SlideShare a Scribd company logo
1 of 79
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN VĂN GIANG
DÊU HIÖU §ÞNH L¦îNG TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn trªn ®Þa bµn tØnh §¾k N«ng)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN VĂN GIANG
DÊU HIÖU §ÞNH L¦îNG TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn trªn ®Þa bµn tØnh §¾k N«ng)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. ĐỖ NGỌC QUANG
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, các số liệu thống kê, ví dụ và trích dẫn trong luận văn
đảm bảo tính thực tiễn, chính xác, trung thực và tin cậy. Các kết
quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác, tôi đã hoàn thành tất cả các môn học theo
chương trình và thực hiện tất cả các nghĩa vụ về tài chính theo quy
định của Khoa Luật Đại Học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Giang
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DẤU HIỆU ĐỊNH
LƯỢNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM...........................6
1.1. Khái niệm, phân loại dấu hiệu định lượng trong Luật hình
sự Việt Nam......................................................................................6
1.1.1. Khái niệm dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự............................6
1.1.2. Phân biệt dấu hiệu định lượng và dấu hiệu định tính trong Luật
hình sự.............................................................................................11
1.1.3. Phân loại dấu hiệu định lượng trong luật hình sự .............................14
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Luật hình sự Việt
Nam về dấu hiệu định lượng ......................................................... 19
1.2.1. Giai đoạn 1945 đến 1985................................................................. 19
1.2.2. Giai đoạn 1985 đến 1999................................................................. 21
1.3. Quy định của Bộ luật hình sự 1999 về dấu hiệu định lượng
trong cấu thành tội phạm cụ thể Phần các tội phạm. ..................27
1.3.1. Dấu hiệu định lượng về hình thức được thể hiện trong các quy
định tại các cấu thành tội phạm cụ thể Bộ luật hình sự năm 1999........27
1.3.2. Dấu hiệu định lượng về nội dung được thể hiện trong các quy
định tại các cấu thành tội phạm cụ thể Bộ luật hình sự năm 1999........30
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG DẤU HIỆU ĐỊNH LƯỢNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU THỰC
TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG) VÀ NHỮNG KIẾN
NGHỊ, ĐỀ XUẤT...........................................................................37
2.1. Thực tiễn áp dụng dấu hiệu định lượng trong luật hình sự
(trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông).................... 37
2.1.1. Sơ lược về tình hình địa chính trị, kinh tế, xã hội tỉnh Đắk Nông.......... 37
2.1.2. Những kết quả đạt và những tồn tại, vướng mắc trong áp dụng
dấu hiệu định lượng trong luật hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk
Nông giai đoạn từ 2010 đến 2014 .................................................... 39
2.1.3. Nguyên nhân gây nên những tồn tại vướng mắc trong việc áp
dụng dấu hiệu định lượng trong luật hình sự trên địa bàn tỉnh
Đắk Nông ........................................................................................51
2.2. Những kiến nghị đề xuất nâng cao hiệu quả áp dụng dấu
hiệu định lượng trong luật hình sự ............................................... 56
2.2.1. Quan điểm của Đảng và nhà nước trong hoàn thiện quy định
pháp luật hình sự về các tội phạm cụ thể có liên quan đến dấu
hiệu định lượng................................................................................56
2.2.2. Kiến nghị, đề xuất hoàn thiện pháp luật hình sự về dấu hiệu
định lượng trong một số cấu thành tội phạm cụ thể..........................59
2.2.3. Các kiến nghị đề xuất khác liên quan đến áp dụng dấu hiệu định
lượng trong Luật hình sự vào thực tiễn đấu tranh phòng chống
tội phạm........................................................................................... 63
KẾT LUẬN................................................................................................. 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................71
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Tình hình xét xử các vụ án hình sự tại các cấp tòa
án nhân dân tỉnh Đắk Nông 40
Bảng 2.2. Tình hình xét xử các vụ án hình sự có dấu hiệu định
lượng tại các cấp tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông từ
năm 2010 đến 2014 45
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự (VAHS), các
cơ quan điều tra, truy tố, xét xử phải định tội danh căn cứ vào các yếu tố cấu
thành tội phạm để chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời
gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực
hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực
trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết
tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và
những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt
hại do hành vi phạm tội gây ra nhằm xác định đúng tính chất của vụ án. Việc
nhận thức chân lý khách quan của vụ án hình sự là một quá trình hết sức
phức tạp được tạo bởi các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá các chứng
cứ do các chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện phù hợp với các qui định của
Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự. Vì vậy, để định đúng tội danh mà
người phạm tội đã thực hiện cần căn cứ vào các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm, trong đó có dấu hiệu định tính và dấu hiệu định lượng trong mặt
khách quan của tội phạm, tùy thuộc vào từng cấu thành tội phạm cụ thể mà
Bộ luật hình sự quy định.
Do “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh,
trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp
khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội
chủ nghĩa” mà hành vi phạm tội có thể xảy ra trong các lĩnh vực khác nhau của
2
đời sống xã hội. Tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng
hành vi phạm tội xâm phạm vào các nhóm quan hệ xã hội khác nhau được pháp
luật hình sự bảo vệ mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm xâm phạm ở từng
lĩnh vực cụ thể. Để tránh những sai lầm trong việc xử lý hành vi nguy hiểm cho
xã hội, Bộ luật hình sự có quy định dấu hiệu định lượng để phân biệt hành vi
nguy hiểm cho xã hội đến mức nào thì phải bị xử lý về hình sự hoặc đến mức
nào thì phải bị xử lý về hành chính. Đây là vấn đề mấu chốt rất quan trọng để
phân biệt hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm và hành vi nguy hiểm cho xã
hội không phải là tội phạm. Trên cơ sở đó đưa ra các chế tài xử lý phù hợp với
từng hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Vấn đề dấu hiệu định lượng trong luật hình sự Việt Nam đã được đề
cập khi xây dựng Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, quá trình áp dụng Bộ
luật hình sự 1985 đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết trong việc quy định dấu hiệu
định lượng nên đã dẫn đến sự tùy tiện trong việc định tội danh tại giai đoạn
điều tra, truy tố, xét xử. Bộ luật hình sự năm 1999 thay thế Bộ luật hình sự
năm 1985 đã khắc phục tình trạng này bằng cách quy định rõ hơn những dấu
hiệu định lượng trong từng nhóm tội phạm cụ thể.
Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn áp
dụng qui định của pháp luật hình sự vào quá trình chứng minh vụ án hình sự
của cơ quan tiến hành tố tụng rất ít được quan tâm nghiên cứu. Bên cạnh đó,
Bộ luật hình sự 1999 qui định về vấn đề này ở một chừng mực nào đó còn
chưa cụ thể, chặt chẽ và đang phát sinh nhiều bất cập do sự thay đổi của tình
hình kinh tế, xã hội đất nước. Mặt khác, trong khoa học luật hình sự còn
không ít vấn đề về dấu hiệu định lượng còn chưa thống nhất về cách hiểu,
thậm chí có những quan điểm trái ngược nhau.Trong thực tiễn hoạt động đấu
tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội
phạm đang diễn ra hết sức phức tạp, thủ đoạn gây án và che giấu tội phạm của
3
kẻ phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn thì cần quy định một cách rất cụ
thể về dấu hiệu định lượng trong từng tội phạm vụ thể. Điều đó đặt ra yêu cầu
cần tiếp tục nghiên cứu về dấu hiệu định lượng để góp phần hoàn thiện Bộ
luật hình sự bổ sung, sửa đổi thời gian tới đây. Trước yêu cầu này, tác giả lựa
chọn đề tài: “Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở
số liệu thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Nông)” viết luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay đã có một số rất ít công trình công bố về kết quả nghiên
cứu liên quan đến dấu hiệu trong luật hình sự. Cụ thể: Luận văn thạc sĩ luật
học năm 2004: “Vai trò của Yếu tố định lượng tài sản trong việc phân biệt tội
phạm với hành vi không phải là tội phạm trong pháp luật hình sự Việt
Nam”của tác giả Nghiêm Xuân Cường; Bài viết: “Vấn đề định lượng tài sản
bị chiếm đoạt trong Bộ luật hình sự năm 1999” của tác giả Lê Thúy Phượng
đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 3/1999; Bài viết: Có cần định giá tài sản
theo Bộ luật hình sự mới hay không” của tác giả Hồ Oanh đăng trên tạp chí
Tòa án nhân dân số 8/2000; Bài viết: “Bàn về định lượng trong Bộ luật hình
sự năm 1999” của TS. Đặng Anh đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số
7/2002; Bài viết: “Dấu hiệu định lượng trong Bộ luật hình sự” của TS. Lê Thị
Sơn đăng trên Tạp chí Luật học số 1/2005 v.v.... Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu và các bài viết trên chỉ thể hiện ở một phần, ở một khía cạnh nhất
định trong nghiên cứu dấu hiệu định lượng trong luật hình sự theo từng
chương của Bộ luật hình sự ở từng nhóm tội phạm mà chưa nghiên cứu toàn
diện những vấn đề liên quan đến dấu hiệu định lượng khi định tội danh cũng
như định lượng khi áp dụng tình tiết định khung tăng nặng và giảm nhẹ.
Từ thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và nghiên cứu về
mặt lý luận, thực tiễn dấu hiệu định lượng của tội phạm, đặt ra yêu cầu đòi hỏi
phải nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống vấn đề lý luận và thực tiễn
4
của những quy định dấu hiệu định lượng trong luật hình sự. Đây là vấn đề hết
sức cần thiết, nhằm không ngừng hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam, trên
cơ sở đó tạo nền tảng cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án khắc phục
thiếu sót nhằm xác định chính xác tội danh và bảo đảm xử lý công minh, công
bằng, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta trong
giai đoạn hiện nay và tương lai.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu luận văn
Mục đích của luận văn là làm quy định về dấu hiệu định lượng trong
luật hình sự Việt Nam nhằm giúp cho việc định tội danh cũng như tính chất
và mức độ phạm tội của từng tội phạm.
Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu luận văn tập trung
vào nghiên cứu cơ sở lý luận hình thành và của những quy định của luật thực
định liên quan đến dấu hiệu định lượng trong luật hình sự; nghiên cứu thực
trạng áp dụng những quy định về dấu hiệu định lượng trong thực tiễn điều tra,
truy tố, xét xử vụ án hình sự trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk
Nông; nghiên cứu làm rõ những tồn tại, vướng mắc trong áp dụng pháp luật
hình sự và đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự về dấu hiệu
định lượng khi định tội danh cũng như khi xem xét tính chất, mức độ phạm
tội của những tội phạm có liên quan.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những dấu hiệu định lượng trong
luật hình sự về những tội phạm cụ thể.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những quy định dấu hiệu định
lượng trong phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999 trên cơ sở số liệu
thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông từ năm 2009 đến 2014.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê
5
Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học
luật hình sự như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê xã hội
học, điều tra… để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng
các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, có 2 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về dấu hiệu định lượng trong luật
hình sự Việt Nam.
Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về dấu hiệu định lượng
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông và các kiến nghị đề xuất.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DẤU HIỆU
ĐỊNH LƯỢNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, phân loại dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự
Việt Nam
1.1.1. Khái niệm dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự
Dấu hiệu, theo Từ điển Tiếng Việt, là cái định ra theo quy ước để nhận
diện một một sự vật, hoặc một hiện tượng. Ví dụ, hành vi giơ tay làm dấu
hiệu. Còn định lượng, cũng theo Từ điển này, là số lượng cụ thể. Ví dụ, khẩu
đội pháo cao xạ có 5 người, mỗi người làm một nhiệm vụ khác nhau liên quan
đến hoạt động của khẩu pháo, nếu thiếu một người thì không thể là khẩu đội
pháo. Như vậy, dấu hiệu định lượng được hiểu là dấu hiệu xác định số lượng
hình thành một sự vật, một hiện tượng trong xã hội
Khác với những sự vật, hiện tượng trong xã hội, tội phạm tuy là một
hiện tượng xã hội, nhưng để xác định tội phạm phải dựa vào tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội. Tính nguy hiểm cho xã hội thể hiện ở chỗ nó
ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Để xác định hành vi nào đó
do con người thực hiện có phải là tội phạm hay không phải dựa vào cấu thành
tội phạm. Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý thống nhất để truy cứu trách
nhiệm hình sự người phạm tội. Nhắc đến cấu thành tội phạm là đề cập đến các
yếu tố bắt buộc cấu thành nên tội phạm đó cũng như các dấu hiệu của mỗi yếu
tố đó. Phụ thuộc vào mỗi chế độ, nhà nước khác nhau và phụ thuộc vào chính
sách hình sự của nhà nước đó mà quy định trong pháp luật hình sự những yếu
tố nào là các yếu tố cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm là những yếu tố
đặc trưng của các loại tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự.
Chỉ khi nào có đầy đủ các dấu hiệu bắt buột này thì hành vi vi phạm pháp luật
7
mới được coi là hành vi phạm tội. Những dấu hiệu bắt buộc bao gồm: khách
thể, chủ thể, mặt chủ quan, mặt khách quan của tội phạm.
 Khách thể của tội phạm là hệ thống các quan hệ xã hội bị tội phạm
xâm hại như: “độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh,
trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa.
 Chủ thể của tội phạm là một cá nhân (con người cụ thể) có khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi của mình và có độ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự theo Điều 12 của BLHS 1999 quy định: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng
chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng
do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
 Mặt chủ quan của tội phạm là biểu hiện bên trong ý thức của người
thực hiện hành vi phạm tội thông qua ba yếu tố: lỗi, động cơ phạm tội và mục
đích phạm tội.
Do tội phạm là sự thống nhất giữa hai mặt khách quan và chủ quan. Vì
vậy, Luật hình sự Việt nam không chấp nhận việc quy tội khách quan, nghĩa
là truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ căn cứ vào những biểu hiện của hành vi
nguy hiểm cho xã hội không kể hành vi đó bắt nguồn từ đâu, diễn biến tâm lý
của người thực hiện hành vi ra sao. Hoạt động định tội phải là sự kết hợp giữa
mặt khách quan và chủ quan, giữa hành vi biểu hiện và thái độ bên trong của
người thực hiện hành vi. Xem xét mặt chủ quan của tội phạm biểu hiện thông
qua ba yếu tố: lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. Mỗi yếu tố có ý
nghĩa khác nhau trong việc chủ thể thực hiện hành vi phạm tội.
8
Lỗi là biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu
hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Một hành vi của bị xem là có lỗi
khi hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện
khách quan để lựa chọn và thực hiện những xử sự khác phù hợp với đòi hỏi
của xã hội. Lỗi cố ý là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong
muốn hậu quả xẩy ra; hoặc trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi
của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể
xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy
ra. Lỗi vô ý là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có
thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không
xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; hoặc trường hợp người phạm tội không
thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc
dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Mục đích phạm tội là kết quả cuối cùng mà người phạm tội muốn đạt
được khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nó xác định khuynh hướng
ý chí và khuynh hướng hành động của người phạm tội. Còn động cơ phạm tội
là động lực thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội
 Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội
phạm bao gồm những dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy
hiểm cho xã hội do hành vi nguy hiểm gây nên; mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi và hậu quả, các dấu hiệu bên ngoài khác.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mặt khách quan của tội phạm là tất
cả những xử sự của con người được biểu hiện ra thế giới khách quan dưới
những hình thức nhất định (hành động hoặc không hành động) gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Để
9
trở thành hành vi khách quan của tội phạm thì hành vi đó phải có tính nguy
hiểm cho xã hội; thể hiện bằng hành động hoặc không hành động; được quy
định trong luật hình sự; gây nên hậu quả nguy hiểm cho xã hội bằng những
thiệt hại nhất định (cho nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân) do hành vi phạm tội gây ra cho các quan hệ xã hội luật hình sự
bảo vệ. Hậu quả thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: hậu quả vật
chất là những thiệt hại mà con người trực tiếp hoặc thông qua các phương tiện
kỹ thuật có thể xác định được một cách chính xác mức độ của nó (ví dụ, thiệt
hại về vật chất thường được thể hiện thông qua sự biến đổi tình trạng bình
thường của các đối tượng vật chất như tài sản bị phá huỷ, bị chiếm giữ, bị sử
dụng trái phép; thiệt hại về thể chất biểu hiện qua sự biến đổi tình trạng bình
thường của thực thể tự nhiên con người như tính mạng, sức khỏe v.v...); hậu
quả phi vật chất là những thiệt hại không thể tính toán một cách chính xác
bằng các phương tiện đo lường. Sự thiệt hại này chỉ được đánh giá thông qua
hoạt động tư duy của con người. Thiệt hại loại này có thể kể đến như danh dự,
nhân phẩm, quyền tự do của con người, chính trị, xã hội, đạo đức….
