SlideShare a Scribd company logo
1 of 108
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ NGỌC SINH
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ NGỌC SINH
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt
HÀ NỘI - 2015
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
Vò Ngäc Sinh
4
MỞ ĐẦU
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
9
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam
9
1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của quyết định hình phạt 9
1.1.2. Khái niệm và ý nghĩa của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam
13
1.2. Những nguyên tắc của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của Bộ Luật hình sự Việt Nam
16
1.2.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa 17
1.2.2. Nguyên tắc công bằng 19
1.2.3. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa 20
1.2.4. Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt 22
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định về
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
trong luật hình sự Việt Nam từ năm 1985 đến nay
24
1.3.1. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1985 đến năm 1999
24
1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999 đến nay
28
1.4. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới
30
5
1.4.1. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
30
1.4.2. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
Liên bang Nga
31
1.4.3. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
Nhật Bản
33
1.4.4. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
Thụy Điển
34
Chương 2: QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
37
2.1. Căn cứ quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam
37
2.1.1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm đã thực hiện
37
2.1.2. Căn cứ vào nhân thân người phạm tội 39
2.1.3. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm
hình sự
42
2.1.4. Căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của Bộ luật hình sự
43
2.2. Nội dung quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật
hình sự
44
2.2.1. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
đối với người chưa thành niên phạm tội
47
2.2.2. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
đối với các giai đoạn phạm tội và đồng phạm
48
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam trên địa bàn thành phố Hải Phòng
58
2.3.1. Khái quát tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của
thành phố Hải Phòng
58
6
2.3.2. Tình hình áp dụng quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
Bộ luật hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng
60
2.4. Một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản 69
2.4.1. Một số tồn tại, hạn chế 69
2.4.2. Nguyên nhân 72
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYẾT
ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
74
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng
quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ
luật hình sự
74
3.1.1. Về mặt thực tiễn 74
3.1.2. Về mặt lý luận 75
3.1.3. Về mặt lập pháp 76
3.2. Hoàn thiện quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam
77
3.2.1. Nhận xét chung 77
3.2.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung 78
3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về quyết
định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
80
3.3.1. Giải pháp nâng cao năng lực, chất lượng đội ngũ Thẩm phán 83
3.3.2. Giải pháp nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội
ngũ Hội thẩm nhân dân
89
3.3.3. Giải pháp tăng cường vai trò kiểm sát, giám sát việc quyết
định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
91
3.3.4. Giải pháp về bồi dưỡng, tập huấn, hướng dẫn quy định về
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
92
KẾT LUẬN 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Bảng tổng hợp số liệu trong giai đoạn 8 năm (2007-2014)
về xét xử sơ thẩm, phúc thẩm của hai cấp xét xử của Tòa
án nhân dân thành phố Hải Phòng
60
2.2 Bảng tổng hợp số liệu trong giai đoạn 8 năm (2007-2014)
về áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự đối với hai cấp xét xử
của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
62
2.3 Bảng tổng hợp số liệu trong giai đoạn 8 năm (2007-2014)
về áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự đối với người chưa
thành niên, trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa
đạt, đồng phạm
63
2.4 Bảng tổng hợp số liệu trong giai đoạn 8 năm (2007-2014)
về áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự đối với các hình phạt
cải tạo không giam giữ, hình phạt cho hưởng án treo,
hình phạt tù không cho hưởng án treo
65
3.1 Bảng kiến nghị sửa đổi quy định quyết định hình phạt
nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
79
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật hình sự là cơ sở pháp lý chủ yếu và quan trọng nhất của Nhà
nước pháp quyền Việt Nam - con đường mới, đúng đắn, tất yếu và có tính quy
luật cho sự phát triển của xã hội Việt Nam trong thế kỷ XXI đã được khởi
xướng tại Đại hội Đảng lần thứ VIII (năm 1996) và tiếp tục được khẳng định
tại Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) để đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; duy trì trật tự an
toàn xã hội, trật tự quản lý kinh tế; tích cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở
cho tiến trình đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, bảo đảm cho mọi
người được sống trong môi trường xã hội và sinh thái an toàn, lành mạnh,
mang tính nhân văn cao.
