SlideShare a Scribd company logo
1 of 155
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN ĐẮC DŨNG
TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
HÀ NỘI - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN ĐẮC DŨNG
TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
Mã số: 62 31 02 04
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. PHẠM NGỌC ANH
2. PGS.TS. NGUYỄN THỊ QUẾ
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
TÁC GIẢ
Nguyễn Đắc Dũng
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI 6
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài 6
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 28
Chƣơng 2: KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG PHÁP
QUYỂN HỒ CHÍ MINH 32
2.1. Khái niệm 32
2.2. Cơ sở hình thành tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh 43
Chƣơng 3: NỘI DUNG TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH 66
3.1. Về vai trò của pháp luật 66
3.2. Về phương thức thực hiện pháp quyền 83
3.3. Về điều kiện thực hiện pháp quyền 93
Chƣơng 4: NHỮNG GIÁ TRỊ THAM CHIẾU TRONG TƢ TƢỞNG PHÁP
QUYỀN HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY 110
4.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước 110
4.2. Pháp luật phải thể hiện ý nguyện của nhân dân 116
4.3. Chủ quyền nhân dân đối với các vấn đề quan trọng của quốc gia 120
4.4. Các quyền hiến định của công dân 125
4.5. Xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt 128
KẾT LUẬN 135
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 137
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 138
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
DCCH: Dân chủ Cộng hòa
NNPQ: Nhà nước pháp quyền
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam
đã sản sinh ra những anh hùng giải phóng dân tộc, những nhà tư tưởng lớn,
những danh nhân văn hóa của dân tộc; trong đó có Hồ Chí Minh, người vừa
để lại sự nghiệp vĩ đại cho dân tộc Việt Nam, vừa được nhân loại biết đến
rộng rãi, ca ngợi và khâm phục. Với dân tộc Việt Nam Người là lãnh tụ vĩ
đại, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động
[23]. Tổ chức UNESCO tôn vinh Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân
tộc và danh nhân văn hóa [144].
Hồ Chí Minh là người tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc;
đồng thời là người tổ chức, lãnh đạo toàn dân tộc Việt Nam thực hiện thắng lợi
con đường đó; con đường Người chỉ ra đã định hướng cho sự nghiệp xây dựng,
phát triển đất nước trong quá khứ, đến hiện tại và tương lai. Tư tưởng Hồ Chí
Minh phản ánh quy luật của cách mạng Việt Nam, tính đúng đắn trong tư tưởng
của Người đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm và xác nhận.
Thực tiễn lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX đã cho thấy khi nào chúng ta xa rời
hoặc không quán triệt đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh thì khi đó chúng ta vấp váp
và sai lầm [93]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt
Nam khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh: “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và
quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta giành thắng lợi” [27, tr.88].
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc
cho đến cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN), trong đó, có tư tưởng pháp quyền,
Người đã đặt nền móng và định hướng xây dựng pháp quyền Việt Nam. Trên
2
lĩnh vực chính trị, Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, nhà lý luận, nhà kiến trúc sư lỗi
lạc trong thiết kế; đồng thời, Người còn là nhà tổ chức, lãnh đạo nhân dân, là
người trực tiếp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Người
luôn hướng tới một nền hành chính phục vụ nhân dân, hết sức chăm lo cho đời
sống nhân dân, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Với một tư duy hiện đại và tiến bộ, Hồ Chí Minh xác định quản lý nhà
nước bằng hệ thống pháp luật là quan trọng nhất, trong đó, đề cao vai trò của
Hiến pháp. Hệ thống pháp luật được đề cao trong toàn xã hội, pháp luật được đặt
ở vị trí tối thượng, toàn xã hội phải tuân thủ pháp luật, Nhà nước xây dựng và
thực thi pháp luật nhưng chính Nhà nước phải tuân thủ pháp luật. Hệ thống pháp
luật phải thể hiện ý chí của nhân dân, bản chất của hệ thống pháp luật thể hiện
tôn trọng quyền con người, bảo vệ quyền con người và hướng tới các giá trị nhân
văn. Pháp luật phải có hiệu lực mạnh mẽ, thể hiện sự nghiêm minh và tất cả mọi
chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật. Hồ Chí Minh cho rằng pháp luật phải đi
vào cuộc sống, trở thành nề nếp, thói quen, lối ứng xử tự nhiên của con người,
tạo nên ý thức pháp luật cao trong toàn xã hội. Trong tư tưởng pháp quyền Hồ
Chí Minh, còn có sự kết hợp giữa pháp luật và đạo đức, pháp luật phải hướng tới
lẽ phải, hợp đạo lý làm người. Đó là một pháp quyền văn minh và tiến bộ. Một
pháp quyền nhân nghĩa, hướng tới con người và vì con người, đặt con người ở vị
trí trung tâm.
Do những nguyên nhân khác nhau về chủ quan và khách quan, nhận thức
và thực tiễn, bối cảnh trong nước và quốc tế, trong một thời gian dài, chúng ta
không hoặc ít đề cập đến vấn đề pháp quyền, do đó vấn đề pháp quyền về
phương diện lý luận thiếu hệ thống, thiếu đồng bộ và chưa có sự thống nhất; về
phương diện thực tiễn thiếu tính nhất quán và hiệu quả.
Từ năm 1986 đến nay, với những thành tựu đạt được trong quá trình
đổi mới trên các mặt của đời sống xã hội, dân tộc Việt Nam chuyển sang một
thời kỳ phát triển mới. Trên lĩnh vực xây dựng nhà nước pháp quyền (NNPQ),
3
bên cạnh thành tựu, còn có hạn chế về nhận thức và thực tiễn. Về nhận thức:
bản chất, đặc trưng, cơ chế vận hành của NNPQ XHCN chưa được xác định
rõ, đầy đủ; các nguyên tắc dân chủ, pháp quyền; vai trò tối thượng của Hiến
pháp, vai trò, tiêu chuẩn của pháp luật, hệ thống pháp luật của NNPQ XHCN
chưa được nhận thức, quy định đầy đủ. Về thực tiễn thực hiện pháp luật, kỷ
cương, kỷ luật không nghiêm; việc xây dựng NNPQ XHCN chưa đáp ứng đầy
đủ các nguyên tắc cơ bản thượng tôn pháp luật; chăm lo quyền lợi chính đáng
của nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; việc kiểm soát
quyền lực, nhất là trong bộ máy nhà nước chưa được chế định rõ ràng, còn
thiếu nhất quán; cơ chế bảo vệ pháp luật, tăng cường pháp chế chưa đầy đủ;
công tác lập pháp còn nhiều bất cập; tổ chức của Quốc hội, Hội đồng nhân
dân các cấp còn có những hạn chế; tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của
Chính phủ còn bất cập; cải cách tư pháp còn có những vướng mắc, thiếu đồng
bộ [28]. Trước yêu cầu phát triển toàn diện đất nước, trong điều kiện hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam vấn đề pháp quyền lại được đặt ra.
Hiếp pháp năm 2013, tại Điều 2, khoản 1 quy định: Nhà nước cộng hòa
XHCN Việt Nam là NNPQ XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Vấn đề pháp quyền được đặt ra cần nghiên cứu và triển khai thực hiện.
Sau hơn 30 năm đổi mới và hơn 20 năm xây dựng NNPQ XHCN, cả về
lý luận và thực tiễn, Việt Nam thu được những thành tựu nhất định, đồng thời
cũng đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu, lý giải. Việt Nam đã có đầy đủ hơn
các cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng pháp quyền XHCN. Việc trở lại
nghiên cứu và tìm hiểu một cách hệ thống, toàn diện, sâu sắc tư tưởng pháp
quyền Hồ Chí Minh góp phần đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng phát
triển đất nước; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
Với những lý do trên, tác giả chọn: “Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh”
làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sỹ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
4
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án phân tích, lý giải một cách toàn diện tư tưởng pháp quyền Hồ Chí
Minh; đồng thời nêu những giá trị tham chiếu của tư tưởng đó đối với việc xây
dựng, hoàn thiện pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.
- Phân tích nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.
- Khẳng định giá trị tham chiếu của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh
đối với việc xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về pháp quyền.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu di sản Hồ Chí Minh về pháp
quyền được thể hiện trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập (15 tập), trong các văn bản
pháp luật do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, công bố và thực tiễn chỉ đạo của Người
trong thực hiện tư tưởng pháp quyền ở Việt Nam.
- Về thời gian: Luận án khảo cứu toàn bộ tư tưởng và thực tiễn của Hồ
Chí Minh về xây dựng pháp quyền ở Việt Nam, nhất là từ 1945 đến 1969, đó là
thời kỳ Hồ Chí Minh hiện thực hóa, bổ sung, phát triển tư tưởng pháp quyền.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
Nhà nước và pháp luật.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả sử dụng
các phương pháp sau: lôgic - lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, văn
bản học, khảo cứu thực tế.
5
5. Những đóng góp mới của Luận án
- Phân tích nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.
- Đưa ra các giá trị tham chiếu của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh đối
với việc xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa khoa học
- Phân tích làm rõ nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.
- Chỉ rõ sự vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam của Hồ Chí Minh
trong tư tưởng pháp quyền.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án rút ra những giá trị tham chiếu để Đảng, Nhà nước vận dụng đối
với xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
- Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và
giảng dạy, học tập trong nhóm ngành khoa học chính trị, khoa học xã hội và
nhân văn.
7. Kết cấu của luận án
Luận án ngoài mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu của
tác giả đã công bố liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương, với 12 tiết.
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Vấn đề pháp quyền, NNPQ, NNPQ XHCN là vấn đề mới ở Việt Nam
trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận, phải đầu thế kỷ XX,
các nhà tư tưởng và các nhà hoạt động chính trị Việt Nam mới đề cập đến vấn
đề Nhà nước dân chủ, vấn đề lập hiến...; về mặt thực tiễn, phải đến Cách
mạng tháng Tám năm 1945, những tư tưởng pháp quyền mới được hiện thực
hóa ở Việt Nam. Những vấn đề trên được đề cập nhiều từ khi Việt Nam tiến
hành đổi mới, nhất là từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam được xây dựng và ban hành. Tại Điều 2, Hiến pháp năm 2013 ghi: “Nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là NNPQ XHCN của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân” [106, tr.9]. Từ khi đổi mới đất nước, số lượng công trình
nghiên cứu về pháp quyền, NNPQ, NNPQ XHCN ở Việt Nam ngày càng
nhiều. Qua nội dung các công trình, tác giả của luận án tổng quan một số công
trình tiêu biểu có liên quan đến đề tài luận án của mình thành các vấn đề:
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.1. Những công trình nghiên cứu tƣ tƣởng pháp quyền
* Về sách chuyên khảo
Josef Thesing nêu ra các dữ kiện chủ yếu thể hiện tầm quan trọng của
pháp quyền: Phát triển kinh tế, xã hội có mối quan hệ tương hỗ với pháp luật;
mối liên hệ không thể tách rời giữa dân chủ và pháp quyền; ở bất kỳ đâu pháp
quyền hình thành trên cơ sở một trật tự chính trị, thì ở nơi đó nó cũng dạy cho
người dân biết phải giải quyết xung đột về giá trị hay lợi ích theo quy định
của pháp luật chứ không phải bạo lực. Tác giả đánh giá cao vai trò của pháp
quyền trên nhiều phương diện, nhưng đặc biệt chú ý đến giá trị nhân văn của
pháp quyền [125].
7
Roman Herzog khẳng định khái niệm pháp quyền rất rộng, có rất nhiều
nghĩa khác nhau, nhưng theo tác giả đều thống nhất bản thân pháp quyền đã là
thiện và công bằng, sự không thống nhất là ở chỗ cái gì làm ra thiện và công
bằng. Theo quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng, khái niệm pháp quyền nghĩa
là một Nhà nước không xâm hại tới cá nhân và thực chất tồn tại để đem lại lợi
ích cho công dân của mình [125]. Tác giả đề cập tới mục đích của pháp quyền
và để đạt được mục đích đó cần thông qua yếu tố Nhà nước.
Gerhard Robbers đưa ra quan điểm pháp luật là tập hợp các quy định,
tạo ra những cấu trúc để con người cùng tồn tại hòa bình và tự do. Trong mối
quan hệ giữa đạo đức và Nhà nước, pháp quyền có vai trò tạo ra cơ cấu pháp
lý để cho cá nhân hành động theo nguyên tắc đạo đức và đích cuối cùng là tạo
sự chịu trách nhiệm về hành vi của mình, để đạt được khoan dung, tự do, bình
đẳng cho mọi người [125]. Tác giả đề cập mối quan hệ giữa pháp quyền và
đạo đức, trong đó nhấn mạnh đến tính tương hỗ của mối quan hệ này.
Waldemanr Beson và Gorthard Jasper cho rằng sự vượt trội của pháp
quyền so với cai trị của cảnh sát và quyền lực chuyên chế trong việc đảm bảo
quyền tự do của con người và sự tham gia vào đời sống chính trị của công
dân; đồng thời cũng chỉ ra những nguy cơ của pháp quyền, đặc biệt nguy cơ
“thủ tục trị” [125]. Các tác giả đã đề cập và nhấn mạnh đến giá trị của pháp
quyền, nhưng không tuyệt đối hóa, thừa nhận hạn chế của pháp quyền. Thể
hiện một cách tiếp cận biện chứng và rất có giá trị.
Lý Ba đưa ra quan điểm luật thành văn cần có năm đặc tính: Phải dựa
trên luật tự nhiên hay luật đạo đức; phải giản dị để con người hiểu là gì và
tuân theo như thế nào; phải không bị thay thế liên tục; phải ngăn ngừa sự áp
bức, ngăn ngừa sự lạm quyền của Nhà nước; phải hợp lý, nghĩa là việc tố tụng
giống nhau phải xử lý giống nhau. Tác giả đưa ra hai nguyên tắc trong pháp
quyền: Luật là tối thượng và quyền lập pháp phải có giới hạn [95]. Tác giả đã
đề cập đến các đặc trưng và nguyên tắc phổ biến của pháp quyền.
8
Lý Ba cho rằng quan điểm pháp quyền ngày nay khác hoàn toàn với
quan niệm pháp trị của Trung Hoa thời kỳ cổ đại. Pháp quyền mang ba ý
nghĩa: Pháp luật là công cụ điều chỉnh quyền lực của Chính phủ; sự bình đẳng
trước pháp luật; thẩm quyền tài phán phải tuân theo thủ tục tố tụng đã được ấn
định trước [95]. Ba ý nghĩa trên đồng thời là ba nguyên tắc, ba yêu cầu của
pháp quyền.
Nhà chính trị nổi tiếng của nước Mỹ, James Madison trong Những
Luận cương về Liên bang cho rằng Chính phủ là sự phản ánh rõ ràng nhất bản
tính của con người, mà theo ông con người không phải là thần thánh, do đó
Nhà nước cũng không phải là thần thánh, nhưng con người cần Nhà nước.
Vấn đề là làm sao để Nhà nước thực sự phục vụ con người. Ông khẳng định
khó khăn lớn nhất là làm thế nào để chính phủ tự mình kiểm soát lấy mình,
theo ông phân quyền để kiểm soát lẫn nhau và giữ gìn sự cân bằng là giải
pháp chắc chắn [95]. J.Madison nhấn mạnh đến phân quyền và cân bằng
quyền lực trong pháp quyền.
Theo Alexander Hamilton để pháp quyền đảm bảo các quyền con
người, mấu chốt không phải ở việc liệt kê một danh sách các dân quyền, một
việc luôn không thể làm đầy đủ và tiềm ẩn nhiều nguy cơ, mà phải là ban
hành Hiến pháp để hạn chế quyền lực của Chính phủ [95]. Đây là một quan
điểm có giá trị và rất đáng lưu ý của A.Hamilton trong hoạt động lập hiến và
thực thi pháp quyền.
John Jay nêu luận điểm khi thành lập Chính phủ, nhân dân phải nhượng
lại một số quyền tự nhiên của mình cho Chính phủ; đổi lại quyền lợi của nhân
dân được đảm bảo nhiều hơn [95]. J.Jay nêu vấn đề mối quan hệ giữa Chính
phủ và nhân dân là mối quan hệ giữa nhượng quyền và nhận nhượng quyền,
bên nhận nhượng quyền phải có nghĩa vụ đối với bên nhượng quyền.
Ngô Thị Mỹ Dung và các cộng sự phân tích những điều kiện kinh tế, xã
hội, những tiền đề lý luận ảnh hưởng đến tư tưởng triết học pháp quyền Đức,
9
phân tích nội dung tư tưởng triết học pháp quyền ở một số nhà tư tưởng điển
hình: Christian Thomasius, Christian Wolff, Immanuel Kant, Johann
Gottlieb Fichte, Georg Wilhelm Friedrich Hegel, Karl Marx, Friedrich
Engels, Gustav Radbruch và Arthur Kaufmann. Từ đó rút ra ý nghĩa đối với
việc xây dựng NNPQ Việt Nam hiện nay: Đề cao con người, nhấn mạnh các
quyền tự nhiên của con người; luật tự nhiên là cơ sở, tiêu chí đánh giá hiệu
lực của luật ban hành; gắn xây dựng NNPQ XHCN với phát triển kinh tế, xã
hội; pháp luật phải phản ánh đầy đủ và đúng đắn quyền, lợi ích của toàn thể
nhân dân; pháp quyền phải có sự bình đẳng, an toàn pháp lý, phổ biến, tiện
dụng, ổn định [14].
Nguyễn Duy Quý và Nguyễn Tất Viễn đã hệ thống các vấn đề liên
quan đến xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam, trong đó các nội dung đáng
chú ý và có giá trị tham khảo: khái niệm và các đặc trưng; những yếu tố chi
phối; phương hướng và giải pháp chủ yếu xây dựng NNPQ XHCN ở Việt
Nam [108]. Các tác giả mới gián tiếp đề cập đến tư tưởng pháp quyền qua
việc nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của Nhà nước pháp quyền.
Lưu Tiến Dũng đề cập tư tưởng pháp quyền từ góc độ tính độc lập của
tư pháp, một nhánh quyền lực nhà nước, trong đó tác giả tập trung chỉ ra
những tồn tại trong vấn đề về độc lập xét xử ở Việt Nam từ năm 1945 cho đến
nay, những vấn đề đó có giá trị đối với việc xây dựng, hoàn thiện NNPQ
XHCN Việt Nam hiện nay [13].
Các tác giả Nguyễn Bá Dương, Trần Hậu Thành và Lê Thị Hoài Thanh
đã đề cập đến các nội dung cơ bản của tư tưởng pháp quyền hiện đại: nhân
dân chủ thể của quyền lực; các quyền con người phải được tôn trọng, đảm
bảo; vai trò của pháp luật; phân quyền và giám sát quyền lực nhà nước; ưu
tiên pháp luật quốc tế trong quan hệ đối ngoại [22].
Các tác giả Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hòa đề cập đến tư tưởng
pháp quyền dưới góc độ lập hiến, trong đó tập trung vào nội dung của Hiến
10
pháp; phân tích quá trình vận động của tư tưởng lập hiến Việt Nam trong lịch
sử. Trong đó nội dung có giá trị là các tác giả đã phân tích sự cọ sát, đấu tranh
giữa các khuynh hướng lập hiến ở Việt Nam; sự vượt trội, thắng thế của tư
tưởng lập hiến cách mạng do Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng, lãnh đạo [119].
Bùi Xuân Đức đặt ra một vấn đề lớn, có ý nghĩa cần thiết, cấp bách ở
Việt Nam hiện nay là phải dứt khoát thay đổi tư duy pháp lý, không phải
nguyên tắc pháp chế XHCN đổi mới mà là nguyên tắc pháp quyền [1].
* Bài đăng trên các tạp chí chuyên ngành
Nguyễn Đăng Dung đã lý giải tính hai mặt của Nhà nước, một mặt thể
hiện sự phát triển của con người, bảo vệ, đem lại quyền lợi và sức mạnh cho
con người. Mặt khác, Nhà nước lại có xu hướng tùy tiện, xâm phạm đến
quyền lợi cá nhân. Biện pháp hiệu quả nhất để ngăn chặn xu hướng tùy tiện
của Nhà nước là dùng pháp luật kiểm soát Nhà nước, kết hợp với đạo đức
công vụ [16]. Như vậy, pháp quyền được tác giả nhìn nhận dưới góc độ các
nguyên tắc để hạn chế mặt trái của Nhà nước.
Võ Khánh Vinh nhấn mạnh phải triệt để thực hiện tư tưởng pháp
quyền: Nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật quy định; công dân được
làm những gì pháp luật không cấm [151]. Đây là vấn đề cốt lõi trong tư tưởng
pháp quyền nhân loại, Việt Nam hiện nay cần nghiên cứu và vận dụng.
Nguyễn Sỹ Dũng phân tích các đặc trưng của pháp quyền dưới góc
nhìn giá trị thể hiện sự tiến bộ, văn minh mà các Nhà nước cần hướng tới. Tác
giả tiếp cập pháp quyền từ góc độ văn hóa [21].
Các tác giả Lê Văn Cảm, Nguyễn Cảnh Hợp tiếp cận tư tưởng pháp
quyền dưới góc độ tổ chức nhà nước và chỉ ra hạn chế lớn trong việc tổ chức,
thực hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam, từ hạn chế đó dẫn
đến nhiều hậu quả. Những hạn chế và hậu quả của việc tổ chức, thực hiện và
11
kiểm soát quyền lực nhà nước sẽ là những gợi mở cho việc tìm giải pháp xây
dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam [8].
Các tác giả Nguyễn Minh Đoan [33], Phạm Thị Ngọc Trầm [131],
Lương Đình Hải [37] và Vũ Văn Viên [150] đề cập đến mối quan hệ giữa xây
dựng NNPQ XHCN Việt Nam với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội,
như: xây dựng xã hội dân sự, dân chủ. Các tác giả đã nhìn xã hội như một
chỉnh thể gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, giữa chúng có mối quan hệ tác động
qua lại, do đó khi nghiên cứu một lĩnh vực cụ thể cần đặt trong sự tác động
qua lại với lĩnh vực khác.
Trong một số công trình của Hoàng Thị Hạnh đặt ra vấn đề xây dựng
NNPQ XHCN Việt Nam phải đặt trong bối cảnh lịch sử dân tộc và thời đại.
Nhưng tác giả giới hạn và tập trung trong phạm vi kinh tế, chưa có điều kiện
mở rộng sang các lĩnh vực khác [38, 39].
Thái Vĩnh Thắng đề cập vấn đề pháp quyền ở Việt Nam từ nhu cầu bảo
hiến. Trong đó, vấn đề cần kíp hiện nay là lựa chọn mô hình cơ quan bảo hiến
phù hợp với Việt Nam. Theo quan điểm của tác giả, mô hình Tòa án Hiến
pháp là phù hợp nhất ở Việt Nam. Khác với nhiều nhà nghiên cứu khác chỉ
nêu ra nhu cầu bảo hiến và đề xuất cần có mô hình bảo hiến, nhưng không xác
định mô hình cụ thể, tác giả xác định mô hình cụ thể [117].
Tống Đức Thảo trong các công trình của mình đưa ra các lập luận
chính trị căn bản của chủ nghĩa lập hiến Việt Nam, đó chính là những cơ sở
để Việt Nam xây dựng hoàn thiện NNPQ XHCN. Tác giả cho rằng, Việt
Nam có thể tiếp thu mô hình bảo hiến của Cộng hòa Pháp là Hội đồng bảo
hiến, một quan niệm về mô hình bảo hiến cụ thể có thể vận dụng ở Việt Nam
[123, 124].
Mai Thị Thanh chỉ ra những đặc thù trong xây dựng NNPQ XHCN
Việt Nam. Những đặc thù này được tác giả xem xét dưới hai góc độ: vừa là
những khó khăn, đồng thời cũng chính là những nguyên nhân của bất cập
12
trong thực trạng NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay [118]. Cùng đề cập đến
tính đặc thù, các đặc trưng trong xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam có thể kể
đến Phạm Văn Đức [35], Lê Công Định [30], Nguyễn Như Phát [96], Nguyễn
Đình Tường [140]. Các tác giả một mặt chỉ ra tính đặc thù, đồng thời cũng
cho rằng xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam mang những đặc điểm chung
toàn nhân loại.
Các tác giả Hoàng Văn Tú [134], Nguyễn Đăng Dung [17], Hà Thị Mai
Hiên, Nguyễn Thị Việt Hường [44], Nguyễn Văn Luật [64], Ngọ Văn Nhân
[93], Nguyễn Như Phát, Phạm Hữu Nghị [96-98] nghiên cứu pháp quyền từ
góc độ lập hiến ở Việt Nam. Trong đó các tác giả tập trung chỉ ra những hạn
chế cần khắc phục để quá trình lập hiến Việt Nam đảm bảo pháp quyền. Các
hạn chế gồm: nhận thức; kỹ thuật lập hiến; nội dung lập hiến. Các hạn chế đó
là những gợi ý có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc trong nghiên cứu và vận
dụng tư tưởng pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
Hoàng Thị Kim Quế đề cập pháp quyền trong quan hệ với đạo đức,
nhấn mạnh vai trò của đạo đức công quyền đối với pháp quyền. Theo tác giả
đạo đức nói chung và đạo đức công quyền phải tham gia và hiện diện trong tất
cả các hoạt động lập hiến, lập pháp, hành pháp và xét xử mới đảm bảo công
bằng, công lý, dân chủ [102].
Các tác giả Lê Hồng Sơn [113], Trần Thành [122] tiếp cận pháp quyền
dưới góc độ mô hình tổ chức nhà nước, cơ chế phân công, phối hợp giữa các
cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước; mối quan hệ giữa thiết chế nhà nước
và các thiết chế chính trị - xã hội khác, trong đó có quan hệ với Đảng Cộng
sản Việt Nam. Các tác giả đề cập đến một vấn đề lớn và mang tính thời sự lâu
dài trong xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam, cần phải tiếp tục nghiên cứu để
tìm ra giải pháp thỏa đáng.
Bùi Huy Tùng đưa ra hai phương thức đảm bảo tính hợp pháp, hợp hiến
và thống nhất của hệ thống pháp luật, phương thức mang tính phòng ngừa và
13
phương thức mang tính ngăn chặn. Đối với hệ thống pháp luật Việt Nam hiện
nay, cả hai phương thức trên vẫn còn nhiều hạn chế [139]. Tác giả đề cập đến
pháp quyền dưới góc độ tính hợp pháp, hợp hiến và thống nhất của hệ thống
pháp luật, một vấn đề đang đặt ra hiện nay ở Việt Nam.
Hoàng Văn Nghĩa trong bài Sửa đổi Hiến pháp: Tiếp cận từ sự phát
triển lý luận về quyền con người của Đảng ta [90], tác giả đã phân tích quyền
công dân luôn hẹp hơn quyền tự nhiên của con người. Quyền tự nhiên của con
người là hiện tồn, bất kể chế định luật pháp quốc tế hay quốc gia có thừa nhận
hay không. Tuy nhiên, quyền tự nhiên ấy chỉ thực sự được hiện thực hóa, tức
là được tôn trọng, bảo vệ và thực thi trên nền tảng của chế định pháp luật.
Hiện nay, xây dựng pháp quyền ở Việt Nam cần chú ý: xác định cá nhân là
chủ thể tối cao của quyền con người; chế định về quyền con người không chỉ
dừng lại ở ghi nhận và đảm bảo các quyền và tự do cơ bản của công dân (con
người với tính cách là công dân trong Nhà nước, công dân là con người theo
nghĩa hẹp); mà quan trọng hơn đó là khơi dậy và phát triển tiềm năng để hiện
thực hóa các quyền và tự do cơ bản của cá nhân tồn tại với tính cách là con
người nói chung (con người theo nghĩa đầy đủ, vốn có, con người tự nhiên,
con người trước khi có Nhà nước), con người mang tính phổ quát của nhân
loại và mang tính loài. Tác giả cũng chỉ ra các bước thụt lùi của việc ghi nhận
quyền con người và quyền công dân trong các Hiến pháp Việt Nam về mặt
hình thức: Hiến pháp năm 1946 quy định ở Chương 2; Hiến pháp năm 1959
quy định ở Chương 3; Hiến pháp 1980 quy định ở Chương 4; Hiến pháp 1992
quy định ở Chương 5. Chưa tính đến sự thụt lùi về nội dung và bản chất của
quyền; quyền con người bị quy về quyền công dân và bị giới hạn trong Hiến
pháp và pháp luật. Bước thụt lùi này đã được khắc phục từng phần trong Hiến
pháp năm 2013.
Các tác giả Đinh Xuân Lý [66], Hoàng Công [11] chỉ ra trong Hiến
pháp năm 2013 thể hiện sự tiến bộ trong tư duy pháp quyền Việt Nam, hội
14
nhập với tư tưởng pháp quyền nhân loại. Nhấn mạnh đến pháp quyền từ góc
độ quyền con người, ghi nhận sự tiến bộ trong Hiến pháp hiện hành hiến định
quyền con người phù hợp với chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền con người.
* Về luận án
Đào Ngọc Tuấn đưa ra nhận định có giá trị lý luận và thực tiễn xây
dựng NNPQ ở Việt Nam cần kết hợp tính phổ biến toàn nhân loại và tính đặc
