trọng trong nền lập pháp của Việt Nam, được các nhà nghiên cứu và thực thi pháp luật đánh giá là “rất Việt Nam, mang đậm dấu ấn dân tộc và sắc thái phương Đông, đồng thời có vận dụng nhiều kinh nghiệm của Pháp và một phần của Mỹ về tổ chức nhà nước, thực sự biểu hiện tư duy sáng tạo của Hồ Chí Minh, của Đảng và nhân dân về vấn đề nhà nước” [36, tr.217]. Nhận thức rõ những giá trị lớn lao của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, trong quá trình tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước đã tổ chức triển khai nghiên cứu và vận dụng có hiệu quả tư tưởng của Người. Nếu như Hiến
  • 5. 2 pháp 1980 gần như mô phỏng hoàn toàn mô hình Hiến pháp Xô viết thì đến Hiến pháp 1992, trên nhiều mặt, đã trở lại giá trị Hiến pháp 1946. Hiến pháp 1992 đến nay đã qua hai lần bổ sung, sửa đổi vào năm 2001 và gần đây nhất là năm 2013. So với lần sửa đổi, bổ sung năm 2001, Hiến pháp 2013 được đánh giá là có nhiều điểm mới, tiến bộ, phù hợp với xu thế của thế giới, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của đất nước. Nhiều điểm mới, tiến bộ trong Hiến pháp năm 2013 là sự kế thừa và phát triển tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế của nước ta. Hiện nay, để nhận thức, tiếp tục hoàn thiện và thực thi Hiến pháp 2013 hiện nay, việc nghiên cứu tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, đặc biệt nhận thức rõ hơn các giá trị về tính nhân văn, tính khoa học của bản hiến pháp dân chủ; về mô hình tổ chức quyền lực nhà nước, kinh nghiệm, bài học về cách thức tổ chức xây dựng hiến pháp, về vận dụng, học tập kinh nghiệm nước ngoài vào thực tiễn Việt Nam sẽ góp phần sáng tỏ soi sáng nhiều vấn đề đang và sẽ đặt ra cả trong nhận thức lý luận và thực tiễn. Bên cạnh đó, tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh dù chứa đựng nhiều nội dung và giá trị to lớn, nhưng đến nay vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu trực tiếp, toàn diện, có hệ thống về tư tưởng lập hiến của Người. Đây là điểm cần tiếp tục bổ sung trong nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh. Với những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh chọn vấn đề: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, làm đề tài luận án tiến sĩ của mình. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Làm rõ nội dung và giá trị của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ nội hàm các khái niệm: Hiến pháp, lập hiến, tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh; cơ sở, quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh. - Phân tích có hệ thống nội dung cơ bản của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh. - Luận giải giá trị của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh.
  • 6. 3 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Nội dung tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh và những giá trị của tư tưởng này. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Nội dung: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh hiểu theo nghĩa rộng bao gồm nhiều nội dung từ soạn thảo, ban hành, sửa đổi và thực thi hiến pháp. Trong khuôn khổ luận án, tác giả trình bày những nội dung cơ bản nhất, gồm: vai trò lập hiến, quyền lập hiến; nội dung cơ bản của hiến pháp với hai vấn đề cốt lõi là Chính thể Dân chủ Cộng hòa, quyền và nghĩa vụ công dân; các nhân tố đảm bảo lập hiến. - Thời gian: Toàn bộ quá trình hình thành và phát triển tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh từ năm 1911 đến năm 1969 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, các quan điểm của Đảng, Nhà nước về lập hiến, các lý thuyết lập hiến phù hợp với đối tượng nghiên cứu. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp chuyên ngành và liên ngành để thực hiện đề tài, cụ thể là phương pháp lịch sử, phương pháp logic phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp khái quát hoá - trừu tượng hoá, phương pháp phỏng vấn chuyên gia, v.v., để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của luận án. 5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án Luận án làm rõ tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh một cách có hệ thống: từ nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển, đến nội dung và giá trị của tư tưởng, cũng như có sự phân tích, đánh giá sâu về nội dung và giá trị của tư
  • 7. 4 tưởng này. Trong đó, qua tư liệu biên bản các kỳ họp Quốc hội, các phiên họp của Ban sửa đổi Hiến pháp được khai thác tại các Trung tâm lưu trữ, tác giả trình bày, luận giải một số nhận thức mới về nội dung tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, từ đó có những nhận định, đánh giá sâu sắc và đầy đủ hơn về giá trị của tư tưởng này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận án góp phần bổ sung những nhận thức mới về tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, từ đó góp phần khẳng định vai trò nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng lập hiến của Người nói riêng đối với Đảng và cách mạng Việt Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Với những kết quả đạt được, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy và tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh; góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho đổi mới tư duy lập hiến, xây dựng và thực thi hiến pháp ở Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu thành 4 chương, 12 tiết
  • 8. 5 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1.1. Tình hình nghiên cứu về nội dung tƣ tƣởng lập hiến Hồ Chí Minh Nghiên cứu về các vấn đề chung của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, có một số công trình tiêu biểu sau: Là một trí thức lớn, một luật gia được đào tạo từ thời Pháp thuộc, từng có thời gian làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được làm việc trực tiếp với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Vũ Đình Hòe có những luận giải về tư tưởng Hồ Chí Minh trong Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh (2001). Tác giả cho rằng “Tư tưởng hiến chính của Nguyễn Ái Quốc nảy mầm là do sự kết hợp công lý và pháp lý Đông Tây, qua sự quan sát thực tế chế độ dân chủ ở cả các nước Tây Phương lẫn đất nước của Lênin. Quý hơn nữa, do đó mà vững vàng hơn: tư tưởng pháp quyền dân chủ ở Ông Nguyễn bắt rễ sâu vào truyền thống “lệ làng” của dân tộc ta”[44, tr. 342]. Tác giả cho rằng, những mầm mống của tư tưởng hiến chính của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện trong các tác phẩm Bản yêu sách nhân dân An Nam; Nhời hô hoán cùng Vạn Quốc hội với việc sắp đặt một nền hiến pháp theo những lý tưởng dân quyền. Từ giữa những năm 20 của thế kỉ XX (khi trở về Trung Quốc hoạt động) đến năm 1945, Nguyễn Ái Quốc suy nghĩ định hướng cho một kiểu hiến pháp thích hợp Việt Nam, chứ không nhất thiết kiểu Cộng hòa Xô viết: từ hình thức chính quyền công nông trong Đường Kách mệnh (1925) sang ý niệm chính quyền nhân dân (1941). Giai đoạn định hình rõ nét tư tưởng hiến chính từ khi Người trở về Tổ quốc, thể hiện trong việc xây dựng chính quyền ở những vùng giải phóng, ở các quy tắc bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích của toàn dân, hình thức chính quyền dân chủ trực tiếp tự nhiên tiến lên dân chủ đại diện, mà theo tác giả “đó là mầm mống của một chế độ pháp quyền dân chủ tư sản kiểu mới” [44, tr. 347]. Tác giả đánh giá sự kiện Đại hội quốc dân Tân Trào và Hội nghị Diên Hồng kiểu mới là
  • 9. 6 bước cuối cùng của quá trình sáng tạo tư duy “hiến chính dân tộc dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh” [44, tr. 348]. Tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh của Bùi Ngọc Sơn là một trong số ít cuốn sách trình bày có hệ thống và phân tích những vấn đề cơ bản trong tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nguyên tắc của hiến pháp; quyền lập hiến và sửa đổi hiến pháp; tổ chức quyền lực nhà nước và vấn đề dân quyền. Tác giả cho rằng, trong tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, có những tư tưởng, quan điểm mang tính chất chỉ đạo cho việc tổ chức quyền lực nhà nước, xác lập mối quan hệ giữa quốc quyền với dân quyền, đó là: đoàn kết dân tộc, chủ quyền nhân dân, định hướng xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Quyền lập hiến thuộc về nhân dân và lập hiến bằng tổ chức Tổng tuyển cử để nhân dân bầu ra Quốc hội, và Quốc hội sẽ soạn thảo ra hiến pháp, tức là bằng con đường Quốc hội lập hiến. Việc sửa đổi Hiến pháp, theo tác giả, có thể nhìn nhận tư duy của Hồ Chí Minh từ điều 70 của Hiến pháp 1946; “chủ thể đề nghị sửa đổi hiến pháp được trao cho cơ quan lập pháp” [109, tr. 85], với điều kiện có 2/3 tổng số nghị viên yêu cầu. Về vấn đề dân quyền, tác giả khẳng định đó là một đối tượng điều chỉnh quan trọng của hiến pháp và nêu một số quyền công dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh được ghi nhận trong Hiến pháp 1946: các quyền chính trị, các quyền tự do cá nhân, các quyền kinh tế - xã hội, các quyền văn hóa. Điều tác giả lưu ý là các quyền này trong Hiến pháp được thiết kế theo nguyên tắc dân quyền xuất phát từ nhân quyền, nên đó là những quyền tự nhiên của con người. Về quyền lực nhà nước, tác giả trình bày về sự chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước và bước đầu có sự đánh giá, so sánh với mô hình tổ chức nhà nước khác. Quốc hội do nhân dân bầu ra là cơ quan đại diện toàn dân, cơ quan có quyền lực nhà nước cao nhất, quyết định vấn đề quan trọng nhất [109, tr. 101]. Chủ tịch nước có quyền hành lớn và “mang những đặc thù của loại hình chính thể cộng hòa dân chủ nhân dân” [109, tr. 112]. Chính phủ là cơ quan trọng yếu trong chính thể nhà nước, “thực hiện quyền hành pháp, do Quốc hội thành lập, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác với Quốc hội” [109, tr. 124]. Tòa án là “cơ
  • 10. 7 quan giữ vị trí độc lập trong hệ thống cơ quan nhà nước, thực hiện quyền xét xử” [109, tr. 127]. Qua sự phân tích đó, tác giả khẳng định tính dân tộc và dân chủ sâu sắc của bộ máy nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở chương 1 cuốn sách Hiến pháp năm 1946 – Bản Hiến pháp đặt nền móng cho nền lập hiến Nhà nước Việt Nam của Đỗ Ngọc Hải [39], tác giả trình bày khái quát tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh thể hiện qua các tác phẩm Bản yêu sách của dân An Nam, Nhời hô hoán cùng Vạn Quốc hội, Chánh cương vắn tắt, Chương trình cách mạng của Mặt trận Việt Minh, Chương trình Mười điểm, Tuyên ngôn độc lập. Từ đó, tác giả rút ra một số nhận xét: khái niệm hiến pháp có rất sớm ở Hồ Chí Minh từ năm 1919, ngay cả khi Người chưa tìm thấy con đường đi cho dân tộc, nhưng đã nhận thấy vai trò, tác dụng của hiến pháp trong quản lý xây dựng đất nước; phải tự lập ra hiến pháp mới đáp ứng được yêu cầu nhân dân và phù hợp với điều kiện lịch sử đất nước mình; nội dung hiến pháp phải thể hiện học thuyết Mác- Lênin, thể hiện hiến pháp cộng hòa dân chủ. Tiếp đó, tác giả phân tích tư tưởng lập hiến của Hiến pháp 1946 là sự thể hiện cụ thể của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: hiến pháp vì dân, ban hành hiến pháp là để mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, mọi người dân được hưởng lợi; hiến pháp phải ghi lấy thành tích vẻ vang của cách mạng được thể hiện trong Lời nói đầu; hiến pháp là yếu tố trước tiên của một nhà nước dân chủ, nhà nước pháp quyền và là khuôn mẫu cho tổ chức, hoạt động của nhà nước dân chủ. Hồ Chí Minh lựa chọn sáng suốt những đại biểu soạn thảo Dự thảo Hiến pháp và “vai trò chọn người trong Ủy ban dự thảo Hiến pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là yếu tố cơ bản dẫn tới thành công của Ủy ban dự thảo” [39, tr. 61]. Trong bài viết Hồ Chủ tịch với những tư tưởng lập hiến trong Hiến pháp năm 1946, Đỗ Ngọc Hải đã phân tích rõ hơn và khẳng định trong bốn nội dung tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, thì “tư tưởng lập hiến vì dân là trọng tâm, cơ bản. Vì tất cả những tư tưởng sau chỉ để phục vụ cho tư tưởng thứ nhất. Nó phù hợp với quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin: Tất cả mọi khoa học phải vì con người, phục vụ con người” [40, tr. 6].
