SlideShare a Scribd company logo
1 of 110
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ ĐỨC MẠNH
TéI PH¹M CH¦A HOµN THµNH THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM,
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ ĐỨC MẠNH
TéI PH¹M CH¦A HOµN THµNH THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM,
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS CAO THỊ OANH
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Vũ Đức Mạnh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM CHƯA
HOÀN THÀNH TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .......8
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của tội phạm chưa hoàn thành ...................8
1.1.1. Khái niệm tội phạm chưa hoàn thành.................................................8
1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tội phạm chưa hoàn thành...................19
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp về tội phạm chưa hoàn thành...........20
1.2.1. Giai đoạn sau cách mạng tháng 8 đến trước khi Bộ luật hình sự
năm 1985 có hiệu lực....................................................................... 20
1.2.2. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực.............................. 22
1.2.3. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực.............................. 24
1.3. Tội phạm chưa hoàn thành quy định trong luật hình sự một
số nước............................................................................................ 27
1.3.1. Tội phạm chưa hoàn thành quy định trong Bộ luật hình sự của
nước Thụy Điển............................................................................... 27
1.3.2. Tội phạm chưa hoàn thành quy định trong Bộ luật hình sự nước
Cộng hòa liên bang Đức .................................................................. 30
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ
TỘI PHẠM CHƯA HOÀN THÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK.................................. 34
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về khái niệm và
trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành.............. 34
2.1.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về khái niệm tội phạm
chưa hoàn thành............................................................................... 34
2.1.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về trách nhiệm hình sự
đối với tội phạm chưa hoàn thành .................................................... 36
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về tội phạm chưa hoàn thành
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.............................................................40
2.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về chuẩn bị phạm tội trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk.................................................................................... 41
2.2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về phạm tội chưa đạt trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk.................................................................................... 42
Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ
LÝ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM CHƯA HOÀN THÀNH TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK ..........................................................80
3.1. Yêu cầu cấp thiết của việc hoàn thiện pháp luật hình sự liên
quan đến tội phạm chưa hoàn thành ............................................ 80
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến tội
phạm chưa hoàn thành.................................................................. 82
3.3. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối
với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.............92
3.3.1. Nâng cao công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và kiểm tra của
Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới .......................................... 92
3.3.2. Tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật....................... 93
3.3.3. Nâng cao năng lực của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân...................94
3.3.4. Nâng cao vai trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật ..........................96
KẾT LUẬN................................................................................................. 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 102
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: So sánh tỷ lệ bản án của tội phạm chưa hoàn thành so với
tội phạm đã hoàn thành thông qua nghiên cứu 200 bản án
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2007 đến năm 2014 41
Bảng 2.2: So sánh tỷ lệ các tội phạm cụ thể trong 20 bản án hình sự
về tội phạm chưa hoàn thành 41
Bảng 2.3: Tỷ lệ giai đoạn chuẩn bị phạm tội trong 20 bản án hình sự
về tội phạm chưa hoàn thành 42
Bảng 2.4: So sánh tỷ lệ giai đoạn chuẩn bị phạm tội so với giai đoạn
phạm tội chưa đạt trong 20 bản án hình sự về tội phạm
chưa hoàn thành 43
Bảng 2.5: So sánh tỷ lệ các trường hợp phạm tội chưa đạt trong 20
bản án hình sự về tội phạm chưa đạt 43
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm, hiểu theo nghĩa khái quát nhất là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Sự xuất hiện của tội
phạm diễn ra cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, khi xã hội phân
chia thành giai cấp đối kháng. Để bảo vệ các quyền lợi của giai cấp cầm
quyền, Nhà nước đã quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội
phạm và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người nào thực hiện các hành vi
đó nên tội phạm lại mang bản chất là một hiện tượng pháp lý. Là hiện tượng
tiêu cực mang thuộc tính xã hội, lịch sử và pháp lý, tội phạm luôn chứa đựng
trong mình đặc tính chống lại Nhà nước, chống lại xã hội, đi ngược với lợi ích
chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền, tự do và các lợi ích
hợp pháp của con người.
Tội phạm không phải lúc nào cũng được thực hiện đến cùng mà có thể
được thực hiện ở những mức độ khác nhau do nhiều nguyên nhân. Tội phạm
diễn ra ở các giai đoạn khác nhau thì mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng khác
nhau, việc thực hiện tội phạm cố ý trong nhiều trường hợp nó là một quá trình
thỏa mãn dần các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội phạm cụ thể được quy
định trong phần các tội phạm luật hình sự. Trong quá trình tiến hành dần từng
bước đó, có thể do nhiều nguyên nhân khách quan khác nhau không phụ
thuộc vào ý chí chủ quan của người phạm tội mà hành vi của họ phải dừng lại
khi mới chuẩn bị điều kiện để thực hiện hoặc khi chưa thực hiện hoàn thành
tội phạm nào đó. Trong khi đó, pháp luật hình sự lại đặt ra nhiệm vụ đấu tranh
phòng, chống tội phạm không chỉ bảo vệ các quan hệ xã hội được luật hình sự
xác lập và bảo vệ đã bị tội phạm xâm hại, mà cần bảo vệ các quan hệ xã hội
đó trong những trường hợp chưa bị tội phạm xâm hại đến. Nói một cách khác,
2
pháp luật hình sự của Nhà nước đặt ra yêu cầu phải xử lý đồng bộ tất cả các
hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi thực hiện hoàn thành một tội phạm
và cả hành vi chưa hoàn thành. Bởi lẽ, việc phát hiện, trừng trị những hành vi
phạm tội chưa hoàn thành là nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại
do hành vi phạm tội có thể gây ra cho xã hội, cho Nhà nước và cho công dân.
Nói một cách khác, không để cho tội phạm gây ra nguy hiểm cho xã hội thì
tốt hơn để cho tội phạm xảy ra mới tìm cách khắc phục phòng, chống tội
phạm, do đó đây chính là một yêu cầu có ý nghĩa tiên quyết thể hiện trong
chính sách hình sự của Nhà nước ta [29, tr.125-126].
Qua thực tiễn xét xử cho thấy, so với giai đoạn tội phạm đã hoàn thành
thì số vụ án mà Tòa án xét xử tội phạm ở giai đoạn chưa hoàn thành chiếm tỷ
lệ thấp hơn, nguyên nhân là do có nhiều khó khăn trong việc chứng minh
hành vi phạm tội, người phạm tội không thừa nhận mục đích các hành vi
phạm tội của mình, việc đánh giá chứng cứ từ phía các cơ quan tiến hành tố
tụng còn chưa chính xác. Từ những nguyên nhân trên dẫn đến những khó
khăn đối với cơ quan tố tụng trong quá trình xem xét, đánh giá một cách toàn
diện, đầy đủ các tình tiết, bản chất của sự việc. Hiện nay, tình hình tội phạm
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk vẫn ngày một gia tăng và gây hậu quả hết sức
nghiêm trọng. Tuy nhiên hiện chưa có công trình nào nghiên cứu đề tài: “Tội
phạm chưa hoàn thành theo Luật hình sự Việt Nam, (trên cơ sở số liệu thực
tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)’’. Do vậy đòi hỏi phải có sự nghiên cứu cụ thể, rõ
ràng để có những luận cứ khoa học về tội phạm chưa hoàn thành, nhằm hạn
chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do hành vi phạm tội có thể gây ra, giúp
chúng ta phát hiện, khởi tố, điều tra và đưa ra xét xử một cách kịp thời đối với
tội phạm chưa hoàn thành, nhằm đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành và làm cho công cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đạt được hiệu quả
3
cao. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Tội phạm chưa hoàn thành theo Luật hình sự
Việt Nam, (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)’’ làm đề tài luận
văn Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, ở nước ta có nhiều công trình nghiên cứu;
sách chuyên khảo, sách tham khảo, giáo trình; các bài viết trên các tạp chí
chuyên ngành; các luận văn, luận về tội phạm chưa hoàn thành như: Luật hình
sự Việt Nam (Quyển I Những vấn đề chung), Đào Trí Úc, Nxb. Khoa học Xã
hội, Hà Nội (2000); Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 – Phần
chung, Đinh Văn Quế, Nxb. thành phố Hồ chí Minh (năm 2000); Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Lê Cảm, Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội (Chủ biên năm 2003 và 2007); Sách chuyên khảo Sau đại
học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Lê Văn
Cảm, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội (2005); Chế định về các giai
đoạn thực hiện tội phạm và mô hình lý luận của nó trong pháp luật hình sự
Việt Nam, Lê Văn Cảm, tạp chí Dân chủ và pháp luật; Cấu thành tội phạm và
vấn đề xác định giai đoạn thực hiện tội phạm, PGS. TS Cao Thị Oanh, trường
Đại học Luật Hà Nội, năm 2010; “Một số vấn đề về các giai đoạn thực hiện
tội phạm”, trong sách: Luật hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Lê Thị Sơn, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội (1997); “Về trách nhiệm
hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt”, Lê Thị Sơn,
tạp chí Luật học; Chương III, Các giai đoạn phạm tội, trong sách: Những vấn
đề lý luận cơ bản về tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Lâm Minh Hạnh,
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1986; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học của
Th.S. Hoàng Đức Ngọc, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2010; Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự
4
Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học của Th.S. Hồ Thanh Vinh, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014; Chương XII, Các giai đoạn phạm tội,
trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) (do TSKH. Lê
Cảm chủ biên), Nguyễn Ngọc Chí, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
(2007); Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội chưa đạt, Trịnh Quốc Toản, Tạp
chí Khoa học (chuyên san Kinh tế Luật), số 4/2002; Tội phạm và trách nhiệm
hình sự, Trịnh Tiến Việt, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2013; “Về
phạm tội chưa đạt và một số hình thức phạm tội khác trong quá trình thực
hiện tội phạm”, Khoa học, Chuyên san Luật học, Trịnh Tiến Việt, năm 2009;
Tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự trước yêu cầu mới của
đất nước, Trịnh Tiến Việt, tạp chí Tòa án nhân dân số 14(7)/2008, năm 2008;
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Trịnh Tiến Việt, Luật học 25, năm 2009; Giáo
trình luật hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội (năm 2010). v.v…
Từ các công trình trên cho thấy đã có nhiều tác giả nghiên cứu về tội
phạm chưa hoàn thành ở những mức độ khác nhau, đề cập đến khái niệm, các
đặc điểm cơ bản, trách nhiệm hình sự và việc quyết định hình phạt đối với tội
phạm chưa hoàn thành, cụ thể là giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội
chưa đạt. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu vào thực tiễn xử lí đối với
tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, để nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật và hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
+ Mục đích nghiên cứu: mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất
các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về tội phạm chưa hoàn thành. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
5
+ Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về tội phạm chưa hoàn thành.
- Nghiên cứu lịch sử lập pháp về tội phạm chưa hoàn thành trong pháp
luật Việt Nam qua các thời kì.
- Nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành quy định trong luật hình sự
một số nước.
- Nghiên cứu quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội phạm chưa
hoàn thành.
- Nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật về tội phạm chưa hoàn
thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến tội phạm chưa
hoàn thành và đưa ra những các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lí đối
với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
+ Đối tượng nghiên cứu của luận văn:
Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ quy định của pháp luật Hình sự
về tội phạm chưa hoàn thành và thực tiễn pháp luật về tội phạm chưa hoàn
thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2007 đến năm 2014.
+ Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề liên quan
đến tội phạm chưa hoàn thành, dưới góc độ pháp lý hình sự và thực tiễn áp
dụng pháp luật đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ
năm 2007 đến năm 2014.
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ
nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
6
và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, về công tác đấu tranh,
phòng chống các loại tội phạm, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện
trong các Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI và Nghị quyết số 08/NQ-TW
ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công
tác tư pháp trong thời gian tới”, và nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW
ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị “Về chiến lượng xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020”, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/06/2005 của Bộ chính trị “Về chiến lượng cải cách tư pháp đến năm
2020”, cũng như các công trình khoa học của các tác giả nghiên cứu về tội
phạm chưa hoàn thành.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp cụ thể được sử dụng nghiên cứu đề tài bao gồm: quy
nạp, diễn dịch, thống kê tội phạm, phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra, khảo
sát, tổng kết kinh nghiệm. Từ đó rút ra những đánh giá, kết luận và đề xuất
các kiến nghị liên quan đến tội phạm chưa hoàn thành.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận:
Luận văn là công trình nghiên cứu toàn diện về tội phạm chưa hoàn
thành được quy định trong Luật hình sự từ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk. Dựa trên sự phân tích lý luận và tổng kết thực tiễn để đưa ra những luận
giải, những căn cứ khoa học, để từ đó đưa ra kết luận, kiến nghị có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn về các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lí đối với tội
phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Về thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu đề tài có thể tham khảo để nâng cao hiệu quả xử lí
đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Đề tài có thể
7
được dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập
trong các cơ sở đào tạo luật.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tội phạm chưa hoàn thành trong
pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội phạm chưa
hoàn thành và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự và các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn
thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM CHƯA HOÀN THÀNH
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của tội phạm chưa hoàn thành
1.1.1. Khái niệm tội phạm chưa hoàn thành
Nhìn chung pháp luật hình sự trên thế giới và tại Việt Nam đa phần đều
phân biệt các giai đoạn thực hiện tội phạm, nhằm đánh giá mức độ thực hiện tội
phạm ở các giai đoạn khác nhau và qua đó có cơ sở xác định phạm vi trách
nhiệm hình sự của người phạm tội. Cụ thể, các giai đoạn phạm tội là
những mức độ trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý và bao gồm chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Các giai đoạn phạm tội
này ngắn hay kéo dài tùy thuộc vào quá trình của hành vi phạm tội và người
phạm tội thực hiện trên thực tế. Việc phân chia các giai đoạn phạm tội trong
luật hình sự thể hiện ý chí chủ quan của các nhà làm luật đối với diễn biến
khách quan của hành vi phạm tội xảy ra trong thực tế [4, tr.151-152]. Tuy
nhiên, có ba điểm khác nhau cơ bản giữa các giai đoạn phạm tội chính là ở
những yếu tố khách quan của hành vi phạm tội bao gồm: 1) Tính chất nguy
hiểm cho xã hội của các hành vi phạm tội; 2) Mức độ thực hiện ý định phạm
tội của chủ thể thực hiện hành vi; 3) Thời điểm chấm dứt của những hành
vi đó [9, tr.61]. Trong thực tế, quá trình thực hiện việc phạm tội của tội
phạm trong nhiều trường hợp người phạm tội phải tiến hành từng bước, từng
bước một để hoàn thành tội phạm (như: hình thành ý định và biểu lộ ý định
phạm tội, chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội, chuẩn bị thực hiện hành vi
liền kề và dần thực hiện hành vi phạm tội). Tuy vậy, về phương diện chủ quan
có sự đối lập thể hiện ở chỗ: mặc dù hành vi phạm tội bị dừng lại nhưng người
phạm tội đã cố ý thực hiện hành vi đó và vẫn muốn thực hiện tiếp hành vi
9
phạm tội của mình, vì trong tư tưởng, suy nghĩ của họ bao giờ cũng mong
muốn thực hiện toàn bộ quá trình đó để đạt được kết quả như dự định đã đặt ra
ban đầu. Qua thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy có không ít
trường hợp người phạm tội không thực hiện được đầy đủ những dự định đó
hoặc họ không tiến hành thực hiện được hành vi phạm tội đến cùng vì những
nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của mình. Quan điểm về các giai đoạn
thực hiện tội phạm còn được GS.TSKH. Lê Văn Cảm tổng kết trong sách
chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự
(Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005 về khái niệm các giai
đoạn thực hiện tội phạm, cụ thể như sau: 1) Các giai đoạn thực hiện tội phạm là
các giai đoạn chuẩn bị và trực tiếp thực hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với