thù của Việt Nam [135]. Tác giả đề cập vấn đề khi xây dựng pháp quyền Việt
Nam cần chú ý và chỉ ra những đặc thù riêng kết hợp với những giá trị mang
tính phổ biến toàn nhân loại. Vấn đề Việt hóa các điều ước và thông lệ quốc
tế có một ý nghĩa to lớn với Việt Nam đang trên đường hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng.
Nguyễn Đình Hảo phân tích những nhược điểm trong hoạt động lập
quy của Chính phủ Cộng hòa XHCN Việt Nam từ 1992 đến nay, qua đó cho
thấy những biểu hiện thiếu, yếu tư tưởng pháp quyền trong hoạt động lập quy
của Chính phủ. Từ thực trạng đó, đặt ra giảm quyền và tăng năng lực lập quy
của Chính phủ [41].
Phạm Thế Lực phân tích những mâu thuẫn trong vấn đề tập trung và
phân chia quyền lực trong tổ chức, thực thi quyền lực ở Việt Nam. Các giải
pháp để giải quyết những mâu thuẫn trên có nhiều, giải pháp mang tính bao
trùm và chi phối là đảm bảo nguyên tắc pháp quyền [65].
Nguyễn Mậu Tuân phân tích một cách có hệ thống và cụ thể các hạn
chế trong hoạt động bảo hiến ở Việt Nam, tạo nên cơ sở thuyết phục khi đưa
ra kết luận về nhu cầu bảo hiến ở Việt Nam [137]. Vấn đề đặt ra tiếp theo là
cần phải xây dựng cơ chế và xác định mô hình cụ thể cho hoạt động bảo hiến
tại Việt Nam.
Cao Anh Đô đề cập đến một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt
động của NNPQ XHCN Việt Nam, đó là nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện
15
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tác giả phân tích các hạn chế
trong việc thực hiện nguyên tắc trên, trong điều kiện đặc thù của Việt Nam là
có Đảng chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền [31]. Vấn đề chưa
đưa ra cơ chế cụ thể, khả thi về phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Hoàng Thị Hạnh khẳng định một trong những điều kiện đảm bảo quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế thành công
là phải xây dựng NNPQ XHCN. Như vậy, tác giả đã đi từ tính tất yếu của
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến tính tất yếu của NNPQ
ở Việt Nam, đó là mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, biểu hiện mối quan
hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội. Dưới góc độ triết học,
tác giả đã xem thực hiện pháp quyền như một đòi hỏi của thực tiễn đất nước;
đến lượt mình pháp quyền trở thành điều kiện đảm bảo cho thực hiện được
mục tiêu kinh tế, tạo dựng nền tảng vật chất của thời kỳ quá độ lên CNXH ở
Việt Nam, một mục tiêu của thời kỳ quá độ lên CNXH tại Việt Nam [40].
Tóm lại, những công trình đề cập trực tiếp đến tư tưởng pháp quyền ở
Việt Nam rất ít, chủ yếu đề cập gián tiếp qua NNPQ. Các công trình của học
giả nước ngoài được dịch ở Việt Nam tập trung vào đặc điểm, nội dung và các
yêu cầu của pháp quyền. Các nhà nghiên cứu Việt Nam đề cập: tính tất yếu
xây dựng NNPQ ở Việt Nam; các đặc trưng của NNPQ ở Việt Nam; xây dựng
NNPQ trong quan hệ với kinh tế, đạo đức, dân chủ, với xã hội dân sự; tổng
kết thực tiễn xây dựng NNPQ Việt Nam, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, đề
xuất giải pháp. Các nghiên cứu tập trung vào phương diện thực tiễn, phương
diện lý luận chưa được quan tâm đúng mức.
Các kết quả đạt được trong các công trình trên, một mặt được tác giả
luận án kế thừa, mặt khác những vấn đề chưa được đề cập, còn hạn chế là
những gợi ý cho tác giả luận án tiếp tục nghiên cứu.
16
1.1.2. Những công trình nghiên cứu tƣ tƣởng pháp quyền Hồ Chí Minh
* Các đề tài khoa học
Trong các công trình nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh
phải kể tới Chương trình KX.02: Tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có đề tài
KX.02.13: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới - Nhà nước của dân,
do dân, vì dân, do Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp chủ trì.
Kết quả của đề tài mang tính khái quát cao và có giá trị định hướng trong
nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. Trong các sản phẩm thuộc đề
tài có sách Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật
[148]. Trong đó các tác giả đã trực tiếp sử dụng đến khái niệm pháp quyền
trong tư tưởng Hồ Chí Minh và lý giải một số khía cạnh về nội dung, về hình
thức biểu hiện, đồng thời đưa ra những đánh giá.
Đoàn Trọng Truyến lý giải “thần linh pháp quyền” trong tư tưởng Hồ
Chí Minh vừa là nền tảng lý luận, nguyên tắc chi phối tổ chức và hoạt động
của bộ máy Nhà nước, vừa là đề cao vai trò của pháp luật, thượng tôn pháp
luật trong toàn bộ đời sống xã hội. Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh rất
nghiêm, nhưng cũng đầy tình người, đầy lòng nhân ái. Tác giả đánh giá: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về pháp quyền cũng là một tư tưởng vô cùng quý báu”
[148, tr.96]. Tác giả đã đề cập đến vai trò của pháp quyền trong tư tưởng Hồ
Chí Minh qua việc đề cao tuân thủ pháp luật, một nội dung quan trọng trong
khái niệm pháp quyền.
Đức Vượng đã đưa ra những nhận định có tính định hướng trong
nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. Tác giả nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật xuất phát từ đặc điểm truyền thống
văn hóa pháp lý dân tộc; xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử đất nước từ một nước
thuộc địa nửa phong kiến tiến lên CNXH; xuất phát từ bối cảnh thời đại. Tác
giả đưa ra nhận định:
17
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và pháp luật cũng chỉ xới xáo
những vấn đề có tính chất “lật ải”, chứ chưa thể “cày sâu, bừa kỹ”.
Tuy nhiên, Người cũng đã chỉ ra cho chúng ta một phương hướng
và phương pháp chung nhất để các thế hệ sau có điều kiện phát
triển. Chúng ta coi đó là những lời chỉ dẫn cao quý của Người.
Thiếu những lời chỉ dẫn cơ bản ấy, chúng ta không có cơ sở để làm
luật và thi hành luật, để xác định thể chế dân chủ và thực hành dân
chủ [148, tr.164].
Vũ Đình Hòe mong muốn tìm ra bản chất đích thực của pháp quyền
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ông dùng cách so sánh giữa tư tưởng pháp
quyền Hồ Chí Minh với pháp trị của phương Đông. Tác giả chỉ ra bản chất
của pháp trị trong lịch sử phương Đông:
Người ta từng thấy chế độ pháp trị dưới những triều đại phong kiến
nào đó bên Tầu, chủ trương cai trị bằng pháp luật chứ không bằng
“đức độ” của kẻ cầm quyền. Nay ta bàn về pháp trị, pháp chế, thì
không phải loại pháp trị đó. Xưa pháp trị là để thu xã tắc về một mối,
tập trung quyền sinh, quyền sát vào tay Hoàng Đế; để Thiên Tử Ngài
dễ dàng thống trị chư hầu và nô dịch muôn dân [148, tr.184].
Tác giả khẳng định pháp trị, pháp chế hay pháp quyền mới khác hoàn
toàn với nền pháp trị phương Đông truyền thống, nó do nhân dân giành lấy từ
cách mạng, thể hiện rõ nhất là qua Hiến pháp do dân định, không phải do
“khâm định”, thông qua Quốc hội do nhân dân lập nên, đại diện cho nhân dân.
Chỉ có Quốc hội mới có quyền ban hành Hiến pháp và phải có đủ ít nhất 2/3
số đại biểu có mặt đồng thuận và trước khi ban bố phải tổ chức cho toàn dân
phúc quyết. Cách giải quyết vấn đề như trên, Vũ Đình Hòe lại trở lại với chủ
nghĩa lập hiến.
Các khái niệm pháp trị, pháp chế, pháp quyền chưa được tác giả phân
định rõ, trong một số trường hợp dùng thay thế lẫn nhau. Đây là một khó khăn
18
lớn trong nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. Tác giả Vũ Đình
Hòe trong một công trình có đặt vấn đề: nên phân biệt cụm từ Nhà nước và
pháp quyền với từ kép Nhà nước - pháp quyền [46], nhưng chính tác giả cũng
chưa giải quyết được vấn đề mà mình đặt ra.
Song Thành khẳng định chính trị Hồ Chí Minh là một nền chính trị đạo
đức, chính trị và đạo đức thống nhất với nhau, hỗ trợ cho nhau, đều là mục
đích cần vươn tới, không có cái nào là phương tiện cho cái nào. Đồng thời, tác
giả cũng khẳng định, nếu chỉ dựa trên “đức trị” không thể lý giải sự thành
công của Hồ Chí Minh, cho nên cần phải dựa trên cả “pháp trị” mới có thể lý
giải đầy đủ sự thành công của Hồ Chí Minh. Ở Hồ Chí Minh, có sự kết hợp
giữa “đức trị” và „pháp trị”. Tác giả đi đến nhận định: “Tùy hoàn cảnh và đối
tượng cụ thể, có lúc Người nhấn mạnh khía cạnh này hay khía cạnh khác,
song có thể khẳng định tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh là sự thống nhất
giữa đạo đức và pháp luật” [148, tr.211]. Tác giả đưa một trong những nội
dung độc đáo của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh; ở Hồ Chí Minh có cả lý
luận và thực tiễn về pháp quyền, về điểm này, tác giả khẳng định Hồ Chí
Minh vượt các nhà tư tưởng về thực tiễn và tương đồng với các nhà chính trị
lỗi lạc trên thế giới. Quan điểm này đã nâng tư tưởng pháp quyền Hồ Chí
Minh trở thành một giá trị văn hóa.
Đề tài KX.04.01 Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
dân, do dân, vì dân - Lý luận và thực tiễn, thuộc Chương trình nghiên cứu
khoa học và công nghệ cấp Nhà nước, mã số KX.04, trong Đề tài có đề cập
đến tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ. Trong các sản phẩm của Đề tài có sách
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân - Lý
luận và thực tiễn [108], tập thể tác giả nghiên cứu nhiều học thuyết về pháp
quyền. Khi đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ của dân, do dân, vì
dân các tác giả đã khái quát hóa thành bảy nội dung lớn: 1. Tư tưởng về một
Nhà nước của nhân dân, vì nhân dân, do nhân dân với nền dân chủ triệt để; 2.
19
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của công chức nhà nước đối với nhân
dân trong Nhà nước kiểu mới; 3. Tư tưởng về một Nhà nước hợp hiến, hợp
pháp, thực hiện quản lý xã hội theo pháp luật; 4. Tư tưởng về một nền pháp
luật dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trên thực tế; 5. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước có hiệu lực mạnh mẽ, có sự phân công
và phối hợp giữa các nhánh quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; 6. Tư tưởng
về NNPQ của Hồ Chí Minh gắn liền với củng cố đạo đức truyền thống của
dân tộc; 7. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với
Nhà nước. Các tác giả đã đưa ra nhận định: “Sự định hình rất sớm ở Nguyễn
Ái Quốc một quan niệm hoàn chỉnh về yêu cầu (nguyên tắc) quản lý xã hội
theo pháp luật trong một Nhà nước dân chủ theo tinh thần pháp quyền, thượng
tôn pháp luật” [108, tr.86].
Các tác giả khi đề cập tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh đã tập trung
và nhấn mạnh đến pháp quyền trong công quyền, trong việc Nhà nước sử
dụng pháp luật để quản lý xã hội. Pháp quyền mới chỉ được xem xét chủ yếu
như phương tiện để Nhà nước sử dụng trong quản lý xã hội. Trong bảy nội
dung các tác giả khái quát vừa là nội dung của tư tưởng NNPQ, vừa mang
tính đặc thù, đặc điểm của NNPQ ở Việt Nam nói riêng, ở các nước trong hệ
thống XHCN nói chung.
* Về sách chuyên khảo
Khi sự nghiệp đổi mới đất nước vừa được Đảng Cộng sản Việt Nam
chính thức thừa nhận, Nguyễn Ngọc Minh xuất bản sách Nghiên cứu những tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật [86], tác giả
không trực tiếp đề cập đến khái niệm pháp quyền, nhưng tư tưởng pháp quyền
Hồ Chí Minh được đề cập gián tiếp và đậm nét, tư tưởng pháp quyền Hồ Chí
Minh thể hiện trong việc lựa chọn con đường cứu nước; trong việc xác định
mô hình Nhà nước ở Việt Nam sau khi giành độc lập; trong việc thành lập ra
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (DCCH) nhanh về thời gian và qua
20
cuộc Tổng tuyển cử theo chế độ phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu
kín; pháp quyền trong việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tác
giả khẳng định:
Đối với một nước mà chế độ quân chủ ngự trị mấy mươi thế kỷ, với
ngôi vua cha truyền con nối, với các quan lại do vua phong, đối với
một nước thuộc địa gần một trăm năm, với chế độ quan cai trị do
thực dân bổ nhiệm, mà chỉ một tuần sau khi tuyên bố độc lập, dựng
nên chế độ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn với Chính phủ về
bầu cử Quốc hội, thật là cả một cuộc cách mạng to lớn: “Đem người
nô lệ thành người tự do”. Một chính thể hoàn toàn mới! Một nhà
nước kiểu mới lần đầu tiên được xây dựng trong lịch sử 4.000 năm
của dân tộc Việt Nam [86, tr.86-87].
Đặc biệt trong lĩnh vực luật pháp, tư tưởng pháp luật Hồ Chí Minh thể
hiện trong hệ thống pháp luật đầu tiên của nước Việt Nam DCCH, tác giả đã
khái quát hóa trên 7 lĩnh vực; trong đó đáng chú ý các lĩnh vực: thiết lập trật
tự cách mạng của chế độ mới, tạm thời duy trì các pháp luật cũ, miễn là
không phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam và không trái với
chính thể DCCH, pháp luật về dân sự. Tác giả kết luận:
Tóm lại, chỉ trong mấy năm đầu liền sau Cách mạng tháng Tám,
mặc dầu trong hoàn cảnh muôn vàn khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí
Minh, vị đứng đầu Nhà nước cách mạng của ta, và cũng là nhà lập
pháp đầu tiên của Nhà nước đó, đã ban hành được cả một hệ thống
pháp luật trên rất nhiều lĩnh vực để thiết lập một trật tự pháp luật
cách mạng và để quản lý đất nước. Hệ thống pháp luật đó được xây
dựng trên tư tưởng: “Pháp luật của ta bảo vệ quyền lợi cho hàng
triệu người lao động... Pháp luật của ta là pháp luật thực sự dân chủ,
vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi của nhân dân lao động”.
Tư tưởng nhà nước quản lý bằng pháp luật được thực hiện, kể cả
21
khi phải điều chỉnh các quan hệ với các giai cấp bóc lột và đối với
kẻ thù của cách mạng, kể cả trong chiến tranh và ở ngay mặt trận
[86, tr.173-174].
Tác giả Nguyễn Ngọc Minh đã nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ
Chí Minh dưới góc độ pháp chế nhiều hơn dưới góc độ pháp quyền. Đặt trong
bối cảnh lịch sử những năm đầu đổi mới đã là giá trị to lớn, nhưng chỉ dừng
lại ở đó, chưa hết, chưa đầy đủ tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.
Nguyễn Đình Lộc khẳng định ngay từ rất sớm, vào những năm 1920, ở
Hồ Chí Minh đã định hình quan điểm về nguyên tắc quản lý xã hội bằng pháp
luật trong một xã hội mới, một Nhà nước dân chủ. Toàn bộ hoạt động của bộ
máy nhà nước, của đội ngũ cán bộ, công chức mọi lúc, mọi nơi luôn phải thể
hiện được “thần linh pháp quyền”; ý thức pháp luật, tinh thần pháp luật phải
chỉ đạo, chi phối mọi hành vi, hoạt động của bộ máy nhà nước, mọi hành vi,
hoạt động của xã hội. Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh có sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn, giữa lời nói và việc làm:
Nhất quán với những quan điểm hình thành ngay từ những buổi đầu
hoạt động cách mạng, khi đã trở thành người đứng đầu Nhà nước,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến yêu cầu cơ bản của
chế độ pháp quyền, nguyên tắc pháp chế: tôn trọng, tuân thủ pháp
luật [62, tr.87].
Tác giả Nguyễn Đình Lộc không chỉ giải mã “thần linh pháp quyền”
trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, mà còn đề cập đến vấn đề chế độ
pháp quyền ở Hồ Chí Minh, đó chính là sự tôn trọng, tuân thủ pháp luật trong
thực tiễn đời sống xã hội.
Bằng trải nghiệm của một người trí thức được đào tạo dưới nền học vấn
của người Pháp, đã từng sống, làm việc dưới chế độ thực dân; cách mạng
thành công đi theo tiếng gọi của dân tộc và Hồ Chí Minh, ông làm việc trong
chế độ xã hội mới, đi cùng sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Được sự tin
22
tưởng, dìu dắt của Hồ Chí Minh; được sống, làm việc gần và trực tiếp với Hồ
Chí Minh, Nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo, Nguyên Bộ trưởng Bộ
Tư pháp nước Việt Nam DCCH, Vũ Đình Hòe cho rằng “pháp quyền của
nhân nghĩa là cái đặc sắc nhất trong tư tưởng nhân nghĩa của Người”, trong
đó mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật là một nội dung độc đáo trong tư
tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, tất cả vì độc lập và tự do, cái đạo lý và pháp
lý tự nhiên của dân tộc, của cá nhân công dân. Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí
Minh về nội dung giai cấp và tính nhân văn thống nhất với nhau. Pháp quyền
là vấn đề ở đời và làm người; ở đời và làm người là phải thương nước, thương
dân, thương nhân loại lao khổ bị áp bức, phải làm sao đóng góp vào việc làm
cho nước độc lập, dân được tự do, hạnh phúc, nhân loại khỏi đau khổ, đó
chính là đạo ở đời và đạo làm người cao cả; pháp quyền của Nhà nước ta phải
bảo vệ và thúc đẩy thực hiện cái đạo ở đời và đạo làm người ấy, đối với xã
hội Việt Nam cần lập lại trật tự là để tổ chức đời sống yên bình cho toàn dân;
thì chính quyền mới của nhân dân lại phải biết lợi dụng vai trò tổ chức của
pháp luật [46].
Tác giả Nguyễn Ngọc Sơn là một trong không nhiều tác giả có đưa ra
khái niệm pháp quyền: “Pháp quyền thực chất là một mô hình tổ chức xã hội
mà trong đó nhà nước cũng như mọi chủ thể khác trong xã hội phải chịu sự
cương tỏa của quyền lực pháp luật” [111, tr.25]. Tác giả cho rằng, Hồ Chí
Minh không chỉ yêu cầu Nhà nước phải theo chế độ pháp quyền, mà yêu cầu
pháp quyền đối với toàn xã hội; pháp quyền trong công quyền và trong xã hội
công dân. Pháp quyền trong công quyền thì công quyền là đối tượng chịu sự
kiểm soát của pháp luật. Pháp quyền trong xã hội công dân thì công dân là
chủ thể sử dụng quyền lực của pháp luật để bảo vệ các quyền và tự do của
mình [111]. Như vậy, Nguyễn Ngọc Sơn là một trong các nhà nghiên cứu đã
nhìn nhận tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh theo nghĩa rộng. Nhưng cơ bản
23
vẫn tập trung vào vai trò của pháp luật, đặc biệt trong việc kiểm soát quyền
lực Nhà nước.
Các tác giả Nguyễn Bá Dương, Trần Hậu Thành và Lê Thị Hoài Thanh
đã khái quát hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng NNPQ, tập trung vào các
vấn đề: 1. NNPQ - theo Hồ Chí Minh - trước hết phải được tổ chức và hoạt
động theo pháp luật, đảm bảo tính tối cao của pháp luật trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội; 2. Trong “phép trị nước” của Hồ Chí Minh, “đức trị”,
“nhân trị” và “pháp trị” đều có vị trí quan trọng; 3. Thống nhất đạo đức và
pháp luật trong quan niệm về NNPQ của Hồ Chí Minh; 4. Một chính quyền
mạnh mẽ và sáng suốt - theo Hồ Chí Minh - phải là một NNPQ của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân, 5. NNPQ còn là một Nhà nước của khối đại đoàn
kết dân tộc Việt Nam [22]. Các tác giả đã nêu được những nội dung cơ bản
của NNPQ, nhưng vẫn chưa phân nội dung pháp quyền và bản chất, nền tảng
của Nhà nước.
Tác giả Song Thành cho rằng Hồ Chí Minh đề cao vai trò của pháp luật
trong quản lý nhà nước và làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế; đề cập
đến pháp chế XHCN; đề cập đến vấn đề kết hợp đạo đức và pháp luật [121].
Nhìn một cách khái quát tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh theo cách luận
giải của tác giả vẫn nhấn mạnh vào pháp quyền là một công cụ hữu hiệu trong
quản lý nhà nước, khái niệm pháp chế và pháp quyền dùng thay thế lẫn nhau.
Trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền
kiểu mới ở Việt Nam [3], do Phạm Ngọc Anh và Bùi Đình Phong chủ biên, là
một trong rất ít công trình nghiên cứu công phu và đã hệ thống hóa khá toàn
diện tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. Tuy các tác giả không trực tiếp đề
cập đến khái niệm pháp quyền, nhưng những vấn đề, những nội dung tư
tưởng pháp quyền Hồ Minh đã được các tác giả đề cập đến: quá trình hình
thành và phát triển; quan niệm về Nhà nước, bản chất Nhà nước, vai trò của
pháp luật trong quản lý xã hội (pháp luật là cơ sở thực hiện các quyền tự do
24
dân chủ; cơ sở đảm bảo quyền làm chủ Nhà nước của nhân dân; pháp luật là
công cụ ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền lực của các cơ quan nhà nước
và các cá nhân được Nhà nước giao quyền; là cơ sở tạo cho xã hội có trật tự,
kỷ cương theo đường lối của giai cấp cầm quyền; là công cụ ngăn chặn tính
trạng công dân xâm phạm quyền và lợi ích của nhau); những điều kiện đảm
bảo tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật; trên cơ sở đó các tác giả nêu
ra sự vận dụng và phát triển.
* Bài đăng trên các tạp chí chuyên ngành
Phạm Ngọc Anh cho rằng trong quan niệm của Hồ Chí Minh, pháp
luật có những vai trò: Cơ sở thực hiện các quyền tự do dân chủ; cơ sở đảm
bảo quyền làm chủ Nhà nước của nhân dân; ngăn chặn tình trạng lạm dụng
quyền lực của các cơ quan nhà nước và các cá nhân được Nhà nước giao
quyền; tạo cho xã hội có trật tự, kỷ cương theo đường lối của giai cấp cầm
quyền; ngăn chặn tình trạng công dân xâm phạm quyền và lợi ích của nhau
[2]. Tác giả nhấn mạnh vai trò của pháp luật, một nội dung quan trọng trong
tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.
Vũ Hoàng Công luận giải những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhà nước do dân bầu và dân kiểm
soát được. Phải có Hiến pháp dân chủ, được nhân dân chấp nhận, làm khuân
phép cho hoạt động của Nhà nước, của người cầm quyền, đồng thời khẳng
định tự do và các quyền cơ bản khác của con người, của công dân. Công chức
nhà nước là công bộc của dân. Nhà nước được tổ chức thống nhất và có hiệu
lực từ trung ương đến địa phương. Nhà nước phải trong sạch, không quan
liêu, tham ô, lãng phí [12]. Tác giả đã đề cập tư tưởng pháp quyền Hồ Chí
Minh từ phương diện bản chất nhà nước.
Nguyễn Hữu Đổng đề cập đến tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh dưới
góc độ kiểm soát quyền lực nhà nước. Tác giả khẳng định Hồ Chí Minh cho
rằng quyền lực nhà nước cần phải kiểm soát, dùng phép luật của nhân dân để
25
ngăn cản những hành động có hại cho nhân dân, để bảo vệ lợi ích chung của
đại đa số nhân dân. Tác giả phân tích những cách kiểm soát quyền lực nhà
nước: kiểm soát từ bên trong Nhà nước, từ chính bộ máy, cách thức tổ chức
bộ máy nhà nước; kiểm soát từ bên ngoài Nhà nước, từ phía các tổ chức chính
trị, xã hội, nghề nghiệp và từ phía dân chúng; kiểm soát của Đảng [34].
Ngô Ngọc Thắng cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ được thể
hiện trên những quan điểm cơ bản sau: NNPQ phải là Nhà nước dân chủ;
nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước, Nhà nước là
công cụ phục vụ nhân dân. Nhà nước tôn trọng pháp luật, được tổ chức và
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp
luật. Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả. Nhà nước do Đảng Cộng sản
lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân
và tính dân tộc rộng rãi [116]. Tác giả chưa phân định một cách rõ tư tưởng
pháp quyền Hồ Chí Minh với tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất nhà nước.
Một hướng nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh được quan
tâm, đó là qua những bản Hiến pháp của nước Việt Nam DCCH khi Người
giữ vai trò đứng đầu Nhà nước, là người khởi xướng việc xây dựng, sửa đổi
Hiến pháp (chủ thể sáng kiến lập hiến) và đồng thời là Trưởng Ban soạn thảo
những Hiến pháp đó. Ở hướng nghiên cứu này có thể kể đến: Văn Thị Thanh
Hương với bài: Dấu ấn Hồ Chí Minh: từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp
năm 1959 [55]; Cao Hải Yến với bài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Nhà nước của dân, do dân, vì dân tại Hiến pháp năm 1946 [152]; Nguyễn Thị
Thu với bài: Về sách "Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa" trưng
bày tại nhà sàn [127]; Nguyễn Mạnh Hùng với bài: Nhân tố pháp quyền trong
Hiến pháp năm 1946 và những giá trị cần kế thừa [49]; Đỗ Đức Huỳnh với
bài: Chủ tịch Hồ Chí Minh với bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa (Hiến pháp - 1946) [56]; Văn phòng Quốc hội với sách:
Hiến pháp năm 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các Hiến pháp Việt Nam
26
[145]... Trong hướng nghiên cứu này tiêu biểu có bài: Hiến pháp năm 1946
với tư tưởng pháp quyền của Nguyễn Sỹ Dũng [19], tác giả đã phân tích tư
tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh trong bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam
(Hiến pháp năm 1946). Tác giả khẳng định Hiến pháp năm 1946 thể hiện
những nguyên tắc và phương thức tổ chức quyền lực sao cho lạm quyền
không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ, đó chính
là tinh thần căn bản của pháp quyền. Trước hết, để lạm quyền không thể xảy
ra thì Hiến pháp đã được đặt cao hơn Nhà nước; các quyền của người dân
được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm; Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thì cao
hơn là Nhà nước ghi nhận và bảo đảm; vì rằng nếu Nhà nước ghi nhận và bảo
đảm thì quyền chủ động là thuộc Nhà nước, nhưng nếu Hiến pháp ghi nhận và
bảo đảm thì Nhà nước không có quyền chủ động; quyền năng giữa các cơ
quan nhà nước được phân chia khá rõ và nhiều cơ chế kiểm tra, giám sát lẫn
nhau đã được thiết kế; quyền năng giữa chính quyền trung ương và chính
quyền địa phương cũng được phân chia rất rõ; vai trò độc lập xét xử của Toà
án được bảo đảm.
Nguyễn Thanh Tuấn trong bài Dân chủ và nhân quyền theo tư tưởng
Hồ Chí Minh [138], đã chỉ ra Hiến pháp năm 1946 bên cạnh những giá trị thì
cũng còn hạn chế trong phương diện pháp lý và thực tiễn. Tác giả khẳng định
trong tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước đến Hiến pháp năm
1992 sửa đổi năm 2001, Hiến pháp năm 1946 được đánh giá là có nhiều qui
định tiến bộ, đặc biệt là trên phương diện tổ chức quyền lực Nhà nước. Nhiều
sửa đổi của pháp luật hiện hành của Việt Nam cũng đang theo hướng trở về
với những giá trị của Hiến pháp năm 1946. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra hạn
chế của Hiến pháp năm 1946, trên phương diện thực tế bản Hiến pháp này
chưa được hiện thực hóa đầy đủ, chưa được Chủ tịch nước ký lệnh công bố.
Nguyên nhân là không lâu sau khi Hiến pháp được thông qua, đất nước xảy ra
chiến tranh.
27
Một hướng nghiên cứu khác về tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, đó
là thông qua Tuyên ngôn Độc lập do Người soạn thảo và tuyên bố năm 1945.
Trong hướng nghiên cứu này có thể kể tới: Nguyễn Thị Thu Trang với bài:
Tuyên ngôn Độc lập - cơ sở pháp lý đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa [132]; Phùng Văn Tửu với bài: Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 - văn