Pháp luật và chính sách hình sự của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam còn hướng tới bảo đảm sự hài hòa và tương quan, đồng thuận
và công bằng trong đánh giá hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các
tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự; giữa việc cần thiết hay
không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt nghiêm
khắc với việc cần thiết hay không cần thiết áp dụng hình phạt nhẹ hơn quy định
mà vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, cũng như
công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội; giữa những chế tài pháp lý hình sự
với các biện pháp tác động xã hội; giữa yêu cầu bảo đảm tính hướng thiện, nhân
đạo trong xử lý người phạm tội với sự lên án, phê phán của dư luận xã hội.
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân người phạm
tội là những yếu tố phản ánh khả năng cải tạo của người phạm tội để tìm ra
2
biện pháp xử lý về hình sự có thể trong giới hạn đủ cần thiết vừa đạt được
mục đích của hình phạt là nhằm cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành
người có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật, các quy tắc của cuộc
sống chung. Theo ý nghĩa này, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải
là những tình tiết phản ánh khả năng cải tạo tốt của người phạm tội thể hiện
thông qua thái độ thành thực hối lỗi về việc thực hiện tội phạm, có quan hệ tốt
với cộng đồng, gia đình, có ý thức lao động, tinh thần sẵn sàng chịu trách
nhiệm, quyết tâm cải tạo phục thiện, v.v… Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự phản ánh mức độ thực hiện tội phạm chưa trọn vẹn do nguyên nhân
khách quan hoặc do sự tự nguyện của người phạm tội; tác hại của tội phạm
gây ra không lớn hoặc đã được khắc phục, mức độ lỗi hạn chế do người phạm
tội là người có bệnh bị hạn chế về khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi, là người phạm tội trong tình trạng tinh thần bị kích động vì
hành vi trái pháp luật của người khác, là người chưa thành niên… Đó là
những tình tiết có khả năng làm giảm đi mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội.
Khi quy định hình phạt trong khâu lập pháp và nhất là khi Tòa án
quyết định hình phạt, cần tính đến để có biện pháp hạn chế đến mức có thể
những hậu quả phụ của hình phạt đối với những người không gây ra hành vi
phạm tội nhưng vì lẽ này hay lẽ khác có mối liên hệ với người phạm tội chính
là cơ sở mà pháp luật hình sự Việt Nam quy định tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự vì lý do nhân đạo.
Việc cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
để quy định khung hình phạt đối với các nhà làm luật bao giờ cũng mang tính
khái quát và không thể có điều kiện để tính hết và quy định hết tất cả các
trường hợp phạm tội khác nhau để quy định những hình phạt tương ứng đối với
từng trường hợp phạm tội có thể xảy ra trên thực tế. Để tăng khả năng lựa chọn
của Tòa án khi quyết định hình phạt đối với những trường hợp phạm tội cụ thể
3
khác nhau và nhằm bảo đảm sự công bằng và mục đích của hình phạt "nghiêm
trị kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục", pháp
luật hình sự Việt Nam quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
Bộ luật hình sự.
Với những lý do nêu trên, học viên quyết định lựa chọn đề tài: "Quyết
định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự
Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hải Phòng" làm
Luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự là
một trường hợp quyết định hình phạt đặc biệt có ảnh hưởng rất quan trọng
đến chính sách xử lý hình sự, ảnh hưởng đến cơ quan Tòa án áp dụng và cá
nhân người phạm tội. Một số quy định của Bộ luật hình sự nói chung cũng
như quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự vẫn còn một số bất cập, hạn chế,
làm ảnh hưởng đến sự thống nhất, hiệu quả áp dụng quy định pháp luật và
chưa đảm bảo mục đích hình phạt đối với người phạm tội.
Do quyết định hình phạt có vị trí, vai trò quan trọng trong luật hình sự,
nên có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau,
những khía cạnh, phương diện khác nhau về quyết định hình phạt và trách
nhiệm hình sự, trong đó có quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật
hình sự trong luật hình sự Việt Nam, cụ thể như sau:
* Dưới góc độ sách chuyên khảo, tham khảo, giáo trình có một số
công trình như: 1) PGS.TS. Trịnh Quốc Toản: Chương XVI - Quyết định hình
phạt, Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản năm 2003, 2007 (GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên);
2) PGS.TS. Lê Văn Đệ: Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình
sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010; 3) PGS.TS. Dương Tuyết
Miên: Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội,
4
2007; 4) ThS. Đinh Văn Quế: Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình phạt
trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000; v.v...
