SlideShare a Scribd company logo
1 of 115
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRƢƠNG CÔNG BÌNH
PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRƢƠNG CÔNG BÌNH
PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN KHẮC HẢI
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Trƣơng Công Bình
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng, sơ đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC....... 9
1.1. Khái niệm và các đặc điểm của phạm tội có tổ chức ...................... 9
1.1.1. Khái niệm phạm tội có tổ chức ............................................................ 9
1.1.2. Các đặc điểm của phạm tội có tổ chức...............................................25
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển những quy định về phạm
tội có tổ chức trong Luật hình sự Việt Nam ..................................31
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự năm 1985....................................................31
1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999......................................33
1.3. Phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự một số nƣớc trên
thế giới ...............................................................................................34
1.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga...........................................................34
1.3.2. Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.................................39
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ.......45
2.1. Thực trạng pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội có tổ chức .....45
2.1.1. Những quy định về phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự
hiện hành ............................................................................................45
2.1.2. Văn bản hướng dẫn thi hành các quy định về phạm tội có tổ
chức trong Bộ luật hình sự hiện hành ................................................53
2.2. Thực tiễn xét xử các trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ...........................57
2.2.1. Tình hình công tác xét xử...................................................................57
2.2.2. Một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản...........................67
Chƣơng 3: NHỮNG CƠ SỞ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM...................................76
3.1. Những cơ sở hoàn thiện các quy định về phạm tội có tổ chức
trong Bộ luật hình sự Việt Nam......................................................76
3.1.1. Cơ sở pháp lý .....................................................................................76
3.1.2. Cơ sở thực tiễn ..................................................................................81
3.1.3. Cơ sở lý luận ......................................................................................87
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về phạm tội có tổ
chức trong Bộ luật hình sự Việt Nam ............................................90
3.2.1. Kiến nghị tại phần chung của Bộ luật hình sự ...................................91
3.2.2. Kiến nghị tại phần các tội phạm của Bộ luật hình sự ........................96
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh chống phạm
tội có tổ chức .....................................................................................97
KẾT LUẬN..................................................................................................103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................105
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Thống kê các mức độ phạm tội (nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng, đặc biệt nghiêm trọng) trong các vụ án phạm tội có
tổ chức 58
Bảng 2.2: Số lượng vụ án và bị cáo (từ năm 2009 đến 6/2014) 60
Bảng 2.3: Số lượng vụ án có tình tiết “Phạm tội có tổ chức” từ năm
2009 đến 6/2014 60
Bảng 2.4: Số lượng bị cáo trong các vụ án có tình tiết “Phạm tội có
tổ chức” giai đoạn từ năm 2009 đến 6/2014 61
Bảng 2.5: Thống kê các nhóm tội phạm được thực hiện dưới hình
thức phạm tội có tổ chức (từ năm 2009 đến 6/2014) 62
Bảng 2.6: Thống kê về giới tính của các bị cáo trong các vụ án có
tình tiết “Phạm tội có tổ chức” giai đoạn 2009 đến 6/2014 66
Bảng 2.7: Độ tuổi của các bị cáo trong các vụ án có tình tiết “Phạm
tội có tổ chức” giai đoạn 2009 đến 6/2014 67
Sơ đồ 1.1: Tội phạm có tổ chức 15
Sơ đồ 1.2: Nhóm tội phạm 21
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phần lớn các quốc gia trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam sử dụng
luật hình sự như là công cụ hiệu quả để đấu tranh chống tội phạm được thực
hiện dưới hình thức “có tổ chức”, tuy rằng cách quy định về dấu hiệu này ở
các quốc gia lại có những khác biệt.
Với tính chất là một dạng đồng phạm đặc biệt, thể hiện sự nguy hiểm
cao bởi một nhóm người có sự câu kết chặt chẽ thông qua chính cơ cấu tổ
chức (băng, nhóm, tổ chức, liên minh …) và sự bàn bạc, tính toán, phân công,
lên kế hoạch nhằm thực hiện tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc
đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội có tổ chức đã xuất hiện từ khá lâu trong lịch
sử lập pháp hình sự của Việt Nam, được đề cập lần đầu tiên trong Thông tư số
442/TTG ngày 19/11/1955 của Thủ tướng Chính phủ về việc trừng trị một số
tội phạm. Cho đến nay, phạm tội có tổ chức được ghi nhận trong Bộ luật hình
sự năm 1999 với tính chất là “hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ
giữa những người cùng thực hiện tội phạm”.
Về mặt lý luận luật hình sự, còn có nhiều ý kiến khác nhau về bản
chất pháp lý của khái niệm phạm tội có tổ chức. Còn nhiều luồng quan
điểm trái chiều liên quan đến cách hiểu về dạng đồng phạm đặc biệt này –
phạm tội có tổ chức.
Về mặt lập pháp hình sự, khó khăn gặp phải là hệ thống pháp luật hiện
nay chưa bảo đảm được công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm có
tổ chức, thiếu đồng bộ và việc sửa đổi bổ sung còn chậm, chưa bắt kịp với xu
thế đang diễn ra. Chính vì thế, pháp luật hình sự nước ta chưa có một cơ chế
thực sự để điều chỉnh trường hợp này
Trên phương diện thực tiễn, việc áp dụng những quy định về phạm tội
2
có tổ chức đã gặp phải những vướng mắc như thế nào là sự câu kết chặt chẽ.
Đối với công tác điều tra, phần lớn các báo cáo của cơ quan công an các tỉnh
thành, trong đó có tỉnh Đắk Lắk, thể hiện các trường hợp phạm tội có tổ chức
bằng cách diễn đạt khác, đó là tổ chức tội phạm, băng, ổ, phạm tội theo kiểu
“xã hội đen”… gây mất thống nhất với các báo cáo của các cơ quan tiến hành
tố tụng khác như Viện kiểm sát hay Tòa án. Về công tác xét xử, do nhận thức
về bản chất pháp lý của khái niệm phạm tội có tổ chức còn chưa thống nhất,
nên các Tòa án nói chung và các tòa tại tỉnh Đắk Lắk nói riêng, đã phạm sai
lầm khi kết luận đồng phạm có thông mưu trước thông thường là phạm tội có
tổ chức hoặc ngược lại vụ án có tổ chức lại kết luận là đồng phạm thông
thường. Hoặc có những bản án tuy không có dấu hiệu sai phạm về mặt áp
dụng pháp luật, nhưng việc quy định chưa rõ nghĩa về phạm tội có tổ chức
trong Bộ luật hình sự đã cho thấy sự bất hợp lý giữa việc áp dụng pháp luật
hình sự vào thực tiễn là chưa phản ánh chính xác được “tính có tổ chức” của
vụ án, chưa rõ ràng của sự “câu kết chặt chẽ” theo tinh thần điều luật quy định
về phạm tội có tổ chức, cũng như trong nhiều trường hợp chưa phân định rõ
được vai trò trong các vụ án phạm tội có tổ chức cho nên việc quyết định hình
phạt đối với các bị cáo nhiều khi bị đánh đồng, chưa lượng hóa được hình
phạt phù hợp với vai trò và các tình tiết của vụ án đối với từng bị cáo.
Trên phương diện thực hiện cam kết quốc tế, Việt Nam đã ký tham
gia Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
vào tháng 12 năm 2000, phê chuẩn công ước này vào ngày 29 tháng 12 năm
2011. Để bảo đảm cam kết của Việt Nam đối với Công ước, Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt kế hoạch triển khai thực hiện Công ước vào ngày 18 tháng 4
năm 2013. Những quốc gia tham gia Công ước, trong đó có Việt Nam, có
nghĩa vụ tội phạm hoá hành vi tham gia nhóm tội phạm có tổ chức. Tuy nhiên
trong Bộ luật hình sự Việt Nam chưa quy định về tổ chức tội phạm cũng như
3
chưa có quy định về hành vi tham gia nhóm tội phạm có tổ chức (tổ chức tội
phạm). Vì vậy, để có cơ sở pháp lý đấu tranh chống hình thức phạm tội nguy
hiểm này và thực hiện các nghĩa vụ với tư cách là thành viên của Công ước
thì việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện Bộ luật hình sự, đặc biệt là các quy
định về tổ chức tội phạm và hành vi tham gia vào tổ chức này là rất cần thiết.
Những luận điểm nêu trên đã chứng tỏ lý do nghiên cứu đề tài “Phạm tội
có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn
tỉnh Đắk Lắk)” là quan trọng và cấp thiết trong việc hoàn thiện pháp luật hình
sự để đấu tranh chống và phòng ngừa loại tội phạm nguy hiểm này tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Đồng phạm cũng như phạm tội có tổ chức là những vấn đề có nội dung
phong phú và phức tạp được các luật gia và các nhà nghiên cứu luật quan tâm
chú ý và đề cập đến trong những công trình nghiên cứu của mình dưới góc độ
luật hình sự, tội phạm học hoặc xã hội học pháp luật.
Hiện nay, ở nước ta có rất nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu vấn đề đồng
phạm có tổ chức dưới các góc độ khác nhau ở mức chuyên sâu hoặc khái quát
hóa đã được công bố trên các sách, tạp chí, luận văn, luận án. Nhưng tựu
chung lại thì các nghiên cứu chủ yếu theo ba xu hướng đó là: tiếp cận dưới
góc độ tội phạm học, luật hình sự và theo sự xuất hiện các vấn đề mới của xã
hội. Dưới góc độ khoa học luật hình sự đã có khá nhiều các công trình nghiên
cứu về phạm tội có tổ chức, có thể kể ra đây một số công trình tiêu biểu của
các tác giả như: GS.TSKH Lê Cảm với tập sách “Các nghiên cứu chuyên
khảo về phần chung Bộ luật hình sự” (NXB Công an nhân dân, 2000) đã đề
cập đến chế định đồng phạm trong đó có nói đến phạm tội có tổ chức, sách
“Đồng phạm trong luật Hình sự Việt Nam” của TS. Trần Quang Tiệp (NXB
Tư Pháp, 2007) với nội dung trình bày về khái niệm đồng phạm, các loại
người đồng phạm, các hình thức đồng phạm và trách nhiệm hình sự trong
4
đồng phạm. Mặt khác, có một số bài viết, đề tài tập trung phân tích trường
hợp phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, chẳng hạn như bài
“Phạm tội có tổ chức và trách nhiệm hình sự đối với bọn phạm tội có tổ
chức” của tác giả Nguyễn Vạn Nguyên, hay đề tài luận văn cao học của
Nguyễn Minh Đức “Hình thức phạm tội có tổ chức trong chế định đồng phạm
theo pháp luật Hình sự Việt Nam”. Tiếp cận vấn đề ở góc độ tội phạm học là
một số bài viết của các tác giả nói đến vấn đề đồng phạm có tổ chức với tư
cách là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội ở những khía cạnh khác nhau.
Đó là các bài viết như: “Vấn đề tội phạm có tổ chức và trách nhiệm hình sự
pháp nhân trong sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” của GS.TS. Hồ Trọng
Ngũ đăng trên tạp chí Lập pháp số 6/2009, bài nghiên cứu “Đấu tranh phòng,
chống tội phạm có tổ chức và tội phạm xuyên quốc gia trong hội nhập kinh tế
quốc tế” của PGS.TS Trần Hữu Ứng đăng trên tạp chí Cộng sản điện tử, hoặc
loạt bài viết của TS. Nguyễn Khắc Hải: “Đấu tranh phòng chống tội phạm có
tổ chức theo pháp luật hình sự Liên bang Nga” trong tạp chí Khoa học – Đại
học Quốc gia Hà Nội số 23/2007, “Nhận diện tội phạm có tổ chức” (Kỷ yếu
hội thảo khoa học về sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999) đã tạo ra những nhận
thức cơ bản trong việc tìm hiểu về đồng phạm có tổ chức. Thêm vào đó, có
khá nhiều các nghiên cứu về đồng phạm có tổ chức với tư cách là vấn đề mới
của xã hội. Đầu tiên phải kể đến cuốn sách mang tên “Tội phạm có tổ chức –
lịch sử và vấn đề hôm nay” của GS.TS. Hồ Trọng Ngũ trả lời cho câu hỏi:
“tội phạm có tổ chức – nhận thức mới hay hiện tượng xã hội mới?”, bài viết
“Tội phạm có tổ chức và việc bổ sung chế định tổ chức tội phạm trong Bộ
luật hình sự Việt Nam” của TS. Lê Thị Sơn trong tạp chí Luật học số
12/2012, đề tài luận án của TS. Nguyễn Trung Thành “Phạm tội có tổ chức
trong luật hình sự Việt Nam và việc đấu tranh phòng chống” đề cập chi tiết
đến trường hợp đồng phạm có tổ chức ở cả góc độ khoa học luật hình sự và
5
tội phạm học. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam cũng đã đề cập trên một
số góc độ về trường hợp phạm tội có tổ chức, nhưng việc giải thích chi tiết
trường hợp phạm tội có tổ chức về mặt cơ cấu và hoạt động của nó cũng như
một số hình thức thực hiện tội phạm mới liên quan đến đồng phạm có tổ chức
vẫn đang là một vấn đề còn bỏ ngỏ. Vì thế, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn
đất nước nói chung và tại Đắk Lắk nói riêng xung quanh phạm tội có tổ chức
vẫn đang là điều cần được nghiên cứu để sửa đổi và hoàn thiện.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích cơ bản của đề tài là làm sáng tỏ một cách có hệ thống, đầy đủ
và chi tiết về mặt lý luận hiện tượng tội phạm có tổ chức mà hình thức thể
hiện của nó là phạm tội có tổ chức, phân tích một cách khoa học và có căn cứ
những vấn đề có liên quan đến phạm tội có tổ chức để qua đó có được cái
nhìn thống nhất, toàn diện, đầy đủ và đóng góp về mặt khoa học để góp phần
giải quyết những vướng mắc đang được đặt ra trong trường hợp đồng phạm
đặc biệt này. Từ việc phân tích những vấn đề lý luận, kết hợp với nghiên cứu
kinh nghiệm quốc tế, thực trạng pháp luật Việt nam và thực tiễn xét xử trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk, luận văn đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện những quy
định của Bộ luật hình sự về phạm tội có tổ chức.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích luận văn nghiên cứu những vấn đề sau:
a. Khái niệm, các đặc điểm và lịch sử hình thành và phát triển các quy
định về phạm tội có tổ chức trong luật hình sự Việt Nam
b. Phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự của một số quốc gia trong
đấu tranh chống phạm tội có tổ chức
c. Thực trạng pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội có tổ chức
d. Thực tiễn và những nguyên nhân tồn tại, hạn chế trong công tác xét
xử các vụ án phạm tội có tổ chức trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
6
e. Những cơ sở pháp lý và thực tiễn trong nước và quốc tế để hoàn
thiện các quy định về phạm tội có tổ chức, cũng như nâng cao hiệu quả đấu
tranh chống loại tội phạm nguy hiểm này
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài nêu trên là thành tựu từ các chuyên ngành khoa
học pháp lý như: lịch sử nhà nước và pháp luật, lý luận về pháp luật, xã hội
học pháp luật, pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, tội phạm học, lĩnh
vực triết học, thành tựu từ các công trình nghiên cứu, luận văn, luận án, sách
chuyên khảo cũng như các bài đăng trên tạp chí và các báo của các nhà khoa
học – luật gia trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng các
văn bản pháp luật của Nhà nước trong việc giải thích thống nhất các trường
hợp cụ thể trong thực tiễn xét xử có liên quan đến trường hợp trên trong các
văn bản thuộc lĩnh vực tư pháp hình sự do các cơ quan bảo vệ pháp luật ban
hành ở các mức độ khác nhau.
Phương pháp luận được sử dụng để làm sáng tỏ các vấn đề được đặt ra
trong nghiên cứu là: phương pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy
vật biện chứng, phép biện chứng duy vật chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Để từ đó
xây dựng, đề cập đến những vấn đề tương ứng trong các quan điểm về tư
tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, củng cố pháp chế và
bảo vệ các quyền con người.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả còn đồng thời sử dụng các
phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từ vấn đề được đặt ra.
Các phương pháp tiếp cận được sử dụng đó là: phương pháp phân tích –
chứng minh, logic, phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân tích –
tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp lịch sử, liệt kê,...Đặc
biệt trong đó tác giả nhấn mạnh chú ý tới các phương pháp tổng hợp – hệ
thống, đối chiếu so sánh, lịch sử phân tích, thống kê, khảo sát thực tiễn,
7
phương pháp xã hội học,... để qua đó đưa ra được những kết luận khoa học
mang tính thuyết phục cao, đề xuất các phương án cụ thể sao cho phù hợp
nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự có liên quan đến trường
hợp phạm tội có tổ chức.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Kế thừa các nghiên cứu khoa học về phạm tội có tổ chức của các học
giả luật học, luật gia trong nước và quốc tế, luận văn có những đóng góp mới
trong việc nghiên cứu, cụ thể là:
a. Làm sáng tỏ một cách hệ thống và toàn diện một số vấn đề lý luận về
trường hợp đồng phạm có tổ chức, góp phần tiếp cận khái niệm, các đặc điểm
của trường hợp phạm tội có tổ chức;
b. Nghiên cứu so sánh, đặt pháp luật hình sự Việt Nam trong mối quan
hệ với pháp luật quốc tế mà cụ thể là Công ước quốc tế về chống tội phạm có
tổ chức xuyên quốc gia và pháp luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
và Liên Bang Nga để làm cơ sở cho các kiến nghị hoàn thiện;
c. Làm rõ thực tiễn xét xử các vụ án về phạm tội có tổ chức trên địa bàn
thành tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2009-2014;
d. Khảo sát thực tiễn các dạng phạm tội có tổ chức của một số quốc gia;
e. Đưa ra một số đề xuất hoàn thiện những quy định về phạm tội có tổ
chức trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành;
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn này gồm có phần mở đầu, các chương nội dung, phần kết
luận và danh mục tài liệu tham khảo. Cụ thể các chương nội dung bao gồm:
Chƣơng 1: Các vấn đề chung về phạm tội có tổ chức
1.1. Khái niệm và các đặc điểm của phạm tội có tổ chức
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển những quy định về phạm tội có tổ
chức trong luật hình sự Việt Nam
1.3. Phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới
8
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội có
tổ chức và thực tiễn xét xử
2.1. Thực trạng pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội có tổ chức
2.2. Thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Chƣơng 3: Những cơ sở và một số kiến nghị hoàn thiện các quy
định về phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự Việt Nam
3.1. Những cơ sở hoàn thiện các quy định về phạm tội có tổ chức trong
Bộ luật hình sự Việt Nam
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về phạm tội có tổ chức
trong Bộ luật hình sự Việt Nam
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh chống phạm tội
có tổ chức.
9
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC
1.1. Khái niệm và các đặc điểm của phạm tội có tổ chức
1.1.1. Khái niệm phạm tội có tổ chức
Về mặt lý luận luật hình sự, còn có nhiều ý kiến khác nhau về bản chất
pháp lý của khái niệm phạm tội có tổ chức. Do luật hình sự của các nước trên
thế giới quan niệm về vấn đề này khác về chất so với luật hình sự của nước ta
ngay ở tên gọi của khái niệm như Bộ luật Hình sự Cộng hòa Pháp gọi là băng
có tổ chức, Bộ luật Hình sự Liên bang Nga gọi là nhóm có tổ chức mà băng,
nhóm là chủ ngữ khác hẳn với phạm tội chỉ đóng vai trò là vị ngữ. Vì vậy, ở
đây chúng tôi chỉ nêu ra một số quan điểm còn khác nhau xung quanh khái
niệm phạm tội có tổ chức ở nước ta [1, tr.168-172].
Loại quan điểm thứ nhất cho rằng, phạm tội có tổ chức dứt khoát phải
là hình thức đồng phạm phức tạp, tức là phải có sự phân công vai trò giữa
những người cùng thực hiện tội phạm. Nếu giữa những kẻ phạm tội đều có
vai trò thực hiện tội phạm như nhau thì đó là đồng phạm giản đơn chứ không
phải phạm tội có tổ chức.
Quan điểm này sai lầm ở chỗ, đã tuyệt đối hóa một mặt của vấn đề
được nghiên cứu, đó là vai trò của những người đồng phạm. Thực tiễn cũng
đã chỉ ra rằng, sự phân công vai trò khác nhau giữa những người đồng phạm
tuy là dấu hiệu phổ biến của hình thức phạm tội có tổ chức nhưng không phải
là dấu hiệu bắt buộc, dấu hiệu duy nhất. Vì vậy, vẫn có những trường hợp
phạm tội có tổ chức, mà trong đó những người đồng phạm không những câu
kết chặt chẽ về ý thức phạm tội, mà còn có sự phối kết hợp chặt chẽ với nhau
khi thực hiện tội phạm nhưng khi thực hiện tội phạm thì mỗi người đều là
người thực hành mà không có người tổ chức, người xúi giục hoặc là người
giúp sức với vai trò rõ ràng, cụ thể.
10
Loại quan điểm thứ hai cho rằng, ở hình thức phạm tội có tổ chức,
những người đồng phạm phải phạm nhiều tội hoặc phạm một tội, nhưng nhiều
lần và có sự câu kết chặt chẽ với nhau trong một thời gian dài. Theo quan
điểm này, phạm vi những vụ đồng phạm có được xác định là phạm tội có tổ
chức sẽ quá thu hẹp vì chỉ có một số ít các tổ chức chống chính quyền nhân
dân, tổ chức phạm tội khác mới thỏa mãn được điều kiện này. Nếu thực hiện
theo quan điểm này, công tác điều tra, truy tố, xét xử sẽ nương nhẹ nhiều
trường hợp phạm tội có đầy đủ căn cứ để xác định là hình thức đồng phạm
đặc biệt, có tính chất, mức độ nguy hiểm cao cho xã hội, vì vậy sẽ giảm hiệu
quả công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm
được thực hiện bằng đồng phạm nói riêng.
Loại quan điểm thứ ba đồng nhất khái niệm phạm tội có tổ chức với
đồng phạm có thông mưu trước. Loại quan điểm này sai lầm ở chỗ đã đồng
nhất giữa cái chung là đồng phạm có thông mưu trước với cái riêng là hình
thức phạm tội có tổ chức. Thực ra, đồng phạm có thông mưu trước và hình
thức phạm tội có tổ chức là hai khái niệm thống nhất nhưng không đồng nhất:
phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có thông mưu trước nhưng kèm
theo nó là những dấu hiệu đặc trưng khác. Theo logic hình thức thì ngoại diên
của khái niệm phạm tội có tổ chức nằm trong ngoại diên của khái niệm đồng
phạm có thông mưu trước. Xét về mức độ tính nguy hiểm cho xã hội, thì
phạm tội có tổ chức có mức độ tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn đồng phạm
có thông mưu trước. Bộ luật Hình sự Liên bang Nga cũng đã thể hiện quan
điểm này khi xác định đồng phạm có thông mưu trước và nhóm có tổ chức
đều là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt của nhiều điều luật, nhưng
nhóm có tổ chức là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt cao hơn.
Ví dụ: Điều 203 - Tội bắt cóc con tin, quy định đồng phạm có thông
mưu trước là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt của khoản 2 với mức
11
hình phạt từ 5 năm đến 15 năm tù thì nhóm có tổ chức được quy định là tình
tiết tăng nặng định khung hình phạt của khoản 3 Điều này với mức hình phạt
từ 8 năm đến 20 năm tù.
Từ đó cho thấy, nếu thực hiện như quan điểm này, sẽ dẫn tới xét xử,
trừng trị người phạm tội thiếu chính xác, khách quan.
Phạm tội có tổ chức với tính chất là đồng phạm đặc biệt mà định
nghĩa pháp lý của nó được nhà làm luật Việt Nam ghi nhận trong pháp
luật hình sự hiện hành. Tuy nhiên phạm tội có tổ chức vẫn còn nhiều cách
hiểu khác nhau do sự ghi nhận còn chung chung, chưa làm rõ được sự
“câu kết chặt chẽ”. Có quan điểm cho rằng phạm tội có tổ chức là hình
thức phạm tội đặc biệt có sự câu kết chặt chẽ của những người cùng tham
gia vào việc thực hiện tội phạm hoặc của các thành viên cùng một tổ chức
tội phạm [2, tr.460-461]. Sự câu kết chặt chẽ của những người đồng phạm
chính là đặc điểm chủ yếu nhất nói lên tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội cao hơn cả của hình thức đồng phạm này và nó thường có các dấu
hiệu đặc trưng riêng về mặt khách quan và chủ quan.
Cũng có quan điểm nhận diện phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng
phạm đặc biệt – đó chính là đồng phạm có tổ chức. Tính “có tổ chức” được thể
hiện có sự bàn bạc, phân công vai trò người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc
thực hiện hành vi phạm tội, có kỷ luật, có quy ước hoạt động... trước khi thực
hiện tội phạm có vạch kế hoạch, có sự tính toán, cân nhắc kỹ càng, có đề ra các
tình huống xấu khi xảy ra … để cùng thống nhất hành động [3, tr. 61].
Theo tính chất tồn tại, phạm tội có tổ chức gồm: phạm tội có tổ chức
một lần và phạm tội có tổ chức kéo dài. “Phạm tội có tổ chức một lần (hoặc
một số lần) là hình thức phạm tội có tổ chức có sự câu kết chặt chẽ giữa
những người phạm tội trong thời gian tương đối ngắn để cùng nhau thực hiện
một tội phạm hoặc một số tội phạm” [4, tr.12]. Ở trường hợp này, những
12
người đồng phạm mới chỉ thực hiện tội phạm được một lần hoặc một số lần
thì bị phát hiện, bị bắt và bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng có thể thời
gian câu kết để chuẩn bị phạm tội đã diễn ra trong thời gian tương đối dài.
Phạm tội có tổ chức dạng này thông thường xuất hiện ở các tội xâm phạm an
ninh quốc gia, khủng bố, bạo loạn, phá hoại cơ sở vật chất kĩ thuật, trốn khỏi
trại giam,... thậm chí xâm hại đến đối tượng được bảo vệ nghiêm ngặt hoặc
đặc biệt nghiêm ngặt chẳng hạn như tài sản có giá trị lớn, rất lớn hay những
nhân vật giữ vị trí quan trọng trong bộ máy Nhà nước.
Để tiếp cận khái niệm phạm tội có tổ chức với tính chất là một hình
thức phạm tội có tính nguy hiểm cao, trước hết cần làm rõ đến khái niệm tội
phạm có tổ chức bởi tội phạm có tổ chức chính là hiện tượng tiêu cực mà
trong đó những hoạt động phạm tội có tổ chức (hay còn gọi là đồng phạm có
tổ chức) được thực hiện bởi một nhóm người có cơ cấu nhất định (câu kết với
nhau) nhằm mục đích lợi nhuận hay các mục đích khác.
Không giống như những người phạm tội ở đường phố hay thậm chí
người phạm tội chuyên nghiệp, những người phạm tội có tổ chức làm việc với
nhau trên cơ sở có tính liên tục trong các lớp vỏ bọc khá đa dạng với những
hoạt động bất hợp pháp. Có một nhóm tội phạm nòng cốt và một nhóm lớn hơn
nhiều là các cá nhân vệ tinh làm việc với họ, thực hiện nhiệm vụ cụ thể và cung
cấp dịch vụ cụ thể, nhưng những cá nhân này chủ yếu là những tác nhân kinh tế
và chính trị hợp pháp. Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, các chuyên gia máy tính
và tư vấn tài chính là những nhân tố quan trọng đối các nhóm tội phạm có tổ
chức không kém những người bán ma túy, môi giới cá cược hay chăn dắt gái
mại dâm. Những cá nhân này được đưa vào một mạng lưới tội phạm bởi những
dịch vụ của họ là cần thiết. Sự kết hợp này rất tiện dụng. Nó làm cho việc thực
thi pháp luật trở nên hết sức khó khăn để theo dõi và truy ngược lại các hoạt
động cụ thể của những người nòng cốt của nhóm tội phạm.
13
Một vấn đề dai dẳng và kéo dài liên quan đến cấu trúc của nhóm tội
phạm là việc sử dụng cấu trúc tương tự như của công ty để mô tả cấu trúc ra
quyết định tổ chức tội phạm. Ấn tượng còn lại tương tự như của công ty là tổ
chức tội phạm có nhóm điều hành và cấu trúc phân cấp thứ bậc kiểm soát hoạt
động và truyền lệnh cho nhân viên cấp dưới. Định nghĩa truyền thống này nhấn
mạnh vai trò của ông chủ, tương tự như giám đốc điều hành của công ty, một
ủy ban, tương đương với ban giám đốc; các trưởng ban (đội trưởng) là những
người quản lý trung gian của bộ máy và những người lính là những công nhân
thực sự thực hiện các hoạt động bất hợp pháp. Như chúng ta đã thấy, một cái
nhìn truyền thống về tổ chức tội phạm như vậy là sai lầm cơ bản.
Quan điểm mới về tội phạm có tổ chức đưa ra bởi cơ quan thực thi
pháp luật châu Âu bác bỏ hoàn toàn cách nhìn nhận này về tội phạm có tổ
chức. Cách nhìn mới này giúp chúng ta nhận ra một thực tế là hình thức
truyền thống cũ của tội phạm có tổ chức, chẳng hạn như những loại tổ chức
Mafia truyền thống trước đây đã từng tồn tại, thì bây giờ không còn lợi hại
trong một nền kinh tế thế giới toàn cầu hóa. Cũng giống như các công ty hợp
pháp, các nhóm tội phạm có tổ chức ngày nay đã mở rộng mạng lưới theo một
cách thức linh hoạt và hiệu quả hơn. Thời đại của thông tin liên lạc nhanh
chóng tiện lợi, các hình thức rườm rà của một tổ chức theo thứ bậc không
những không còn cần thiết mà còn cản trở kinh doanh bất hợp pháp. Điều này
đồng nghĩa với việc là họ dễ bị cảnh sát thâm nhập hơn là là mạng lưới mở
rộng với tính năng linh hoạt và năng động. Với dịch vụ chuyển tiền nhanh, sự
hỗ trợ của công nghệ như điện thoại di động và mạng internet, bất cứ nhóm
nhỏ nào cũng có thể mua và phân phối ma túy bất hợp pháp rất nhanh chóng
và tiện lợi. Sự cần thiết của một ông chủ đã qua rồi [12, p.7-8].
Tổ chức vì lợi nhuận. Giống như các doanh nghiệp hợp pháp, tội phạm
có tổ chức tồn tại là vì mục đích chính: để tạo ra lợi nhuận. Tội phạm có tổ chức
14
cần và sử dụng sức mạnh kinh tế và chính trị để đạt được mục tiêu này. Sự phân
biệt truyền thống từ trước tới này của tội phạm có tổ chức và các doanh nghiệp
hợp pháp chính ở chỗ tội phạm có tổ chức sử dụng các phương tiện và cách thức
bất hợp pháp để nâng cao quyền lực và lợi nhuận. Trong khi nhiều học giả cho
rằng sự khác biệt này ngày nay ít quan trọng hơn so với trong quá khứ, thì việc
sử dụng các phương thức phạm tội để đạt được mục tiêu lợi nhuận vẫn là một
thuộc tính quan trọng của định nghĩa tội phạm có tổ chức. Các phương thức
phạm tội có thể từ tống tiền và tham nhũng tới các hành vi bạo lực.
Doanh nghiệp vì lợi nhuận của tội phạm có tổ chức. Kinh tế toàn cầu
đã thay đổi tội phạm có tổ chức sâu sắc nhất ở chỗ nó đã làm tăng rất mạnh số
lượng và loại hình doanh nghiệp mà tổ chức tội phạm có thể khai thác lợi nhuận.
Theo truyền thống, khi nghĩ đến các nhóm tội phạm có tổ chức là hình dung đến
việc cung cấp những dịch vụ bất hợp pháp liên quan đến tệ nạn xã hội hay bảo
kê cho nó ở vùng đó. Sản xuất và phân phối các ấn phẩm khiêu dâm và ma túy,
các cung cấp các dịch vụ mại dâm, cờ bạc, cho vay nặng lãi, và các dịch vụ bảo
vệ truyền thống được xem là cốt lõi của hoạt động phạm tội có tổ chức.
Toàn cầu hóa đã thay đổi tất cả. Trong một thị trường quốc tế rộng lớn,
tội phạm có tổ chức có thể thẩm thấu vào bất kỳ doanh nghiệp nào. Tất nhiên,
các tổ chức tội phạm vẫn thống trị ngành công nghiệp tình dục và buôn bán ma
túy. Dân nhập cư được đưa trái phép qua biên giới để làm việc trong các nhà
thổ, câu lạc bộ thoát y và quán massage thuộc sở hữu của đám ma cô, nhưng họ
cũng bị buôn bán để làm việc trong các ngành sản xuất, nông nghiệp và công
nghiệp. Sự đa dạng trong việc buôn bán ma túy đã trở nên dễ dàng hơn với sự
hỗ trợ hiệu quả của giao thông và tài chính. Buôn bán vũ khí bất hợp pháp cùng
với buôn bán ma túy là nguồn cung tài chính trên diện toàn cầu cho tội phạm có
tổ chức. Xe ô tô sang trọng đang bị đánh cắp và vận chuyển trên toàn thế giới
để bán lại. Ngà voi, đá quý, thực vật quý hiếm, động vật hoang dã được bán
trên thị trường toàn cầu. Thậm chí những hình thức doanh nghiệp đơn giản của
15
tội phạm có tổ chức, chẳng hạn như tống tiền và bảo kê, chiếm một tầm quan
trọng mới trong nền kinh tế toàn cầu. Thay vì tống tiền các quán bar và nhà
hàng của khu phố, tổ chức tội phạm thời nay được thuê bởi các doanh nghiệp
hợp pháp để quấy rối đối thủ cạnh tranh, tiến hành các hoạt động gián điệp
công nghiệp, đe dọa trả lương thấp những người lao động bất hợp pháp.
Tội phạm có tổ chức là một hiện tượng xã hội tiêu cực phản ánh việc
các cá nhân liên kết với nhau trong một cơ cấu bền vững hoặc linh hoạt để
thực hiện hoạt động phạm tội nhằm đạt được mục đích kinh tế, chính trị,
tôn giáo hoặc mục đích khác.
Sơ đồ 1.1: Tội phạm có tổ chức
(Nguồn: Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ
Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội).
TỘI PHẠM CÓ TỔ CHỨC
CƠ CẤU
HOẠT ĐỘNG
PHẠM TỘI
MỤC ĐÍCH
SỰ LIÊN KẾT
CỦA CÁC CÁ NHÂN
(TÍNH CÓ TỔ CHỨC)
- Kinh tế
- Chính trị
- Tôn giáo
- Mục đích khác
- Buôn bán ma túy
- Buôn bán vũ khí
- Buôn bán người
- Khủng bố
- Rửa tiền
- Trốn thuế
- Chiếm đoạt tài sản
- Cá độ
- Hối lộ
- Các hoạt động khác
1. Nhóm hệ thống phân
cấp tiêu chuẩn
2. Nhóm hệ thống phân
cấp khu vực
3. Nhóm hệ thống phân
cấp liên minh
4. Nhóm nòng cốt
5. Mạng lưới tội phạm
16
Tội phạm có tổ chức là một hình thức thực hiện các hoạt động phạm tội
có hiệu quả cao với sự tham gia của nhiều cá nhân cho nên khi tội phạm được
thực hiện bằng hình thức này thì tính chất nguy hiểm của các tội phạm sẽ tăng
lên đáng kể. Sự liên kết - tính có tổ chức - của các cá nhân thể hiện trong một
cơ cấu bền vững hoặc linh hoạt nhằm tiến hành những hoạt động phạm tội để
đạt được mục đích của nhóm người đó. Như vậy tính có tổ chức liên quan đến
không chỉ việc thực hiện những hành vi cụ thể, mà còn ở chính cơ cấu tội
phạm, sự tồn tại và những hoạt động phạm tội của nó.
Cơ sở xã hội của tội phạm có tổ chức và phạm vi năng lực của nó trong
mỗi giai đoạn có sự khác nhau cơ bản. Trong nền kinh tế mệnh lệnh hành
chính, tội phạm có tổ chức ký sinh vào nền kinh tế kế hoạch hóa, được đơn
giản hóa và phụ thuộc bộ máy hành chính. Trong giai đoạn đổi mới, chuyển
đổi nền kinh tế, tội phạm có tổ chức trở nên phức tạp và đa dạng hơn, tự chủ
hơn. Đến giai đoạn hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, với tác động của
toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như của khoa học và công
nghệ, tội phạm có tổ chức đã hình thành những hệ thống phức tạp, tinh vi,
linh hoạt và sử dụng thành thạo những thành tựu của khoa học công nghệ. Về
cấu trúc, tội phạm có tổ chức thậm chí còn phản ánh phạm vi của hoạt động
phạm tội, đặc điểm về dân tộc, tôn giáo và truyền thống của nơi sinh sống.
Có quan điểm cho rằng cần phải liệt kê các điều luật, có đặc trưng gần
nhất với tội phạm có tổ chức như trộm cắp, buôn lậu ma túy, buôn lậu, tống
tiền v.v. và chính như vậy sẽ loại bỏ việc mở rộng việc giải thích khái niệm
“hoạt động có tổ chức” [7, c.267]. Phương pháp tiếp cận này có thể hợp lý khi
sử dụng trong luật hình sự để xác định tội phạm nghiêm trọng, tái phạm đặc
biệt nguy hiểm, nhưng lại không thành công khi áp dụng với tội phạm có tổ
chức, bởi lẽ nếu vậy thì sẽ liên tục phải bổ sung những tội phạm mới vào danh
sách. Tội phạm có tổ chức luôn hướng tới những hành vi phạm tội mang lại
17
lợi nhuận cao với ít rủi ro. Do vậy có thể liệt kê hầu hết các hành vi phạm tội,
được quy định trong Bộ luật hình sự của các quốc gia khác nhau, thực hiện
“công việc” của những tên tội phạm có tổ chức: một mặt (buôn bán ma túy,
vũ khí…) được coi là những hoạt động chính, mặt khác (giết người, khủng
bố…) được coi là cách thức để loại bỏ đối thủ, tiếp đến (đút lót, hối lộ…) là
xây dựng hệ thống phòng thủ và bảo vệ, rồi đến (trốn thuế, rửa tiền…) cách
thức tích lũy quỹ tội phạm, và rồi (thành lập các doanh nghiệp giả…) hợp
pháp hóa những hoạt động của mình.
Tất cả những hoạt động phạm tội có tổ chức đều có tính chất và mức độ
nguy hiểm cao cho xã hội. Những tội phạm được thực hiện dưới cách thức có
tổ chức – phạm tội có tổ chức – đều được coi là những tội phạm nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng tùy theo quy định trong
pháp luật của từng quốc gia. Trong Công ước của Liên hợp quốc về chống tội
phạm có tổ chức xuyên quốc gia, những tội phạm được thực hiện bởi nhóm
tội phạm có tổ chức đều được coi là tội phạm nghiêm trọng. Khoản a Điều 2
của Công ước quy định:
Nhóm tội phạm có tổ chức là một nhóm có cơ cấu gồm từ ba
người trở nên, tồn tại trong một thời gian và hoạt động có phối hợp
nhằm mục đích thực hiện một hay nhiều tội phạm nghiêm trọng hoặc
các hành vi phạm tội được quy định trong Công ước này, nhằm đạt
được, trực tiếp hoặc gián tiếp, lợi ích về tài chính hay vật chất khác.
Nhóm cơ cấu nghĩa là một nhóm không phải được hình thành một
cách ngẫu nhiên để thực hiện một hành vi phạm tội tức thời và không
nhất thiết vai trò của các thành viên trong nhóm phải được xác định
một cách rõ ràng, quan hệ giữa các thành viên phải được duy trì hoặc
cơ cấu của nhóm phải được phát triển (khoản c, Điều 2).
Tội phạm nghiêm trọng theo khoản 2 Điều 2 của Công ước quy định:
18
“Là một hành vi vi phạm có thể bị trừng phạt theo khung hình phạt tù ít nhất
là 4 năm hoặc theo một hình phạt nặng hơn. Bản hành động chung của Hội
đồng châu Âu cũng đưa ra một hình phạt tương tự như vậy, tại Điều 1 của
Bản hành động chung này, một hành động phạm tội “có thể bị phạt tù giam
hoặc tước quyền tự do từ ít nhất 4 năm trở lên”.
Những quy định của Công ước về tội phạm có tổ chức là rất cụ thể và
chỉ rõ được các đặc điểm tội phạm học của loại tội phạm này. Về chủ thể,
khoản a Điều 2 đã đưa ra một quan niệm mới về tội phạm có tổ chức, khắc
phục sự thiếu thống nhất trong các quy định hiện hành, lượng hoá số lượng
thành viên của một nhóm tội phạm có tổ chức là ba người. Điều này giúp cho
chúng ta có một cách hiểu thống nhất về tội phạm có tổ chức, tạo thuận lợi
cho công tác lập pháp, hành pháp và tư pháp tại các quốc gia thành viên [7].
Về mục đích, các liên kết tội phạm có tổ chức có những hoạt động
phạm tội rất đa dạng, phong phú và là cách thức để đạt được mục tiêu đã đề
ra. Một trong những mục đích nổi bật của rất nhiều liên kết tội phạm có tổ
chức là lợi nhuận (kinh tế). Hiện nay có nhiều liên kết tội phạm có tổ chức đã
có không chỉ một mục đích do yêu cầu khách quan, mà thông thường là mục
đích chính trị, tôn giáo xen lẫn với mục đích kinh tế. Trước đây các tổ chức
khủng bố được tài trợ để hoạt động, tuy nhiên đứng trước rào cản của cộng
đồng quốc tế và nhiều quốc gia trong phòng, chống khủng bố và tài trợ khủng
bố bằng các biện pháp khác nhau, trong đó có cả biện pháp pháp lý, các tổ
chức khủng bố đã phải tự mình tiến hành các hoạt động phạm tội khác như
buôn bán người, buôn bán vũ khí, buôn bán ma túy… để có quỹ xây dựng và
duy trì hoạt động của tổ chức. Dần dần những hoạt động này đã trở thành một
trong những mục đích của những tổ chức này với phương châm đặt vấn đề lợi
nhuận lên hàng đầu.