bản pháp lý - chính trị, nền tảng của nước Việt Nam mới [141]... Trong đó
tiêu biểu, tác giả Nguyễn Sỹ Dũng với bài: Nguồn cội của pháp quyền [20],
đã khẳng định Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh là cội nguồn của tư
tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, văn bản chính trị - pháp lý nền tảng của
nước Việt Nam mới. Vấn đề cốt lõi của pháp quyền là pháp luật về quyền.
Pháp luật phân định và bảo vệ các quyền: quyền của các công dân và quyền
của Nhà nước, quyền của các nhánh quyền lực Nhà nước như lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Tư duy pháp lý bao trùm ở đây là: quan hệ xã hội được xây
dựng trên cơ sở của các quyền. Quyền của chủ thể này có thể là nghĩa vụ của
chủ thế khác. Pháp luật điều chỉnh và phân định các quyền này. Theo Tuyên
ngôn Độc lập năm 1945 các quyền của con người là bất khả xâm phạm, Nhà
nước đề ra hệ thống các nguyên tắc và thủ tục để bảo vệ các quyền của con
người được gọi là pháp quyền. Trên thực tế, những quyền được nêu ra trong
bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 là phần cấu thành quan trọng nhất của
Hiến pháp năm 1946.
Một số tác giả khác đề cập tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh từ một
góc độ nào đó, như: bản chất Nhà nước; cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước;
cách thức lập ra Nhà nước; đề cao vai trò của pháp luật; mối quan hệ giữa đạo
đức và pháp luật... Trong đó có thể kể đến một số tác giả: Trần Nam Chuân
với bài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước kiểu mới [10]; Văn Thị
Thanh Hương với bài: Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc xây dựng Nhà nước của
dân, do dân, vì dân [54]; Lê Huy Bình với bài: Cống hiến của Chủ tịch Hồ
28
Chí Minh về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam [6]; Vũ Văn Hiển với bài: Tư
tưởng pháp luật Hồ Chí Minh với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay [45]; Nguyễn Thị Thu Hường với bài: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội [51];
Nguyễn Văn Mạnh với bài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới ở
Việt Nam [70]; Trần Nghị với bài: Nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta [89]; Bùi Ngọc
Sơn với bài: Chủ tịch Hồ Chí Minh với thiết chế Chủ tịch nước ở Việt Nam
[112]; Lưu Văn Sùng với bài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về thể chế chính trị
[114]; Song Thành với bài: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh - Sự thống
nhất giữa đức trị và pháp trị [120].
Những công trình nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh của
các tác giả nêu trên là nguồn tài liệu rất quan trọng để tác giả thực hiện luận
án “Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh”. Những kết quả đạt được trong các
công trình nghiên cứu trên một phần được kế thừa trong luận án; đồng thời là
những gợi mở về những điểm mới của luận án.
1.2. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.2.1. Những vấn đề đã đƣợc nghiên cứu
Qua nghiên cứu, đánh giá kết quả của các công trình nghiên cứu liên
quan đến tư tưởng pháp quyền ở Việt Nam, tư tưởng pháp quyền Hồ Chí
Minh, tác giả luận án nhận thấy các công trình đã đề cập những vấn đề sau:
Thứ nhất, các nhà nghiên cứu đều thống nhất tư tưởng pháp quyền là
một giá trị nhân văn mang tính phổ quát toàn nhân loại, mặc dù được định
hình và phát triển cả về phương diện lý luận và thực tiễn trong chế độ tư bản
chủ nghĩa. Tư tưởng pháp quyền trở thành một giá trị hướng tới, trở thành
một chuẩn mực, thước đo đối với xã hội hiện đại.
29
Thứ hai, các nghiên cứu đã tập trung lý giải về tính tất yếu của việc xây
dựng NNPQ ở Việt Nam. Đặc biệt trong, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, trong bối cảnh Việt Nam mở rộng quan hệ quốc tế, hội
nhập quốc tế ngày càng sâu, yêu cầu thực tiễn đó đặt ra Việt Nam phải có
những tương đồng về thể chế pháp luật, cũng như ứng xử phù hợp với thông
lệ quốc tế, các tiến bộ mà nhân loại đã đạt được. Đặt ra yêu cầu tất yếu xây
dựng NNPQ ở Việt Nam.
Thứ ba, các nghiên cứu đã thống nhất và khẳng định Hồ Chí Minh là
một trong những người đặt nền móng cho pháp quyền Việt Nam hiện đại; đặc
biệt là người đi đầu trong việc hiện thực hóa tư tưởng pháp quyền ở Việt
Nam. Thống nhất và khẳng định có tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh; hệ
thống tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh và thực tiễn pháp quyền Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh còn giá trị tới ngày nay, có tác dụng định
hướng cho pháp quyền Việt Nam hiện tại và tương lai.
Thứ tư, các công trình nghiên cứu đã đề cập tới từng mặt hoặc một số
phương diện, khía cạnh trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, như: khái
niệm; nguồn gốc; quá trình hình thành và phát triển; nội dung; giá trị. Việc
nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh với tư cách là một hệ thống
chỉnh thể thống nhất chưa được quan tâm đúng mức. Tính hệ thống hóa chưa
cao, chưa đầy đủ và chưa toàn diện. Có những nội dung sự phân tích, lý giải
và đánh giá chưa đầy đủ, toàn diện. Đó là những vấn đề mà các nhà nghiên
cứu cần tiếp tục, trong đó có tác giả của luận án này.
Thứ năm, các công trình nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh
chủ yếu tập trung và nhấn mạnh pháp quyền trong công quyền, chưa tập trung
và nhấn mạnh pháp quyền trong xã hội công dân, xã hội dân sự, tức là pháp
quyền trong toàn xã hội, nói theo tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh là “thần
linh pháp quyền” còn thiếu. Pháp quyền chủ yếu tập trung và nhấn mạnh dưới
30
góc độ là công cụ, phương tiện trong quản lý nhà nước; chưa tập trung và
nhấn mạnh pháp quyền thấm sâu vào đời sống xã hội, thấm sâu vào quốc dân
đồng bào; pháp quyền trở thành nề nếp, thói quen, lối ứng xử tự nhiên của con
người. Một tầng sâu, một trình độ cao và một chất mới của pháp quyền Hồ
Chí Minh. Đây là một vấn đề mà các nhà nghiên cứu cần tiếp tục, trong đó có
tác giả của luận án này.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra đƣợc luận án tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu và giá trị trong các công trình
nghiên cứu tư tưởng pháp quyền ở Việt Nam và tư tưởng pháp quyền Hồ Chí
Minh của các tác giả đi trước, tác giả của luận án tiếp tục nghiên cứu tư tưởng
pháp quyền Hồ Chí Minh ở những vấn đề sau:
Thứ nhất, xác định các khái niệm pháp luật, pháp chế, pháp quyền, Nhà
nước pháp quyền, khái niệm tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh và nội dung
tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh;
Thứ hai, phân tích cơ sở hình thành tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh,
bao gồm: cơ sở thực tiễn, những tiền đề lý luận và nhân tố chủ quan;
Thứ ba, phân tích, luận giải nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí
Minh với tư cách là một hệ thống chỉnh thể thống nhất, hệ thống hóa nội dung
cơ bản trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, chỉ ra những nét độc đáo,
sáng tạo trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, bao gồm, tư tưởng về: vai
trò của pháp luật; phương thức thực hiện pháp quyền; điều kiện thực hiện
pháp quyền.
Thứ tư, rút một số giá trị tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh tham chiếu
đối với việc xây dựng NNPQ XHCN hiện nay, bao gồm: kiểm soát quyền lực
nhà nước; pháp luật thể hiện ý nguyện của nhân dân; chủ quyền nhân dân đối
với các vấn đề quan trọng của quốc gia; các quyền hiến định của công dân;
xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt.
31
Tiểu kết chƣơng 1
Khái niệm pháp quyền có nội dung rộng, được các nhà nghiên cứu đề
cập đến trên nhiều khía cạnh, trên thế giới, tùy từng khu vực, tùy từng quốc
gia có điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, có cách hiểu khác nhau. Ở Việt
Nam, pháp quyền dưới góc độ lý luận chung không được đề cập nhiều, chủ
yếu từ những vấn đề thực tiễn trên thế giới và của Việt Nam các nhà tư tưởng,
các nhà chính trị và các nhà nghiên cứu nêu ra những giá trị, những vấn đề đặt
ra, đề xuất giải pháp đối với việc xây dựng NNPQ XHCN. Tư tưởng pháp
quyền Hồ Chí Minh được các nhà nghiên cứu đề cập trên những khía cạnh:
khái niệm, nguồn gốc, quá trình hình thành, phát triển, nội dung, giá trị. Tính
hệ thống, tính đầy đủ chưa cao; có nội dung sự phân tích, lý giải và đánh giá
chưa đầy đủ, chưa toàn diện. Vấn đề pháp quyền nói chung và tư tưởng pháp
quyền Hồ Chí Minh nói riêng cần được tiếp tục nghiên cứu làm rõ và vận
dụng vào xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam.
32
Chƣơng 2
KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG
PHÁP QUYỂN HỒ CHÍ MINH
2.1. KHÁI NIỆM
2.1.1. Khái niệm pháp luật
Các nhà tư tưởng phương Tây đưa ra quan điểm về pháp luật tự nhiên
và pháp luật thực định. Pháp luật tự nhiên là khái niệm tư tưởng chính trị và
pháp quyền dùng để chỉ một hệ thống pháp luật lý tưởng, xuất phát từ bản
tính con người, lấy lý trí con người làm nền tảng, không phụ thuộc vào Nhà
nước và các điều kiện xã hội. Tư tưởng pháp luật tự nhiên có từ thời cổ đại:
Platon, Aristote, Cicéron, Socrat... Nhưng được lưu hành rộng rãi vào thời kỳ
Cách mạng tư sản ở châu Âu (thế kỷ 17 - 18), được coi là vũ khí tư tưởng của
giai cấp tư sản chống lại sự chuyên chế phong kiến, tư tưởng pháp luật tự
nhiên được phát triển qua các tác phẩm của J.Locke, J.J.Rousseua, C.L. de
Mongtesquiue, D.Diderot, A.N.Radishev. Từ thế kỷ 19 trở đi khái niệm pháp
luật tự nhiên được thay thế bằng khái niệm pháp luật thực định. Pháp luật
thực định là tổng thể các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước ở mỗi quốc
gia ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong khoa học pháp lý sử
dụng khái niệm pháp luật thực định để phân biệt với pháp luật tự nhiên.
K.Marx và F.Engels trong: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đưa ra
quan điểm: “pháp quyền của các ông chỉ là ý chí của các ông được đề lên
thành luật, cái ý chí mà nội dung là do điều kiện sinh hoạt vật chất của giai
cấp các ông quy định” [68, tr.619]. Quan điểm K.Marx và F.Engels đối với
pháp luật tư sản dựa trên sự khái quát hóa, trừu tượng hóa rất cao, chỉ tập
trung vào điểm cốt lõi và xét đến cùng, quan điểm trên có ý nghĩa phương
pháp luận. Thứ nhất, khi nghiên cứu và quan niệm về pháp luật phải thấy bản
chất giai cấp của pháp luật; pháp luật mang bản chất của giai cấp thống trị về
33
chính trị, về kinh tế. Thứ hai, khi nghiên cứu và quan niệm về pháp luật phải
thấy cơ sở vật chất của pháp luật. Khái niệm về pháp luật trên được K.Marx
và F.Engels đưa ra dưới góc độ triết học.
Quan điểm của K.Marx và F.Engels được V.I.Lenin kế thừa, phát triển
và vận dụng vào thực tiễn xây dựng XHCN ở nước Nga. V.I.Lenin khẳng
định lại quan điểm của K.Marx: “Pháp quyền không bao giờ có thể cao hơn
chế độ kinh tế và trình độ phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế
quyết định” [57, tr.115]. Đồng thời, qua thực tiễn xây dựng chế độ xã hội
mới, thời kỳ quá độ lên CNXH, V.I.Lenin thấy vai trò quan trọng của pháp
luật đối với đời sống xã hội, ông nêu quan điểm cần phải có pháp luật để quản
lý xã hội. V.I.Lenin cho rằng: “Pháp quyền ấy vẫn còn tồn tại với tư cách là
yếu tố điều tiết việc phân phối sản phẩm và phân phối lao động giữa những
thành viên trong xã hội” [57, tr.114].
Trong sách Từ điển triết học do M.Rodentan và P.Iudin chủ biên, chịu
sự chi phối của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra quan niệm về pháp luật tập
trung và nhấn mạnh vào bản chất giai cấp của pháp luật, chịu sự quy định và
phản ánh quan hệ kinh tế [109].
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin chi phối quan niệm về pháp luật
ở Việt Nam từ khi chế độ xã hội mới ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm
1945 thành công, vai trò chi phối này ở các mức độ khác nhau tùy điều kiện
lịch sử.
Trong sách Từ điển bách khoa Việt Nam nêu khái niệm: “Pháp luật là
hệ thống các quy phạm xã hội có tính bắt buộc chung thể hiện ý chí của giai
cấp thống trị đề lên thành luật và được bảo vệ bằng quyền lực nhà nước” [48,
tr.420]. Khái niệm này đã đưa khái niệm pháp luật với một khái niệm rộng
hơn là khái niệm quy phạm xã hội, quy phạm xã hội có thể gồm đạo đức, tôn
giáo... chỉ ra các đặc tính riêng của quy phạm pháp luật: được Nhà nước thừa
34
nhận hoặc đề lên thành luật, mang bản chất giai cấp, mang tính cưỡng chế,
tính bắt buộc, được đảm bảo bằng Nhà nước.
Trong giới nghiên cứu và giảng dạy pháp luật tại Việt Nam, có đưa
ra khái niệm về pháp luật, trong đó có thể kể tới Hoàng Thị Kim Quế với
khái niệm:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung
do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai
cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã
hội, được đảm bảo thực hiện bằng Nhà nước nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì sự phát
triển bền vững của xã hội [103, tr.288].
Trong khái niệm này, bên cạnh sự tương đồng với nội dung của những
quan niệm đã trình bày trên, tác giả bổ sung thêm hai điểm: một là, tính xã hội
của pháp luật; hai là, mục tiêu của pháp luật nhằm mục đích phát triển bền
vững xã hội, mục đích nhân văn, tiến bộ của pháp luật.
Từ các phân tích trên, có thể khái quát những nội dung của khái niệm
pháp luật gồm: pháp luật là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực hành vi ứng xử
mang tính phổ biến; pháp luật phải do Nhà nước ban hành, thừa nhận, Nhà
nước là chủ thể trực tiếp ban hành, thừa nhận; pháp luật mang tính cưỡng chế,
là những quy tắc, chuẩn mực hành vi ứng xử mang tính bắt buộc phải tuân
theo, được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh Nhà nước; đối với pháp luật
tiến bộ mục đích của pháp luật đảm bảo trật, ổn định và phát triển bền vững
của xã hội.
Từ tất cả sự phân tích trên, luận án đưa ra khái niệm về pháp luật như
sau: Pháp luật là hệ thống quy tắc hành vi xử sự xã hội mang tính phổ biến,
do Nhà nước quy định và đảm bảo thực thi, điều chỉnh quan hệ xã hội nhằm
đảm bảo trật tự, ổn định và tiến bộ xã hội.
35
2.1.2. Khái niệm pháp chế
Trong khoa học pháp lý Việt Nam có khái niệm pháp chế và pháp chế
XHCN. Có nhiều khái niệm khác nhau về pháp chế.
Trong sách Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ nêu khái niệm: Pháp
chế là chế độ trong đó đời sống và hoạt động xã hội được bảo đảm bằng pháp
luật [149, tr.985]; trong sách Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển học do
Hoàng Phê và các cộng sự đưa ra khái niệm về pháp chế tương tự như trên
[99]. Khái niệm pháp chế ở đây theo nghĩa rộng, nhấn mạnh đến vai trò của
pháp luật đối với toàn bộ xã hội, để có pháp chế điều kiện cần là có hệ thống
pháp luật đầy đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Theo Phạm Hữu Nghị quan niệm về pháp chế nhấn mạnh đến một hệ
thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội; sự tuân thủ pháp
luật của toàn xã hội, gồm: Nhà nước, mọi tổ chức xã hội và cá nhân công dân
[88]. Quan niệm này nhấn mạnh đến thành tố quan trọng, như là điều kiện cần
và đủ của pháp chế là có hệ thống pháp luật và sự tuân thủ pháp luật.
Theo Nguyễn Minh Đoan quan niệm pháp chế chính là pháp luật,
nhưng pháp luật đang thực thi trong đời sống xã hội, tức là pháp luật đang
sống [32]. Tác giả khi quan niệm về pháp chế nhấn mạnh đến tính hiệu lực
của pháp luật trong đời sống xã hội, trong quan niệm này tác giả đòi hỏi một
trình độ cao tính hiệu lực của pháp luật, không chỉ hiểu hiệu lực của pháp luật
ở tính cưỡng chế, mà phải đạt tới ý thức tự giác. Quan niệm này về pháp chế
gần với quan niệm về pháp quyền.
Theo Bùi Xuân Đức quan niệm pháp chế là một trật tự pháp luật trong
đó tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải
tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để, thống nhất
[1]. Trong quan niệm về pháp chế, tác giả nhấn mạnh đến sự tuân thủ pháp
36
luật của toàn xã hội, các đặc trưng trong thực hiện pháp luật, quan niệm này
về pháp chế có những điểm tương đồng với quan niệm về pháp chế.
Pháp chế XHCN là chế độ tuân thủ nghiêm chỉnh và chính xác Hiến
pháp, luật của mọi chủ thể trong các quan hệ pháp luật. Đây là, một trong
những nguyên tắc cơ bản của pháp luật XHCN. Nguyên tắc này cũng được
coi là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước ở Việt Nam. Trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp cần
triệt để tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Nguyên
tắc pháp chế XHCN đòi hỏi phải đảm bảo các yêu cầu: tính thống nhất, đồng
bộ của hệ thống pháp luật, trong hệ thống pháp luật thượng tôn Hiến pháp và
luật; thừa nhận và bảo vệ có hiệu quả các quyền công dân; tuân thủ, chấp
hành pháp luật trong toàn xã hội; xử lý kịp thời, công minh hành vi vi phạm
pháp luật; đảm bảo hợp pháp, hợp lý và hợp tình; hệ thống pháp luật đảm bảo
cần và đủ cho việc điều chính các quan hệ xã hội. Như vậy, khái niệm pháp
chế có những nội dung tương đồng với khái niệm pháp chế.
Từ tất cả sự phân tích trên luận án đưa ra khái niệm về pháp chế như
sau: Pháp chế là chế độ pháp luật được thực thi một cách nghiêm minh đối
với mọi chủ thể trong xã hội.
2.1.3. Khái niệm pháp quyền
Trong các nghiên cứu ở Việt Nam về triết học, khoa học pháp lý, khoa
học chính trị, Hồ Chí Minh học... có đề cập đến khái niệm pháp quyền. Khái
niệm pháp quyền được sử dụng là công cụ để các tác giả đề cập đến nội dung
nghiên cứu.
Bùi Ngọc Sơn khẳng định pháp quyền là một lý thuyết của phương
Tây, trong thế kỷ XX, nó lan tỏa và có tầm ảnh hưởng rộng lớn tới khắp các
châu lục. Tác giả đưa ra quan điểm: “Pháp quyền thực chất là một mô thức tổ
chức xã hội mà trong đó Nhà nước cũng như mọi chủ thể khác trong xã hội
phải chịu sự cương tỏa của quyền lực pháp luật” [111, tr.25]. Tác giả cho rằng
37
thực chất pháp quyền là quyền của pháp luật trong toàn bộ đời sống xã hội,
pháp luật trở thành tối cao, không chỉ dừng lại ở khâu Nhà nước áp dụng pháp
luật, mà trở thành “thần linh”. Tức là pháp luật được tôn trọng đến trình độ có
tính linh thiêng. Đến đây, đặt ra một câu hỏi: cái gì, yếu tố nào tạo nên tính
linh thiêng của pháp luật, khi trả lời được câu hỏi đó là chỉ ra được cốt lõi của
pháp quyền.
Hoàng Văn Nghĩa dẫn quan niệm về pháp quyền trong Báo cáo của
Tổng thư ký Liên hợp quốc về NNPQ và tư pháp chuyển đổi trong các xã hội
xung đột và hậu xung đột: Pháp quyền là một nguyên tắc quản trị mà ở đó, tất
cả các cá nhân, cơ quan và tổ chức, công và tư pháp, bao gồm cả Nhà nước, là
phải giải trình trước pháp luật được ban hành một cách công khai, được thực
thi một cách bình đẳng và được xét xử một cách độc lập, phù hợp với các quy
phạm và tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế. Cũng như nó đòi hỏi về các biện
pháp đối với việc đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc tính tối cao của pháp luật,
sự bình đẳng trước pháp luật, trách nhiệm giải trình trước pháp luật, tính công
bằng trong áp dụng pháp luật, phân chia quyền lực, tham gia vào việc ra quyết
định, đảm bảo pháp lý, tránh sự tùy tiện và sự minh bạch về thủ tục, về pháp
lý [91]. Đây là quan niệm pháp quyền theo nghĩa rộng, hàm chứa nhiều giá trị
của khoa học pháp lý hiện đại. Quan niệm như vậy, coi pháp quyền là một
phương thức tổ chức xã hội hiện đại, văn minh và tiến bộ.
Nguyễn Đăng Dung cho rằng thuật ngữ pháp quyền (The Rule of Law)
dùng để chỉ cả một xã hội được tổ chức và vận hành trên cơ sở các quyền
được pháp luật quy định rạch ròi theo luật của tự nhiên, sao cho các chủ thể
sử dụng quyền của mình một cách tự do để có khả năng nâng cao sự hạnh
phúc của mình, nhưng lại không xâm phạm sang quyền của các chủ thể khác
[18]. Tác giả đề cao vai trò của pháp luật, nhưng là pháp luật để phục vụ cho
con người, đem lại quyền cho con người, đem lại hạnh phúc cho con người.
38
Trên cơ sở kế thừa kết quả đạt được trong các công trình đã công bố,
luận án đưa ra khái niệm về pháp quyền: Pháp quyền là nguyên tắc tổ chức và
hoạt động xã hội đề cao pháp luật, đảm bảo công bằng, quyền con người và
tiến bộ xã hội.
Nói đến pháp quyền là phải nói đến Nhà nước và pháp luật, theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin Nhà nước và pháp luật mang bản chất giai
cấp, do vậy pháp quyền mang bản chất giai cấp; Nhà nước, pháp luật không
chỉ mang nguyên bản chất giai cấp, còn mang bản chất xã hội. Nhà nước,
pháp luật chỉ phục vụ quyền, lợi ích của một giai cấp thì sớm hay muộn Nhà
nước, pháp luật đó sẽ bị loại bỏ và thay thế bằng một Nhà nước, pháp luật
khác. Diễn trình lịch sử nhân loại đa dạng, phức tạp, có bước quanh co, thậm
chí thụt lùi, nhưng xu hướng chung là tiến bộ, phát triển. Lịch sử Nhà nước và
pháp luật của mỗi quốc gia và toàn nhân loại cũng nằm trong tiến trình chung
không ngừng tiến bộ và phát triển. Trong tiến trình phát triển của lịch sử Nhà
nước và pháp luật, tư tưởng pháp quyền thể hiện xu thế tiến bộ và phát triển.
Pháp quyền là một giá trị văn minh, tiến bộ của Nhà nước, của pháp luật.
Trước hết, pháp quyền được hiểu đó là quyền của pháp luật. Pháp luật
do Nhà nước ban hành để bảo vệ quyền và lợi ích trước hết của giai cấp nắm
Nhà nước, giai cấp thống trị về chính trị, về kinh tế. Do đó, quyền đầu tiên
của pháp luật là bảo vệ giai cấp thống trị, đi liền với đó là quyền giàng buộc
các giai cấp còn lại trong khuôn khổ, trong vòng trật tự, trừng trị nặng những
hành vi xâm hại, đe dọa địa vị của giai cấp thống trị. Quyền này của pháp luật
thấy rõ trong pháp luật chiếm hữu nô lệ và pháp luật phong kiến, nhưng đó
chưa phải là pháp quyền, chưa đạt đến pháp quyền.
Kiểu pháp luật tư bản chủ nghĩa, quyền thống trị giai cấp của pháp luật
vẫn còn, bên cạnh đó xuất hiện tư tưởng quyền của pháp luật với chính Nhà
nước, với các nhân viên nhà nước; đặc biệt khi chủ nghĩa lập hiến ra đời, yêu
cầu Nhà nước đặt dưới pháp luật, khi đó pháp quyền ra đời. Nhà nước và
39
pháp luật không chỉ phục vụ một giai cấp, mà phục vụ toàn xã hội. Tư tưởng
pháp quyền hiện nay đã đạt đến Nhà nước chỉ được làm những điều pháp luật
cho phép, cá nhân công dân có quyền làm những điều pháp luật không cấm;
nghĩa vụ giải trình của Nhà nước, nhân viên nhà nước. Như vậy, đến hiện nay,
quyền của pháp luật đã mở rộng ra toàn xã hội, không còn vùng cấm đối với
pháp luật.
Thứ hai, pháp quyền được hiểu là pháp luật về quyền. Pháp luật ghi
nhận và đảm bảo các quyền tự nhiên của con người, dưới góc độ quốc gia -
dân tộc, quốc gia - dân tộc có quyền; dưới góc độ cá nhân, có quyền con
người. Pháp luật về quyền của quốc gia - dân tộc, đó là pháp quyền quốc tế,
pháp quyền dân tộc; pháp luật về quyền con người, quyền công dân đó là
pháp quyền dân chủ. Pháp luật phải được xây dựng theo những trình tự nhất
định và thể hiện dưới hình thức nhất định do luật quy định. Pháp luật khi áp
dụng phải tuân thủ theo trình tự thủ tục nhất định theo do luật quy định.
Thứ ba, mục tiêu của pháp quyền là đảm bảo trật tự, ổn định và hướng
tới tiến bộ, phát triển xã hội. Pháp quyền dân tộc hay pháp quyền dân chủ
mục tiêu đầu tiên, trước hết là duy trì trật tự hiện tồn; trong thế giới hiện nay
pháp quyền còn phải hướng tới sự tiến bộ, phát triển xã hội. Pháp quyền lấy
con người làm trung tâm, xuất phát từ con người, vì con người, xu thế không
thể đảo ngược. Đích cuối cùng của pháp quyền là mỗi cá nhân người có tự do,
công bằng, công lý và hạnh phúc.
2.1.4. Khái niệm Nhà nƣớc pháp quyền
Tư tưởng pháp quyền có nguồn gốc từ châu Âu và được du nhập vào
Việt Nam từ đầu thế kỷ XX, trong hoàn cảnh Việt Nam là một quốc gia thuộc
địa, chế độ quân chủ chuyên chế vẫn tồn tại, do đó không có điều kiện phát
triển cả về lý luận và thực tiễn. Đến giữa thế kỷ XX, với thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám năm 1945, với sự ra đời của nước Việt Nam DCCH tư tưởng
pháp quyền được hiện thực hóa. Đến thập niên cuối của thế kỷ XX, vấn đề
40
pháp quyền được đề cập trở lại và được Đảng Cộng sản Việt Nam sử dụng
trong các Văn kiện của Đảng với tên gọi NNPQ, NNPQ XHCN của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. Khái niệm này được sử dụng chính thức và trở nên
phổ biến trong xã hội Việt Nam.
Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII) xác
định: "Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện NNPQ Việt Nam” [26,
tr.224]. Như vậy, đây là lần đầu tiên trong Văn kiện của Đảng chính thức nêu
trực tiếp và cụ thể vấn đề xây dựng NNPQ Việt Nam, trở thành chủ trương có
tầm chiến lược, bao trùm toàn bộ tổ chức, hoạt động của Nhà nước, trở thành
định hướng cho toàn bộ quá trình và nội dung đổi mới tổ chức, hoạt động của
Nhà nước. Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới,
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tính tất yếu khách quan và cấp thiết của
việc xây dựng NNPQ XHCN; là một đặc trưng của xã hội XHCN; vừa tiếp
thu thành tựu của nhân loại về NNPQ, vừa thể hiện bản sắc, đặc điểm riêng
của Việt Nam [28, 29]. Quá trình tiếp cận, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt
Nam về NNPQ và xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam là một quá trình, gắn
liền với sự nghiệp đổi mới đất nước. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về NNPQ XHCN ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, cụ thể, đi vào
những vấn đề thực chất của tư tưởng pháp quyền. Quan điểm đó đã tiếp thu
những giá trị tư tưởng pháp quyền trên thế giới và trở về với tư tưởng pháp
quyền Hồ Chí Minh, trên cơ sở bám sát và đáp ứng được yêu cầu của thực
tiễn đất nước.
Theo Hoàng Văn Nghĩa dẫn quan niệm của Hội nghị quốc tế về NNPQ
của các nước sử dụng tiếng Pháp, tổ chức tại Benin vào tháng 9/1991: NNPQ
là một chế độ chính trị mà Nhà nước và cá nhân phải tuân thủ pháp luật.
Quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người đều được pháp luật nghi nhận và bảo
vệ, các quy trình và quy phạm pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng một hệ
thống tòa án độc lập. Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá trị của
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY

More Related Content

What's hot

Ôn Tập Môn Luật Hiến Pháp
Ôn Tập Môn Luật Hiến Pháp Ôn Tập Môn Luật Hiến Pháp
Ôn Tập Môn Luật Hiến Pháp nataliej4
 
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...jackjohn45
 
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Dân chủ và Nhà nước xã hội chủ nghĩa (Chủ nghĩa xã hội khoa học Marx - Lenin)
Dân chủ và Nhà nước xã hội chủ nghĩa (Chủ nghĩa xã hội khoa học Marx - Lenin)Dân chủ và Nhà nước xã hội chủ nghĩa (Chủ nghĩa xã hội khoa học Marx - Lenin)
Dân chủ và Nhà nước xã hội chủ nghĩa (Chủ nghĩa xã hội khoa học Marx - Lenin)VuKirikou
 
Tính tối cao của hiến pháp
Tính tối cao của hiến phápTính tối cao của hiến pháp
Tính tối cao của hiến phápnguoitinhmenyeu
 
Khái niệm và những đặc điểm của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 275961
Khái niệm và những đặc điểm của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 275961Khái niệm và những đặc điểm của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 275961
Khái niệm và những đặc điểm của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 275961nataliej4
 
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...jackjohn45
 
Tu tuong tri nuoc cua phap gia va vai tro cua no
Tu tuong tri nuoc cua phap gia va vai tro cua  noTu tuong tri nuoc cua phap gia va vai tro cua  no
Tu tuong tri nuoc cua phap gia va vai tro cua nonguoitinhmenyeu
 
Nhung van de co ban ve hiep phap va lich su lap hien viet nam
Nhung van de co ban ve hiep phap va lich su lap hien viet namNhung van de co ban ve hiep phap va lich su lap hien viet nam
Nhung van de co ban ve hiep phap va lich su lap hien viet namnguoitinhmenyeu
 

What's hot (16)

Ôn Tập Môn Luật Hiến Pháp
Ôn Tập Môn Luật Hiến Pháp Ôn Tập Môn Luật Hiến Pháp
Ôn Tập Môn Luật Hiến Pháp
 
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...
ảNh hưởng của tư tưởng trị quốc nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp ...
 