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm là mối
quan hệ giữa các hiện tượng trong đó một hiện tượng được gọi là nguyên
nhân (là hành vi khách quan) làm phát sinh một hiện tượng khác là kết quả (là
hậu quả của tội phạm). Dùng để chỉ hành vi khách quan đóng vai trò là
nguyên nhân, hậu quả nguy hiểm cho xã hội đóng vai trò là hậu quả. Để xác
định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chúng ta cần dựa vào các
cơ sở có tính nguyên tắc sau: hành vi được coi là nguyên nhân phải là hành vi
trái pháp luật hình sự và xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian. Nguyên nhân
và hậu quả phải có mối quan hệ nội tại và tất yếu. Một nguyên nhân bao giờ
cũng chứa đựng mầm mống nội tại nhằm phát sinh kết quả nhất định.
Bên cạnh các mặt biểu hiện đã nêu, mặt khách quan của tội phạm còn
10
được biểu hiện qua các nội dung khác như phương pháp, phương tiện, công
cụ phạm tội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội… Phương tiện phạm tội
như phương tiện giao thông, thông tin liên lạc, tiền… Công cụ phạm tội như
gậy gộc, súng, chất độc… là những đối tượng được chủ thể sử dụng để thực
hiện hành vi phạm tội. Phương tiện phạm tội trong một số trường hợp là dấu
hiệu định tội và định khung hình phạt.
Mỗi tội phạm cụ thể bao giờ cũng có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm
bao gồm khách thể, chủ thể, mặt chủ quan, mặt khách quan như đã nêu ở trên.
Tuy nhiên, trong các yếu tố cấu thành tội phạm thì khi xác định tính nguy
hiểm của tội phạm thường được các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét trước
tiên là các dấu hiệu trong mặt khách quan của tội phạm. Tùy thuộc vào từng
tội phạm cụ thể mà hành vi nguy hiểm cho xã hội, có thể thể hiện bằng hậu
quả của tội phạm gây ra cho xã hội. Chính những dấu hiệu hậu quả nguy hiểm
cho xã hội là dấu hiệu định tội như đã trình bày ở trên. Hậu quả có thể là vật
chất được thể hiện thông qua sự biến đổi tình trạng bình thường của các đối
tượng vật chất như tài sản bị phá huỷ, bị chiếm giữ, bị sử dụng trái phép; thiệt
hại về thể chất biểu hiện qua sự biến đổi tình trạng bình thường của thực thể
tự nhiên con người như tính mạng, sức khỏe v.v...); hoặc hậu quả có thể là phi
vật chất thể hiện ở những những thiệt hại không thể tính toán một cách chính
xác bằng các phương tiện đo lường mà chỉ được đánh giá thông qua hoạt
động tư duy của con người như danh dự, nhân phẩm, quyền tự do của con
người, chính trị, xã hội, đạo đức…. Trong các loại hậu quả về vật chất được
quy định trong mặt khách quan của tội phạm thì những hậu quả được quy
định trong cấu thành cơ bản của tội phạm được thể hiện ra bên ngoài có thể
cân, đong, đo đếm được thì được coi là dấu hiệu định lượng. Đây chính là
những dấu hiệu đặc trưng của từng tội dưới hình thức cấu thành tội phạm. Ví
dụ mức độ thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị hư
11
hỏng, bị thiệt hại v.v.... Ngoài ra, hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mặt
khách quan của tội phạm còn được thể hiện ở những đối tượng phạm tội. Ví
dụ giá trị hàng hóa, kim khí quá, đá quý; trong lượng của những vật chất bị
cấm sản xuất, mua bán vận chuyển, tàng trữ v.v... Căn cứ vào những dấu hiệu
này mà định tội danh của từng tội phạm cụ thể hoặc định khung hình phạt
tăng nặng đối với người phạm tội.
Như vậy, dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự là một trong những
dấu hiệu thể hiện tại mặt khách quan của tội phạm mà căn cứ vào đó để định
tội danh của từng cấu thành tội phạm cơ bản, hoặc định khung tăng nặng
hình phạt của từng cấu thành tội phạm tăng nặng.
1.1.2. Phân biệt dấu hiệu định lượng và dấu hiệu định tính trong
Luật hình sự
Như phần trên đã trình bày, Luật hình sự quy định tội phạm cụ thể tại
Phần các tội phạm Bộ luật hình sự thông qua phần quy định của quy phạm
pháp luật hình sự. Khoa học luật hình sự xác định quy phạm pháp luật hình sự
đối với mỗi tội phạm cụ thể được chia làm 3 phần: phần giả định (người nào);
phần quy định (mô tả các dấu hiệu có tính đặc trưng của tưng tội dưới hình
thức của cấu thành tội phạm) và phần chế tài (quy định loại và mức hình phạt
cần áp dụng đối với người nào thỏa mãn nhưng dấu hiệu của cấu thành tội
phạm). Khoa học luật hình sự xác định có 3 loại quy định trong quy phạm
pháp luật hình sự phần các tội phạm cụ thể. Đó là “quy định tóm tắt”, “quy
định viện dẫn” và “quy định mô tả”.
“Quy định tóm tắt” là quy định ngắn gọn, không mô tả những dấu hiệu
trong mặt khách quan của tội phạm. Ví dụ: Điều 138 Bộ luật hình sự quy định
về tội trộm cắp tài sản: Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị
từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
12
chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích
mà còn vi phạm, thì bị phạt...; hoặc Điều 93 Bộ luật hình sự quy định: Người
nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt.... Còn thế
nào là trộm cắp tài sản, hoặc thế nào là giết người thì cần có sự hướng dẫn của
những văn bản quy phạm pháp luật khác.
“Quy định viễn dẫn” là quy định tội phạm thông qua một quy phạm pháp
luật khác, hay nói cách khác, để hiểu quy phạm pháp luật của tội phạm này
phải thông qua một quy phạm pháp luật của một tội phạm khác. Ví dụ, Điều
289 Bộ luật hình sự quy định về tội đưa hối lộ: Người nào đưa hối lộ mà của
hối lộ có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới hai triệu
đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần, thì bị phạt....
Tuy nhiên, để hiểu thế nào là đưa hội lộ phải thông qua quy phạm pháp luật
hình sự về tội nhận hội lộ. Bộ luật hình sự quy định về tội nhận hối lộ:
Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian
đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình
thức nào có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới hai
triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây để làm hoặc không
làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt....
Từ quy định này có thể hiểu về tội đưa hối lộ là: Người nào trực tiếp
hoặc qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất
khác dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới mười
triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp
sau đây để yêu cầu người có chức vụ làm hoặc không làm một việc vì lợi ích
hoặc theo yêu cầu của mình, thì bị phạt....
“Quy định mô tả” là quy định nêu một cách cụ thể về các dấu hiệu mặt
khách quan của tội phạm. Ví dụ, Điều 133 Bộ luật hình sự quy định về tội
cướp tài sản: Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc
13
có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể
chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt...; hoặc Điều 135 Bộ luật
hình sự quy định về tội cưỡng đoạt tài sản: Người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực
hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản,
thì bị phạt....
Tuy nhiên, trong các quy phạm pháp luật hình sự phần các tội phạm cụ
thể có những quy định mô tả thì cũng có sự khấc nhau về sự mô tả của các tội
phạm. Việc mô tả các dấu hiệu của tội phạm trong cấu thành tội phạm có thể
là sự mô tả về dấu hiệu định lượng và có thể là sự mô tả về dấu hiệu định tính.
Như phần trên đã trình bày, dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự là
một trong những dấu hiệu thể hiện tại mặt khách quan của tội phạm mà căn
cứ vào đó để định tội danh của từng cấu thành tội phạm cơ bản, hoặc định
khung tăng nặng hình phạt của từng cấu thành tội phạm tăng nặng. Như vậy,
quy định mô tả theo dấu hiệu định lượng là rất cụ thể, có thể xác định được
ngay thông qua hậu quả do tội phạm gây nên cho xã hội; hoặc thông qua giá
trị tài sản bị tội phạm tác động; hoặc thông qua đối tượng của tội phạm.
Còn quy định của quy phạm pháp luật với mô tả về dấu hiệu định tính
trong cấu thành tội phạm cụ thể thường rất trừu tượng, mà để hiểu rõ nội dung
về sự mô tả này cần có sự hướng dẫn hoặc giải thích pháp luật mới có thể vận
dụng được thống nhất trong các cơ quan tư pháp. Ví dụ, Điều 285 Bộ luật
hình sự quy định về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng: “Người
nào vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nhiệm vụ được giao gây hậu quả nghiêm trọng, nếu không thuộc trường hợp
quy định tại các điều 144, 235 và 301 của Bộ luật này, thì bị phạt...”. Như
vậy, hiểu như thế nào là hậu quả nghiêm trọng là vấn đề rất trừu tượng mà để
hiểu nội hàm của hậu quả nghiêm trọng trong tội phạm này cần có hướng dẫn
của Nghị quyết Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì tòa án các
cấp mới có thể áp dụng để xét xử tội phạm này một cách thống nhất.
14
Như vậy, điểm giống nhau của dấu hiệu định lượng và dấu hiệu định tính
trong cấu thành tội phạm cụ thể của Luật hình sự là những dấu hiệu thể hiện tại
mặt khách quan của tội phạm, mà căn cứ vào đó để định tội danh của từng cấu
thành tội phạm cơ bản, hoặc định khung tăng nặng hình phạt của từng cấu
thành tội phạm tăng nặng. Tuy nhiên, điểm khác nhau cơ bản của dấu hiệu định
lượng và dấu hiệu định tính trong cấu thành tội phạm cụ thể của Luật hình sự
chính là tính cụ thể và tính trừu tượng của dấu hiệu này. Đối với những dấu
hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm cụ thể của Bộ luật hình sự, các cơ
quan tiến hành tố tụng có thể dựa vào những dấu hiệu này để có thể định ngay
được tội danh. Ngược lại, đối với những dấu hiệu định tính trong cấu thành tội
phạm cụ thể của Bộ luật hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng không thể dựa
vào những dấu hiệu này để có thể định ngay được tội danh, mà phải có sự
hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự của cơ quan tư pháp có thẩm quyền.
Với những hạn chế của dấu hiệu định tính trong cấu thành tội phạm cụ
thể như đã nêu trên, xu hướng chung của việc xây dựng cấu thành tội phạm là
cố gắng hạn chế sự mô tả trừu tượng (định tính), tăng cường sự mô tả theo
dấu hiệu định lượng. Từ đó việc áp dụng pháp luật hình sự mới được cụ thể,
rõ ràng, tránh những nhận định chủ quan của những người tiến hành tố tụng.
1.1.3. Phân loại dấu hiệu định lượng trong luật hình sự
Trong Bộ luật hình sự năm 1999, dấu hiệu định lượng không phải được
quy định trong tất cả các chương, hoặc không phải được quy định trong tất cả
các tội phạm cụ thể. Do vậy, có hai cách phân loại dấu hiệu định lượng trong
luật hình sự như sau: dấu hiệu định lượng về hình thức và dấu hiệu định lượng
về nội dung trong cấu thành tội phạm cụ thể.
 Dấu hiệu định lượng về hình thức trong cấu thành tội phạm cụ thể
được thể hiện ở những cấu thành tội phạm cơ bản và cấu thành tội phạm định
khung tăng nặng. Đối với dấu hiệu định lượng này có thể chia làm 3 loại:
Thứ nhất, dấu hiệu định lượng được quy định chỉ trong cấu thành tội
15
phạm cơ bản mà không được quy định trong cấu thành tội phạm tăng nặng. Ví
dụ, Tội giết con mới đẻ (Điều 94) quy định: “Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng
nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con
mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ đó dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. Dấu hiệu
định lượng trong tội danh này thể hiện ở chỗ: hậu quả đứa trẻ chết. Trong tội
danh này không có cấu thành tội phạm định khung tăng nặng. Hoặc ví dụ Tội
không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều
102). Tại khoản 1 của điều luật này quy định: “Người nào thấy người khác
đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không
cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. Dấu hiệu định
lượng trong tội danh này là người không được cứu giúp chết. Tuy nhiên
khoản 2 của cấu thành tội phạm định khung tăng nặng lại không quy định dấu
hiệu định lượng mà chỉ quy định: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm: a) Người không cứu giúp là
người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm;b) Người không cứu giúp là người
mà theo pháp luật hay nghề nghiệp có nghĩa vụ phải cứu giúp.
Thứ hai, dấu hiệu định lượng không được quy định trong cấu thành
tội phạm cơ bản, nhưng lại được quy định trong cấu thành tội phạm tăng
nặng. Ví dụ, Điều 111 Bộ luật hình sự quy định về tội hiếp dâm (khoản 1 là
cấu thành tội phạm cơ bản không quy định dấu hiệu định lượng, nhưng
khoản 2, khoản 3 là cấu thành tội phạm định khung tăng nặng lại có quy
định dấu hiệu định lượng):
1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng
không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân
trái với ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
16
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
bảy năm đến mười lăm năm:
h) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31%
đến 60%;
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61%
trở lên;
Như vậy, dấu hiệu định lượng trong tội hiếp dâm thể hiện ở mức độ
thương tích hoặc mức độ tổn hại về sức khỏe chỉ được quy định trong cấu
thành tội phạm định khung tăng nặng (tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà
tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ
thương tật từ 61% trở lên).
Thứ ba, dấu hiệu định lượng được quy định trong cả cấu thành tội
phạm cơ bản và cấu thành tội phạm tăng nặng. Ví dụ, Điều 104 Bộ luật hình
sự quy định Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác (khoản 1 là cấu thành tội phạm cơ bản; khoản 2, khoản 3 và khoản
4 là cấu thành tội phạm định khung tăng nặng):
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc
một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba
năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho
nhiều người;
b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc
người khác không có khả năng tự vệ;
17
đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Có tổ chức;
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc
một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1
Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến
60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a
đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù
chung thân.
Như vậy, dấu hiệu định lượng trong tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ của người khác thể hiện ở mức độ thương tích hoặc mức
độ tổn hại về sức khỏe được quy định trong cả cấu thành tội phạm cơ bản và
cấu thành tội phạm định khung tăng nặng (từ 11% đến 30% hoặc dưới 11%;
từ 30% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%; từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết
người hoặc từ 31% đến 60%).