  • 11. 8 Trong cuốn Những vấn đề lý luận và thực tiễn về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 do Võ Khánh Vinh chủ biên [155], có đề cập đến một số quan điểm về lập hiến Hồ Chí Minh: sự cần thiết của hiến pháp; điều kiện ra đời của bản hiến pháp là độc lập dân tộc và chế độ dân chủ; mối quan hệ độc lập dân tộc và dân quyền, trong đó độc lập là nền tảng thực hiện dân quyền, muốn có dân quyền thì trước hết dân tộc phải độc lập, bởi vậy trước hết phải tập trung cho việc giành độc lập, dân quyền được thực hiện từng bước để phục vụ cho việc giành độc lập; quan điểm về chính thể nhân dân và “thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”. Tác giả nhận định Hồ Chí Minh là người khởi xướng tư tưởng lập hiến dân chủ nhân dân ở Việt Nam. Đó là tư tưởng lập hiến duy nhất đúng cho xã hội Việt Nam, được khảo chứng và phát huy trong thực tiễn. Tác giả nêu lên một số nội dung cơ bản của Hiến pháp 1946, là sự kết tinh và hiện thực hóa tư tưởng lập hiến kiểu mới Hồ Chí Minh: ba nguyên tắc trong Lời nói đầu; tổ chức chính quyền dân chủ với sự phân công nhiệm vụ cho từng cơ quan và thiết kế nhiều cơ chế kiểm tra, giam sát lẫn nhau giữa các cơ quan quyền lực nhà nước; tư tưởng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; ghi nhận quyền cơ bản của con người mà trước đó người dân Việt Nam chưa được thụ hưởng. Trong Lịch sử lập hiến cách mạng Việt Nam của Phan Đăng Thanh và Trương Thị Hòa [116], các tác giả nêu lên những nét đặc trưng của tư tưởng pháp quyền - lập hiến Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam: sự cần thiết của hiến pháp; về độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia; về tự do, nhân quyền và dân quyền; về tổ chức và hoạt động của nhà nước; về biểu tượng quốc gia: quốc kỳ, quốc ca. Bên cạnh đó, các tác giả chỉ ra một số quan điểm về lập hiến của Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát triển của tư tưởng lập hiến mácxít: Đảng Cộng sản giữ độc quyền lãnh đạo toàn xã hội; Nhà nước chuyên chính vô sản được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền chứ không phải phân quyền và nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân; các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng phải được chú ý củng cố và phát huy vai trò trong hệ thống
  • 12. 9 chính trị. Các tác giả dành một mục phân tích nội dung và tính chất lập hiến của Tuyên ngôn độc lập: đề cao quan hệ quốc tế bình đẳng, đề cao nguyên tắc quốc gia thống nhất, chủ quyền dân tộc và tự do dân chủ; xây dựng chế độ nhà nước cộng hòa, bảo đảm quyền độc lập dân tộc, tự do dân chủ cho công dân Việt Nam. Những tư tưởng trong Tuyên ngôn “cũng chính là sự tổng kết hùng hồn tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh và nhiều nhà cách mạng yêu nước Việt Nam khác, tích lũy trong suốt quá trình đấu tranh lập hiến liên tục suốt gần nửa thế kỷ trước ngày lịch sử 2-9-1945” [116, tr. 105]. Qua việc trình bày sự phát triển tư tưởng lập hiến trong nửa đầu thế kỉ XX ở Việt Nam, các tác giả khẳng định các luồng tư tưởng lập hiến “muôn màu, muôn vẻ”, không ngừng đấu tranh, cọ xát với nhau, trong đó, đi theo con đường đấu tranh lập hiến xã hội chủ nghĩa, đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì chỉ có Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhận thức về Hiến pháp theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Võ Thị Thúy Hà [38] trình bày khái quát nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về hiến pháp. Hiến pháp phải đảm bảo các quyền tự do dân chủ cho nhân dân, phải ghi nhận được những giá trị cơ bản nhất và quyền cao quý nhất của con người. Hiến pháp phải đề ra được các nguyên tắc thực hiện quyền lực nhà nước, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Nguyên tắc hiệu lực của hiến pháp thể hiện rõ nét ở quy định về thủ tục lập hiến và sửa đổi hiến pháp, việc giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với cơ quan và cá nhân có thẩm quyền. Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh về một bản hiến pháp dân chủ, của Trần Ngọc Đường [33], trình bày ba nội dung trong tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh. Thứ nhất, nước phải có độc lập, quốc gia có chủ quyền là điều kiện tiên quyết của hiến pháp và hiến pháp tuyên bố về mặt pháp lý một nhà nước độc lập, có chủ quyền, là phương tiện bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước. Thứ hai, hiến pháp phải là một bản hiến pháp dân chủ, dân chủ là điều kiện đủ cho sự ra đời của hiến pháp, dân chủ thể hiện ở trong nội dung và cách thức ban hành, đồng thời là phương tiện để nhân dân được hưởng quyền tự do dân chủ. Thứ ba,
  • 13. 10 “Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” bằng sức mạnh “thần linh pháp quyền” của hiến pháp. Đi sâu, tập trung phân tích những nội dung cụ thể của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh về các vấn đề vai trò, vị trí của hiến pháp; chủ quyền nhân dân; mô hình chính thể; tổ chức quyền lực nhà nước; về quyền con người, có một số bài viết, cuốn sách đáng chú ý Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của hiến pháp của Tào Thị Quyên [106] phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của hiến pháp đối với việc khẳng định chủ quyền của quốc gia, quy định thể chế nhà nước và đảm bảo quyền công dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng hiến pháp của Hà Thị Thùy Dương [25] nêu lên một số vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng một bản hiến pháp theo tư tưởng Hồ Chí Minh: kế thừa những điểm tích cực trong các bản hiến pháp trước; phản ánh tình hình hiện tại và xu thế phát triển của đất nước trong tương lai; đảm bảo đầy đủ quyền con người, quyền công dân; đảm bảo bản hiến pháp phải thực sự của nhân dân; quá trình xây dựng hiến pháp phải là quá trình làm việc rất công phu cẩn thận, nghiêm túc. Vấn đề chủ quyền nhân dân được các nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Dung, Trần Ngọc Đường, Nguyễn Xuân Tế, Đào Trí Úc….khẳng định trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến và “bằng quyền lập hiến, nhân dân trao cho nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [18, 114], cũng như có sự phân biệt giữa hoạt động lập pháp và hoạt động lập hiến, tức là quyền lập các quyền với các quyền đã được lập ra. Việc sửa đổi hiến pháp cũng phải được quyết định bởi nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lập hiến thông qua bầu Quốc hội lập hiến và thực hiện trưng cầu dân ý. Và chỉ khi nào thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến thì mới đảm bảo tính hiệu lực tối cao của hiến pháp. Trong mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân, các tác giả khẳng định nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, xây dựng nhà nước của dân, do
  • 14. 11 dân, vì dân. Nhà nước chỉ là cơ quan đại diện được nhân dân trao quyền, cán bộ, công chức là “công bộc” của nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân phải được thể hiện trực tiếp ở phương thức cơ bản thiết lập bộ máy nhà nước là bầu cử trực tiếp, theo nguyên tắc “phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”. Quan điểm này được Nguyễn Đình Lộc phân tích hệ thống trong cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân, [71] với những nội dung: không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ nhân dân; nêu cao tinh thần phụ trách trước dân, không được hao phí sức dân, phải làm mực thước cho dân; phải yêu dân, kính dân, không quan liêu, tham nhũng, chống quan liêu tham nhũng; dựa trên ý thức làm chủ Nhà nước của công dân; Nhà nước và nhân dân phải có quan hệ công bằng, “trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Hoàng Chí Bảo trong bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chính thể dân chủ và nhà nước pháp quyền để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân [5], nêu lên trong một chính thể dân chủ, thì nhân dân là chủ; cán bộ, đảng viên cũng như nhiệm vụ của chính quyền và đoàn thể là phụng sự nhân dân. Dân đã có quyền làm chủ thì cũng phải thi hành nghĩa vụ của người chủ. Để thực thi dân chủ và quyền làm chủ của dân trong thực tế, Hồ Chí Minh đề cao sức mạnh của luật pháp, của pháp chế và pháp quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền. Trong chương 3 cuốn sách Góp phần nghiên cứu hiến pháp và nhà nước pháp quyền của Bùi Ngọc Sơn, từ nêu dẫn chứng lịch sử, tác giả làm rõ vai trò Hồ Chí Minh với tiến trình xác lập chính thể Cộng hòa dân chủ nhân dân ở Việt Nam. Năm 1930, Hồ Chí Minh xác định sau khi giành độc lập sẽ tổ chức Chính phủ công - nông - binh, thực chất là việc tổ chức quyền lực nhà nước theo chính thể cộng hòa Xô-viết. Tuy nhiên, sau khi về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng, quan điểm về chính thể nhà nước của Hồ Chí Minh đã có những điều chỉnh phù hợp, từ hình thức chính phủ công - nông - binh sang hình thức chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tác giả phân tích: Cộng hòa dân chủ nhân dân thuộc loại hình chính thể cộng hòa dân chủ, …là một loại hình chính thể của Nhà nước vô sản, có những dấu hiệu đặc thù khác về bản chất so