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...
Luận án: Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà n...
 
Dân chủ và Nhà nước xã hội chủ nghĩa (Chủ nghĩa xã hội khoa học Marx - Lenin)
Dân chủ và Nhà nước xã hội chủ nghĩa (Chủ nghĩa xã hội khoa học Marx - Lenin)Dân chủ và Nhà nước xã hội chủ nghĩa (Chủ nghĩa xã hội khoa học Marx - Lenin)
Dân chủ và Nhà nước xã hội chủ nghĩa (Chủ nghĩa xã hội khoa học Marx - Lenin)
 
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAYLuận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
Luận án: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh: nội dung và giá trị, HAY
 
Tính tối cao của hiến pháp
Tính tối cao của hiến phápTính tối cao của hiến pháp
Tính tối cao của hiến pháp
 
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOTLuận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
 
Khái niệm và những đặc điểm của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 275961
Khái niệm và những đặc điểm của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 275961Khái niệm và những đặc điểm của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 275961
Khái niệm và những đặc điểm của nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 275961
 
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
Công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp q...
 
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa
Luận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóaLuận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa
Luận văn: Sự phát triển của hiến pháp trong tiến trình dân chủ hóa
 
Tu tuong tri nuoc cua phap gia va vai tro cua no
Tu tuong tri nuoc cua phap gia va vai tro cua  noTu tuong tri nuoc cua phap gia va vai tro cua  no
Tu tuong tri nuoc cua phap gia va vai tro cua no
 
Luận văn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền, HOT
Luận văn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền, HOTLuận văn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền, HOT
Luận văn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền, HOT
 
Nhung van de co ban ve hiep phap va lich su lap hien viet nam
Nhung van de co ban ve hiep phap va lich su lap hien viet namNhung van de co ban ve hiep phap va lich su lap hien viet nam
Nhung van de co ban ve hiep phap va lich su lap hien viet nam
 
Luận văn: Pháp gia trong tư tưởng chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đại
Luận văn: Pháp gia trong tư tưởng chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đạiLuận văn: Pháp gia trong tư tưởng chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đại
Luận văn: Pháp gia trong tư tưởng chính trị - xã hội Trung Quốc cổ đại
 
Hoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vn
Hoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vnHoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vn
Hoàn thiện cơ chế pháp lý nd kiểm soát qlnn ở vn
 

Similar to Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY

Luận văn Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyề...
Luận văn Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyề...Luận văn Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyề...
Luận văn Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyề...sividocz
 
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.doc
Ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.docÝ thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.doc
Ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.docdịch vụ viết đề tài trọn gói 0973287149
 
Luận văn Tư tưởng pháp quyền phương tây cận đại với việc xây dựng nhà nước ph...
Luận văn Tư tưởng pháp quyền phương tây cận đại với việc xây dựng nhà nước ph...Luận văn Tư tưởng pháp quyền phương tây cận đại với việc xây dựng nhà nước ph...
Luận văn Tư tưởng pháp quyền phương tây cận đại với việc xây dựng nhà nước ph...sividocz
 
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...hieu anh
 
XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG VĂ...
XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG VĂ...XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG VĂ...
XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG VĂ...Man_Ebook
 
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
giao-trinh-phap-luat-dai-cuong.pdf
giao-trinh-phap-luat-dai-cuong.pdfgiao-trinh-phap-luat-dai-cuong.pdf
giao-trinh-phap-luat-dai-cuong.pdfNgnNK
 

Similar to Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY (20)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cách
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cáchTư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cách
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng trong cải cách
 
Luận văn Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyề...
Luận văn Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyề...Luận văn Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyề...
Luận văn Tư tưởng pháp quyền Hồ chí Minh với việc xây dựng nhà nước pháp quyề...
 
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...
Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo xây dựng Nhà nước, HAY - Gửi miễn ph...
 
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAYChế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
Chế độ dân chủ đại diện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, HAY
 
Luận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Quyền tiếp cận công lý ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.doc
Ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.docÝ thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.doc
Ý thức pháp luật với việc thực hành dân chủ cơ sở ở Tỉnh Quảng Nam hiện nay.doc
 
Luận văn Tư tưởng pháp quyền phương tây cận đại với việc xây dựng nhà nước ph...
Luận văn Tư tưởng pháp quyền phương tây cận đại với việc xây dựng nhà nước ph...Luận văn Tư tưởng pháp quyền phương tây cận đại với việc xây dựng nhà nước ph...
Luận văn Tư tưởng pháp quyền phương tây cận đại với việc xây dựng nhà nước ph...
 
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAYCơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt NamLuận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
Luận án: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
 
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAYLuận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
Luận án: Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, HAY
 
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAYĐề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, HAY
 
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
 
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn TâyTuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
 
XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG VĂ...
XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG VĂ...XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG VĂ...
XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG VĂ...
 
Luận văn: Quy chế dân chủ ở cơ sở các trường THPT tỉnh Bình Thuận
Luận văn: Quy chế dân chủ ở cơ sở các trường THPT tỉnh Bình ThuậnLuận văn: Quy chế dân chủ ở cơ sở các trường THPT tỉnh Bình Thuận
Luận văn: Quy chế dân chủ ở cơ sở các trường THPT tỉnh Bình Thuận
 
Luận văn: Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, HOT
Luận văn: Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, HOTLuận văn: Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, HOT
Luận văn: Cơ chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, HOT
 
Đề tài: Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước
Đề tài: Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nướcĐề tài: Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước
Đề tài: Cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước
 
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
Chế Độ Dân Chủ Đại Diện Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Ở Việt N...
 
giao-trinh-phap-luat-dai-cuong.pdf
giao-trinh-phap-luat-dai-cuong.pdfgiao-trinh-phap-luat-dai-cuong.pdf
giao-trinh-phap-luat-dai-cuong.pdf
 
Bảo đảm quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt Nam
Bảo đảm quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt NamBảo đảm quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt Nam
Bảo đảm quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt Nam
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 

Recently uploaded (20)

ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 

Luận án: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, HAY

  • 1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN ĐẮC DŨNG TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC HÀ NỘI - 2018
  • 2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN ĐẮC DŨNG TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC Mã số: 62 31 02 04 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM NGỌC ANH 2. PGS.TS. NGUYỄN THỊ QUẾ HÀ NỘI - 2018
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. TÁC GIẢ Nguyễn Đắc Dũng
  • 4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 6 1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài 6 1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 28 Chƣơng 2: KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỂN HỒ CHÍ MINH 32 2.1. Khái niệm 32 2.2. Cơ sở hình thành tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh 43 Chƣơng 3: NỘI DUNG TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH 66 3.1. Về vai trò của pháp luật 66 3.2. Về phương thức thực hiện pháp quyền 83 3.3. Về điều kiện thực hiện pháp quyền 93 Chƣơng 4: NHỮNG GIÁ TRỊ THAM CHIẾU TRONG TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY 110 4.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước 110 4.2. Pháp luật phải thể hiện ý nguyện của nhân dân 116 4.3. Chủ quyền nhân dân đối với các vấn đề quan trọng của quốc gia 120 4.4. Các quyền hiến định của công dân 125 4.5. Xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt 128 KẾT LUẬN 135 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 137 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 138
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNXH: Chủ nghĩa xã hội DCCH: Dân chủ Cộng hòa NNPQ: Nhà nước pháp quyền XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã sản sinh ra những anh hùng giải phóng dân tộc, những nhà tư tưởng lớn, những danh nhân văn hóa của dân tộc; trong đó có Hồ Chí Minh, người vừa để lại sự nghiệp vĩ đại cho dân tộc Việt Nam, vừa được nhân loại biết đến rộng rãi, ca ngợi và khâm phục. Với dân tộc Việt Nam Người là lãnh tụ vĩ đại, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động [23]. Tổ chức UNESCO tôn vinh Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa [144]. Hồ Chí Minh là người tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc; đồng thời là người tổ chức, lãnh đạo toàn dân tộc Việt Nam thực hiện thắng lợi con đường đó; con đường Người chỉ ra đã định hướng cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước trong quá khứ, đến hiện tại và tương lai. Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh quy luật của cách mạng Việt Nam, tính đúng đắn trong tư tưởng của Người đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm và xác nhận. Thực tiễn lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX đã cho thấy khi nào chúng ta xa rời hoặc không quán triệt đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh thì khi đó chúng ta vấp váp và sai lầm [93]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh: “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi” [27, tr.88]. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc cho đến cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN), trong đó, có tư tưởng pháp quyền, Người đã đặt nền móng và định hướng xây dựng pháp quyền Việt Nam. Trên
  • 7. 2 lĩnh vực chính trị, Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, nhà lý luận, nhà kiến trúc sư lỗi lạc trong thiết kế; đồng thời, Người còn là nhà tổ chức, lãnh đạo nhân dân, là người trực tiếp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Người luôn hướng tới một nền hành chính phục vụ nhân dân, hết sức chăm lo cho đời sống nhân dân, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Với một tư duy hiện đại và tiến bộ, Hồ Chí Minh xác định quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật là quan trọng nhất, trong đó, đề cao vai trò của Hiến pháp. Hệ thống pháp luật được đề cao trong toàn xã hội, pháp luật được đặt ở vị trí tối thượng, toàn xã hội phải tuân thủ pháp luật, Nhà nước xây dựng và thực thi pháp luật nhưng chính Nhà nước phải tuân thủ pháp luật. Hệ thống pháp luật phải thể hiện ý chí của nhân dân, bản chất của hệ thống pháp luật thể hiện tôn trọng quyền con người, bảo vệ quyền con người và hướng tới các giá trị nhân văn. Pháp luật phải có hiệu lực mạnh mẽ, thể hiện sự nghiêm minh và tất cả mọi chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật. Hồ Chí Minh cho rằng pháp luật phải đi vào cuộc sống, trở thành nề nếp, thói quen, lối ứng xử tự nhiên của con người, tạo nên ý thức pháp luật cao trong toàn xã hội. Trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, còn có sự kết hợp giữa pháp luật và đạo đức, pháp luật phải hướng tới lẽ phải, hợp đạo lý làm người. Đó là một pháp quyền văn minh và tiến bộ. Một pháp quyền nhân nghĩa, hướng tới con người và vì con người, đặt con người ở vị trí trung tâm. Do những nguyên nhân khác nhau về chủ quan và khách quan, nhận thức và thực tiễn, bối cảnh trong nước và quốc tế, trong một thời gian dài, chúng ta không hoặc ít đề cập đến vấn đề pháp quyền, do đó vấn đề pháp quyền về phương diện lý luận thiếu hệ thống, thiếu đồng bộ và chưa có sự thống nhất; về phương diện thực tiễn thiếu tính nhất quán và hiệu quả. Từ năm 1986 đến nay, với những thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới trên các mặt của đời sống xã hội, dân tộc Việt Nam chuyển sang một thời kỳ phát triển mới. Trên lĩnh vực xây dựng nhà nước pháp quyền (NNPQ),
  • 8. 3 bên cạnh thành tựu, còn có hạn chế về nhận thức và thực tiễn. Về nhận thức: bản chất, đặc trưng, cơ chế vận hành của NNPQ XHCN chưa được xác định rõ, đầy đủ; các nguyên tắc dân chủ, pháp quyền; vai trò tối thượng của Hiến pháp, vai trò, tiêu chuẩn của pháp luật, hệ thống pháp luật của NNPQ XHCN chưa được nhận thức, quy định đầy đủ. Về thực tiễn thực hiện pháp luật, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm; việc xây dựng NNPQ XHCN chưa đáp ứng đầy đủ các nguyên tắc cơ bản thượng tôn pháp luật; chăm lo quyền lợi chính đáng của nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; việc kiểm soát quyền lực, nhất là trong bộ máy nhà nước chưa được chế định rõ ràng, còn thiếu nhất quán; cơ chế bảo vệ pháp luật, tăng cường pháp chế chưa đầy đủ; công tác lập pháp còn nhiều bất cập; tổ chức của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp còn có những hạn chế; tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của Chính phủ còn bất cập; cải cách tư pháp còn có những vướng mắc, thiếu đồng bộ [28]. Trước yêu cầu phát triển toàn diện đất nước, trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam vấn đề pháp quyền lại được đặt ra. Hiếp pháp năm 2013, tại Điều 2, khoản 1 quy định: Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam là NNPQ XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Vấn đề pháp quyền được đặt ra cần nghiên cứu và triển khai thực hiện. Sau hơn 30 năm đổi mới và hơn 20 năm xây dựng NNPQ XHCN, cả về lý luận và thực tiễn, Việt Nam thu được những thành tựu nhất định, đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu, lý giải. Việt Nam đã có đầy đủ hơn các cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng pháp quyền XHCN. Việc trở lại nghiên cứu và tìm hiểu một cách hệ thống, toàn diện, sâu sắc tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh góp phần đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Với những lý do trên, tác giả chọn: “Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sỹ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
  • 9. 4 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Luận án phân tích, lý giải một cách toàn diện tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh; đồng thời nêu những giá trị tham chiếu của tư tưởng đó đối với việc xây dựng, hoàn thiện pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. - Phân tích nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. - Khẳng định giá trị tham chiếu của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh đối với việc xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về pháp quyền. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu di sản Hồ Chí Minh về pháp quyền được thể hiện trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập (15 tập), trong các văn bản pháp luật do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, công bố và thực tiễn chỉ đạo của Người trong thực hiện tư tưởng pháp quyền ở Việt Nam. - Về thời gian: Luận án khảo cứu toàn bộ tư tưởng và thực tiễn của Hồ Chí Minh về xây dựng pháp quyền ở Việt Nam, nhất là từ 1945 đến 1969, đó là thời kỳ Hồ Chí Minh hiện thực hóa, bổ sung, phát triển tư tưởng pháp quyền. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Đề tài được thực hiện dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả sử dụng các phương pháp sau: lôgic - lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, văn bản học, khảo cứu thực tế.
  • 10. 5 5. Những đóng góp mới của Luận án - Phân tích nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. - Đưa ra các giá trị tham chiếu của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh đối với việc xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa khoa học - Phân tích làm rõ nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. - Chỉ rõ sự vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam của Hồ Chí Minh trong tư tưởng pháp quyền. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Luận án rút ra những giá trị tham chiếu để Đảng, Nhà nước vận dụng đối với xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. - Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy, học tập trong nhóm ngành khoa học chính trị, khoa học xã hội và nhân văn. 7. Kết cấu của luận án Luận án ngoài mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả đã công bố liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, với 12 tiết.
  • 11. 6 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Vấn đề pháp quyền, NNPQ, NNPQ XHCN là vấn đề mới ở Việt Nam trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận, phải đầu thế kỷ XX, các nhà tư tưởng và các nhà hoạt động chính trị Việt Nam mới đề cập đến vấn đề Nhà nước dân chủ, vấn đề lập hiến...; về mặt thực tiễn, phải đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, những tư tưởng pháp quyền mới được hiện thực hóa ở Việt Nam. Những vấn đề trên được đề cập nhiều từ khi Việt Nam tiến hành đổi mới, nhất là từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được xây dựng và ban hành. Tại Điều 2, Hiến pháp năm 2013 ghi: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là NNPQ XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” [106, tr.9]. Từ khi đổi mới đất nước, số lượng công trình nghiên cứu về pháp quyền, NNPQ, NNPQ XHCN ở Việt Nam ngày càng nhiều. Qua nội dung các công trình, tác giả của luận án tổng quan một số công trình tiêu biểu có liên quan đến đề tài luận án của mình thành các vấn đề: 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1.1. Những công trình nghiên cứu tƣ tƣởng pháp quyền * Về sách chuyên khảo Josef Thesing nêu ra các dữ kiện chủ yếu thể hiện tầm quan trọng của pháp quyền: Phát triển kinh tế, xã hội có mối quan hệ tương hỗ với pháp luật; mối liên hệ không thể tách rời giữa dân chủ và pháp quyền; ở bất kỳ đâu pháp quyền hình thành trên cơ sở một trật tự chính trị, thì ở nơi đó nó cũng dạy cho người dân biết phải giải quyết xung đột về giá trị hay lợi ích theo quy định của pháp luật chứ không phải bạo lực. Tác giả đánh giá cao vai trò của pháp quyền trên nhiều phương diện, nhưng đặc biệt chú ý đến giá trị nhân văn của pháp quyền [125].
  • 12. 7 Roman Herzog khẳng định khái niệm pháp quyền rất rộng, có rất nhiều nghĩa khác nhau, nhưng theo tác giả đều thống nhất bản thân pháp quyền đã là thiện và công bằng, sự không thống nhất là ở chỗ cái gì làm ra thiện và công bằng. Theo quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng, khái niệm pháp quyền nghĩa là một Nhà nước không xâm hại tới cá nhân và thực chất tồn tại để đem lại lợi ích cho công dân của mình [125]. Tác giả đề cập tới mục đích của pháp quyền và để đạt được mục đích đó cần thông qua yếu tố Nhà nước. Gerhard Robbers đưa ra quan điểm pháp luật là tập hợp các quy định, tạo ra những cấu trúc để con người cùng tồn tại hòa bình và tự do. Trong mối quan hệ giữa đạo đức và Nhà nước, pháp quyền có vai trò tạo ra cơ cấu pháp lý để cho cá nhân hành động theo nguyên tắc đạo đức và đích cuối cùng là tạo sự chịu trách nhiệm về hành vi của mình, để đạt được khoan dung, tự do, bình đẳng cho mọi người [125]. Tác giả đề cập mối quan hệ giữa pháp quyền và đạo đức, trong đó nhấn mạnh đến tính tương hỗ của mối quan hệ này. Waldemanr Beson và Gorthard Jasper cho rằng sự vượt trội của pháp quyền so với cai trị của cảnh sát và quyền lực chuyên chế trong việc đảm bảo quyền tự do của con người và sự tham gia vào đời sống chính trị của công dân; đồng thời cũng chỉ ra những nguy cơ của pháp quyền, đặc biệt nguy cơ “thủ tục trị” [125]. Các tác giả đã đề cập và nhấn mạnh đến giá trị của pháp quyền, nhưng không tuyệt đối hóa, thừa nhận hạn chế của pháp quyền. Thể hiện một cách tiếp cận biện chứng và rất có giá trị. Lý Ba đưa ra quan điểm luật thành văn cần có năm đặc tính: Phải dựa trên luật tự nhiên hay luật đạo đức; phải giản dị để con người hiểu là gì và tuân theo như thế nào; phải không bị thay thế liên tục; phải ngăn ngừa sự áp bức, ngăn ngừa sự lạm quyền của Nhà nước; phải hợp lý, nghĩa là việc tố tụng giống nhau phải xử lý giống nhau. Tác giả đưa ra hai nguyên tắc trong pháp quyền: Luật là tối thượng và quyền lập pháp phải có giới hạn [95]. Tác giả đã đề cập đến các đặc trưng và nguyên tắc phổ biến của pháp quyền.
  • 13. 8 Lý Ba cho rằng quan điểm pháp quyền ngày nay khác hoàn toàn với quan niệm pháp trị của Trung Hoa thời kỳ cổ đại. Pháp quyền mang ba ý nghĩa: Pháp luật là công cụ điều chỉnh quyền lực của Chính phủ; sự bình đẳng trước pháp luật; thẩm quyền tài phán phải tuân theo thủ tục tố tụng đã được ấn định trước [95]. Ba ý nghĩa trên đồng thời là ba nguyên tắc, ba yêu cầu của pháp quyền. Nhà chính trị nổi tiếng của nước Mỹ, James Madison trong Những Luận cương về Liên bang cho rằng Chính phủ là sự phản ánh rõ ràng nhất bản tính của con người, mà theo ông con người không phải là thần thánh, do đó Nhà nước cũng không phải là thần thánh, nhưng con người cần Nhà nước. Vấn đề là làm sao để Nhà nước thực sự phục vụ con người. Ông khẳng định khó khăn lớn nhất là làm thế nào để chính phủ tự mình kiểm soát lấy mình, theo ông phân quyền để kiểm soát lẫn nhau và giữ gìn sự cân bằng là giải pháp chắc chắn [95]. J.Madison nhấn mạnh đến phân quyền và cân bằng quyền lực trong pháp quyền. Theo Alexander Hamilton để pháp quyền đảm bảo các quyền con người, mấu chốt không phải ở việc liệt kê một danh sách các dân quyền, một việc luôn không thể làm đầy đủ và tiềm ẩn nhiều nguy cơ, mà phải là ban hành Hiến pháp để hạn chế quyền lực của Chính phủ [95]. Đây là một quan điểm có giá trị và rất đáng lưu ý của A.Hamilton trong hoạt động lập hiến và thực thi pháp quyền. John Jay nêu luận điểm khi thành lập Chính phủ, nhân dân phải nhượng lại một số quyền tự nhiên của mình cho Chính phủ; đổi lại quyền lợi của nhân dân được đảm bảo nhiều hơn [95]. J.Jay nêu vấn đề mối quan hệ giữa Chính phủ và nhân dân là mối quan hệ giữa nhượng quyền và nhận nhượng quyền, bên nhận nhượng quyền phải có nghĩa vụ đối với bên nhượng quyền. Ngô Thị Mỹ Dung và các cộng sự phân tích những điều kiện kinh tế, xã hội, những tiền đề lý luận ảnh hưởng đến tư tưởng triết học pháp quyền Đức,
  • 14. 9 phân tích nội dung tư tưởng triết học pháp quyền ở một số nhà tư tưởng điển hình: Christian Thomasius, Christian Wolff, Immanuel Kant, Johann Gottlieb Fichte, Georg Wilhelm Friedrich Hegel, Karl Marx, Friedrich Engels, Gustav Radbruch và Arthur Kaufmann. Từ đó rút ra ý nghĩa đối với việc xây dựng NNPQ Việt Nam hiện nay: Đề cao con người, nhấn mạnh các quyền tự nhiên của con người; luật tự nhiên là cơ sở, tiêu chí đánh giá hiệu lực của luật ban hành; gắn xây dựng NNPQ XHCN với phát triển kinh tế, xã hội; pháp luật phải phản ánh đầy đủ và đúng đắn quyền, lợi ích của toàn thể nhân dân; pháp quyền phải có sự bình đẳng, an toàn pháp lý, phổ biến, tiện dụng, ổn định [14]. Nguyễn Duy Quý và Nguyễn Tất Viễn đã hệ thống các vấn đề liên quan đến xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam, trong đó các nội dung đáng chú ý và có giá trị tham khảo: khái niệm và các đặc trưng; những yếu tố chi phối; phương hướng và giải pháp chủ yếu xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam [108]. Các tác giả mới gián tiếp đề cập đến tư tưởng pháp quyền qua việc nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của Nhà nước pháp quyền. Lưu Tiến Dũng đề cập tư tưởng pháp quyền từ góc độ tính độc lập của tư pháp, một nhánh quyền lực nhà nước, trong đó tác giả tập trung chỉ ra những tồn tại trong vấn đề về độc lập xét xử ở Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay, những vấn đề đó có giá trị đối với việc xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay [13]. Các tác giả Nguyễn Bá Dương, Trần Hậu Thành và Lê Thị Hoài Thanh đã đề cập đến các nội dung cơ bản của tư tưởng pháp quyền hiện đại: nhân dân chủ thể của quyền lực; các quyền con người phải được tôn trọng, đảm bảo; vai trò của pháp luật; phân quyền và giám sát quyền lực nhà nước; ưu tiên pháp luật quốc tế trong quan hệ đối ngoại [22]. Các tác giả Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hòa đề cập đến tư tưởng pháp quyền dưới góc độ lập hiến, trong đó tập trung vào nội dung của Hiến
  • 15. 10 pháp; phân tích quá trình vận động của tư tưởng lập hiến Việt Nam trong lịch sử. Trong đó nội dung có giá trị là các tác giả đã phân tích sự cọ sát, đấu tranh giữa các khuynh hướng lập hiến ở Việt Nam; sự vượt trội, thắng thế của tư tưởng lập hiến cách mạng do Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, lãnh đạo [119]. Bùi Xuân Đức đặt ra một vấn đề lớn, có ý nghĩa cần thiết, cấp bách ở Việt Nam hiện nay là phải dứt khoát thay đổi tư duy pháp lý, không phải nguyên tắc pháp chế XHCN đổi mới mà là nguyên tắc pháp quyền [1]. * Bài đăng trên các tạp chí chuyên ngành Nguyễn Đăng Dung đã lý giải tính hai mặt của Nhà nước, một mặt thể hiện sự phát triển của con người, bảo vệ, đem lại quyền lợi và sức mạnh cho con người. Mặt khác, Nhà nước lại có xu hướng tùy tiện, xâm phạm đến quyền lợi cá nhân. Biện pháp hiệu quả nhất để ngăn chặn xu hướng tùy tiện của Nhà nước là dùng pháp luật kiểm soát Nhà nước, kết hợp với đạo đức công vụ [16]. Như vậy, pháp quyền được tác giả nhìn nhận dưới góc độ các nguyên tắc để hạn chế mặt trái của Nhà nước. Võ Khánh Vinh nhấn mạnh phải triệt để thực hiện tư tưởng pháp quyền: Nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật quy định; công dân được làm những gì pháp luật không cấm [151]. Đây là vấn đề cốt lõi trong tư tưởng pháp quyền nhân loại, Việt Nam hiện nay cần nghiên cứu và vận dụng. Nguyễn Sỹ Dũng phân tích các đặc trưng của pháp quyền dưới góc nhìn giá trị thể hiện sự tiến bộ, văn minh mà các Nhà nước cần hướng tới. Tác giả tiếp cập pháp quyền từ góc độ văn hóa [21]. Các tác giả Lê Văn Cảm, Nguyễn Cảnh Hợp tiếp cận tư tưởng pháp quyền dưới góc độ tổ chức nhà nước và chỉ ra hạn chế lớn trong việc tổ chức, thực hiện và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam, từ hạn chế đó dẫn đến nhiều hậu quả. Những hạn chế và hậu quả của việc tổ chức, thực hiện và
  • 16. 11 kiểm soát quyền lực nhà nước sẽ là những gợi mở cho việc tìm giải pháp xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam [8]. Các tác giả Nguyễn Minh Đoan [33], Phạm Thị Ngọc Trầm [131], Lương Đình Hải [37] và Vũ Văn Viên [150] đề cập đến mối quan hệ giữa xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, như: xây dựng xã hội dân sự, dân chủ. Các tác giả đã nhìn xã hội như một chỉnh thể gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, giữa chúng có mối quan hệ tác động qua lại, do đó khi nghiên cứu một lĩnh vực cụ thể cần đặt trong sự tác động qua lại với lĩnh vực khác. Trong một số công trình của Hoàng Thị Hạnh đặt ra vấn đề xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam phải đặt trong bối cảnh lịch sử dân tộc và thời đại. Nhưng tác giả giới hạn và tập trung trong phạm vi kinh tế, chưa có điều kiện mở rộng sang các lĩnh vực khác [38, 39]. Thái Vĩnh Thắng đề cập vấn đề pháp quyền ở Việt Nam từ nhu cầu bảo hiến. Trong đó, vấn đề cần kíp hiện nay là lựa chọn mô hình cơ quan bảo hiến phù hợp với Việt Nam. Theo quan điểm của tác giả, mô hình Tòa án Hiến pháp là phù hợp nhất ở Việt Nam. Khác với nhiều nhà nghiên cứu khác chỉ nêu ra nhu cầu bảo hiến và đề xuất cần có mô hình bảo hiến, nhưng không xác định mô hình cụ thể, tác giả xác định mô hình cụ thể [117]. Tống Đức Thảo trong các công trình của mình đưa ra các lập luận chính trị căn bản của chủ nghĩa lập hiến Việt Nam, đó chính là những cơ sở để Việt Nam xây dựng hoàn thiện NNPQ XHCN. Tác giả cho rằng, Việt Nam có thể tiếp thu mô hình bảo hiến của Cộng hòa Pháp là Hội đồng bảo hiến, một quan niệm về mô hình bảo hiến cụ thể có thể vận dụng ở Việt Nam [123, 124]. Mai Thị Thanh chỉ ra những đặc thù trong xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam. Những đặc thù này được tác giả xem xét dưới hai góc độ: vừa là những khó khăn, đồng thời cũng chính là những nguyên nhân của bất cập
  • 17. 12 trong thực trạng NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay [118]. Cùng đề cập đến tính đặc thù, các đặc trưng trong xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam có thể kể đến Phạm Văn Đức [35], Lê Công Định [30], Nguyễn Như Phát [96], Nguyễn Đình Tường [140]. Các tác giả một mặt chỉ ra tính đặc thù, đồng thời cũng cho rằng xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam mang những đặc điểm chung toàn nhân loại. Các tác giả Hoàng Văn Tú [134], Nguyễn Đăng Dung [17], Hà Thị Mai Hiên, Nguyễn Thị Việt Hường [44], Nguyễn Văn Luật [64], Ngọ Văn Nhân [93], Nguyễn Như Phát, Phạm Hữu Nghị [96-98] nghiên cứu pháp quyền từ góc độ lập hiến ở Việt Nam. Trong đó các tác giả tập trung chỉ ra những hạn chế cần khắc phục để quá trình lập hiến Việt Nam đảm bảo pháp quyền. Các hạn chế gồm: nhận thức; kỹ thuật lập hiến; nội dung lập hiến. Các hạn chế đó là những gợi ý có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc trong nghiên cứu và vận dụng tư tưởng pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Hoàng Thị Kim Quế đề cập pháp quyền trong quan hệ với đạo đức, nhấn mạnh vai trò của đạo đức công quyền đối với pháp quyền. Theo tác giả đạo đức nói chung và đạo đức công quyền phải tham gia và hiện diện trong tất cả các hoạt động lập hiến, lập pháp, hành pháp và xét xử mới đảm bảo công bằng, công lý, dân chủ [102]. Các tác giả Lê Hồng Sơn [113], Trần Thành [122] tiếp cận pháp quyền dưới góc độ mô hình tổ chức nhà nước, cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước; mối quan hệ giữa thiết chế nhà nước và các thiết chế chính trị - xã hội khác, trong đó có quan hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam. Các tác giả đề cập đến một vấn đề lớn và mang tính thời sự lâu dài trong xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam, cần phải tiếp tục nghiên cứu để tìm ra giải pháp thỏa đáng. Bùi Huy Tùng đưa ra hai phương thức đảm bảo tính hợp pháp, hợp hiến và thống nhất của hệ thống pháp luật, phương thức mang tính phòng ngừa và
  • 18. 13 phương thức mang tính ngăn chặn. Đối với hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, cả hai phương thức trên vẫn còn nhiều hạn chế [139]. Tác giả đề cập đến pháp quyền dưới góc độ tính hợp pháp, hợp hiến và thống nhất của hệ thống pháp luật, một vấn đề đang đặt ra hiện nay ở Việt Nam. Hoàng Văn Nghĩa trong bài Sửa đổi Hiến pháp: Tiếp cận từ sự phát triển lý luận về quyền con người của Đảng ta [90], tác giả đã phân tích quyền công dân luôn hẹp hơn quyền tự nhiên của con người. Quyền tự nhiên của con người là hiện tồn, bất kể chế định luật pháp quốc tế hay quốc gia có thừa nhận hay không. Tuy nhiên, quyền tự nhiên ấy chỉ thực sự được hiện thực hóa, tức là được tôn trọng, bảo vệ và thực thi trên nền tảng của chế định pháp luật. Hiện nay, xây dựng pháp quyền ở Việt Nam cần chú ý: xác định cá nhân là chủ thể tối cao của quyền con người; chế định về quyền con người không chỉ dừng lại ở ghi nhận và đảm bảo các quyền và tự do cơ bản của công dân (con người với tính cách là công dân trong Nhà nước, công dân là con người theo nghĩa hẹp); mà quan trọng hơn đó là khơi dậy và phát triển tiềm năng để hiện thực hóa các quyền và tự do cơ bản của cá nhân tồn tại với tính cách là con người nói chung (con người theo nghĩa đầy đủ, vốn có, con người tự nhiên, con người trước khi có Nhà nước), con người mang tính phổ quát của nhân loại và mang tính loài. Tác giả cũng chỉ ra các bước thụt lùi của việc ghi nhận quyền con người và quyền công dân trong các Hiến pháp Việt Nam về mặt hình thức: Hiến pháp năm 1946 quy định ở Chương 2; Hiến pháp năm 1959 quy định ở Chương 3; Hiến pháp 1980 quy định ở Chương 4; Hiến pháp 1992 quy định ở Chương 5. Chưa tính đến sự thụt lùi về nội dung và bản chất của quyền; quyền con người bị quy về quyền công dân và bị giới hạn trong Hiến pháp và pháp luật. Bước thụt lùi này đã được khắc phục từng phần trong Hiến pháp năm 2013. Các tác giả Đinh Xuân Lý [66], Hoàng Công [11] chỉ ra trong Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự tiến bộ trong tư duy pháp quyền Việt Nam, hội