 Phân loại về nội dung dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm
cụ thể được thể hiện bằng hậu quả của tội phạm, giá trị của tài sản, giá trị của
phương tiện phạm tội và trọng lượng của đối tượng tác động v.v... trong cấu
thành tội phạm cụ thể thuộc mặt khách quan của tội phạm thể hiện:
18
Thứ nhất, dấu hiệu định lượng phản ánh hậu quả của tội phạm dưới
dạng thiệt hại về thể chất (tính mạng, sức khỏe) với những tình tiết: làm chết
người; tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật theo tỷ lệ phần
trăm trong giới hạn nhất định. Ví dụ: Tội không cứu giúp người đang ở trong
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 102 Bộ luật hình sự); Tội gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong khi thi hành
công vụ (Điều 107 Bộ luật hình sự);
Thứ hai, dấu hiệu định lượng phản ánh hậu quả của tội phạm dưới dạng
thiệt hại về vật chất (tài sản bị phá hủy, bị hủy hoại, bị hư hỏng) với những
tình tiết thể hiện giá trị của tài sản. Ví dụ, Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản (Điều 143 Bộ luật hình sự); Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước
về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165 Bộ luật hình sự);
Thứ ba, dấu hiệu định lượng phản ánh giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị
chiếm giữ, bị sử dụng trái phép. Ví dụ, Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản (Điều 140 Bộ luật hình sự); Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 141 Bộ
luật hình sự);
Thứ tư, dấu hiệu định lượng phản ánh đối tượng tác động của tội phạm
thể hiện bằng giá trị tài sản. Ví dụ, Tội buôn lậu (Điều 153 Bộ luật hình sự);
Tội trốn thuế (Điều 161 Bộ luật hình sự);
Thứ năm, dấu hiệu định lượng phản ánh đối tượng tác động của tội
phạm thể hiện bằng trọng lượng của vật chất. Ví dụ, Tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194 Bộ luật hình sự);
Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc
sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 195 Bộ luật hình sự);
Thứ sáu, dấu hiệu định lượng phản ánh giá trị của phương tiện phạm tội.
Ví dụ, Tội nhận hối lộ (Điều 279 Bộ luật hình sự); Tội lợi dụng chức vụ, quyền
hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283 Bộ luật hình sự).
19
Như vậy, có nhiều cách phân loại dấu hiệu định lượng trong cấu thành
tội phạm của các quy phạm pháp luật hình sự Phần các tội phạm của Luật
hình sự. Việc phân loại này giúp cho việc nghiên cứu sâu những vấn đề liên
quan đến dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự của Luận văn này.
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Luật hình sự Việt Nam
về dấu hiệu định lượng
1.2.1. Giai đoạn 1945 đến 1985
Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) thành công đã xóa bỏ xiềng xích
chế độ thực dân gầm 100 năm của Thực dân Pháp và chế độ quân chủ phong
kiến hàng chục thế kỷ lập lên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngay
trong ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố với thế giới rằng,
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa xóa bỏ hẳn quan hệ với thực dân Pháp,
xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam. Tuy nhiên, do
yêu cầu khách quan của một nhà nước, một đất nước không thể thiếu pháp
luật và không thể một thời gian ngắn nhà nước có thể ban hành đầy đủ pháp
luật để điều hành đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 02 ngày
10/10/1945 quyết định “giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam
bộ cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn quốc”, trong
đó có các bộ luật hình sự, tố tụng hình sự.
Trong tình hình đất nước vừa phải kháng chiến chống thực dân Pháp,
vừa phải kiến quốc quản lý đất nước, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
đã từng bước ban hành các văn bản pháp luật, trong đó có các văn bản pháp
luật hình sự về từng loại tội phạm. Ngay trong những năm đầu sau Cách mạng
Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành các sắc lệnh về hình sự
như: Sắc lệnh số 06-SL ngày 15/1/1946 về truy tố những người ăn trộm, ăn
cắp, tự ý pháp hủy, cắt dây điện thoại và điện tín; Sắc lệnh số 46-SL ngày
25/2/1946 về truy tố tội phá hủy công sản; Sắc lệnh số 27-SL ngày 28/2/1946
20
truy tố các tội bắt cóc, tổng tiền và ám sát; Sắc lệnh số 163-SL ngày
23/8/1946 về tổ chức tòa án binh lâm thời đặt tại Hà Nội, trong đó quy định
tương đối chi tiết các tội phạm quân sự; Sắc lệnh số 223-SL ngày 17/11/1946
trừng trị các tội hối lộ; Sắc lệnh số 73-SL ngày 26/2/1947 về các tội đạo thiết,
lừa đảo, biển thủ và thiện thủ; Sắc lệnh số 177-SL ngày 14/4/1948 về định tội
các việc phá hủy hay làm tổn hại đến động sản của người khác; Sắc lệnh số
12-SL ngày 12/3/1949 về phạt tội ăn cắp lấy trộm các vật dụng của nhà binh
trong thời bình và thời kỳ chiến tranh”; Sắc lệnh số 154-SL ngày 17/11/1950
về ấn định hình phạt trừng trị việc tiết lộ bí mật của cơ quan hoặc công tác
của Chính phủ; Sắc lệnh số 180-SL ngày 20/12/1950 quy định hình phạt đối
với những hành vi đầu cơ tiền tệ, làm giấy bạc giả, tàng trữ hay lưu hành giấy
bạc của địch; Sắc lệnh số 133-SL ngày 20/1/1953 về trừng trị các loại việt
gian và phản động; v.v....
Trong thời kỳ đầu những năm giải phóng miền Bắc và đấu tranh chống
Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
lại tiếp tục bản hành các văn bản pháp luật hình sự như Sắc lệnh số 267-SL
ngày 15/6/1956 trừng trị những âm mưu và hành động phá hoại tài sản của
nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân, cản trở việc thực hiện chính sách,
kế hoạch nhà nước; Sắc lệnh số 001-SL ngày 19/4/1957 cấm mọi hành động
đầu cơ về kinh tế v.v... Nhìn chung các sắc lệnh về hình sự được ban hành chỉ
quy định một cách chung nhất đều mang tính liệt kê hành vi phạm tội, có tính
chất đơn hành về những hành vi nguy hiểm cụ thể cho xã hội được hình sự
hóa thuộc các loại quan hệ xã hội nhất định, mà không quy định về dấu hiệu
định lượng khi định tội danh của từng tội phạm cụ thể.
Trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa lại phải tiếp tục huy động toàn dân tiến hành cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam. Bên cạnh nhiệm vụ
21
kháng chiến chống Mỹ, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa phải thực hiện
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Yêu cầu xây dựng pháp luật
hình sự được đặt ra để đấu tranh với các loại tội phạm hình sự. Năm 1967, Ủy
ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng.
Việc ban hành pháp lệnh này thể hiện tiến trình lập pháp hình sự, quy định
tương đối bao quát có hệ thống các tội danh phản cách mạng. Tiếp đó giai
đoạn những năm 70, đầu 80, Ủy ban thường vụ Quốc hội tiếp tục ban hành 4
pháp lệnh hình sự. Đó là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội
chủ nghĩa; Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân;
Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ và Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm
hàng giả, kinh doanh trái phép. Tuy nhiên, hạn chế cơ bản của các văn bản
pháp luật trong thời gian này là không quy định dấu hiệu định lượng trong cấu
thành tội phạm cụ thể. Điều này đã dẫn đến sự tùy tiện trong áp dụng pháp
luật hình sự vào thực tiễn điều tra, khám phá, xử lý tội phạm nói chung.
1.2.2. Giai đoạn 1985 đến 1999
Trước tình hình đấu tranh với các loại tội phạm ngày càng phức tạp khi
các văn bản pháp luật hình sự còn rời rạc, không hệ thống, khó áp dụng trong
thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, tháng 6 năm 1985, Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật hình sự đầu tiên (gọi là Bộ
luật hình sự 1985). Sự ra đời của Bộ luật hình sự năm 1985 đánh dấu sự
trưởng thành của Nhà nước trong việc hệ thống hóa một cách cơ bản các hành
vi nguy hiểm cho xã hội cần bị bị xử lý theo các chế tài hình sự.
Sự tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp thể hiện trong Bộ luật hình sự năm
1985 thể hiện ở chỗ, Bộ luật đã thể chế hóa về hình sự đường lối xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ quá độ xây dựng một nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung với chế độ hành chính bao cấp mà thành phần kinh tế cơ bản là nhà
nước (quốc doanh) và hợp tác xã. Mặt khác, để vận dụng thống nhất pháp luật
hình sự trong toàn quốc, Bộ luật được chia làm 2 phần: Phần chung và Phần
22
các tội phạm. Tại Phần chung Bộ luật hình sự năm 1985 quy định những vấn
đề chung nhất về tội phạm và không phải là tội phạm; hệ thống hình phạt và
các biện pháp tư pháp hình sự; những vấn đề về quyết định hình phạt v.v....
Tại Phần các tội phạm, Bộ luật hình sự 1985 chia làm 12 nhóm tội phạm bao
gồm: các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự con người; các tội xâm phạm những quyền tự do
dân chủ của công dân; các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa; Các tội
xâm phạm chế độ hôn nhân, gia đình và các tội phạm đối với người chưa
thành niên; các tội xâm phạm sở hữu của công dân; các tội phạm về kinh tế;
các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính; các
tội phạm về chức vụ; các tội xâm phạm hoạt động tư pháp; các tội xâm phạm
nghĩa vụ trách nhiệm của quân nhân; và các tội phá hoại hòa bình, chống loài
người và tội phạm chiến tranh.
Điểm mới rất cơ bản trong Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định
những dấu hiệu định lượng trong một số tội phạm cụ thể, chủ yếu là tội liên
quan đến làm chết người. Ví dụ: tại Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự con người, dấu hiệu định lượng được thể hiện ở
nhiều điều luật, như dấu hiệu làm chết người tại các điều 101 (Tội giết người)
với hành vi: giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ con mới đẻ dẫn đến hậu quả đứa trẻ
chết; các điều 103 (Tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khoẻ của người khác
trong khi thi hành công vụ), 104 (Tội vô ý làm chết người), 107 (Tội cố ý
không giúp người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng).
Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực, Nhà nước quyết định
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều thành phần từ năm 1986. Điều này làm
phát sinh nhiều bất cập trong những quy định của Bộ luật hình sự 1985. Vì
vậy liên tục những năm 1989, 1991, 1992 và 1997, Quốc hội nước Cộng hòa
23
xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải ban hành các văn bản Luật bổ sung sửa đổi
một số điều của Bộ luật hình sự 1985. Trong 4 lần sửa đổi đã có 69 điều của
Bộ luật hình sự năm 1985 được sửa đổi, bổ sung với 101 lần sửa đổi đối với
từng điều luật riêng biệt, trong đó 45 điều luật sửa một lần; 18 điều luật sửa
hai lần, 4 điều luật sửa ba lần và có 2 điều luật có 4 lần sửa đổi bổ sung; có 23
điều luật mới được bổ sung. Đặc biệt trong lần sửa đổi lần thứ 4 (1997), từ
một điều luật (Điều 96a) được bổ sung thành một chương gồm 14 điều luật
quy định tội phạm và hình phạt đối với các tội phạm về ma túy và 11 điều luật
quy định tội phạm và hình phạt đối với các tội phạm về tham nhũng.
Điểm đáng chú ý trong các lần sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1985, các
dấu hiệu định lượng trong hành vi phạm tội từng bước được quy định rõ trong
Bộ luật hình sự 1985 qua lần sửa đổi lần thứ 4 năm 1997 về Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của luật hình sự năm 1985. Ví dụ, Tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 104) quy định:
Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc
một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba
năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm: Dùng hung khí nguy hiểm hoặc
dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người; Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người; Đối với
trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có
khả năng tự vệ; Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô
giáo của mình; Có tổ chức; Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc
đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Thuê gây thương tích hoặc
gây thương tích thuê; Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm; Để cản
trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân. Phạm tội gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật
24
từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường
hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt
tù từ hai năm đến bảy năm. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết
người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định
tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm
năm đến mười lăm năm.
Đối với Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác (Điều 108); Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính
(Điều 109) thì dấu hiệu định tội căn cứ vào tỷ lệ thương tích từ 31% trở lên.
Đối với các tội như: Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137); Tội trộm
cắp tài sản (Điều 138); Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(Điều 139) dấu hiệu định tội căn cứ vào chiếm đoạt tài sản của người
khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc
dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử
phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài
sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba
năm. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, người có một trong
những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một
triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm
đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn
vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba
tháng đến ba năm. Đối với Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 141), dấu
hiệu định lượng căn cứ vào giá trị tài sản từ năm triệu đồng đến dưới hai trăm
triệu đồng; Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142) căn cứ vào tài sản có giá
25
trị từ năm mươi triệu đồng trở lên gây hậu quả nghiêm trọng; Tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143), dấu hiệu định lượng căn cứ vào gây
thiệt hại từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới
năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt
hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích
mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù
từ sáu tháng đến ba năm v.v....
Đối với các tội phạm về ma túy, Bộ luật hình sự năm 1985 được bổ
sung sửa đổi năm 1997 quy định dấu hiệu định lượng trong tình tiết định
khung tăng nặng căn cứ vào trọng lượng của chất ma túy. Ví dụ, Tội sản xuất
trái phép chất ma túy, tại các khoản 2, 3, 4 Điều 193 quy định:
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy
năm đến mười lăm năm: Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca có
trọng lượng từ năm trăm gam đến dưới một kilôgam; Hêrôin hoặc côcain có
trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam; Các chất ma tuý khác ở thể
rắn có trọng lượng từ hai mươi gam đến dưới một trăm gam; Các chất ma tuý
khác ở thể lỏng từ một trăm mililít đến dưới hai trăm năm mươi mililít; Có từ
hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số
lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm đ đến điểm h
khoản 2 Điều này. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm: Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa
hoặc cao cô ca có trọng lượng từ một kilôgam đến dưới năm kilôgam; Hêrôin
hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam; Các chất
ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ một trăm gam đến dưới ba trăm gam;
Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ hai trăm năm mươi mililít đến dưới bảy
trăm năm mươi mililít; Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các
chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các
26
điểm từ điểm b đến điểm đ khoản 3 Điều này. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm kilôgam
trở lên; Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam trở lên; Các chất
ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ ba trăm gam trở lên; Các chất ma tuý
khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililít trở lên; Có từ hai chất ma tuý
trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma
tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm d khoản 4 Điều này.
Tương tự như thế đối với các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194).
Đối với các Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền
chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 195), dấu hiệu
định lượng đặt ra đối với tình tiết định khung tăng nặng khi người nào tàng
trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất
trái phép chất ma tuý trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ sáu
năm đến mười ba năm:
Tiền chất có trọng lượng từ hai trăm gam đến dưới năm trăm gam.
Phạm tội trong trường hợp tiền chất có trọng lượng từ năm trăm gam đến dưới
một nghìn hai trăm gam, thì bị phạt tù từ mười ba năm đến hai mươi năm.
Phạm tội trong trường hợp tiền chất có trọng lượng từ một nghìn hai trăm
gam trở lên, thì bị phạt tù hai mươi năm hoặc tù chung thân.
Như vậy, dấu hiệu định lượng đã được quy định trong Bộ luật hình sự
năm 1985 trong các lần sửa đổi bổ sung những quy định về các tội phạm cụ
thể. Tuy nhiên, dấu hiệu định lượng chủ yếu tập trong vào những tình tiết
định khung tăng nặng, còn các tình tiết định tội vẫn chưa được quy định cụ
thể, trừ một số tội xâm phạm liên quan đến tính mạng sức khỏe con người. Có
thể thấy từ năm 1985 đến năm 1997, việc sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự
27
năm 1985 là hết sức cần thiết, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm. Tuy nhiên, trong những lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự 1985 còn
thể hiện tính chắp vá, chưa toàn diện, chưa tạo nên những điều kiện thuận lợi
cho việc áp dụng thống nhất pháp luật trong toàn quốc, chưa đáp ứng được
yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn mới, còn bộc lộ rất
nhiều bất cập. Vì vậy, Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc hội ban hành
nhằm đáp ứng các yêu cầu xây dựng pháp luật hình sự trong giai đoạn mới,
khắc phục những tồn tại, thiếu sót trong Bộ luật hình sự 1985 trong nhiều vấn
đề, trong đó có vấn đề dấu hiệu định lượng khi định tội danh cũng như khi
quy định những tình tiết định khung tăng nặng đối với từng tội phạm cụ thể.