nhau theo tính chất (nội dung) của hành vi đã được thực hiện và thời điểm chấm
dứt xử sự có tính chất tội phạm (B.V.Zđravômưxlôv); 2) Các giai đoạn thực hiện
tội phạm là các giai đoạn nhất định của việc chuẩn bị và thực hiện tội phạm cố ý,
được phân biệt với nhau theo tính chất của những hành vi được thực hiện và thời
điểm chấm dứt hành vi ấy (X.G.Kelina); 3) Các giai đoạn của việc chuẩn bị và
trực tiếp thực hiện tội phạm được quy định trong luật và được phân biệt với nhau
theo tính chất và nội dung của hành vi người phạm tội thực hiện, cũng như mức
độ kết thúc hành vi phạm tội (Ê.F.Pobegailô)… [2, tr.440-441].
Tuy nhiên cho đến nay khái niệm tội phạm chưa hoàn thành vẫn chưa
được pháp luật hình sự Việt Nam ghi nhận cụ thể.
Tại Điều 29, Chương 6 trong Bộ luật hình sự của Liên Bang Nga quy
định: “1. Tội phạm chưa hoàn thành là chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa
đạt...” [21, Điều 29]. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, GS.TSKH. Lê
Văn Cảm đưa ra quan điểm về khái niệm tội phạm chưa hoàn thành như sau:
tội phạm chưa hoàn thành là hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt
[2, tr.440-441]. Theo tác giả, quan điểm của GS.TSKH. Lê Văn Cảm là phù
10
hợp với những quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các giai đoạn thực
hiện tội phạm của tội phạm chưa hoàn thành, từ đó phân biệt giữa khái niệm
tội phạm chưa hoàn thành và khái niệm tội phạm đã hoàn thành, đồng thời
làm rõ cơ sở để phân chia các giai đoạn phạm tội để xác định đúng và đầy đủ
trách nhiệm hình sự đối với từng giai đoạn thực hiện tội phạm cụ thể.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu khái niệm tội phạm chưa hoàn thành là
hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, nội dung cụ thể của hai giai
đoạn thực hiện tội phạm này như sau:
+ Giai đoạn chuẩn bị phạm tội:
Chuẩn bị phạm tội là một giai đoạn phạm tội trong tội phạm chưa hoàn
thành và là một phần của quá trình thực hiện tội phạm cố ý. Ở giai đoạn chuẩn
bị phạm tội, người phạm tội đã có hành vi nhằm tạo ra những điều kiện cần
thiết, tạo tiền đề cho việc thực tiện tội phạm, tuy nhiên người phạm tội chưa
bắt đầu thực hiện tội phạm đó, tức là chưa có hành vi xâm phạm đến đối
tượng tác động. Ví dụ như: A chuẩn bị các công cụ sử dụng để phá khóa với
mục đích đến nhà B phá khóa trộm cắp tài sản của gia đình B, nhưng khi
chuẩn bị thực hiện hành vi thì bị lực lượng dân quân tự vệ phát hiện nên A
không thực hiện hành vi trộm cắp tại nhà B.
Giai đoạn chuẩn bị phạm tội được quy định tại Điều 17 Bộ luật hình
sự, theo đó chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện
hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm. Người chuẩn bị
phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng phải chịu trách
nhiệm hình sự [16, Điều 17].
Pháp luật hình sự quy định thời điểm sớm nhất của giai đoạn chuẩn bị
phạm tội là khi tội phạm đã bắt đầu thực hiện những hành vi với mục đích tạo
ra những điều kiện vật chất, tinh thần để cho quá trình phạm tội diễn ra thuận
lợi, dễ dàng và ngay trước khi người phạm tội bắt đầu thực hiện hành vi
11
khách quan được phản ánh trong cấu thành tội phạm là thời điểm muộn nhất
của giai đoạn chuẩn bị phạm tội, một khi người phạm tội đã bắt đầu thực hiện
tội phạm thì mặc nhiên đã không còn ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
Đặc điểm của hành vi chuẩn bị phạm tội là chưa trực tiếp làm biến đổi
tình trạng của đối tượng tác động của tội phạm để gây thiệt hại cho các quan
hệ xã hội là khách thể của loại tội phạm định thực hiện nhưng có ảnh hưởng
tới khả năng gây thiệt hại của tội phạm.
Kết quả của việc thực hiện tội phạm phần nào phụ thuộc vào hành vi
chuẩn bị phạm tội, nếu quá trình chuẩn bị phạm tội càng chi tiết, kĩ lưỡng thì
quá trình thực hiện tội phạm có khả năng gây ra hậu quả cao hơn, nghiêm
trọng hơn. Theo luật hình sự Việt Nam, không phải hành vi chuẩn bị phạm tội
nào cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự, việc truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với hành vi chuẩn bị phạm tội được đánh giá và phân biệt thành hai loại:
loại hành vi chuẩn bị phạm tội phải truy cứu trách nhiệm hình sự (nếu tội định
phạm là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng) và loại không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự, mặc dù cả hai loại đều chưa gây ra hậu quả,
nhưng tính chất nguy hiểm của hành vi chuẩn bị phạm tội có khác nhau và sự
khác nhau đó lại không phụ thuộc vào tính chất và mức độ của hành vi chuẩn
bị phạm tội mà nó hoàn toàn phụ thuộc vào tính chất nghiêm trọng của tội
phạm mà người đó định thực hiện.
Hành vi chuẩn bị phạm tội thường được thể hiện dưới các dạng sau:
- Chuẩn bị kế hoạch phạm tội như: bàn bạc, phân công trách nhiệm cho
từng người, kế hoạch tiêu thụ tài sản hay kế hoạch che giấu tội phạm... Dạng
chuẩn bị phạm tội này thường xảy ra đối với những tội phạm được thực hiện
có đồng phạm hoặc có tổ chức. Tuy nhiên cũng có trường hợp tội phạm chỉ
do một người thực hiện vẫn có sự chuẩn bị kế hoạch phạm tội. Ví dụ: A có ý
định đầu độc B, tự A đã vạch ra một kế hoạch như mua thuốc độc ở đâu, bỏ
12
thuốc độc vào nước cho B uống như thế nào, sau khi B trúng độc thì làm thế
nào để che giấu được tội phạm...
- Thăm dò hoặc tìm địa điểm phạm tội, dạng chuẩn bị này chủ yếu đối
với các tội xâm phạm sở hữu hoặc xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của công dân. Ví dụ: A muốn trộm cắp nhà B, nên A đã nhiều lần
đến nhà B thăm dò xem gia đình B thường vắng mặt nhà vào giờ nào, quy luật
sinh hoạt của gia đình ra sao để tiến hành trộm cắp.
- Chuẩn bị công cụ phương tiện phạm tội: chuẩn bị xe máy để đi cướp
tài sản, chuẩn bị dao để giết người, chuẩn bị thuốc độc để đầu độc, chuẩn bị
xăng để đốt nhà, chuẩn bị thuốc mê để gây mê cho người có tài sản nhằm
chiếm đoạt tài sản của họ, chuẩn bị con dấu giả để lừa đảo...
- Loại trừ trước những trở ngại khách quan để thực hiện tội phạm được
thuận lợi, dễ dàng như: tắt hệ thống camera để đêm đột nhập vào công ty trộm
tài sản, cho bảo vệ uống rượu say để đột nhập vào cơ quan được dễ dàng...
Khi người phạm tội thực hiện tội phạm ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội,
trong trường hợp hành vi phạm tội đã cấu thành tội phạm độc lập khác thì
người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội độc lập đó. Ví dụ như: A
có ý định giết B nên đã tìm mua một khẩu súng quân dụng, sau đó A đi tìm B
để giết, nhưng trên đường đi đã bị công an xã bắt. Vậy hành vi của A đã cấu
thành một tội độc lập là tội mua bán trái phép vũ khí quân dụng (Điều 230 Bộ
luật hình sự), ngoài ra A còn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người ở
giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
+ Giai đoạn phạm tội chưa đạt:
Điều 18 của Bộ luật hình sự quy định: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực
hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân
ngoài ý muốn của người phạm tội” [16, Điều 18].
Chỉ có các tội được thực hiện do cố ý thì mới có phạm tội chưa đạt.
13
Điều luật không quy định hình thức cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp, nhưng
căn cứ vào nội dung của điều luật quy định “không thực hiện được đến cùng”,
tức là người phạm tội có mục đích thực hiện tội phạm đến cùng, nên họ mong
muốn cho hậu quả xảy ra chứ không phải để mặc cho hậu quả xảy ra. Do đó
phạm tội chưa đạt chỉ có thể xảy ra đối với trường hợp cố ý trực tiếp.
Theo luật hình sự Việt Nam, có ba dấu hiệu xác định trường hợp phạm
tội chưa đạt [23, tr.156-158]:
Dấu hiệu thứ nhất: người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm. Đây
là dấu hiệu phân biệt phạm tội chưa đạt với chuẩn bị phạm tội. Sự bắt đầu này
thể hiện ở chỗ: người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả
trong cấu thành tội phạm. Ví dụ: kẻ giết người đã thực hiện hành vi tước đoạt
tính mạng người khác (như đã đâm, đã bắn, đã chém) là hành vi được mô tả
trong cấu thành tội phạm tội giết người (Điều 93 Bộ luật hình sự). Cũng được
coi là đã bắt đầu thực hiện tội phạm nếu người phạm tội đã thực hiện được
hành vi đi liền trước hành vi khách quan. Đó là những hành vi (xét về khách
quan và chủ quan) thể hiện là sự bắt đầu của hành vi khách quan và kế tiếp
ngay sau nó hành vi khách quan sẽ xảy ra. Ví dụ: hành vi nhặt dao để đâm,
lắp đạn để bắn trong trường hợp phạm tội giết người được coi là hành vi đi
liền trước. Những hành vi này chưa phải là hành vi khách quan, chưa phải là
hành vi tước đoạt tính mạng người khác (hành vi đâm, hành vi bắn) nhưng nó
là sự bắt đầu của hành vi khách quan và ngay sau nó hành vi khách quan
(hành vi đâm, hành vi bắn) sẽ xảy ra. Những hành vi “đi liền trước” như vậy
tuy thể hiện là sự chuẩn bị nhưng vì rất gần với hành vi khách quan, không
tách ra được nên cũng được coi là hành vi thực hiện tội phạm.
Dấu hiệu thứ hai: người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến
cùng (về mặt pháp lí), nghĩa là hành vi của họ chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu
(thuộc mặt khách quan) của cấu thành tội phạm. Những trường hợp hành vi
14
phạm tội chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan) của cấu
thành tội phạm có thể xảy ra ở một trong những dạng dưới đây:
- Chủ thể chưa thực hiện được hành vi khách quan mà mới chỉ thực
hiện được “hành vi đi liền trước”. Ví dụ: kẻ giết người mới nhặt dao để đâm
thì bị bắt giữ.
- Chủ thể đã thực hiện được hành vi khách quan nhưng chưa gây ra hậu
quả của tội phạm. Ví dụ: kẻ giết người đã đâm được nạn nhân nhưng nạn
nhân không chết.
- Chủ thể đã thực hiện được hành vi khách quan nhưng chưa thực hiện
hết. Ví dụ: kẻ hiếp dâm mới vật ngã được nạn nhân nhưng chưa thực hiện
được việc giao cấu thì bị bắt giữ.
- Hậu quả thiệt hại tuy đã xảy ra nhưng không có quan hệ nhân quả
với hành vi khách quan mà chủ thể đã thực hiện. Ví dụ: A cầm dao đột nhập
vào nhà để giết B, A thấy B chùm chăn nằm trên giường liền lao tới và đâm
nhiều nhát vào người B, nghĩ rằng B đã chết nên A bỏ đi. Tuy nhiên trên
thực tế, trước khi A đột nhập vào nhà B thì B đã chết, như vậy hậu quả chết
người tuy đã xảy ra với B nhưng không có quan hệ nhân quả với hành vi
khách quan của A.
Trong bốn dạng có thể xảy ra nêu trên, hai dạng (2 và 4) chỉ có thể có ở
những tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất.
Dấu hiệu thứ ba: người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến
cùng là do những nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Bản thân người phạm
tội vẫn muốn tội phạm hoàn thành nhưng tội phạm không hoàn thành là do:
- Nạn nhân hoặc người bị hại đã chống cự lại được hoặc đã tránh được;
- Người khác đã ngăn chặn được;
- Có những trở ngại khác như bắn nhưng đạn không nổ; thuốc độc để
đầu độc không đủ liều lượng.
15
Căn cứ vào thái độ tâm lí của người phạm tội đối với hành vi mà họ đã
thực hiện, khoa học pháp lý chia phạm tội chưa đạt thành hai loại: chưa đạt đã
hoàn thành và chưa đạt chưa hoàn thành, cụ thể:
- Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp người phạm tội đã
thực hiện đầy đủ những hành vi mà họ cho là cần thiết để gây hậu quả, nhưng
vì nguyên nhân khách quan (ngoài ý muốn) hậu quả đó không xảy ra (chưa
đạt về hậu quả, hoàn thành về hành vi). Ví dụ một người có ý định giết người
khác, đã dùng dao đâm 3 phát vào người nạn nhân và tin nạn nhân đã chết nên
bỏ đi, nhưng sau đó nạn nhân được cứu chữa nên không chết. Ở đây người
phạm tội đã hành động như ý muốn và tin là hậu quả sẽ xảy ra nhưng lại
không xảy ra. Trường hợp này người phạm tội dừng lại mặc dù không còn gì
ngăn cản nhưng cũng không được coi là tự nguyện nửa chừng chấm dứt thực
hiện tội phạm, vì người phạm tội đã thỏa mãn với hành vi nhưng chưa thỏa
mãn về hậu quả.
- Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp người phạm tội vì
nguyên nhân khách quan, chưa thực hiện hết các hành vi mà họ cho là cần
thiết để gây ra hậu quả nên hậu quả không xảy ra (chưa đạt về hậu quả, chưa
hoàn thành về hành vi). Ví dụ: một người có ý định giết người khác nên dùng
dao đâm vào người khác để tước đoạt tính mạng người đó, nhưng mới đâm
được một nhát thì bị người dân xung quanh ngăn cản, không đâm tiếp được
nữa và nạn nhân không chết, chỉ bị thương. Trường hợp này người phạm tội
chưa đâm được như ý muốn và hậu quả cũng chưa xảy ra.
Căn cứ vào tính chất đặc biệt của nguyên nhân dẫn đến việc chưa đạt
thì luật hình sự còn có trường hợp phạm tội chưa đạt vô hiệu, đây là trường
hợp phạm tội chưa đạt mà nguyên nhân khách quan của việc chưa đạt gắn với
công cụ, phương tiện, với đối tượng tác động của tội phạm.
16
*/ Từ khái niệm về tội phạm chưa hoàn thành, chúng ta có thể thấy
được các đặc điểm của tội phạm chưa hoàn thành như sau:
- Trong Luật hình sự Việt Nam chưa có khái niệm cụ thể về tội phạm
chưa hoàn thành, qua đó khái niệm chuẩn bị phạm tội và phạm tôi chưa đạt
dùng để phân biệt với khái niệm tội phạm hoàn thành. Theo đó, tội phạm chưa
hoàn thành là hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, diễn ra trước
giai đoạn tội phạm hoàn thành.
- Tội phạm chưa hoàn thành chưa thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho
xã hội, chưa gây ra hậu quả nguy hại hoặc hậu quả xảy ra không phải là hậu
quả được quy định đối với tội đó.
- Để đánh giá mức độ thực hiện tội phạm và qua đó có cơ sở xác định
phạm vi trách nhiệm hình sự của người phạm tội nên đối với tội phạm chưa
hoàn thành, pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành phân biệt hai mức độ thực
hiện tội phạm là: chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Cụ thể hành vi
chuẩn bị phạm tội là hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện tội
phạm, người chuẩn bị phạm tội chưa trực tiếp bắt tay vào việc thực hiện tội
phạm, các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ mới bị đe dọa gây thiệt hại
chứ chưa bị gây thiệt hại, còn đối với phạm tội chưa đạt thì người phạm tội đã
bắt tay vào việc thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì
những nguyên nhân ngoài ý muốn của người đó. Sự khác nhau giữa chuẩn bị
phạm tội với phạm tội chưa đạt là ở chỗ hành vi chuẩn bị phạm tội mới là
hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm, chứ chưa phải
là hành vi thực hiện tội phạm. Người chuẩn bị phạm tội chưa trực tiếp bắt tay
vào việc thực hiện tội phạm còn người phạm tội chưa đạt đã bắt tay vào việc
thực hiện tội phạm, bắt tay vào việc thực hiện hành vi thuộc mặt khách quan
của một cấu thành tội phạm cụ thể (mà dấu hiệu của mặt khách quan được
quy định tại một điều luật cụ thể phần các tội phạm của Bộ luật hình sự) hoặc
những hành vi đi liền trước hành vi thuộc mặt khách quan đó.
17
- Mặt khách quan của cấu thành tội phạm chưa hoàn thành chưa có các
dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm hoàn thành hoặc chưa thỏa mãn
hết các dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm hoàn thành.
- Mặt chủ quan của cấu thành tội phạm chưa hoàn thành bao giờ cũng
được thực hiện bằng lỗi trực tiếp, người chuẩn bị phạm tội và người phạm tội
chưa đạt đã có ý thức lựa chọn thái độ phủ định với các yêu cầu và chuẩn mực
xã hội, người chuẩn bị phạm tội và người phạm tội chưa đạt chưa thực hiện
được tội phạm đến cùng hoàn toàn do những nguyên nhân khách quan ngoài ý
muốn của họ. Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng việc chỉ thừa nhận có
giai đoạn chuẩn bị phạm tội và giai đoạn phạm tội chưa đạt trong các tội
phạm thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp cần phải được xem xét lại. Theo quan
điểm này, cần phải thừa nhận các giai đoạn phạm tội, đặc biệt là giai đoạn
phạm tội chưa đạt đối với các tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp.
Bởi lẽ, khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội với lỗi cố ý gián tiếp,
người thực hiện hành vi đã nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi của mình, đã thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó.
Nghĩa là, người thực hiện hành vi với lỗi cố ý gián tiếp đã có ý thức lựa chọn
một hành vi phạm tội, lựa chọn thái độ phủ định đối với các yêu cầu và chuẩn
mực xã hội (đã được quy định thành chuẩn mực pháp lý) và chấp nhận (để
mặc) cho hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra. Hậu quả nguy hiểm cho xã
hội xảy ra hay không xảy ra hoàn toàn phụ thuộc vào các điều kiện khách
quan bên ngoài. Bởi vậy, cả trong trường hợp hậu quả nguy hiểm cho xã hội
không xảy ra thì việc xác định trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội do lỗi cố ý gián tiếp vẫn là cần thiết. Theo tác
giả, đối với tội cố ý gián tiếp hay vô ý chỉ có thể có trường hợp có tội hay
không có tội, trong tội cố ý gián tiếp người phạm tội không nhận thức trước
được hậu quả nguy hiểm cho xã hội, không mong muốn hậu quả xảy ra, nên
18
không thể có các giai đoạn chuẩn bị phạm tội cũng như phạm tội chưa đạt, do
đó tác giả cho rằng việc xác định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa
hoàn thành do lỗi cố ý gián tiếp là chưa thật sự hợp lý.
- Nguyên nhân của tội phạm chưa hoàn thành là do những nguyên nhân
khách quan ngoài ý muốn, trong trường hợp này người phạm tội chỉ mới thực
hiện được giai đoạn đầu tiên của quá trình thực hiện tội phạm do cố ý trực
tiếp, tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện
khác để thực hiện tội phạm hay khi người phạm tội đã bắt đầu thực hiện hành
vi được mô tả trong cấu thành tội phạm, đe dọa, xâm hại đến khách thể của tội
phạm một cách trực tiếp nhưng chưa thực hiện hết các hành vi được cho là
cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm, không thực hiện được đến cùng
hành vi phạm tội.
- Về nguyên tắc, người phạm tội ở giai đoạn tội phạm chưa hoàn thành
phải chịu trách nhiệm hình sự như trường hợp tội phạm hoàn thành, theo cùng
một điều luật, cùng tội danh và cùng trong phạm vi khung hình phạt quy định
tại điều luật đó. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự nước ta thừa nhận, khi
định tội đối với hành vi phạm tội chưa đạt, phải định tội danh là chuẩn bị phạm
tội hoặc phạm tội chưa đạt về tội gì và phải viện dẫn điều luật quy định về tội
đó, đồng thời viện dẫn thêm Điều 17 Bộ luật hình sự (nếu là hành vi chuẩn bị
phạm tội) hoặc Điều 18 Bộ luật hình sự (nếu là hành vi phạm tội chưa đạt), ví
dụ: bản án xử những trường hợp phạm tội chưa đạt phải định tội danh là phạm
tội chưa đạt về tội gì (ví dụ tội giết người chưa đạt) và phải viện dẫn điều luật
quy định về tội đó (như Điều 93 Bộ luật hình sự về tội giết người) và Điều 18
Bộ luật hình sự về phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên căn cứ theo tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội, pháp luật Hình sự Việt Nam quy định trách nhiệm
hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành nhẹ hơn tội phạm đã hoàn thành, cụ
thể về khách quan, trong những điều kiện giống nhau hành vi chuẩn bị phạm
19
tội nguy hiểm cho xã hội ít hơn so với hành vi phạm tội chưa đạt và hành vi
phạm tội chưa đạt ít nguy hiểm hơn so với tội phạm hoàn thành tương ứng: bởi
vậy với những điều kiện giống nhau, trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn
bị phạm tội nhẹ hơn trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội chưa đạt và
trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội chưa đạt nhẹ hơn trách nhiệm
hình sự đối với tội phạm hoàn thành tương ứng.
- Nguyên tắc chung của việc quyết định hình phạt đối với tội phạm
chưa hoàn thành là không những phải căn cứ vào căn cứ chung (Điều 45 Bộ
luật hình sự) mà còn phải dựa vào căn cứ riêng (Điều 52 Bộ luật hình sự) khi
quyết định hình phạt đối với trường hợp này.
1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tội phạm chưa hoàn thành
Do Bộ luật hình sự Việt Nam không có quy định cụ thể về tội phạm chưa
hoàn thành, nên việc nghiên cứu tội phạm chưa hoàn thành có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt. Việc
truy cứu trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt kịp thời, chính xác và
đúng pháp luật, tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội sẽ mang lại hiệu quả cao trong việc giáo dục, răn đe người
phạm tội, từ đó nâng cao cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm,
nhằm hạn chế các sự việc phạm tội có thể xảy ra. Mặt khác, quyết định hình
phạt đúng còn là cơ sở để đạt được các mục đích của hình phạt, vừa mang tính
giáo dục, vừa thể hiện được sự công minh và nghiêm khắc của pháp luật.
Xác định một cách chính xác về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm chưa hoàn thành, về mặt nội dung pháp luật Việt Nam quy
định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành bao giờ cũng nhẹ
hơn tội phạm đã hoàn thành, cụ thể trong những điều kiện giống nhau, tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi chuẩn bị phạm tội nhẹ
hơn tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội chưa
20
đạt và tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội
chưa đạt nhẹ hơn tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với tội phạm
hoàn thành tương ứng.
Qua đó chúng ta có thể thấy rằng, việc nghiên cứu về tội phạm chưa
hoàn thành có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Về lý luận:
việc nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành giúp chúng ta bổ sung thêm,
làm rõ về mặt lý luận các vấn đề liên quan đến tội phạm chưa hoàn thành, từ
những nghiên cứu đó có thể đưa ra những cơ sở lý luận một các hoàn chỉnh về
tội phạm chưa hoàn thành. Về mặt thực tiễn: việc nghiên cứu về tội phạm
chưa hoàn thành giúp cho các cơ quan tố tụng áp dụng pháp luật chính xác và
hiệu quả, nhằm đánh giá đúng tính chất, mức độ của hành vi phạm tội. đảm
bảo cho việc truy tố, xét xử đúng người đúng tội theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành có hiệu quả lớn
trong nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, giúp ngăn ngừa tội phạm
ngay từ mới bắt đầu.
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp về tội phạm chưa hoàn thành
Pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kì đã có những quy định khác
nhau về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành.
1.2.1. Giai đoạn sau cách mạng tháng 8 đến trước khi Bộ luật hình
sự năm 1985 có hiệu lực
Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, để các quan hệ xã hội có thể
tiếp tục duy trì sự ổn định, các văn pháp pháp luật của chế độ cũ được chính
quyền cách mạng tiếp tục áp dụng, bên cạnh đó chính quyền cách mạng tiến
hành ban hành nhiều văn bản mới trong lĩnh vực luật hình sự. Ngày
10/10/1945, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký Sắc lệnh cho
phép áp dụng pháp luật của chế độ cũ nhưng Sắc lệnh cũng quy định rằng
không chấp nhận các án lệ cũ. Việc ban hành Sắc lệnh của Chủ tịch chính phủ
21
lâm thời đã mở đầu và định hướng cho việc hình thành và hoàn thiện pháp
luật hình sự Việt Nam sau này. Trong hoàn cảnh đất nước ta vừa mới đánh đổ
sự thống trị của phát xít Nhật để giành lại chính quyền, do còn thiếu kinh
nghiệm trong xây dựng pháp luật nên trong suốt quãng thời gian này các văn
bản pháp luật hình sự Việt Nam là một tập hợp các văn bản đơn hành thể hiện
dưới nhiều hình thức tên gọi như Sắc lệnh, Thông tư, Điều lệ… Trong khoảng
những năm 1970, chính quyền nước Việt Nam đã ban hành một số văn bản
pháp luật hình sự có tính pháp điển hóa như Pháp lệnh trừng trị các tội phản
cách mạng vào ngày 30/10/1967; Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản
xã hội chủ nghĩa vào ngày 21/10/1970; Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm
tài sản riêng của công dân vào ngày 21/10/1970; Sắc luật số 03/SL của Chính
phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam vào ngày 15/3/1976; Pháp lệnh
trừng trị tội hối lộ vào ngày 20/5/1981…
Trong giai đoạn này, do hạn chế về kỹ thuật lập pháp, các quy định của
pháp luật về các giai đoạn phạm tội không được đề cập một cách rõ ràng mà
chỉ được thể hiện qua các điều luật cụ thể, trong những tội phạm cụ thể, có
cấu thành tội phạm cụ thể và quy định những hình phạt riêng đối với các tội
phạm đó. Theo đó, quy định của pháp luật hình sự về các giai đoạn thực hiện
tội phạm từ sau cách mạng tháng 8 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 có
hiệu lực có thể được rút ra làm các giai đoạn: âm mưu phạm tội; chuẩn bị
phạm tội; phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Do yêu cầu thực tiễn
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời kỳ còn chiến tranh ở nước
ta, pháp luật hình sự ở giai đoạn này quy định việc biểu lộ ý định phạm tội là
một trong những giai đoạn phạm tội và là tội phạm, ví dụ như trong tội phản
cách mạng tại Điều 2 Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng vào ngày
30/10/1967 [5, Điều 2], cụ thể như sau:
22
“Âm mưu phạm tội và hành động phạm tội đều bị trừng trị”
Tại bản Tổng kết số 452-HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân Tối
cao về thực tiễn xét xử các tội giết người có giải thích như sau: “Tội giết
người chưa hoàn thành khi người bị nạn chết, đối với trường hợp giết người
nhưng không chết, nên thống nhất gọi là giết người chưa đạt” [19, tr.27].
Như vậy, trong pháp luật thời kỳ này mặc dù chưa có quy định cụ thể về giai
đoạn phạm tội chưa đạt nhưng bản Tổng kết trên đã đưa ra một khái niệm về
giai đoạn phạm tội chưa đạt, thừa nhận về giai đoạn phạm tội chưa đạt.
Ngoài ra Điều 19 của Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng
của công dân vào ngày 21/10/1970 [6, Điều 19] còn quy định về việc xử nhẹ
hoặc miễn hình phạt đối với tội phạm chưa bị phát giác, chưa ở giai đoạn tội
phạm đã hoàn thành với nội dung:
Điều 19: Những trường hợp xử nhẹ hoặc miễn hình phạt
Kẻ nào phạm những tội quy định ở Chương II mà tội phạm
thuộc vào một hoặc nhiều trường hợp sau đây thì được xử nhẹ hoặc
miễn hình phạt:
1. Tội phạm chưa bị phát giác mà kẻ phạm tội thành thật thú
tội với cơ quan chuyên trách, khai rõ hành động của mình và của
đồng bọn... .
Như vậy trong giai đoạn này tuy chưa quy định cụ thể nhưng pháp luật
hình sự đã có sự phân hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt đối đối từng giai
đoạn phạm tội, từ đó bảo vệ được quyền tự do của công dân, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội và quy định trách nhiệm
hình sự phù hợp với tính chất và mức độ phạm tội của tội phạm.
1.2.2. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực
Có thể nói, Bộ luật hình sự năm 1985 là sự kết hợp thành tựu 40 năm
hoạt động lập pháp của chính quyền cách mạng Việt Nam, là kết quả của quá
23
trình thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta từ năm 1945 đến
thời điểm Bộ luật được ban hành. Bộ luật hình sự năm 1985 là một bộ luật
thống nhất xác định rõ các quy định liên quan đến tội phạm và hình phạt.
Về quy định về các giai đoạn phạm tội, Bộ luật hình sự năm 1985 quy
định có trách nhiệm hình sự hay không có trách nhiệm hình sự đối với giai
đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt của các tội phạm cố ý, điều này
thể hiện sự phân hóa trong trách nhiệm hình sự của tội phạm chưa hoàn thành
so với tội phạm đã hoàn thành. Chỉ có những người có hành vi chuẩn bị phạm
tội, tội gây nguy hại lớn cho xã hội mà được Luật hình sự quy định là tội
nghiêm trọng mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, so với các giai
đoạn phạm tội khác thì chuẩn bị phạm tội có mức độ nguy hiểm cho xã hội
thấp nhất và chuẩn bị phạm tội tội ít nghiêm trọng ít nguy hiểm hơn chuẩn bị
phạm tội nghiêm trọng. Cụ thể:
Điều 15 Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định:
1- Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương
tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm.
Người chuẩn bị phạm một tội nghiêm trọng phải chịu trách
nhiệm hình sự.
2- Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không
thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của
người phạm tội.
3- Đối với những hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm
tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các Điều của Bộ luật
này về các tội phạm tương ứng, tuỳ theo tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và
những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến
cùng [14, Điều 15].
24
Tuy nhiên, theo Điều 15 Bộ luật hình sự năm 1985 thì người chuẩn bị
phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về cùng một tội danh, theo cùng một
điều luật và trong cùng một phạm vi chế tài như trường hợp tội phạm hoàn
thành, điều đó chưa tạo được cơ sở pháp lí đầy đủ để phân hóa trách nhiệm
hình sự đối với các hành vi thực hiện tội phạm ở các mức độ khác nhau cho
tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội, trong đó các hành vi thực hiện tội phạm ở các mức độ khác nhau và có
mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Sự phân hóa trách nhiệm hình sự
đối với chuẩn bị phạm tội của một loại tội cố ý chỉ có thể thực hiện được một
cách triệt để nếu đảm bảo được nguyên tắc tương xứng giữa mức độ trách
nhiệm hình sự cần xác định với mức độ nguy hiểm của hành vi đó. Theo đó,
để tương xứng với mức độ nguy hiểm của các hành vi thực hiện một tội phạm
cố ý ở các mức độ khác nhau thì rõ ràng thông qua các quy định của mình,
Luật hình sự phải thể hiện được nguyên tắc xử lí là chuẩn bị phạm tội bị xử
nhẹ hơn các giai đoạn phạm tội khác (nếu có các tình tiết khác tương đương).
Như vậy, đối với tội phạm ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, Bộ luật hình
sự năm 1985, tuy đã thể hiện được sự phân hóa hợp lí trong quy định về xác
lập trách nhiệm hình sự nhưng vẫn chưa thể hiện được sự phân hóa hợp lí
trong quy định về xác định trách nhiệm hình sự.
1.2.3. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực
Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009) là
Bộ luật hình sự hiện hành của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Theo đó, Bộ luật hình sự năm 1999 đã có những điểm mới liên quan
đến trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội để khắc phục những
hạn chế và phân hóa hơn trách nhiệm hình sự đối với các hành vi thực hiện tội
phạm cố ý ở các mức độ khác nhau.
25
Điều 17 của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định:
Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương
tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm.
Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội
đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định
thực hiện [15, Điều 17].
Điều 18 của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không
thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của
người phạm tội.
Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm chưa đạt [15, Điều 18].
Đối với giai đoạn chuẩn bị phạm tội, trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra khi
đó là hành vi chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng (tội có mức độ cao nhất của
khung hình phạt từ trên 7 năm đến 15 năm tù) và tội đặc biệt nghiêm trọng
(tội có mức cao nhất của khung hình phạt là trên 15 năm tù).
Ngoài ra Điều 52 Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định về việc quyết
định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt:
1. Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội
chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này
về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những
tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.
2. Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu điều luật được
áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử
hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là không quá hai
mươi năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá
một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.
26
3. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được
áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử
hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc
biệt nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không
quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định [15, Điều 52].
Việc quy định giới hạn mức cao nhất của khung hình phạt được áp
dụng cho hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt như trên là
điểm mới về sự phân hóa trách nhiệm hình sự giữa hành vi phạm tội hoàn
thành và hành vi phạm tội chưa hoàn thành so với Bộ luật hình sự năm 1985.
Theo quy định trên thì người chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm
hình sự về cùng một tội danh, theo cùng một điều luật như trường hợp phạm
tội hoàn thành nhưng không trong cùng một phạm vi chế tài quy định cho tội
phạm hoàn thành như đã được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985. Chế
tài được áp dụng để xác định trách nhiệm hình sự cho chuẩn bị phạm tội tuy
vẫn là chế tài quy định cho tội phạm cố ý (ở gian đoạn hoàn thành) nhưng bị
giới hạn thấp hơn về hình phạt nặng nhất hoặc về mức cao nhất của khung
hình phạt nặng nhất (mà vẫn giữ nguyên mức thấp nhất của khung hình phạt),
cụ thể như loại hình phạt nghiêm khắc nhất là tù chung thân hoặc tử hình
trong trường hợp được quy định trong điều luật về tội phạm cụ thể không thể
áp dụng trong trường hợp chuẩn bị phạm tội (nếu điều luật được áp dụng có
quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt
cao nhất được áp dụng là không quá hai mươi năm tù) và mức cao nhất của
khung hình phạt tù quy định trong điều luật cũng không thể áp dụng cho
chuẩn bị phạm tội của tội phạm được quy định trong điều luật (mức cao nhất
của khung hình phạt tù quy định cho chuẩn bị phạm tội không quá 1/2 mức
cao nhất của khung hình phạt quy định cho tội phạm hoàn thành).
27
1.3. Tội phạm chưa hoàn thành quy định trong luật hình sự một số nước
Pháp luật hình sự Việt Nam và các nước trên thế giới có những quy
định giống và khác nhau về tội phạm chưa hoàn thành và trách nhiệm hình sự
đối với tội phạm chưa hoàn thành.
1.3.1. Tội phạm chưa hoàn thành quy định trong Bộ luật hình sự của
nước Thụy Điển
Bộ luật hình sự Thụy Điển được thông qua vào năm 1962 và có hiệu lực
từ ngày 01/01/1965 và đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần các năm 1967, 1970,
1974, 1976, 1986, 1988, 1994… và lần sửa đổi gần đây nhất vào năm 1999. Bộ
luật hình sự Thụy Điển quy định các hành vi được coi là tội phạm ở Thụy Điển.
Các quy định về tội phạm khác cũng được tìm thấy trong luật pháp đặc biệt. Nó
cũng chứa đựng các quy định chung trên tất cả các tội phạm, hình thức xử phạt
đối với tội phạm và cách áp dụng của pháp luật Thụy Điển.
Bộ luật hình sự Thụy Điển không nêu cụ thể nội dung khái niệm về tội
phạm chưa hoàn thành mà chỉ đưa ra một cách gián tiếp thông qua các quy
định về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, ghi nhận về tội phạm chưa
hoàn thành trong các điều luật cụ thể.
Theo đó, Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định trách nhiệm hình sự đối
với hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, mức giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự và quyết định hình phạt tại các điều khoản quy định về chuẩn bị phạm
tội và phạm tội chưa đạt như sau:
Tại Chương 22 Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định:
Điều 11
Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt các tội
giết người, ngộ sát, giết trẻ sơ sinh, gây thương tích hoặc tổn hại
cho sức khỏe của người khác không thuộc trường hợp ít nghiêm
trọng cũng như âm mưu đồng phạm giết người, ngộ sát hoặc cố ý
28
gây thương tích hoặc gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe của
người khác, không tố giác tội phạm thì áp dụng hình phạt được quy
định tại Chương 23 của Bộ luật này (Luật 1991: 679).
Tại Chương 23 Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định:
Người nào với mục đích thực hiện tội phạm hoặc thúc đẩy
việc phạm tội mà tặng hoặc nhận tiền và các tài sản khác với tính
chất là các khoản trả trước hoặc thanh toán cho việc thực hiện tội
phạm hoặc người nào cung cấp, xây dựng, trao nhận, giữ, vận
chuyển hoặc tham gia vào bất cứ một hoạt động tương tự nào khác
liên quan đến chất độc, chất nổ, vũ khí, dụng cụ nạy khóa, dụng cụ
làm đồ giả mạo hoặc các phương tiện tương tự, trong các trường
hợp có các quy định riêng cho hành vi này thì bị xử phạt về hành vi
phạm tội trừ trường hợp người đó bị xử phạt về tội đã hoàn thành
hoặc phạm tội chưa đạt... [22, Điều 2].
Về khái niệm phạm tội chưa đạt của Bộ luật hình sự Thụy Điển, tại
Điều 1 Chương 23 Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định:
Người nào đã bắt đầu thực hiện tội phạm nhưng chưa thực
hiện được đến cùng, trong các trường hợp có quy định riêng về vấn
đề này thì bị xử phạt về hành vi phạm tội chưa đạt nếu hành vi đó
có khả năng gây nguy hiểm khi được thực hiện đến cùng hoặc nguy
cơ đó chỉ bị ngăn chặn do hoàn cảnh khách quan [22].
. Như vậy, khái niệm phạm tội chưa đạt của Bộ luật hình sự Thụy Điển
cũng tương đối giống so với quy định về phạm tội chưa đạt trong Bộ luật hình
sự Việt Nam, phạm tội chưa đạt là trường hợp người phạm tội đã bắt đầu thực
hiện tội phạm một cách cố ý nhưng không thực hiện được đến cùng vì những
nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn, người phạm tội chưa đạt phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.
29
Về trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt đối với người chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt: Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định việc
chuẩn bị phạm tội bị xử lý nhẹ hơn tội phạm hoàn thành. Quy định nhẹ nhất
là có thể không bị áp dụng hình phạt nếu không gây ra nguy hiểm đáng kể,
khi áp dụng hình phạt đối với người chuẩn bị phạm tội phải thấp hơn hình
phạt nặng nhất và có thể thấp hơn hình phạt nhẹ nhất được áp dụng đối với
tội phạm đã hoàn thành, không áp dụng hình phạt tù trên hai năm trừ trường
hợp tội phạm hoàn thành có thể bị xử phạt từ tám năm tù trở lên. Nếu ngay
cả trong trường hợp tội phạm hoàn thành cũng không gây ra nguy hiểm đáng
kể thì người phạm tội không bị áp dụng hình phạt. Còn đối với người phạm
tội chưa đạt, theo quy định tại Điều 1 Chương 23 Bộ luật hình sự Thụy Điển
thì hình phạt nặng nhất là bằng mức hình phạt đối với tội đã hoàn thành và
nhẹ nhất là hình phạt tù nếu hình phạt nhẹ nhất đối với tội đã hoàn thành là