  • 19. 14 nhập với tư tưởng pháp quyền nhân loại. Nhấn mạnh đến pháp quyền từ góc độ quyền con người, ghi nhận sự tiến bộ trong Hiến pháp hiện hành hiến định quyền con người phù hợp với chuẩn mực pháp lý quốc tế về quyền con người. * Về luận án Đào Ngọc Tuấn đưa ra nhận định có giá trị lý luận và thực tiễn xây dựng NNPQ ở Việt Nam cần kết hợp tính phổ biến toàn nhân loại và tính đặc thù của Việt Nam [135]. Tác giả đề cập vấn đề khi xây dựng pháp quyền Việt Nam cần chú ý và chỉ ra những đặc thù riêng kết hợp với những giá trị mang tính phổ biến toàn nhân loại. Vấn đề Việt hóa các điều ước và thông lệ quốc tế có một ý nghĩa to lớn với Việt Nam đang trên đường hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Nguyễn Đình Hảo phân tích những nhược điểm trong hoạt động lập quy của Chính phủ Cộng hòa XHCN Việt Nam từ 1992 đến nay, qua đó cho thấy những biểu hiện thiếu, yếu tư tưởng pháp quyền trong hoạt động lập quy của Chính phủ. Từ thực trạng đó, đặt ra giảm quyền và tăng năng lực lập quy của Chính phủ [41]. Phạm Thế Lực phân tích những mâu thuẫn trong vấn đề tập trung và phân chia quyền lực trong tổ chức, thực thi quyền lực ở Việt Nam. Các giải pháp để giải quyết những mâu thuẫn trên có nhiều, giải pháp mang tính bao trùm và chi phối là đảm bảo nguyên tắc pháp quyền [65]. Nguyễn Mậu Tuân phân tích một cách có hệ thống và cụ thể các hạn chế trong hoạt động bảo hiến ở Việt Nam, tạo nên cơ sở thuyết phục khi đưa ra kết luận về nhu cầu bảo hiến ở Việt Nam [137]. Vấn đề đặt ra tiếp theo là cần phải xây dựng cơ chế và xác định mô hình cụ thể cho hoạt động bảo hiến tại Việt Nam. Cao Anh Đô đề cập đến một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của NNPQ XHCN Việt Nam, đó là nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện
  • 20. 15 các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tác giả phân tích các hạn chế trong việc thực hiện nguyên tắc trên, trong điều kiện đặc thù của Việt Nam là có Đảng chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền [31]. Vấn đề chưa đưa ra cơ chế cụ thể, khả thi về phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàng Thị Hạnh khẳng định một trong những điều kiện đảm bảo quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế thành công là phải xây dựng NNPQ XHCN. Như vậy, tác giả đã đi từ tính tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến tính tất yếu của NNPQ ở Việt Nam, đó là mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, biểu hiện mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội. Dưới góc độ triết học, tác giả đã xem thực hiện pháp quyền như một đòi hỏi của thực tiễn đất nước; đến lượt mình pháp quyền trở thành điều kiện đảm bảo cho thực hiện được mục tiêu kinh tế, tạo dựng nền tảng vật chất của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, một mục tiêu của thời kỳ quá độ lên CNXH tại Việt Nam [40]. Tóm lại, những công trình đề cập trực tiếp đến tư tưởng pháp quyền ở Việt Nam rất ít, chủ yếu đề cập gián tiếp qua NNPQ. Các công trình của học giả nước ngoài được dịch ở Việt Nam tập trung vào đặc điểm, nội dung và các yêu cầu của pháp quyền. Các nhà nghiên cứu Việt Nam đề cập: tính tất yếu xây dựng NNPQ ở Việt Nam; các đặc trưng của NNPQ ở Việt Nam; xây dựng NNPQ trong quan hệ với kinh tế, đạo đức, dân chủ, với xã hội dân sự; tổng kết thực tiễn xây dựng NNPQ Việt Nam, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, đề xuất giải pháp. Các nghiên cứu tập trung vào phương diện thực tiễn, phương diện lý luận chưa được quan tâm đúng mức. Các kết quả đạt được trong các công trình trên, một mặt được tác giả luận án kế thừa, mặt khác những vấn đề chưa được đề cập, còn hạn chế là những gợi ý cho tác giả luận án tiếp tục nghiên cứu.
  • 21. 16 1.1.2. Những công trình nghiên cứu tƣ tƣởng pháp quyền Hồ Chí Minh * Các đề tài khoa học Trong các công trình nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh phải kể tới Chương trình KX.02: Tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có đề tài KX.02.13: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới - Nhà nước của dân, do dân, vì dân, do Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp chủ trì. Kết quả của đề tài mang tính khái quát cao và có giá trị định hướng trong nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. Trong các sản phẩm thuộc đề tài có sách Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật [148]. Trong đó các tác giả đã trực tiếp sử dụng đến khái niệm pháp quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh và lý giải một số khía cạnh về nội dung, về hình thức biểu hiện, đồng thời đưa ra những đánh giá. Đoàn Trọng Truyến lý giải “thần linh pháp quyền” trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là nền tảng lý luận, nguyên tắc chi phối tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, vừa là đề cao vai trò của pháp luật, thượng tôn pháp luật trong toàn bộ đời sống xã hội. Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh rất nghiêm, nhưng cũng đầy tình người, đầy lòng nhân ái. Tác giả đánh giá: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp quyền cũng là một tư tưởng vô cùng quý báu” [148, tr.96]. Tác giả đã đề cập đến vai trò của pháp quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh qua việc đề cao tuân thủ pháp luật, một nội dung quan trọng trong khái niệm pháp quyền. Đức Vượng đã đưa ra những nhận định có tính định hướng trong nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. Tác giả nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật xuất phát từ đặc điểm truyền thống văn hóa pháp lý dân tộc; xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử đất nước từ một nước thuộc địa nửa phong kiến tiến lên CNXH; xuất phát từ bối cảnh thời đại. Tác giả đưa ra nhận định:
  • 22. 17 Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và pháp luật cũng chỉ xới xáo những vấn đề có tính chất “lật ải”, chứ chưa thể “cày sâu, bừa kỹ”. Tuy nhiên, Người cũng đã chỉ ra cho chúng ta một phương hướng và phương pháp chung nhất để các thế hệ sau có điều kiện phát triển. Chúng ta coi đó là những lời chỉ dẫn cao quý của Người. Thiếu những lời chỉ dẫn cơ bản ấy, chúng ta không có cơ sở để làm luật và thi hành luật, để xác định thể chế dân chủ và thực hành dân chủ [148, tr.164]. Vũ Đình Hòe mong muốn tìm ra bản chất đích thực của pháp quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ông dùng cách so sánh giữa tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh với pháp trị của phương Đông. Tác giả chỉ ra bản chất của pháp trị trong lịch sử phương Đông: Người ta từng thấy chế độ pháp trị dưới những triều đại phong kiến nào đó bên Tầu, chủ trương cai trị bằng pháp luật chứ không bằng “đức độ” của kẻ cầm quyền. Nay ta bàn về pháp trị, pháp chế, thì không phải loại pháp trị đó. Xưa pháp trị là để thu xã tắc về một mối, tập trung quyền sinh, quyền sát vào tay Hoàng Đế; để Thiên Tử Ngài dễ dàng thống trị chư hầu và nô dịch muôn dân [148, tr.184]. Tác giả khẳng định pháp trị, pháp chế hay pháp quyền mới khác hoàn toàn với nền pháp trị phương Đông truyền thống, nó do nhân dân giành lấy từ cách mạng, thể hiện rõ nhất là qua Hiến pháp do dân định, không phải do “khâm định”, thông qua Quốc hội do nhân dân lập nên, đại diện cho nhân dân. Chỉ có Quốc hội mới có quyền ban hành Hiến pháp và phải có đủ ít nhất 2/3 số đại biểu có mặt đồng thuận và trước khi ban bố phải tổ chức cho toàn dân phúc quyết. Cách giải quyết vấn đề như trên, Vũ Đình Hòe lại trở lại với chủ nghĩa lập hiến. Các khái niệm pháp trị, pháp chế, pháp quyền chưa được tác giả phân định rõ, trong một số trường hợp dùng thay thế lẫn nhau. Đây là một khó khăn
  • 23. 18 lớn trong nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. Tác giả Vũ Đình Hòe trong một công trình có đặt vấn đề: nên phân biệt cụm từ Nhà nước và pháp quyền với từ kép Nhà nước - pháp quyền [46], nhưng chính tác giả cũng chưa giải quyết được vấn đề mà mình đặt ra. Song Thành khẳng định chính trị Hồ Chí Minh là một nền chính trị đạo đức, chính trị và đạo đức thống nhất với nhau, hỗ trợ cho nhau, đều là mục đích cần vươn tới, không có cái nào là phương tiện cho cái nào. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định, nếu chỉ dựa trên “đức trị” không thể lý giải sự thành công của Hồ Chí Minh, cho nên cần phải dựa trên cả “pháp trị” mới có thể lý giải đầy đủ sự thành công của Hồ Chí Minh. Ở Hồ Chí Minh, có sự kết hợp giữa “đức trị” và „pháp trị”. Tác giả đi đến nhận định: “Tùy hoàn cảnh và đối tượng cụ thể, có lúc Người nhấn mạnh khía cạnh này hay khía cạnh khác, song có thể khẳng định tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật” [148, tr.211]. Tác giả đưa một trong những nội dung độc đáo của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh; ở Hồ Chí Minh có cả lý luận và thực tiễn về pháp quyền, về điểm này, tác giả khẳng định Hồ Chí Minh vượt các nhà tư tưởng về thực tiễn và tương đồng với các nhà chính trị lỗi lạc trên thế giới. Quan điểm này đã nâng tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh trở thành một giá trị văn hóa. Đề tài KX.04.01 Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân - Lý luận và thực tiễn, thuộc Chương trình nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp Nhà nước, mã số KX.04, trong Đề tài có đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ. Trong các sản phẩm của Đề tài có sách Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân - Lý luận và thực tiễn [108], tập thể tác giả nghiên cứu nhiều học thuyết về pháp quyền. Khi đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ của dân, do dân, vì dân các tác giả đã khái quát hóa thành bảy nội dung lớn: 1. Tư tưởng về một Nhà nước của nhân dân, vì nhân dân, do nhân dân với nền dân chủ triệt để; 2.
  • 24. 19 Tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm của công chức nhà nước đối với nhân dân trong Nhà nước kiểu mới; 3. Tư tưởng về một Nhà nước hợp hiến, hợp pháp, thực hiện quản lý xã hội theo pháp luật; 4. Tư tưởng về một nền pháp luật dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trên thực tế; 5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước có hiệu lực mạnh mẽ, có sự phân công và phối hợp giữa các nhánh quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; 6. Tư tưởng về NNPQ của Hồ Chí Minh gắn liền với củng cố đạo đức truyền thống của dân tộc; 7. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước. Các tác giả đã đưa ra nhận định: “Sự định hình rất sớm ở Nguyễn Ái Quốc một quan niệm hoàn chỉnh về yêu cầu (nguyên tắc) quản lý xã hội theo pháp luật trong một Nhà nước dân chủ theo tinh thần pháp quyền, thượng tôn pháp luật” [108, tr.86]. Các tác giả khi đề cập tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh đã tập trung và nhấn mạnh đến pháp quyền trong công quyền, trong việc Nhà nước sử dụng pháp luật để quản lý xã hội. Pháp quyền mới chỉ được xem xét chủ yếu như phương tiện để Nhà nước sử dụng trong quản lý xã hội. Trong bảy nội dung các tác giả khái quát vừa là nội dung của tư tưởng NNPQ, vừa mang tính đặc thù, đặc điểm của NNPQ ở Việt Nam nói riêng, ở các nước trong hệ thống XHCN nói chung. * Về sách chuyên khảo Khi sự nghiệp đổi mới đất nước vừa được Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức thừa nhận, Nguyễn Ngọc Minh xuất bản sách Nghiên cứu những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật [86], tác giả không trực tiếp đề cập đến khái niệm pháp quyền, nhưng tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh được đề cập gián tiếp và đậm nét, tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh thể hiện trong việc lựa chọn con đường cứu nước; trong việc xác định mô hình Nhà nước ở Việt Nam sau khi giành độc lập; trong việc thành lập ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (DCCH) nhanh về thời gian và qua
  • 25. 20 cuộc Tổng tuyển cử theo chế độ phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín; pháp quyền trong việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tác giả khẳng định: Đối với một nước mà chế độ quân chủ ngự trị mấy mươi thế kỷ, với ngôi vua cha truyền con nối, với các quan lại do vua phong, đối với một nước thuộc địa gần một trăm năm, với chế độ quan cai trị do thực dân bổ nhiệm, mà chỉ một tuần sau khi tuyên bố độc lập, dựng nên chế độ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn với Chính phủ về bầu cử Quốc hội, thật là cả một cuộc cách mạng to lớn: “Đem người nô lệ thành người tự do”. Một chính thể hoàn toàn mới! Một nhà nước kiểu mới lần đầu tiên được xây dựng trong lịch sử 4.000 năm của dân tộc Việt Nam [86, tr.86-87]. Đặc biệt trong lĩnh vực luật pháp, tư tưởng pháp luật Hồ Chí Minh thể hiện trong hệ thống pháp luật đầu tiên của nước Việt Nam DCCH, tác giả đã khái quát hóa trên 7 lĩnh vực; trong đó đáng chú ý các lĩnh vực: thiết lập trật tự cách mạng của chế độ mới, tạm thời duy trì các pháp luật cũ, miễn là không phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam và không trái với chính thể DCCH, pháp luật về dân sự. Tác giả kết luận: Tóm lại, chỉ trong mấy năm đầu liền sau Cách mạng tháng Tám, mặc dầu trong hoàn cảnh muôn vàn khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị đứng đầu Nhà nước cách mạng của ta, và cũng là nhà lập pháp đầu tiên của Nhà nước đó, đã ban hành được cả một hệ thống pháp luật trên rất nhiều lĩnh vực để thiết lập một trật tự pháp luật cách mạng và để quản lý đất nước. Hệ thống pháp luật đó được xây dựng trên tư tưởng: “Pháp luật của ta bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động... Pháp luật của ta là pháp luật thực sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi của nhân dân lao động”. Tư tưởng nhà nước quản lý bằng pháp luật được thực hiện, kể cả
  • 26. 21 khi phải điều chỉnh các quan hệ với các giai cấp bóc lột và đối với kẻ thù của cách mạng, kể cả trong chiến tranh và ở ngay mặt trận [86, tr.173-174]. Tác giả Nguyễn Ngọc Minh đã nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh dưới góc độ pháp chế nhiều hơn dưới góc độ pháp quyền. Đặt trong bối cảnh lịch sử những năm đầu đổi mới đã là giá trị to lớn, nhưng chỉ dừng lại ở đó, chưa hết, chưa đầy đủ tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. Nguyễn Đình Lộc khẳng định ngay từ rất sớm, vào những năm 1920, ở Hồ Chí Minh đã định hình quan điểm về nguyên tắc quản lý xã hội bằng pháp luật trong một xã hội mới, một Nhà nước dân chủ. Toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước, của đội ngũ cán bộ, công chức mọi lúc, mọi nơi luôn phải thể hiện được “thần linh pháp quyền”; ý thức pháp luật, tinh thần pháp luật phải chỉ đạo, chi phối mọi hành vi, hoạt động của bộ máy nhà nước, mọi hành vi, hoạt động của xã hội. Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh có sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, giữa lời nói và việc làm: Nhất quán với những quan điểm hình thành ngay từ những buổi đầu hoạt động cách mạng, khi đã trở thành người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến yêu cầu cơ bản của chế độ pháp quyền, nguyên tắc pháp chế: tôn trọng, tuân thủ pháp luật [62, tr.87]. Tác giả Nguyễn Đình Lộc không chỉ giải mã “thần linh pháp quyền” trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, mà còn đề cập đến vấn đề chế độ pháp quyền ở Hồ Chí Minh, đó chính là sự tôn trọng, tuân thủ pháp luật trong thực tiễn đời sống xã hội. Bằng trải nghiệm của một người trí thức được đào tạo dưới nền học vấn của người Pháp, đã từng sống, làm việc dưới chế độ thực dân; cách mạng thành công đi theo tiếng gọi của dân tộc và Hồ Chí Minh, ông làm việc trong chế độ xã hội mới, đi cùng sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Được sự tin
  • 27. 22 tưởng, dìu dắt của Hồ Chí Minh; được sống, làm việc gần và trực tiếp với Hồ Chí Minh, Nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo, Nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp nước Việt Nam DCCH, Vũ Đình Hòe cho rằng “pháp quyền của nhân nghĩa là cái đặc sắc nhất trong tư tưởng nhân nghĩa của Người”, trong đó mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật là một nội dung độc đáo trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, tất cả vì độc lập và tự do, cái đạo lý và pháp lý tự nhiên của dân tộc, của cá nhân công dân. Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh về nội dung giai cấp và tính nhân văn thống nhất với nhau. Pháp quyền là vấn đề ở đời và làm người; ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại lao khổ bị áp bức, phải làm sao đóng góp vào việc làm cho nước độc lập, dân được tự do, hạnh phúc, nhân loại khỏi đau khổ, đó chính là đạo ở đời và đạo làm người cao cả; pháp quyền của Nhà nước ta phải bảo vệ và thúc đẩy thực hiện cái đạo ở đời và đạo làm người ấy, đối với xã hội Việt Nam cần lập lại trật tự là để tổ chức đời sống yên bình cho toàn dân; thì chính quyền mới của nhân dân lại phải biết lợi dụng vai trò tổ chức của pháp luật [46]. Tác giả Nguyễn Ngọc Sơn là một trong không nhiều tác giả có đưa ra khái niệm pháp quyền: “Pháp quyền thực chất là một mô hình tổ chức xã hội mà trong đó nhà nước cũng như mọi chủ thể khác trong xã hội phải chịu sự cương tỏa của quyền lực pháp luật” [111, tr.25]. Tác giả cho rằng, Hồ Chí Minh không chỉ yêu cầu Nhà nước phải theo chế độ pháp quyền, mà yêu cầu pháp quyền đối với toàn xã hội; pháp quyền trong công quyền và trong xã hội công dân. Pháp quyền trong công quyền thì công quyền là đối tượng chịu sự kiểm soát của pháp luật. Pháp quyền trong xã hội công dân thì công dân là chủ thể sử dụng quyền lực của pháp luật để bảo vệ các quyền và tự do của mình [111]. Như vậy, Nguyễn Ngọc Sơn là một trong các nhà nghiên cứu đã nhìn nhận tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh theo nghĩa rộng. Nhưng cơ bản
  • 28. 23 vẫn tập trung vào vai trò của pháp luật, đặc biệt trong việc kiểm soát quyền lực Nhà nước. Các tác giả Nguyễn Bá Dương, Trần Hậu Thành và Lê Thị Hoài Thanh đã khái quát hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng NNPQ, tập trung vào các vấn đề: 1. NNPQ - theo Hồ Chí Minh - trước hết phải được tổ chức và hoạt động theo pháp luật, đảm bảo tính tối cao của pháp luật trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; 2. Trong “phép trị nước” của Hồ Chí Minh, “đức trị”, “nhân trị” và “pháp trị” đều có vị trí quan trọng; 3. Thống nhất đạo đức và pháp luật trong quan niệm về NNPQ của Hồ Chí Minh; 4. Một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt - theo Hồ Chí Minh - phải là một NNPQ của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, 5. NNPQ còn là một Nhà nước của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam [22]. Các tác giả đã nêu được những nội dung cơ bản của NNPQ, nhưng vẫn chưa phân nội dung pháp quyền và bản chất, nền tảng của Nhà nước. Tác giả Song Thành cho rằng Hồ Chí Minh đề cao vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước và làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế; đề cập đến pháp chế XHCN; đề cập đến vấn đề kết hợp đạo đức và pháp luật [121]. Nhìn một cách khái quát tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh theo cách luận giải của tác giả vẫn nhấn mạnh vào pháp quyền là một công cụ hữu hiệu trong quản lý nhà nước, khái niệm pháp chế và pháp quyền dùng thay thế lẫn nhau. Trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam [3], do Phạm Ngọc Anh và Bùi Đình Phong chủ biên, là một trong rất ít công trình nghiên cứu công phu và đã hệ thống hóa khá toàn diện tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. Tuy các tác giả không trực tiếp đề cập đến khái niệm pháp quyền, nhưng những vấn đề, những nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Minh đã được các tác giả đề cập đến: quá trình hình thành và phát triển; quan niệm về Nhà nước, bản chất Nhà nước, vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội (pháp luật là cơ sở thực hiện các quyền tự do
  • 29. 24 dân chủ; cơ sở đảm bảo quyền làm chủ Nhà nước của nhân dân; pháp luật là công cụ ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền lực của các cơ quan nhà nước và các cá nhân được Nhà nước giao quyền; là cơ sở tạo cho xã hội có trật tự, kỷ cương theo đường lối của giai cấp cầm quyền; là công cụ ngăn chặn tính trạng công dân xâm phạm quyền và lợi ích của nhau); những điều kiện đảm bảo tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật; trên cơ sở đó các tác giả nêu ra sự vận dụng và phát triển. * Bài đăng trên các tạp chí chuyên ngành Phạm Ngọc Anh cho rằng trong quan niệm của Hồ Chí Minh, pháp luật có những vai trò: Cơ sở thực hiện các quyền tự do dân chủ; cơ sở đảm bảo quyền làm chủ Nhà nước của nhân dân; ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền lực của các cơ quan nhà nước và các cá nhân được Nhà nước giao quyền; tạo cho xã hội có trật tự, kỷ cương theo đường lối của giai cấp cầm quyền; ngăn chặn tình trạng công dân xâm phạm quyền và lợi ích của nhau [2]. Tác giả nhấn mạnh vai trò của pháp luật, một nội dung quan trọng trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. Vũ Hoàng Công luận giải những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhà nước do dân bầu và dân kiểm soát được. Phải có Hiến pháp dân chủ, được nhân dân chấp nhận, làm khuân phép cho hoạt động của Nhà nước, của người cầm quyền, đồng thời khẳng định tự do và các quyền cơ bản khác của con người, của công dân. Công chức nhà nước là công bộc của dân. Nhà nước được tổ chức thống nhất và có hiệu lực từ trung ương đến địa phương. Nhà nước phải trong sạch, không quan liêu, tham ô, lãng phí [12]. Tác giả đã đề cập tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh từ phương diện bản chất nhà nước. Nguyễn Hữu Đổng đề cập đến tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh dưới góc độ kiểm soát quyền lực nhà nước. Tác giả khẳng định Hồ Chí Minh cho rằng quyền lực nhà nước cần phải kiểm soát, dùng phép luật của nhân dân để
  • 30. 25 ngăn cản những hành động có hại cho nhân dân, để bảo vệ lợi ích chung của đại đa số nhân dân. Tác giả phân tích những cách kiểm soát quyền lực nhà nước: kiểm soát từ bên trong Nhà nước, từ chính bộ máy, cách thức tổ chức bộ máy nhà nước; kiểm soát từ bên ngoài Nhà nước, từ phía các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp và từ phía dân chúng; kiểm soát của Đảng [34]. Ngô Ngọc Thắng cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ được thể hiện trên những quan điểm cơ bản sau: NNPQ phải là Nhà nước dân chủ; nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước, Nhà nước là công cụ phục vụ nhân dân. Nhà nước tôn trọng pháp luật, được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật. Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả. Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc rộng rãi [116]. Tác giả chưa phân định một cách rõ tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh với tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất nhà nước. Một hướng nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh được quan tâm, đó là qua những bản Hiến pháp của nước Việt Nam DCCH khi Người giữ vai trò đứng đầu Nhà nước, là người khởi xướng việc xây dựng, sửa đổi Hiến pháp (chủ thể sáng kiến lập hiến) và đồng thời là Trưởng Ban soạn thảo những Hiến pháp đó. Ở hướng nghiên cứu này có thể kể đến: Văn Thị Thanh Hương với bài: Dấu ấn Hồ Chí Minh: từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 1959 [55]; Cao Hải Yến với bài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân tại Hiến pháp năm 1946 [152]; Nguyễn Thị Thu với bài: Về sách "Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa" trưng bày tại nhà sàn [127]; Nguyễn Mạnh Hùng với bài: Nhân tố pháp quyền trong Hiến pháp năm 1946 và những giá trị cần kế thừa [49]; Đỗ Đức Huỳnh với bài: Chủ tịch Hồ Chí Minh với bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (Hiến pháp - 1946) [56]; Văn phòng Quốc hội với sách: Hiến pháp năm 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các Hiến pháp Việt Nam
  • 31. 26 [145]... Trong hướng nghiên cứu này tiêu biểu có bài: Hiến pháp năm 1946 với tư tưởng pháp quyền của Nguyễn Sỹ Dũng [19], tác giả đã phân tích tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh trong bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam (Hiến pháp năm 1946). Tác giả khẳng định Hiến pháp năm 1946 thể hiện những nguyên tắc và phương thức tổ chức quyền lực sao cho lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ, đó chính là tinh thần căn bản của pháp quyền. Trước hết, để lạm quyền không thể xảy ra thì Hiến pháp đã được đặt cao hơn Nhà nước; các quyền của người dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm; Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thì cao hơn là Nhà nước ghi nhận và bảo đảm; vì rằng nếu Nhà nước ghi nhận và bảo đảm thì quyền chủ động là thuộc Nhà nước, nhưng nếu Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thì Nhà nước không có quyền chủ động; quyền năng giữa các cơ quan nhà nước được phân chia khá rõ và nhiều cơ chế kiểm tra, giám sát lẫn nhau đã được thiết kế; quyền năng giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương cũng được phân chia rất rõ; vai trò độc lập xét xử của Toà án được bảo đảm. Nguyễn Thanh Tuấn trong bài Dân chủ và nhân quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh [138], đã chỉ ra Hiến pháp năm 1946 bên cạnh những giá trị thì cũng còn hạn chế trong phương diện pháp lý và thực tiễn. Tác giả khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước đến Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001, Hiến pháp năm 1946 được đánh giá là có nhiều qui định tiến bộ, đặc biệt là trên phương diện tổ chức quyền lực Nhà nước. Nhiều sửa đổi của pháp luật hiện hành của Việt Nam cũng đang theo hướng trở về với những giá trị của Hiến pháp năm 1946. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra hạn chế của Hiến pháp năm 1946, trên phương diện thực tế bản Hiến pháp này chưa được hiện thực hóa đầy đủ, chưa được Chủ tịch nước ký lệnh công bố. Nguyên nhân là không lâu sau khi Hiến pháp được thông qua, đất nước xảy ra chiến tranh.