1.3. Quy định của Bộ luật hình sự 1999 về dấu hiệu định lượng
trong cấu thành tội phạm cụ thể Phần các tội phạm.
1.3.1. Dấu hiệu định lượng về hình thức được thể hiện trong các quy
định tại các cấu thành tội phạm cụ thể Bộ luật hình sự năm 1999
Trong phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999 có 281 điều luật từ
Điều 78 đến Điều 344 quy định về các tội phạm cụ thể. Nghiên cứu 281 điều
luật này cho thấy:
 Có 10 điều luật quy định dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội
phạm cơ bản. Điểm đáng chú ý là trong 10 điều luật thì có 9 điều về các tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người và 1 điều về tội xâm phạm sở hữu.
Đó là các Tội giết con mới đẻ (Điều 94); Tội làm chết người trong khi thi
hành công vụ (Điều 97); Tội vô ý làm chết người (Điều 98); Tội vô ý làm chết
người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 99);
Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng
(Điều 102); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106); Tội gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong khi thi hành công vụ
28
(Điều 107); Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác (Điều 108); Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính
(Điều 109); và Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142).
 Có 15 điều luật quy định dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội
phạm định khung tăng nặng, trong khi dấu hiệu này không được quy định
trong cấu thành tội phạm cơ bản. Điểm đáng chú ý là trong 15 điều luật thì có:
- 5 điều luật về tội xâm phạm nhân phẩm danh dự con người, nhưng có
dấu hiệu định lượng xác định mức độ tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân
thông qua tỷ lệ thương tật, đó là các Tội hiếp dâm (Điều 1110, Tội hiếp dâm
trẻ em (Điều 112), Tội cưỡng dâm (Điều 113), Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều
114) và Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115);
- 4 điều luật quy định về các tội xâm phạm quyền sở hữu tài sản, nhưng
có dấu hiệu định lượng xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt và xác định mức
độ tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân thông qua tỷ lệ thương tật, đó là các Tội
cướp tài sản (Điều 133), Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134), Tội
cưỡng đoạt tài sản (Điều 135) và Tội cướp giật tài sản (Điều 136);
- 3 điều luật quy định về các tội phạm về ma túy, nhưng có dấu hiệu
định lượng thông qua đối tượng tác động của tội phạm này bằng trọng lượng
các chất ma túy, đó là các Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 193), Tội
tàng trữ, vận chuyển mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều
194), Tội tàng trữ, vận chuyển mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất
dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 195), và 2 điều luật về tội
phạm ma túy, nhưng dấu hiệu định lượng được xác định bằng tổn hại cho sức
khoẻ của người khác do sử dụng trái phép chất ma túy, đó là các Tội tổ chức
sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 197), và Tội cưỡng bức, lôi kéo người
khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 200);
29
- 1 điều luật quy định về tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công
cộng thông qua việc chiếm đoạt tài sản bằng sử dụng kỹ thuật số có dấu hiệu
định lượng bằng giá trị tài sản bị chiếm đoạt (tiền), đó là Tội sử dụng mạng
máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản (Điều 226 b).
 Có 25 điều luật quy định dấu hiệu định lượng trong cả cấu thành tội
phạm cơ bản và cấu thành tội phạm định khung tăng nặng. Điểm đáng chú ý
là trong 15 điều luật thì có:
- 2 điều luật quy định về các tội xâm phạm sức khỏe con người, có dấu
hiệu định lượng xác định mức độ tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân thông
qua tỷ lệ thương tật, đó là các tội Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khoẻ của người khác (Điều 104) và Tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh (Điều 105);
- 6 điều luật quy định về các tội xâm phạm sở hữu có dấu hiệu định
lượng xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt, đó là các Tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản (Điều 137), Tội trộm cắp tài sản (Điều 138), Tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản (Điều 139), Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140);
Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 141) và Tội tham ô tài sản (Điều 278);
- 3 điều luật quy định về các tội xâm phạm sở hữu có dấu hiệu định
lượng xác định giá trị tài sản bị hủy hoại, làm hư hỏng, mất mát, lãng phí, đó
là các Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143); Tội thiếu trách
nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều 144) và Tội
vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 145);
- 4 điều luật quy định về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có
dấu hiệu định lượng xác định giá trị hàng hóa với tư cách hàng phạm pháp
trong hoạt động kinh doanh,buôn bán, đó là các Tội buôn lậu (Điều 153); Tội
30
vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới (Điều 154); Tội sản xuất,
buôn bán hàng giả (Điều 156) và Tội kinh doanh trái phép (Điều 159);
- 3 điều luật quy định về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có dấu
hiệu định lượng xác định giá trị tiền Nhà nước bị thiệt hại, đó là các Tội trốn
thuế (Điều 161); Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế
gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165) và Tội lập quỹ trái phép (Điều 166);
- 1 điều luật quy định về các tội xâm phạm trật tự công cộng có dấu
hiệu định lượng xác định bằng giá trị tiền hoặc giá trị vật phạm pháp, đó là
Tội đánh bạc (Điều 248);
- 6 điều luật quy định về các tội phạm về chức vụ xâm phạm hoạt động
đúng đắn của cơ quan, tổ chức dấu hiệu định lượng xác định giá trị phương
tiện phạm tội (tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức
nào), đó là các Tội nhận hối lộ (Điều 279); Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản (Điều 280); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh
hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283); Tội đưa hối lộ (Điều 289);
Tội làm môi giới hối lộ (Điều 290) và Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người
có chức vụ quyền hạn để trục lợi (Điều 291).
Như vậy, nếu so sánh với 281 điều luật quy định về các cấu thành tội
phạm cụ thể trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999 thì chỉ có 50
điều luật quy định có dấu hiệu định lượng (chiếm 17,79%). Điều này cho thấy
trong Bộ luật hình sự 1999, số lượng các cấu thành tội phạm có dấu hiệu định
tính chiếm đa số (82,21%). Cho nên, trong trường hợp không có hướng dẫn
áp dụng pháp luật của Cơ quan tư pháp có thẩm quyền thì rất dễ dẫn đến suy
luận chủ quan, phiến diện một chiều trong việc điều tra, xử lý, cũng như dễ
dẫn đến bỏ lọt tội đối với những tội phạm có dấu hiệu định tính.
1.3.2. Dấu hiệu định lượng về nội dung được thể hiện trong các quy
định tại các cấu thành tội phạm cụ thể Bộ luật hình sự năm 1999
Trong 50 điều luật quy định dấu hiệu định lượng thuộc Phần các tội
phạm Bộ luật hình sự năm 1999 cho thấy:
31
 Có 21 điều luật quy định dấu hiệu định lượng phản ánh hậu quả của
tội phạm dưới dạng thiệt hại về tính mạng, sức khỏe thể hiện hành vi phạm tội
làm chết người hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương
tật theo tỷ lệ phần trăm trong giới hạn nhất định, trong đó:
- 5 điều luật quy định về các tội xâm phạm tính mạng con người mà
dấu hiệu định lượng được xác định trong cấu thành tội phạm là hậu quả làm
chết người. Đó là các tội giết con mới đẻ (Điều 94); Tội làm chết người trong
khi thi hành công vụ (Điều 97); Tội vô ý làm chết người (Điều 98); Tội vô ý
làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính
(Điều 99); Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến
tính mạng (Điều 102).
- 16 điều luật quy định về các tội xâm phạm sức khỏe con người mà
dấu hiệu định lượng được xác định trong cấu thành tội phạm là gây tổn hại
cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật được tính từ 11% đến 30%; từ
31% đến 60% và từ 60% trở lên. Đó là các Tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 104), Tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh (Điều 105), Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều
106), Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong
khi thi hành công vụ (Điều 107), Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác (Điều 108), Tội vô ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc
quy tắc hành chính (Điều 109), Tội hiếp dâm (Điều 1110, Tội hiếp dâm trẻ
em (Điều 112), Tội cưỡng dâm (Điều 113), Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114)
và Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115), Tội cướp tài sản (Điều 133), Tội bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134), Tội cướp giật tài sản (Điều 136), Tội
32
tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 197), và Tội cưỡng bức, lôi kéo
người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 200).
Điểm đáng chú ý ở các điều luật này quy định dấu hiệu định lượng của
các tội phạm này thể hiện ở chỗ, đối với các tội xâm phạm sức khỏe con
người, khách thể trực tiếp mà quyền được bảo vệ về sức khỏe bị xâm phạm
gây nên tổn hại về sức khỏe với tỷ lệ phần trăm nhất định (như Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 104), Tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105); Tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng (Điều 106) v.v.... Tuy nhiên, đối với các tội xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, xâm phạm sở hữu (như Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114) và Tội giao
cấu với trẻ em (Điều 115); Tội cướp tài sản (Điều 133), Tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản (Điều 134), Tội cướp giật tài sản (Điều 136) v.v...), khách
thể trực tiếp của các tội phạm này ngoài nhân phẩm, danh dự, sở hữu tài sản,
nên trong cấu thành tội phạm cơ bản không có quy định về dấu hiệu định
lượng. Dấu hiệu định lượng liên quan đến thiệt hại về sức khỏe chỉ được quy
định tại cấu thành tội phạm tăng nặng khi gây thiệt hại về sức khỏe con người
vì người phạm tội đã có hành vi dùng vũ lực với nạn nhân.
Ví dụ, Điều 133 Bộ luật hình sự quy định về Tội cướp tài sản với nội
dung: Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành
vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự
được thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm khi gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;
bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm khi Gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; bị
phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình khi
33
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ
thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người.
 Có 4 điều luật quy định dấu hiệu định lượng phản ánh hậu quả của tội
phạm dưới dạng thiệt hại về vật chất (tài sản bị phá hủy, bị hủy hoại, bị hư
hỏng, bị thiệt hại) với những tình tiết thể hiện giá trị thiệt hại về vật chất đối
với tài sản từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; từ 50 triệu đồng đến dưới
200 triệu đồng; từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng và từ 500 triệu
đồng trở lên, trong đó:
- 3 điều luật quy định về các tội xâm phạm xâm phạm sở hữu mà dấu
hiệu định lượng được xác định trong cấu thành tội phạm là gây thiệt hại về vật
chất (tài sản bị phá hủy, bị hủy hoại, bị hư hỏng). Đó là các Tội hủy hoại hoặc
cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143); Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều 144) và Tội vô ý gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản (Điều 145);
- 1 điều luật quy định về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế gây
thiệt hại từ 100 triệu đến dưới 300 triệu; gây thiệt hại từ ba trăm triệu đồng
đến dưới một tỷ đồng; và gây thiệt hại từ một tỷ đồng trở lên. Đó là Tội cố
ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm
trọng (Điều 165).
 Có 14 điều luật quy định dấu hiệu định lượng phản ánh giá trị tài sản
bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ, bị sử dụng trái phép với các mức độ khác nhau từ
2 triệu đồng, hoặc từ 4 triệu đồng, hoặc từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu
đồng; từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; từ 200 triệu đồng đến dưới
500 triệu đồng và từ 500 triệu đồng trở lên, trong đó:
- 4 điều luật quy định dấu hiệu định lượng phản ánh giá trị tài sản bị
chiếm đoạt từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; từ 50 triệu đồng đến dưới
200 triệu đồng; từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng và từ 500 triệu
34
đồng trở lên. Đó là các Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137), Tội
trộm cắp tài sản (Điều 138), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139); Tội
tham ô tài sản (Điều 278);
- 1 điều luật quy định dấu hiệu định lượng phản ánh giá trị tài sản bị
chiếm đoạt từ 4 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; từ 50 triệu đồng đến dưới
200 triệu đồng; từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng và từ 500 triệu
đồng trở lên. Đó là các Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140);
- 6 điều luật quy định dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm định
khung tăng nặng phản ánh giá trị tài sản bị chiếm đoạt đến dưới 200 triệu đồng;
từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng và từ 500 triệu đồng trở lên. Đó là
các Tội cướp tài sản (Điều 133); Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều
134); Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 135), Tội cướp giật tài sản (Điều 136), Tội
sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 226b), Tội trốn thuế (Điều 161);
- 2 điều luật quy định dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm thể
hiện bằng tài sản bị chiếm giữ, bị sử dụng trái phép có giá trị từ 10 triệu đồng,
hoặc từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng. Đó là các Tội chiếm giữ trái
phép tài sản (Điều 141) và Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142);
- 1 điều luật quy định dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm thể
hiện bằng số tiền được lập bất hợp pháp từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu
đồng; từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng, từ 500 triệu đồng đến dưới 1
tỷ đồng và từ 1 tỷ đồng trở lên. Đó là Tội lập quỹ trái phép (Điều 166).
 Có 4 điều luật quy định dấu hiệu định lượng phản ánh bằng giá trị
hàng hóa phạm pháp từ 30 triệu đồng, hoặc từ 100 triệu đồng đến dưới 300
triệu đồng; từ 300 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng, và từ 500 triệu đồng trở
lên. Đó là các Tội buôn lậu (Điều 153), Tội vận chuyển trái phép hàng hoá,
tiền tệ qua biên giới (Điều 154), Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156),
Tội kinh doanh trái phép (Điều 159).
35
 Có 3 điều luật quy định dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm
định khung tăng nặng được phản ánh bằng trọng lượng các chất ma túy. Đó là
các Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 193), Tội tàng trữ, vận chuyển
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194), Tội tàng trữ, vận
chuyển mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất
trái phép chất ma túy (Điều 195). Điểm đáng chú ý của dấu hiệu định lượng
trong các tội này tùy thuộc vào từng loại ma túy khác nhau. Ví dụ:
- Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca có trọng lượng từ năm
trăm gam đến dưới một kilôgam, hoặc có trọng lượng từ một kilôgam đến
dưới năm kilôgam, hoặc có trọng lượng từ năm kilôgam trở lên;
- Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi
gam, hoặc từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam, hoặc có trọng lượng từ
một trăm gam trở lên;
- Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ hai mươi gam đến
dưới một trăm gam; hoặc có trọng lượng từ một trăm gam đến dưới ba trăm
gam; hoặc có trọng lượng từ ba trăm gam trở lên;
- Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ một trăm mililít đến dưới hai trăm
năm mươi mililít; hoặc từ hai trăm năm mươi mililít đến dưới bảy trăm năm
mươi mililít; hoặc từ bảy trăm năm mươi mililít trở lên.
 Có 6 điều luật quy định dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm
cơ bản và cấu thành tội phạm định khung tăng nặng thể hiện giá trị của
phương tiện phạm tội (tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình
thức nào có giá trị từ 2 triệu đồng đến dưới 5 triệu đồng, hoặc mười triệu
đồng; từ 5 triệu đồng, hoặc từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; từ 50
triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng, hoặc dưới 300 triệu đồng; hoặc từ ba trăm
triệu đồng trở lên). Đó là các Tội nhận hối lộ (Điều 279); Tội lạm dụng chức
vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn
36
gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283); Tội đưa hối lộ
(Điều 289); Tội làm môi giới hối lộ (Điều 290) và Tội lợi dụng ảnh hưởng đối
với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi (Điều 291).