hình phạt tù từ hai năm trở lên.
Tóm lại, khi quyết định hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành thì Bộ
luật hình sự Việt Nam và Bộ luật hình sự nước Thụy Điển đều quy định người
chuẩn bị phạm tội bị xử lý nhẹ hơn phạm tội chưa đạt và phạm tội chưa đạt bị xử
lý nhẹ hơn tội phạm hoàn thành. Quy định hình phạt nhẹ nhất là có thể được
miễn hình phạt và có thể quyết định hình phạt đối với người chuẩn bị phạm tội
và phạm tội chưa đạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt của tội phạm đã
hoàn thành. Ngoài ra, hình phạt nặng nhất mà Bộ luật hình sự nước Thụy Điển
áp dụng là phải thấp hơn hình phạt nặng nhất đối với tội phạm đã hoàn thành
(hình phạt nặng nhất đối với người chuẩn bị phạm tội) hay bằng mức hình phạt
đối với tội đã hoàn thành (hình phạt nặng nhất đối với người phạm tội chưa đạt),
điều này khác với quy định về quyết định hình phạt đối với trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt của Bộ luật hình sự Việt Nam, cụ thể tại khoản 2 và
khoản 3 Điều 52 Bộ luật hình sự Việt Nam quy định:
30
…2. Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu điều luật
được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc
tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là không quá hai
mươi năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá
một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định; 3. Đối với trường
hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình
phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng
các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu là tù
có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà
điều luật quy định [16].
Như vậy, có thể thấy quy định của Bộ luật hình sự nước Thụy Điển về
quyết định hình phạt đối với người chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt là
không cụ thể về mức hình phạt so với Bộ luật hình sự Việt Nam.
1.3.2. Tội phạm chưa hoàn thành quy định trong Bộ luật hình sự
nước Cộng hòa liên bang Đức
Bộ luật hình sự nước Cộng hòa liên bang Đức được ban hành vào ngày
13/11/1998 và được sửa đổi, bổ sung lần gần đây nhất vào ngày 02/10/2009.
Bộ luật hình sự nước Cộng hòa liên bang Đức thể hiện nội dung về tội
phạm chưa hoàn thành như sau:
Điều 22 Bộ luật hình sự nước Cộng hòa liên bang Đức quy định về khái
niệm phạm tội chưa đạt như sau: “Một hành vi phạm tội là chưa đạt khi một
người bắt đầu trực tiếp làm thỏa mãn cấu thành tội phạm theo sự hình dung
của họ về hành vi”.
Với định nghĩa này, phạm tội chưa đạt được hiểu là trường hợp đã thực
hiện hành vi trực tiếp làm thoả mãn cấu thành tội phạm (không còn là hành vi
chuẩn bị - hành vi tạo điều kiện). Phạm tội chưa đạt không chỉ được tính từ
khi đã thoả mãn được dấu hiệu của cấu thành tội phạm mà được tính ngay từ
31
khi đã có hành vi mà tiếp nối ngay sau đó là sự thoả mãn dấu hiệu của cấu
thành tội phạm.
Điều 23 Bộ luật hình sự nước Cộng hòa liên bang Đức quy định:
Xử phạt đối với phạm tội chưa đạt
(1) Phạm tội chưa đạt của một tội phạm nghiêm trọng luôn bị
xử phạt, phạm tội chưa đạt của một tội phạm ít nghiêm trọng chỉ bị
xử phạt nếu Luật quy định rõ.
(2) Phạm tội chưa đạt có thể được xử phạt nhẹ hơn tội phạm
hoàn thành (Điều 49 khoản 1)
(3) Nếu người thực hiện tội phạm do hiểu biết quá hạn chế
mà không thể nhận biết được rằng hành vi đã thực hiện của mình có
thể dẫn đến việc hoàn thành các hành vi phạm tội hoặc do tính chất
của phương tiện được sử dụng thì tòa án theo đánh giá của mình có
thể miễn hoặc giảm hình phạt cho họ (Điều 49 khoản 2).
Theo Điều 23 Bộ luật hình sự nước Đức thì phạm tội chưa đạt có thể bị
xử phạt nhẹ hơn tội phạm hoàn thành (giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1
Điều 49). Tuy nhiên, không phải trường hợp phạm tội chưa đạt nào cũng bị
xử phạt. Cụ thể: phạm tội chưa đạt luôn bị xử phạt nếu là phạm tội chưa đạt
của một tội phạm nghiêm trọng; còn phạm tội chưa đạt của một tội phạm ít
nghiêm trọng chỉ bị xử phạt nếu được luật quy định rõ. Do phạm tội chưa đạt
được coi là tình tiết giảm nhẹ hoặc đặc biệt nên mức độ trách nhiệm hình sự
của phạm tội chưa đạt được quy định thấp hơn so với tội phạm hoàn thành.
Hình phạt được giảm nhẹ cho tội phạm của phạm tội chưa đạt được quy định
tại Điều 49 như sau:
Hình phạt chung thân được thay thế bằng hình phạt tù có thời
hạn không dưới 3 năm: đối với hình phạt tù có thời hạn thì mức cao
nhất chỉ bằng 3/4 mức cao nhất của khung hình phạt quy định. Số
32
ngày lương tối đa ở hình phạt tiền cũng được tính tương tự như vậy.
Mức cao nhất của khung hình phạt tù là 10 năm hoặc 5 năm được
giảm xuống còn 2 năm; Mức thấp nhất của khung hình phạt tù là 1
năm được giảm xuống còn 3 tháng.
Bên cạnh các quy định trên, Bộ luật hình sự Đức còn có quy định về
trường hợp chưa đạt vô hiệu và trong đó cho phép miễn hoặc giảm hình phạt
cho người phạm tội theo khoản 2 Điều 49. Đây là trường hợp trong đó người
phạm tội do hiểu biết quá hạn chế mà đã không thể nhận biết được rằng hành vi
đã thực hiện của mình hoàn toàn không thể hoàn thành được do tính chất của đối
tượng mà hành vi nhằm vào hoặc do tính chất của phương tiện được sử dụng…
Theo đó, chưa đạt vô hiệu ở đây có thể do khách thể không phù hợp, do phương
tiện không phù hợp. Ngoài ra, chưa đạt vô hiệu còn có thể do chủ thể không phù
hợp. Đây là trường hợp chưa đạt rất đặc biệt, trong đó chủ thể của tội phạm có sự
nhầm lẫn về đặc điểm đặc biệt của chính mình. Tại Đức cũng còn có nhiều quan
điểm khác nhau về vấn đề chưa đạt vô hiệu [10, tr.25,26]. Về vấn đề này, trong
Bộ luật hình sự Việt Nam không có điều luật riêng quy định, pháp luật hình
sự Việt Nam về mặt nghiên cứu khoa học thì phạm tội chưa đạt vô hiệu có tên
gọi riêng nhưng trong luật nó vẫn chỉ được coi là trường hợp chưa đạt như
mọi trường hợp khác, nguyên nhân chưa đạt vô hiệu cũng chỉ là nguyên nhân
khách quan như mọi nguyên nhân khách quan khác và vấn đề trách nhiệm
hình sự của chưa đạt vô hiệu cũng không có gì đặc biệt so với những trường
hợp chưa đạt khác.
Như vậy, theo Bộ luật hình sự nước Cộng hòa liên bang Đức, người
phạm tội chưa đạt bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi:
- Phạm tội chưa đạt của một tội phạm nghiêm trọng.
- Phạm tội chưa đạt của một tội phạm ít nghiêm trọng và trong luật có
quy định rõ.
33
- Hình phạt đối với tội phạm chưa đạt được giảm nhẹ so với tội phạm
hoàn thành, cụ thể: hình phạt chung thân được thay thế bằng hình phạt tù có
thời hạn không dưới 3 năm. Đối với hình phạt tù có thời hạn thì mức cao nhất
chỉ bằng 3/4 mức cao nhất của khung hình phạt quy định, số ngày lương tối
đa ở hình phạt tiền cũng được tính tương tự như vậy. Mức cao nhất của khung
hình phạt tù là 10 năm hoặc 5 năm được giảm xuống còn 2 năm, mức thấp
nhất của khung hình phạt tù là 1 năm được giảm xuống còn 3 tháng.
Qua tìm hiểu pháp luật hình sự nước Cộng hoà Liên bang Đức, có thể
thấy so với Bộ luật hình sự Việt Nam thì Bộ luật hình sự nước Cộng hoà Liên
bang Đức cũng không nêu nội dung khái niệm về tội phạm chưa hoàn thành
mà chỉ ghi nhận gián tiếp thông qua các giai đoạn thực hiện tội phạm, trong lý
luận cũng như trong thực tiễn đều thống nhất thừa nhận quá trình phạm tội do
cố ý tiến triển qua ba giai đoạn. Bên cạnh đó, Bộ luật hình sự nước Cộng hoà
Liên bang Đức cũng có những quy định khác Bộ luật hình sự Việt Nam về
các giai đoạn phạm tội, cụ thể như:
- Bộ luật hình sự nước Cộng hoà Liên bang Đức không quy định chuẩn
bị phạm tội là một giai đoạn phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Bộ luật hình sự nước Cộng hoà Liên bang Đức coi phạm tội chưa đạt
là tình tiết giảm nhẹ hoặc đặc biệt nên mức độ trách nhiệm hình sự của phạm
tội chưa đạt được quy định thấp hơn so với tội phạm hoàn thành.
- Không áp dụng hình phạt tử hình đối với tội phạm chưa đạt và đối với
hình phạt tù có thời hạn thì Bộ luật hình sự nước Cộng hoà Liên bang Đức
quy định cụ thể về mức giảm thấp nhất của khung hình phạt đối với tội phạm
chưa đạt.
- Bộ luật hình sự nước Cộng hoà Liên bang Đức có quy định về trường
hợp chưa đạt vô hiệu và cho phép miễn hoặc giảm hình phạt cho người phạm
tội theo khoản 2 Điều 49.
34
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ TỘI PHẠM
CHƯA HOÀN THÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về khái niệm và trách
nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành
2.1.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về khái niệm tội phạm
chưa hoàn thành
Hiện nay, Bộ luật hình sự năm 1999 chưa có điều luật cụ thể nào quy
định về khái niệm tội phạm chưa hoàn thành, nhưng đã có những quy định cụ
thể về các giai đoạn phạm tội trong tội phạm chưa hoàn thành là chuẩn bị
phạm tội và phạm tội chưa đạt (quy định tại Điều 17 và Điều 18 Bộ luật hình
sự). Như vậy, Bộ luật hình sự năm 1999 đã có sự phân biệt giữa tội phạm
chưa hoàn thành với tội phạm đã hoàn thành, điều này tạo cơ sở cho việc xác
định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm ở những giai đoạn phạm tội khác
nhau, với tính chất mà mức độ nguy hiểm khác nhau.
Tại Điều 17 của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về chuẩn bị phạm
tội như sau:
Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương
tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm.
Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội
đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định
thực hiện [15, Điều 17].
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về phạm tội chưa đạt như sau:
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không
thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của
người phạm tội.
35
Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm chưa đạt [15, Điều 18].
Nhìn chung, quy định tại Điều 17 và Điều 18 của Bộ luật hình sự năm
1999 đã đưa ra khái niệm tương đối rõ ràng, đầy đủ và ngắn gọn về giai đoạn
chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Theo đó, chuẩn bị phạm tội là giai
đoạn đầu tiên của quá trình thực hiện tội phạm do cố ý trực tiếp. Từ chỗ có ý
định phạm tội, người phạm tội bằng ý thức chủ quan của mình đã nảy sinh ý
định thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người phạm tội đã tiến hành tìm
kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực
hiện tội phạm, tuy nhiên vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm
tội nên tội phạm đã không thực hiện được đến cùng. Còn phạm tội chưa đạt là
giai đoạn tiếp theo sau của giai đoạn chuẩn bị phạm tội, là một giai đoạn trong
quá trình thực hiện tội phạm do cố ý trực tiếp. Trong giai đoạn phạm tội chưa
đạt, người phạm tội đã sử dụng những điều kiện thuận lợi cần thiết để thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong mặt khách quan của cấu
thành tội phạm, tuy nhiên, vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn
của người phạm tội mà tội phạm không thực hiện được đến cùng.
Từ đó, có thể hiểu tội phạm chưa hoàn thành là khi người phạm tội mới
bắt đầu hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm hay đã
bắt tay vào việc thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì
những nguyên nhân ngoài ý muốn của người đó. Cơ sở để xác định một người
đã thực hiện tội phạm chưa hoàn thành (mới bắt đầu hành vi tạo ra những điều
kiện cần thiết để thực hiện tội phạm hay không thực hiện được đến cùng) là ở
chỗ người đó đã thỏa mãn hết các dấu hiệu của một cấu thành của một tội
phạm cụ thể hay chưa, trường hợp một người mới bắt đầu hành vi tạo ra
những điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm hoặc thực hiện hành vi chưa
thỏa mãn hết các dấu hiệu của một cấu thành tôi phạm cụ thể, do những
36
nguyên nhân ngoài ý muốn của người đó thì tội phạm do người đó thực hiện
là tội phạm chưa hoàn thành, hành vi của người đó là hành vi chuẩn bị phạm
tội hay phạm tội chưa đạt.
2.1.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về trách nhiệm hình
sự đối với tội phạm chưa hoàn thành
Trách nhiệm hình sự được hiểu là trách nhiệm của người phạm tội phải
chịu những hậu quả pháp lí bất lợi về hành vi phạm tội của mình và có những
đặc điểm sau:
- Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lí của việc thực hiện hành vi
phạm tội. Hậu quả này chỉ phát sinh khi có người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm hoặc không thực hiện những nghĩa
vụ mà pháp luật hình sự yêu cầu phải thực hiện.
- Trách nhiệm hình sự chỉ có thể được xác định bằng trình tự đặc biệt
theo quy định của pháp luật mà các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ
phải thực hiện.
- Trách nhiệm hình sự được biểu hiện cụ thể ở việc người phạm tội phải
chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt, biện
pháp tước bỏ hoặc hạn chế ở họ một số quyền hoặc lợi ích hợp pháp.
- Trách nhiệm hình sự mà người phạm tội phải gánh chịu là trách
nhiệm đối với Nhà nước chứ không phải đối với người mà quyền và lợi ích
hợp pháp của họ bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại.
- Trách nhiệm hình sự phải được phản ánh trong bản án hay quyết định
có hiệu lực pháp luật của Tòa án [23, tr.210,211].
Theo quy định của Bộ luật hình sự 1999 thì người thực hiện tội phạm
chưa hoàn thành phải chịu trách nhiệm hình sự đối với việc thực hiện tội
phạm ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội (với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc
biệt nghiêm trọng) và phạm tội chưa đạt, đó là một dạng trách nhiệm pháp lý
37
mà người phạm tội phải gánh chịu khi thực hiện hành vi phạm tội và người
phạm tội sẽ bị tước bỏ một số quyền hoặc lợi ích hợp pháp nhất định. Về
khách quan, hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt là những
hành vi nguy hiểm cho xã hội, chúng đe dọa trực tiếp gây thiệt hại cho những
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Về chủ quan, người chuẩn bị phạm
tội và người phạm tội chưa đạt đã có ý thức lựa chọn hành vi xử sự trái với
các quy tắc và chuẩn mực chung xã hội (có lỗi). Người chuẩn bị phạm tội và
người phạm tội chưa đạt chưa thực hiện được tội phạm đến cùng hoàn toàn do
những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của họ.
Việc xác định người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội ở giai đoạn
chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
quy trách nhiệm hình sự. Chỉ đối với những tội phạm thực hiện do cố ý thì
mới có giai đoạn chuẩn bị phạm tội, vì khi cố ý phạm tội thì người phạm tội
mới thường tiến hành một số hoạt động như: bàn bạc với người khác, tìm
kiếm, sửa soạn phương tiện phạm tội hoặc tạo những điều kiện cần thiết khác
cho việc thực hiện tội phạm. Trong tội phạm chưa hoàn thành thì giai đoạn
chuẩn bị phạm tội là giai đoạn có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn so
với phạm tội chưa đạt vì chưa trực tiếp xâm hại đến khách thể của loại tội
định thực hiện. Do vậy, luật hình sự Việt Nam chỉ đặt vấn đề trách nhiệm
hình sự cho những trường hợp chuẩn bị phạm tội khi tội định phạm là một tội
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Khi hành vi của người phạm tội đã chuyển sang giai đoạn thực hiện thì
hành vi đó đã thực sự nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy, Điều 18 Bộ luật hình sự
quy định trừng trị tất cả các trường hợp phạm tội chưa đạt, người phạm tội
chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt. Phạm tội chưa
đạt là những hành vi đã tiến hành tội phạm, nhưng không thực hiện được đến
cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Căn cứ vào
38
thái độ tâm lí của người phạm tội đối với hành vi mà họ đã thực hiện, khoa
học pháp lý chia phạm tội chưa đạt thành hai loại: phạm tội chưa đạt chưa
hoàn thành là trường hợp người phạm tội vì nguyên nhân khách quan, chưa
thực hiện hết các hành vi mà họ cho là cần thiết để gây ra hậu quả nên hậu
quả không xảy ra (chưa đạt về hậu quả, chưa hoàn thành về hành vi), ví dụ: A
đã trèo tường vào nhà B để trộm tài sản, nhưng thấy động nên phải rút lui; và
phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp người phạm tội đã thực hiện
đầy đủ những hành vi mà họ cho là cần thiết để gây hậu quả, nhưng vì nguyên
nhân khách quan (ngoài ý muốn) hậu quả đó không xảy ra (chưa đạt về hậu
quả, hoàn thành về hành vi), ví dụ: kẻ giết người đã cho người khác uống
thuốc độc, nhưng do liều lượng quá nhẹ nên người bị hại không chết. Mặc dù
Bộ luật hình sự không quy định cụ thể nhưng xét việc thực hiện hành vi cho là
cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm thì tính chất và mức độ nguy hiểm
của tội phạm ở trường hợp thứ hai (phạm tội chưa đạt đã hoàn thành) cao hơn
trường hợp thứ nhất (phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành), cho nên phải xử
phạt nặng hơn.
Các giai đoạn thực hiện tội phạm ở các mức độ khác nhau thì cũng
phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Từ đó luật hình sự Việt
Nam quy định việc xác định hình phạt được áp dụng đối với trường hợp
chuẩn bị phạm tội nhẹ hơn hình phạt đối với trường hợp phạm tội chưa đạt và
hình phạt được áp dụng đối với cả hai trường hợp phạm tội này đều nhẹ hơn
hình phạt được áp dụng đối với tội phạm hoàn thành. Khi quyết định hình phạt
đối với tội phạm chưa hoàn thành, Tòa án cần căn cứ vào quy định của Bộ luật
hình sự, bao gồm hai phần: Phần chung và Phần các tội phạm, cân nhắc tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người
phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và những
tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng [16, Điều 45].
39
Ngoài ra Tòa án còn phải dựa vào căn cứ riêng khi quyết định hình phạt đối
với tội phạm chưa hoàn thành, cụ thể được quy định tại Điều 52 Bộ luật hình
sự Việt Nam về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt như sau:
1. Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội
chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này
về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những
tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.
2. Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu điều luật được
áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử
hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là không quá hai
mươi năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá
một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.
3. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được
áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử
hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc
biệt nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không
quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định [16, Điều 52].
Như vậy, từ những phân tích trên thì người thực hiện tội phạm chưa hoàn
thành sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu biểu hiện đầy đủ các yếu tố sau:
- Tội phạm thực hiện hành vi phạm tội mà hành vi đó là hành vi nguy
hiểm cho xã hội, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại được Bộ luật hình sự
quy định.
- Giai đoạn thực hiện của tội phạm là giai đoạn chuẩn bị phạm tội hay
phạm tội chưa đạt (quy định tại Điều 17 và Điều 18 Bộ luật hình sự).
- Người phạm tội có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có khả năng
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay

More Related Content

What's hot

LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019PinkHandmade
 

What's hot (20)

Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đLuận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện BiênLuận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
 
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOTLuận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
 
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng NinhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
 
Luận văn: Các tội phạm về khủng bố theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Các tội phạm về khủng bố theo luật hình sự, HAYLuận văn: Các tội phạm về khủng bố theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Các tội phạm về khủng bố theo luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAYLuận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà NẵngLuận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
 

Similar to Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay

Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tộiTiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tộiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Similar to Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay (20)

Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAYĐề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
 
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOTLuận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAYLuận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
 
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt NamLuận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
 
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạmĐề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
 
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
Chính sách pháp luật hình sự đối với các tội phạm về chức vụ
Chính sách pháp luật hình sự đối với các tội phạm về chức vụChính sách pháp luật hình sự đối với các tội phạm về chức vụ
Chính sách pháp luật hình sự đối với các tội phạm về chức vụ
 
Chính sách pháp luật hình sự đối với các tội phạm về chức vụ, HAY
Chính sách pháp luật hình sự đối với các tội phạm về chức vụ, HAYChính sách pháp luật hình sự đối với các tội phạm về chức vụ, HAY
Chính sách pháp luật hình sự đối với các tội phạm về chức vụ, HAY
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tộiTiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
 
Đề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOTĐề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOT
 
CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAMCÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnpmtiendhti14a5hn
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoidnghia2002
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfXem Số Mệnh
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxTrnHiYn5
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạowindcances
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phươnghazzthuan
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxDungxPeach
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 

Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ ĐỨC MẠNH TéI PH¹M CH¦A HOµN THµNH THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM, (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ ĐỨC MẠNH TéI PH¹M CH¦A HOµN THµNH THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM, (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS CAO THỊ OANH HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Vũ Đức Mạnh
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU.......................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM CHƯA HOÀN THÀNH TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .......8 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của tội phạm chưa hoàn thành ...................8 1.1.1. Khái niệm tội phạm chưa hoàn thành.................................................8 1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tội phạm chưa hoàn thành...................19 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp về tội phạm chưa hoàn thành...........20 1.2.1. Giai đoạn sau cách mạng tháng 8 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực....................................................................... 20 1.2.2. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực.............................. 22 1.2.3. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực.............................. 24 1.3. Tội phạm chưa hoàn thành quy định trong luật hình sự một số nước............................................................................................ 27 1.3.1. Tội phạm chưa hoàn thành quy định trong Bộ luật hình sự của nước Thụy Điển............................................................................... 27 1.3.2. Tội phạm chưa hoàn thành quy định trong Bộ luật hình sự nước Cộng hòa liên bang Đức .................................................................. 30 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ TỘI PHẠM CHƯA HOÀN THÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK.................................. 34 2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về khái niệm và trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành.............. 34
  • 5. 2.1.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về khái niệm tội phạm chưa hoàn thành............................................................................... 34 2.1.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành .................................................... 36 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.............................................................40 2.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về chuẩn bị phạm tội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.................................................................................... 41 2.2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về phạm tội chưa đạt trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.................................................................................... 42 Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM CHƯA HOÀN THÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK ..........................................................80 3.1. Yêu cầu cấp thiết của việc hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến tội phạm chưa hoàn thành ............................................ 80 3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến tội phạm chưa hoàn thành.................................................................. 82 3.3. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.............92 3.3.1. Nâng cao công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và kiểm tra của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới .......................................... 92 3.3.2. Tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật....................... 93 3.3.3. Nâng cao năng lực của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân...................94 3.3.4. Nâng cao vai trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật ..........................96 KẾT LUẬN................................................................................................. 99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 102
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: So sánh tỷ lệ bản án của tội phạm chưa hoàn thành so với tội phạm đã hoàn thành thông qua nghiên cứu 200 bản án trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2007 đến năm 2014 41 Bảng 2.2: So sánh tỷ lệ các tội phạm cụ thể trong 20 bản án hình sự về tội phạm chưa hoàn thành 41 Bảng 2.3: Tỷ lệ giai đoạn chuẩn bị phạm tội trong 20 bản án hình sự về tội phạm chưa hoàn thành 42 Bảng 2.4: So sánh tỷ lệ giai đoạn chuẩn bị phạm tội so với giai đoạn phạm tội chưa đạt trong 20 bản án hình sự về tội phạm chưa hoàn thành 43 Bảng 2.5: So sánh tỷ lệ các trường hợp phạm tội chưa đạt trong 20 bản án hình sự về tội phạm chưa đạt 43
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tội phạm, hiểu theo nghĩa khái quát nhất là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Sự xuất hiện của tội phạm diễn ra cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng. Để bảo vệ các quyền lợi của giai cấp cầm quyền, Nhà nước đã quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người nào thực hiện các hành vi đó nên tội phạm lại mang bản chất là một hiện tượng pháp lý. Là hiện tượng tiêu cực mang thuộc tính xã hội, lịch sử và pháp lý, tội phạm luôn chứa đựng trong mình đặc tính chống lại Nhà nước, chống lại xã hội, đi ngược với lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền, tự do và các lợi ích hợp pháp của con người. Tội phạm không phải lúc nào cũng được thực hiện đến cùng mà có thể được thực hiện ở những mức độ khác nhau do nhiều nguyên nhân. Tội phạm diễn ra ở các giai đoạn khác nhau thì mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng khác nhau, việc thực hiện tội phạm cố ý trong nhiều trường hợp nó là một quá trình thỏa mãn dần các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong phần các tội phạm luật hình sự. Trong quá trình tiến hành dần từng bước đó, có thể do nhiều nguyên nhân khách quan khác nhau không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người phạm tội mà hành vi của họ phải dừng lại khi mới chuẩn bị điều kiện để thực hiện hoặc khi chưa thực hiện hoàn thành tội phạm nào đó. Trong khi đó, pháp luật hình sự lại đặt ra nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm không chỉ bảo vệ các quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ đã bị tội phạm xâm hại, mà cần bảo vệ các quan hệ xã hội đó trong những trường hợp chưa bị tội phạm xâm hại đến. Nói một cách khác,
  • 8. 2 pháp luật hình sự của Nhà nước đặt ra yêu cầu phải xử lý đồng bộ tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi thực hiện hoàn thành một tội phạm và cả hành vi chưa hoàn thành. Bởi lẽ, việc phát hiện, trừng trị những hành vi phạm tội chưa hoàn thành là nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do hành vi phạm tội có thể gây ra cho xã hội, cho Nhà nước và cho công dân. Nói một cách khác, không để cho tội phạm gây ra nguy hiểm cho xã hội thì tốt hơn để cho tội phạm xảy ra mới tìm cách khắc phục phòng, chống tội phạm, do đó đây chính là một yêu cầu có ý nghĩa tiên quyết thể hiện trong chính sách hình sự của Nhà nước ta [29, tr.125-126]. Qua thực tiễn xét xử cho thấy, so với giai đoạn tội phạm đã hoàn thành thì số vụ án mà Tòa án xét xử tội phạm ở giai đoạn chưa hoàn thành chiếm tỷ lệ thấp hơn, nguyên nhân là do có nhiều khó khăn trong việc chứng minh hành vi phạm tội, người phạm tội không thừa nhận mục đích các hành vi phạm tội của mình, việc đánh giá chứng cứ từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng còn chưa chính xác. Từ những nguyên nhân trên dẫn đến những khó khăn đối với cơ quan tố tụng trong quá trình xem xét, đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ các tình tiết, bản chất của sự việc. Hiện nay, tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk vẫn ngày một gia tăng và gây hậu quả hết sức nghiêm trọng. Tuy nhiên hiện chưa có công trình nào nghiên cứu đề tài: “Tội phạm chưa hoàn thành theo Luật hình sự Việt Nam, (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)’’. Do vậy đòi hỏi phải có sự nghiên cứu cụ thể, rõ ràng để có những luận cứ khoa học về tội phạm chưa hoàn thành, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do hành vi phạm tội có thể gây ra, giúp chúng ta phát hiện, khởi tố, điều tra và đưa ra xét xử một cách kịp thời đối với tội phạm chưa hoàn thành, nhằm đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành và làm cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đạt được hiệu quả
  • 9. 3 cao. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Tội phạm chưa hoàn thành theo Luật hình sự Việt Nam, (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)’’ làm đề tài luận văn Thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm gần đây, ở nước ta có nhiều công trình nghiên cứu; sách chuyên khảo, sách tham khảo, giáo trình; các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành; các luận văn, luận về tội phạm chưa hoàn thành như: Luật hình sự Việt Nam (Quyển I Những vấn đề chung), Đào Trí Úc, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội (2000); Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 – Phần chung, Đinh Văn Quế, Nxb. thành phố Hồ chí Minh (năm 2000); Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Lê Cảm, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội (Chủ biên năm 2003 và 2007); Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Lê Văn Cảm, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội (2005); Chế định về các giai đoạn thực hiện tội phạm và mô hình lý luận của nó trong pháp luật hình sự Việt Nam, Lê Văn Cảm, tạp chí Dân chủ và pháp luật; Cấu thành tội phạm và vấn đề xác định giai đoạn thực hiện tội phạm, PGS. TS Cao Thị Oanh, trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2010; “Một số vấn đề về các giai đoạn thực hiện tội phạm”, trong sách: Luật hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Lê Thị Sơn, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội (1997); “Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt”, Lê Thị Sơn, tạp chí Luật học; Chương III, Các giai đoạn phạm tội, trong sách: Những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Lâm Minh Hạnh, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1986; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học của Th.S. Hoàng Đức Ngọc, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2010; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự
  • 10. 4 Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học của Th.S. Hồ Thanh Vinh, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014; Chương XII, Các giai đoạn phạm tội, trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) (do TSKH. Lê Cảm chủ biên), Nguyễn Ngọc Chí, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội (2007); Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội chưa đạt, Trịnh Quốc Toản, Tạp chí Khoa học (chuyên san Kinh tế Luật), số 4/2002; Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Trịnh Tiến Việt, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2013; “Về phạm tội chưa đạt và một số hình thức phạm tội khác trong quá trình thực hiện tội phạm”, Khoa học, Chuyên san Luật học, Trịnh Tiến Việt, năm 2009; Tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự trước yêu cầu mới của đất nước, Trịnh Tiến Việt, tạp chí Tòa án nhân dân số 14(7)/2008, năm 2008; Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Trịnh Tiến Việt, Luật học 25, năm 2009; Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội (năm 2010). v.v… Từ các công trình trên cho thấy đã có nhiều tác giả nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành ở những mức độ khác nhau, đề cập đến khái niệm, các đặc điểm cơ bản, trách nhiệm hình sự và việc quyết định hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành, cụ thể là giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu vào thực tiễn xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật và hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn: + Mục đích nghiên cứu: mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tội phạm chưa hoàn thành. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
  • 11. 5 + Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu các vấn đề lý luận về tội phạm chưa hoàn thành. - Nghiên cứu lịch sử lập pháp về tội phạm chưa hoàn thành trong pháp luật Việt Nam qua các thời kì. - Nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành quy định trong luật hình sự một số nước. - Nghiên cứu quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội phạm chưa hoàn thành. - Nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật về tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. - Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến tội phạm chưa hoàn thành và đưa ra những các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn + Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ quy định của pháp luật Hình sự về tội phạm chưa hoàn thành và thực tiễn pháp luật về tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2007 đến năm 2014. + Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề liên quan đến tội phạm chưa hoàn thành, dưới góc độ pháp lý hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2007 đến năm 2014. 5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
  • 12. 6 và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, về công tác đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI và Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp trong thời gian tới”, và nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị “Về chiến lượng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020”, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị “Về chiến lượng cải cách tư pháp đến năm 2020”, cũng như các công trình khoa học của các tác giả nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu Các phương pháp cụ thể được sử dụng nghiên cứu đề tài bao gồm: quy nạp, diễn dịch, thống kê tội phạm, phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra, khảo sát, tổng kết kinh nghiệm. Từ đó rút ra những đánh giá, kết luận và đề xuất các kiến nghị liên quan đến tội phạm chưa hoàn thành. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn - Về lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu toàn diện về tội phạm chưa hoàn thành được quy định trong Luật hình sự từ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Dựa trên sự phân tích lý luận và tổng kết thực tiễn để đưa ra những luận giải, những căn cứ khoa học, để từ đó đưa ra kết luận, kiến nghị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn về các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. - Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu đề tài có thể tham khảo để nâng cao hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Đề tài có thể
  • 13. 7 được dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo luật. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về tội phạm chưa hoàn thành trong pháp luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội phạm chưa hoàn thành và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
  • 14. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM CHƯA HOÀN THÀNH TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của tội phạm chưa hoàn thành 1.1.1. Khái niệm tội phạm chưa hoàn thành Nhìn chung pháp luật hình sự trên thế giới và tại Việt Nam đa phần đều phân biệt các giai đoạn thực hiện tội phạm, nhằm đánh giá mức độ thực hiện tội phạm ở các giai đoạn khác nhau và qua đó có cơ sở xác định phạm vi trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Cụ thể, các giai đoạn phạm tội là những mức độ trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý và bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Các giai đoạn phạm tội này ngắn hay kéo dài tùy thuộc vào quá trình của hành vi phạm tội và người phạm tội thực hiện trên thực tế. Việc phân chia các giai đoạn phạm tội trong luật hình sự thể hiện ý chí chủ quan của các nhà làm luật đối với diễn biến khách quan của hành vi phạm tội xảy ra trong thực tế [4, tr.151-152]. Tuy nhiên, có ba điểm khác nhau cơ bản giữa các giai đoạn phạm tội chính là ở những yếu tố khách quan của hành vi phạm tội bao gồm: 1) Tính chất nguy hiểm cho xã hội của các hành vi phạm tội; 2) Mức độ thực hiện ý định phạm tội của chủ thể thực hiện hành vi; 3) Thời điểm chấm dứt của những hành vi đó [9, tr.61]. Trong thực tế, quá trình thực hiện việc phạm tội của tội phạm trong nhiều trường hợp người phạm tội phải tiến hành từng bước, từng bước một để hoàn thành tội phạm (như: hình thành ý định và biểu lộ ý định phạm tội, chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội, chuẩn bị thực hiện hành vi liền kề và dần thực hiện hành vi phạm tội). Tuy vậy, về phương diện chủ quan có sự đối lập thể hiện ở chỗ: mặc dù hành vi phạm tội bị dừng lại nhưng người phạm tội đã cố ý thực hiện hành vi đó và vẫn muốn thực hiện tiếp hành vi
  • 15. 9 phạm tội của mình, vì trong tư tưởng, suy nghĩ của họ bao giờ cũng mong muốn thực hiện toàn bộ quá trình đó để đạt được kết quả như dự định đã đặt ra ban đầu. Qua thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy có không ít trường hợp người phạm tội không thực hiện được đầy đủ những dự định đó hoặc họ không tiến hành thực hiện được hành vi phạm tội đến cùng vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của mình. Quan điểm về các giai đoạn thực hiện tội phạm còn được GS.TSKH. Lê Văn Cảm tổng kết trong sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005 về khái niệm các giai đoạn thực hiện tội phạm, cụ thể như sau: 1) Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các giai đoạn chuẩn bị và trực tiếp thực hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với nhau theo tính chất (nội dung) của hành vi đã được thực hiện và thời điểm chấm dứt xử sự có tính chất tội phạm (B.V.Zđravômưxlôv); 2) Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các giai đoạn nhất định của việc chuẩn bị và thực hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với nhau theo tính chất của những hành vi được thực hiện và thời điểm chấm dứt hành vi ấy (X.G.Kelina); 3) Các giai đoạn của việc chuẩn bị và trực tiếp thực hiện tội phạm được quy định trong luật và được phân biệt với nhau theo tính chất và nội dung của hành vi người phạm tội thực hiện, cũng như mức độ kết thúc hành vi phạm tội (Ê.F.Pobegailô)… [2, tr.440-441]. Tuy nhiên cho đến nay khái niệm tội phạm chưa hoàn thành vẫn chưa được pháp luật hình sự Việt Nam ghi nhận cụ thể. Tại Điều 29, Chương 6 trong Bộ luật hình sự của Liên Bang Nga quy định: “1. Tội phạm chưa hoàn thành là chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt...” [21, Điều 29]. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, GS.TSKH. Lê Văn Cảm đưa ra quan điểm về khái niệm tội phạm chưa hoàn thành như sau: tội phạm chưa hoàn thành là hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt [2, tr.440-441]. Theo tác giả, quan điểm của GS.TSKH. Lê Văn Cảm là phù
  • 16. 10 hợp với những quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các giai đoạn thực hiện tội phạm của tội phạm chưa hoàn thành, từ đó phân biệt giữa khái niệm tội phạm chưa hoàn thành và khái niệm tội phạm đã hoàn thành, đồng thời làm rõ cơ sở để phân chia các giai đoạn phạm tội để xác định đúng và đầy đủ trách nhiệm hình sự đối với từng giai đoạn thực hiện tội phạm cụ thể. Như vậy, chúng ta có thể hiểu khái niệm tội phạm chưa hoàn thành là hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, nội dung cụ thể của hai giai đoạn thực hiện tội phạm này như sau: + Giai đoạn chuẩn bị phạm tội: Chuẩn bị phạm tội là một giai đoạn phạm tội trong tội phạm chưa hoàn thành và là một phần của quá trình thực hiện tội phạm cố ý. Ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, người phạm tội đã có hành vi nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết, tạo tiền đề cho việc thực tiện tội phạm, tuy nhiên người phạm tội chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó, tức là chưa có hành vi xâm phạm đến đối tượng tác động. Ví dụ như: A chuẩn bị các công cụ sử dụng để phá khóa với mục đích đến nhà B phá khóa trộm cắp tài sản của gia đình B, nhưng khi chuẩn bị thực hiện hành vi thì bị lực lượng dân quân tự vệ phát hiện nên A không thực hiện hành vi trộm cắp tại nhà B. Giai đoạn chuẩn bị phạm tội được quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự, theo đó chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm. Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng phải chịu trách nhiệm hình sự [16, Điều 17]. Pháp luật hình sự quy định thời điểm sớm nhất của giai đoạn chuẩn bị phạm tội là khi tội phạm đã bắt đầu thực hiện những hành vi với mục đích tạo ra những điều kiện vật chất, tinh thần để cho quá trình phạm tội diễn ra thuận lợi, dễ dàng và ngay trước khi người phạm tội bắt đầu thực hiện hành vi
  • 17. 11 khách quan được phản ánh trong cấu thành tội phạm là thời điểm muộn nhất của giai đoạn chuẩn bị phạm tội, một khi người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm thì mặc nhiên đã không còn ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Đặc điểm của hành vi chuẩn bị phạm tội là chưa trực tiếp làm biến đổi tình trạng của đối tượng tác động của tội phạm để gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là khách thể của loại tội phạm định thực hiện nhưng có ảnh hưởng tới khả năng gây thiệt hại của tội phạm. Kết quả của việc thực hiện tội phạm phần nào phụ thuộc vào hành vi chuẩn bị phạm tội, nếu quá trình chuẩn bị phạm tội càng chi tiết, kĩ lưỡng thì quá trình thực hiện tội phạm có khả năng gây ra hậu quả cao hơn, nghiêm trọng hơn. Theo luật hình sự Việt Nam, không phải hành vi chuẩn bị phạm tội nào cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội được đánh giá và phân biệt thành hai loại: loại hành vi chuẩn bị phạm tội phải truy cứu trách nhiệm hình sự (nếu tội định phạm là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng) và loại không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, mặc dù cả hai loại đều chưa gây ra hậu quả, nhưng tính chất nguy hiểm của hành vi chuẩn bị phạm tội có khác nhau và sự khác nhau đó lại không phụ thuộc vào tính chất và mức độ của hành vi chuẩn bị phạm tội mà nó hoàn toàn phụ thuộc vào tính chất nghiêm trọng của tội phạm mà người đó định thực hiện. Hành vi chuẩn bị phạm tội thường được thể hiện dưới các dạng sau: - Chuẩn bị kế hoạch phạm tội như: bàn bạc, phân công trách nhiệm cho từng người, kế hoạch tiêu thụ tài sản hay kế hoạch che giấu tội phạm... Dạng chuẩn bị phạm tội này thường xảy ra đối với những tội phạm được thực hiện có đồng phạm hoặc có tổ chức. Tuy nhiên cũng có trường hợp tội phạm chỉ do một người thực hiện vẫn có sự chuẩn bị kế hoạch phạm tội. Ví dụ: A có ý định đầu độc B, tự A đã vạch ra một kế hoạch như mua thuốc độc ở đâu, bỏ