* Dưới góc độ khóa luận, luận văn, luận án tiến sĩ luật học có một số
công trình như: 1) Trần Thị Thu Hà: Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của Bộ luật hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt
nghiệp, Hà Nội, 2005; 2) Lê Xuân Lục: Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của Bộ luật hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ
luật học, 2013, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
* Một số bài viết trên các tạp chí khoa học pháp lý như: 1) GS.TSKH.
Lê Văn Cảm, GS.TS. Võ Khánh Vinh: Quyết định hình phạt nhẹ hơn khung
hình phạt đối với một tội - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 1+2/1988; 2) TS. Phạm Mạnh Hùng: Vấn đề quyết định
hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3/2001;
3) TS. Lê Đăng Doanh: Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật
hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2003; 4) TS. Trần Thị Quang Vinh:
Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của pháp luật hình sự, Tạp chí Khoa
học pháp lý, số 2/2000; 5) ThS. Phạm Văn Báu: Quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của Bộ luật, những bất cập và phương hướng hoàn thiện, Tạp
chí Tòa án nhân dân, số 18/2008; v.v…
Như vậy, nhiều công trình nghiên cứu khoa học trên đây đều đưa ra
một số quan điểm phản ánh những bất cập của quy định quyết định hình
phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, nhưng vẫn thiếu dẫn chứng
thực trạng cụ thể áp dụng quy định này trên địa phương nhất định để đề cập
những vướng mắc, khó khăn thực tế cần kiến nghị, khắc phục. Đây cũng
chính là một lý do để học viên muốn đóng góp quan điểm của riêng mình
khi bàn về vấn đề trên.
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của Bô ̣luật hình sự Việt
Nam hiện hành về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
5
trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng áp dụng quy định này tại địa bàn thành
phố Hải Phòng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra giải pháp hoàn thiện
pháp luật, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó không chỉ
có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng
cho sự cần thiết để học viên lựa chọn đề tài "Quyết định hình phạt nhẹ hơn
quy định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp
dụng trên địa bàn thành phố Hải Phòng" làm luận văn thạc sĩ luật học, góp
phần đáp ứng sự cần thiết trong nghiên cứu khoa học pháp lý và đòi hỏi khách
quan trong thực tiễn áp dụng quy định của Bô ̣luâ ̣t hình sự.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về các vấn đề lý
luận và thực tiễn về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
trong luật hình sự Việt Nam; đồng thời đi sâu phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng
quy định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong giai
đoạn 8 năm (2007-2014). Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một số vướng mắc, tồn
tại trong thực tiễn, từ đó đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật
và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định này của Bộ luật hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Làm rõ các đặc điểm chung của quy định về quyết định hình phạt,
đặc điểm cơ bản của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình
sự, từ đó làm sáng tỏ khái niệm và ý nghĩa của việc quy định về quyết định
hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam.
- Hệ thống hóa lịch sử hình thành và phát triển của quy định về quyết
định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự Việt
Nam từ năm 1985 đến nay.
6
- Phân tích các quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
Bộ luật hình sự Việt Nam, qua đó, phân biệt quy định này với quy định về
quyết định hình phạt.
- Nghiên cứu quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới để rút ra nhận xét, đánh giá.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định về quyết định hình
phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng
trong giai đoạn 08 năm (2007-2014).
- Luận chứng sự cần thiết phải hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp
dụng quy định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự,
qua đó, đề xuất hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng quy định này của Bộ luật hình sự.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam, kết hợp với việc nghiên
cứu đánh giá tình hình áp dụng quy định trong thực tiễn xét xử của Tòa án
nhân dân các cấp trên địa bàn thành phố Hải Phòng và các nguyên nhân của
những tồn tại, hạn chế để kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật và những
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định này.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định quyết
định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trên địa bàn thành phố
Hải Phòng trong giai đoạn 08 năm (2007-2014).