Như vậy, dấu hiệu định lượng về nội dung được thể hiện trong các quy
định tại các cấu thành tội phạm cụ thể Bộ luật hình sự năm 1999 được thể hiện:
- Dưới các dạng thiệt hại về thể chất (làm chết người) hoặc theo các tỷ
lệ phần trăm mức độ thương tật được tính từ 11% đến 30%; từ 31% đến 60%
và từ 60% trở lên;
- Giá trị thiệt hại về vật chất đối với tài sản từ 2 triệu đồng đến dưới 50
triệu đồng; từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; từ 200 triệu đồng đến
dưới 500 triệu đồng và từ 500 triệu đồng trở lên;
- Giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ, bị sử dụng trái phép với
các mức độ khác nhau từ 2 triệu đồng, hoặc từ 4 triệu đồng, hoặc từ 10 triệu
đồng đến dưới 50 triệu đồng; từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; từ 200
triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng và từ 500 triệu đồng trở lên;
- Giá trị hàng hóa phạm pháp từ 30 triệu đồng, hoặc từ 100 triệu đồng
đến dưới 300 triệu đồng; từ 300 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng, và từ 500
triệu đồng trở lên;
- Trong lượng, thể tích của các chất ma túy thùy thuộc vào đặc điểm
của từng loại ma túy ở dạng nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca;
hêrôin hoặc côcain; các chất ma tuý khác ở thể rắn hoặc các chất ma tuý khác
ở thể lỏng;
- Giá trị của phương tiện phạm tội từ 2 triệu đồng đến dưới 5 triệu
đồng, hoặc mười triệu đồng; từ 5 triệu đồng, hoặc từ 10 triệu đồng đến dưới
50 triệu đồng; từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng, hoặc dưới 300 triệu
đồng; hoặc từ ba trăm triệu đồng trở lên.
37
Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG DẤU HIỆU ĐỊNH LƯỢNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU THỰC TIỄN
ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG) VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
2.1. Thực tiễn áp dụng dấu hiệu định lượng trong luật hình sự (trên
cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông)
2.1.1. Sơ lược về tình hình địa chính trị, kinh tế, xã hội tỉnh Đắk Nông
Đắk Nông là tỉnh mới được thành lập từ 01/01/2004 trên cơ sở tách từ 6
huyện phía Nam của tỉnh Đắk Lắk, có diện tích tự nhiên 651.000 ha, dân số
400.000 người với 31 dân tộc anh em sinh sống; Phía Bắc giáp tỉnh Đắk Lắk,
phía Đông giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Tây giáp tỉnh Munđunkiri của nước bạn
Campuchia, phía Nam giáp tỉnh Bình Phước. Là tỉnh miền núi có độ cao
khoảng 600 - 700 m, có nơi lên đến 1.970 m so với mực nước biển. Khí hậu ở
Đắk Nông luôn ôn hoà, nhiệt độ từ 22 - 24o
C, trong năm có hai mùa mưa –
nắng rõ rệt.
Tỉnh Đắk Nông có nguồn tài nguyên rừng phong phú với trữ lượng gỗ
lớn, nhiều loài cây cho giá trị kinh tế cao như hương, sao…, có hệ thống sông
suối lớn như suối Đắk Nông, Đắk R,
Tik, sông Đồng Nai, sông Sêrêpôk…,
nhiều thác nước như thác Gia Long, Đray Sáp, Đray Nu, Diệu Thanh…và
thắng cảnh đẹp tạo nên một hệ thống tài nguyên vô giá cho phát triển thuỷ
điện và du lịch văn hoá sinh thái. Đắk Nông được đánh giá là nơi có mỏ
quặng Bôxit lớn nhất Đông Nam Á (trữ lượng khai thác khoảng 5 tỷ tấn) nằm
cách trung tâm thị trấn Gia Nghĩa 20km về phía đông bắc; mỏ đá quý Safia
(Đắk Rung - Đắk Song - Đắk Nông), mỏ vàng với trữ lượng có khả năng khai
thác lâu dài, tạo cho ngành công nghiệp năng lượng và khai khoáng của tỉnh
một lợi thế thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Mặc dù mới chia tách
tỉnh, nhưng ngành công nghiệp của tỉnh sớm được hình thành trên cơ sở khu
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Chế định đồng phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam.doc
Chế định đồng phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam.docChế định đồng phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam.doc
Chế định đồng phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam.doc
 
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
 
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HAY
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HAYTrả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HAY
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HAY
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAYĐề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOTLuận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAYLuận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
 
Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAYĐề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAYLuận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
 
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAYLuận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi, 9đLuận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi, 9đ
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
 

Similar to Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT

Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT (20)

Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAYĐề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
 
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HOTLuận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAYLuận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hayLuan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOTĐề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Luận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạmLuận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Luận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư phápLuận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
 
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (19)

Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN GIANG DÊU HIÖU §ÞNH L¦îNG TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn trªn ®Þa bµn tØnh §¾k N«ng) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VĂN GIANG DÊU HIÖU §ÞNH L¦îNG TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn trªn ®Þa bµn tØnh §¾k N«ng) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. ĐỖ NGỌC QUANG HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu thống kê, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính thực tiễn, chính xác, trung thực và tin cậy. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác, tôi đã hoàn thành tất cả các môn học theo chương trình và thực hiện tất cả các nghĩa vụ về tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại Học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Tác giả luận văn Nguyễn Văn Giang
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU.......................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DẤU HIỆU ĐỊNH LƯỢNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM...........................6 1.1. Khái niệm, phân loại dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam......................................................................................6 1.1.1. Khái niệm dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự............................6 1.1.2. Phân biệt dấu hiệu định lượng và dấu hiệu định tính trong Luật hình sự.............................................................................................11 1.1.3. Phân loại dấu hiệu định lượng trong luật hình sự .............................14 1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Luật hình sự Việt Nam về dấu hiệu định lượng ......................................................... 19 1.2.1. Giai đoạn 1945 đến 1985................................................................. 19 1.2.2. Giai đoạn 1985 đến 1999................................................................. 21 1.3. Quy định của Bộ luật hình sự 1999 về dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm cụ thể Phần các tội phạm. ..................27 1.3.1. Dấu hiệu định lượng về hình thức được thể hiện trong các quy định tại các cấu thành tội phạm cụ thể Bộ luật hình sự năm 1999........27 1.3.2. Dấu hiệu định lượng về nội dung được thể hiện trong các quy định tại các cấu thành tội phạm cụ thể Bộ luật hình sự năm 1999........30
  • 5. Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG DẤU HIỆU ĐỊNH LƯỢNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG) VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT...........................................................................37 2.1. Thực tiễn áp dụng dấu hiệu định lượng trong luật hình sự (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông).................... 37 2.1.1. Sơ lược về tình hình địa chính trị, kinh tế, xã hội tỉnh Đắk Nông.......... 37 2.1.2. Những kết quả đạt và những tồn tại, vướng mắc trong áp dụng dấu hiệu định lượng trong luật hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Nông giai đoạn từ 2010 đến 2014 .................................................... 39 2.1.3. Nguyên nhân gây nên những tồn tại vướng mắc trong việc áp dụng dấu hiệu định lượng trong luật hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Nông ........................................................................................51 2.2. Những kiến nghị đề xuất nâng cao hiệu quả áp dụng dấu hiệu định lượng trong luật hình sự ............................................... 56 2.2.1. Quan điểm của Đảng và nhà nước trong hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về các tội phạm cụ thể có liên quan đến dấu hiệu định lượng................................................................................56 2.2.2. Kiến nghị, đề xuất hoàn thiện pháp luật hình sự về dấu hiệu định lượng trong một số cấu thành tội phạm cụ thể..........................59 2.2.3. Các kiến nghị đề xuất khác liên quan đến áp dụng dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm........................................................................................... 63 KẾT LUẬN................................................................................................. 68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................71
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Tình hình xét xử các vụ án hình sự tại các cấp tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông 40 Bảng 2.2. Tình hình xét xử các vụ án hình sự có dấu hiệu định lượng tại các cấp tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông từ năm 2010 đến 2014 45
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự (VAHS), các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử phải định tội danh căn cứ vào các yếu tố cấu thành tội phạm để chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra nhằm xác định đúng tính chất của vụ án. Việc nhận thức chân lý khách quan của vụ án hình sự là một quá trình hết sức phức tạp được tạo bởi các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá các chứng cứ do các chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện phù hợp với các qui định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự. Vì vậy, để định đúng tội danh mà người phạm tội đã thực hiện cần căn cứ vào các dấu hiệu của cấu thành tội phạm, trong đó có dấu hiệu định tính và dấu hiệu định lượng trong mặt khách quan của tội phạm, tùy thuộc vào từng cấu thành tội phạm cụ thể mà Bộ luật hình sự quy định. Do “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa” mà hành vi phạm tội có thể xảy ra trong các lĩnh vực khác nhau của
  • 8. 2 đời sống xã hội. Tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng hành vi phạm tội xâm phạm vào các nhóm quan hệ xã hội khác nhau được pháp luật hình sự bảo vệ mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm xâm phạm ở từng lĩnh vực cụ thể. Để tránh những sai lầm trong việc xử lý hành vi nguy hiểm cho xã hội, Bộ luật hình sự có quy định dấu hiệu định lượng để phân biệt hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức nào thì phải bị xử lý về hình sự hoặc đến mức nào thì phải bị xử lý về hành chính. Đây là vấn đề mấu chốt rất quan trọng để phân biệt hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm và hành vi nguy hiểm cho xã hội không phải là tội phạm. Trên cơ sở đó đưa ra các chế tài xử lý phù hợp với từng hành vi nguy hiểm cho xã hội. Vấn đề dấu hiệu định lượng trong luật hình sự Việt Nam đã được đề cập khi xây dựng Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, quá trình áp dụng Bộ luật hình sự 1985 đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết trong việc quy định dấu hiệu định lượng nên đã dẫn đến sự tùy tiện trong việc định tội danh tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Bộ luật hình sự năm 1999 thay thế Bộ luật hình sự năm 1985 đã khắc phục tình trạng này bằng cách quy định rõ hơn những dấu hiệu định lượng trong từng nhóm tội phạm cụ thể. Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn áp dụng qui định của pháp luật hình sự vào quá trình chứng minh vụ án hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng rất ít được quan tâm nghiên cứu. Bên cạnh đó, Bộ luật hình sự 1999 qui định về vấn đề này ở một chừng mực nào đó còn chưa cụ thể, chặt chẽ và đang phát sinh nhiều bất cập do sự thay đổi của tình hình kinh tế, xã hội đất nước. Mặt khác, trong khoa học luật hình sự còn không ít vấn đề về dấu hiệu định lượng còn chưa thống nhất về cách hiểu, thậm chí có những quan điểm trái ngược nhau.Trong thực tiễn hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm đang diễn ra hết sức phức tạp, thủ đoạn gây án và che giấu tội phạm của
  • 9. 3 kẻ phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn thì cần quy định một cách rất cụ thể về dấu hiệu định lượng trong từng tội phạm vụ thể. Điều đó đặt ra yêu cầu cần tiếp tục nghiên cứu về dấu hiệu định lượng để góp phần hoàn thiện Bộ luật hình sự bổ sung, sửa đổi thời gian tới đây. Trước yêu cầu này, tác giả lựa chọn đề tài: “Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Nông)” viết luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Cho đến nay đã có một số rất ít công trình công bố về kết quả nghiên cứu liên quan đến dấu hiệu trong luật hình sự. Cụ thể: Luận văn thạc sĩ luật học năm 2004: “Vai trò của Yếu tố định lượng tài sản trong việc phân biệt tội phạm với hành vi không phải là tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam”của tác giả Nghiêm Xuân Cường; Bài viết: “Vấn đề định lượng tài sản bị chiếm đoạt trong Bộ luật hình sự năm 1999” của tác giả Lê Thúy Phượng đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 3/1999; Bài viết: Có cần định giá tài sản theo Bộ luật hình sự mới hay không” của tác giả Hồ Oanh đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 8/2000; Bài viết: “Bàn về định lượng trong Bộ luật hình sự năm 1999” của TS. Đặng Anh đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 7/2002; Bài viết: “Dấu hiệu định lượng trong Bộ luật hình sự” của TS. Lê Thị Sơn đăng trên Tạp chí Luật học số 1/2005 v.v.... Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu và các bài viết trên chỉ thể hiện ở một phần, ở một khía cạnh nhất định trong nghiên cứu dấu hiệu định lượng trong luật hình sự theo từng chương của Bộ luật hình sự ở từng nhóm tội phạm mà chưa nghiên cứu toàn diện những vấn đề liên quan đến dấu hiệu định lượng khi định tội danh cũng như định lượng khi áp dụng tình tiết định khung tăng nặng và giảm nhẹ. Từ thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và nghiên cứu về mặt lý luận, thực tiễn dấu hiệu định lượng của tội phạm, đặt ra yêu cầu đòi hỏi phải nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống vấn đề lý luận và thực tiễn
  • 10. 4 của những quy định dấu hiệu định lượng trong luật hình sự. Đây là vấn đề hết sức cần thiết, nhằm không ngừng hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam, trên cơ sở đó tạo nền tảng cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án khắc phục thiếu sót nhằm xác định chính xác tội danh và bảo đảm xử lý công minh, công bằng, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay và tương lai. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu luận văn Mục đích của luận văn là làm quy định về dấu hiệu định lượng trong luật hình sự Việt Nam nhằm giúp cho việc định tội danh cũng như tính chất và mức độ phạm tội của từng tội phạm. Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu luận văn tập trung vào nghiên cứu cơ sở lý luận hình thành và của những quy định của luật thực định liên quan đến dấu hiệu định lượng trong luật hình sự; nghiên cứu thực trạng áp dụng những quy định về dấu hiệu định lượng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông; nghiên cứu làm rõ những tồn tại, vướng mắc trong áp dụng pháp luật hình sự và đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự về dấu hiệu định lượng khi định tội danh cũng như khi xem xét tính chất, mức độ phạm tội của những tội phạm có liên quan. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những dấu hiệu định lượng trong luật hình sự về những tội phạm cụ thể. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những quy định dấu hiệu định lượng trong phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999 trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông từ năm 2009 đến 2014. 5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê
  • 11. 5 Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và đấu tranh phòng, chống tội phạm. Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê xã hội học, điều tra… để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn này. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, có 2 chương: Chương 1. Những vấn đề chung về dấu hiệu định lượng trong luật hình sự Việt Nam. Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về dấu hiệu định lượng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông và các kiến nghị đề xuất.