  • 18. 12 thuốc độc vào nước cho B uống như thế nào, sau khi B trúng độc thì làm thế nào để che giấu được tội phạm... - Thăm dò hoặc tìm địa điểm phạm tội, dạng chuẩn bị này chủ yếu đối với các tội xâm phạm sở hữu hoặc xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân. Ví dụ: A muốn trộm cắp nhà B, nên A đã nhiều lần đến nhà B thăm dò xem gia đình B thường vắng mặt nhà vào giờ nào, quy luật sinh hoạt của gia đình ra sao để tiến hành trộm cắp. - Chuẩn bị công cụ phương tiện phạm tội: chuẩn bị xe máy để đi cướp tài sản, chuẩn bị dao để giết người, chuẩn bị thuốc độc để đầu độc, chuẩn bị xăng để đốt nhà, chuẩn bị thuốc mê để gây mê cho người có tài sản nhằm chiếm đoạt tài sản của họ, chuẩn bị con dấu giả để lừa đảo... - Loại trừ trước những trở ngại khách quan để thực hiện tội phạm được thuận lợi, dễ dàng như: tắt hệ thống camera để đêm đột nhập vào công ty trộm tài sản, cho bảo vệ uống rượu say để đột nhập vào cơ quan được dễ dàng... Khi người phạm tội thực hiện tội phạm ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, trong trường hợp hành vi phạm tội đã cấu thành tội phạm độc lập khác thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội độc lập đó. Ví dụ như: A có ý định giết B nên đã tìm mua một khẩu súng quân dụng, sau đó A đi tìm B để giết, nhưng trên đường đi đã bị công an xã bắt. Vậy hành vi của A đã cấu thành một tội độc lập là tội mua bán trái phép vũ khí quân dụng (Điều 230 Bộ luật hình sự), ngoài ra A còn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội. + Giai đoạn phạm tội chưa đạt: Điều 18 của Bộ luật hình sự quy định: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội” [16, Điều 18]. Chỉ có các tội được thực hiện do cố ý thì mới có phạm tội chưa đạt.
  • 19. 13 Điều luật không quy định hình thức cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp, nhưng căn cứ vào nội dung của điều luật quy định “không thực hiện được đến cùng”, tức là người phạm tội có mục đích thực hiện tội phạm đến cùng, nên họ mong muốn cho hậu quả xảy ra chứ không phải để mặc cho hậu quả xảy ra. Do đó phạm tội chưa đạt chỉ có thể xảy ra đối với trường hợp cố ý trực tiếp. Theo luật hình sự Việt Nam, có ba dấu hiệu xác định trường hợp phạm tội chưa đạt [23, tr.156-158]: Dấu hiệu thứ nhất: người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm. Đây là dấu hiệu phân biệt phạm tội chưa đạt với chuẩn bị phạm tội. Sự bắt đầu này thể hiện ở chỗ: người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm. Ví dụ: kẻ giết người đã thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng người khác (như đã đâm, đã bắn, đã chém) là hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm tội giết người (Điều 93 Bộ luật hình sự). Cũng được coi là đã bắt đầu thực hiện tội phạm nếu người phạm tội đã thực hiện được hành vi đi liền trước hành vi khách quan. Đó là những hành vi (xét về khách quan và chủ quan) thể hiện là sự bắt đầu của hành vi khách quan và kế tiếp ngay sau nó hành vi khách quan sẽ xảy ra. Ví dụ: hành vi nhặt dao để đâm, lắp đạn để bắn trong trường hợp phạm tội giết người được coi là hành vi đi liền trước. Những hành vi này chưa phải là hành vi khách quan, chưa phải là hành vi tước đoạt tính mạng người khác (hành vi đâm, hành vi bắn) nhưng nó là sự bắt đầu của hành vi khách quan và ngay sau nó hành vi khách quan (hành vi đâm, hành vi bắn) sẽ xảy ra. Những hành vi “đi liền trước” như vậy tuy thể hiện là sự chuẩn bị nhưng vì rất gần với hành vi khách quan, không tách ra được nên cũng được coi là hành vi thực hiện tội phạm. Dấu hiệu thứ hai: người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng (về mặt pháp lí), nghĩa là hành vi của họ chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan) của cấu thành tội phạm. Những trường hợp hành vi
  • 20. 14 phạm tội chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan) của cấu thành tội phạm có thể xảy ra ở một trong những dạng dưới đây: - Chủ thể chưa thực hiện được hành vi khách quan mà mới chỉ thực hiện được “hành vi đi liền trước”. Ví dụ: kẻ giết người mới nhặt dao để đâm thì bị bắt giữ. - Chủ thể đã thực hiện được hành vi khách quan nhưng chưa gây ra hậu quả của tội phạm. Ví dụ: kẻ giết người đã đâm được nạn nhân nhưng nạn nhân không chết. - Chủ thể đã thực hiện được hành vi khách quan nhưng chưa thực hiện hết. Ví dụ: kẻ hiếp dâm mới vật ngã được nạn nhân nhưng chưa thực hiện được việc giao cấu thì bị bắt giữ. - Hậu quả thiệt hại tuy đã xảy ra nhưng không có quan hệ nhân quả với hành vi khách quan mà chủ thể đã thực hiện. Ví dụ: A cầm dao đột nhập vào nhà để giết B, A thấy B chùm chăn nằm trên giường liền lao tới và đâm nhiều nhát vào người B, nghĩ rằng B đã chết nên A bỏ đi. Tuy nhiên trên thực tế, trước khi A đột nhập vào nhà B thì B đã chết, như vậy hậu quả chết người tuy đã xảy ra với B nhưng không có quan hệ nhân quả với hành vi khách quan của A. Trong bốn dạng có thể xảy ra nêu trên, hai dạng (2 và 4) chỉ có thể có ở những tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất. Dấu hiệu thứ ba: người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng là do những nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Bản thân người phạm tội vẫn muốn tội phạm hoàn thành nhưng tội phạm không hoàn thành là do: - Nạn nhân hoặc người bị hại đã chống cự lại được hoặc đã tránh được; - Người khác đã ngăn chặn được; - Có những trở ngại khác như bắn nhưng đạn không nổ; thuốc độc để đầu độc không đủ liều lượng.
  • 21. 15 Căn cứ vào thái độ tâm lí của người phạm tội đối với hành vi mà họ đã thực hiện, khoa học pháp lý chia phạm tội chưa đạt thành hai loại: chưa đạt đã hoàn thành và chưa đạt chưa hoàn thành, cụ thể: - Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp người phạm tội đã thực hiện đầy đủ những hành vi mà họ cho là cần thiết để gây hậu quả, nhưng vì nguyên nhân khách quan (ngoài ý muốn) hậu quả đó không xảy ra (chưa đạt về hậu quả, hoàn thành về hành vi). Ví dụ một người có ý định giết người khác, đã dùng dao đâm 3 phát vào người nạn nhân và tin nạn nhân đã chết nên bỏ đi, nhưng sau đó nạn nhân được cứu chữa nên không chết. Ở đây người phạm tội đã hành động như ý muốn và tin là hậu quả sẽ xảy ra nhưng lại không xảy ra. Trường hợp này người phạm tội dừng lại mặc dù không còn gì ngăn cản nhưng cũng không được coi là tự nguyện nửa chừng chấm dứt thực hiện tội phạm, vì người phạm tội đã thỏa mãn với hành vi nhưng chưa thỏa mãn về hậu quả. - Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp người phạm tội vì nguyên nhân khách quan, chưa thực hiện hết các hành vi mà họ cho là cần thiết để gây ra hậu quả nên hậu quả không xảy ra (chưa đạt về hậu quả, chưa hoàn thành về hành vi). Ví dụ: một người có ý định giết người khác nên dùng dao đâm vào người khác để tước đoạt tính mạng người đó, nhưng mới đâm được một nhát thì bị người dân xung quanh ngăn cản, không đâm tiếp được nữa và nạn nhân không chết, chỉ bị thương. Trường hợp này người phạm tội chưa đâm được như ý muốn và hậu quả cũng chưa xảy ra. Căn cứ vào tính chất đặc biệt của nguyên nhân dẫn đến việc chưa đạt thì luật hình sự còn có trường hợp phạm tội chưa đạt vô hiệu, đây là trường hợp phạm tội chưa đạt mà nguyên nhân khách quan của việc chưa đạt gắn với công cụ, phương tiện, với đối tượng tác động của tội phạm.
  • 22. 16 */ Từ khái niệm về tội phạm chưa hoàn thành, chúng ta có thể thấy được các đặc điểm của tội phạm chưa hoàn thành như sau: - Trong Luật hình sự Việt Nam chưa có khái niệm cụ thể về tội phạm chưa hoàn thành, qua đó khái niệm chuẩn bị phạm tội và phạm tôi chưa đạt dùng để phân biệt với khái niệm tội phạm hoàn thành. Theo đó, tội phạm chưa hoàn thành là hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, diễn ra trước giai đoạn tội phạm hoàn thành. - Tội phạm chưa hoàn thành chưa thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội, chưa gây ra hậu quả nguy hại hoặc hậu quả xảy ra không phải là hậu quả được quy định đối với tội đó. - Để đánh giá mức độ thực hiện tội phạm và qua đó có cơ sở xác định phạm vi trách nhiệm hình sự của người phạm tội nên đối với tội phạm chưa hoàn thành, pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành phân biệt hai mức độ thực hiện tội phạm là: chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Cụ thể hành vi chuẩn bị phạm tội là hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm, người chuẩn bị phạm tội chưa trực tiếp bắt tay vào việc thực hiện tội phạm, các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ mới bị đe dọa gây thiệt hại chứ chưa bị gây thiệt hại, còn đối với phạm tội chưa đạt thì người phạm tội đã bắt tay vào việc thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người đó. Sự khác nhau giữa chuẩn bị phạm tội với phạm tội chưa đạt là ở chỗ hành vi chuẩn bị phạm tội mới là hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm, chứ chưa phải là hành vi thực hiện tội phạm. Người chuẩn bị phạm tội chưa trực tiếp bắt tay vào việc thực hiện tội phạm còn người phạm tội chưa đạt đã bắt tay vào việc thực hiện tội phạm, bắt tay vào việc thực hiện hành vi thuộc mặt khách quan của một cấu thành tội phạm cụ thể (mà dấu hiệu của mặt khách quan được quy định tại một điều luật cụ thể phần các tội phạm của Bộ luật hình sự) hoặc những hành vi đi liền trước hành vi thuộc mặt khách quan đó.
  • 23. 17 - Mặt khách quan của cấu thành tội phạm chưa hoàn thành chưa có các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm hoàn thành hoặc chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm hoàn thành. - Mặt chủ quan của cấu thành tội phạm chưa hoàn thành bao giờ cũng được thực hiện bằng lỗi trực tiếp, người chuẩn bị phạm tội và người phạm tội chưa đạt đã có ý thức lựa chọn thái độ phủ định với các yêu cầu và chuẩn mực xã hội, người chuẩn bị phạm tội và người phạm tội chưa đạt chưa thực hiện được tội phạm đến cùng hoàn toàn do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của họ. Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng việc chỉ thừa nhận có giai đoạn chuẩn bị phạm tội và giai đoạn phạm tội chưa đạt trong các tội phạm thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp cần phải được xem xét lại. Theo quan điểm này, cần phải thừa nhận các giai đoạn phạm tội, đặc biệt là giai đoạn phạm tội chưa đạt đối với các tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp. Bởi lẽ, khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội với lỗi cố ý gián tiếp, người thực hiện hành vi đã nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, đã thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó. Nghĩa là, người thực hiện hành vi với lỗi cố ý gián tiếp đã có ý thức lựa chọn một hành vi phạm tội, lựa chọn thái độ phủ định đối với các yêu cầu và chuẩn mực xã hội (đã được quy định thành chuẩn mực pháp lý) và chấp nhận (để mặc) cho hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra hay không xảy ra hoàn toàn phụ thuộc vào các điều kiện khách quan bên ngoài. Bởi vậy, cả trong trường hợp hậu quả nguy hiểm cho xã hội không xảy ra thì việc xác định trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do lỗi cố ý gián tiếp vẫn là cần thiết. Theo tác giả, đối với tội cố ý gián tiếp hay vô ý chỉ có thể có trường hợp có tội hay không có tội, trong tội cố ý gián tiếp người phạm tội không nhận thức trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội, không mong muốn hậu quả xảy ra, nên
  • 24. 18 không thể có các giai đoạn chuẩn bị phạm tội cũng như phạm tội chưa đạt, do đó tác giả cho rằng việc xác định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành do lỗi cố ý gián tiếp là chưa thật sự hợp lý. - Nguyên nhân của tội phạm chưa hoàn thành là do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn, trong trường hợp này người phạm tội chỉ mới thực hiện được giai đoạn đầu tiên của quá trình thực hiện tội phạm do cố ý trực tiếp, tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hay khi người phạm tội đã bắt đầu thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm, đe dọa, xâm hại đến khách thể của tội phạm một cách trực tiếp nhưng chưa thực hiện hết các hành vi được cho là cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm, không thực hiện được đến cùng hành vi phạm tội. - Về nguyên tắc, người phạm tội ở giai đoạn tội phạm chưa hoàn thành phải chịu trách nhiệm hình sự như trường hợp tội phạm hoàn thành, theo cùng một điều luật, cùng tội danh và cùng trong phạm vi khung hình phạt quy định tại điều luật đó. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự nước ta thừa nhận, khi định tội đối với hành vi phạm tội chưa đạt, phải định tội danh là chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt về tội gì và phải viện dẫn điều luật quy định về tội đó, đồng thời viện dẫn thêm Điều 17 Bộ luật hình sự (nếu là hành vi chuẩn bị phạm tội) hoặc Điều 18 Bộ luật hình sự (nếu là hành vi phạm tội chưa đạt), ví dụ: bản án xử những trường hợp phạm tội chưa đạt phải định tội danh là phạm tội chưa đạt về tội gì (ví dụ tội giết người chưa đạt) và phải viện dẫn điều luật quy định về tội đó (như Điều 93 Bộ luật hình sự về tội giết người) và Điều 18 Bộ luật hình sự về phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên căn cứ theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, pháp luật Hình sự Việt Nam quy định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành nhẹ hơn tội phạm đã hoàn thành, cụ thể về khách quan, trong những điều kiện giống nhau hành vi chuẩn bị phạm
  • 25. 19 tội nguy hiểm cho xã hội ít hơn so với hành vi phạm tội chưa đạt và hành vi phạm tội chưa đạt ít nguy hiểm hơn so với tội phạm hoàn thành tương ứng: bởi vậy với những điều kiện giống nhau, trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội nhẹ hơn trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội chưa đạt và trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội chưa đạt nhẹ hơn trách nhiệm hình sự đối với tội phạm hoàn thành tương ứng. - Nguyên tắc chung của việc quyết định hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành là không những phải căn cứ vào căn cứ chung (Điều 45 Bộ luật hình sự) mà còn phải dựa vào căn cứ riêng (Điều 52 Bộ luật hình sự) khi quyết định hình phạt đối với trường hợp này. 1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tội phạm chưa hoàn thành Do Bộ luật hình sự Việt Nam không có quy định cụ thể về tội phạm chưa hoàn thành, nên việc nghiên cứu tội phạm chưa hoàn thành có ý nghĩa rất quan trọng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt kịp thời, chính xác và đúng pháp luật, tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội sẽ mang lại hiệu quả cao trong việc giáo dục, răn đe người phạm tội, từ đó nâng cao cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhằm hạn chế các sự việc phạm tội có thể xảy ra. Mặt khác, quyết định hình phạt đúng còn là cơ sở để đạt được các mục đích của hình phạt, vừa mang tính giáo dục, vừa thể hiện được sự công minh và nghiêm khắc của pháp luật. Xác định một cách chính xác về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm chưa hoàn thành, về mặt nội dung pháp luật Việt Nam quy định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành bao giờ cũng nhẹ hơn tội phạm đã hoàn thành, cụ thể trong những điều kiện giống nhau, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi chuẩn bị phạm tội nhẹ hơn tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội chưa
  • 26. 20 đạt và tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội chưa đạt nhẹ hơn tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với tội phạm hoàn thành tương ứng. Qua đó chúng ta có thể thấy rằng, việc nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Về lý luận: việc nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành giúp chúng ta bổ sung thêm, làm rõ về mặt lý luận các vấn đề liên quan đến tội phạm chưa hoàn thành, từ những nghiên cứu đó có thể đưa ra những cơ sở lý luận một các hoàn chỉnh về tội phạm chưa hoàn thành. Về mặt thực tiễn: việc nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành giúp cho các cơ quan tố tụng áp dụng pháp luật chính xác và hiệu quả, nhằm đánh giá đúng tính chất, mức độ của hành vi phạm tội. đảm bảo cho việc truy tố, xét xử đúng người đúng tội theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành có hiệu quả lớn trong nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, giúp ngăn ngừa tội phạm ngay từ mới bắt đầu. 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp về tội phạm chưa hoàn thành Pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kì đã có những quy định khác nhau về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành. 1.2.1. Giai đoạn sau cách mạng tháng 8 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, để các quan hệ xã hội có thể tiếp tục duy trì sự ổn định, các văn pháp pháp luật của chế độ cũ được chính quyền cách mạng tiếp tục áp dụng, bên cạnh đó chính quyền cách mạng tiến hành ban hành nhiều văn bản mới trong lĩnh vực luật hình sự. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký Sắc lệnh cho phép áp dụng pháp luật của chế độ cũ nhưng Sắc lệnh cũng quy định rằng không chấp nhận các án lệ cũ. Việc ban hành Sắc lệnh của Chủ tịch chính phủ
  • 27. 21 lâm thời đã mở đầu và định hướng cho việc hình thành và hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam sau này. Trong hoàn cảnh đất nước ta vừa mới đánh đổ sự thống trị của phát xít Nhật để giành lại chính quyền, do còn thiếu kinh nghiệm trong xây dựng pháp luật nên trong suốt quãng thời gian này các văn bản pháp luật hình sự Việt Nam là một tập hợp các văn bản đơn hành thể hiện dưới nhiều hình thức tên gọi như Sắc lệnh, Thông tư, Điều lệ… Trong khoảng những năm 1970, chính quyền nước Việt Nam đã ban hành một số văn bản pháp luật hình sự có tính pháp điển hóa như Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng vào ngày 30/10/1967; Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa vào ngày 21/10/1970; Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân vào ngày 21/10/1970; Sắc luật số 03/SL của Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam vào ngày 15/3/1976; Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ vào ngày 20/5/1981… Trong giai đoạn này, do hạn chế về kỹ thuật lập pháp, các quy định của pháp luật về các giai đoạn phạm tội không được đề cập một cách rõ ràng mà chỉ được thể hiện qua các điều luật cụ thể, trong những tội phạm cụ thể, có cấu thành tội phạm cụ thể và quy định những hình phạt riêng đối với các tội phạm đó. Theo đó, quy định của pháp luật hình sự về các giai đoạn thực hiện tội phạm từ sau cách mạng tháng 8 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực có thể được rút ra làm các giai đoạn: âm mưu phạm tội; chuẩn bị phạm tội; phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Do yêu cầu thực tiễn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời kỳ còn chiến tranh ở nước ta, pháp luật hình sự ở giai đoạn này quy định việc biểu lộ ý định phạm tội là một trong những giai đoạn phạm tội và là tội phạm, ví dụ như trong tội phản cách mạng tại Điều 2 Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng vào ngày 30/10/1967 [5, Điều 2], cụ thể như sau:
  • 28. 22 “Âm mưu phạm tội và hành động phạm tội đều bị trừng trị” Tại bản Tổng kết số 452-HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân Tối cao về thực tiễn xét xử các tội giết người có giải thích như sau: “Tội giết người chưa hoàn thành khi người bị nạn chết, đối với trường hợp giết người nhưng không chết, nên thống nhất gọi là giết người chưa đạt” [19, tr.27]. Như vậy, trong pháp luật thời kỳ này mặc dù chưa có quy định cụ thể về giai đoạn phạm tội chưa đạt nhưng bản Tổng kết trên đã đưa ra một khái niệm về giai đoạn phạm tội chưa đạt, thừa nhận về giai đoạn phạm tội chưa đạt. Ngoài ra Điều 19 của Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân vào ngày 21/10/1970 [6, Điều 19] còn quy định về việc xử nhẹ hoặc miễn hình phạt đối với tội phạm chưa bị phát giác, chưa ở giai đoạn tội phạm đã hoàn thành với nội dung: Điều 19: Những trường hợp xử nhẹ hoặc miễn hình phạt Kẻ nào phạm những tội quy định ở Chương II mà tội phạm thuộc vào một hoặc nhiều trường hợp sau đây thì được xử nhẹ hoặc miễn hình phạt: 1. Tội phạm chưa bị phát giác mà kẻ phạm tội thành thật thú tội với cơ quan chuyên trách, khai rõ hành động của mình và của đồng bọn... . Như vậy trong giai đoạn này tuy chưa quy định cụ thể nhưng pháp luật hình sự đã có sự phân hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt đối đối từng giai đoạn phạm tội, từ đó bảo vệ được quyền tự do của công dân, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội và quy định trách nhiệm hình sự phù hợp với tính chất và mức độ phạm tội của tội phạm. 1.2.2. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực Có thể nói, Bộ luật hình sự năm 1985 là sự kết hợp thành tựu 40 năm hoạt động lập pháp của chính quyền cách mạng Việt Nam, là kết quả của quá
  • 29. 23 trình thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta từ năm 1945 đến thời điểm Bộ luật được ban hành. Bộ luật hình sự năm 1985 là một bộ luật thống nhất xác định rõ các quy định liên quan đến tội phạm và hình phạt. Về quy định về các giai đoạn phạm tội, Bộ luật hình sự năm 1985 quy định có trách nhiệm hình sự hay không có trách nhiệm hình sự đối với giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt của các tội phạm cố ý, điều này thể hiện sự phân hóa trong trách nhiệm hình sự của tội phạm chưa hoàn thành so với tội phạm đã hoàn thành. Chỉ có những người có hành vi chuẩn bị phạm tội, tội gây nguy hại lớn cho xã hội mà được Luật hình sự quy định là tội nghiêm trọng mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, so với các giai đoạn phạm tội khác thì chuẩn bị phạm tội có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp nhất và chuẩn bị phạm tội tội ít nghiêm trọng ít nguy hiểm hơn chuẩn bị phạm tội nghiêm trọng. Cụ thể: Điều 15 Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định: 1- Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm. Người chuẩn bị phạm một tội nghiêm trọng phải chịu trách nhiệm hình sự. 2- Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. 3- Đối với những hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các Điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng, tuỳ theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng [14, Điều 15].
  • 30. 24 Tuy nhiên, theo Điều 15 Bộ luật hình sự năm 1985 thì người chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về cùng một tội danh, theo cùng một điều luật và trong cùng một phạm vi chế tài như trường hợp tội phạm hoàn thành, điều đó chưa tạo được cơ sở pháp lí đầy đủ để phân hóa trách nhiệm hình sự đối với các hành vi thực hiện tội phạm ở các mức độ khác nhau cho tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, trong đó các hành vi thực hiện tội phạm ở các mức độ khác nhau và có mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Sự phân hóa trách nhiệm hình sự đối với chuẩn bị phạm tội của một loại tội cố ý chỉ có thể thực hiện được một cách triệt để nếu đảm bảo được nguyên tắc tương xứng giữa mức độ trách nhiệm hình sự cần xác định với mức độ nguy hiểm của hành vi đó. Theo đó, để tương xứng với mức độ nguy hiểm của các hành vi thực hiện một tội phạm cố ý ở các mức độ khác nhau thì rõ ràng thông qua các quy định của mình, Luật hình sự phải thể hiện được nguyên tắc xử lí là chuẩn bị phạm tội bị xử nhẹ hơn các giai đoạn phạm tội khác (nếu có các tình tiết khác tương đương). Như vậy, đối với tội phạm ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, Bộ luật hình sự năm 1985, tuy đã thể hiện được sự phân hóa hợp lí trong quy định về xác lập trách nhiệm hình sự nhưng vẫn chưa thể hiện được sự phân hóa hợp lí trong quy định về xác định trách nhiệm hình sự. 1.2.3. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009) là Bộ luật hình sự hiện hành của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo đó, Bộ luật hình sự năm 1999 đã có những điểm mới liên quan đến trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội để khắc phục những hạn chế và phân hóa hơn trách nhiệm hình sự đối với các hành vi thực hiện tội phạm cố ý ở các mức độ khác nhau.
  • 31. 25 Điều 17 của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm. Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện [15, Điều 17]. Điều 18 của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt [15, Điều 18]. Đối với giai đoạn chuẩn bị phạm tội, trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra khi đó là hành vi chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng (tội có mức độ cao nhất của khung hình phạt từ trên 7 năm đến 15 năm tù) và tội đặc biệt nghiêm trọng (tội có mức cao nhất của khung hình phạt là trên 15 năm tù). Ngoài ra Điều 52 Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định về việc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt: 1. Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng. 2. Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là không quá hai mươi năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.