  • 15. 12 với hình thức chính thể cộng hòa dân chủ tư sản [106, 212]. Điểm khác nổi bật là tổ chức quyền lực nhà nước phải được đặt trên cơ sở khối đại đoàn kết dân tộc, quyền lực thống nhất vào nhân dân thì quyền lực nhà nước cũng có sự thống nhất và phải có sự phân công minh bạch giữa các cơ quan nhà nước. Bên cạnh đó, đây là hình thức chính trị của chuyên chính vô sản, bảo đảm sự phát triển của xã hội Việt Nam theo định hướng xã hội xã hội chủ nghĩa. Nguyễn Thị Lan Phương trong Luận án Hồ Chí Minh với việc xây dựng thể chế chính trị Việt Nam Dân chủ cộng hòa, [105] đưa ra và phân tích năm quan điểm của Hồ Chí Minh về thể chế chính trị dành cho Việt Nam: Mô hình thể chế chính trị dành cho Việt Nam sau ngày độc lập là thể chế cộng hòa dân chủ nhân dân, nhà nước không thể chuyên quyền và phi pháp quyền, chủ thể quyền lực là nhân dân, nhà nước gồm ba nhánh quyền lực được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước. Tư tưởng ấy được hiện thực hóa trong quá trình Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng thể chế chính trị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa qua việc chỉ đạo thiết lập mô hình chính quyền trước Cách mạng tháng Tám; chỉ đạo soạn thảo, ban hành hai bản Hiến pháp, tham gia xây dựng và trực tiếp thực hiện chế định Chủ tịch nước, chỉ đạo xây dựng các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Với vấn đề xây dựng nhà nước, các tác giả đều thống nhất tư tưởng xuyên suốt của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước hợp hiến, hợp pháp từ việc Người chủ trương thành lập chính quyền cách mạng ở các khu giải phóng, triệu tập Quốc dân đại hội Tân Trào cử ra Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam đến đọc bản Tuyên ngôn độc lập; tổ chức Tổng tuyển cử và soạn thảo hiến pháp. Tổ chức quyền lực nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh và được thể hiện rõ nét trong hai bản Hiến pháp 1946, 1959, cũng như trong thực tiễn xây dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa là: quyền lực nhà nước là thống nhất, thuộc về nhân dân, có sự phân công, phối hợp giữa các nhánh: lập pháp, hành pháp, tư pháp, thông qua việc phân định rạch ròi nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước; ngăn ngừa sự lạm quyền của cơ quan nhà nước. Trong đó, Hồ Chí Minh rất quan
  • 16. 13 tâm đến việc xây dựng một nền hành chính mạnh, một Chính phủ mạnh và dám chịu trách nhiệm trước nhân dân. Có thể nêu một số cuốn sách, bài viết nghiên cứu vấn đề này như: Trong cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền, [18] các tác giả luận giải về một số quan điểm cơ bản về nhà nước pháp quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh: nhà nước được tổ chức theo hiến pháp do nhân dân thông qua; một nhà nước dân tộc, tập trung mọi quyền lực vào Quốc hội nhưng vẫn có sự phân công quyền lực giữa ba nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp, trong đó thủ lĩnh của đảng cầm quyền là người đứng đầu hành pháp và tư pháp độc lập; một nhà nước chịu trách nhiệm trước nhân dân và “nếu Chính phủ làm hại đến dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”. Trần Đình Huỳnh và Lê Thị Thanh trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật và hành chính nhà nước, phân tích tổ chức bộ máy Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được xác lập trong bản Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Các tác giả cho rằng là Người chủ trì xây dựng bản Hiến pháp đầu tiên, thông qua những quy định về cơ cấu nhà nước, nhiệm vụ, chức năng của các nhánh quyền lực nhà nước, Hồ Chí Minh giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa cơ quan hành pháp với cơ quan lập pháp và cơ quan tư pháp. Điểm đặc sắc trong tư duy Hồ Chí Minh là rất coi trọng hoạt động hành chính và đã chủ trương xây dựng hành chính mạnh, quy định rõ trách nhiệm của thành viên Chính phủ từ Chủ tịch nước đến từng Bộ trưởng và các nhân viên cơ quan nhà nước. Đức Vượng trong bài viết Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng chính quyền trong Hiến pháp 1946 và Hiến pháp năm 1959 [138] nêu vấn đề: Toàn bộ vấn đề chính quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trong Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 là chính quyền của dân, do dân, vì dân. Theo quan điểm của Người, hiến pháp của nhà nước ta phải thể hiện cho được nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc bầu cử và điều hành của bộ máy chính quyền; có sự phân định rõ ràng chức năng, quyền hạn của
  • 17. 14 từng cơ quan; phải thể hiện cho được tinh thần đoàn kết và tinh thần cần, kiệm, liêm, chính của hoạt động chính quyền nhà nước. Nguyễn Văn Thảo trong bài viết Thiết kế bộ máy nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh, in trong Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, [151, tr. 111-135] cho rằng tư tưởng về thiết lập một chính quyền mạnh, sáng suốt của nhân dân, hoạt động vì lợi ích của nhân dân là tư tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đã thiết kết một bộ máy nhà nước thể hiện tập trung ở các định chế Hiến pháp 1946, được hoàn thiện trong Hiến pháp 1959. Bộ máy nhà nước gồm: Quốc hội (Nghị viện nhân dân) là cơ quan cao nhất của đất nước nhưng không phải là cơ quan tập trung mọi quyền lực, Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất, Tòa án thực hiện quyền xét xử theo nguyên tắc độc lập. Luận giải vấn đề phân công quyền lực nhà nước, Nguyễn Minh Tuấn [140, tr. 214-227] cho rằng trong Hiến pháp 1946 có cơ chế phân quyền tương đối được thể hiện theo chiều ngang và chiều dọc nhằm chống độc quyền, chuyên chế, bảo vệ chính quyền nhân dân. Nội dung bản Hiến pháp cho thấy có sự thống nhất quyền lực, nhưng chưa rõ về quyền lực tuyệt đối, các nhánh quyền lực vẫn có tính độc lập tương đối, không có bất kỳ một cơ quan nào nào, dù thẩm quyền cao đến đâu có thể nắm toàn bộ quyền lực. Phân quyền theo chiều dọc làm cho chính quyền địa phương được chủ động theo từng cấp, đồng thời minh thị cơ chế chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu mắc sai lầm. Việc kiểm soát quyền lực được thực hiện bằng kiểm soát bên trong giữa các cơ quan nhà nước, đặc biệt giữa Nghị viện nhân dân với Chính phủ; kiểm soát bên ngoài bằng hàng loạt các quyền hiến định, được thừa nhận, bảo đảm và bảo vệ. So sánh những thay đổi tổ chức bộ máy nhà nước từ Hiến pháp 1946 đến 1959, có quan điểm đánh giá đó là sự thay đổi cần thiết, phù hợp với tình hình đất nước “Sự thay đổi ở đây là thay đổi cả nội dung nhiệm vụ nhà nước, thay đổi cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, thay đổi cả những quy định về chức năng quyền hạn của Chủ tịch nước” [123, tr. 82] và “Điều đó chứng tỏ rằng, Hồ Chí
  • 18. 15 Minh luôn luôn thấm nhuần tinh thần đổi mới và thực hiện sự đổi mới trong quá trình xây dựng nhà nước và pháp luật ở nước ta” [123, tr. 83]. Có tác giả cho rằng, đã có sự phát triển về mặt lý luận và thực tiễn về tổ chức bộ máy nhà nước trong giai đoạn thực hiện Hiến pháp 1959 trên ba điểm: nguyên tắc chỉ đạo việc tổ chức và xây dựng bộ máy nhà nước; mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước; chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước [17, tr. 23]. Bên cạnh đó, có quan điểm cho rằng bộ máy nhà nước của Hiến pháp 1959 có nhiều quy tắc thể hiện những nguyên tắc của việc tổ chức và hoạt động của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Các quy định của việc phân công, phân nhiệm rạch ròi giữa các cơ quan, sự kìm chế và đối trọng giữa các thiết chế quyền lực nhà nước không còn trong nội dung các quy định của Hiến pháp, mà nhường chỗ cho các quy định thể hiện sự tập trung quyền lực vào các cơ quan đại diện do nhân dân bầu ra. [17, tr. 26-27]. Vấn đề quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân trong tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh đã được một số công trình đề cập đến. Các tác giả thống nhất nhận định với Hồ Chí Minh, quyền con người là một nội dung cơ bản của hiến pháp. Quyền con người gắn bó chặt chẽ với quyền dân tộc và quyền dân tộc, quyền con phải được thể chế hoá bằng hiến pháp - đạo luật cơ bản của đất nước. Trong các bản Hiến pháp do Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo, quyền và nghĩa vụ công dân được trang trọng đặt ngay ở chương đầu tiên, khẳng định đó là những quyền vốn có, tự nhiên của con người chứ không phải là sự ban phát từ nhà nước. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân chỉ có thể được thực hiện khi có một bộ máy nhà nước vững mạnh, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, Phạm Ngọc Anh chủ biên, [1], các tác giả trình bày một cách hệ thống những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người: các quyền chính trị - dân sự, quyền kinh tế, văn hóa xã hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; các quyền theo giới, lứa tuổi, dân tộc: quyền phụ nữ, quyền trẻ em, quyền các dân tộc thiểu số trong