  • 12. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DẤU HIỆU ĐỊNH LƯỢNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, phân loại dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Dấu hiệu, theo Từ điển Tiếng Việt, là cái định ra theo quy ước để nhận diện một một sự vật, hoặc một hiện tượng. Ví dụ, hành vi giơ tay làm dấu hiệu. Còn định lượng, cũng theo Từ điển này, là số lượng cụ thể. Ví dụ, khẩu đội pháo cao xạ có 5 người, mỗi người làm một nhiệm vụ khác nhau liên quan đến hoạt động của khẩu pháo, nếu thiếu một người thì không thể là khẩu đội pháo. Như vậy, dấu hiệu định lượng được hiểu là dấu hiệu xác định số lượng hình thành một sự vật, một hiện tượng trong xã hội Khác với những sự vật, hiện tượng trong xã hội, tội phạm tuy là một hiện tượng xã hội, nhưng để xác định tội phạm phải dựa vào tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Tính nguy hiểm cho xã hội thể hiện ở chỗ nó ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Để xác định hành vi nào đó do con người thực hiện có phải là tội phạm hay không phải dựa vào cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý thống nhất để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội. Nhắc đến cấu thành tội phạm là đề cập đến các yếu tố bắt buộc cấu thành nên tội phạm đó cũng như các dấu hiệu của mỗi yếu tố đó. Phụ thuộc vào mỗi chế độ, nhà nước khác nhau và phụ thuộc vào chính sách hình sự của nhà nước đó mà quy định trong pháp luật hình sự những yếu tố nào là các yếu tố cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm là những yếu tố đặc trưng của các loại tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự. Chỉ khi nào có đầy đủ các dấu hiệu bắt buột này thì hành vi vi phạm pháp luật
  • 13. 7 mới được coi là hành vi phạm tội. Những dấu hiệu bắt buộc bao gồm: khách thể, chủ thể, mặt chủ quan, mặt khách quan của tội phạm.  Khách thể của tội phạm là hệ thống các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại như: “độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.  Chủ thể của tội phạm là một cá nhân (con người cụ thể) có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình và có độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 12 của BLHS 1999 quy định: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.  Mặt chủ quan của tội phạm là biểu hiện bên trong ý thức của người thực hiện hành vi phạm tội thông qua ba yếu tố: lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. Do tội phạm là sự thống nhất giữa hai mặt khách quan và chủ quan. Vì vậy, Luật hình sự Việt nam không chấp nhận việc quy tội khách quan, nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ căn cứ vào những biểu hiện của hành vi nguy hiểm cho xã hội không kể hành vi đó bắt nguồn từ đâu, diễn biến tâm lý của người thực hiện hành vi ra sao. Hoạt động định tội phải là sự kết hợp giữa mặt khách quan và chủ quan, giữa hành vi biểu hiện và thái độ bên trong của người thực hiện hành vi. Xem xét mặt chủ quan của tội phạm biểu hiện thông qua ba yếu tố: lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. Mỗi yếu tố có ý nghĩa khác nhau trong việc chủ thể thực hiện hành vi phạm tội.
  • 14. 8 Lỗi là biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Một hành vi của bị xem là có lỗi khi hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan để lựa chọn và thực hiện những xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Lỗi cố ý là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra; hoặc trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Lỗi vô ý là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; hoặc trường hợp người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Mục đích phạm tội là kết quả cuối cùng mà người phạm tội muốn đạt được khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nó xác định khuynh hướng ý chí và khuynh hướng hành động của người phạm tội. Còn động cơ phạm tội là động lực thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội  Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm bao gồm những dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi nguy hiểm gây nên; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các dấu hiệu bên ngoài khác. Hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mặt khách quan của tội phạm là tất cả những xử sự của con người được biểu hiện ra thế giới khách quan dưới những hình thức nhất định (hành động hoặc không hành động) gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Để
  • 15. 9 trở thành hành vi khách quan của tội phạm thì hành vi đó phải có tính nguy hiểm cho xã hội; thể hiện bằng hành động hoặc không hành động; được quy định trong luật hình sự; gây nên hậu quả nguy hiểm cho xã hội bằng những thiệt hại nhất định (cho nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân) do hành vi phạm tội gây ra cho các quan hệ xã hội luật hình sự bảo vệ. Hậu quả thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: hậu quả vật chất là những thiệt hại mà con người trực tiếp hoặc thông qua các phương tiện kỹ thuật có thể xác định được một cách chính xác mức độ của nó (ví dụ, thiệt hại về vật chất thường được thể hiện thông qua sự biến đổi tình trạng bình thường của các đối tượng vật chất như tài sản bị phá huỷ, bị chiếm giữ, bị sử dụng trái phép; thiệt hại về thể chất biểu hiện qua sự biến đổi tình trạng bình thường của thực thể tự nhiên con người như tính mạng, sức khỏe v.v...); hậu quả phi vật chất là những thiệt hại không thể tính toán một cách chính xác bằng các phương tiện đo lường. Sự thiệt hại này chỉ được đánh giá thông qua hoạt động tư duy của con người. Thiệt hại loại này có thể kể đến như danh dự, nhân phẩm, quyền tự do của con người, chính trị, xã hội, đạo đức…. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm là mối quan hệ giữa các hiện tượng trong đó một hiện tượng được gọi là nguyên nhân (là hành vi khách quan) làm phát sinh một hiện tượng khác là kết quả (là hậu quả của tội phạm). Dùng để chỉ hành vi khách quan đóng vai trò là nguyên nhân, hậu quả nguy hiểm cho xã hội đóng vai trò là hậu quả. Để xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chúng ta cần dựa vào các cơ sở có tính nguyên tắc sau: hành vi được coi là nguyên nhân phải là hành vi trái pháp luật hình sự và xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian. Nguyên nhân và hậu quả phải có mối quan hệ nội tại và tất yếu. Một nguyên nhân bao giờ cũng chứa đựng mầm mống nội tại nhằm phát sinh kết quả nhất định. Bên cạnh các mặt biểu hiện đã nêu, mặt khách quan của tội phạm còn
  • 16. 10 được biểu hiện qua các nội dung khác như phương pháp, phương tiện, công cụ phạm tội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội… Phương tiện phạm tội như phương tiện giao thông, thông tin liên lạc, tiền… Công cụ phạm tội như gậy gộc, súng, chất độc… là những đối tượng được chủ thể sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Phương tiện phạm tội trong một số trường hợp là dấu hiệu định tội và định khung hình phạt. Mỗi tội phạm cụ thể bao giờ cũng có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm bao gồm khách thể, chủ thể, mặt chủ quan, mặt khách quan như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, trong các yếu tố cấu thành tội phạm thì khi xác định tính nguy hiểm của tội phạm thường được các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét trước tiên là các dấu hiệu trong mặt khách quan của tội phạm. Tùy thuộc vào từng tội phạm cụ thể mà hành vi nguy hiểm cho xã hội, có thể thể hiện bằng hậu quả của tội phạm gây ra cho xã hội. Chính những dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu định tội như đã trình bày ở trên. Hậu quả có thể là vật chất được thể hiện thông qua sự biến đổi tình trạng bình thường của các đối tượng vật chất như tài sản bị phá huỷ, bị chiếm giữ, bị sử dụng trái phép; thiệt hại về thể chất biểu hiện qua sự biến đổi tình trạng bình thường của thực thể tự nhiên con người như tính mạng, sức khỏe v.v...); hoặc hậu quả có thể là phi vật chất thể hiện ở những những thiệt hại không thể tính toán một cách chính xác bằng các phương tiện đo lường mà chỉ được đánh giá thông qua hoạt động tư duy của con người như danh dự, nhân phẩm, quyền tự do của con người, chính trị, xã hội, đạo đức…. Trong các loại hậu quả về vật chất được quy định trong mặt khách quan của tội phạm thì những hậu quả được quy định trong cấu thành cơ bản của tội phạm được thể hiện ra bên ngoài có thể cân, đong, đo đếm được thì được coi là dấu hiệu định lượng. Đây chính là những dấu hiệu đặc trưng của từng tội dưới hình thức cấu thành tội phạm. Ví dụ mức độ thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị hư
  • 17. 11 hỏng, bị thiệt hại v.v.... Ngoài ra, hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mặt khách quan của tội phạm còn được thể hiện ở những đối tượng phạm tội. Ví dụ giá trị hàng hóa, kim khí quá, đá quý; trong lượng của những vật chất bị cấm sản xuất, mua bán vận chuyển, tàng trữ v.v... Căn cứ vào những dấu hiệu này mà định tội danh của từng tội phạm cụ thể hoặc định khung hình phạt tăng nặng đối với người phạm tội. Như vậy, dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự là một trong những dấu hiệu thể hiện tại mặt khách quan của tội phạm mà căn cứ vào đó để định tội danh của từng cấu thành tội phạm cơ bản, hoặc định khung tăng nặng hình phạt của từng cấu thành tội phạm tăng nặng. 1.1.2. Phân biệt dấu hiệu định lượng và dấu hiệu định tính trong Luật hình sự Như phần trên đã trình bày, Luật hình sự quy định tội phạm cụ thể tại Phần các tội phạm Bộ luật hình sự thông qua phần quy định của quy phạm pháp luật hình sự. Khoa học luật hình sự xác định quy phạm pháp luật hình sự đối với mỗi tội phạm cụ thể được chia làm 3 phần: phần giả định (người nào); phần quy định (mô tả các dấu hiệu có tính đặc trưng của tưng tội dưới hình thức của cấu thành tội phạm) và phần chế tài (quy định loại và mức hình phạt cần áp dụng đối với người nào thỏa mãn nhưng dấu hiệu của cấu thành tội phạm). Khoa học luật hình sự xác định có 3 loại quy định trong quy phạm pháp luật hình sự phần các tội phạm cụ thể. Đó là “quy định tóm tắt”, “quy định viện dẫn” và “quy định mô tả”. “Quy định tóm tắt” là quy định ngắn gọn, không mô tả những dấu hiệu trong mặt khách quan của tội phạm. Ví dụ: Điều 138 Bộ luật hình sự quy định về tội trộm cắp tài sản: Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
  • 18. 12 chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt...; hoặc Điều 93 Bộ luật hình sự quy định: Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt.... Còn thế nào là trộm cắp tài sản, hoặc thế nào là giết người thì cần có sự hướng dẫn của những văn bản quy phạm pháp luật khác. “Quy định viễn dẫn” là quy định tội phạm thông qua một quy phạm pháp luật khác, hay nói cách khác, để hiểu quy phạm pháp luật của tội phạm này phải thông qua một quy phạm pháp luật của một tội phạm khác. Ví dụ, Điều 289 Bộ luật hình sự quy định về tội đưa hối lộ: Người nào đưa hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần, thì bị phạt.... Tuy nhiên, để hiểu thế nào là đưa hội lộ phải thông qua quy phạm pháp luật hình sự về tội nhận hội lộ. Bộ luật hình sự quy định về tội nhận hối lộ: Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt.... Từ quy định này có thể hiểu về tội đưa hối lộ là: Người nào trực tiếp hoặc qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây để yêu cầu người có chức vụ làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của mình, thì bị phạt.... “Quy định mô tả” là quy định nêu một cách cụ thể về các dấu hiệu mặt khách quan của tội phạm. Ví dụ, Điều 133 Bộ luật hình sự quy định về tội cướp tài sản: Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc
  • 19. 13 có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt...; hoặc Điều 135 Bộ luật hình sự quy định về tội cưỡng đoạt tài sản: Người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt.... Tuy nhiên, trong các quy phạm pháp luật hình sự phần các tội phạm cụ thể có những quy định mô tả thì cũng có sự khấc nhau về sự mô tả của các tội phạm. Việc mô tả các dấu hiệu của tội phạm trong cấu thành tội phạm có thể là sự mô tả về dấu hiệu định lượng và có thể là sự mô tả về dấu hiệu định tính. Như phần trên đã trình bày, dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự là một trong những dấu hiệu thể hiện tại mặt khách quan của tội phạm mà căn cứ vào đó để định tội danh của từng cấu thành tội phạm cơ bản, hoặc định khung tăng nặng hình phạt của từng cấu thành tội phạm tăng nặng. Như vậy, quy định mô tả theo dấu hiệu định lượng là rất cụ thể, có thể xác định được ngay thông qua hậu quả do tội phạm gây nên cho xã hội; hoặc thông qua giá trị tài sản bị tội phạm tác động; hoặc thông qua đối tượng của tội phạm. Còn quy định của quy phạm pháp luật với mô tả về dấu hiệu định tính trong cấu thành tội phạm cụ thể thường rất trừu tượng, mà để hiểu rõ nội dung về sự mô tả này cần có sự hướng dẫn hoặc giải thích pháp luật mới có thể vận dụng được thống nhất trong các cơ quan tư pháp. Ví dụ, Điều 285 Bộ luật hình sự quy định về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng: “Người nào vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao gây hậu quả nghiêm trọng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 144, 235 và 301 của Bộ luật này, thì bị phạt...”. Như vậy, hiểu như thế nào là hậu quả nghiêm trọng là vấn đề rất trừu tượng mà để hiểu nội hàm của hậu quả nghiêm trọng trong tội phạm này cần có hướng dẫn của Nghị quyết Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì tòa án các cấp mới có thể áp dụng để xét xử tội phạm này một cách thống nhất.
  • 20. 14 Như vậy, điểm giống nhau của dấu hiệu định lượng và dấu hiệu định tính trong cấu thành tội phạm cụ thể của Luật hình sự là những dấu hiệu thể hiện tại mặt khách quan của tội phạm, mà căn cứ vào đó để định tội danh của từng cấu thành tội phạm cơ bản, hoặc định khung tăng nặng hình phạt của từng cấu thành tội phạm tăng nặng. Tuy nhiên, điểm khác nhau cơ bản của dấu hiệu định lượng và dấu hiệu định tính trong cấu thành tội phạm cụ thể của Luật hình sự chính là tính cụ thể và tính trừu tượng của dấu hiệu này. Đối với những dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm cụ thể của Bộ luật hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể dựa vào những dấu hiệu này để có thể định ngay được tội danh. Ngược lại, đối với những dấu hiệu định tính trong cấu thành tội phạm cụ thể của Bộ luật hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng không thể dựa vào những dấu hiệu này để có thể định ngay được tội danh, mà phải có sự hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự của cơ quan tư pháp có thẩm quyền. Với những hạn chế của dấu hiệu định tính trong cấu thành tội phạm cụ thể như đã nêu trên, xu hướng chung của việc xây dựng cấu thành tội phạm là cố gắng hạn chế sự mô tả trừu tượng (định tính), tăng cường sự mô tả theo dấu hiệu định lượng. Từ đó việc áp dụng pháp luật hình sự mới được cụ thể, rõ ràng, tránh những nhận định chủ quan của những người tiến hành tố tụng. 1.1.3. Phân loại dấu hiệu định lượng trong luật hình sự Trong Bộ luật hình sự năm 1999, dấu hiệu định lượng không phải được quy định trong tất cả các chương, hoặc không phải được quy định trong tất cả các tội phạm cụ thể. Do vậy, có hai cách phân loại dấu hiệu định lượng trong luật hình sự như sau: dấu hiệu định lượng về hình thức và dấu hiệu định lượng về nội dung trong cấu thành tội phạm cụ thể.  Dấu hiệu định lượng về hình thức trong cấu thành tội phạm cụ thể được thể hiện ở những cấu thành tội phạm cơ bản và cấu thành tội phạm định khung tăng nặng. Đối với dấu hiệu định lượng này có thể chia làm 3 loại: Thứ nhất, dấu hiệu định lượng được quy định chỉ trong cấu thành tội
  • 21. 15 phạm cơ bản mà không được quy định trong cấu thành tội phạm tăng nặng. Ví dụ, Tội giết con mới đẻ (Điều 94) quy định: “Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ đó dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. Dấu hiệu định lượng trong tội danh này thể hiện ở chỗ: hậu quả đứa trẻ chết. Trong tội danh này không có cấu thành tội phạm định khung tăng nặng. Hoặc ví dụ Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 102). Tại khoản 1 của điều luật này quy định: “Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. Dấu hiệu định lượng trong tội danh này là người không được cứu giúp chết. Tuy nhiên khoản 2 của cấu thành tội phạm định khung tăng nặng lại không quy định dấu hiệu định lượng mà chỉ quy định: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm: a) Người không cứu giúp là người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm;b) Người không cứu giúp là người mà theo pháp luật hay nghề nghiệp có nghĩa vụ phải cứu giúp. Thứ hai, dấu hiệu định lượng không được quy định trong cấu thành tội phạm cơ bản, nhưng lại được quy định trong cấu thành tội phạm tăng nặng. Ví dụ, Điều 111 Bộ luật hình sự quy định về tội hiếp dâm (khoản 1 là cấu thành tội phạm cơ bản không quy định dấu hiệu định lượng, nhưng khoản 2, khoản 3 là cấu thành tội phạm định khung tăng nặng lại có quy định dấu hiệu định lượng): 1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
  • 22. 16 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: h) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân: a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; Như vậy, dấu hiệu định lượng trong tội hiếp dâm thể hiện ở mức độ thương tích hoặc mức độ tổn hại về sức khỏe chỉ được quy định trong cấu thành tội phạm định khung tăng nặng (tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên). Thứ ba, dấu hiệu định lượng được quy định trong cả cấu thành tội phạm cơ bản và cấu thành tội phạm tăng nặng. Ví dụ, Điều 104 Bộ luật hình sự quy định Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (khoản 1 là cấu thành tội phạm cơ bản; khoản 2, khoản 3 và khoản 4 là cấu thành tội phạm định khung tăng nặng): 1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm: a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người; b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người; d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
  • 23. 17 đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; e) Có tổ chức; g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê; i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm; k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân. 2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. 4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân. Như vậy, dấu hiệu định lượng trong tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác thể hiện ở mức độ thương tích hoặc mức độ tổn hại về sức khỏe được quy định trong cả cấu thành tội phạm cơ bản và cấu thành tội phạm định khung tăng nặng (từ 11% đến 30% hoặc dưới 11%; từ 30% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%; từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%).  Phân loại về nội dung dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm cụ thể được thể hiện bằng hậu quả của tội phạm, giá trị của tài sản, giá trị của phương tiện phạm tội và trọng lượng của đối tượng tác động v.v... trong cấu thành tội phạm cụ thể thuộc mặt khách quan của tội phạm thể hiện:
  • 24. 18 Thứ nhất, dấu hiệu định lượng phản ánh hậu quả của tội phạm dưới dạng thiệt hại về thể chất (tính mạng, sức khỏe) với những tình tiết: làm chết người; tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật theo tỷ lệ phần trăm trong giới hạn nhất định. Ví dụ: Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 102 Bộ luật hình sự); Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 107 Bộ luật hình sự); Thứ hai, dấu hiệu định lượng phản ánh hậu quả của tội phạm dưới dạng thiệt hại về vật chất (tài sản bị phá hủy, bị hủy hoại, bị hư hỏng) với những tình tiết thể hiện giá trị của tài sản. Ví dụ, Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143 Bộ luật hình sự); Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165 Bộ luật hình sự); Thứ ba, dấu hiệu định lượng phản ánh giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ, bị sử dụng trái phép. Ví dụ, Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140 Bộ luật hình sự); Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 141 Bộ luật hình sự); Thứ tư, dấu hiệu định lượng phản ánh đối tượng tác động của tội phạm thể hiện bằng giá trị tài sản. Ví dụ, Tội buôn lậu (Điều 153 Bộ luật hình sự); Tội trốn thuế (Điều 161 Bộ luật hình sự); Thứ năm, dấu hiệu định lượng phản ánh đối tượng tác động của tội phạm thể hiện bằng trọng lượng của vật chất. Ví dụ, Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194 Bộ luật hình sự); Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 195 Bộ luật hình sự); Thứ sáu, dấu hiệu định lượng phản ánh giá trị của phương tiện phạm tội. Ví dụ, Tội nhận hối lộ (Điều 279 Bộ luật hình sự); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283 Bộ luật hình sự).