  • 32. 27 Một hướng nghiên cứu khác về tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, đó là thông qua Tuyên ngôn Độc lập do Người soạn thảo và tuyên bố năm 1945. Trong hướng nghiên cứu này có thể kể tới: Nguyễn Thị Thu Trang với bài: Tuyên ngôn Độc lập - cơ sở pháp lý đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa [132]; Phùng Văn Tửu với bài: Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 - văn bản pháp lý - chính trị, nền tảng của nước Việt Nam mới [141]... Trong đó tiêu biểu, tác giả Nguyễn Sỹ Dũng với bài: Nguồn cội của pháp quyền [20], đã khẳng định Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh là cội nguồn của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, văn bản chính trị - pháp lý nền tảng của nước Việt Nam mới. Vấn đề cốt lõi của pháp quyền là pháp luật về quyền. Pháp luật phân định và bảo vệ các quyền: quyền của các công dân và quyền của Nhà nước, quyền của các nhánh quyền lực Nhà nước như lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tư duy pháp lý bao trùm ở đây là: quan hệ xã hội được xây dựng trên cơ sở của các quyền. Quyền của chủ thể này có thể là nghĩa vụ của chủ thế khác. Pháp luật điều chỉnh và phân định các quyền này. Theo Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 các quyền của con người là bất khả xâm phạm, Nhà nước đề ra hệ thống các nguyên tắc và thủ tục để bảo vệ các quyền của con người được gọi là pháp quyền. Trên thực tế, những quyền được nêu ra trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 là phần cấu thành quan trọng nhất của Hiến pháp năm 1946. Một số tác giả khác đề cập tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh từ một góc độ nào đó, như: bản chất Nhà nước; cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước; cách thức lập ra Nhà nước; đề cao vai trò của pháp luật; mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật... Trong đó có thể kể đến một số tác giả: Trần Nam Chuân với bài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước kiểu mới [10]; Văn Thị Thanh Hương với bài: Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân [54]; Lê Huy Bình với bài: Cống hiến của Chủ tịch Hồ
  • 33. 28 Chí Minh về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam [6]; Vũ Văn Hiển với bài: Tư tưởng pháp luật Hồ Chí Minh với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay [45]; Nguyễn Thị Thu Hường với bài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội [51]; Nguyễn Văn Mạnh với bài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam [70]; Trần Nghị với bài: Nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta [89]; Bùi Ngọc Sơn với bài: Chủ tịch Hồ Chí Minh với thiết chế Chủ tịch nước ở Việt Nam [112]; Lưu Văn Sùng với bài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về thể chế chính trị [114]; Song Thành với bài: Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh - Sự thống nhất giữa đức trị và pháp trị [120]. Những công trình nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh của các tác giả nêu trên là nguồn tài liệu rất quan trọng để tác giả thực hiện luận án “Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh”. Những kết quả đạt được trong các công trình nghiên cứu trên một phần được kế thừa trong luận án; đồng thời là những gợi mở về những điểm mới của luận án. 1.2. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.2.1. Những vấn đề đã đƣợc nghiên cứu Qua nghiên cứu, đánh giá kết quả của các công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng pháp quyền ở Việt Nam, tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, tác giả luận án nhận thấy các công trình đã đề cập những vấn đề sau: Thứ nhất, các nhà nghiên cứu đều thống nhất tư tưởng pháp quyền là một giá trị nhân văn mang tính phổ quát toàn nhân loại, mặc dù được định hình và phát triển cả về phương diện lý luận và thực tiễn trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng pháp quyền trở thành một giá trị hướng tới, trở thành một chuẩn mực, thước đo đối với xã hội hiện đại.
  • 34. 29 Thứ hai, các nghiên cứu đã tập trung lý giải về tính tất yếu của việc xây dựng NNPQ ở Việt Nam. Đặc biệt trong, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong bối cảnh Việt Nam mở rộng quan hệ quốc tế, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, yêu cầu thực tiễn đó đặt ra Việt Nam phải có những tương đồng về thể chế pháp luật, cũng như ứng xử phù hợp với thông lệ quốc tế, các tiến bộ mà nhân loại đã đạt được. Đặt ra yêu cầu tất yếu xây dựng NNPQ ở Việt Nam. Thứ ba, các nghiên cứu đã thống nhất và khẳng định Hồ Chí Minh là một trong những người đặt nền móng cho pháp quyền Việt Nam hiện đại; đặc biệt là người đi đầu trong việc hiện thực hóa tư tưởng pháp quyền ở Việt Nam. Thống nhất và khẳng định có tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh; hệ thống tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh và thực tiễn pháp quyền Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh còn giá trị tới ngày nay, có tác dụng định hướng cho pháp quyền Việt Nam hiện tại và tương lai. Thứ tư, các công trình nghiên cứu đã đề cập tới từng mặt hoặc một số phương diện, khía cạnh trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, như: khái niệm; nguồn gốc; quá trình hình thành và phát triển; nội dung; giá trị. Việc nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh với tư cách là một hệ thống chỉnh thể thống nhất chưa được quan tâm đúng mức. Tính hệ thống hóa chưa cao, chưa đầy đủ và chưa toàn diện. Có những nội dung sự phân tích, lý giải và đánh giá chưa đầy đủ, toàn diện. Đó là những vấn đề mà các nhà nghiên cứu cần tiếp tục, trong đó có tác giả của luận án này. Thứ năm, các công trình nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh chủ yếu tập trung và nhấn mạnh pháp quyền trong công quyền, chưa tập trung và nhấn mạnh pháp quyền trong xã hội công dân, xã hội dân sự, tức là pháp quyền trong toàn xã hội, nói theo tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh là “thần linh pháp quyền” còn thiếu. Pháp quyền chủ yếu tập trung và nhấn mạnh dưới
  • 35. 30 góc độ là công cụ, phương tiện trong quản lý nhà nước; chưa tập trung và nhấn mạnh pháp quyền thấm sâu vào đời sống xã hội, thấm sâu vào quốc dân đồng bào; pháp quyền trở thành nề nếp, thói quen, lối ứng xử tự nhiên của con người. Một tầng sâu, một trình độ cao và một chất mới của pháp quyền Hồ Chí Minh. Đây là một vấn đề mà các nhà nghiên cứu cần tiếp tục, trong đó có tác giả của luận án này. 1.2.2. Những vấn đề đặt ra đƣợc luận án tiếp tục nghiên cứu Trên cơ sở kế thừa những thành tựu và giá trị trong các công trình nghiên cứu tư tưởng pháp quyền ở Việt Nam và tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh của các tác giả đi trước, tác giả của luận án tiếp tục nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh ở những vấn đề sau: Thứ nhất, xác định các khái niệm pháp luật, pháp chế, pháp quyền, Nhà nước pháp quyền, khái niệm tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh và nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh; Thứ hai, phân tích cơ sở hình thành tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, bao gồm: cơ sở thực tiễn, những tiền đề lý luận và nhân tố chủ quan; Thứ ba, phân tích, luận giải nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh với tư cách là một hệ thống chỉnh thể thống nhất, hệ thống hóa nội dung cơ bản trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, chỉ ra những nét độc đáo, sáng tạo trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, bao gồm, tư tưởng về: vai trò của pháp luật; phương thức thực hiện pháp quyền; điều kiện thực hiện pháp quyền. Thứ tư, rút một số giá trị tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh tham chiếu đối với việc xây dựng NNPQ XHCN hiện nay, bao gồm: kiểm soát quyền lực nhà nước; pháp luật thể hiện ý nguyện của nhân dân; chủ quyền nhân dân đối với các vấn đề quan trọng của quốc gia; các quyền hiến định của công dân; xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt.
  • 36. 31 Tiểu kết chƣơng 1 Khái niệm pháp quyền có nội dung rộng, được các nhà nghiên cứu đề cập đến trên nhiều khía cạnh, trên thế giới, tùy từng khu vực, tùy từng quốc gia có điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, có cách hiểu khác nhau. Ở Việt Nam, pháp quyền dưới góc độ lý luận chung không được đề cập nhiều, chủ yếu từ những vấn đề thực tiễn trên thế giới và của Việt Nam các nhà tư tưởng, các nhà chính trị và các nhà nghiên cứu nêu ra những giá trị, những vấn đề đặt ra, đề xuất giải pháp đối với việc xây dựng NNPQ XHCN. Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh được các nhà nghiên cứu đề cập trên những khía cạnh: khái niệm, nguồn gốc, quá trình hình thành, phát triển, nội dung, giá trị. Tính hệ thống, tính đầy đủ chưa cao; có nội dung sự phân tích, lý giải và đánh giá chưa đầy đủ, chưa toàn diện. Vấn đề pháp quyền nói chung và tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh nói riêng cần được tiếp tục nghiên cứu làm rõ và vận dụng vào xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam.
  • 37. 32 Chƣơng 2 KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỂN HỒ CHÍ MINH 2.1. KHÁI NIỆM 2.1.1. Khái niệm pháp luật Các nhà tư tưởng phương Tây đưa ra quan điểm về pháp luật tự nhiên và pháp luật thực định. Pháp luật tự nhiên là khái niệm tư tưởng chính trị và pháp quyền dùng để chỉ một hệ thống pháp luật lý tưởng, xuất phát từ bản tính con người, lấy lý trí con người làm nền tảng, không phụ thuộc vào Nhà nước và các điều kiện xã hội. Tư tưởng pháp luật tự nhiên có từ thời cổ đại: Platon, Aristote, Cicéron, Socrat... Nhưng được lưu hành rộng rãi vào thời kỳ Cách mạng tư sản ở châu Âu (thế kỷ 17 - 18), được coi là vũ khí tư tưởng của giai cấp tư sản chống lại sự chuyên chế phong kiến, tư tưởng pháp luật tự nhiên được phát triển qua các tác phẩm của J.Locke, J.J.Rousseua, C.L. de Mongtesquiue, D.Diderot, A.N.Radishev. Từ thế kỷ 19 trở đi khái niệm pháp luật tự nhiên được thay thế bằng khái niệm pháp luật thực định. Pháp luật thực định là tổng thể các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước ở mỗi quốc gia ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong khoa học pháp lý sử dụng khái niệm pháp luật thực định để phân biệt với pháp luật tự nhiên. K.Marx và F.Engels trong: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đưa ra quan điểm: “pháp quyền của các ông chỉ là ý chí của các ông được đề lên thành luật, cái ý chí mà nội dung là do điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quy định” [68, tr.619]. Quan điểm K.Marx và F.Engels đối với pháp luật tư sản dựa trên sự khái quát hóa, trừu tượng hóa rất cao, chỉ tập trung vào điểm cốt lõi và xét đến cùng, quan điểm trên có ý nghĩa phương pháp luận. Thứ nhất, khi nghiên cứu và quan niệm về pháp luật phải thấy bản chất giai cấp của pháp luật; pháp luật mang bản chất của giai cấp thống trị về
  • 38. 33 chính trị, về kinh tế. Thứ hai, khi nghiên cứu và quan niệm về pháp luật phải thấy cơ sở vật chất của pháp luật. Khái niệm về pháp luật trên được K.Marx và F.Engels đưa ra dưới góc độ triết học. Quan điểm của K.Marx và F.Engels được V.I.Lenin kế thừa, phát triển và vận dụng vào thực tiễn xây dựng XHCN ở nước Nga. V.I.Lenin khẳng định lại quan điểm của K.Marx: “Pháp quyền không bao giờ có thể cao hơn chế độ kinh tế và trình độ phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế quyết định” [57, tr.115]. Đồng thời, qua thực tiễn xây dựng chế độ xã hội mới, thời kỳ quá độ lên CNXH, V.I.Lenin thấy vai trò quan trọng của pháp luật đối với đời sống xã hội, ông nêu quan điểm cần phải có pháp luật để quản lý xã hội. V.I.Lenin cho rằng: “Pháp quyền ấy vẫn còn tồn tại với tư cách là yếu tố điều tiết việc phân phối sản phẩm và phân phối lao động giữa những thành viên trong xã hội” [57, tr.114]. Trong sách Từ điển triết học do M.Rodentan và P.Iudin chủ biên, chịu sự chi phối của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra quan niệm về pháp luật tập trung và nhấn mạnh vào bản chất giai cấp của pháp luật, chịu sự quy định và phản ánh quan hệ kinh tế [109]. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin chi phối quan niệm về pháp luật ở Việt Nam từ khi chế độ xã hội mới ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, vai trò chi phối này ở các mức độ khác nhau tùy điều kiện lịch sử. Trong sách Từ điển bách khoa Việt Nam nêu khái niệm: “Pháp luật là hệ thống các quy phạm xã hội có tính bắt buộc chung thể hiện ý chí của giai cấp thống trị đề lên thành luật và được bảo vệ bằng quyền lực nhà nước” [48, tr.420]. Khái niệm này đã đưa khái niệm pháp luật với một khái niệm rộng hơn là khái niệm quy phạm xã hội, quy phạm xã hội có thể gồm đạo đức, tôn giáo... chỉ ra các đặc tính riêng của quy phạm pháp luật: được Nhà nước thừa
  • 39. 34 nhận hoặc đề lên thành luật, mang bản chất giai cấp, mang tính cưỡng chế, tính bắt buộc, được đảm bảo bằng Nhà nước. Trong giới nghiên cứu và giảng dạy pháp luật tại Việt Nam, có đưa ra khái niệm về pháp luật, trong đó có thể kể tới Hoàng Thị Kim Quế với khái niệm: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, được đảm bảo thực hiện bằng Nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội [103, tr.288]. Trong khái niệm này, bên cạnh sự tương đồng với nội dung của những quan niệm đã trình bày trên, tác giả bổ sung thêm hai điểm: một là, tính xã hội của pháp luật; hai là, mục tiêu của pháp luật nhằm mục đích phát triển bền vững xã hội, mục đích nhân văn, tiến bộ của pháp luật. Từ các phân tích trên, có thể khái quát những nội dung của khái niệm pháp luật gồm: pháp luật là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực hành vi ứng xử mang tính phổ biến; pháp luật phải do Nhà nước ban hành, thừa nhận, Nhà nước là chủ thể trực tiếp ban hành, thừa nhận; pháp luật mang tính cưỡng chế, là những quy tắc, chuẩn mực hành vi ứng xử mang tính bắt buộc phải tuân theo, được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh Nhà nước; đối với pháp luật tiến bộ mục đích của pháp luật đảm bảo trật, ổn định và phát triển bền vững của xã hội. Từ tất cả sự phân tích trên, luận án đưa ra khái niệm về pháp luật như sau: Pháp luật là hệ thống quy tắc hành vi xử sự xã hội mang tính phổ biến, do Nhà nước quy định và đảm bảo thực thi, điều chỉnh quan hệ xã hội nhằm đảm bảo trật tự, ổn định và tiến bộ xã hội.
  • 40. 35 2.1.2. Khái niệm pháp chế Trong khoa học pháp lý Việt Nam có khái niệm pháp chế và pháp chế XHCN. Có nhiều khái niệm khác nhau về pháp chế. Trong sách Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ nêu khái niệm: Pháp chế là chế độ trong đó đời sống và hoạt động xã hội được bảo đảm bằng pháp luật [149, tr.985]; trong sách Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển học do Hoàng Phê và các cộng sự đưa ra khái niệm về pháp chế tương tự như trên [99]. Khái niệm pháp chế ở đây theo nghĩa rộng, nhấn mạnh đến vai trò của pháp luật đối với toàn bộ xã hội, để có pháp chế điều kiện cần là có hệ thống pháp luật đầy đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Theo Phạm Hữu Nghị quan niệm về pháp chế nhấn mạnh đến một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội; sự tuân thủ pháp luật của toàn xã hội, gồm: Nhà nước, mọi tổ chức xã hội và cá nhân công dân [88]. Quan niệm này nhấn mạnh đến thành tố quan trọng, như là điều kiện cần và đủ của pháp chế là có hệ thống pháp luật và sự tuân thủ pháp luật. Theo Nguyễn Minh Đoan quan niệm pháp chế chính là pháp luật, nhưng pháp luật đang thực thi trong đời sống xã hội, tức là pháp luật đang sống [32]. Tác giả khi quan niệm về pháp chế nhấn mạnh đến tính hiệu lực của pháp luật trong đời sống xã hội, trong quan niệm này tác giả đòi hỏi một trình độ cao tính hiệu lực của pháp luật, không chỉ hiểu hiệu lực của pháp luật ở tính cưỡng chế, mà phải đạt tới ý thức tự giác. Quan niệm này về pháp chế gần với quan niệm về pháp quyền. Theo Bùi Xuân Đức quan niệm pháp chế là một trật tự pháp luật trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để, thống nhất [1]. Trong quan niệm về pháp chế, tác giả nhấn mạnh đến sự tuân thủ pháp
  • 41. 36 luật của toàn xã hội, các đặc trưng trong thực hiện pháp luật, quan niệm này về pháp chế có những điểm tương đồng với quan niệm về pháp chế. Pháp chế XHCN là chế độ tuân thủ nghiêm chỉnh và chính xác Hiến pháp, luật của mọi chủ thể trong các quan hệ pháp luật. Đây là, một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật XHCN. Nguyên tắc này cũng được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở Việt Nam. Trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp cần triệt để tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi phải đảm bảo các yêu cầu: tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, trong hệ thống pháp luật thượng tôn Hiến pháp và luật; thừa nhận và bảo vệ có hiệu quả các quyền công dân; tuân thủ, chấp hành pháp luật trong toàn xã hội; xử lý kịp thời, công minh hành vi vi phạm pháp luật; đảm bảo hợp pháp, hợp lý và hợp tình; hệ thống pháp luật đảm bảo cần và đủ cho việc điều chính các quan hệ xã hội. Như vậy, khái niệm pháp chế có những nội dung tương đồng với khái niệm pháp chế. Từ tất cả sự phân tích trên luận án đưa ra khái niệm về pháp chế như sau: Pháp chế là chế độ pháp luật được thực thi một cách nghiêm minh đối với mọi chủ thể trong xã hội. 2.1.3. Khái niệm pháp quyền Trong các nghiên cứu ở Việt Nam về triết học, khoa học pháp lý, khoa học chính trị, Hồ Chí Minh học... có đề cập đến khái niệm pháp quyền. Khái niệm pháp quyền được sử dụng là công cụ để các tác giả đề cập đến nội dung nghiên cứu. Bùi Ngọc Sơn khẳng định pháp quyền là một lý thuyết của phương Tây, trong thế kỷ XX, nó lan tỏa và có tầm ảnh hưởng rộng lớn tới khắp các châu lục. Tác giả đưa ra quan điểm: “Pháp quyền thực chất là một mô thức tổ chức xã hội mà trong đó Nhà nước cũng như mọi chủ thể khác trong xã hội phải chịu sự cương tỏa của quyền lực pháp luật” [111, tr.25]. Tác giả cho rằng
  • 42. 37 thực chất pháp quyền là quyền của pháp luật trong toàn bộ đời sống xã hội, pháp luật trở thành tối cao, không chỉ dừng lại ở khâu Nhà nước áp dụng pháp luật, mà trở thành “thần linh”. Tức là pháp luật được tôn trọng đến trình độ có tính linh thiêng. Đến đây, đặt ra một câu hỏi: cái gì, yếu tố nào tạo nên tính linh thiêng của pháp luật, khi trả lời được câu hỏi đó là chỉ ra được cốt lõi của pháp quyền. Hoàng Văn Nghĩa dẫn quan niệm về pháp quyền trong Báo cáo của Tổng thư ký Liên hợp quốc về NNPQ và tư pháp chuyển đổi trong các xã hội xung đột và hậu xung đột: Pháp quyền là một nguyên tắc quản trị mà ở đó, tất cả các cá nhân, cơ quan và tổ chức, công và tư pháp, bao gồm cả Nhà nước, là phải giải trình trước pháp luật được ban hành một cách công khai, được thực thi một cách bình đẳng và được xét xử một cách độc lập, phù hợp với các quy phạm và tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế. Cũng như nó đòi hỏi về các biện pháp đối với việc đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc tính tối cao của pháp luật, sự bình đẳng trước pháp luật, trách nhiệm giải trình trước pháp luật, tính công bằng trong áp dụng pháp luật, phân chia quyền lực, tham gia vào việc ra quyết định, đảm bảo pháp lý, tránh sự tùy tiện và sự minh bạch về thủ tục, về pháp lý [91]. Đây là quan niệm pháp quyền theo nghĩa rộng, hàm chứa nhiều giá trị của khoa học pháp lý hiện đại. Quan niệm như vậy, coi pháp quyền là một phương thức tổ chức xã hội hiện đại, văn minh và tiến bộ. Nguyễn Đăng Dung cho rằng thuật ngữ pháp quyền (The Rule of Law) dùng để chỉ cả một xã hội được tổ chức và vận hành trên cơ sở các quyền được pháp luật quy định rạch ròi theo luật của tự nhiên, sao cho các chủ thể sử dụng quyền của mình một cách tự do để có khả năng nâng cao sự hạnh phúc của mình, nhưng lại không xâm phạm sang quyền của các chủ thể khác [18]. Tác giả đề cao vai trò của pháp luật, nhưng là pháp luật để phục vụ cho con người, đem lại quyền cho con người, đem lại hạnh phúc cho con người.
  • 43. 38 Trên cơ sở kế thừa kết quả đạt được trong các công trình đã công bố, luận án đưa ra khái niệm về pháp quyền: Pháp quyền là nguyên tắc tổ chức và hoạt động xã hội đề cao pháp luật, đảm bảo công bằng, quyền con người và tiến bộ xã hội. Nói đến pháp quyền là phải nói đến Nhà nước và pháp luật, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin Nhà nước và pháp luật mang bản chất giai cấp, do vậy pháp quyền mang bản chất giai cấp; Nhà nước, pháp luật không chỉ mang nguyên bản chất giai cấp, còn mang bản chất xã hội. Nhà nước, pháp luật chỉ phục vụ quyền, lợi ích của một giai cấp thì sớm hay muộn Nhà nước, pháp luật đó sẽ bị loại bỏ và thay thế bằng một Nhà nước, pháp luật khác. Diễn trình lịch sử nhân loại đa dạng, phức tạp, có bước quanh co, thậm chí thụt lùi, nhưng xu hướng chung là tiến bộ, phát triển. Lịch sử Nhà nước và pháp luật của mỗi quốc gia và toàn nhân loại cũng nằm trong tiến trình chung không ngừng tiến bộ và phát triển. Trong tiến trình phát triển của lịch sử Nhà nước và pháp luật, tư tưởng pháp quyền thể hiện xu thế tiến bộ và phát triển. Pháp quyền là một giá trị văn minh, tiến bộ của Nhà nước, của pháp luật. Trước hết, pháp quyền được hiểu đó là quyền của pháp luật. Pháp luật do Nhà nước ban hành để bảo vệ quyền và lợi ích trước hết của giai cấp nắm Nhà nước, giai cấp thống trị về chính trị, về kinh tế. Do đó, quyền đầu tiên của pháp luật là bảo vệ giai cấp thống trị, đi liền với đó là quyền giàng buộc các giai cấp còn lại trong khuôn khổ, trong vòng trật tự, trừng trị nặng những hành vi xâm hại, đe dọa địa vị của giai cấp thống trị. Quyền này của pháp luật thấy rõ trong pháp luật chiếm hữu nô lệ và pháp luật phong kiến, nhưng đó chưa phải là pháp quyền, chưa đạt đến pháp quyền. Kiểu pháp luật tư bản chủ nghĩa, quyền thống trị giai cấp của pháp luật vẫn còn, bên cạnh đó xuất hiện tư tưởng quyền của pháp luật với chính Nhà nước, với các nhân viên nhà nước; đặc biệt khi chủ nghĩa lập hiến ra đời, yêu cầu Nhà nước đặt dưới pháp luật, khi đó pháp quyền ra đời. Nhà nước và
  • 44. 39 pháp luật không chỉ phục vụ một giai cấp, mà phục vụ toàn xã hội. Tư tưởng pháp quyền hiện nay đã đạt đến Nhà nước chỉ được làm những điều pháp luật cho phép, cá nhân công dân có quyền làm những điều pháp luật không cấm; nghĩa vụ giải trình của Nhà nước, nhân viên nhà nước. Như vậy, đến hiện nay, quyền của pháp luật đã mở rộng ra toàn xã hội, không còn vùng cấm đối với pháp luật. Thứ hai, pháp quyền được hiểu là pháp luật về quyền. Pháp luật ghi nhận và đảm bảo các quyền tự nhiên của con người, dưới góc độ quốc gia - dân tộc, quốc gia - dân tộc có quyền; dưới góc độ cá nhân, có quyền con người. Pháp luật về quyền của quốc gia - dân tộc, đó là pháp quyền quốc tế, pháp quyền dân tộc; pháp luật về quyền con người, quyền công dân đó là pháp quyền dân chủ. Pháp luật phải được xây dựng theo những trình tự nhất định và thể hiện dưới hình thức nhất định do luật quy định. Pháp luật khi áp dụng phải tuân thủ theo trình tự thủ tục nhất định theo do luật quy định. Thứ ba, mục tiêu của pháp quyền là đảm bảo trật tự, ổn định và hướng tới tiến bộ, phát triển xã hội. Pháp quyền dân tộc hay pháp quyền dân chủ mục tiêu đầu tiên, trước hết là duy trì trật tự hiện tồn; trong thế giới hiện nay pháp quyền còn phải hướng tới sự tiến bộ, phát triển xã hội. Pháp quyền lấy con người làm trung tâm, xuất phát từ con người, vì con người, xu thế không thể đảo ngược. Đích cuối cùng của pháp quyền là mỗi cá nhân người có tự do, công bằng, công lý và hạnh phúc. 2.1.4. Khái niệm Nhà nƣớc pháp quyền Tư tưởng pháp quyền có nguồn gốc từ châu Âu và được du nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỷ XX, trong hoàn cảnh Việt Nam là một quốc gia thuộc địa, chế độ quân chủ chuyên chế vẫn tồn tại, do đó không có điều kiện phát triển cả về lý luận và thực tiễn. Đến giữa thế kỷ XX, với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, với sự ra đời của nước Việt Nam DCCH tư tưởng pháp quyền được hiện thực hóa. Đến thập niên cuối của thế kỷ XX, vấn đề
  • 45. 40 pháp quyền được đề cập trở lại và được Đảng Cộng sản Việt Nam sử dụng trong các Văn kiện của Đảng với tên gọi NNPQ, NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Khái niệm này được sử dụng chính thức và trở nên phổ biến trong xã hội Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII) xác định: "Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện NNPQ Việt Nam” [26, tr.224]. Như vậy, đây là lần đầu tiên trong Văn kiện của Đảng chính thức nêu trực tiếp và cụ thể vấn đề xây dựng NNPQ Việt Nam, trở thành chủ trương có tầm chiến lược, bao trùm toàn bộ tổ chức, hoạt động của Nhà nước, trở thành định hướng cho toàn bộ quá trình và nội dung đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước. Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tính tất yếu khách quan và cấp thiết của việc xây dựng NNPQ XHCN; là một đặc trưng của xã hội XHCN; vừa tiếp thu thành tựu của nhân loại về NNPQ, vừa thể hiện bản sắc, đặc điểm riêng của Việt Nam [28, 29]. Quá trình tiếp cận, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về NNPQ và xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam là một quá trình, gắn liền với sự nghiệp đổi mới đất nước. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về NNPQ XHCN ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, cụ thể, đi vào những vấn đề thực chất của tư tưởng pháp quyền. Quan điểm đó đã tiếp thu những giá trị tư tưởng pháp quyền trên thế giới và trở về với tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, trên cơ sở bám sát và đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đất nước. Theo Hoàng Văn Nghĩa dẫn quan niệm của Hội nghị quốc tế về NNPQ của các nước sử dụng tiếng Pháp, tổ chức tại Benin vào tháng 9/1991: NNPQ là một chế độ chính trị mà Nhà nước và cá nhân phải tuân thủ pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người đều được pháp luật nghi nhận và bảo vệ, các quy trình và quy phạm pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng một hệ thống tòa án độc lập. Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá trị của