  • 19. 16 cộng đồng dân tộc Việt Nam. Trên thực tế, những quyền con người chính đáng đó đã được ghi nhận trang trọng trong hai bản Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo, cũng như trong các bản Hiến pháp về sau của Việt Nam. Phạm Ngọc Dũng trong Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin về xây dựng nhà nước pháp quyền, [24], khẳng định đảm bảo quyền con người là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh. Nhà nước pháp quyền theo quan điểm của Người là nhà nước trước hết phải bảo vệ quyền con người. Bài viết Hiến pháp Việt Nam và vấn đề quyền con người, quyền công dân của Hoàng Văn Hảo phân tích tư tưởng lập pháp vì con người của Hồ Chí Minh được thể hiện trong Yêu sách của nhân dân An Nam và cụ thể hóa qua những quy định cụ thể về các quyền bình đẳng, quyền chính trị, quyền tư hữu tài sản… trong các điều khoản của các bản Hiến pháp Việt Nam. Tác giả đánh giá cao những giá trị quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp 1946 “mặc dù ra đời trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, nhưng Hiến pháp 1946 đã long trọng ghi nhận những giá trị quyền con người mà nhân dân ta đã giành được, xem nó là nội dung cốt lõi của Hiến pháp dân chủ” [138, tr. 223]. Trên thế giới, các nghiên cứu về tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng lập hiến còn khá ít ỏi. Tsuboi Yoshiharu trong tham luận “Khảo cứu lại Hồ Chí Minh” cho rằng Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa cộng hòa và giá trị mà Hồ Chí Minh coi trọng nhất trong suốt cuộc đời của mình là những giá trị của nền Cộng hòa. Từ sự phân tích nhận thức Hồ Chí Minh về tinh thần nền Cộng hòa Pháp, tác giả cho rằng “có lẽ Hồ Chí Minh là lãnh đạo chính trị duy nhất ở Đông Á nhận thức một cách đúng đắn nhất tinh thần nền Cộng hòa và Ông đã cố gắng đưa nó vào Việt Nam.” [129]. Geetesh Sharman trong bài Đấng cứu tinh của hòa bình, độc lập và hạnh phúc, [35] khẳng định nhân dân luôn là tâm điểm của quá trình tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong lời nói và việc làm của Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến độc lập
  • 20. 17 và phúc lợi của nhân dân; luôn đề ra và thực thi những chính sách, chiến lược theo hướng coi nhân dân là nhân tố quyết định. Người đã đồng hóa cái cốt lõi của toàn bộ kinh nghiệm với triết lý của mình và do đó triết lý chính trị theo định hướng vì nhân dân hoàn toàn thực dụng và thực tiễn. So với các vĩ nhân của thời kỳ hiện tại thì những lý tưởng và chính sách của Hồ Chí Minh dễ hiểu hơn đối với quyền lợi của nhân dân. Mark Sidel trong cuốn sách một cuốn sách “The Constitution of Vietnam - A Contextual Anlysis.” (Hiến pháp Việt Nam - Phân tích bối cảnh) [74] đánh giá Hiến pháp 1946 là một bản Hiến chương cho độc lập và thống nhất. Khác biệt so với các hiến pháp xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp năm 1946 đã cố gắng xây dựng tính đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trước một Chính phủ non trẻ [74, tr. 27]. “Hiến pháp 1946 không đặt ra các lý thuyết kinh tế, không sử dụng một cách dập khuôn các tư tưởng cộng sản, cũng như sự chiến thắng của chuyên chính vô sản. Hiến pháp 1946 không giống Hiến pháp của nền Đệ tứ Cộng hòa Pháp năm 1946 nhìn từ các quy định cụ thể... Giống như Bản Tuyên ngôn độc lập, Hiến pháp 1946 chịu ảnh hưởng của các nhà nước Alglo-Saxon, đặc biệt là Hoa Kỳ”. [74, tr. 27-28]. Những điểm mà Mark Sidel đánh giá là tiến bộ của Hiến pháp 1946 đó là quyền bầu cử ứng cử, quyền bảo đảm sở hữu tài sản, phúc quyết và bãi miễn; tổ chức quyền lực nhà nước đã trao cho Chủ tịch nước vị trí đặc biệt và quy định về bỏ phiếu không tín nhiệm với Bộ trưởng, Nội các; tính dân chủ trong quy trình tư pháp. Theo tác giả, Hiến pháp 1946 có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thống nhất quốc gia dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản bằng cách xác lập khuôn khổ tổ chức một nhà nước và thu hút tối đa sự ủng hộ của mọi tầng lớp trong xã hội đối với Nhà nước mới [74, tr. 33-34]. Những điểm hạn chế là Hiến pháp 1946 không có quy định nào trực tiếp về bảo hiến, quyền lực quá lớn của Ban Thường vụ, thiếu cơ chế bảo đảm tính độc lập của Tòa án, Hiến pháp không được công bố nên một số hoạt động thực thi chính sách sau đó có dấu hiệu vi hiến như vấn đề thực thi chính sách ruộng đất.
  • 21. 18 Jean-Marie Crouzatier, một giáo sư luật của Pháp cho rằng Hiến pháp đầu tiên ở Việt Nam không có chút nào của các bản hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp 1946 có mục tiêu phù hợp với tối đa nguyện vọng của đa số người dân trong các quy định về quyền chính trị, kinh tế, xã hội; bảo đảm vai trò của người dân thông qua quyền phúc quyết toàn dân, bảo đảm tư hữu tài sản, thiết lập chế độ chịu trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội, thiết lập một Nghị viện có nhiệm kỳ ngắn tối thiểu (3 năm) [59, tr. 56]. Trái với quan điểm trên, Stein Tonnesson trong bài viết “Ho Chi Minhs First Constitution (1946) - Hiến pháp đầu tiên của Hồ Chí Minh (1946) [113] cho rằng bản hiến pháp đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh lại không có vị trí đáng kể trong lịch sử Việt Nam. Giải thích điều này, tác giả đưa ra 5 lý do. Thứ nhất là những khiếm khuyết về nội dung của bản hiến pháp: vấn đề chủ quyền nhân dân; không có sự phân chia quyền lực giữa các ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp; thiếu vắng cơ chế bảo hiến. Thứ hai, về quy trình lập hiến đã không tập hợp được toàn bộ các yếu tố và lực lượng chính trị cốt lõi, có ảnh hưởng ở Việt Nam vào thời điểm đó và thể hiện trong hiến pháp. Thứ ba, hiến pháp Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc, có thể nói là sao chép cả quy trình lập hiến và nội dung của bản Hiến pháp Đệ tứ Cộng hòa Pháp năm 1946. Thứ tư, hiến pháp không được trưng cầu dân ý. Thứ năm, hiến pháp được xây dựng trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt của phong trào cộng sản quốc tế, nên Đảng Cộng sản theo đuổi chính sách dân tộc thay vì giai cấp. Mặc dù có những quan điểm trái chiều, nhưng các bài viết giúp chúng ta có một cái nhìn đầy đủ hơn, đa chiều hơn về hiến pháp Việt Nam, cũng như các vấn đề khi nghiên cứu tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh được thể hiện qua Hiến pháp 1946. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu về giá trị tƣ tƣởng lập hiến Hồ Chí Minh Đến nay các công trình nghiên cứu về tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh chủ yếu mới nêu và phân tích về phần nội dung tư tưởng, ít công trình đi sâu khảo cứu về phần giá trị. Tuy nhiên, trong các cuốn sách, bài viết về hiến pháp, đặc
  • 22. 19 biệt là Hiến pháp 1946, các tác giả phần nào đề cập giá trị tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh ở việc đặt nền móng chủ nghĩa lập hiến mới và chế độ chính trị mới ở Việt Nam, sự sáng tạo về mô hình nhà nước, đề cao chủ quyền nhân dân, quyền công dân... được thể hiện trong nội dung và cách thức xây dựng bản Hiến pháp này. Từ tư tưởng lập hiến Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đến Hiến pháp 1946 của Ngô Văn Thâu trình bày sự phát triển tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh từ những năm Người ra đi tìm đường cứu nước đến bản Hiến pháp 1946, trong đó tác giả tập trung phân tích ba nguyên tắc được ghi trong Hiến pháp 1946 “là sự thể hiện tập trung nhất tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh. Đấy là những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và cách mạng, là những phạm trù lập hiến của các nước phương Tây, của Liên Xô được khái quát hóa và vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trên cơ sở phát huy truyền thống yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm, nhân ái, đoàn kết của nhân dân ta” và “ba nguyên tắc ấy là một thể thống nhất, có quan hệ nội tại cần được nghiên cứu, vận dụng” [119, tr. 16]. Bài viết Bác Hồ với Quốc hội và bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam Dân Chủ cộng hòa của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đánh giá cao Hiến pháp 1946 dưới sự điều hành của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Mặc dầu đất nước đang hết sức bộn bề với muôn vàn công việc khẩn cấp, Ban dự thảo Hiến pháp đã họp nhiều phiên dưới sự chủ tọa trực tiếp của Bác. Với trí tuệ uyên bác, với quan điểm lấy dân làm gốc, Bác đã đưa vào bản Hiến pháp đầu tiên ở nước ta những điều luật ngang tầm với nền chính trị tiên tiến của thế giới lúc bấy giờ và nhiều điều còn có giá trị nóng hổi tính thời sự đến ngày hôm nay” [138, tr. 22]. Bài “Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về hiến trị, đức trị” của Lê Văn Hòe [43], từ sự phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về lập pháp, lập hiến tác giả kết luận: Tư tưởng hiến trị, pháp trị dân chủ của Hồ Chí Minh thể hiện tính khoa học, sáng tạo sâu sắc. Tư tưởng ấy mãi mãi là kim chỉ nam cho sự nghiệp