  • 25. 19 Như vậy, có nhiều cách phân loại dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm của các quy phạm pháp luật hình sự Phần các tội phạm của Luật hình sự. Việc phân loại này giúp cho việc nghiên cứu sâu những vấn đề liên quan đến dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự của Luận văn này. 1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Luật hình sự Việt Nam về dấu hiệu định lượng 1.2.1. Giai đoạn 1945 đến 1985 Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) thành công đã xóa bỏ xiềng xích chế độ thực dân gầm 100 năm của Thực dân Pháp và chế độ quân chủ phong kiến hàng chục thế kỷ lập lên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngay trong ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố với thế giới rằng, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa xóa bỏ hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam. Tuy nhiên, do yêu cầu khách quan của một nhà nước, một đất nước không thể thiếu pháp luật và không thể một thời gian ngắn nhà nước có thể ban hành đầy đủ pháp luật để điều hành đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 02 ngày 10/10/1945 quyết định “giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn quốc”, trong đó có các bộ luật hình sự, tố tụng hình sự. Trong tình hình đất nước vừa phải kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa phải kiến quốc quản lý đất nước, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã từng bước ban hành các văn bản pháp luật, trong đó có các văn bản pháp luật hình sự về từng loại tội phạm. Ngay trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành các sắc lệnh về hình sự như: Sắc lệnh số 06-SL ngày 15/1/1946 về truy tố những người ăn trộm, ăn cắp, tự ý pháp hủy, cắt dây điện thoại và điện tín; Sắc lệnh số 46-SL ngày 25/2/1946 về truy tố tội phá hủy công sản; Sắc lệnh số 27-SL ngày 28/2/1946
  • 26. 20 truy tố các tội bắt cóc, tổng tiền và ám sát; Sắc lệnh số 163-SL ngày 23/8/1946 về tổ chức tòa án binh lâm thời đặt tại Hà Nội, trong đó quy định tương đối chi tiết các tội phạm quân sự; Sắc lệnh số 223-SL ngày 17/11/1946 trừng trị các tội hối lộ; Sắc lệnh số 73-SL ngày 26/2/1947 về các tội đạo thiết, lừa đảo, biển thủ và thiện thủ; Sắc lệnh số 177-SL ngày 14/4/1948 về định tội các việc phá hủy hay làm tổn hại đến động sản của người khác; Sắc lệnh số 12-SL ngày 12/3/1949 về phạt tội ăn cắp lấy trộm các vật dụng của nhà binh trong thời bình và thời kỳ chiến tranh”; Sắc lệnh số 154-SL ngày 17/11/1950 về ấn định hình phạt trừng trị việc tiết lộ bí mật của cơ quan hoặc công tác của Chính phủ; Sắc lệnh số 180-SL ngày 20/12/1950 quy định hình phạt đối với những hành vi đầu cơ tiền tệ, làm giấy bạc giả, tàng trữ hay lưu hành giấy bạc của địch; Sắc lệnh số 133-SL ngày 20/1/1953 về trừng trị các loại việt gian và phản động; v.v.... Trong thời kỳ đầu những năm giải phóng miền Bắc và đấu tranh chống Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa lại tiếp tục bản hành các văn bản pháp luật hình sự như Sắc lệnh số 267-SL ngày 15/6/1956 trừng trị những âm mưu và hành động phá hoại tài sản của nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân, cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch nhà nước; Sắc lệnh số 001-SL ngày 19/4/1957 cấm mọi hành động đầu cơ về kinh tế v.v... Nhìn chung các sắc lệnh về hình sự được ban hành chỉ quy định một cách chung nhất đều mang tính liệt kê hành vi phạm tội, có tính chất đơn hành về những hành vi nguy hiểm cụ thể cho xã hội được hình sự hóa thuộc các loại quan hệ xã hội nhất định, mà không quy định về dấu hiệu định lượng khi định tội danh của từng tội phạm cụ thể. Trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa lại phải tiếp tục huy động toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam. Bên cạnh nhiệm vụ
  • 27. 21 kháng chiến chống Mỹ, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa phải thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Yêu cầu xây dựng pháp luật hình sự được đặt ra để đấu tranh với các loại tội phạm hình sự. Năm 1967, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng. Việc ban hành pháp lệnh này thể hiện tiến trình lập pháp hình sự, quy định tương đối bao quát có hệ thống các tội danh phản cách mạng. Tiếp đó giai đoạn những năm 70, đầu 80, Ủy ban thường vụ Quốc hội tiếp tục ban hành 4 pháp lệnh hình sự. Đó là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa; Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân; Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ và Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép. Tuy nhiên, hạn chế cơ bản của các văn bản pháp luật trong thời gian này là không quy định dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm cụ thể. Điều này đã dẫn đến sự tùy tiện trong áp dụng pháp luật hình sự vào thực tiễn điều tra, khám phá, xử lý tội phạm nói chung. 1.2.2. Giai đoạn 1985 đến 1999 Trước tình hình đấu tranh với các loại tội phạm ngày càng phức tạp khi các văn bản pháp luật hình sự còn rời rạc, không hệ thống, khó áp dụng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, tháng 6 năm 1985, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật hình sự đầu tiên (gọi là Bộ luật hình sự 1985). Sự ra đời của Bộ luật hình sự năm 1985 đánh dấu sự trưởng thành của Nhà nước trong việc hệ thống hóa một cách cơ bản các hành vi nguy hiểm cho xã hội cần bị bị xử lý theo các chế tài hình sự. Sự tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp thể hiện trong Bộ luật hình sự năm 1985 thể hiện ở chỗ, Bộ luật đã thể chế hóa về hình sự đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ quá độ xây dựng một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với chế độ hành chính bao cấp mà thành phần kinh tế cơ bản là nhà nước (quốc doanh) và hợp tác xã. Mặt khác, để vận dụng thống nhất pháp luật hình sự trong toàn quốc, Bộ luật được chia làm 2 phần: Phần chung và Phần
  • 28. 22 các tội phạm. Tại Phần chung Bộ luật hình sự năm 1985 quy định những vấn đề chung nhất về tội phạm và không phải là tội phạm; hệ thống hình phạt và các biện pháp tư pháp hình sự; những vấn đề về quyết định hình phạt v.v.... Tại Phần các tội phạm, Bộ luật hình sự 1985 chia làm 12 nhóm tội phạm bao gồm: các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con người; các tội xâm phạm những quyền tự do dân chủ của công dân; các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa; Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân, gia đình và các tội phạm đối với người chưa thành niên; các tội xâm phạm sở hữu của công dân; các tội phạm về kinh tế; các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính; các tội phạm về chức vụ; các tội xâm phạm hoạt động tư pháp; các tội xâm phạm nghĩa vụ trách nhiệm của quân nhân; và các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh. Điểm mới rất cơ bản trong Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định những dấu hiệu định lượng trong một số tội phạm cụ thể, chủ yếu là tội liên quan đến làm chết người. Ví dụ: tại Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con người, dấu hiệu định lượng được thể hiện ở nhiều điều luật, như dấu hiệu làm chết người tại các điều 101 (Tội giết người) với hành vi: giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ con mới đẻ dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết; các điều 103 (Tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khoẻ của người khác trong khi thi hành công vụ), 104 (Tội vô ý làm chết người), 107 (Tội cố ý không giúp người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng). Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực, Nhà nước quyết định chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều thành phần từ năm 1986. Điều này làm phát sinh nhiều bất cập trong những quy định của Bộ luật hình sự 1985. Vì vậy liên tục những năm 1989, 1991, 1992 và 1997, Quốc hội nước Cộng hòa
  • 29. 23 xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải ban hành các văn bản Luật bổ sung sửa đổi một số điều của Bộ luật hình sự 1985. Trong 4 lần sửa đổi đã có 69 điều của Bộ luật hình sự năm 1985 được sửa đổi, bổ sung với 101 lần sửa đổi đối với từng điều luật riêng biệt, trong đó 45 điều luật sửa một lần; 18 điều luật sửa hai lần, 4 điều luật sửa ba lần và có 2 điều luật có 4 lần sửa đổi bổ sung; có 23 điều luật mới được bổ sung. Đặc biệt trong lần sửa đổi lần thứ 4 (1997), từ một điều luật (Điều 96a) được bổ sung thành một chương gồm 14 điều luật quy định tội phạm và hình phạt đối với các tội phạm về ma túy và 11 điều luật quy định tội phạm và hình phạt đối với các tội phạm về tham nhũng. Điểm đáng chú ý trong các lần sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1985, các dấu hiệu định lượng trong hành vi phạm tội từng bước được quy định rõ trong Bộ luật hình sự 1985 qua lần sửa đổi lần thứ 4 năm 1997 về Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật hình sự năm 1985. Ví dụ, Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 104) quy định: Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm: Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người; Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người; Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; Có tổ chức; Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê; Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm; Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật
  • 30. 24 từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. Đối với Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 108); Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 109) thì dấu hiệu định tội căn cứ vào tỷ lệ thương tích từ 31% trở lên. Đối với các tội như: Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137); Tội trộm cắp tài sản (Điều 138); Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139) dấu hiệu định tội căn cứ vào chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, người có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. Đối với Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 141), dấu hiệu định lượng căn cứ vào giá trị tài sản từ năm triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142) căn cứ vào tài sản có giá
  • 31. 25 trị từ năm mươi triệu đồng trở lên gây hậu quả nghiêm trọng; Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143), dấu hiệu định lượng căn cứ vào gây thiệt hại từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm v.v.... Đối với các tội phạm về ma túy, Bộ luật hình sự năm 1985 được bổ sung sửa đổi năm 1997 quy định dấu hiệu định lượng trong tình tiết định khung tăng nặng căn cứ vào trọng lượng của chất ma túy. Ví dụ, Tội sản xuất trái phép chất ma túy, tại các khoản 2, 3, 4 Điều 193 quy định: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca có trọng lượng từ năm trăm gam đến dưới một kilôgam; Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam; Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ hai mươi gam đến dưới một trăm gam; Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ một trăm mililít đến dưới hai trăm năm mươi mililít; Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm đ đến điểm h khoản 2 Điều này. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm: Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca có trọng lượng từ một kilôgam đến dưới năm kilôgam; Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam; Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ một trăm gam đến dưới ba trăm gam; Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ hai trăm năm mươi mililít đến dưới bảy trăm năm mươi mililít; Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các
  • 32. 26 điểm từ điểm b đến điểm đ khoản 3 Điều này. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm kilôgam trở lên; Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam trở lên; Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ ba trăm gam trở lên; Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililít trở lên; Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm d khoản 4 Điều này. Tương tự như thế đối với các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194). Đối với các Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 195), dấu hiệu định lượng đặt ra đối với tình tiết định khung tăng nặng khi người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ sáu năm đến mười ba năm: Tiền chất có trọng lượng từ hai trăm gam đến dưới năm trăm gam. Phạm tội trong trường hợp tiền chất có trọng lượng từ năm trăm gam đến dưới một nghìn hai trăm gam, thì bị phạt tù từ mười ba năm đến hai mươi năm. Phạm tội trong trường hợp tiền chất có trọng lượng từ một nghìn hai trăm gam trở lên, thì bị phạt tù hai mươi năm hoặc tù chung thân. Như vậy, dấu hiệu định lượng đã được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985 trong các lần sửa đổi bổ sung những quy định về các tội phạm cụ thể. Tuy nhiên, dấu hiệu định lượng chủ yếu tập trong vào những tình tiết định khung tăng nặng, còn các tình tiết định tội vẫn chưa được quy định cụ thể, trừ một số tội xâm phạm liên quan đến tính mạng sức khỏe con người. Có thể thấy từ năm 1985 đến năm 1997, việc sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự
  • 33. 27 năm 1985 là hết sức cần thiết, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, trong những lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự 1985 còn thể hiện tính chắp vá, chưa toàn diện, chưa tạo nên những điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng thống nhất pháp luật trong toàn quốc, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn mới, còn bộc lộ rất nhiều bất cập. Vì vậy, Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc hội ban hành nhằm đáp ứng các yêu cầu xây dựng pháp luật hình sự trong giai đoạn mới, khắc phục những tồn tại, thiếu sót trong Bộ luật hình sự 1985 trong nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề dấu hiệu định lượng khi định tội danh cũng như khi quy định những tình tiết định khung tăng nặng đối với từng tội phạm cụ thể. 1.3. Quy định của Bộ luật hình sự 1999 về dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm cụ thể Phần các tội phạm. 1.3.1. Dấu hiệu định lượng về hình thức được thể hiện trong các quy định tại các cấu thành tội phạm cụ thể Bộ luật hình sự năm 1999 Trong phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999 có 281 điều luật từ Điều 78 đến Điều 344 quy định về các tội phạm cụ thể. Nghiên cứu 281 điều luật này cho thấy:  Có 10 điều luật quy định dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm cơ bản. Điểm đáng chú ý là trong 10 điều luật thì có 9 điều về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người và 1 điều về tội xâm phạm sở hữu. Đó là các Tội giết con mới đẻ (Điều 94); Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 97); Tội vô ý làm chết người (Điều 98); Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 99); Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 102); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106); Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong khi thi hành công vụ
  • 34. 28 (Điều 107); Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 108); Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 109); và Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142).  Có 15 điều luật quy định dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm định khung tăng nặng, trong khi dấu hiệu này không được quy định trong cấu thành tội phạm cơ bản. Điểm đáng chú ý là trong 15 điều luật thì có: - 5 điều luật về tội xâm phạm nhân phẩm danh dự con người, nhưng có dấu hiệu định lượng xác định mức độ tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân thông qua tỷ lệ thương tật, đó là các Tội hiếp dâm (Điều 1110, Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112), Tội cưỡng dâm (Điều 113), Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114) và Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115); - 4 điều luật quy định về các tội xâm phạm quyền sở hữu tài sản, nhưng có dấu hiệu định lượng xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt và xác định mức độ tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân thông qua tỷ lệ thương tật, đó là các Tội cướp tài sản (Điều 133), Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134), Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 135) và Tội cướp giật tài sản (Điều 136); - 3 điều luật quy định về các tội phạm về ma túy, nhưng có dấu hiệu định lượng thông qua đối tượng tác động của tội phạm này bằng trọng lượng các chất ma túy, đó là các Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 193), Tội tàng trữ, vận chuyển mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194), Tội tàng trữ, vận chuyển mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 195), và 2 điều luật về tội phạm ma túy, nhưng dấu hiệu định lượng được xác định bằng tổn hại cho sức khoẻ của người khác do sử dụng trái phép chất ma túy, đó là các Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 197), và Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 200);