  • 32. 26 3. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định [15, Điều 52]. Việc quy định giới hạn mức cao nhất của khung hình phạt được áp dụng cho hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt như trên là điểm mới về sự phân hóa trách nhiệm hình sự giữa hành vi phạm tội hoàn thành và hành vi phạm tội chưa hoàn thành so với Bộ luật hình sự năm 1985. Theo quy định trên thì người chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về cùng một tội danh, theo cùng một điều luật như trường hợp phạm tội hoàn thành nhưng không trong cùng một phạm vi chế tài quy định cho tội phạm hoàn thành như đã được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985. Chế tài được áp dụng để xác định trách nhiệm hình sự cho chuẩn bị phạm tội tuy vẫn là chế tài quy định cho tội phạm cố ý (ở gian đoạn hoàn thành) nhưng bị giới hạn thấp hơn về hình phạt nặng nhất hoặc về mức cao nhất của khung hình phạt nặng nhất (mà vẫn giữ nguyên mức thấp nhất của khung hình phạt), cụ thể như loại hình phạt nghiêm khắc nhất là tù chung thân hoặc tử hình trong trường hợp được quy định trong điều luật về tội phạm cụ thể không thể áp dụng trong trường hợp chuẩn bị phạm tội (nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là không quá hai mươi năm tù) và mức cao nhất của khung hình phạt tù quy định trong điều luật cũng không thể áp dụng cho chuẩn bị phạm tội của tội phạm được quy định trong điều luật (mức cao nhất của khung hình phạt tù quy định cho chuẩn bị phạm tội không quá 1/2 mức cao nhất của khung hình phạt quy định cho tội phạm hoàn thành).
  • 33. 27 1.3. Tội phạm chưa hoàn thành quy định trong luật hình sự một số nước Pháp luật hình sự Việt Nam và các nước trên thế giới có những quy định giống và khác nhau về tội phạm chưa hoàn thành và trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành. 1.3.1. Tội phạm chưa hoàn thành quy định trong Bộ luật hình sự của nước Thụy Điển Bộ luật hình sự Thụy Điển được thông qua vào năm 1962 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1965 và đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần các năm 1967, 1970, 1974, 1976, 1986, 1988, 1994… và lần sửa đổi gần đây nhất vào năm 1999. Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định các hành vi được coi là tội phạm ở Thụy Điển. Các quy định về tội phạm khác cũng được tìm thấy trong luật pháp đặc biệt. Nó cũng chứa đựng các quy định chung trên tất cả các tội phạm, hình thức xử phạt đối với tội phạm và cách áp dụng của pháp luật Thụy Điển. Bộ luật hình sự Thụy Điển không nêu cụ thể nội dung khái niệm về tội phạm chưa hoàn thành mà chỉ đưa ra một cách gián tiếp thông qua các quy định về chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, ghi nhận về tội phạm chưa hoàn thành trong các điều luật cụ thể. Theo đó, Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, mức giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt tại các điều khoản quy định về chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt như sau: Tại Chương 22 Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định: Điều 11 Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt các tội giết người, ngộ sát, giết trẻ sơ sinh, gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác không thuộc trường hợp ít nghiêm trọng cũng như âm mưu đồng phạm giết người, ngộ sát hoặc cố ý
  • 34. 28 gây thương tích hoặc gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe của người khác, không tố giác tội phạm thì áp dụng hình phạt được quy định tại Chương 23 của Bộ luật này (Luật 1991: 679). Tại Chương 23 Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định: Người nào với mục đích thực hiện tội phạm hoặc thúc đẩy việc phạm tội mà tặng hoặc nhận tiền và các tài sản khác với tính chất là các khoản trả trước hoặc thanh toán cho việc thực hiện tội phạm hoặc người nào cung cấp, xây dựng, trao nhận, giữ, vận chuyển hoặc tham gia vào bất cứ một hoạt động tương tự nào khác liên quan đến chất độc, chất nổ, vũ khí, dụng cụ nạy khóa, dụng cụ làm đồ giả mạo hoặc các phương tiện tương tự, trong các trường hợp có các quy định riêng cho hành vi này thì bị xử phạt về hành vi phạm tội trừ trường hợp người đó bị xử phạt về tội đã hoàn thành hoặc phạm tội chưa đạt... [22, Điều 2]. Về khái niệm phạm tội chưa đạt của Bộ luật hình sự Thụy Điển, tại Điều 1 Chương 23 Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định: Người nào đã bắt đầu thực hiện tội phạm nhưng chưa thực hiện được đến cùng, trong các trường hợp có quy định riêng về vấn đề này thì bị xử phạt về hành vi phạm tội chưa đạt nếu hành vi đó có khả năng gây nguy hiểm khi được thực hiện đến cùng hoặc nguy cơ đó chỉ bị ngăn chặn do hoàn cảnh khách quan [22]. . Như vậy, khái niệm phạm tội chưa đạt của Bộ luật hình sự Thụy Điển cũng tương đối giống so với quy định về phạm tội chưa đạt trong Bộ luật hình sự Việt Nam, phạm tội chưa đạt là trường hợp người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm một cách cố ý nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn, người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.
  • 35. 29 Về trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt đối với người chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt: Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định việc chuẩn bị phạm tội bị xử lý nhẹ hơn tội phạm hoàn thành. Quy định nhẹ nhất là có thể không bị áp dụng hình phạt nếu không gây ra nguy hiểm đáng kể, khi áp dụng hình phạt đối với người chuẩn bị phạm tội phải thấp hơn hình phạt nặng nhất và có thể thấp hơn hình phạt nhẹ nhất được áp dụng đối với tội phạm đã hoàn thành, không áp dụng hình phạt tù trên hai năm trừ trường hợp tội phạm hoàn thành có thể bị xử phạt từ tám năm tù trở lên. Nếu ngay cả trong trường hợp tội phạm hoàn thành cũng không gây ra nguy hiểm đáng kể thì người phạm tội không bị áp dụng hình phạt. Còn đối với người phạm tội chưa đạt, theo quy định tại Điều 1 Chương 23 Bộ luật hình sự Thụy Điển thì hình phạt nặng nhất là bằng mức hình phạt đối với tội đã hoàn thành và nhẹ nhất là hình phạt tù nếu hình phạt nhẹ nhất đối với tội đã hoàn thành là hình phạt tù từ hai năm trở lên. Tóm lại, khi quyết định hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành thì Bộ luật hình sự Việt Nam và Bộ luật hình sự nước Thụy Điển đều quy định người chuẩn bị phạm tội bị xử lý nhẹ hơn phạm tội chưa đạt và phạm tội chưa đạt bị xử lý nhẹ hơn tội phạm hoàn thành. Quy định hình phạt nhẹ nhất là có thể được miễn hình phạt và có thể quyết định hình phạt đối với người chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt của tội phạm đã hoàn thành. Ngoài ra, hình phạt nặng nhất mà Bộ luật hình sự nước Thụy Điển áp dụng là phải thấp hơn hình phạt nặng nhất đối với tội phạm đã hoàn thành (hình phạt nặng nhất đối với người chuẩn bị phạm tội) hay bằng mức hình phạt đối với tội đã hoàn thành (hình phạt nặng nhất đối với người phạm tội chưa đạt), điều này khác với quy định về quyết định hình phạt đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt của Bộ luật hình sự Việt Nam, cụ thể tại khoản 2 và khoản 3 Điều 52 Bộ luật hình sự Việt Nam quy định:
  • 36. 30 …2. Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là không quá hai mươi năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định; 3. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định [16]. Như vậy, có thể thấy quy định của Bộ luật hình sự nước Thụy Điển về quyết định hình phạt đối với người chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt là không cụ thể về mức hình phạt so với Bộ luật hình sự Việt Nam. 1.3.2. Tội phạm chưa hoàn thành quy định trong Bộ luật hình sự nước Cộng hòa liên bang Đức Bộ luật hình sự nước Cộng hòa liên bang Đức được ban hành vào ngày 13/11/1998 và được sửa đổi, bổ sung lần gần đây nhất vào ngày 02/10/2009. Bộ luật hình sự nước Cộng hòa liên bang Đức thể hiện nội dung về tội phạm chưa hoàn thành như sau: Điều 22 Bộ luật hình sự nước Cộng hòa liên bang Đức quy định về khái niệm phạm tội chưa đạt như sau: “Một hành vi phạm tội là chưa đạt khi một người bắt đầu trực tiếp làm thỏa mãn cấu thành tội phạm theo sự hình dung của họ về hành vi”. Với định nghĩa này, phạm tội chưa đạt được hiểu là trường hợp đã thực hiện hành vi trực tiếp làm thoả mãn cấu thành tội phạm (không còn là hành vi chuẩn bị - hành vi tạo điều kiện). Phạm tội chưa đạt không chỉ được tính từ khi đã thoả mãn được dấu hiệu của cấu thành tội phạm mà được tính ngay từ
  • 37. 31 khi đã có hành vi mà tiếp nối ngay sau đó là sự thoả mãn dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Điều 23 Bộ luật hình sự nước Cộng hòa liên bang Đức quy định: Xử phạt đối với phạm tội chưa đạt (1) Phạm tội chưa đạt của một tội phạm nghiêm trọng luôn bị xử phạt, phạm tội chưa đạt của một tội phạm ít nghiêm trọng chỉ bị xử phạt nếu Luật quy định rõ. (2) Phạm tội chưa đạt có thể được xử phạt nhẹ hơn tội phạm hoàn thành (Điều 49 khoản 1) (3) Nếu người thực hiện tội phạm do hiểu biết quá hạn chế mà không thể nhận biết được rằng hành vi đã thực hiện của mình có thể dẫn đến việc hoàn thành các hành vi phạm tội hoặc do tính chất của phương tiện được sử dụng thì tòa án theo đánh giá của mình có thể miễn hoặc giảm hình phạt cho họ (Điều 49 khoản 2). Theo Điều 23 Bộ luật hình sự nước Đức thì phạm tội chưa đạt có thể bị xử phạt nhẹ hơn tội phạm hoàn thành (giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 49). Tuy nhiên, không phải trường hợp phạm tội chưa đạt nào cũng bị xử phạt. Cụ thể: phạm tội chưa đạt luôn bị xử phạt nếu là phạm tội chưa đạt của một tội phạm nghiêm trọng; còn phạm tội chưa đạt của một tội phạm ít nghiêm trọng chỉ bị xử phạt nếu được luật quy định rõ. Do phạm tội chưa đạt được coi là tình tiết giảm nhẹ hoặc đặc biệt nên mức độ trách nhiệm hình sự của phạm tội chưa đạt được quy định thấp hơn so với tội phạm hoàn thành. Hình phạt được giảm nhẹ cho tội phạm của phạm tội chưa đạt được quy định tại Điều 49 như sau: Hình phạt chung thân được thay thế bằng hình phạt tù có thời hạn không dưới 3 năm: đối với hình phạt tù có thời hạn thì mức cao nhất chỉ bằng 3/4 mức cao nhất của khung hình phạt quy định. Số
  • 38. 32 ngày lương tối đa ở hình phạt tiền cũng được tính tương tự như vậy. Mức cao nhất của khung hình phạt tù là 10 năm hoặc 5 năm được giảm xuống còn 2 năm; Mức thấp nhất của khung hình phạt tù là 1 năm được giảm xuống còn 3 tháng. Bên cạnh các quy định trên, Bộ luật hình sự Đức còn có quy định về trường hợp chưa đạt vô hiệu và trong đó cho phép miễn hoặc giảm hình phạt cho người phạm tội theo khoản 2 Điều 49. Đây là trường hợp trong đó người phạm tội do hiểu biết quá hạn chế mà đã không thể nhận biết được rằng hành vi đã thực hiện của mình hoàn toàn không thể hoàn thành được do tính chất của đối tượng mà hành vi nhằm vào hoặc do tính chất của phương tiện được sử dụng… Theo đó, chưa đạt vô hiệu ở đây có thể do khách thể không phù hợp, do phương tiện không phù hợp. Ngoài ra, chưa đạt vô hiệu còn có thể do chủ thể không phù hợp. Đây là trường hợp chưa đạt rất đặc biệt, trong đó chủ thể của tội phạm có sự nhầm lẫn về đặc điểm đặc biệt của chính mình. Tại Đức cũng còn có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề chưa đạt vô hiệu [10, tr.25,26]. Về vấn đề này, trong Bộ luật hình sự Việt Nam không có điều luật riêng quy định, pháp luật hình sự Việt Nam về mặt nghiên cứu khoa học thì phạm tội chưa đạt vô hiệu có tên gọi riêng nhưng trong luật nó vẫn chỉ được coi là trường hợp chưa đạt như mọi trường hợp khác, nguyên nhân chưa đạt vô hiệu cũng chỉ là nguyên nhân khách quan như mọi nguyên nhân khách quan khác và vấn đề trách nhiệm hình sự của chưa đạt vô hiệu cũng không có gì đặc biệt so với những trường hợp chưa đạt khác. Như vậy, theo Bộ luật hình sự nước Cộng hòa liên bang Đức, người phạm tội chưa đạt bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi: - Phạm tội chưa đạt của một tội phạm nghiêm trọng. - Phạm tội chưa đạt của một tội phạm ít nghiêm trọng và trong luật có quy định rõ.
  • 39. 33 - Hình phạt đối với tội phạm chưa đạt được giảm nhẹ so với tội phạm hoàn thành, cụ thể: hình phạt chung thân được thay thế bằng hình phạt tù có thời hạn không dưới 3 năm. Đối với hình phạt tù có thời hạn thì mức cao nhất chỉ bằng 3/4 mức cao nhất của khung hình phạt quy định, số ngày lương tối đa ở hình phạt tiền cũng được tính tương tự như vậy. Mức cao nhất của khung hình phạt tù là 10 năm hoặc 5 năm được giảm xuống còn 2 năm, mức thấp nhất của khung hình phạt tù là 1 năm được giảm xuống còn 3 tháng. Qua tìm hiểu pháp luật hình sự nước Cộng hoà Liên bang Đức, có thể thấy so với Bộ luật hình sự Việt Nam thì Bộ luật hình sự nước Cộng hoà Liên bang Đức cũng không nêu nội dung khái niệm về tội phạm chưa hoàn thành mà chỉ ghi nhận gián tiếp thông qua các giai đoạn thực hiện tội phạm, trong lý luận cũng như trong thực tiễn đều thống nhất thừa nhận quá trình phạm tội do cố ý tiến triển qua ba giai đoạn. Bên cạnh đó, Bộ luật hình sự nước Cộng hoà Liên bang Đức cũng có những quy định khác Bộ luật hình sự Việt Nam về các giai đoạn phạm tội, cụ thể như: - Bộ luật hình sự nước Cộng hoà Liên bang Đức không quy định chuẩn bị phạm tội là một giai đoạn phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự. - Bộ luật hình sự nước Cộng hoà Liên bang Đức coi phạm tội chưa đạt là tình tiết giảm nhẹ hoặc đặc biệt nên mức độ trách nhiệm hình sự của phạm tội chưa đạt được quy định thấp hơn so với tội phạm hoàn thành. - Không áp dụng hình phạt tử hình đối với tội phạm chưa đạt và đối với hình phạt tù có thời hạn thì Bộ luật hình sự nước Cộng hoà Liên bang Đức quy định cụ thể về mức giảm thấp nhất của khung hình phạt đối với tội phạm chưa đạt. - Bộ luật hình sự nước Cộng hoà Liên bang Đức có quy định về trường hợp chưa đạt vô hiệu và cho phép miễn hoặc giảm hình phạt cho người phạm tội theo khoản 2 Điều 49.
  • 40. 34 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ TỘI PHẠM CHƯA HOÀN THÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK 2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về khái niệm và trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành 2.1.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về khái niệm tội phạm chưa hoàn thành Hiện nay, Bộ luật hình sự năm 1999 chưa có điều luật cụ thể nào quy định về khái niệm tội phạm chưa hoàn thành, nhưng đã có những quy định cụ thể về các giai đoạn phạm tội trong tội phạm chưa hoàn thành là chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt (quy định tại Điều 17 và Điều 18 Bộ luật hình sự). Như vậy, Bộ luật hình sự năm 1999 đã có sự phân biệt giữa tội phạm chưa hoàn thành với tội phạm đã hoàn thành, điều này tạo cơ sở cho việc xác định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm ở những giai đoạn phạm tội khác nhau, với tính chất mà mức độ nguy hiểm khác nhau. Tại Điều 17 của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về chuẩn bị phạm tội như sau: Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm. Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện [15, Điều 17]. Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về phạm tội chưa đạt như sau: Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
  • 41. 35 Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt [15, Điều 18]. Nhìn chung, quy định tại Điều 17 và Điều 18 của Bộ luật hình sự năm 1999 đã đưa ra khái niệm tương đối rõ ràng, đầy đủ và ngắn gọn về giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Theo đó, chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu tiên của quá trình thực hiện tội phạm do cố ý trực tiếp. Từ chỗ có ý định phạm tội, người phạm tội bằng ý thức chủ quan của mình đã nảy sinh ý định thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người phạm tội đã tiến hành tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm, tuy nhiên vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội nên tội phạm đã không thực hiện được đến cùng. Còn phạm tội chưa đạt là giai đoạn tiếp theo sau của giai đoạn chuẩn bị phạm tội, là một giai đoạn trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý trực tiếp. Trong giai đoạn phạm tội chưa đạt, người phạm tội đã sử dụng những điều kiện thuận lợi cần thiết để thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm, tuy nhiên, vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội mà tội phạm không thực hiện được đến cùng. Từ đó, có thể hiểu tội phạm chưa hoàn thành là khi người phạm tội mới bắt đầu hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm hay đã bắt tay vào việc thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người đó. Cơ sở để xác định một người đã thực hiện tội phạm chưa hoàn thành (mới bắt đầu hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm hay không thực hiện được đến cùng) là ở chỗ người đó đã thỏa mãn hết các dấu hiệu của một cấu thành của một tội phạm cụ thể hay chưa, trường hợp một người mới bắt đầu hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm hoặc thực hiện hành vi chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu của một cấu thành tôi phạm cụ thể, do những
  • 42. 36 nguyên nhân ngoài ý muốn của người đó thì tội phạm do người đó thực hiện là tội phạm chưa hoàn thành, hành vi của người đó là hành vi chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt. 2.1.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành Trách nhiệm hình sự được hiểu là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lí bất lợi về hành vi phạm tội của mình và có những đặc điểm sau: - Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lí của việc thực hiện hành vi phạm tội. Hậu quả này chỉ phát sinh khi có người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm hoặc không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật hình sự yêu cầu phải thực hiện. - Trách nhiệm hình sự chỉ có thể được xác định bằng trình tự đặc biệt theo quy định của pháp luật mà các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ phải thực hiện. - Trách nhiệm hình sự được biểu hiện cụ thể ở việc người phạm tội phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt, biện pháp tước bỏ hoặc hạn chế ở họ một số quyền hoặc lợi ích hợp pháp. - Trách nhiệm hình sự mà người phạm tội phải gánh chịu là trách nhiệm đối với Nhà nước chứ không phải đối với người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại. - Trách nhiệm hình sự phải được phản ánh trong bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án [23, tr.210,211]. Theo quy định của Bộ luật hình sự 1999 thì người thực hiện tội phạm chưa hoàn thành phải chịu trách nhiệm hình sự đối với việc thực hiện tội phạm ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội (với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng) và phạm tội chưa đạt, đó là một dạng trách nhiệm pháp lý
  • 43. 37 mà người phạm tội phải gánh chịu khi thực hiện hành vi phạm tội và người phạm tội sẽ bị tước bỏ một số quyền hoặc lợi ích hợp pháp nhất định. Về khách quan, hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, chúng đe dọa trực tiếp gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Về chủ quan, người chuẩn bị phạm tội và người phạm tội chưa đạt đã có ý thức lựa chọn hành vi xử sự trái với các quy tắc và chuẩn mực chung xã hội (có lỗi). Người chuẩn bị phạm tội và người phạm tội chưa đạt chưa thực hiện được tội phạm đến cùng hoàn toàn do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của họ. Việc xác định người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quy trách nhiệm hình sự. Chỉ đối với những tội phạm thực hiện do cố ý thì mới có giai đoạn chuẩn bị phạm tội, vì khi cố ý phạm tội thì người phạm tội mới thường tiến hành một số hoạt động như: bàn bạc với người khác, tìm kiếm, sửa soạn phương tiện phạm tội hoặc tạo những điều kiện cần thiết khác cho việc thực hiện tội phạm. Trong tội phạm chưa hoàn thành thì giai đoạn chuẩn bị phạm tội là giai đoạn có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn so với phạm tội chưa đạt vì chưa trực tiếp xâm hại đến khách thể của loại tội định thực hiện. Do vậy, luật hình sự Việt Nam chỉ đặt vấn đề trách nhiệm hình sự cho những trường hợp chuẩn bị phạm tội khi tội định phạm là một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Khi hành vi của người phạm tội đã chuyển sang giai đoạn thực hiện thì hành vi đó đã thực sự nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy, Điều 18 Bộ luật hình sự quy định trừng trị tất cả các trường hợp phạm tội chưa đạt, người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt. Phạm tội chưa đạt là những hành vi đã tiến hành tội phạm, nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Căn cứ vào
  • 44. 38 thái độ tâm lí của người phạm tội đối với hành vi mà họ đã thực hiện, khoa học pháp lý chia phạm tội chưa đạt thành hai loại: phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp người phạm tội vì nguyên nhân khách quan, chưa thực hiện hết các hành vi mà họ cho là cần thiết để gây ra hậu quả nên hậu quả không xảy ra (chưa đạt về hậu quả, chưa hoàn thành về hành vi), ví dụ: A đã trèo tường vào nhà B để trộm tài sản, nhưng thấy động nên phải rút lui; và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp người phạm tội đã thực hiện đầy đủ những hành vi mà họ cho là cần thiết để gây hậu quả, nhưng vì nguyên nhân khách quan (ngoài ý muốn) hậu quả đó không xảy ra (chưa đạt về hậu quả, hoàn thành về hành vi), ví dụ: kẻ giết người đã cho người khác uống thuốc độc, nhưng do liều lượng quá nhẹ nên người bị hại không chết. Mặc dù Bộ luật hình sự không quy định cụ thể nhưng xét việc thực hiện hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm thì tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm ở trường hợp thứ hai (phạm tội chưa đạt đã hoàn thành) cao hơn trường hợp thứ nhất (phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành), cho nên phải xử phạt nặng hơn. Các giai đoạn thực hiện tội phạm ở các mức độ khác nhau thì cũng phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Từ đó luật hình sự Việt Nam quy định việc xác định hình phạt được áp dụng đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội nhẹ hơn hình phạt đối với trường hợp phạm tội chưa đạt và hình phạt được áp dụng đối với cả hai trường hợp phạm tội này đều nhẹ hơn hình phạt được áp dụng đối với tội phạm hoàn thành. Khi quyết định hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành, Tòa án cần căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, bao gồm hai phần: Phần chung và Phần các tội phạm, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng [16, Điều 45].
  • 45. 39 Ngoài ra Tòa án còn phải dựa vào căn cứ riêng khi quyết định hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành, cụ thể được quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt như sau: 1. Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng. 2. Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là không quá hai mươi năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định. 3. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định [16, Điều 52]. Như vậy, từ những phân tích trên thì người thực hiện tội phạm chưa hoàn thành sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu biểu hiện đầy đủ các yếu tố sau: - Tội phạm thực hiện hành vi phạm tội mà hành vi đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại được Bộ luật hình sự quy định. - Giai đoạn thực hiện của tội phạm là giai đoạn chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt (quy định tại Điều 17 và Điều 18 Bộ luật hình sự). - Người phạm tội có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có khả năng