  • 23. 20 xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam cùng với công cuộc xây dựng nhà nước và pháp luật hiện nay. Trong bài Sự phát triển của chủ nghĩa lập hiến hiện đại ở Việt Nam, Đào Trí Úc, khẳng định: Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập ra nhà nước Việt Nam mới sau khi Việt Nam giành độc lập năm 1945, đồng thời là người sáng lập về chủ nghĩa lập hiến Việt Nam hiện đại. Trong tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, các yếu tố dân chủ, hiến pháp và pháp luật, quyền con người gắn bó với nhau vì hiến pháp được coi là tiền đề, nền tảng pháp lý cho quyền lực chính trị của nhân dân và bảo đảm quyền tự do, thực sự con người. “Tư tưởng Hồ Chí Minh là tiền đề quan trọng cho việc xây dựng và phát triển một nền chính trị trên nền tảng hiến pháp” [131, tr. 3]. Trong bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền lập hiến Việt Nam, [102] Bùi Đình Phong rút ra một số giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh. Về giá trị lý luận, tác giả nêu ba điểm: giá trị nhân văn, tất cả vì con người; giá trị khoa học thể hiện ở việc chắt lọc quan điểm lập hiến của Anh, Pháp, Mỹ, Nga và từ thực tiễn Việt Nam; giá trị cách mạng trong việc xóa cái ác, trau dồi cái thiện. Về giá trị thực tiễn, tác giả cho rằng cần vận dụng tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh trong xây dựng con người, tăng cường giáo dục văn hóa làm người, nâng cao năng lực lãnh đạo cầm quyền và phẩm chất đạo đức của Đảng, cán bộ đảng viên và mỗi công dân trong quá trình vận hành bộ máy nhà nước pháp quyền. Phân tích giá trị mô hình nhà nước trong Hiến pháp 1946, các nhà nghiên cứu về cơ bản thống nhất nhận định: tổ chức quyền lực Hiến pháp 1946 là sự thể hiện rõ nét tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ của dân, do dân, vì dân. Hồ Chí Minh lựa chọn mô hình tập quyền, quyền lực cao nhất thuộc về các cơ quan dân cử, nhưng có sự phân công rành mạch, hợp lý giữa các nhánh quyền lực. Người không áp dụng mô hình phân quyền như các nước tư sản, không tạo ra sự phân lập giữa các quyền theo kiểu quyền lực đối chọi quyền lực. Điểm nổi bật trong mô hình tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 1946 là đề cao vai
  • 24. 21 trò của Nghị viện nhân dân, nhấn mạnh vai trò của Nghị viện trong giám sát Chính phủ, đề cao tính độc lập của hệ thống Tòa án, phân quyền rõ nét và hợp lý cho chính quyền địa phương. Trong Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh [44], Vũ Đình Hòe cho rằng “Hiến chính Hồ Chí Minh mà Cách mạng tháng Tám xác nhận và thực thi bằng bản Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bằng hệ thống Quốc hội và Hội đồng nhân dân - Ủy ban hành chính xuất hiện dồn dập - là một Hiến chính dân tộc dân chủ, mang đậm sắc thái đất nước và con người Việt Nam” [44, tr. 348]. Tác giả nhận định cái bất biến trong tư tưởng hiến chính Hồ Chí Minh là quyền tự do, bình đẳng của con người, cái bất biến trong tình cảm và lý trí của Người là nhân đạo và chính nghĩa, là yêu nước, thương nòi. Cốt lõi trong tư tưởng của Người là Nhân nghĩa, là Pháp lý tự nhiên, pháp lý nhân bản, chứa đựng tư tưởng hiến chính sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này tiếp tục được tác giả khẳng định và làm rõ ở cuốn sách cùng tên xuất bản sau đó “Hai bản Hiến pháp 1946, 1959 được xây dựng trên những nguyên tắc dân chủ đặc sắc, chưa từng thấy ở đâu, là một Nhà nước toàn dân, một nền pháp quyền toàn dân và một mô hình cao quý Đảng toàn dân. Ngay cả những luận điểm Nhà nước - pháp quyền, xã hội công dân, đến nay thế giới mới nêu thì trên thực tiễn cách mạng Việt Nam, không có gì xa lạ với Bác Hồ chúng ta” [45, tr. 741]. Trong một số bài viết của mình, Nguyễn Đăng Dung so sánh thể chế nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Hiến pháp 1946 với các thể chế nhà nước Xô viết, Cộng hòa Đại nghị, Tổng thống Cộng hòa để thấy rõ sự sáng tạo tài tình của Hồ Chí Minh trong thiết lập thể chế nhà nước độc đáo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tác giả khẳng định “Có thể nói, Hồ Chủ tịch và các đồng chí của Người đã tìm ra một mô hình đặc thù của nhà nước Việt Nam phù hợp với điều kiện ở một dân tộc phương Đông muốn thoát khỏi chế độ thực dân nửa phong kiến, muốn xây dựng một cuộc sống đầy đủ, ấm no cho nhân dân, độc lập có chủ quyền cho quốc gia của mình và không phải phụ thuộc vào các nước
  • 25. 22 mạnh khác” [19, tr. 19]. Với việc sáng tạo một chính thể cộng hòa đặc biệt, Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cho sự hình thành một loại hình của chính thể lưỡng tính cộng hòa hiện đại. Tác giả cho rằng giá trị lớn nhất của mô hình tổ chức nhà nước của Hiến pháp 1946 là quy định về bản chất dân tộc, không phân biệt giai cấp của nhà nước. Trong cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, Nguyễn Anh Tuấn chủ biên, từ sự phân tích đặc điểm mô hình chính thể Cộng hòa nhân dân, các tác giả đánh giá “Xét một cách tổng thể, chính thể cộng hòa nhân dân là một chính thể đặc thù, sản phẩm của sự sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh từ thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tính chất đặc thù của chính thể Cộng hòa dân chủ nhân dân mà Chủ tịch sáng tạo ra không ngừng được phát huy trong quá trình hoàn thiện mô hình tổ chức quyền lực Nhà nước Việt Nam” [126, tr. 82-83]. Trong chương 3 cuốn sách Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp kinh nghiệm Việt Nam và thế giới, các tác giả dành một mục để phân tích những giá trị của Hiến pháp 1946 là tạo ra mô hình tổ chức nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không hoàn toàn giống bất kì mô hình nhà nước nào: cơ sở nhà nước là toàn dân tộc không phân biệt giai cấp và tài sản, một cơ cấu nhà nước với bộ máy hành pháp mạnh; so với bản hiến pháp sau này là bản Hiến pháp có nhiều dấu ấn chủ nghĩa hợp hiến hơn cả thể hiện cách tiếp cận gần với quyền con người nhất, điều khoản về quyền tư hữu tài sản, suy đoán vô tội và quy định về sự phân quyền nhằm hạn chế quyền lực, chống lại sự lạm quyền của các cơ quan nhà nước nhằm bảo vệ nhân quyền. Các tác giả phân tích vai trò điều hành của Hồ Chí Minh với sự ra đời của bản Hiến pháp 1946, đặc biệt trong việc tập hợp nhân tài soạn thảo hiến pháp. Từ đó các tác giả rút ra bài học: “Muốn cách mạng thành công việc áp dụng các học thuyết và kinh nghiệm của các nước trên thế giới vào Việt Nam phải có sự vận dụng sáng tạo và ngược lại, không có sự vận dụng sáng tạo đều tạo ra những cơ sở cho sự thất bại” [20, tr.246-247].
  • 26. 23 Bùi Ngọc Sơn nêu những vấn đề cần tiếp tục kế thừa và phát triển tư tưởng lập hiến trong điều kiện hiện nay. Đó là tư tưởng về một nền pháp quyền với việc tăng cường các thiết chế giám sát quyền lực ở các cơ quan lập pháp, tư pháp; với việc xây dựng đạo đức và hình thành tư duy phục vụ trong công quyền. Bên cạnh đó, từ sự phân tích các nội dung, một số điểm hạn chế trong Hiến pháp 1992, tác giả nêu lên yêu cầu phải trở lại giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm thực sự quyền lập hiến thuộc về nhân dân, các vấn đề về dân quyền, về triết lý thần linh pháp quyền, về Chính phủ và một nền tư pháp. Đối với việc xây dựng Chính phủ trong một nền pháp quyền, tác giả nêu lên các yêu cầu: cơ cấu phải tinh gọn, thẩm quyền phải mạnh, Chính phủ phải tồn tại trong môi trường đạo đức trong sạch, Chính phủ phải minh bạch và tăng cường ý thức trách nhiệm trong hoạt động của mình. Đối với việc xây dựng nền tư pháp độc lập, tác giả nhấn mạnh các yếu tố: cần tổ chức tòa án theo cấp xét xử, cải tiến thủ tục tố tụng, tăng cường và nâng cao chất lượng cũng như có sự quan tâm đúng mức đến đời sống của các thẩm phán, thiết lập hệ thống những thông số để đánh giá về mức độ độc lập của toà án [109]. Đối với vấn đề quyền con người, các nhà nghiên cứu khẳng định: Hồ Chí Minh có cách tiếp cận sáng tạo về quyền con người, có sự kết hợp hài hòa giữa những giá trị tiến bộ của văn minh phương Tây với tư tưởng nhân văn cộng sản và điều kiện, hoàn cảnh đặc thù của dân tộc Việt Nam. Những quan điểm của Người được thể chế hóa trong các bản Hiến pháp, rõ nét nhất là bản Hiến pháp 1946. Có tác giả nhận định “Xét tổng quát, trong lịch sử lập hiến ở Việt Nam, cho đến thời điểm hiện nay, đỉnh cao của tinh thần tôn trọng, đề cao nhân quyền vẫn là bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946. ….Trong bản Hiến pháp này, vấn đề quyền con người, quyền công dân được đặc biệt đề cao, theo những cách thức và mức độ hơn hẳn so với tất cả các bản Hiến pháp về sau của Việt Nam” [140, 124-125] Bên cạnh đó, sau khi Hiến pháp 2013 ban hành, có nhiều bài viết của các nghiên cứu, nhà luật học phân tích và khẳng định những điểm mới, điểm tiến bộ trong Hiến pháp 2013 như vấn đề chủ thể quyền lập hiến, phân định quyền lập
  • 27. 24 hiến và quyền lập pháp; quyền con người, quyền công dân; vấn đề phân quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước; tổ chức bộ máy nhà nước, mối quan hệ giữa quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước…. là sự kế thừa, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong Hiến pháp 1946 trong thời kỳ mới. Qua đó, chứng minh giá trị và sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ Chí Minh, đặt ra yêu cầu tiếp tục nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực thi hiến pháp và xây dựng nền pháp quyền Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, trong các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật; về lịch sử lập hiến và các bản Hiến pháp Việt Nam như Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân, Nxb Chính trị quốc gia, 1998; Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia, 2009; Bàn về lập hiến do Phạm Văn Hùng ch.b, Nxb Lao động, 2010, Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, 2011; Tư tưởng pháp lý dân tộc, dân chủ tuyệt vời của Hồ Chủ Tịch của Phạm Thành Vinh, tạp chí Luật học số 2/1975; Hồ Chí Minh với việc xây dựng một nền hành chính vững mạnh, có hiệu lực (qua Hiến pháp 1946) của Lê Phương Thảo, Đoàn Minh Huấn tạp chí Lịch sử Đảng số 1/1999, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Người sáng lập nền Cộng hòa dân chủ Việt Nam, Người đặt nền móng cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta của Trần Đình Huỳnh - Lê Thị Thanh, tạp chí Cộng sản tháng 9/2016.... có đề cập đến những nội dung liên quan tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh. Đây là những tài liệu tham khảo có giá trị, giúp sáng tỏ thêm các vấn đề luận án cần nghiên cứu. 1.2. THÀNH TỰU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 1.2.1. Những vấn đề đã đƣợc nghiên cứu Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ở trên cho thấy nghiên cứu tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, các tác giả đề cập đến các vấn đề sau: Các tác giả về cơ bản đều thống nhất tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng ấy