Tội phạm có tổ chức là một hiện tượng độc đáo và năng động lan tỏa
19
hầu như tất cả các tầng lớp xã hội. Nó khác với các loại hoạt động tội phạm
khác. Các loại hành vi phổ biến nhất liên quan đến hoạt động phạm tội có
tổ chức bao gồm việc cung cấp các dịch vụ bất hợp pháp và hàng hóa bất
hợp pháp, âm mưu phạm tội, sự xâm nhập vào kinh doanh hợp pháp, tống
tiền và tham nhũng.
Cung cấp các dịch vụ bất hợp pháp
Việc cung cấp các dịch vụ bất hợp pháp là một trong những công việc
kinh doanh chính của các tổ chức tội phạm. Dịch vụ bất hợp pháp là những
dịch vụ mà kinh doanh hợp pháp không cung cấp và bị pháp luật cấm. Những
dịch vụ bất hợp pháp bao gồm: (1) hoạt động cờ bạc được tiến hành ngoài
vòng pháp luật, (2) bảo kê - một hình thức tống tiền mà theo đó các thành
viên tổ chức tội phạm tiếp cận chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhỏ và đề
nghị cung cấp cho họ sự bảo vệ cho các doanh nghiệp trong trường hợp không
may mắn “bất ngờ” xảy ra, chẳng hạn như cháy hoặc bị phá hoại, (3) cho vay
nặng lãi, cho vay tiền bất hợp pháp ở mức giá lấy lãi cắt cổ, mà việc trả nợ bị
ép thông qua bạo lực và đe dọa, và (4) kinh doanh mại dâm là một trong
những dịch vụ mang lại lợi nhuận lớn cho các tổ chức tội phạm.
Việc cung cấp các dịch vụ bất hợp pháp là một dạng hoạt động phạm
tội tạo ra tiền để giúp cho tổ chức đạt được mục đích. Ngoài ra, trong nhiều
trường hợp các dịch vụ bất hợp pháp được cung cấp cùng với hàng hóa bất
hợp pháp.
Cung cấp hàng hoá bất hợp pháp
Giống như dịch vụ bất hợp pháp, một dấu hiệu thứ hai của tổ chức tội
phạm là việc cung cấp các hàng hóa bất hợp pháp, thứ không có từ các doanh
nghiệp hợp pháp. Đặc biệt là các loại ma túy bất hợp pháp chính là cho một
sản phẩm chính trong nhu cầu đáng kể trên thị trường chợ đen. Các loại ma
túy bất hợp pháp bao gồm cần sa, cocaine và heroin, các loại ma túy tổng hợp
20
khác dưới dạng thuốc lắc… đã mang lại hàng tỉ đô la Mỹ miễn thuế cho các tổ
chức tội phạm tội phạm mỗi năm. Các ấn phẩm khiêu dâm cũng là một loại
hàng hóa ở thị trường chợ đen mà tạo ra hàng tỷ đô la mỗi năm. Súng không
đăng ký và hàng hóa bị đánh cắp là những sản phẩm khác có nhu cầu đáng kể
mà những người buôn bán bất hợp pháp có thể bán với giá thấp hơn và dễ
dàng hơn là phân phối một cách hợp pháp.
Âm mƣu phạm tội
Một loại quan trọng của hành vi phạm tội có tổ chức là âm mưu, một
thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều người vi phạm pháp luật. Trong hầu hết các
trường hợp, các thành viên của tổ chức tội phạm làm việc với nhau với mục
đích buôn bán ma túy hoặc tài sản bị đánh cắp, cho vay nặng lãi, cờ bạc và
các hoạt động khác. Rất hiếm khi một hành vi phạm tội được thực hiện mà
những người cầm đầu nhóm tội phạm lại không biết hoặc không đồng ý. Do
đó, những ông chủ hoặc chỉ huy nhóm, những người cho phép hành vi phạm
tội được thực hẹn, cũng bị cáo buộc về âm mưu để thực hiện các hành vi này.
Xâm nhập vào kinh doanh hợp pháp
Vì các thành viên tổ chức tội phạm không có cách nào hợp pháp để sử
dụng những lợi nhuận bất hợp pháp của họ, họ phải che giấu càng kỹ càng tốt
doanh thu của mình. Khả năng thâm nhập vào kinh doanh hợp pháp vừa giúp
cho các nhóm tội phạm có tổ chức cơ hội để che giấu các khoản thu bất hợp
pháp vừa giúp tạo một lớp vỏ hợp pháp trong cộng đồng để tránh sự nghi ngờ
của người dân và sự phát hiện của cảnh sát.
Tống tiền. Tội phạm có tổ chức thường xâm nhập vào kinh doanh hợp
pháp thông qua tống tiền. Tống tiền là một hình thức chiếm đoạt thông qua sử
dụng hoặc đe dọa sử dụng bạo lực để đạt được mục đích của tội phạm. Ví dụ,
các thành viên nhóm tội phạm có tổ chức có thể nhấn mạnh rằng một nhà
hàng nên sử dụng dịch vụ nào đó của họ và nếu từ chối thì sẽ bị tấn công, mặc
21
dù giá đắt cắt cổ có thể được áp dụng trong hầu như tất cả các lĩnh vực hoạt
động của tội phạm có tổ chức. Hoạt động này thường liên quan đến cho vay
nặng lãi và mối đe dọa sử dụng bạo lực đối với những người không trả được
nợ cho tổ chức tội phạm một cách kịp thời.
Tham nhũng. Tham nhũng là một loại hành vi khác của tội phạm có tổ
chức. Thật vậy, không có sự trợ giúp lén lút của các cán bộ thực thi pháp luật,
thẩm phán, công tố viên, thị trưởng, cán bộ ngân hàng, luật sư, kế toán, và
những chính trị gia được bầu và bổ nhiệm ở tất cả các cấp chính quyền, các
nhóm tội phạm có tổ chức không thể phát triển được.
Sơ đồ 1.2: Nhóm tội phạm
NHÓM TỘI PHẠM
Đại diện cho cốt lõi của nhóm tội phạm có tổ chức, các nhóm tội phạm
được tạo thành từ những người sử dụng các phương thức tội phạm và bạo lực
và sẵn sàng hối lộ để đạt được quyền lực và lợi nhuận. Sau đây là những đặc
điểm của nhóm tội phạm [9, p. 40-42].
HỖ TRỢ XÃ HỘI
Lãnh đạo cộng đồng
Chủ doanh nghiệp
Công nghiệp giải trí
HỖ TRỢ CỦA NGƢỜI DÙNG
Người sử dụng ma túy
Người bảo kê mại dâm
Người mua hàng ăn trộm
NHÓM TỘI PHẠM
Những thành viên then chốt
NHỮNG NGƢỜI BẢO VỆ
Luật sư
Nhân viên ngân hàng
Doanh nhân
TRỢ GIÚP CHUYÊN SÂU
Dịch vụ theo hợp đồng
22
• Tính liên tục. Nhóm nhận mục đích cụ thể trong một khoảng thời
gian và hiểu rằng tổ chức này sẽ tiếp tục hoạt động vượt ra ngoài cuộc sống
của các thành viên cá nhân. Nhóm này cũng nhận ra rằng lãnh đạo sẽ thay đổi
theo thời gian, các thành viên của nhóm làm việc để đảm bảo rằng nhóm tiếp
tục, và lợi ích cá nhân của thành viên phụ thuộc vào lợi ích của nhóm.
• Cơ cấu. Các nhóm tội phạm có cấu trúc như cơ quan phụ thuộc lẫn
nhau phân cấp bố trí dành cho việc hoàn thành một chức năng cụ thể. Điều
này có nghĩa rằng nhóm có thể có cấu trúc chặt chẽ, như La Cosa Nostra ở
Mỹ, hoặc cực kỳ linh hoạt, như các tập đoàn ma túy Colombia. Trong mọi
trường hợp, nó được tổ chức phân cấp dựa trên sức mạnh và quyền lực.
• Thành viên. Các thành viên nhóm tội phạm dựa trên một đặc điểm
chung, chẳng hạn như dân tộc, chủng tộc, bối cảnh phạm tội (ví dụ nhóm
những người tù), hoặc lợi ích chung. Thành viên tiềm năng của nhóm phải
chứng minh lòng trung thành của họ đối với nhóm. Trong hầu hết các trường
hợp, thành viên được yêu cầu một cam kết suốt đời. Quy định thành viên bao
gồm bí mật, sẵn sàng có hành động vì nhóm, và ý định để bảo vệ nhóm. Đổi
lại, các thành viên nhận được lợi ích từ nhóm như sự bảo vệ, uy tín, cơ hội
cho các lợi ích kinh tế.
• Hoạt động phạm tội. Như bất cứ ngành nào, tổ chức tội phạm theo
đuổi mục tiêu lợi nhuận theo các cách thức được xác định rõ. Các nhóm tội
phạm dựa trên việc tiếp tục hoạt động phạm tội để tạo ra thu nhập. Một số
hoạt động, chẳng hạn như cung cấp hàng hóa và dịch vụ bất hợp pháp, thu
được lợi nhuận trực tiếp, các hoạt động khác như giết người, tống tiền và hối
lộ, được sử dụng để đảm bảo khả năng của nhóm để kiếm tiền và đạt được
quyền lực. Một số nhóm tham gia vào một số hoạt động kinh doanh bất hợp
pháp, chẳng hạn như buôn bán ma túy. Nhiều nhóm tội phạm cũng tham gia
vào các doanh nghiệp kinh doanh hợp pháp để rửa tiền.
23
• Bạo lực. Bạo lực và đe dọa bạo lực là những công cụ không thể thiếu
của nhiều nhóm tội phạm. Cả hai đều được sử dụng như một phương tiện để
kiểm soát và bảo vệ các thành viên và phải là thành viên liên quan đến bảo vệ
quyền lợi của tổ chức. Khi lợi ích của tổ chức đang bị đe dọa, giết người là
phương thức phổ biến. Bạo lực có thể được sử dụng hoặc để bịt miệng nhân
chứng tiềm năng hoặc để trừng phạt những người gây nguy hại cho tổ chức
như một lời cảnh báo cho những người khác.
• Quyền lực và lợi nhuận. Các thành viên của nhóm tội phạm được
thống nhất trong hoạt động cho quyền lực của nhóm, kết quả là lợi nhuận. Quyền
lực chính trị được thực hiện bằng cách làm hư hỏng các công chức. Nhóm có thể
duy trì quyền lực của mình thông qua sự kết hợp với bảo vệ hình sự.
Nhóm hỗ trợ bảo vệ bao gồm các quan chức tham nhũng, các doanh
nhân, các thẩm phán, luật sư, tư vấn tài chính, và những cá nhân (hoặc tập
thể) bảo vệ quyền lợi cho các nhóm tội phạm bằng cách lạm dụng quyền hạn
của mình. Kết quả trực tiếp của những nỗ lực của nhóm bảo vệ là các nhóm
tội phạm được cách ly khỏi các hành động của chính phủ cả về hình sự và dân
sự. Thành phần này của tội phạm có tổ chức đại diện cho những gì mà cả
cảnh sát và các thành viên của nhóm tội phạm đã được gọi là lợi thế mà tổ
chức tội phạm có hơn doanh nghiệp hợp pháp. Tham nhũng, công cụ trung
tâm của bảo vệ, dựa trên một mạng lưới các quan chức tham nhũng, người
bảo vệ nhóm tội phạm từ hệ thống tư pháp hình sự.
Một ví dụ về tham nhũng này là một nhân viên thực thi pháp luật cung
cấp cho những người buôn bán ma túy về thông tin nội bộ ngành về việc điều
tra của cảnh sát. Một luật sư là người có thể dàn xếp sự đe dọa của các nhân
chứng của chính phủ để họ sẽ thay đổi câu chuyện của họ. Kế toán trợ giúp
các thành viên nhóm tội phạm bằng cách che giấu thu nhập của họ trong các
tổ chức tài chính, các cơ sở cá độ cũng như các doanh nghiệp khác.
24
Nhóm chuyên gia hỗ trợ
Các nhóm tội phạm và bảo vệ phụ thuộc nhiều vào những người có tay
nghề cao được gọi là hỗ trợ chuyên môn. Những người này, chẳng hạn như
phi công, các nhà hóa học, những kẻ chuyên đốt phá, và không tặc, cung cấp
dịch vụ theo hợp đồng để tạo điều kiện cho các hoạt động phạm tội có tổ
chức. Không giống như các thành viên của nhóm tội phạm và những người
bảo vệ, người hỗ trợ chuyên môn không chia sẻ một cam kết mục tiêu của
nhóm, nhưng vẫn được coi là một phần của tội phạm có tổ chức.
Sự hỗ trợ của khách hàng
Một thành phần quan trọng trong sự thành công của tổ chức tội phạm là
sự hỗ trợ của khách hàng. Nhóm này bao gồm những người mua hàng hóa bất
hợp pháp và sử dụng các dịch vụ của tổ chức tội phạm, chẳng hạn như người
sử dụng ma túy, nhà cái môi giới cá độ, các nhà thổ, và những người cố tình
mua hàng hóa bị đánh cắp.
Những ngƣời ủng hộ xã hội
Người (tổ chức) thuộc nhóm hỗ trợ xã hội trao cho tổ chức tội phạm
quyền lực và nhận thức về tính hợp pháp của tổ chức tội phạm nói chung và
cho các thành viên cụ thể của nhóm tội phạm. Ví dụ như các chính trị gia thu
hút sự hỗ trợ các nhân vật của tội phạm có tổ chức, lãnh đạo doanh nghiệp
làm kinh doanh với tổ chức tội phạm, những lãnh đạo xã hội và cộng đồng
mời các thành viên của tổ chức tội phạm vào các cuộc tụ họp xã hội.
Cũng như các nhóm tội phạm được tạo thành từ các thành viên của tổ
chức tội phạm, mỗi một loại người thuộc các danh mục trên cần được xem xét
là thành viên và hoặc là cộng tác viên của tội phạm có tổ chức. Đúng là không
có sự tham gia của bất kỳ của những nhóm người hỗ trợ trên thì tội phạm có
tổ chức không thể phát triển thịnh vượng hay thành công trong xã hội.
25
Tóm lại, phạm tội có tổ chức là một dạng đồng phạm đặc biệt, thể
hiện sự nguy hiểm cao bởi một nhóm người có sự câu kết chặt chẽ thông
qua chính cơ cấu tổ chức (băng, nhóm, tổ chức, liên minh …) và sự bàn
bạc, tính toán, phân công, lên kế hoạch nhằm thực hiện tội phạm nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
1.1.2. Các đặc điểm của phạm tội có tổ chức
Luật hình sự Việt Nam coi “đồng phạm” là một hình thức đặc biệt của
việc thực hiện tội phạm do tính chất nguy hiểm cho xã hội cao hơn các trường
hợp phạm tội thông thường thì “phạm tội có tổ chức” lại là một hình thức đặc
biệt của “đồng phạm” do có sự câu kết “chặt chẽ” của những người cùng thực
hiện tội phạm. Mang tính chất là một dạng đồng phạm đặc biệt, “phạm tội có
tổ chức” mang trong mình những đặc điểm chung của “đồng phạm” với
những dấu hiệu pháp lý chung và bắt buộc. Khoản 1 Điều 20, Bộ luật hình sự
Việt Nam quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý
cùng thực hiện một tội phạm”. Từ khái niệm “đồng phạm” là trường hợp có
hai người trở lên cùng thực hiện tội phạm thì có thể cho rằng đồng phạm nói
chung và phạm tội có tổ chức nói riêng là một thể thống nhất, không thể phân
tách giữa những yếu tố chủ quan và nhân tố khách quan mà trong đó có các
yếu tố quan trọng phản ánh bản chất như: có hai người trở lên tham gia, cùng
chung hành động với nhau, cùng cố ý. Theo đó, đồng phạm đòi hỏi phải thỏa
mãn “ba dấu hiệu khách quan và hai dấu hiệu chủ quan có tính đặc trưng và
bắt buộc” [8, tr.137] và theo đó phạm tội có tổ chức cũng phải thỏa mãn các
dấu hiệu này.
Dấu hiệu khách quan về số lượng: “có sự tham gia của hai người trở
lên vào việc thực hiện một tội phạm” [10, tr.252]. Đây là dấu hiệu bắt buộc,
nếu thiếu dấu hiệu về số lượng người tham gia thực hiện tội phạm (từ 02
người trở lên) thì không cấu thành đồng phạm mà chỉ là trường hợp phạm tội
26
riêng lẻ và hậu quả phạm tội là do hành động và ý chí độc lập của một cá
nhân gây nên. Trong đồng phạm yêu cầu mỗi người đều phải có hành vi tham
gia vào việc thực hiện tội phạm gây nguy hiểm đáng kể cho xã hội bị coi là tội
phạm. Dấu hiệu khách quan về sự cùng chung hành động của những người
đồng phạm: không phải bất kỳ trường hợp có hai hay nhiều người cố ý cùng
thực hiện hành vi tội phạm nào cũng được coi là đồng phạm, mà đồng phạm
đòi hỏi sự nỗ lực chung của một số người, nghĩa là hành vi có tính chất nguy
hiểm cho xã hội đáng kể của họ được thực hiện trong mối liên kết thống nhất,
qua lại với nhau, hành vi của người này là điều kiện cần thiết cho hoạt động
của người khác và hậu quả của hành vi phạm tội chính là kết quả chung của
quá trình thực hiện tội phạm giữa những người đồng phạm. Hay nói một cách
khác, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của mỗi người đồng phạm
với hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Mối quan hệ nhân quả có thể mang tính
chất trực tiếp như cung cấp cho người thục hành công cụ, phương tiện phạm
tội,… hoặc biểu hiện gián tiếp thông qua nhận thức của người thực hiện như:
xúi giục người thực hành, giúp đỡ họ thực hiện tội phạm [14, tr.45]. Có thể
khẳng định: nếu không có mối quan hệ nhân quả nêu trên thì không xuất hiện
đồng phạm (dấu hiệu khách quan về mối quan hệ nhân quả). Những dấu hiệu
chủ quan trong đồng phạm bao gồm: có sự cố ý của những người tham gia
thực hiện tội phạm và động cơ - mục đích trong đồng phạm. Đồng phạm phải
do cùng thực hiện tội phạm với lỗi cố ý thể hiện trên hai phương diện: lý trí
và ý chí. “Sự cùng cố ý phạm tội làm cho ý chí của những người đồng phạm
được thống nhất với nhau và hành động phạm tội của mỗi người đều thống
nhất trong sự chi phối chung của sự cùng cố ý phạm tội” [13, tr.149]. Về lý
trí: mỗi người thực hiện hành vi phạm tội trong đồng phạm đều ý thức được
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được tính chất nguy
hiểm của tội phạm họ tham gia thực hiện và hậu quả nguy hiểm cho xã hội có
27
thể xảy ra, đồng thời những người đồng phạm đều phải biết và muốn những
người đồng phạm khác có cùng hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình.
Nếu chỉ biết mình có hành vi nguy hiểm cho xã hội mà không biết người khác
cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội như mình thì chưa phải là đồng phạm,
mà cấu thành tội phạm độc lập khi thỏa mãn các yếu tố theo luật định. Về ý
chí: những người đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động phạm tội chung,
mong muốn hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra hoặc có ý thức để mặc cho
hậu quả xảy ra tuy rằng nhận thức được những hành vi nguy hiểm cho xã hội
của mình. Dấu hiệu chủ quan về động cơ – mục đích: đối với những tội phạm
mà động cơ và mục đích là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, thì
những người phạm tội phải có cùng động cơ, mục đích còn nếu không cùng
động cơ mục đích thì sẽ không có đồng phạm và trong trường hợp đó những
người tham gia sẽ chịu trách nhiệm hình sự độc lập.
Ngoài những dấu hiệu mang tính chất của đồng phạm đã nêu trên,
phạm tội có tổ chức còn mang các nét đặc biệt so với đồng phạm nói chung.
Phạm tội có tổ chức không thể là trường hợp đồng phạm đơn giản, vì nếu
không có sự phân công vai trò thì không thể hiện được “tính có tổ chức” của
loại đồng phạm đặc biệt này. Cũng không thể đánh đồng phạm tội có tổ chức
với đồng phạm có thông mưu trước. Phạm tội có tổ chức và đồng phạm có
thông mưu trước là hai khái niệm không hoàn toàn đồng nhất. Nội hàm của
khái niệm phạm tội có tổ chức chứa đựng những dấu hiệu của đồng phạm có
thông mưu và một số yếu tố khác. Nếu xét về tính chất cấu kết cũng như mức
độ nguy hiểm cho xã hội thì phạm tội có tổ chức có sự cấu kết chặt chẽ hơn
và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn hẳn. Điều này cho thấy: phạm tội có
tổ chức luôn là hình thức đồng phạm có thông mưu trước ở mức độ cao. Đồng
phạm có tổ chức có những đặc điểm cơ bản sau đây [11, tr.180-181]:
- Nhóm tội phạm trước hết phải có thông mưu trước, nhưng ngoài sự
28
bàn bạc, thỏa thuận trước về việc cùng thực hiện tội phạm, những người đồng
phạm thường chuẩn bị thực hiện và che giấu tội phạm một cách kỹ lưỡng với
phương pháp, thủ đoạn thường tinh vi, xảo quyệt.
- Nhóm tội phạm được hình thành với phương hướng hoạt động có tính
chất lâu dài, bền vững, thường có sự phân công vai trò thực hiện tội phạm
khác nhau giữa những người đồng phạm nhằm thực hiện nhiều tội, phạm tội
nhiều lần.
- Nhóm tội phạm ngoài ý đồ phạm tội thống nhất, phải có sự phối hợp
hoạt động giữa các thành viên trong nhóm. Mỗi thành viên trong nhóm chịu
sự điều hành chung thống nhất, đều thừa nhận và sử dụng nhóm phạm tội như
là một công cụ trong hoạt động phạm tội của mình.
Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa
những người cùng thực hiện tội phạm. Sự câu kết chặt chẽ này thể hiện ở
“tính có tổ chức chặt chẽ” và tính “có kế hoạch thống nhất” trong hành vi
phạm tội. Nghĩa là có sự liên kết giữa các cá nhân cùng tham gia vào việc
thực hiện tội phạm mà trong đó có sự phân hóa vai trò, phân công nhiệm vụ
tương đối rõ rệt, cụ thể và hoạt động lâu dài, bền vững hoặc linh hoạt với
những mục đích nhất định theo kế hoạch đã thống nhất trước. Vì thế tính chất,
mức độ nguy hiểm của dạng đồng phạm này cao hơn các dạng đồng phạm
thông thường khác (đồng phạm đơn giản - đồng phạm phức tạp, hay đồng
phạm không có thông mưu trước – đồng phạm có thông mưu trước). Tính
chất của sự câu kết chặt chẽ trong hình thức phạm tội có tổ chức thường được
đánh giá bởi một số yếu tố như sau:
- Thời gian tồn tại của đồng phạm có tổ chức,
- Mục đích, ý thức chủ quan của sự liên kết giữa các cá nhân,
- Tính chất và mức độ chuẩn bị cho việc thực hiện tội phạm
- Sự phân hóa vai trò, phân công nhiệm vụ,
29
- Tính chất chuyên nghiệp,
- Phương pháp, thủ đoạn phạm tội và che giấu tội phạm.
Trong phạm tội có tổ chức, những người đồng phạm có sự bàn bạc
trước và có sự phân công thực hiện tội phạm, nhưng không phải bất cứ trường
hợp nào có sự bàn bạc trước, có sự phân công thực hiện tội phạm đều là phạm
tội có tổ chức. Giữa những người phạm tội trong việc thực hiện tội phạm phải
có sự câu kết với nhau, có sự phân công vai trò nhiệm vụ cụ thể, có sự tính
toán chuẩn bị kĩ càng và chu đáo cho việc thực hiện tội phạm. Việc phân công
vai trò trong hình thức đồng phạm này là một dấu hiệu phổ biến nhưng không