4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước
pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện
trong các Nghị quyết của Đại hội Đảng X, XI và các Nghị quyết số 08-NQ/TW
7
ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Quá trình nghiên cứu đề tài, luận văn cũng bám sát việc sử dụng các
phương pháp nghiên cứ uchính của khoa học luật hình sự để thấy rõmứ c độhiê ̣u
quả của quy đi ̣nh quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự,
đó là: phương pháp xã hô ̣i học, phương pháp lôgíc hình thứ c, phương pháp luâ ̣t
học - lịch sử, phương pháp luâ ̣t ho ̣c - so sánh và phương pháp biện chứng.
Ngoài ra, luâ ̣n văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp,
thống kê, quy nạp để phân tích cụthể hơn thực tra ̣ng áp dụng quyết định hình
phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trên đi ̣a bàn thành phố Hải Phòng,
cũng như nhằm làm rõ n hững nguyên nhân cơ bản của các bất câ ̣p, tồn ta ̣i
trong thực tiễn áp dụng.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn, trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng liên
quan tới quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong luật
hình sự Việt Nam. Một số điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Xây dựng khái niệm quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ
luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam, bảo đảm lý luận khoa học, thống
nhất, đồng thời chỉ ra các đặc điểm cơ bản của nó.
- Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình quy định
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự
Việt Nam từ năm 1985 cho đến nay.
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình áp dụng quy
định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự của Tòa án
nhân dân các cấp trên địa bàn thành phố Hải Phòng; nguyên nhân cơ bản và
những tồn tại, hạn chế của thực tiễn áp dụng quy định này.
8
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất
sự cần thiết và việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng áp dụng quy định
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong giai đoạn
xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn được mong muốn sẽ là một tài liệu nghiên cứu,
tham khảo đóng góp trong công tác nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự nói
chung, góp phần thiết thực đối với các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và
Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên trong quá trình xét xử các vụ án hình sự,
đảm bảo việc tuyên bản án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và
đạt hiệu quả của mục đích hình phạt đối với người phạm tội.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của Bộ luật hình sự.
Chương 2: Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về quyết định hình
phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự và những giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng.
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ
HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của quyết định hình phạt
Người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự
quy định là tội phạm thì phải chịu hậu quả pháp lý thể hiện trong việc Tòa án
nhân dân nhân danh Nhà nước kết án người đã bị coi là có lỗi trong việc thực
hiện tội phạm đó, còn người bị kết án phải chịu sự tác động về mặt pháp lý
hình sự theo một trình tự, tố tụng riêng. Tuy nhiên, mục đích của hình phạt
không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người
có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã
hô ̣i chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Đồng thời, góp phần tác động lớn đối
với xã hội thông qua tác dụng tuyên truyền, phổ biến các quy định luật hình sự,
tính nghiêm minh các phán quyết của Tòa án; từ đó tạo nên lòng tin của công
dân đối với sự nghiêm minh của pháp chế, tính minh bạch và sự bình đẳng
của pháp luật, sức mạnh và uy tín của cơ quan tư pháp, tính nhân đạo và dân chủ
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và sự tuân thủ, ý thức chấp hành
pháp luật của người dân, cũng như chủ động cảnh giác, phòng ngừa các hành vi
nguy hiểm cho xã hội. Nói một cách khác, đúng như PGS.TS. Trịnh Quốc Toản
đã viết: "Hình phạt là sự thống nhất giữa trừng trị và cải tạo, giáo dục… Chúng
ta chỉ nói đến hình phạt khi có sự tồn tại của hai yếu tố đó" [41, tr. 28-29].
Trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) của Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội thì: "Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn
loại hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ
sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người
phạm tội" [15, tr. 317].
10
Trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà
Nội và theo PGS. TS. Lê Văn Đệ trong bài Định tội danh và quyết định hình
phạt trong luật hình sự Việt Nam thì: "Quyết định hình phạt là sự lựa chọn
loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp
dụng đối với người phạm tội cụ thể" [10, tr. 161], [43, tr. 201].