  • 28. 25 được hình thành trong những điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam và thế giới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX; qua quá trình hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Các nội dung trong tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh được các tác giả đề cập đến: về sự cần thiết của hiến pháp, nguyên tắc xây dựng hiến pháp, quan điểm về độc lập dân tộc, về chủ quyền nhân dân, vấn đề chính thể Cộng hòa Dân chủ, tổ chức quyền lực nhà nước theo mô hình tập quyền nhưng vẫn có sự phân công rành mạch giữa các nhánh quyền lực, quyền và nghĩa vụ công dân. Có tác giả cho rằng ba nguyên tắc được ghi trong Hiến pháp 1946 là đoàn kết dân tộc, đảm bảo các quyền tự do dân chủ, thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân chính là nội dung cơ bản nhất của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh. Có tác giả khẳng định tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh được thể hiện tập trung ở các nội dung: nguyên tắc hiến pháp, quyền lập hiến, tổ chức quyền lực nhà nước và vấn đề dân quyền. Phân tích giá trị tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu đã thống nhất và khẳng định Hồ Chí Minh là người đặt nền móng nền lập hiến cách mạng Việt Nam. Trong các luồng tư tưởng lập hiến đa dạng đầu thế kỉ XX, tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh là duy nhất đúng đắn, phù hợp với Việt Nam. Những tư tưởng lập hiến của Người có giá trị to lớn trong công cuộc xây dựng hiến pháp và nền pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Ở từng góc độ khác nhau, các tác giả phân tích giá trị tư tưởng này trong việc sáng tạo mô hình Chính thể độc đáo và phù hợp với Việt Nam; thiết kế bộ máy Nhà nước có hiệu lực, linh hoạt, đảm bảo thực thi quyền con người, quyền công dân. Bên cạnh đó, những bài học kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn Hồ Chí Minh chỉ đạo xây dựng Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, đặc biệt là bài học tập hợp, phát huy sức mạnh trí tuệ của nhân sĩ, trí thức, phát huy sức mạnh của toàn thể nhân dân được nhiều tác giả đề cập đến. 1.2.2. Những vấn đề đặt ra đƣợc luận án tiếp tục nghiên cứu Trên cơ sở thành quả nghiên cứu đã có về tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, tác giả luận án tiếp tục nghiên cứu tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh ở những vấn đề sau:
  • 29. 26 Thứ nhất, luận án cần trình bày đầy đủ, chính xác nội hàm khái niệm tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, làm định hướng việc nghiên cứu một cách đúng hướng và toàn diện. Thứ hai, làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, trong đó tập trung phân tích những quan trọng nhất, trực tiếp nhất như: chủ nghĩa hiến pháp, lý luận Mác - Lênin về hiến pháp, tư tưởng lập hiến của các nhà cách mạng Việt Nam tiền bối. Đồng thời, có sự phân chia các giai đoạn theo mốc quan trọng, đánh dấu bước phát triển trong việc hình thành và phát triển tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh. Thứ ba, do cách tiếp cận và mục tiêu của các công trình nghiên cứu khác nhau, nên các vấn đề nghiên cứu mà các tác giả đã tập trung bàn tới là vai trò của hiến pháp trong việc định danh chính thể mới, ghi nhận quyền con người; tổ chức quyền lực nhà nước và vấn đề quyền và nghĩa vụ công dân. Những quan điểm của Hồ Chí Minh về quyền lập hiến, các nhân tố đảm bảo lập hiến ít được bàn tới hoặc mới chỉ nêu khái lược, chưa có sự phân tích và có những dẫn chứng cụ thể trong các tác phẩm, trong thực tiễn hoạt động của Hồ Chí Minh. Bởi vậy, luận án tiếp tục nghiên cứu nội dung tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh với tư cách là một chỉnh thể thống nhất và đi sâu phân tích, cung cấp thêm tư liệu để làm rõ các quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về lập hiến, bao gồm: vai trò của hiến pháp trong việc định danh chính thể mới, ghi nhận quyền con người, tuyên bố chủ quyền quốc gia, đặt nền móng xây dựng nhà nước pháp quyền; quyền lập hiến và phương thức thực hiện quyền lập hiến của nhân dân; chính thể và tổ chức quyền lực nhà nước; quyền và nghĩa vụ công dân; các nhân tố đảm bảo lập hiến. Thứ tư, phân tích một số giá trị cốt lõi trong tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh. Luận án cần chỉ rõ những điểm mà Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kết tinh, phát triển và sáng tạo các tư tưởng chính trị pháp lý của dân tộc và thế giới, cũng như vai trò nền tảng, định hướng của tư tưởng này; sự vận dụng trong việc xây dựng các bản Hiến pháp của dân tộc. Từ đó, gợi mở một số vấn đề cần tiếp
  • 30. 27 tục nghiên cứu để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và hoàn thiện hiến pháp hiện nay. Tiểu kết chƣơng 1 Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trên lĩnh vực lập hiến, lập pháp, Hồ Chí Minh đã để lại nhiều di sản quý báu. Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm về những vấn đề cốt lõi hình thành thể chế chính trị của một đất nước: sự cần thiết ban hành hiến pháp, chủ quyền nhân dân, chính thể và tổ chức quyền lực nhà nước, quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân, điều kiện thực hiện lập hiến. Tư tưởng ấy thể hiện trí tuệ, nhãn quan chính trị và tầm nhìn của lãnh tụ đối với việc kiến thiết mô hình xây dựng đất nước độc lập và dân chủ. Nhận thức tầm quan trọng của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh với xây dựng hiến pháp nói riêng, xây dựng nền pháp quyền nói chung ở Việt Nam hiện nay, tác giả lựa chọn vấn đề này để nghiên cứu. Qua quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy tuy đã có một số công trình nghiên cứu về tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh cũng như sự vận dụng tư tưởng đó với việc xây dựng các bản hiến pháp trong lịch sử dân tộc, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống những quan điểm cơ bản và phân tích những giá trị cốt lõi của tư tưởng này, từ đó nêu lên những vấn đề đặt ra với việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực thi hiến pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay. Những công trình nghiên cứu đã nêu trên là nguồn tư liệu quan trọng để nghiên cứu sinh tiếp thu, kế thừa, phục vụ cho việc nghiên cứu, hoàn thành luận án của mình.
  • 31. 28 Chƣơng 2: CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƢ TƢỞNG LẬP HIẾN HỒ CHÍ MINH 2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN 2.2.1. Hiến pháp Thuật ngữ hiến pháp đã ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại. Theo tiếng Latinh “hiến pháp” - “constitutio”, có nghĩa là sự thiết lập, xác định. Nhà nước La Mã cổ đại dùng thuật ngữ này để gọi các văn bản quy định của Hoàng đế. Nhưng sự ra đời của “hiến pháp” với tính chất là đạo luật cơ bản của nhà nước, có giá trị giới hạn quyền lực nhà nước là sản phẩm của chủ nghĩa lập hiến và gắn liền với thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản. Theo quan điểm của các nhà Khai sáng Pháp, cần phải có bản Khế ước chung giữa nhân dân và nhà nước, trong đó nhân dân trao quyền lực của mình một cách có điều kiện, có giới hạn cho nhà nước để phục vụ và bảo vệ nhân dân. Theo cách định nghĩa hiện đại và phổ biến ngày nay trong cuốn Từ điển Luật, thì “hiến pháp là luật tổ chức cơ bản của một quốc gia hay một nhà nước thiết lập các thể chế và bộ máy chính quyền, xác định phạm vi quyền lực của chính quyền và bảo đảm các quyền và tự do của công dân” [8, tr. 353]. Chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm pháp luật nói chung, hiến pháp nói riêng trên cơ sở bản chất giai cấp: Hiến pháp là của ai? Phục vụ cho lợi ích của giai cấp (hoặc các giai cấp) nào? Hiến pháp được tạo ra vì một trật tự xã hội theo định hướng giai cấp nào? Theo đó, mọi hiến pháp đều là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, đều là công cụ mà giai cấp hoặc liên minh chính trị cầm quyền sử dụng để khẳng định và duy trì sự thống trị của mình. Ở Việt Nam, thuật ngữ “hiến pháp” được đề cập khá phổ biến trong các cuốn sách, giáo trình, tài liệu nghiên cứu về Luật Hiến pháp, lập pháp, lập hiến. Theo Từ điển chính trị vắn tắt, “Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước, quy định các nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội và nhà nước, hệ thống các cơ quan Nhà nước, thể chế tổ chức và hoạt động của các cơ quan đó, các quyền và nghĩa vụ của công dân” [61, tr. 164].