phải là dấu hiệu bắt buộc và duy nhất. Các điểm đặc trưng của phạm tội có tổ
chức thể hiện cụ thể dưới các dạng trên thực tế.
a. Hình thức phạm tội có tổ chức được thực hiện bởi những người đồng
phạm đã tham gia vào một tổ chức tội phạm được hình thành (hoặc không
tham gia vào một tổ chức nào) với “phương thức hoạt động có tính chất lâu
dài, bền vững” [15, tr.267]. Khi họ có ý thức câu kết với nhau lâu dài và chặt
chẽ thì đã bị coi là phạm tội có tổ chức mặc dù có thể họ mới chỉ thực hiện
được một tội phạm hay đã thực hiện nhiều tội phạm. Vì thế, số lần phạm tội
hay loại tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc của hình thức đồng phạm
này. Trong mỗi tổ chức này có mối quan hệ chỉ huy – phục tùng, có sự phân
công vai trò cụ thể của những người đồng phạm. Mỗi người đồng phạm đều
phục tùng tổ chức, thực hiện kế hoạch chung và chịu sự điều khiển thống nhất
của những kẻ cầm đầu, chỉ huy; đều coi và sử dụng tổ chức tội phạm như một
công cụ trong hoạt động phạm tội của mình. Cũng có thể tổ chức tội phạm
không có kẻ chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập hợp, liên kết của nhiều tên tội
phạm để cùng thống nhất thực hiện hoạt động phạm tội.
b. Những người đồng phạm với mục đích cùng nhau phạm tội nhiều lần
hoặc liên tục; gây ra những hậu quả nghiêm trọng, hoặc đặc biệt nghiêm trọng
30
cho xã hội đồng thời dễ dàng che giấu dấu vết phạm tội hay lẩn tránh sự điều
tra của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
c. Những người đồng phạm thực hiện tội phạm một theo một kế hoạch
thống nhất có tính toán kĩ lưỡng, chu đáo, chuẩn bị về mọi mặt, có kế hoạch
nhằm che giấu tội phạm.
Nhìn về tổng thể thì phạm tội có tổ chức được chứa đựng tổng hợp
những đặc trưng mang tính tương đối nhưng có mối liên hệ lẫn nhau trong cơ
cấu, mà rõ ràng là tính có tổ chức được coi là chủ đạo. Từ cách nhìn nhận này
thì phạm tội có tổ chức có thể là các cá nhân cá mối liên hệ chặt chẽ được
hình thành với các dấu hiệu sau:
- Người tổ chức (người lãnh đạo, người đứng đầu, bố già) hoặc nhân tố
lãnh đạo;
- Cơ cấu tổ chức theo thứ bậc nhất định, phân tách rõ ràng giữa lãnh
đạo với người trực tiếp thực hiện;
- Ở một chừng mực nào đó phân định rõ ràng vai trò (chức năng) thực
hiện những nhiệm vụ cụ thể;
- Kỷ luật rất nghiêm khắc với việc tuân lệnh tuyệt đối theo chiều dọc
dựa trên những quy định và luật lệ riêng, ví dụ như luật im lặng;
- Hệ thống hình phạt rất nặng, thậm chí trừ khử những người phản bội;
- Có quỹ tài chính để giải quyết những nhiệm vụ chung;
- Thu thập những thông tin trên các lĩnh vực mang lại lợi ích và an toàn
của hoạt động phạm tội;
- Vô hiệu hóa bằng cách mua chuộc, hối lộ những cơ quan bảo vệ pháp
luật và các cơ quan nhà nước khác nhằm thu nhận được những thông tin, sự
trợ giúp và bảo vệ cần thiết;
- Sử dụng rất chuyên nghiệp những cơ sở kinh tế - xã hội, cũng như các
cơ sở có nền tảng nhà nước hoạt động trong nước cũng như quốc tế với mục
đích tạo ra lớp vỏ bọc hợp pháp cho những hoạt động phạm tội của mình;
31
- Lan truyền tin đồn đáng sợ về sức mạnh và quyền lực của mình, điều
này mang lại cho tổ chức tội phạm lợi ích nhiều hơn là thiệt hại, vì chúng làm
mất tinh thần nhân chứng, nạn nhân, nhân viên của các phương tiện truyền
thông, cũng như của các cơ quan bảo vệ pháp luật, cổ vũ tinh thần cho những
người thực hành cốt cán;
- Tạo ra cơ cấu quản lý sao cho người cầm đầu không phải trực tiếp tổ
chức hoặc thực hiện những tội phạm cụ thể. Điều này hoàn toàn có lợi bởi:
người đứng đầu thì tránh khỏi trách nhiệm, và sự liên quan của những người
thực hành không phá vỡ tổ chức và mang lại sự trợ giúp cần thiết cho những
“vùng tổn thương”;
- Thực hiện bất cứ hành vi phạm tội nào để đạt được mục đích lợi
nhuận và kiểm soát lĩnh vực và địa bàn mang lại lợi nhuận và sự an toàn.
Những dấu hiệu liệt kê trên [16, c.547] có thể biểu hiện ở các mức độ
khác nhau, và trong một số cơ cấu có thể thiếu dấu hiệu này hay dấu hiệu
kia, nhưng hợp lại với nhau thì chúng phản ánh những đặc trưng của phạm
tội có tổ chức.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển những quy định về phạm tội
có tổ chức trong Luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Phạm tội có tổ chức được đề cập lần đầu tiên trong Thông tư số
442/TTG ngày 19/11/1955 của Thủ tướng Chính phủ về việc trừng trị một số
tội phạm. Trong Thông tư này, phạm tội có chức được gọi là “Cướp đường
hay trộm có tổ chức”, “đánh bị thương có tổ chức”. Tuy nhiên, trong thông tư
này, thế nào là tính “có tổ chức” lại không được giải thích. Pháp lệnh ngày
21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm sở hữu Xã hội chủ nghĩa và Pháp
lệnh ngày 21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm sở hữu riêng của công
32
dân, trường hợp phạm tội có tổ chức được ghi nhận là một tình tiết tăng nặng
định khung hình phạt và không có một định nghĩa cụ thể, rõ ràng nào. Đây là
điều gây ra những khó khăn cho các cơ quan áp dụng pháp luật khi vận dụng
hai Pháp lệnh trên vào thực tiễn. Với tình hình thực tế như trên, các ngành
Công an, Kiểm sát, Tòa án đã dự thảo Thông tư ngày 16/03/1973 hướng dẫn
nhân thức một cách thống nhất về hai Pháp lệnh này. Khái niệm phạm tội có
tổ chức được định hướng nhận thức trong thông tư như sau:
Phải xuất phát từ đặc điểm, tình hình phạm tội ở nước ta mà
hiểu như thế nào là phạm tội có tổ chức. Đây là một hình thức cộng
phạm của hai hay nhiều người trong đó có một số tên cầm đầu hoặc
đóng vai trò cầm đầu, cùng bàn bạc trước việc thực hiện một hoặc
nhiều tội phạm nào đó, thủ đoạn phạm tội thường là tinh vi, xảo
quyệt, vai trò của từng tên phân công giữa bọn chúng có thể không
dứt khoát rõ ràng hoặc lợi dụng hay nấp dưới danh nghĩa một tổ
chức công khai để bàn bạc về việc thực hiện một tội phạm, hoặc có
khi chúng không bàn bạc nhau trước nhưng do quan hệ công tác
hàng ngày nên hiểu ý đồ nhau rồi cùng hành động phạm tội, mặc
nhiên câu kết chặt chẽ. Cần chú ý phân biệt hình thức phạm tội có
tổ chức với hình thức cộng phạm thông thường trong đó không có
sự bàn bạc, phân công chặt chẽ trước, không có vai trò cầm đầu chủ
chốt, thủ đoạn phạm tội đơn giản.
Như vậy, theo dự thảo Thông tư này, phạm tội có tổ chức đã được giải
thích theo chiều hướng nhấn mạnh tính câu kết và tính phân công vai trò. Theo
đó, phạm tội có tổ chức là một hình thức cộng phạm của hai hay nhiều người,
trong đó có sự phân công vai trò giữa những người cộng phạm, có người cầm
đầu, chỉ huy, có sự bàn bạc thống nhất trước khi thực hiện một hay nhiều tội
phạm và thủ đoạn thực hiện hành vi phạm tội thường tinh vi, xảo quyệt.
33
1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
Khác với khái niệm tổ chức tội phạm và khái niệm tội phạm có tổ chức
chưa được chính thức ghi nhận về mặt pháp lý, sau nhiều lần pháp điển hóa,
khái niệm phạm tội có tổ chức đã được quy định tại khoản 3 Điều 17 Bộ luật
Hình sự năm 1985: “Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu
kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”. Tình tiết phạm tội
có tổ chức không những được quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự tại Điều 39 Bộ luật Hình sự năm 1985, mà còn được quy định là tình tiết
tăng nặng định khung hình phạt tại nhiều điều luật trong Bộ luật Hình sự năm
1985. Từ khái niệm phạm tội có tổ chức nói trên cho thấy, đây là phương thức
phạm tội đặc biệt để phân biệt với phương thức phạm tội riêng lẻ hoặc với các
phương thức phạm tội dưới các hình thức đồng phạm khác. Việc Bộ luật hình
sự chính thức ghi nhận định nghĩa pháp lý “phạm tội có tổ chức” đã đánh dấu
một bước ngoặt trong sự phát triển về kĩ thuật lập pháp Hình sự, thể hiện thái
độ nghiêm khắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc đấu tranh với hình thức
đồng phạm đặc biệt nguy hiểm này. Tuy nhiên, định nghiã này vẫn chưa làm
rõ được cụm từ “câu kết chặt chẽ” nên mang tính trừu tượng, chung chung
dẫn đến những quan điểm, nhận định không thống nhất giữa các cơ quan áp
dụng pháp luật. Chính vì lý do đó, sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời
lần đầu tiên quy định định nghĩa pháp lý về “phạm tội có tổ chức”, ngày
16/11/1988 Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ra Nghị quyết
hướng dẫn bổ sung Nghị quyết 02/HĐTP ngày 05/01/1986 đã giải thích nội
dung của tình tiết “phạm tội có tổ chức”. Hiện nay, xung quanh khái niệm này
vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về bản chất pháp lý của vấn đề này.
Mặc dù vậy, đến nay vẫn chưa có thêm một văn bản pháp lý nào giải thích về
khái niệm này sau Nghị quyết 02/HĐTP (1988).
34
Bộ luật hình sự năm 1985 khi mới ban hành, chỉ có 29 điều luật
quy định phạm tội có tổ chức là tình tiết tàng nặng định khung hình phạt
[17, tr.166-167]. Lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 1989, đã bổ sung
Điều 96a, trong đó tình tiết phạm tội có tổ chức được quy định tại điểm a
khoản 2 của Điều này. Lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 1991, số
lượng tình tiết phạm tội có tổ chức là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt
không thay đổi, nhưng đến lần bổ sung, sửa đổi năm 1992, được bổ sung vào
3 điều luật: Điều 174, Điều 221 và Điều 224. Lần sửa đổi, bổ sung năm 1997,
phạm tội có tổ chức đã trở thành tình tiết tăng nặng định khung hình phạt của
nhiều tội hơn. Ngoài 10 điều luật (Điều 185a, b, c, d, đ, e, g, h, m, n) là các
điều thay thế Điều 96a của Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 1989, còn có 7 điều
khác quy định phạm tội có tổ chức là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt
(Điều 112a, 133, 134a, 137a, 156, 221a, 228a). Như vậy, trong Bộ luật Hình
sự sửa đổi năm 1997, có tổng cộng 49 điều luật quy định phạm tội có tổ chức
là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt. Trong một số điều luật cũng có sự
sửa đổi về vị trí của tình tiết phạm tội có tổ chức như tình tiết có tổ chức được
tách thành một tình tiết riêng quy định ở điểm a khoản 2 Điều 112; tình tiết có
tổ chức từ chỗ được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 224 trong Bộ luật Hình
sự sửa đổi năm 1992, được quy định thành tình tiết đầu tiên (điểm a) của
khoản 2 Điều này.
1.3. Phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự một số nƣớc trên thế giới
1.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga
Trước Bộ luật hình sự hiện hành của Liên bang Nga năm 1996, khái
niệm nhóm tội phạm có tổ chức, theo Nghị quyết của Hội đồng Tòa án tối cao
Liên bang Nga ban hành ngày 25 tháng 4 năm 1995 “Một số vấn đề áp dụng
pháp luật của tòa án về trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm xâm phạm
sở hữu”, tại khoản 4 hướng dẫn như sau:
35
Nhóm có tổ chức được hiểu là nhóm có cơ cấu chặt chẽ của
hai hay nhiều người, liên kết với nhau nhằm thực hiện một hoặc
một vài tội phạm. Nhóm này, về nguyên tắc, đặc trưng bởi tính tổ
chức, tính kế hoạch ở mức độ cao, sự công phu chuẩn bị tội phạm
và có phân chia vai trò giữa những người đồng phạm [18, c.14].
Tuy nhiên, thật đáng tiếc là với sự hướng dẫn trên về tổng thể thì cách
tiếp cận xem xét hiện tượng này như vậy chưa đáp ứng được thực tiễn áp
dụng pháp luật trong bối cảnh tội phạm tràn ngập lúc bấy giờ.
Do đó, vào năm 1995 Đuma quốc gia Liên bang Nga đã soạn thảo và
đưa ra xem xét dự thảo Luật Liên bang “Luật đấu tranh phòng, chống tội
phạm có tổ chức”. Lần đầu luật này không được Hội đồng Liên bang thông
qua. Cũng trong năm 1995, Đuma quốc gia Nga một lần nữa trình dự thảo
Luật liên bang này và lần này Hội đồng liên bang đã thông qua. Tuy nhiên,
ngày 22 tháng 12 năm 1995 dự thảo luật này, dựa vào nguyên nhân không
khách quan về khả năng vi phạm quyền con người khi áp dụng, đã bị cựu tổng
thống Nga Boris Elsin phủ quyết. Trong dự thảo luật này, tội phạm có tổ chức
được định nghĩa là việc lập ra các cơ cấu tội phạm có tổ chức ở ba mức độ
(nhóm tội phạm, tổ chức tội phạm, liên minh tội phạm) và hoạt động phạm tội
của các cơ cấu này. Dự thảo luật cũng quy định hàng loạt các vấn đề quan
trọng về đấu tranh phòng, chống tội phạm có tổ chức như: trách nhiệm hình
sự đối với việc thành lập tổ chức tội phạm và liên minh tội phạm, cũng như
lãnh đạo và tham gia vào đó; các cấu thành tội phạm đặc trưng có liên quan
đến tội phạm có tổ chức; đặc điểm của một số chế định pháp lý hình sự liên
quan đến các biện pháp pháp lý, hệ thống các cơ quan thực hiện đấu tranh
chống tội phạm có tổ chức, thẩm quyền đặc biệt của các cơ quan này cũng
như đặc thù của việc thực hiện các biện pháp điều tra nghiệp vụ.
Cần nhận thức rằng việc áp dụng luật, chẳng hạn như áp dụng các biện
pháp pháp lý hình sự của các cơ quan bảo vệ pháp luật để bảo vệ xã hội khỏi sự
36
xâm hại của tội phạm, dưới hình thức này hay hình thức khác đều có thể liên
quan đến việc hạn chế quyền con người. Không chỉ riêng tại Nga, lý lẽ “có khả
năng xâm hại quyền con người khi áp dụng luật” được đưa ra với tư cách là lời
giải thích mị dân, nhằm mục đích phong tỏa những biện pháp cần thiết vì
những lợi ích vụ lợi (thường là tội phạm) của những tầng lớp có liên quan trong
xã hội. Trong quá trình hiện thực hóa các luật – các hoạt động nghiệp vụ hay tố
tụng hình sự, lục soát, bắt, giam giữ người, hạn chế tự do v.v – về bản chất là vi
phạm quyền con người. Tuy nhiên, do sự cần thiết khách quan, việc xâm phạm
những quyền này được thực hiện với mục đích bảo đảm pháp chế và các quyền
hiến định của số đông. Từ góc độ của nhận thức ngày nay về tình hình đất nước
vào năm 1995, hoàn toàn thấy rõ “gia đình” tổng thống đã triệt để và quyết tâm
loại bỏ những dự luật về đấu tranh phòng, chống tội phạm có tổ chức, tham
nhũng và rửa tiền trước những cuộc bầu cử tổng thống thường kỳ, bảo vệ
không phải quyền cho người bình thường mà là những lợi ích riêng cho chủ thể
của nhóm tội phạm có tổ chức và tham nhũng [19, c.547].
Những người phản đối việc tội phạm hóa hoạt động phạm tội có tổ
chức thể hiện sự tôn thờ, sùng bái với hệ tư tưởng dân chủ mới và e ngại việc
quay lại quá khứ, dẫn chứng ví dụ về sự không hoàn thiện của pháp luật thời
xô viết trước đây. Họ cảnh báo sự lộng hành của mafia, về khả năng quay trở
lại sự áp bức mang tính độc tài…
Dưới sức ép của thực tế đấu tranh phòng, chống tội phạm có tổ chức và
những quan điểm xã hội, những điểm cơ bản của dự thảo luật bị “đóng băng”
– Luật liên bang “Về đấu tranh phòng, chống tội phạm có tổ chức” – đã được
đưa vào Bộ luật hình sự. Tại khoản 3 và 4 của Điều 35 thuộc phần chung Bộ
luật hình sự quy định hai hình thức thể hiện của tội phạm có tổ chức như sau:
Khoản 3. Hành vi phạm tội được coi là thực hiện bởi nhóm người có tổ
chức, nếu như nó được thực hiện bởi một nhóm người có cơ cấu bền vững,
được thành lập trước nhằm thực hiện một hay một số hành vi phạm tội.
37
Khoản 4. Hành vi phạm tội được coi là thực hiện bởi liên minh tội
phạm (tổ chức tội phạm), nếu như nó được thực hiện bởi nhóm (tổ chức) được
tổ chức chặt chẽ, được thành lập để thực hiện tội phạm nghiêm trọng hoặc đặc
biệt nghiêm trọng, hoặc là sự liên kết của các nhóm có tổ chức, được thành
lập cho mục đích đó.
Đáng tiếc là một số khái niệm, xác định đặc điểm của hoạt động phạm
tội có tổ chức, trong thực tiễn áp dụng pháp luật đến ngày nay vẫn chưa có
cách hiểu thống nhất. Một trong những ví dụ là sự giải thích về khái niệm
“bền vững”. Trong nghị quyết của Hội đồng Tòa án tối cao Liên bang Nga
№1 ngày 17 tháng 1 năm 1997 “Về thực tiễn áp dụng pháp luật của các tòa án
về trách nhiệm đối với hành vi thành lập hoặc tham gia các băng tội phạm có
vũ trang” hướng dẫn “các băng có cơ cấu bền vững có thể nhận biết qua
những dấu hiệu như sự ổn định trong hành vi của nó, tính thường xuyên trong
hình thức và phương pháp của hoạt động tội phạm, thời gian tồn tại lâu dài và
số lượng các hành vi phạm tội được thực hiện” [20, tr.137]. Trong mục 13 của
Nghị quyết của Hội đồng Tòa án tối cao Liên Bang Nga №6 ngày 10 tháng 3
năm 2000 “Về thực tiễn xét xử các vụ án về hối lộ và đút lót thương mại” quy
định “theo luật (Điều 35 Bộ luật hình sự) thì nhóm có tổ chức được xác định
bởi tính bền vững, tính tổ chức ở mức độ cao hơn, sự phân chia vai trò, có
người tổ chức và lãnh đạo” [21]. Tiếc là những giải thích này chưa đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn cũng như của giới khoa học, làm nảy sinh hàng
loạt những tranh luận trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
Tại phần chung của Bộ luật hình sự (Điều 35) đã đưa ra khái niệm
nhóm tội phạm có tổ chức và liên minh tội phạm (tổ chức tội phạm). Tại phần
riêng (Điều 210) đã tội phạm hóa hành vi: thành lập liên minh tội phạm (tổ
chức tội phạm) nhằm thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng, lãnh đạo liên minh (tổ chức) đó hoặc sát nhập vào nó những
38
nhánh tội phạm, và thậm chí thành lập liên kết của những người tổ chức, lãnh
đạo hoặc đại diện của các nhóm có tổ chức nhằm lập kế hoạch và tạo điều
kiện để thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Tại
Khoản 2 Điều 210 quy định trách nhiệm hình sự đối với việc tham gia vào
liên minh tội phạm (tổ chức tội phạm) hoặc vào liên kết những người tổ chức,
lãnh đạo hoặc các đại diện của các nhóm có tổ chức. Thực hiện cũng những
hành vi đó bởi người sử dụng vị trí công vụ của mình là cấu thành định tội.
Hành vi thực hiện bởi nhóm có tổ chức là dấu hiệu định tội của 70 hành
vi phạm tội. Ngoài ra, theo điểm “в” Điều 63 Bộ luật hình sự, hành vi phạm
tội được thực hiện bởi nhóm tội phạm hoặc liên minh tội phạm (tổ chức tội
phạm) được coi là tình tiết tăng nặng. Tại phần riêng Bộ luật hình sự có 6 điều
(Điều 210 – Tội tổ chức liên minh tội phạm; Điều 208 – Tội tổ chức nhóm vũ
trang trái pháp luật hoặc tham gia vào đó; Điều 209 – Tội thành lập hoặc tham
gia vào băng có vũ trang; Điều 232 – Tội tổ chức hay chứa chấp làm tụ điểm
để sử dụng các chất ma túy hoặc các chất hướng thần; Điều 239 – Tội tổ chức
các liên kết, xâm hại đến nhân phẩm và quyền của công dân; Điều 241 – Tội
tổ chức hành nghề mại dâm), quy định trách nhiệm đối với những hoạt động
tổ chức mang tính đặc thù đó. Các dạng của tội phạm không phải là bất biến
mà luôn vận động thay đổi theo sự vận động, biến đổi của xã hội. Chính vì
vậy mà công việc tội phạm hóa và phi tội phạm hóa cũng cần được thường
xuyên tiến hành theo sự biến đổi trên. Theo đó thì nhóm những quy phạm về
trách nhiệm hình sự đối với những hoạt động phạm tội có tổ chức cần thường
xuyên được tội phạm hóa để đáp ứng thực tiễn đấu tranh chống tội phạm có tổ
chức – loại tội phạm luôn biến đổi hết sức linh hoạt theo không gian và thời
gian. Năm 2003, hai điều luật mới đã được đưa vào Bộ luật hình sự: Điều
2821
– Tội tổ chức liên minh cực đoan; Điều 2822
– Tội tổ chức hoạt động của
tổ chức cực đoan. Năm 2004, nhóm các điều luật này được bổ sung thêm
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT

More Related Content

What's hot

Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết người
Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết ngườiĐịnh tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết người
Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết ngườiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

What's hot (20)

Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Nhân thân người phạm tội trong luật hình sự, HOTLuận văn: Nhân thân người phạm tội trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Nhân thân người phạm tội trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOTLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà NộiLuận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễnLỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Phòng ngừa tình hình tội phạm tại huyện Gia Lâm, Hà Nội, HAY
Phòng ngừa tình hình tội phạm tại huyện Gia Lâm, Hà Nội, HAYPhòng ngừa tình hình tội phạm tại huyện Gia Lâm, Hà Nội, HAY
Phòng ngừa tình hình tội phạm tại huyện Gia Lâm, Hà Nội, HAY
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
 
Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết người
Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết ngườiĐịnh tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết người
Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết người
 
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOTĐề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
Đề tài: Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOTLuận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, HOT
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 

Similar to Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT

Các hình thức đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam” (trên cơ sở thực tiễn đị...
Các hình thức đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam” (trên cơ sở thực tiễn đị...Các hình thức đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam” (trên cơ sở thực tiễn đị...
Các hình thức đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam” (trên cơ sở thực tiễn đị...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20Nguyen Trang
 

Similar to Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT (20)

Luận văn: Các tình tiết tăng nặng theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tình tiết tăng nặng theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Các tình tiết tăng nặng theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tình tiết tăng nặng theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sựLuận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự
 
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Luận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAY
Luận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAYLuận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAY
Luận án: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đLuận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
 
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạmĐề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAYLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
 
Đề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOTĐề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOT
 
Các hình thức đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam” (trên cơ sở thực tiễn đị...
Các hình thức đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam” (trên cơ sở thực tiễn đị...Các hình thức đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam” (trên cơ sở thực tiễn đị...
Các hình thức đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam” (trên cơ sở thực tiễn đị...
 