  • 35. 29 - 1 điều luật quy định về tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng thông qua việc chiếm đoạt tài sản bằng sử dụng kỹ thuật số có dấu hiệu định lượng bằng giá trị tài sản bị chiếm đoạt (tiền), đó là Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 226 b).  Có 25 điều luật quy định dấu hiệu định lượng trong cả cấu thành tội phạm cơ bản và cấu thành tội phạm định khung tăng nặng. Điểm đáng chú ý là trong 15 điều luật thì có: - 2 điều luật quy định về các tội xâm phạm sức khỏe con người, có dấu hiệu định lượng xác định mức độ tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân thông qua tỷ lệ thương tật, đó là các tội Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 104) và Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105); - 6 điều luật quy định về các tội xâm phạm sở hữu có dấu hiệu định lượng xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt, đó là các Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137), Tội trộm cắp tài sản (Điều 138), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139), Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140); Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 141) và Tội tham ô tài sản (Điều 278); - 3 điều luật quy định về các tội xâm phạm sở hữu có dấu hiệu định lượng xác định giá trị tài sản bị hủy hoại, làm hư hỏng, mất mát, lãng phí, đó là các Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143); Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều 144) và Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 145); - 4 điều luật quy định về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có dấu hiệu định lượng xác định giá trị hàng hóa với tư cách hàng phạm pháp trong hoạt động kinh doanh,buôn bán, đó là các Tội buôn lậu (Điều 153); Tội
  • 36. 30 vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới (Điều 154); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156) và Tội kinh doanh trái phép (Điều 159); - 3 điều luật quy định về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có dấu hiệu định lượng xác định giá trị tiền Nhà nước bị thiệt hại, đó là các Tội trốn thuế (Điều 161); Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165) và Tội lập quỹ trái phép (Điều 166); - 1 điều luật quy định về các tội xâm phạm trật tự công cộng có dấu hiệu định lượng xác định bằng giá trị tiền hoặc giá trị vật phạm pháp, đó là Tội đánh bạc (Điều 248); - 6 điều luật quy định về các tội phạm về chức vụ xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức dấu hiệu định lượng xác định giá trị phương tiện phạm tội (tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào), đó là các Tội nhận hối lộ (Điều 279); Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283); Tội đưa hối lộ (Điều 289); Tội làm môi giới hối lộ (Điều 290) và Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi (Điều 291). Như vậy, nếu so sánh với 281 điều luật quy định về các cấu thành tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999 thì chỉ có 50 điều luật quy định có dấu hiệu định lượng (chiếm 17,79%). Điều này cho thấy trong Bộ luật hình sự 1999, số lượng các cấu thành tội phạm có dấu hiệu định tính chiếm đa số (82,21%). Cho nên, trong trường hợp không có hướng dẫn áp dụng pháp luật của Cơ quan tư pháp có thẩm quyền thì rất dễ dẫn đến suy luận chủ quan, phiến diện một chiều trong việc điều tra, xử lý, cũng như dễ dẫn đến bỏ lọt tội đối với những tội phạm có dấu hiệu định tính. 1.3.2. Dấu hiệu định lượng về nội dung được thể hiện trong các quy định tại các cấu thành tội phạm cụ thể Bộ luật hình sự năm 1999 Trong 50 điều luật quy định dấu hiệu định lượng thuộc Phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999 cho thấy:
  • 37. 31  Có 21 điều luật quy định dấu hiệu định lượng phản ánh hậu quả của tội phạm dưới dạng thiệt hại về tính mạng, sức khỏe thể hiện hành vi phạm tội làm chết người hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật theo tỷ lệ phần trăm trong giới hạn nhất định, trong đó: - 5 điều luật quy định về các tội xâm phạm tính mạng con người mà dấu hiệu định lượng được xác định trong cấu thành tội phạm là hậu quả làm chết người. Đó là các tội giết con mới đẻ (Điều 94); Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 97); Tội vô ý làm chết người (Điều 98); Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 99); Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 102). - 16 điều luật quy định về các tội xâm phạm sức khỏe con người mà dấu hiệu định lượng được xác định trong cấu thành tội phạm là gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật được tính từ 11% đến 30%; từ 31% đến 60% và từ 60% trở lên. Đó là các Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 104), Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105), Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106), Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 107), Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 108), Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 109), Tội hiếp dâm (Điều 1110, Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112), Tội cưỡng dâm (Điều 113), Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114) và Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115), Tội cướp tài sản (Điều 133), Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134), Tội cướp giật tài sản (Điều 136), Tội
  • 38. 32 tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 197), và Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 200). Điểm đáng chú ý ở các điều luật này quy định dấu hiệu định lượng của các tội phạm này thể hiện ở chỗ, đối với các tội xâm phạm sức khỏe con người, khách thể trực tiếp mà quyền được bảo vệ về sức khỏe bị xâm phạm gây nên tổn hại về sức khỏe với tỷ lệ phần trăm nhất định (như Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 104), Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106) v.v.... Tuy nhiên, đối với các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm sở hữu (như Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114) và Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115); Tội cướp tài sản (Điều 133), Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134), Tội cướp giật tài sản (Điều 136) v.v...), khách thể trực tiếp của các tội phạm này ngoài nhân phẩm, danh dự, sở hữu tài sản, nên trong cấu thành tội phạm cơ bản không có quy định về dấu hiệu định lượng. Dấu hiệu định lượng liên quan đến thiệt hại về sức khỏe chỉ được quy định tại cấu thành tội phạm tăng nặng khi gây thiệt hại về sức khỏe con người vì người phạm tội đã có hành vi dùng vũ lực với nạn nhân. Ví dụ, Điều 133 Bộ luật hình sự quy định về Tội cướp tài sản với nội dung: Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm khi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%; bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm khi Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; bị phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình khi
  • 39. 33 Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người.  Có 4 điều luật quy định dấu hiệu định lượng phản ánh hậu quả của tội phạm dưới dạng thiệt hại về vật chất (tài sản bị phá hủy, bị hủy hoại, bị hư hỏng, bị thiệt hại) với những tình tiết thể hiện giá trị thiệt hại về vật chất đối với tài sản từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng và từ 500 triệu đồng trở lên, trong đó: - 3 điều luật quy định về các tội xâm phạm xâm phạm sở hữu mà dấu hiệu định lượng được xác định trong cấu thành tội phạm là gây thiệt hại về vật chất (tài sản bị phá hủy, bị hủy hoại, bị hư hỏng). Đó là các Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143); Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều 144) và Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 145); - 1 điều luật quy định về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế gây thiệt hại từ 100 triệu đến dưới 300 triệu; gây thiệt hại từ ba trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng; và gây thiệt hại từ một tỷ đồng trở lên. Đó là Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165).  Có 14 điều luật quy định dấu hiệu định lượng phản ánh giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ, bị sử dụng trái phép với các mức độ khác nhau từ 2 triệu đồng, hoặc từ 4 triệu đồng, hoặc từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng và từ 500 triệu đồng trở lên, trong đó: - 4 điều luật quy định dấu hiệu định lượng phản ánh giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng và từ 500 triệu
  • 40. 34 đồng trở lên. Đó là các Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137), Tội trộm cắp tài sản (Điều 138), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139); Tội tham ô tài sản (Điều 278); - 1 điều luật quy định dấu hiệu định lượng phản ánh giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 4 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng và từ 500 triệu đồng trở lên. Đó là các Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140); - 6 điều luật quy định dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm định khung tăng nặng phản ánh giá trị tài sản bị chiếm đoạt đến dưới 200 triệu đồng; từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng và từ 500 triệu đồng trở lên. Đó là các Tội cướp tài sản (Điều 133); Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134); Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 135), Tội cướp giật tài sản (Điều 136), Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 226b), Tội trốn thuế (Điều 161); - 2 điều luật quy định dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm thể hiện bằng tài sản bị chiếm giữ, bị sử dụng trái phép có giá trị từ 10 triệu đồng, hoặc từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng. Đó là các Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 141) và Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142); - 1 điều luật quy định dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm thể hiện bằng số tiền được lập bất hợp pháp từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng, từ 500 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng và từ 1 tỷ đồng trở lên. Đó là Tội lập quỹ trái phép (Điều 166).  Có 4 điều luật quy định dấu hiệu định lượng phản ánh bằng giá trị hàng hóa phạm pháp từ 30 triệu đồng, hoặc từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng; từ 300 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng, và từ 500 triệu đồng trở lên. Đó là các Tội buôn lậu (Điều 153), Tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới (Điều 154), Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156), Tội kinh doanh trái phép (Điều 159).
  • 41. 35  Có 3 điều luật quy định dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm định khung tăng nặng được phản ánh bằng trọng lượng các chất ma túy. Đó là các Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 193), Tội tàng trữ, vận chuyển mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194), Tội tàng trữ, vận chuyển mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 195). Điểm đáng chú ý của dấu hiệu định lượng trong các tội này tùy thuộc vào từng loại ma túy khác nhau. Ví dụ: - Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca có trọng lượng từ năm trăm gam đến dưới một kilôgam, hoặc có trọng lượng từ một kilôgam đến dưới năm kilôgam, hoặc có trọng lượng từ năm kilôgam trở lên; - Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam, hoặc từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam, hoặc có trọng lượng từ một trăm gam trở lên; - Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ hai mươi gam đến dưới một trăm gam; hoặc có trọng lượng từ một trăm gam đến dưới ba trăm gam; hoặc có trọng lượng từ ba trăm gam trở lên; - Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ một trăm mililít đến dưới hai trăm năm mươi mililít; hoặc từ hai trăm năm mươi mililít đến dưới bảy trăm năm mươi mililít; hoặc từ bảy trăm năm mươi mililít trở lên.  Có 6 điều luật quy định dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm cơ bản và cấu thành tội phạm định khung tăng nặng thể hiện giá trị của phương tiện phạm tội (tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị từ 2 triệu đồng đến dưới 5 triệu đồng, hoặc mười triệu đồng; từ 5 triệu đồng, hoặc từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng, hoặc dưới 300 triệu đồng; hoặc từ ba trăm triệu đồng trở lên). Đó là các Tội nhận hối lộ (Điều 279); Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn
  • 42. 36 gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283); Tội đưa hối lộ (Điều 289); Tội làm môi giới hối lộ (Điều 290) và Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi (Điều 291). Như vậy, dấu hiệu định lượng về nội dung được thể hiện trong các quy định tại các cấu thành tội phạm cụ thể Bộ luật hình sự năm 1999 được thể hiện: - Dưới các dạng thiệt hại về thể chất (làm chết người) hoặc theo các tỷ lệ phần trăm mức độ thương tật được tính từ 11% đến 30%; từ 31% đến 60% và từ 60% trở lên; - Giá trị thiệt hại về vật chất đối với tài sản từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng và từ 500 triệu đồng trở lên; - Giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ, bị sử dụng trái phép với các mức độ khác nhau từ 2 triệu đồng, hoặc từ 4 triệu đồng, hoặc từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng và từ 500 triệu đồng trở lên; - Giá trị hàng hóa phạm pháp từ 30 triệu đồng, hoặc từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng; từ 300 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng, và từ 500 triệu đồng trở lên; - Trong lượng, thể tích của các chất ma túy thùy thuộc vào đặc điểm của từng loại ma túy ở dạng nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca; hêrôin hoặc côcain; các chất ma tuý khác ở thể rắn hoặc các chất ma tuý khác ở thể lỏng; - Giá trị của phương tiện phạm tội từ 2 triệu đồng đến dưới 5 triệu đồng, hoặc mười triệu đồng; từ 5 triệu đồng, hoặc từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng, hoặc dưới 300 triệu đồng; hoặc từ ba trăm triệu đồng trở lên.
  • 43. 37 Chương 2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG DẤU HIỆU ĐỊNH LƯỢNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG) VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT 2.1. Thực tiễn áp dụng dấu hiệu định lượng trong luật hình sự (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông) 2.1.1. Sơ lược về tình hình địa chính trị, kinh tế, xã hội tỉnh Đắk Nông Đắk Nông là tỉnh mới được thành lập từ 01/01/2004 trên cơ sở tách từ 6 huyện phía Nam của tỉnh Đắk Lắk, có diện tích tự nhiên 651.000 ha, dân số 400.000 người với 31 dân tộc anh em sinh sống; Phía Bắc giáp tỉnh Đắk Lắk, phía Đông giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Tây giáp tỉnh Munđunkiri của nước bạn Campuchia, phía Nam giáp tỉnh Bình Phước. Là tỉnh miền núi có độ cao khoảng 600 - 700 m, có nơi lên đến 1.970 m so với mực nước biển. Khí hậu ở Đắk Nông luôn ôn hoà, nhiệt độ từ 22 - 24o C, trong năm có hai mùa mưa – nắng rõ rệt. Tỉnh Đắk Nông có nguồn tài nguyên rừng phong phú với trữ lượng gỗ lớn, nhiều loài cây cho giá trị kinh tế cao như hương, sao…, có hệ thống sông suối lớn như suối Đắk Nông, Đắk R, Tik, sông Đồng Nai, sông Sêrêpôk…, nhiều thác nước như thác Gia Long, Đray Sáp, Đray Nu, Diệu Thanh…và thắng cảnh đẹp tạo nên một hệ thống tài nguyên vô giá cho phát triển thuỷ điện và du lịch văn hoá sinh thái. Đắk Nông được đánh giá là nơi có mỏ quặng Bôxit lớn nhất Đông Nam Á (trữ lượng khai thác khoảng 5 tỷ tấn) nằm cách trung tâm thị trấn Gia Nghĩa 20km về phía đông bắc; mỏ đá quý Safia (Đắk Rung - Đắk Song - Đắk Nông), mỏ vàng với trữ lượng có khả năng khai thác lâu dài, tạo cho ngành công nghiệp năng lượng và khai khoáng của tỉnh một lợi thế thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Mặc dù mới chia tách tỉnh, nhưng ngành công nghiệp của tỉnh sớm được hình thành trên cơ sở khu