  • 32. 29 Theo Từ điển Tiếng Việt, “Hiến pháp là luật lệ căn bản của Nhà nước, quy định chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, tổ chức bộ máy nhà nước” [128, tr. 456]. Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng, “Hiến pháp là đạo luật cơ bản quy định những vấn đề quan trọng nhất như chế độ chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, hệ thống tổ chức, nguyên tắc hoạt động và thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước” [69, tr. 125]. Thuật ngữ Hiến pháp được Hồ Chí Minh đề cập sớm, từ năm 1919 khi diễn ca Yêu sách của nhân dân An Nam: “Bảy xin hiến pháp ban hành”. Trong khi chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng nêu ra nhiệm vụ sau khi giành độc lập, sẽ xây dựng bản hiến pháp mới cho Việt Nam theo tinh thần dân chủ. Với quan niệm “hiến pháp là luật chính” [55, tr. 85], sau khi cách mạng thành công, Người chỉ đạo xây dựng các bản hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với yêu cầu: ghi lấy thành tích vẻ vang của cách mạng, tuyên bố tuyên bố thế giới quyền tự do của dân tộc Việt Nam, quyền bình đẳng nam - nữ, bình đẳng giai cấp và tinh thần đoàn kết dân tộc. Qua các cách tiếp cận trên, trong luận án, hiến pháp được hiểu theo nghĩa là luật gốc, là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản pháp luật quốc gia, quy định chế độ chính trị quốc gia, ấn định cách tổ chức và phân công quyền lực nhà nước; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. 2.1.2. Lập hiến Trong tiếng Hán, chữ “lập” có các nghĩa: “1. Đứng, đứng vững; 2. Dựng lên; 3. Đứng thẳn; 4. Gây dựng, lập, ký kết ; 5. Sống còn, tồn tại; 6. Ngay tức khắc, lập tức”. [12, tr. 691-692]. Chữ “hiến” được viết trong Kinh thi (thế kỷ VIII trước Công nguyên) mang ý nghĩa là khuôn phép, khuôn mẫu dành cho các bậc vua, chúa; trong Kinh thi (thế kỷ V trước Công nguyên) với nghĩa là pháp lệnh. Trong bộ sử cổ nhất của Việt Nam còn tồn tại đến ngày nay (Đại Việt sử ký toàn thư, quyển số 7, tờ 12) có chép: “Quốc gia đã có hiến, nước Tàu và
  • 33. 30 nước Nam khác nhau”. Chữ hiến trong câu này có nghĩa là phép tắc, chế độ nói chung, chứ không phải là “hiến pháp” theo nghĩa ngày nay. Theo Tự điển Hán Việt của Trần Văn Chánh thì ““hiến” có nghĩa là: 1. Pháp lệnh; 2. Hiến pháp: Lập hiến” [12, tr. 356]. Hiểu theo nghĩa này, thuật ngữ lập hiến có nghĩa là gây dựng, thành lập nên pháp lệnh, phép nước. Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa thì lập hiến có nghĩa là lập nên hiến pháp và làm tiêu chuẩn cho chính thể: Chính thể lập hiến. Theo Từ điển Luật học, lập hiến được hiểu là: “Định ra hiến pháp (Quốc hội lập hiến, quân chủ lập hiến....). Quyền lập hiến là quyền làm hiến pháp (biểu quyết tán thành thông qua theo trình tự lập hiến) và sửa đổi, bổ sung hiến pháp hoặc làm hiến pháp mới” [7, tr. 459] Theo Từ điển Tiếng Việt, lập hiến là định ra hiến pháp [128, tr. 534]. Bàn về khái niệm lập hiến, Trần Ngọc Đường trong cuốn Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về việc xây dựng và ban hành hiến pháp cho rằng: “Lập hiến là ban hành hiến pháp, là một quyền không giới hạn, nghĩa là, các chủ thể có quyền lập hiến không bị ràng buộc bởi một thủ tục pháp lý nào và không hạn chế về nội dung của hiến pháp”[34, tr. 344]. Trả lời lập hiến là gì, trong cuốn sách ABC về hiến pháp - 83 câu hỏi đáp, Nguyễn Đăng Dung giải thích: “Xây dựng hiến pháp (còn được gọi là lập hiến hay làm “hiến pháp”) là việc thảo luận, soạn thảo, ban hành hiến pháp” [23, tr. 7]. Hồ Chí Minh tuy không đưa ra định nghĩa lập hiến, nhưng qua việc làm cụ thể của Người như chỉ đạo tổ chức bầu Quốc hội lập hiến, thành lập Ủy ban soạn thảo hiến pháp, tổ chức kỳ họp Quốc hội và lấy ý kiến nhân dân, sau đó Quốc hội thông qua để ban hành Hiến pháp, có thể nói, Người đã tiếp cận lập hiến theo nghĩa xây dựng hiến pháp gồm các bước: soạn thảo, thảo luận, thông qua, ban hành bản Hiến pháp. Từ những các hiểu trên, trong luận án sử dụng thuật ngữ lập hiến theo nghĩa là xây dựng hiến pháp, hay nói cách khác là toàn bộ quy trình và tổng thể
  • 34. 31 hoạt động tạo lập nên một bản hiến pháp từ khi lên kế hoạch cho đến khi được thông qua và có hiệu lực trong thực tế. Lập hiến bao gồm cả việc lập nên bản hiến pháp mới hoặc sửa đổi, bổ sung hiến pháp hiện hành. 2.1.3. Tƣ tƣởng lập hiến Sự ra đời của một bản hiến pháp đều dựa trên những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo về xây dựng và sửa đổi hiến pháp nhất định. Nội dung của một bản hiến pháp đều là kết quả của việc thể chế hoá các tư tưởng, quan điểm đó. Tư tưởng lập hiến còn được gọi là tư tưởng về xây dựng hiến pháp được phổ biến rộng rãi trong thời kỳ cách mạng tư sản. Trong thời kỳ này, bên cạnh việc giương cao ngọn cờ tự do, dân chủ, bình đẳng, giai cấp tư sản đề ra khẩu hiệu lập hiến với mục đích huy động quần chúng nhân dân tham gia cuộc cách mạng tư sản lật đổ giai cấp phong kiến cầm quyền. Nội dung chủ yếu của khẩu hiệu lập hiến thể hiện ở việc yêu cầu xây dựng một bản hiến pháp, trong đó ghi nhận chủ quyền nhân dân, tổ chức quyền lực nhà nước, mối quan hệ công dân - nhà nước; từ đó làm cơ sở pháp lý vững chắc cho sự ra đời của một nhà nước mới và bảo vệ quyền cơ bản của con người. Trong các nghiên cứu ở Việt Nam về hiến pháp, đã có những công trình đề cập đến khái niệm tư tưởng lập hiến. Trong Luận án Lịch sử tư tưởng lập hiến nửa đầu thế kỉ XX và sự ra đời của bản Hiến pháp đầu tiên ở Việt Nam, Đặng Thanh Xuân nêu định nghĩa: “Tư tưởng lập hiến là những quan điểm, chính kiến liên quan đến yêu cầu xây dựng, hoàn thiện bản hiến pháp ở Việt Nam với tư cách là một văn kiện pháp lý cơ bản của nhà nước và những ý kiến, quan điểm liên quan đến thủ tục xây dựng hiến pháp, liên quan đến nội dung văn kiện hiến pháp mà cụ thể là về thể chế chính trị, về quốc gia và chủ quyền quốc gia, về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, về tổ chức bộ máy nhà nước, về các biểu tượng quốc gia như quốc kỳ, quốc ca, quốc hiệu” [157, tr. 13]. Với những đặc điểm đó, tác giả khẳng định: “Tư tưởng lập hiến là một bộ phận quan trọng của tư tưởng pháp quyền, thuộc lĩnh vực chính trị, nó chịu ảnh hưởng sâu sắc, trực tiếp của quan điểm, tư tưởng chính trị” [157, tr. 14].
  • 35. 32 Võ Khánh Vinh trong Những vấn đề lý luận và thực tiễn về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 cho rằng “Tư tưởng lập hiến, hay còn gọi tư tưởng về hiến pháp, bao hàm các quan niệm về sự cần thiết phải có một đạo luật cơ bản, để làm nền tảng pháp lý cho thể chế chính trị nhà nước và toàn bộ hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, về phương thức tổ chức quyền lực nhà nước, tức là chính thể nhà nước mà trong đó cốt lõi là việc thay thế chế độ quân chủ chuyên chế bằng chế độ đại nghị, về dân quyền và mối quan hệ qua lại giữa công dân với nhà nước” [155, tr. 75]. Như vậy, có thể hiểu, tư tưởng tư tưởng lập hiến là những nhận thức, lý luận, quan điểm chỉ đạo về xây dựng hiến pháp, bao hàm các quan niệm về vai trò, chủ thể lập hiến và những nội dung cơ bản của hiến pháp. 2.1.4. Tƣ tƣởng lập hiến Hồ Chí Minh Từ những năm tháng hoạt động ở Pháp, Hồ Chí Minh phê phán chế độ cai trị thực dân và nhận thấy sự cần thiết ban hành hiến pháp nói riêng, pháp luật nói chung nhằm hạn chế lạm quyền của nhà nước, ghi nhận, đảm bảo quyền tự do dân chủ của nhân dân. Một trong những yêu sách đầu tiên mà Người gửi đến các nước đế quốc, là yêu sách về ban hành chế độ ra đạo luật thay các sắc lệnh, dành cho người bản xứ những đảm bảo về pháp luật như người châu Âu. Khi về nước lãnh đạo nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền, Người cũng đồng thời chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho sự ra đời của một chế độ mới và một bản hiến pháp của dân tộc. Những vấn đề về bầu cử, về chính thể, về mô hình tổ chức bộ máy; về việc ghi nhận, đảm bảo thực hiện các quyền tự do dân chủ cho nhân dân được Người nêu ra. Sau Cách mạng Tháng Tám, trong sáu nhiệm vụ cấp bách của chính quyền cách mạng, chỉ sau nhiệm vụ giải quyết nạn đói, nạn dốt là nhiệm vụ tổng tuyển cử bầu Quốc hội, để Quốc hội thay mặt nhân dân soạn thảo hiến pháp dân chủ. Như vậy, quan điểm về sự cần thiết của hiến pháp, về cách thức làm hiến pháp, về nội dung cơ bản của một bản hiến pháp đã được hình thành trong thời kỳ tìm đường cứu nước, trở thành tư tưởng nhất quán, xuyên suốt trong quá trình Người lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
  • 36. 33 Trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu tư tưởng lập hiến được đặt trong phạm trù tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị, chủ yếu được đề cập trong các công trình về nhà nước, pháp luật và chưa có nhiều công trình nghiên cứu trực tiếp, chuyên sâu về vấn đề này. Bàn về khái niệm tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, có thể kể đến một số tác giả sau: Bùi Ngọc Sơn trong cuốn Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm: “Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh – những quan điểm, ý tưởng về tổ chức nhà nước bằng hiến pháp là một trong những nội dung cơ bản cấu thành hệ tư tưởng Hồ Chí Minh” [109, tr. 14]. Trong bài viết “Sự phát triển của chủ nghĩa lập hiến hiện đại ở Việt Nam”, Đào Trí Úc phân tích khái niệm tư tưởng này ở nội hàm là quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung của hiến pháp: “Theo tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, Hiến pháp là sự tổng hòa của các yếu tố: tư tưởng về dân chủ, sự ràng buộc của quyền lực nhà nước bởi hiến pháp và pháp luật để qua đó mà kiểm soát quyền lực, sự bảo đảm của các nguyên tắc pháp quyền, tôn trọng và bảo đảm nhân quyền.” [131, tr.4]. Trên cơ sở kế thừa các thành tựu trong các công trình nghiên cứu đã công bố, qua nghiên cứu Hồ Chí Minh, luận án đưa ra khái niệm: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện, sâu sắc về vấn đề lập hiến ở Việt Nam, từ vai trò, chủ thể, nội dung và điều kiện lập hiến, với nội dung cốt lõi là xây dựng bản Hiến pháp dân chủ. Tư tưởng ấy chứa đựng giá trị khoa học, cách mạng và nhân văn sâu sắc, trở thành nền tảng lý luận cho việc xây dựng các bản hiến pháp trong lịch sử lập hiến của dân tộc, cho sự ra đời tư tưởng lập hiến Việt Nam hiện đại và góp phần bổ sung, phát triển cho tư tưởng lập hiến của nhân loại. Định nghĩa trên bao hàm hai nội dung chính: Thứ nhất, tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh không phải là tập hợp đơn giản những ý tưởng, suy nghĩ của Hồ Chí Minh về hiến pháp trong các giai đoạn cụ thể; mà là một hệ thống quan điểm liên hệ chặt chẽ với nhau, mang tính toàn