Luận văn: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật, HOT
Luận văn: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật, HOTLuận văn: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật, HOT
Luận văn: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật, HOT
 
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
 
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Đồng phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Đồng phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Đồng phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Đồng phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOTLuận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAYLuận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 

Recently uploaded (19)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 

Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRƢƠNG CÔNG BÌNH PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRƢƠNG CÔNG BÌNH PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN KHẮC HẢI HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác TÁC GIẢ LUẬN VĂN Trƣơng Công Bình
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng, sơ đồ MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC....... 9 1.1. Khái niệm và các đặc điểm của phạm tội có tổ chức ...................... 9 1.1.1. Khái niệm phạm tội có tổ chức ............................................................ 9 1.1.2. Các đặc điểm của phạm tội có tổ chức...............................................25 1.2. Lịch sử hình thành và phát triển những quy định về phạm tội có tổ chức trong Luật hình sự Việt Nam ..................................31 1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985....................................................31 1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999......................................33 1.3. Phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự một số nƣớc trên thế giới ...............................................................................................34 1.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga...........................................................34 1.3.2. Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.................................39 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ.......45 2.1. Thực trạng pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội có tổ chức .....45 2.1.1. Những quy định về phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự hiện hành ............................................................................................45 2.1.2. Văn bản hướng dẫn thi hành các quy định về phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự hiện hành ................................................53 2.2. Thực tiễn xét xử các trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ...........................57 2.2.1. Tình hình công tác xét xử...................................................................57 2.2.2. Một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản...........................67
  • 5. Chƣơng 3: NHỮNG CƠ SỞ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM...................................76 3.1. Những cơ sở hoàn thiện các quy định về phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự Việt Nam......................................................76 3.1.1. Cơ sở pháp lý .....................................................................................76 3.1.2. Cơ sở thực tiễn ..................................................................................81 3.1.3. Cơ sở lý luận ......................................................................................87 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự Việt Nam ............................................90 3.2.1. Kiến nghị tại phần chung của Bộ luật hình sự ...................................91 3.2.2. Kiến nghị tại phần các tội phạm của Bộ luật hình sự ........................96 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh chống phạm tội có tổ chức .....................................................................................97 KẾT LUẬN..................................................................................................103 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................105
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Thống kê các mức độ phạm tội (nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng) trong các vụ án phạm tội có tổ chức 58 Bảng 2.2: Số lượng vụ án và bị cáo (từ năm 2009 đến 6/2014) 60 Bảng 2.3: Số lượng vụ án có tình tiết “Phạm tội có tổ chức” từ năm 2009 đến 6/2014 60 Bảng 2.4: Số lượng bị cáo trong các vụ án có tình tiết “Phạm tội có tổ chức” giai đoạn từ năm 2009 đến 6/2014 61 Bảng 2.5: Thống kê các nhóm tội phạm được thực hiện dưới hình thức phạm tội có tổ chức (từ năm 2009 đến 6/2014) 62 Bảng 2.6: Thống kê về giới tính của các bị cáo trong các vụ án có tình tiết “Phạm tội có tổ chức” giai đoạn 2009 đến 6/2014 66 Bảng 2.7: Độ tuổi của các bị cáo trong các vụ án có tình tiết “Phạm tội có tổ chức” giai đoạn 2009 đến 6/2014 67 Sơ đồ 1.1: Tội phạm có tổ chức 15 Sơ đồ 1.2: Nhóm tội phạm 21
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phần lớn các quốc gia trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam sử dụng luật hình sự như là công cụ hiệu quả để đấu tranh chống tội phạm được thực hiện dưới hình thức “có tổ chức”, tuy rằng cách quy định về dấu hiệu này ở các quốc gia lại có những khác biệt. Với tính chất là một dạng đồng phạm đặc biệt, thể hiện sự nguy hiểm cao bởi một nhóm người có sự câu kết chặt chẽ thông qua chính cơ cấu tổ chức (băng, nhóm, tổ chức, liên minh …) và sự bàn bạc, tính toán, phân công, lên kế hoạch nhằm thực hiện tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội có tổ chức đã xuất hiện từ khá lâu trong lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam, được đề cập lần đầu tiên trong Thông tư số 442/TTG ngày 19/11/1955 của Thủ tướng Chính phủ về việc trừng trị một số tội phạm. Cho đến nay, phạm tội có tổ chức được ghi nhận trong Bộ luật hình sự năm 1999 với tính chất là “hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”. Về mặt lý luận luật hình sự, còn có nhiều ý kiến khác nhau về bản chất pháp lý của khái niệm phạm tội có tổ chức. Còn nhiều luồng quan điểm trái chiều liên quan đến cách hiểu về dạng đồng phạm đặc biệt này – phạm tội có tổ chức. Về mặt lập pháp hình sự, khó khăn gặp phải là hệ thống pháp luật hiện nay chưa bảo đảm được công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm có tổ chức, thiếu đồng bộ và việc sửa đổi bổ sung còn chậm, chưa bắt kịp với xu thế đang diễn ra. Chính vì thế, pháp luật hình sự nước ta chưa có một cơ chế thực sự để điều chỉnh trường hợp này Trên phương diện thực tiễn, việc áp dụng những quy định về phạm tội
  • 8. 2 có tổ chức đã gặp phải những vướng mắc như thế nào là sự câu kết chặt chẽ. Đối với công tác điều tra, phần lớn các báo cáo của cơ quan công an các tỉnh thành, trong đó có tỉnh Đắk Lắk, thể hiện các trường hợp phạm tội có tổ chức bằng cách diễn đạt khác, đó là tổ chức tội phạm, băng, ổ, phạm tội theo kiểu “xã hội đen”… gây mất thống nhất với các báo cáo của các cơ quan tiến hành tố tụng khác như Viện kiểm sát hay Tòa án. Về công tác xét xử, do nhận thức về bản chất pháp lý của khái niệm phạm tội có tổ chức còn chưa thống nhất, nên các Tòa án nói chung và các tòa tại tỉnh Đắk Lắk nói riêng, đã phạm sai lầm khi kết luận đồng phạm có thông mưu trước thông thường là phạm tội có tổ chức hoặc ngược lại vụ án có tổ chức lại kết luận là đồng phạm thông thường. Hoặc có những bản án tuy không có dấu hiệu sai phạm về mặt áp dụng pháp luật, nhưng việc quy định chưa rõ nghĩa về phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự đã cho thấy sự bất hợp lý giữa việc áp dụng pháp luật hình sự vào thực tiễn là chưa phản ánh chính xác được “tính có tổ chức” của vụ án, chưa rõ ràng của sự “câu kết chặt chẽ” theo tinh thần điều luật quy định về phạm tội có tổ chức, cũng như trong nhiều trường hợp chưa phân định rõ được vai trò trong các vụ án phạm tội có tổ chức cho nên việc quyết định hình phạt đối với các bị cáo nhiều khi bị đánh đồng, chưa lượng hóa được hình phạt phù hợp với vai trò và các tình tiết của vụ án đối với từng bị cáo. Trên phương diện thực hiện cam kết quốc tế, Việt Nam đã ký tham gia Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia vào tháng 12 năm 2000, phê chuẩn công ước này vào ngày 29 tháng 12 năm 2011. Để bảo đảm cam kết của Việt Nam đối với Công ước, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt kế hoạch triển khai thực hiện Công ước vào ngày 18 tháng 4 năm 2013. Những quốc gia tham gia Công ước, trong đó có Việt Nam, có nghĩa vụ tội phạm hoá hành vi tham gia nhóm tội phạm có tổ chức. Tuy nhiên trong Bộ luật hình sự Việt Nam chưa quy định về tổ chức tội phạm cũng như
  • 9. 3 chưa có quy định về hành vi tham gia nhóm tội phạm có tổ chức (tổ chức tội phạm). Vì vậy, để có cơ sở pháp lý đấu tranh chống hình thức phạm tội nguy hiểm này và thực hiện các nghĩa vụ với tư cách là thành viên của Công ước thì việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện Bộ luật hình sự, đặc biệt là các quy định về tổ chức tội phạm và hành vi tham gia vào tổ chức này là rất cần thiết. Những luận điểm nêu trên đã chứng tỏ lý do nghiên cứu đề tài “Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)” là quan trọng và cấp thiết trong việc hoàn thiện pháp luật hình sự để đấu tranh chống và phòng ngừa loại tội phạm nguy hiểm này tại Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu Đồng phạm cũng như phạm tội có tổ chức là những vấn đề có nội dung phong phú và phức tạp được các luật gia và các nhà nghiên cứu luật quan tâm chú ý và đề cập đến trong những công trình nghiên cứu của mình dưới góc độ luật hình sự, tội phạm học hoặc xã hội học pháp luật. Hiện nay, ở nước ta có rất nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu vấn đề đồng phạm có tổ chức dưới các góc độ khác nhau ở mức chuyên sâu hoặc khái quát hóa đã được công bố trên các sách, tạp chí, luận văn, luận án. Nhưng tựu chung lại thì các nghiên cứu chủ yếu theo ba xu hướng đó là: tiếp cận dưới góc độ tội phạm học, luật hình sự và theo sự xuất hiện các vấn đề mới của xã hội. Dưới góc độ khoa học luật hình sự đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu về phạm tội có tổ chức, có thể kể ra đây một số công trình tiêu biểu của các tác giả như: GS.TSKH Lê Cảm với tập sách “Các nghiên cứu chuyên khảo về phần chung Bộ luật hình sự” (NXB Công an nhân dân, 2000) đã đề cập đến chế định đồng phạm trong đó có nói đến phạm tội có tổ chức, sách “Đồng phạm trong luật Hình sự Việt Nam” của TS. Trần Quang Tiệp (NXB Tư Pháp, 2007) với nội dung trình bày về khái niệm đồng phạm, các loại người đồng phạm, các hình thức đồng phạm và trách nhiệm hình sự trong
  • 10. 4 đồng phạm. Mặt khác, có một số bài viết, đề tài tập trung phân tích trường hợp phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, chẳng hạn như bài “Phạm tội có tổ chức và trách nhiệm hình sự đối với bọn phạm tội có tổ chức” của tác giả Nguyễn Vạn Nguyên, hay đề tài luận văn cao học của Nguyễn Minh Đức “Hình thức phạm tội có tổ chức trong chế định đồng phạm theo pháp luật Hình sự Việt Nam”. Tiếp cận vấn đề ở góc độ tội phạm học là một số bài viết của các tác giả nói đến vấn đề đồng phạm có tổ chức với tư cách là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội ở những khía cạnh khác nhau. Đó là các bài viết như: “Vấn đề tội phạm có tổ chức và trách nhiệm hình sự pháp nhân trong sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” của GS.TS. Hồ Trọng Ngũ đăng trên tạp chí Lập pháp số 6/2009, bài nghiên cứu “Đấu tranh phòng, chống tội phạm có tổ chức và tội phạm xuyên quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc tế” của PGS.TS Trần Hữu Ứng đăng trên tạp chí Cộng sản điện tử, hoặc loạt bài viết của TS. Nguyễn Khắc Hải: “Đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức theo pháp luật hình sự Liên bang Nga” trong tạp chí Khoa học – Đại học Quốc gia Hà Nội số 23/2007, “Nhận diện tội phạm có tổ chức” (Kỷ yếu hội thảo khoa học về sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999) đã tạo ra những nhận thức cơ bản trong việc tìm hiểu về đồng phạm có tổ chức. Thêm vào đó, có khá nhiều các nghiên cứu về đồng phạm có tổ chức với tư cách là vấn đề mới của xã hội. Đầu tiên phải kể đến cuốn sách mang tên “Tội phạm có tổ chức – lịch sử và vấn đề hôm nay” của GS.TS. Hồ Trọng Ngũ trả lời cho câu hỏi: “tội phạm có tổ chức – nhận thức mới hay hiện tượng xã hội mới?”, bài viết “Tội phạm có tổ chức và việc bổ sung chế định tổ chức tội phạm trong Bộ luật hình sự Việt Nam” của TS. Lê Thị Sơn trong tạp chí Luật học số 12/2012, đề tài luận án của TS. Nguyễn Trung Thành “Phạm tội có tổ chức trong luật hình sự Việt Nam và việc đấu tranh phòng chống” đề cập chi tiết đến trường hợp đồng phạm có tổ chức ở cả góc độ khoa học luật hình sự và
  • 11. 5 tội phạm học. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam cũng đã đề cập trên một số góc độ về trường hợp phạm tội có tổ chức, nhưng việc giải thích chi tiết trường hợp phạm tội có tổ chức về mặt cơ cấu và hoạt động của nó cũng như một số hình thức thực hiện tội phạm mới liên quan đến đồng phạm có tổ chức vẫn đang là một vấn đề còn bỏ ngỏ. Vì thế, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đất nước nói chung và tại Đắk Lắk nói riêng xung quanh phạm tội có tổ chức vẫn đang là điều cần được nghiên cứu để sửa đổi và hoàn thiện. 3. Mục đích nghiên cứu của luận văn Mục đích cơ bản của đề tài là làm sáng tỏ một cách có hệ thống, đầy đủ và chi tiết về mặt lý luận hiện tượng tội phạm có tổ chức mà hình thức thể hiện của nó là phạm tội có tổ chức, phân tích một cách khoa học và có căn cứ những vấn đề có liên quan đến phạm tội có tổ chức để qua đó có được cái nhìn thống nhất, toàn diện, đầy đủ và đóng góp về mặt khoa học để góp phần giải quyết những vướng mắc đang được đặt ra trong trường hợp đồng phạm đặc biệt này. Từ việc phân tích những vấn đề lý luận, kết hợp với nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, thực trạng pháp luật Việt nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, luận văn đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự về phạm tội có tổ chức. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Để đạt được mục đích luận văn nghiên cứu những vấn đề sau: a. Khái niệm, các đặc điểm và lịch sử hình thành và phát triển các quy định về phạm tội có tổ chức trong luật hình sự Việt Nam b. Phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự của một số quốc gia trong đấu tranh chống phạm tội có tổ chức c. Thực trạng pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội có tổ chức d. Thực tiễn và những nguyên nhân tồn tại, hạn chế trong công tác xét xử các vụ án phạm tội có tổ chức trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
  • 12. 6 e. Những cơ sở pháp lý và thực tiễn trong nước và quốc tế để hoàn thiện các quy định về phạm tội có tổ chức, cũng như nâng cao hiệu quả đấu tranh chống loại tội phạm nguy hiểm này 5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của đề tài nêu trên là thành tựu từ các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử nhà nước và pháp luật, lý luận về pháp luật, xã hội học pháp luật, pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, tội phạm học, lĩnh vực triết học, thành tựu từ các công trình nghiên cứu, luận văn, luận án, sách chuyên khảo cũng như các bài đăng trên tạp chí và các báo của các nhà khoa học – luật gia trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng các văn bản pháp luật của Nhà nước trong việc giải thích thống nhất các trường hợp cụ thể trong thực tiễn xét xử có liên quan đến trường hợp trên trong các văn bản thuộc lĩnh vực tư pháp hình sự do các cơ quan bảo vệ pháp luật ban hành ở các mức độ khác nhau. Phương pháp luận được sử dụng để làm sáng tỏ các vấn đề được đặt ra trong nghiên cứu là: phương pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng duy vật chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Để từ đó xây dựng, đề cập đến những vấn đề tương ứng trong các quan điểm về tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, củng cố pháp chế và bảo vệ các quyền con người. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả còn đồng thời sử dụng các phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từ vấn đề được đặt ra. Các phương pháp tiếp cận được sử dụng đó là: phương pháp phân tích – chứng minh, logic, phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp lịch sử, liệt kê,...Đặc biệt trong đó tác giả nhấn mạnh chú ý tới các phương pháp tổng hợp – hệ thống, đối chiếu so sánh, lịch sử phân tích, thống kê, khảo sát thực tiễn,
  • 13. 7 phương pháp xã hội học,... để qua đó đưa ra được những kết luận khoa học mang tính thuyết phục cao, đề xuất các phương án cụ thể sao cho phù hợp nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự có liên quan đến trường hợp phạm tội có tổ chức. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Kế thừa các nghiên cứu khoa học về phạm tội có tổ chức của các học giả luật học, luật gia trong nước và quốc tế, luận văn có những đóng góp mới trong việc nghiên cứu, cụ thể là: a. Làm sáng tỏ một cách hệ thống và toàn diện một số vấn đề lý luận về trường hợp đồng phạm có tổ chức, góp phần tiếp cận khái niệm, các đặc điểm của trường hợp phạm tội có tổ chức; b. Nghiên cứu so sánh, đặt pháp luật hình sự Việt Nam trong mối quan hệ với pháp luật quốc tế mà cụ thể là Công ước quốc tế về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và pháp luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Liên Bang Nga để làm cơ sở cho các kiến nghị hoàn thiện; c. Làm rõ thực tiễn xét xử các vụ án về phạm tội có tổ chức trên địa bàn thành tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2009-2014; d. Khảo sát thực tiễn các dạng phạm tội có tổ chức của một số quốc gia; e. Đưa ra một số đề xuất hoàn thiện những quy định về phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành; 7. Kết cấu của luận văn Luận văn này gồm có phần mở đầu, các chương nội dung, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Cụ thể các chương nội dung bao gồm: Chƣơng 1: Các vấn đề chung về phạm tội có tổ chức 1.1. Khái niệm và các đặc điểm của phạm tội có tổ chức 1.2. Lịch sử hình thành và phát triển những quy định về phạm tội có tổ chức trong luật hình sự Việt Nam 1.3. Phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới
  • 14. 8 Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội có tổ chức và thực tiễn xét xử 2.1. Thực trạng pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội có tổ chức 2.2. Thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk Chƣơng 3: Những cơ sở và một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự Việt Nam 3.1. Những cơ sở hoàn thiện các quy định về phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự Việt Nam 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự Việt Nam 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh chống phạm tội có tổ chức.
  • 15. 9 Chương 1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC 1.1. Khái niệm và các đặc điểm của phạm tội có tổ chức 1.1.1. Khái niệm phạm tội có tổ chức Về mặt lý luận luật hình sự, còn có nhiều ý kiến khác nhau về bản chất pháp lý của khái niệm phạm tội có tổ chức. Do luật hình sự của các nước trên thế giới quan niệm về vấn đề này khác về chất so với luật hình sự của nước ta ngay ở tên gọi của khái niệm như Bộ luật Hình sự Cộng hòa Pháp gọi là băng có tổ chức, Bộ luật Hình sự Liên bang Nga gọi là nhóm có tổ chức mà băng, nhóm là chủ ngữ khác hẳn với phạm tội chỉ đóng vai trò là vị ngữ. Vì vậy, ở đây chúng tôi chỉ nêu ra một số quan điểm còn khác nhau xung quanh khái niệm phạm tội có tổ chức ở nước ta [1, tr.168-172]. Loại quan điểm thứ nhất cho rằng, phạm tội có tổ chức dứt khoát phải là hình thức đồng phạm phức tạp, tức là phải có sự phân công vai trò giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Nếu giữa những kẻ phạm tội đều có vai trò thực hiện tội phạm như nhau thì đó là đồng phạm giản đơn chứ không phải phạm tội có tổ chức. Quan điểm này sai lầm ở chỗ, đã tuyệt đối hóa một mặt của vấn đề được nghiên cứu, đó là vai trò của những người đồng phạm. Thực tiễn cũng đã chỉ ra rằng, sự phân công vai trò khác nhau giữa những người đồng phạm tuy là dấu hiệu phổ biến của hình thức phạm tội có tổ chức nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc, dấu hiệu duy nhất. Vì vậy, vẫn có những trường hợp phạm tội có tổ chức, mà trong đó những người đồng phạm không những câu kết chặt chẽ về ý thức phạm tội, mà còn có sự phối kết hợp chặt chẽ với nhau khi thực hiện tội phạm nhưng khi thực hiện tội phạm thì mỗi người đều là người thực hành mà không có người tổ chức, người xúi giục hoặc là người giúp sức với vai trò rõ ràng, cụ thể.
  • 16. 10 Loại quan điểm thứ hai cho rằng, ở hình thức phạm tội có tổ chức, những người đồng phạm phải phạm nhiều tội hoặc phạm một tội, nhưng nhiều lần và có sự câu kết chặt chẽ với nhau trong một thời gian dài. Theo quan điểm này, phạm vi những vụ đồng phạm có được xác định là phạm tội có tổ chức sẽ quá thu hẹp vì chỉ có một số ít các tổ chức chống chính quyền nhân dân, tổ chức phạm tội khác mới thỏa mãn được điều kiện này. Nếu thực hiện theo quan điểm này, công tác điều tra, truy tố, xét xử sẽ nương nhẹ nhiều trường hợp phạm tội có đầy đủ căn cứ để xác định là hình thức đồng phạm đặc biệt, có tính chất, mức độ nguy hiểm cao cho xã hội, vì vậy sẽ giảm hiệu quả công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm được thực hiện bằng đồng phạm nói riêng. Loại quan điểm thứ ba đồng nhất khái niệm phạm tội có tổ chức với đồng phạm có thông mưu trước. Loại quan điểm này sai lầm ở chỗ đã đồng nhất giữa cái chung là đồng phạm có thông mưu trước với cái riêng là hình thức phạm tội có tổ chức. Thực ra, đồng phạm có thông mưu trước và hình thức phạm tội có tổ chức là hai khái niệm thống nhất nhưng không đồng nhất: phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có thông mưu trước nhưng kèm theo nó là những dấu hiệu đặc trưng khác. Theo logic hình thức thì ngoại diên của khái niệm phạm tội có tổ chức nằm trong ngoại diên của khái niệm đồng phạm có thông mưu trước. Xét về mức độ tính nguy hiểm cho xã hội, thì phạm tội có tổ chức có mức độ tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn đồng phạm có thông mưu trước. Bộ luật Hình sự Liên bang Nga cũng đã thể hiện quan điểm này khi xác định đồng phạm có thông mưu trước và nhóm có tổ chức đều là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt của nhiều điều luật, nhưng nhóm có tổ chức là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt cao hơn. Ví dụ: Điều 203 - Tội bắt cóc con tin, quy định đồng phạm có thông mưu trước là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt của khoản 2 với mức
  • 17. 11 hình phạt từ 5 năm đến 15 năm tù thì nhóm có tổ chức được quy định là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt của khoản 3 Điều này với mức hình phạt từ 8 năm đến 20 năm tù. Từ đó cho thấy, nếu thực hiện như quan điểm này, sẽ dẫn tới xét xử, trừng trị người phạm tội thiếu chính xác, khách quan. Phạm tội có tổ chức với tính chất là đồng phạm đặc biệt mà định nghĩa pháp lý của nó được nhà làm luật Việt Nam ghi nhận trong pháp luật hình sự hiện hành. Tuy nhiên phạm tội có tổ chức vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau do sự ghi nhận còn chung chung, chưa làm rõ được sự “câu kết chặt chẽ”. Có quan điểm cho rằng phạm tội có tổ chức là hình thức phạm tội đặc biệt có sự câu kết chặt chẽ của những người cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm hoặc của các thành viên cùng một tổ chức tội phạm [2, tr.460-461]. Sự câu kết chặt chẽ của những người đồng phạm chính là đặc điểm chủ yếu nhất nói lên tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn cả của hình thức đồng phạm này và nó thường có các dấu hiệu đặc trưng riêng về mặt khách quan và chủ quan. Cũng có quan điểm nhận diện phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm đặc biệt – đó chính là đồng phạm có tổ chức. Tính “có tổ chức” được thể hiện có sự bàn bạc, phân công vai trò người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện hành vi phạm tội, có kỷ luật, có quy ước hoạt động... trước khi thực hiện tội phạm có vạch kế hoạch, có sự tính toán, cân nhắc kỹ càng, có đề ra các tình huống xấu khi xảy ra … để cùng thống nhất hành động [3, tr. 61]. Theo tính chất tồn tại, phạm tội có tổ chức gồm: phạm tội có tổ chức một lần và phạm tội có tổ chức kéo dài. “Phạm tội có tổ chức một lần (hoặc một số lần) là hình thức phạm tội có tổ chức có sự câu kết chặt chẽ giữa những người phạm tội trong thời gian tương đối ngắn để cùng nhau thực hiện một tội phạm hoặc một số tội phạm” [4, tr.12]. Ở trường hợp này, những