  • 37. 34 diện, bao quát về những vấn đề cơ bản nhất của lập hiến: vai trò hiến pháp, chủ thể lập hiến, nội dung hiến pháp và điều kiện lập hiến. Trong đó, hạt nhân cốt lõi là xây dựng bản Hiến pháp dân chủ cho dân tộc Việt Nam. Thứ hai, tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh có giá trị to lớn trên phương diện lý luận và thực tiễn, dân tộc và nhân loại. Tư tưởng ấy đặt nền tảng cho sự ra đời của tư tưởng lập hiến Việt Nam hiện đại, trở thành nền tảng lý luận để xây dựng các bản Hiến pháp dân tộc; góp phần bổ sung, phát triển tư tưởng lập hiến nhân loại ở các nội dung về chính thể nhà nước mới, về mô hình tổ chức quyền lực và các giá trị nhân văn trong việc khẳng định quyền con người, quyền dân tộc. 2.2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG LẬP HIẾN HỒ CHÍ MINH 2.2.1. Tiền đề tƣ tƣởng – lý luận 2.2.1.1. Chủ nghĩa hiến pháp phương Tây Từ những năm học ở trường Quốc học Huế, được làm quen với khẩu hiệu ”Tự do - Bình đẳng - Bác ái” của cách mạng tư sản Pháp, Nguyễn Tất Thành có ý định sang phương Tây tìm hiểu thực chất của tư tưởng đó. Trong thời gian hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc tiếp xúc, nghiên cứu chủ nghĩa hiến pháp đang phát triển rất mạnh mẽ và phổ biến ở các nước phương Tây. Chủ nghĩa hiến pháp là sản phẩm pháp lý của thời kỳ quá độ từ chế độ quân chủ chuyên chế sang chế độ tư bản chủ nghĩa, gắn với lịch sử đấu tranh của giai cấp tư sản nhằm giành quyền lực chính trị và thiết lập một trật tự chính trị - pháp lý mới. Chủ nghĩa hiến pháp gắn liền với quan niệm về pháp quyền, về một Chính phủ hữu hạn mà thẩm quyền tối hậu của nó luôn luôn phải tuân thủ sự đồng ý của nhân dân. Quyền lực của người cầm quyền và các cơ quan Chính phủ bị giới hạn thông qua những quy trình định sẵn. Đại diện tiêu biểu cho chủ nghĩa hiến pháp thời kỳ này là các chính khách như Thomát Giécphécxơn và Giêm Mađisơn, các triết gia như Thômát Hốpbơ, Giôn Lốccơ, Môngtétxkiơ… Những yếu tố cấu thành chủ nghĩa hiến pháp gồm hai nội dung chính: quyền lực và nội dung của hiến pháp. Theo đó, hiến pháp phải có quyền lực tối cao, không một cơ quan nào của chính quyền được đình chỉ thi hành hiến pháp
  • 38. 35 hay đơn phương sửa đổi hiến pháp. Về nội dung hiến pháp là vấn đề chủ quyền nhân dân, nhân quyền, phân quyền. Để giới hạn quyền lực nhà nước, các nhà lập hiến chủ trương phân chia, phân công, phân nhiệm và kiểm tra bằng cơ chế kìm chế và đối trọng. Bằng cách phân định công việc của nhà nước cho ba ngành độc lập, các nhà soạn thảo hiến pháp đảm bảo rằng những quyền lực của nhà nước không bị thao túng bởi nhánh quyền lực nào. Jôn Lốckơ là người khởi thảo học thuyết phân quyền. Ông cho rằng sự phân biệt các quyền là điều kiện tiên quyết và quan trọng để đảm bảo tự do. Quyền lực nhà nước được phân chia thành ba quyền: lập pháp, hành pháp và liên hợp. Trong tác phẩm kinh điển Tinh thần pháp luật, Môngtexkiơ phát triển quan điểm này khi phân chia quyền lực nhà nước thành ba quyền là lập pháp, hành pháp và tư pháp; ba nhánh quyền lực này chia tách, độc lập, cân bằng quyền lực. Đồng thời, mỗi nhánh quyền lực bị kiềm chế, kiểm soát bởi các quyền của hai nhánh kia. Tương ứng với 3 quyền đó là 3 cơ quan Quốc hội, Chính phủ và Tòa án độc lập với nhau có phương thức hình thành, cách thức hoạt động, lĩnh vực hoạt động riêng nhưng ràng buộc lẫn nhau. Phương thức để nhân dân ủy thác quyền lực cho người đại diện là bầu cử. Bên cạnh đó, trong quan niệm các nhà lập hiến, vấn đề nhân quyền và bảo đảm nhân quyền là một nội dung quan trọng của hạn chế quyền lực nhà nước, là nội dung cơ bản nhất của hiến pháp, chi phối kết cấu và nội dung khác của bản hiến pháp. Quyền con người không chỉ là những quy định cụ thể trong hiến pháp mà chủ yếu hiến pháp phải chỉ ra những hành vi mang tính trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm cho những nhân quyền đó không được vi phạm. Các nhà học giả tư sản đã dựa trên hai nền tảng chủ yếu là quyền tự nhiên và khế ước xã hội để bảo vệ quyền con người, chống lại sự độc đoán, chuyên quyền của nhà nước. Tiêu biểu quan điểm này là Rútxô. Trong tác phẩm Khế ước xã hội, Rútxô khẳng định các quyền con người như quyền tự do, quyền bình đẳng là “quyền tự nhiên và quyền của mọi người được ấn định bởi luật pháp” [59, tr. 75], cũng như “luật không áp dụng cho riêng một cá nhân nào” [59, tr. 77]. Ông đề cao chủ
  • 39. 36 quyền nhân dân, tức ý chí chung của cộng đồng xã hội (nhân dân). Theo Rútxô, chủ quyền nhân dân mang tính chất tối cao, không thể từ bỏ và không thể phân chia. Việc chia quyền lực nhà nước thành quyền hành pháp, lập pháp, tư pháp chỉ là biểu hiện bên ngoài, còn thực chất, các bộ phận này đều phụ thuộc vào và nhằm thực hiện quyền lực tối cao của nhân dân. Quyền lực chính trị của chính quyền sẽ bị thu hồi bất kỳ lúc nào nếu chính quyền không làm đúng chức năng được nhân dân giao phó. Từ tư tưởng về chính quyền nhân dân, ông tìm đến giải pháp chính trị theo chính thể cộng hòa, là hình thức cầm quyền tốt nhất trong đó quyền lập pháp thuộc về nhân dân, quan chức do nhân dân bầu ra. Tiếp xúc, nghiên cứu chủ nghĩa hợp hiến phương Tây, Hồ Chí Minh đã hình thành quan điểm về sự cần thiết, tính tối cao của hiến pháp; về vai trò của nhân dân trong việc thiết lập hiến pháp và thực thi quyền lực nhà nước; về sự phân công quyền lực nhằm hạn chế sự lộng quyền của nhà nước. Ngoài ra, quan điểm về quyền tự nhiên của con người, quyền tự do, bình đẳng con người trước pháp luật, về chủ quyền nhân dân, luật pháp và chính phủ tồn tại để phục vụ nguyện vọng của nhân dân mà không phải để áp đặt sự thống trị lên họ được khẳng định trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp đã được Hồ Chí Minh tiếp thu và hình thành nên các quan điểm nhất quán về quyền và nghĩa vụ của công dân. Tuy nhiên, không chỉ nhận thức vai trò hiến pháp với việc khẳng định chủ quyền nhân dân, lập nên chế độ nhà nước mới, với Hồ Chí Minh, hiến pháp còn là văn kiện để khẳng định, xác lập nền độc lập dân tộc. Nếu học thuyết “tam quyền phân lập” là sự phân chia quyền lực một cách tuyệt đối dẫn đến sự đối trọng, kiềm chế lẫn nhau, thì đến Hồ Chí Minh, sự phân quyền chính là sự phân công hợp lý, cùng phối hợp nhau trong một chỉnh thể thống nhất của quyền lực nhà nước. 2.2.1.2. Lý luận Mác – Lênin về hiến pháp Để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh, không thể không nhắc đến cơ sở lý luận quan trọng nhất: chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ sự nhận thức những hạn
  • 40. 37 chế của nền pháp quyền phương Tây, sau nhiều năm tìm tòi, Hồ Chí Minh đã có sự lựa chọn đúng đắn là đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Bên cạnh kế thừa giá trị tiến bộ của pháp quyền tư sản là đề cao dân chủ, chủ quyền nhân dân, vị trí tối thượng của pháp luật, trên cơ sở nhìn nhận bản chất giai cấp của nhà nước, chủ nghĩa Mác cho rằng sự ra đời và phát triển của hiến pháp bất kỳ nước nào đều là kết quả và sự đúc kết kinh nghiệm đấu tranh giai cấp, biểu thị mối tương quan của các lực lượng, giai cấp ở những thời kỳ lịch sử nhất định. Từ thực tế lịch sử, Mác đã chỉ ra rằng, hiến pháp là kết quả sự vận động của đời sống chính trị, không những nội dung, mà cả hình thức của nó đều chịu tác động trực tiếp của tiến trình đấu tranh giai cấp. Đó là ý chí của giai cấp thống trị được nâng lên thành luật để bảo vệ giai cấp mình. Vì vậy, nó mang bản chất của giai cấp thống trị xã hội. Pháp luật nói chung, hiến pháp nói riêng là công cụ pháp lý mang tính cưỡng bức của giai cấp nắm quyền lực nhà nước, nhằm quản lý, điều chỉnh các quan hệ xã hội; bảo vệ và duy trì trật tự công cộng phù hợp với ý chí, lợi ích của giai cấp cầm quyền. Học thuyết Mác tiếp cận vấn đề quyền lực nhà nước từ góc độ quyền lực chính trị, từ bản chất giai cấp gắn liền với chế độ chính trị, nên không chấp nhận sự phân chia quyền lực nhà nước. Phê phán quan điểm phân quyền trong nhà nước tư sản, Mác đã đưa ra quan niệm mới cho rằng, quyền lực nhà nước là thống nhất và phải tập trung vào trong tay nhân dân. Phân quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chỉ là sự phân công lao động trong quyền lực nhà nước thống nhất. Đồng thời, Mác đưa ra những ý tưởng có tính nguyên tắc về nhà nước: nhân dân bầu, giám sát đại biểu của mình; các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp đều chịu trách nhiệm trước cử tri, có thể bị bãi miễn; nhà nước thực hiện đầy đủ nguyên tắc của chế độ tập trung dân chủ; nhân dân tham gia quản lý kinh tế, văn hóa và xã hội. Mác khẳng định chủ quyền nhân dân là quyền lực tối cao của nhà nước: “Chủ quyền của nhân dân không phải là cái phát sinh từ chủ quyền của nhà vua, mà ngược lại, chủ quyền của nhà vua dựa trên chủ quyền nhân dân” [10, tr.