  • 18. 12 người đồng phạm mới chỉ thực hiện tội phạm được một lần hoặc một số lần thì bị phát hiện, bị bắt và bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng có thể thời gian câu kết để chuẩn bị phạm tội đã diễn ra trong thời gian tương đối dài. Phạm tội có tổ chức dạng này thông thường xuất hiện ở các tội xâm phạm an ninh quốc gia, khủng bố, bạo loạn, phá hoại cơ sở vật chất kĩ thuật, trốn khỏi trại giam,... thậm chí xâm hại đến đối tượng được bảo vệ nghiêm ngặt hoặc đặc biệt nghiêm ngặt chẳng hạn như tài sản có giá trị lớn, rất lớn hay những nhân vật giữ vị trí quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Để tiếp cận khái niệm phạm tội có tổ chức với tính chất là một hình thức phạm tội có tính nguy hiểm cao, trước hết cần làm rõ đến khái niệm tội phạm có tổ chức bởi tội phạm có tổ chức chính là hiện tượng tiêu cực mà trong đó những hoạt động phạm tội có tổ chức (hay còn gọi là đồng phạm có tổ chức) được thực hiện bởi một nhóm người có cơ cấu nhất định (câu kết với nhau) nhằm mục đích lợi nhuận hay các mục đích khác. Không giống như những người phạm tội ở đường phố hay thậm chí người phạm tội chuyên nghiệp, những người phạm tội có tổ chức làm việc với nhau trên cơ sở có tính liên tục trong các lớp vỏ bọc khá đa dạng với những hoạt động bất hợp pháp. Có một nhóm tội phạm nòng cốt và một nhóm lớn hơn nhiều là các cá nhân vệ tinh làm việc với họ, thực hiện nhiệm vụ cụ thể và cung cấp dịch vụ cụ thể, nhưng những cá nhân này chủ yếu là những tác nhân kinh tế và chính trị hợp pháp. Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, các chuyên gia máy tính và tư vấn tài chính là những nhân tố quan trọng đối các nhóm tội phạm có tổ chức không kém những người bán ma túy, môi giới cá cược hay chăn dắt gái mại dâm. Những cá nhân này được đưa vào một mạng lưới tội phạm bởi những dịch vụ của họ là cần thiết. Sự kết hợp này rất tiện dụng. Nó làm cho việc thực thi pháp luật trở nên hết sức khó khăn để theo dõi và truy ngược lại các hoạt động cụ thể của những người nòng cốt của nhóm tội phạm.
  • 19. 13 Một vấn đề dai dẳng và kéo dài liên quan đến cấu trúc của nhóm tội phạm là việc sử dụng cấu trúc tương tự như của công ty để mô tả cấu trúc ra quyết định tổ chức tội phạm. Ấn tượng còn lại tương tự như của công ty là tổ chức tội phạm có nhóm điều hành và cấu trúc phân cấp thứ bậc kiểm soát hoạt động và truyền lệnh cho nhân viên cấp dưới. Định nghĩa truyền thống này nhấn mạnh vai trò của ông chủ, tương tự như giám đốc điều hành của công ty, một ủy ban, tương đương với ban giám đốc; các trưởng ban (đội trưởng) là những người quản lý trung gian của bộ máy và những người lính là những công nhân thực sự thực hiện các hoạt động bất hợp pháp. Như chúng ta đã thấy, một cái nhìn truyền thống về tổ chức tội phạm như vậy là sai lầm cơ bản. Quan điểm mới về tội phạm có tổ chức đưa ra bởi cơ quan thực thi pháp luật châu Âu bác bỏ hoàn toàn cách nhìn nhận này về tội phạm có tổ chức. Cách nhìn mới này giúp chúng ta nhận ra một thực tế là hình thức truyền thống cũ của tội phạm có tổ chức, chẳng hạn như những loại tổ chức Mafia truyền thống trước đây đã từng tồn tại, thì bây giờ không còn lợi hại trong một nền kinh tế thế giới toàn cầu hóa. Cũng giống như các công ty hợp pháp, các nhóm tội phạm có tổ chức ngày nay đã mở rộng mạng lưới theo một cách thức linh hoạt và hiệu quả hơn. Thời đại của thông tin liên lạc nhanh chóng tiện lợi, các hình thức rườm rà của một tổ chức theo thứ bậc không những không còn cần thiết mà còn cản trở kinh doanh bất hợp pháp. Điều này đồng nghĩa với việc là họ dễ bị cảnh sát thâm nhập hơn là là mạng lưới mở rộng với tính năng linh hoạt và năng động. Với dịch vụ chuyển tiền nhanh, sự hỗ trợ của công nghệ như điện thoại di động và mạng internet, bất cứ nhóm nhỏ nào cũng có thể mua và phân phối ma túy bất hợp pháp rất nhanh chóng và tiện lợi. Sự cần thiết của một ông chủ đã qua rồi [12, p.7-8]. Tổ chức vì lợi nhuận. Giống như các doanh nghiệp hợp pháp, tội phạm có tổ chức tồn tại là vì mục đích chính: để tạo ra lợi nhuận. Tội phạm có tổ chức
  • 20. 14 cần và sử dụng sức mạnh kinh tế và chính trị để đạt được mục tiêu này. Sự phân biệt truyền thống từ trước tới này của tội phạm có tổ chức và các doanh nghiệp hợp pháp chính ở chỗ tội phạm có tổ chức sử dụng các phương tiện và cách thức bất hợp pháp để nâng cao quyền lực và lợi nhuận. Trong khi nhiều học giả cho rằng sự khác biệt này ngày nay ít quan trọng hơn so với trong quá khứ, thì việc sử dụng các phương thức phạm tội để đạt được mục tiêu lợi nhuận vẫn là một thuộc tính quan trọng của định nghĩa tội phạm có tổ chức. Các phương thức phạm tội có thể từ tống tiền và tham nhũng tới các hành vi bạo lực. Doanh nghiệp vì lợi nhuận của tội phạm có tổ chức. Kinh tế toàn cầu đã thay đổi tội phạm có tổ chức sâu sắc nhất ở chỗ nó đã làm tăng rất mạnh số lượng và loại hình doanh nghiệp mà tổ chức tội phạm có thể khai thác lợi nhuận. Theo truyền thống, khi nghĩ đến các nhóm tội phạm có tổ chức là hình dung đến việc cung cấp những dịch vụ bất hợp pháp liên quan đến tệ nạn xã hội hay bảo kê cho nó ở vùng đó. Sản xuất và phân phối các ấn phẩm khiêu dâm và ma túy, các cung cấp các dịch vụ mại dâm, cờ bạc, cho vay nặng lãi, và các dịch vụ bảo vệ truyền thống được xem là cốt lõi của hoạt động phạm tội có tổ chức. Toàn cầu hóa đã thay đổi tất cả. Trong một thị trường quốc tế rộng lớn, tội phạm có tổ chức có thể thẩm thấu vào bất kỳ doanh nghiệp nào. Tất nhiên, các tổ chức tội phạm vẫn thống trị ngành công nghiệp tình dục và buôn bán ma túy. Dân nhập cư được đưa trái phép qua biên giới để làm việc trong các nhà thổ, câu lạc bộ thoát y và quán massage thuộc sở hữu của đám ma cô, nhưng họ cũng bị buôn bán để làm việc trong các ngành sản xuất, nông nghiệp và công nghiệp. Sự đa dạng trong việc buôn bán ma túy đã trở nên dễ dàng hơn với sự hỗ trợ hiệu quả của giao thông và tài chính. Buôn bán vũ khí bất hợp pháp cùng với buôn bán ma túy là nguồn cung tài chính trên diện toàn cầu cho tội phạm có tổ chức. Xe ô tô sang trọng đang bị đánh cắp và vận chuyển trên toàn thế giới để bán lại. Ngà voi, đá quý, thực vật quý hiếm, động vật hoang dã được bán trên thị trường toàn cầu. Thậm chí những hình thức doanh nghiệp đơn giản của
  • 21. 15 tội phạm có tổ chức, chẳng hạn như tống tiền và bảo kê, chiếm một tầm quan trọng mới trong nền kinh tế toàn cầu. Thay vì tống tiền các quán bar và nhà hàng của khu phố, tổ chức tội phạm thời nay được thuê bởi các doanh nghiệp hợp pháp để quấy rối đối thủ cạnh tranh, tiến hành các hoạt động gián điệp công nghiệp, đe dọa trả lương thấp những người lao động bất hợp pháp. Tội phạm có tổ chức là một hiện tượng xã hội tiêu cực phản ánh việc các cá nhân liên kết với nhau trong một cơ cấu bền vững hoặc linh hoạt để thực hiện hoạt động phạm tội nhằm đạt được mục đích kinh tế, chính trị, tôn giáo hoặc mục đích khác. Sơ đồ 1.1: Tội phạm có tổ chức (Nguồn: Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội). TỘI PHẠM CÓ TỔ CHỨC CƠ CẤU HOẠT ĐỘNG PHẠM TỘI MỤC ĐÍCH SỰ LIÊN KẾT CỦA CÁC CÁ NHÂN (TÍNH CÓ TỔ CHỨC) - Kinh tế - Chính trị - Tôn giáo - Mục đích khác - Buôn bán ma túy - Buôn bán vũ khí - Buôn bán người - Khủng bố - Rửa tiền - Trốn thuế - Chiếm đoạt tài sản - Cá độ - Hối lộ - Các hoạt động khác 1. Nhóm hệ thống phân cấp tiêu chuẩn 2. Nhóm hệ thống phân cấp khu vực 3. Nhóm hệ thống phân cấp liên minh 4. Nhóm nòng cốt 5. Mạng lưới tội phạm
  • 22. 16 Tội phạm có tổ chức là một hình thức thực hiện các hoạt động phạm tội có hiệu quả cao với sự tham gia của nhiều cá nhân cho nên khi tội phạm được thực hiện bằng hình thức này thì tính chất nguy hiểm của các tội phạm sẽ tăng lên đáng kể. Sự liên kết - tính có tổ chức - của các cá nhân thể hiện trong một cơ cấu bền vững hoặc linh hoạt nhằm tiến hành những hoạt động phạm tội để đạt được mục đích của nhóm người đó. Như vậy tính có tổ chức liên quan đến không chỉ việc thực hiện những hành vi cụ thể, mà còn ở chính cơ cấu tội phạm, sự tồn tại và những hoạt động phạm tội của nó. Cơ sở xã hội của tội phạm có tổ chức và phạm vi năng lực của nó trong mỗi giai đoạn có sự khác nhau cơ bản. Trong nền kinh tế mệnh lệnh hành chính, tội phạm có tổ chức ký sinh vào nền kinh tế kế hoạch hóa, được đơn giản hóa và phụ thuộc bộ máy hành chính. Trong giai đoạn đổi mới, chuyển đổi nền kinh tế, tội phạm có tổ chức trở nên phức tạp và đa dạng hơn, tự chủ hơn. Đến giai đoạn hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, với tác động của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như của khoa học và công nghệ, tội phạm có tổ chức đã hình thành những hệ thống phức tạp, tinh vi, linh hoạt và sử dụng thành thạo những thành tựu của khoa học công nghệ. Về cấu trúc, tội phạm có tổ chức thậm chí còn phản ánh phạm vi của hoạt động phạm tội, đặc điểm về dân tộc, tôn giáo và truyền thống của nơi sinh sống. Có quan điểm cho rằng cần phải liệt kê các điều luật, có đặc trưng gần nhất với tội phạm có tổ chức như trộm cắp, buôn lậu ma túy, buôn lậu, tống tiền v.v. và chính như vậy sẽ loại bỏ việc mở rộng việc giải thích khái niệm “hoạt động có tổ chức” [7, c.267]. Phương pháp tiếp cận này có thể hợp lý khi sử dụng trong luật hình sự để xác định tội phạm nghiêm trọng, tái phạm đặc biệt nguy hiểm, nhưng lại không thành công khi áp dụng với tội phạm có tổ chức, bởi lẽ nếu vậy thì sẽ liên tục phải bổ sung những tội phạm mới vào danh sách. Tội phạm có tổ chức luôn hướng tới những hành vi phạm tội mang lại
  • 23. 17 lợi nhuận cao với ít rủi ro. Do vậy có thể liệt kê hầu hết các hành vi phạm tội, được quy định trong Bộ luật hình sự của các quốc gia khác nhau, thực hiện “công việc” của những tên tội phạm có tổ chức: một mặt (buôn bán ma túy, vũ khí…) được coi là những hoạt động chính, mặt khác (giết người, khủng bố…) được coi là cách thức để loại bỏ đối thủ, tiếp đến (đút lót, hối lộ…) là xây dựng hệ thống phòng thủ và bảo vệ, rồi đến (trốn thuế, rửa tiền…) cách thức tích lũy quỹ tội phạm, và rồi (thành lập các doanh nghiệp giả…) hợp pháp hóa những hoạt động của mình. Tất cả những hoạt động phạm tội có tổ chức đều có tính chất và mức độ nguy hiểm cao cho xã hội. Những tội phạm được thực hiện dưới cách thức có tổ chức – phạm tội có tổ chức – đều được coi là những tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng tùy theo quy định trong pháp luật của từng quốc gia. Trong Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, những tội phạm được thực hiện bởi nhóm tội phạm có tổ chức đều được coi là tội phạm nghiêm trọng. Khoản a Điều 2 của Công ước quy định: Nhóm tội phạm có tổ chức là một nhóm có cơ cấu gồm từ ba người trở nên, tồn tại trong một thời gian và hoạt động có phối hợp nhằm mục đích thực hiện một hay nhiều tội phạm nghiêm trọng hoặc các hành vi phạm tội được quy định trong Công ước này, nhằm đạt được, trực tiếp hoặc gián tiếp, lợi ích về tài chính hay vật chất khác. Nhóm cơ cấu nghĩa là một nhóm không phải được hình thành một cách ngẫu nhiên để thực hiện một hành vi phạm tội tức thời và không nhất thiết vai trò của các thành viên trong nhóm phải được xác định một cách rõ ràng, quan hệ giữa các thành viên phải được duy trì hoặc cơ cấu của nhóm phải được phát triển (khoản c, Điều 2). Tội phạm nghiêm trọng theo khoản 2 Điều 2 của Công ước quy định:
  • 24. 18 “Là một hành vi vi phạm có thể bị trừng phạt theo khung hình phạt tù ít nhất là 4 năm hoặc theo một hình phạt nặng hơn. Bản hành động chung của Hội đồng châu Âu cũng đưa ra một hình phạt tương tự như vậy, tại Điều 1 của Bản hành động chung này, một hành động phạm tội “có thể bị phạt tù giam hoặc tước quyền tự do từ ít nhất 4 năm trở lên”. Những quy định của Công ước về tội phạm có tổ chức là rất cụ thể và chỉ rõ được các đặc điểm tội phạm học của loại tội phạm này. Về chủ thể, khoản a Điều 2 đã đưa ra một quan niệm mới về tội phạm có tổ chức, khắc phục sự thiếu thống nhất trong các quy định hiện hành, lượng hoá số lượng thành viên của một nhóm tội phạm có tổ chức là ba người. Điều này giúp cho chúng ta có một cách hiểu thống nhất về tội phạm có tổ chức, tạo thuận lợi cho công tác lập pháp, hành pháp và tư pháp tại các quốc gia thành viên [7]. Về mục đích, các liên kết tội phạm có tổ chức có những hoạt động phạm tội rất đa dạng, phong phú và là cách thức để đạt được mục tiêu đã đề ra. Một trong những mục đích nổi bật của rất nhiều liên kết tội phạm có tổ chức là lợi nhuận (kinh tế). Hiện nay có nhiều liên kết tội phạm có tổ chức đã có không chỉ một mục đích do yêu cầu khách quan, mà thông thường là mục đích chính trị, tôn giáo xen lẫn với mục đích kinh tế. Trước đây các tổ chức khủng bố được tài trợ để hoạt động, tuy nhiên đứng trước rào cản của cộng đồng quốc tế và nhiều quốc gia trong phòng, chống khủng bố và tài trợ khủng bố bằng các biện pháp khác nhau, trong đó có cả biện pháp pháp lý, các tổ chức khủng bố đã phải tự mình tiến hành các hoạt động phạm tội khác như buôn bán người, buôn bán vũ khí, buôn bán ma túy… để có quỹ xây dựng và duy trì hoạt động của tổ chức. Dần dần những hoạt động này đã trở thành một trong những mục đích của những tổ chức này với phương châm đặt vấn đề lợi nhuận lên hàng đầu. Tội phạm có tổ chức là một hiện tượng độc đáo và năng động lan tỏa
  • 25. 19 hầu như tất cả các tầng lớp xã hội. Nó khác với các loại hoạt động tội phạm khác. Các loại hành vi phổ biến nhất liên quan đến hoạt động phạm tội có tổ chức bao gồm việc cung cấp các dịch vụ bất hợp pháp và hàng hóa bất hợp pháp, âm mưu phạm tội, sự xâm nhập vào kinh doanh hợp pháp, tống tiền và tham nhũng. Cung cấp các dịch vụ bất hợp pháp Việc cung cấp các dịch vụ bất hợp pháp là một trong những công việc kinh doanh chính của các tổ chức tội phạm. Dịch vụ bất hợp pháp là những dịch vụ mà kinh doanh hợp pháp không cung cấp và bị pháp luật cấm. Những dịch vụ bất hợp pháp bao gồm: (1) hoạt động cờ bạc được tiến hành ngoài vòng pháp luật, (2) bảo kê - một hình thức tống tiền mà theo đó các thành viên tổ chức tội phạm tiếp cận chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhỏ và đề nghị cung cấp cho họ sự bảo vệ cho các doanh nghiệp trong trường hợp không may mắn “bất ngờ” xảy ra, chẳng hạn như cháy hoặc bị phá hoại, (3) cho vay nặng lãi, cho vay tiền bất hợp pháp ở mức giá lấy lãi cắt cổ, mà việc trả nợ bị ép thông qua bạo lực và đe dọa, và (4) kinh doanh mại dâm là một trong những dịch vụ mang lại lợi nhuận lớn cho các tổ chức tội phạm. Việc cung cấp các dịch vụ bất hợp pháp là một dạng hoạt động phạm tội tạo ra tiền để giúp cho tổ chức đạt được mục đích. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp các dịch vụ bất hợp pháp được cung cấp cùng với hàng hóa bất hợp pháp. Cung cấp hàng hoá bất hợp pháp Giống như dịch vụ bất hợp pháp, một dấu hiệu thứ hai của tổ chức tội phạm là việc cung cấp các hàng hóa bất hợp pháp, thứ không có từ các doanh nghiệp hợp pháp. Đặc biệt là các loại ma túy bất hợp pháp chính là cho một sản phẩm chính trong nhu cầu đáng kể trên thị trường chợ đen. Các loại ma túy bất hợp pháp bao gồm cần sa, cocaine và heroin, các loại ma túy tổng hợp
  • 26. 20 khác dưới dạng thuốc lắc… đã mang lại hàng tỉ đô la Mỹ miễn thuế cho các tổ chức tội phạm tội phạm mỗi năm. Các ấn phẩm khiêu dâm cũng là một loại hàng hóa ở thị trường chợ đen mà tạo ra hàng tỷ đô la mỗi năm. Súng không đăng ký và hàng hóa bị đánh cắp là những sản phẩm khác có nhu cầu đáng kể mà những người buôn bán bất hợp pháp có thể bán với giá thấp hơn và dễ dàng hơn là phân phối một cách hợp pháp. Âm mƣu phạm tội Một loại quan trọng của hành vi phạm tội có tổ chức là âm mưu, một thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều người vi phạm pháp luật. Trong hầu hết các trường hợp, các thành viên của tổ chức tội phạm làm việc với nhau với mục đích buôn bán ma túy hoặc tài sản bị đánh cắp, cho vay nặng lãi, cờ bạc và các hoạt động khác. Rất hiếm khi một hành vi phạm tội được thực hiện mà những người cầm đầu nhóm tội phạm lại không biết hoặc không đồng ý. Do đó, những ông chủ hoặc chỉ huy nhóm, những người cho phép hành vi phạm tội được thực hẹn, cũng bị cáo buộc về âm mưu để thực hiện các hành vi này. Xâm nhập vào kinh doanh hợp pháp Vì các thành viên tổ chức tội phạm không có cách nào hợp pháp để sử dụng những lợi nhuận bất hợp pháp của họ, họ phải che giấu càng kỹ càng tốt doanh thu của mình. Khả năng thâm nhập vào kinh doanh hợp pháp vừa giúp cho các nhóm tội phạm có tổ chức cơ hội để che giấu các khoản thu bất hợp pháp vừa giúp tạo một lớp vỏ hợp pháp trong cộng đồng để tránh sự nghi ngờ của người dân và sự phát hiện của cảnh sát. Tống tiền. Tội phạm có tổ chức thường xâm nhập vào kinh doanh hợp pháp thông qua tống tiền. Tống tiền là một hình thức chiếm đoạt thông qua sử dụng hoặc đe dọa sử dụng bạo lực để đạt được mục đích của tội phạm. Ví dụ, các thành viên nhóm tội phạm có tổ chức có thể nhấn mạnh rằng một nhà hàng nên sử dụng dịch vụ nào đó của họ và nếu từ chối thì sẽ bị tấn công, mặc
  • 27. 21 dù giá đắt cắt cổ có thể được áp dụng trong hầu như tất cả các lĩnh vực hoạt động của tội phạm có tổ chức. Hoạt động này thường liên quan đến cho vay nặng lãi và mối đe dọa sử dụng bạo lực đối với những người không trả được nợ cho tổ chức tội phạm một cách kịp thời. Tham nhũng. Tham nhũng là một loại hành vi khác của tội phạm có tổ chức. Thật vậy, không có sự trợ giúp lén lút của các cán bộ thực thi pháp luật, thẩm phán, công tố viên, thị trưởng, cán bộ ngân hàng, luật sư, kế toán, và những chính trị gia được bầu và bổ nhiệm ở tất cả các cấp chính quyền, các nhóm tội phạm có tổ chức không thể phát triển được. Sơ đồ 1.2: Nhóm tội phạm NHÓM TỘI PHẠM Đại diện cho cốt lõi của nhóm tội phạm có tổ chức, các nhóm tội phạm được tạo thành từ những người sử dụng các phương thức tội phạm và bạo lực và sẵn sàng hối lộ để đạt được quyền lực và lợi nhuận. Sau đây là những đặc điểm của nhóm tội phạm [9, p. 40-42]. HỖ TRỢ XÃ HỘI Lãnh đạo cộng đồng Chủ doanh nghiệp Công nghiệp giải trí HỖ TRỢ CỦA NGƢỜI DÙNG Người sử dụng ma túy Người bảo kê mại dâm Người mua hàng ăn trộm NHÓM TỘI PHẠM Những thành viên then chốt NHỮNG NGƢỜI BẢO VỆ Luật sư Nhân viên ngân hàng Doanh nhân TRỢ GIÚP CHUYÊN SÂU Dịch vụ theo hợp đồng
  • 28. 22 • Tính liên tục. Nhóm nhận mục đích cụ thể trong một khoảng thời gian và hiểu rằng tổ chức này sẽ tiếp tục hoạt động vượt ra ngoài cuộc sống của các thành viên cá nhân. Nhóm này cũng nhận ra rằng lãnh đạo sẽ thay đổi theo thời gian, các thành viên của nhóm làm việc để đảm bảo rằng nhóm tiếp tục, và lợi ích cá nhân của thành viên phụ thuộc vào lợi ích của nhóm. • Cơ cấu. Các nhóm tội phạm có cấu trúc như cơ quan phụ thuộc lẫn nhau phân cấp bố trí dành cho việc hoàn thành một chức năng cụ thể. Điều này có nghĩa rằng nhóm có thể có cấu trúc chặt chẽ, như La Cosa Nostra ở Mỹ, hoặc cực kỳ linh hoạt, như các tập đoàn ma túy Colombia. Trong mọi trường hợp, nó được tổ chức phân cấp dựa trên sức mạnh và quyền lực. • Thành viên. Các thành viên nhóm tội phạm dựa trên một đặc điểm chung, chẳng hạn như dân tộc, chủng tộc, bối cảnh phạm tội (ví dụ nhóm những người tù), hoặc lợi ích chung. Thành viên tiềm năng của nhóm phải chứng minh lòng trung thành của họ đối với nhóm. Trong hầu hết các trường hợp, thành viên được yêu cầu một cam kết suốt đời. Quy định thành viên bao gồm bí mật, sẵn sàng có hành động vì nhóm, và ý định để bảo vệ nhóm. Đổi lại, các thành viên nhận được lợi ích từ nhóm như sự bảo vệ, uy tín, cơ hội cho các lợi ích kinh tế. • Hoạt động phạm tội. Như bất cứ ngành nào, tổ chức tội phạm theo đuổi mục tiêu lợi nhuận theo các cách thức được xác định rõ. Các nhóm tội phạm dựa trên việc tiếp tục hoạt động phạm tội để tạo ra thu nhập. Một số hoạt động, chẳng hạn như cung cấp hàng hóa và dịch vụ bất hợp pháp, thu được lợi nhuận trực tiếp, các hoạt động khác như giết người, tống tiền và hối lộ, được sử dụng để đảm bảo khả năng của nhóm để kiếm tiền và đạt được quyền lực. Một số nhóm tham gia vào một số hoạt động kinh doanh bất hợp pháp, chẳng hạn như buôn bán ma túy. Nhiều nhóm tội phạm cũng tham gia vào các doanh nghiệp kinh doanh hợp pháp để rửa tiền.
  • 29. 23 • Bạo lực. Bạo lực và đe dọa bạo lực là những công cụ không thể thiếu của nhiều nhóm tội phạm. Cả hai đều được sử dụng như một phương tiện để kiểm soát và bảo vệ các thành viên và phải là thành viên liên quan đến bảo vệ quyền lợi của tổ chức. Khi lợi ích của tổ chức đang bị đe dọa, giết người là phương thức phổ biến. Bạo lực có thể được sử dụng hoặc để bịt miệng nhân chứng tiềm năng hoặc để trừng phạt những người gây nguy hại cho tổ chức như một lời cảnh báo cho những người khác. • Quyền lực và lợi nhuận. Các thành viên của nhóm tội phạm được thống nhất trong hoạt động cho quyền lực của nhóm, kết quả là lợi nhuận. Quyền lực chính trị được thực hiện bằng cách làm hư hỏng các công chức. Nhóm có thể duy trì quyền lực của mình thông qua sự kết hợp với bảo vệ hình sự. Nhóm hỗ trợ bảo vệ bao gồm các quan chức tham nhũng, các doanh nhân, các thẩm phán, luật sư, tư vấn tài chính, và những cá nhân (hoặc tập thể) bảo vệ quyền lợi cho các nhóm tội phạm bằng cách lạm dụng quyền hạn của mình. Kết quả trực tiếp của những nỗ lực của nhóm bảo vệ là các nhóm tội phạm được cách ly khỏi các hành động của chính phủ cả về hình sự và dân sự. Thành phần này của tội phạm có tổ chức đại diện cho những gì mà cả cảnh sát và các thành viên của nhóm tội phạm đã được gọi là lợi thế mà tổ chức tội phạm có hơn doanh nghiệp hợp pháp. Tham nhũng, công cụ trung tâm của bảo vệ, dựa trên một mạng lưới các quan chức tham nhũng, người bảo vệ nhóm tội phạm từ hệ thống tư pháp hình sự. Một ví dụ về tham nhũng này là một nhân viên thực thi pháp luật cung cấp cho những người buôn bán ma túy về thông tin nội bộ ngành về việc điều tra của cảnh sát. Một luật sư là người có thể dàn xếp sự đe dọa của các nhân chứng của chính phủ để họ sẽ thay đổi câu chuyện của họ. Kế toán trợ giúp các thành viên nhóm tội phạm bằng cách che giấu thu nhập của họ trong các tổ chức tài chính, các cơ sở cá độ cũng như các doanh nghiệp khác.
  • 30. 24 Nhóm chuyên gia hỗ trợ Các nhóm tội phạm và bảo vệ phụ thuộc nhiều vào những người có tay nghề cao được gọi là hỗ trợ chuyên môn. Những người này, chẳng hạn như phi công, các nhà hóa học, những kẻ chuyên đốt phá, và không tặc, cung cấp dịch vụ theo hợp đồng để tạo điều kiện cho các hoạt động phạm tội có tổ chức. Không giống như các thành viên của nhóm tội phạm và những người bảo vệ, người hỗ trợ chuyên môn không chia sẻ một cam kết mục tiêu của nhóm, nhưng vẫn được coi là một phần của tội phạm có tổ chức. Sự hỗ trợ của khách hàng Một thành phần quan trọng trong sự thành công của tổ chức tội phạm là sự hỗ trợ của khách hàng. Nhóm này bao gồm những người mua hàng hóa bất hợp pháp và sử dụng các dịch vụ của tổ chức tội phạm, chẳng hạn như người sử dụng ma túy, nhà cái môi giới cá độ, các nhà thổ, và những người cố tình mua hàng hóa bị đánh cắp. Những ngƣời ủng hộ xã hội Người (tổ chức) thuộc nhóm hỗ trợ xã hội trao cho tổ chức tội phạm quyền lực và nhận thức về tính hợp pháp của tổ chức tội phạm nói chung và cho các thành viên cụ thể của nhóm tội phạm. Ví dụ như các chính trị gia thu hút sự hỗ trợ các nhân vật của tội phạm có tổ chức, lãnh đạo doanh nghiệp làm kinh doanh với tổ chức tội phạm, những lãnh đạo xã hội và cộng đồng mời các thành viên của tổ chức tội phạm vào các cuộc tụ họp xã hội. Cũng như các nhóm tội phạm được tạo thành từ các thành viên của tổ chức tội phạm, mỗi một loại người thuộc các danh mục trên cần được xem xét là thành viên và hoặc là cộng tác viên của tội phạm có tổ chức. Đúng là không có sự tham gia của bất kỳ của những nhóm người hỗ trợ trên thì tội phạm có tổ chức không thể phát triển thịnh vượng hay thành công trong xã hội.
  • 31. 25 Tóm lại, phạm tội có tổ chức là một dạng đồng phạm đặc biệt, thể hiện sự nguy hiểm cao bởi một nhóm người có sự câu kết chặt chẽ thông qua chính cơ cấu tổ chức (băng, nhóm, tổ chức, liên minh …) và sự bàn bạc, tính toán, phân công, lên kế hoạch nhằm thực hiện tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. 1.1.2. Các đặc điểm của phạm tội có tổ chức Luật hình sự Việt Nam coi “đồng phạm” là một hình thức đặc biệt của việc thực hiện tội phạm do tính chất nguy hiểm cho xã hội cao hơn các trường hợp phạm tội thông thường thì “phạm tội có tổ chức” lại là một hình thức đặc biệt của “đồng phạm” do có sự câu kết “chặt chẽ” của những người cùng thực hiện tội phạm. Mang tính chất là một dạng đồng phạm đặc biệt, “phạm tội có tổ chức” mang trong mình những đặc điểm chung của “đồng phạm” với những dấu hiệu pháp lý chung và bắt buộc. Khoản 1 Điều 20, Bộ luật hình sự Việt Nam quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Từ khái niệm “đồng phạm” là trường hợp có hai người trở lên cùng thực hiện tội phạm thì có thể cho rằng đồng phạm nói chung và phạm tội có tổ chức nói riêng là một thể thống nhất, không thể phân tách giữa những yếu tố chủ quan và nhân tố khách quan mà trong đó có các yếu tố quan trọng phản ánh bản chất như: có hai người trở lên tham gia, cùng chung hành động với nhau, cùng cố ý. Theo đó, đồng phạm đòi hỏi phải thỏa mãn “ba dấu hiệu khách quan và hai dấu hiệu chủ quan có tính đặc trưng và bắt buộc” [8, tr.137] và theo đó phạm tội có tổ chức cũng phải thỏa mãn các dấu hiệu này. Dấu hiệu khách quan về số lượng: “có sự tham gia của hai người trở lên vào việc thực hiện một tội phạm” [10, tr.252]. Đây là dấu hiệu bắt buộc, nếu thiếu dấu hiệu về số lượng người tham gia thực hiện tội phạm (từ 02 người trở lên) thì không cấu thành đồng phạm mà chỉ là trường hợp phạm tội
  • 32. 26 riêng lẻ và hậu quả phạm tội là do hành động và ý chí độc lập của một cá nhân gây nên. Trong đồng phạm yêu cầu mỗi người đều phải có hành vi tham gia vào việc thực hiện tội phạm gây nguy hiểm đáng kể cho xã hội bị coi là tội phạm. Dấu hiệu khách quan về sự cùng chung hành động của những người đồng phạm: không phải bất kỳ trường hợp có hai hay nhiều người cố ý cùng thực hiện hành vi tội phạm nào cũng được coi là đồng phạm, mà đồng phạm đòi hỏi sự nỗ lực chung của một số người, nghĩa là hành vi có tính chất nguy hiểm cho xã hội đáng kể của họ được thực hiện trong mối liên kết thống nhất, qua lại với nhau, hành vi của người này là điều kiện cần thiết cho hoạt động của người khác và hậu quả của hành vi phạm tội chính là kết quả chung của quá trình thực hiện tội phạm giữa những người đồng phạm. Hay nói một cách khác, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của mỗi người đồng phạm với hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Mối quan hệ nhân quả có thể mang tính chất trực tiếp như cung cấp cho người thục hành công cụ, phương tiện phạm tội,… hoặc biểu hiện gián tiếp thông qua nhận thức của người thực hiện như: xúi giục người thực hành, giúp đỡ họ thực hiện tội phạm [14, tr.45]. Có thể khẳng định: nếu không có mối quan hệ nhân quả nêu trên thì không xuất hiện đồng phạm (dấu hiệu khách quan về mối quan hệ nhân quả). Những dấu hiệu chủ quan trong đồng phạm bao gồm: có sự cố ý của những người tham gia thực hiện tội phạm và động cơ - mục đích trong đồng phạm. Đồng phạm phải do cùng thực hiện tội phạm với lỗi cố ý thể hiện trên hai phương diện: lý trí và ý chí. “Sự cùng cố ý phạm tội làm cho ý chí của những người đồng phạm được thống nhất với nhau và hành động phạm tội của mỗi người đều thống nhất trong sự chi phối chung của sự cùng cố ý phạm tội” [13, tr.149]. Về lý trí: mỗi người thực hiện hành vi phạm tội trong đồng phạm đều ý thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được tính chất nguy hiểm của tội phạm họ tham gia thực hiện và hậu quả nguy hiểm cho xã hội có
  • 33. 27 thể xảy ra, đồng thời những người đồng phạm đều phải biết và muốn những người đồng phạm khác có cùng hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình. Nếu chỉ biết mình có hành vi nguy hiểm cho xã hội mà không biết người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội như mình thì chưa phải là đồng phạm, mà cấu thành tội phạm độc lập khi thỏa mãn các yếu tố theo luật định. Về ý chí: những người đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động phạm tội chung, mong muốn hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra tuy rằng nhận thức được những hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình. Dấu hiệu chủ quan về động cơ – mục đích: đối với những tội phạm mà động cơ và mục đích là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, thì những người phạm tội phải có cùng động cơ, mục đích còn nếu không cùng động cơ mục đích thì sẽ không có đồng phạm và trong trường hợp đó những người tham gia sẽ chịu trách nhiệm hình sự độc lập. Ngoài những dấu hiệu mang tính chất của đồng phạm đã nêu trên, phạm tội có tổ chức còn mang các nét đặc biệt so với đồng phạm nói chung. Phạm tội có tổ chức không thể là trường hợp đồng phạm đơn giản, vì nếu không có sự phân công vai trò thì không thể hiện được “tính có tổ chức” của loại đồng phạm đặc biệt này. Cũng không thể đánh đồng phạm tội có tổ chức với đồng phạm có thông mưu trước. Phạm tội có tổ chức và đồng phạm có thông mưu trước là hai khái niệm không hoàn toàn đồng nhất. Nội hàm của khái niệm phạm tội có tổ chức chứa đựng những dấu hiệu của đồng phạm có thông mưu và một số yếu tố khác. Nếu xét về tính chất cấu kết cũng như mức độ nguy hiểm cho xã hội thì phạm tội có tổ chức có sự cấu kết chặt chẽ hơn và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn hẳn. Điều này cho thấy: phạm tội có tổ chức luôn là hình thức đồng phạm có thông mưu trước ở mức độ cao. Đồng phạm có tổ chức có những đặc điểm cơ bản sau đây [11, tr.180-181]: - Nhóm tội phạm trước hết phải có thông mưu trước, nhưng ngoài sự
  • 34. 28 bàn bạc, thỏa thuận trước về việc cùng thực hiện tội phạm, những người đồng phạm thường chuẩn bị thực hiện và che giấu tội phạm một cách kỹ lưỡng với phương pháp, thủ đoạn thường tinh vi, xảo quyệt. - Nhóm tội phạm được hình thành với phương hướng hoạt động có tính chất lâu dài, bền vững, thường có sự phân công vai trò thực hiện tội phạm khác nhau giữa những người đồng phạm nhằm thực hiện nhiều tội, phạm tội nhiều lần. - Nhóm tội phạm ngoài ý đồ phạm tội thống nhất, phải có sự phối hợp hoạt động giữa các thành viên trong nhóm. Mỗi thành viên trong nhóm chịu sự điều hành chung thống nhất, đều thừa nhận và sử dụng nhóm phạm tội như là một công cụ trong hoạt động phạm tội của mình. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Sự câu kết chặt chẽ này thể hiện ở “tính có tổ chức chặt chẽ” và tính “có kế hoạch thống nhất” trong hành vi phạm tội. Nghĩa là có sự liên kết giữa các cá nhân cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm mà trong đó có sự phân hóa vai trò, phân công nhiệm vụ tương đối rõ rệt, cụ thể và hoạt động lâu dài, bền vững hoặc linh hoạt với những mục đích nhất định theo kế hoạch đã thống nhất trước. Vì thế tính chất, mức độ nguy hiểm của dạng đồng phạm này cao hơn các dạng đồng phạm thông thường khác (đồng phạm đơn giản - đồng phạm phức tạp, hay đồng phạm không có thông mưu trước – đồng phạm có thông mưu trước). Tính chất của sự câu kết chặt chẽ trong hình thức phạm tội có tổ chức thường được đánh giá bởi một số yếu tố như sau: - Thời gian tồn tại của đồng phạm có tổ chức, - Mục đích, ý thức chủ quan của sự liên kết giữa các cá nhân, - Tính chất và mức độ chuẩn bị cho việc thực hiện tội phạm - Sự phân hóa vai trò, phân công nhiệm vụ,
  • 35. 29 - Tính chất chuyên nghiệp, - Phương pháp, thủ đoạn phạm tội và che giấu tội phạm. Trong phạm tội có tổ chức, những người đồng phạm có sự bàn bạc trước và có sự phân công thực hiện tội phạm, nhưng không phải bất cứ trường hợp nào có sự bàn bạc trước, có sự phân công thực hiện tội phạm đều là phạm tội có tổ chức. Giữa những người phạm tội trong việc thực hiện tội phạm phải có sự câu kết với nhau, có sự phân công vai trò nhiệm vụ cụ thể, có sự tính toán chuẩn bị kĩ càng và chu đáo cho việc thực hiện tội phạm. Việc phân công vai trò trong hình thức đồng phạm này là một dấu hiệu phổ biến nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc và duy nhất. Các điểm đặc trưng của phạm tội có tổ chức thể hiện cụ thể dưới các dạng trên thực tế. a. Hình thức phạm tội có tổ chức được thực hiện bởi những người đồng phạm đã tham gia vào một tổ chức tội phạm được hình thành (hoặc không tham gia vào một tổ chức nào) với “phương thức hoạt động có tính chất lâu dài, bền vững” [15, tr.267]. Khi họ có ý thức câu kết với nhau lâu dài và chặt chẽ thì đã bị coi là phạm tội có tổ chức mặc dù có thể họ mới chỉ thực hiện được một tội phạm hay đã thực hiện nhiều tội phạm. Vì thế, số lần phạm tội hay loại tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc của hình thức đồng phạm này. Trong mỗi tổ chức này có mối quan hệ chỉ huy – phục tùng, có sự phân công vai trò cụ thể của những người đồng phạm. Mỗi người đồng phạm đều phục tùng tổ chức, thực hiện kế hoạch chung và chịu sự điều khiển thống nhất của những kẻ cầm đầu, chỉ huy; đều coi và sử dụng tổ chức tội phạm như một công cụ trong hoạt động phạm tội của mình. Cũng có thể tổ chức tội phạm không có kẻ chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập hợp, liên kết của nhiều tên tội phạm để cùng thống nhất thực hiện hoạt động phạm tội. b. Những người đồng phạm với mục đích cùng nhau phạm tội nhiều lần hoặc liên tục; gây ra những hậu quả nghiêm trọng, hoặc đặc biệt nghiêm trọng
  • 36. 30 cho xã hội đồng thời dễ dàng che giấu dấu vết phạm tội hay lẩn tránh sự điều tra của các cơ quan bảo vệ pháp luật. c. Những người đồng phạm thực hiện tội phạm một theo một kế hoạch thống nhất có tính toán kĩ lưỡng, chu đáo, chuẩn bị về mọi mặt, có kế hoạch nhằm che giấu tội phạm. Nhìn về tổng thể thì phạm tội có tổ chức được chứa đựng tổng hợp những đặc trưng mang tính tương đối nhưng có mối liên hệ lẫn nhau trong cơ cấu, mà rõ ràng là tính có tổ chức được coi là chủ đạo. Từ cách nhìn nhận này thì phạm tội có tổ chức có thể là các cá nhân cá mối liên hệ chặt chẽ được hình thành với các dấu hiệu sau: - Người tổ chức (người lãnh đạo, người đứng đầu, bố già) hoặc nhân tố lãnh đạo; - Cơ cấu tổ chức theo thứ bậc nhất định, phân tách rõ ràng giữa lãnh đạo với người trực tiếp thực hiện; - Ở một chừng mực nào đó phân định rõ ràng vai trò (chức năng) thực hiện những nhiệm vụ cụ thể; - Kỷ luật rất nghiêm khắc với việc tuân lệnh tuyệt đối theo chiều dọc dựa trên những quy định và luật lệ riêng, ví dụ như luật im lặng; - Hệ thống hình phạt rất nặng, thậm chí trừ khử những người phản bội; - Có quỹ tài chính để giải quyết những nhiệm vụ chung; - Thu thập những thông tin trên các lĩnh vực mang lại lợi ích và an toàn của hoạt động phạm tội; - Vô hiệu hóa bằng cách mua chuộc, hối lộ những cơ quan bảo vệ pháp luật và các cơ quan nhà nước khác nhằm thu nhận được những thông tin, sự trợ giúp và bảo vệ cần thiết; - Sử dụng rất chuyên nghiệp những cơ sở kinh tế - xã hội, cũng như các cơ sở có nền tảng nhà nước hoạt động trong nước cũng như quốc tế với mục đích tạo ra lớp vỏ bọc hợp pháp cho những hoạt động phạm tội của mình;
  • 37. 31 - Lan truyền tin đồn đáng sợ về sức mạnh và quyền lực của mình, điều này mang lại cho tổ chức tội phạm lợi ích nhiều hơn là thiệt hại, vì chúng làm mất tinh thần nhân chứng, nạn nhân, nhân viên của các phương tiện truyền thông, cũng như của các cơ quan bảo vệ pháp luật, cổ vũ tinh thần cho những người thực hành cốt cán; - Tạo ra cơ cấu quản lý sao cho người cầm đầu không phải trực tiếp tổ chức hoặc thực hiện những tội phạm cụ thể. Điều này hoàn toàn có lợi bởi: người đứng đầu thì tránh khỏi trách nhiệm, và sự liên quan của những người thực hành không phá vỡ tổ chức và mang lại sự trợ giúp cần thiết cho những “vùng tổn thương”; - Thực hiện bất cứ hành vi phạm tội nào để đạt được mục đích lợi nhuận và kiểm soát lĩnh vực và địa bàn mang lại lợi nhuận và sự an toàn. Những dấu hiệu liệt kê trên [16, c.547] có thể biểu hiện ở các mức độ khác nhau, và trong một số cơ cấu có thể thiếu dấu hiệu này hay dấu hiệu kia, nhưng hợp lại với nhau thì chúng phản ánh những đặc trưng của phạm tội có tổ chức. 1.2. Lịch sử hình thành và phát triển những quy định về phạm tội có tổ chức trong Luật hình sự Việt Nam 1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 Phạm tội có tổ chức được đề cập lần đầu tiên trong Thông tư số 442/TTG ngày 19/11/1955 của Thủ tướng Chính phủ về việc trừng trị một số tội phạm. Trong Thông tư này, phạm tội có chức được gọi là “Cướp đường hay trộm có tổ chức”, “đánh bị thương có tổ chức”. Tuy nhiên, trong thông tư này, thế nào là tính “có tổ chức” lại không được giải thích. Pháp lệnh ngày 21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm sở hữu Xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh ngày 21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm sở hữu riêng của công
  • 38. 32 dân, trường hợp phạm tội có tổ chức được ghi nhận là một tình tiết tăng nặng định khung hình phạt và không có một định nghĩa cụ thể, rõ ràng nào. Đây là điều gây ra những khó khăn cho các cơ quan áp dụng pháp luật khi vận dụng hai Pháp lệnh trên vào thực tiễn. Với tình hình thực tế như trên, các ngành Công an, Kiểm sát, Tòa án đã dự thảo Thông tư ngày 16/03/1973 hướng dẫn nhân thức một cách thống nhất về hai Pháp lệnh này. Khái niệm phạm tội có tổ chức được định hướng nhận thức trong thông tư như sau: Phải xuất phát từ đặc điểm, tình hình phạm tội ở nước ta mà hiểu như thế nào là phạm tội có tổ chức. Đây là một hình thức cộng phạm của hai hay nhiều người trong đó có một số tên cầm đầu hoặc đóng vai trò cầm đầu, cùng bàn bạc trước việc thực hiện một hoặc nhiều tội phạm nào đó, thủ đoạn phạm tội thường là tinh vi, xảo quyệt, vai trò của từng tên phân công giữa bọn chúng có thể không dứt khoát rõ ràng hoặc lợi dụng hay nấp dưới danh nghĩa một tổ chức công khai để bàn bạc về việc thực hiện một tội phạm, hoặc có khi chúng không bàn bạc nhau trước nhưng do quan hệ công tác hàng ngày nên hiểu ý đồ nhau rồi cùng hành động phạm tội, mặc nhiên câu kết chặt chẽ. Cần chú ý phân biệt hình thức phạm tội có tổ chức với hình thức cộng phạm thông thường trong đó không có sự bàn bạc, phân công chặt chẽ trước, không có vai trò cầm đầu chủ chốt, thủ đoạn phạm tội đơn giản. Như vậy, theo dự thảo Thông tư này, phạm tội có tổ chức đã được giải thích theo chiều hướng nhấn mạnh tính câu kết và tính phân công vai trò. Theo đó, phạm tội có tổ chức là một hình thức cộng phạm của hai hay nhiều người, trong đó có sự phân công vai trò giữa những người cộng phạm, có người cầm đầu, chỉ huy, có sự bàn bạc thống nhất trước khi thực hiện một hay nhiều tội phạm và thủ đoạn thực hiện hành vi phạm tội thường tinh vi, xảo quyệt.
  • 39. 33 1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 Khác với khái niệm tổ chức tội phạm và khái niệm tội phạm có tổ chức chưa được chính thức ghi nhận về mặt pháp lý, sau nhiều lần pháp điển hóa, khái niệm phạm tội có tổ chức đã được quy định tại khoản 3 Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 1985: “Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”. Tình tiết phạm tội có tổ chức không những được quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại Điều 39 Bộ luật Hình sự năm 1985, mà còn được quy định là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt tại nhiều điều luật trong Bộ luật Hình sự năm 1985. Từ khái niệm phạm tội có tổ chức nói trên cho thấy, đây là phương thức phạm tội đặc biệt để phân biệt với phương thức phạm tội riêng lẻ hoặc với các phương thức phạm tội dưới các hình thức đồng phạm khác. Việc Bộ luật hình sự chính thức ghi nhận định nghĩa pháp lý “phạm tội có tổ chức” đã đánh dấu một bước ngoặt trong sự phát triển về kĩ thuật lập pháp Hình sự, thể hiện thái độ nghiêm khắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc đấu tranh với hình thức đồng phạm đặc biệt nguy hiểm này. Tuy nhiên, định nghiã này vẫn chưa làm rõ được cụm từ “câu kết chặt chẽ” nên mang tính trừu tượng, chung chung dẫn đến những quan điểm, nhận định không thống nhất giữa các cơ quan áp dụng pháp luật. Chính vì lý do đó, sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời lần đầu tiên quy định định nghĩa pháp lý về “phạm tội có tổ chức”, ngày 16/11/1988 Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ra Nghị quyết hướng dẫn bổ sung Nghị quyết 02/HĐTP ngày 05/01/1986 đã giải thích nội dung của tình tiết “phạm tội có tổ chức”. Hiện nay, xung quanh khái niệm này vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về bản chất pháp lý của vấn đề này. Mặc dù vậy, đến nay vẫn chưa có thêm một văn bản pháp lý nào giải thích về khái niệm này sau Nghị quyết 02/HĐTP (1988).
  • 40. 34 Bộ luật hình sự năm 1985 khi mới ban hành, chỉ có 29 điều luật quy định phạm tội có tổ chức là tình tiết tàng nặng định khung hình phạt [17, tr.166-167]. Lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 1989, đã bổ sung Điều 96a, trong đó tình tiết phạm tội có tổ chức được quy định tại điểm a khoản 2 của Điều này. Lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 1991, số lượng tình tiết phạm tội có tổ chức là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt không thay đổi, nhưng đến lần bổ sung, sửa đổi năm 1992, được bổ sung vào 3 điều luật: Điều 174, Điều 221 và Điều 224. Lần sửa đổi, bổ sung năm 1997, phạm tội có tổ chức đã trở thành tình tiết tăng nặng định khung hình phạt của nhiều tội hơn. Ngoài 10 điều luật (Điều 185a, b, c, d, đ, e, g, h, m, n) là các điều thay thế Điều 96a của Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 1989, còn có 7 điều khác quy định phạm tội có tổ chức là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt (Điều 112a, 133, 134a, 137a, 156, 221a, 228a). Như vậy, trong Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 1997, có tổng cộng 49 điều luật quy định phạm tội có tổ chức là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt. Trong một số điều luật cũng có sự sửa đổi về vị trí của tình tiết phạm tội có tổ chức như tình tiết có tổ chức được tách thành một tình tiết riêng quy định ở điểm a khoản 2 Điều 112; tình tiết có tổ chức từ chỗ được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 224 trong Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 1992, được quy định thành tình tiết đầu tiên (điểm a) của khoản 2 Điều này. 1.3. Phạm tội có tổ chức trong Bộ luật hình sự một số nƣớc trên thế giới 1.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga Trước Bộ luật hình sự hiện hành của Liên bang Nga năm 1996, khái niệm nhóm tội phạm có tổ chức, theo Nghị quyết của Hội đồng Tòa án tối cao Liên bang Nga ban hành ngày 25 tháng 4 năm 1995 “Một số vấn đề áp dụng pháp luật của tòa án về trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu”, tại khoản 4 hướng dẫn như sau:
  • 41. 35 Nhóm có tổ chức được hiểu là nhóm có cơ cấu chặt chẽ của hai hay nhiều người, liên kết với nhau nhằm thực hiện một hoặc một vài tội phạm. Nhóm này, về nguyên tắc, đặc trưng bởi tính tổ chức, tính kế hoạch ở mức độ cao, sự công phu chuẩn bị tội phạm và có phân chia vai trò giữa những người đồng phạm [18, c.14]. Tuy nhiên, thật đáng tiếc là với sự hướng dẫn trên về tổng thể thì cách tiếp cận xem xét hiện tượng này như vậy chưa đáp ứng được thực tiễn áp dụng pháp luật trong bối cảnh tội phạm tràn ngập lúc bấy giờ. Do đó, vào năm 1995 Đuma quốc gia Liên bang Nga đã soạn thảo và đưa ra xem xét dự thảo Luật Liên bang “Luật đấu tranh phòng, chống tội phạm có tổ chức”. Lần đầu luật này không được Hội đồng Liên bang thông qua. Cũng trong năm 1995, Đuma quốc gia Nga một lần nữa trình dự thảo Luật liên bang này và lần này Hội đồng liên bang đã thông qua. Tuy nhiên, ngày 22 tháng 12 năm 1995 dự thảo luật này, dựa vào nguyên nhân không khách quan về khả năng vi phạm quyền con người khi áp dụng, đã bị cựu tổng thống Nga Boris Elsin phủ quyết. Trong dự thảo luật này, tội phạm có tổ chức được định nghĩa là việc lập ra các cơ cấu tội phạm có tổ chức ở ba mức độ (nhóm tội phạm, tổ chức tội phạm, liên minh tội phạm) và hoạt động phạm tội của các cơ cấu này. Dự thảo luật cũng quy định hàng loạt các vấn đề quan trọng về đấu tranh phòng, chống tội phạm có tổ chức như: trách nhiệm hình sự đối với việc thành lập tổ chức tội phạm và liên minh tội phạm, cũng như lãnh đạo và tham gia vào đó; các cấu thành tội phạm đặc trưng có liên quan đến tội phạm có tổ chức; đặc điểm của một số chế định pháp lý hình sự liên quan đến các biện pháp pháp lý, hệ thống các cơ quan thực hiện đấu tranh chống tội phạm có tổ chức, thẩm quyền đặc biệt của các cơ quan này cũng như đặc thù của việc thực hiện các biện pháp điều tra nghiệp vụ. Cần nhận thức rằng việc áp dụng luật, chẳng hạn như áp dụng các biện pháp pháp lý hình sự của các cơ quan bảo vệ pháp luật để bảo vệ xã hội khỏi sự
  • 42. 36 xâm hại của tội phạm, dưới hình thức này hay hình thức khác đều có thể liên quan đến việc hạn chế quyền con người. Không chỉ riêng tại Nga, lý lẽ “có khả năng xâm hại quyền con người khi áp dụng luật” được đưa ra với tư cách là lời giải thích mị dân, nhằm mục đích phong tỏa những biện pháp cần thiết vì những lợi ích vụ lợi (thường là tội phạm) của những tầng lớp có liên quan trong xã hội. Trong quá trình hiện thực hóa các luật – các hoạt động nghiệp vụ hay tố tụng hình sự, lục soát, bắt, giam giữ người, hạn chế tự do v.v – về bản chất là vi phạm quyền con người. Tuy nhiên, do sự cần thiết khách quan, việc xâm phạm những quyền này được thực hiện với mục đích bảo đảm pháp chế và các quyền hiến định của số đông. Từ góc độ của nhận thức ngày nay về tình hình đất nước vào năm 1995, hoàn toàn thấy rõ “gia đình” tổng thống đã triệt để và quyết tâm loại bỏ những dự luật về đấu tranh phòng, chống tội phạm có tổ chức, tham nhũng và rửa tiền trước những cuộc bầu cử tổng thống thường kỳ, bảo vệ không phải quyền cho người bình thường mà là những lợi ích riêng cho chủ thể của nhóm tội phạm có tổ chức và tham nhũng [19, c.547]. Những người phản đối việc tội phạm hóa hoạt động phạm tội có tổ chức thể hiện sự tôn thờ, sùng bái với hệ tư tưởng dân chủ mới và e ngại việc quay lại quá khứ, dẫn chứng ví dụ về sự không hoàn thiện của pháp luật thời xô viết trước đây. Họ cảnh báo sự lộng hành của mafia, về khả năng quay trở lại sự áp bức mang tính độc tài… Dưới sức ép của thực tế đấu tranh phòng, chống tội phạm có tổ chức và những quan điểm xã hội, những điểm cơ bản của dự thảo luật bị “đóng băng” – Luật liên bang “Về đấu tranh phòng, chống tội phạm có tổ chức” – đã được đưa vào Bộ luật hình sự. Tại khoản 3 và 4 của Điều 35 thuộc phần chung Bộ luật hình sự quy định hai hình thức thể hiện của tội phạm có tổ chức như sau: Khoản 3. Hành vi phạm tội được coi là thực hiện bởi nhóm người có tổ chức, nếu như nó được thực hiện bởi một nhóm người có cơ cấu bền vững, được thành lập trước nhằm thực hiện một hay một số hành vi phạm tội.
  • 43. 37 Khoản 4. Hành vi phạm tội được coi là thực hiện bởi liên minh tội phạm (tổ chức tội phạm), nếu như nó được thực hiện bởi nhóm (tổ chức) được tổ chức chặt chẽ, được thành lập để thực hiện tội phạm nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, hoặc là sự liên kết của các nhóm có tổ chức, được thành lập cho mục đích đó. Đáng tiếc là một số khái niệm, xác định đặc điểm của hoạt động phạm tội có tổ chức, trong thực tiễn áp dụng pháp luật đến ngày nay vẫn chưa có cách hiểu thống nhất. Một trong những ví dụ là sự giải thích về khái niệm “bền vững”. Trong nghị quyết của Hội đồng Tòa án tối cao Liên bang Nga №1 ngày 17 tháng 1 năm 1997 “Về thực tiễn áp dụng pháp luật của các tòa án về trách nhiệm đối với hành vi thành lập hoặc tham gia các băng tội phạm có vũ trang” hướng dẫn “các băng có cơ cấu bền vững có thể nhận biết qua những dấu hiệu như sự ổn định trong hành vi của nó, tính thường xuyên trong hình thức và phương pháp của hoạt động tội phạm, thời gian tồn tại lâu dài và số lượng các hành vi phạm tội được thực hiện” [20, tr.137]. Trong mục 13 của Nghị quyết của Hội đồng Tòa án tối cao Liên Bang Nga №6 ngày 10 tháng 3 năm 2000 “Về thực tiễn xét xử các vụ án về hối lộ và đút lót thương mại” quy định “theo luật (Điều 35 Bộ luật hình sự) thì nhóm có tổ chức được xác định bởi tính bền vững, tính tổ chức ở mức độ cao hơn, sự phân chia vai trò, có người tổ chức và lãnh đạo” [21]. Tiếc là những giải thích này chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cũng như của giới khoa học, làm nảy sinh hàng loạt những tranh luận trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Tại phần chung của Bộ luật hình sự (Điều 35) đã đưa ra khái niệm nhóm tội phạm có tổ chức và liên minh tội phạm (tổ chức tội phạm). Tại phần riêng (Điều 210) đã tội phạm hóa hành vi: thành lập liên minh tội phạm (tổ chức tội phạm) nhằm thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, lãnh đạo liên minh (tổ chức) đó hoặc sát nhập vào nó những
  • 44. 38 nhánh tội phạm, và thậm chí thành lập liên kết của những người tổ chức, lãnh đạo hoặc đại diện của các nhóm có tổ chức nhằm lập kế hoạch và tạo điều kiện để thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Tại Khoản 2 Điều 210 quy định trách nhiệm hình sự đối với việc tham gia vào liên minh tội phạm (tổ chức tội phạm) hoặc vào liên kết những người tổ chức, lãnh đạo hoặc các đại diện của các nhóm có tổ chức. Thực hiện cũng những hành vi đó bởi người sử dụng vị trí công vụ của mình là cấu thành định tội. Hành vi thực hiện bởi nhóm có tổ chức là dấu hiệu định tội của 70 hành vi phạm tội. Ngoài ra, theo điểm “в” Điều 63 Bộ luật hình sự, hành vi phạm tội được thực hiện bởi nhóm tội phạm hoặc liên minh tội phạm (tổ chức tội phạm) được coi là tình tiết tăng nặng. Tại phần riêng Bộ luật hình sự có 6 điều (Điều 210 – Tội tổ chức liên minh tội phạm; Điều 208 – Tội tổ chức nhóm vũ trang trái pháp luật hoặc tham gia vào đó; Điều 209 – Tội thành lập hoặc tham gia vào băng có vũ trang; Điều 232 – Tội tổ chức hay chứa chấp làm tụ điểm để sử dụng các chất ma túy hoặc các chất hướng thần; Điều 239 – Tội tổ chức các liên kết, xâm hại đến nhân phẩm và quyền của công dân; Điều 241 – Tội tổ chức hành nghề mại dâm), quy định trách nhiệm đối với những hoạt động tổ chức mang tính đặc thù đó. Các dạng của tội phạm không phải là bất biến mà luôn vận động thay đổi theo sự vận động, biến đổi của xã hội. Chính vì vậy mà công việc tội phạm hóa và phi tội phạm hóa cũng cần được thường xuyên tiến hành theo sự biến đổi trên. Theo đó thì nhóm những quy phạm về trách nhiệm hình sự đối với những hoạt động phạm tội có tổ chức cần thường xuyên được tội phạm hóa để đáp ứng thực tiễn đấu tranh chống tội phạm có tổ chức – loại tội phạm luôn biến đổi hết sức linh hoạt theo không gian và thời gian. Năm 2003, hai điều luật mới đã được đưa vào Bộ luật hình sự: Điều 2821 – Tội tổ chức liên minh cực đoan; Điều 2822 – Tội tổ chức hoạt động của tổ chức cực đoan. Năm 2004, nhóm các điều luật này được bổ sung thêm