Các khái niệm nêu trên đều thể hiện quyết định hình phạt là việc Tòa
án lựa chọn loại hình phạt (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ
sung) và mức hình phạt cụ thể theo quy định luật hình sự để áp dụng đối với
người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và có lỗi trong việc phạm
tội. Quyết định hình phạt đối với hình phạt chính chỉ đặt ra trong trường hợp
Tòa án phán quyết đối với người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự và
cần thiết phải áp dụng hình phạt nhằm trừng trị, cải tạo và giáo dục họ; đồng
thời, Tòa án có thể lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể; cũng có thể chỉ là
việc Tòa án chọn loại hoặc chọn mức hình phạt cụ thể trong trường hợp
khung hình phạt quy định loại hình phạt nhất định. Quyết định hình phạt đối
với hình phạt bổ sung là việc lựa chọn hình phạt bổ sung (có thể là một hoặc
nhiều loại) và xác định mức hình phạt đã được quy định nhằm hỗ trợ cho hình
phạt chính mới bảo đảm đầy đủ mục đích hình phạt đối với người phạm tội. Với
ý nghĩa đó, quyết định hình phạt chính được coi là nội dung cơ bản của quyết
định hình phạt và quyết định bản chất của khái niệm quyết định hình phạt.
Tuy nhiên, quyết định hình phạt trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
của Trường Đại học Luật Hà Nội còn được hiểu theo nghĩa rộng hơn đó là:
Quyết định hình phạt là tổng hợp các hoạt động của Tòa án
trong việc xác định người phạm tội có được miễn trách nhiệm hình
sự hay miễn hình phạt hay không, xác định khung hình phạt, loại và
mức hình phạt cụ thể trong phạm vi khung hình phạt cụ thể hoặc
dưới đó [43, tr. 201-202].
Trong Giáo trình kỹ năng xét xử vụ án hình sự của Học viện Tư pháp
định nghĩa:
11
Quyết định hình phạt là một giai đoạn, một nội dung của áp
dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc Tòa án lựa chọn loại và mức
hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản điều luật)
theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội thể
hiện trong bản án buộc tội [14, tr. 42].
Quyết định hình phạt là hoạt động tư duy của Hội đồng xét xử ngay sau
khi đã xác định tội danh đối với hành vi phạm tội, nếu định tội là tiền đề, là cơ sở
cho việc quyết định hình phạt, thì quyết định hình phạt là kết quả cuối cùng của
hoạt động xét xử. Quyết định hình phạt chính xác có ý nghĩa rất quan trọng đối
với hoạt động xét xử của Tòa án. Để quyết định hình phạt chính xác, đúng pháp
luật, ngoài việc định tội chính xác, Tòa án còn phải tuân theo những nguyên tắc,
những căn cứ về quyết định hình phạt đã được quy định trong Bộ luật hình sự.
Ngoài ra, Tòa án còn phải xem xét cân nhắc đến tình hình chính trị, kinh tế,
xã hội của từng địa phương, yêu cầu của việc đấu tranh phòng ngừa và chống
tội phạm và các yếu tố khác có liên quan đến việc quyết định hình phạt.
Tóm lại, từ những phân tích nêu trên, theo học viên có thể đưa ra khái
niệm đang nghiên cứu như sau: Quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn áp
dụng pháp luật của Tòa án do Hội đồng xét xử thực hiện căn cứ vào các quy
định của pháp luật hình sự và dựa trên những nguyên tắc nhất định, được thực
hiện tùy thuộc vào từng trường hợp để xác định loại hình phạt và mức hình
phạt cụ thể áp dụng cho bị cáo phạm tội cụ thể hoặc miễn hình phạt cho
người đó theo quy định của Bộ luật hình sự phù hợp với tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam có những đặc điểm
cơ bản và ý nghĩa như sau:
Thứ nhất, quyết định hình phạt có căn cứ, đúng pháp luật, công minh
là tiền đề, điều kiện để đạt được mục đích của hình phạt được quy định tại
Điều 27 Bộ luật hình sự:
12
Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn
giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo
pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa
họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn
trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm [23].
Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải hướng tới mục đích của hình
phạt mà mình đã tuyên trong bản án phải đảm bảo hiệu quả và hài hòa giữa
"trừng trị" và "cải tạo, giáo dục", nếu hình phạt được áp đặt cho một trong
những mục đích nào đó sẽ làm ảnh hưởng các mục đích khác, sẽ ảnh hưởng
tiêu cực đến hiệu quả và mục đích đầy đủ của hình phạt. Trường hợp coi nhẹ
tính trừng trị của hình phạt thì có thể dẫn đến hình phạt quá nhẹ, không tương
xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, làm giảm tính
răn đe, giáo dục đối với người phạm tội, làm lung lay niềm tin của người dân
và của phần lớn những người trực tiếp tham gia công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm. Ngược lại, nếu coi nhẹ tính nhân đạo, tính giáo dục sẽ tạo ra
quyết định hình phạt nghiêm khắc dẫn đến tâm lý tiêu cực, phản giáo dục và
khó cải tạo đối với người phạm tội. Do vậy, bản án của Tòa án quyết định
hình phạt đảm bảo tính nhân đạo, công minh và đúng pháp luật sẽ đạt được
mục đích của hình phạt đối với người phạm tội.
Thứ hai, quyết định hình phạt đúng đắn sẽ có ý nghĩa nâng cao hiệu
quả của hình phạt vì hậu quả tiêu cực do quyết định hình phạt tạo ra càng nhỏ
thì hiệu quả của hình phạt càng cao, ngược lại quyết định hình phạt đưa đến
hậu quả tiêu cực thì hiệu quả của hình phạt càng thấp. Mục đích của hình phạt
đảm bảo hiệu quả nếu Tòa án quyết định hình phạt có thể tiết kiệm đến mức
thấp nhất yếu tố trấn áp về hình sự khi sử dụng các biện pháp cưỡng chế của
Nhà nước được quy định trong pháp luật hình sự.
Thứ ba, quyết định hình phạt là một hoạt động tư duy mang tính pháp
lý nghiêm minh, chặt chẽ nhưng nhân văn của Hội đồng xét xử trên cơ sở xem
13
xét toàn diện, đầy đủ những chứng cứ, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, điều kiện, hoàn cảnh và nhân thân của người phạm tội, cũng
như điều kiện kinh tế - chính trị và xã hội và yêu cầu đấu tranh phòng chống
tội phạm của mỗi địa phương...
Hiệu quả cao của pháp luật hình sự đạt được không phải là bằng sự
mở rộng phạm vi áp dụng hoặc tăng nặng hình phạt, mà phải bằng việc phân
hóa tối đa trách nhiệm hình sự và bảo đảm hoàn toàn nguyên tắc không tránh
khỏi trách nhiệm hình sự. Tội phạm hóa những hành vi nguy hiểm cho xã hội
và quyết định hình phạt đối với những người gây ra tội phạm cũng làm ảnh
hưởng tiêu cực nhiều đối với Nhà nước về nhiều mặt, do vậy, rất cần thiết
phải giảm nhẹ sự trấn áp về hình sự đối với bị cáo, cũng như sự cần thiết của
việc kết hợp với tính nhân văn và nguyên tắc xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Khái niệm và ý nghĩa của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam
Khi quyết định hình phạt đối với bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ,
mặc dù Tòa án có thể tuyên cho người phạm tội ở mức thấp nhất của khung
hình phạt nhưng xét về mức độ tương xứng giữa tội phạm và hình phạt thì
hình phạt đó vẫn nghiêm khắc, chưa đạt được mục đích, hiệu quả của hình
phạt, vì vậy, luật hình sự cho phép Tòa án quyết định hình phạt dưới mức thấp
nhất của khung hình phạt hoặc chuyển hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.
Việc cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội trong mỗi khung hình phạt tuy đảm bảo tương đối tính khoa học,
tính hợp lý và tính khái quát cao; nhưng phán quyết của Tòa án đối với người
phạm tội ảnh hưởng tiêu cực đối với con người cụ thể, trực tiếp hạn chế một
phần quyền con người, quyền công dân, ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý, ý thức
cải tạo của người chấp hành án, ảnh hưởng đến hoạt động của gia đình, ý thức
của đa số người thân cũng như những người dân sống trên địa bàn của người
đó. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự nhằm tạo cho
Tòa án khả năng lựa chọn trong giai đoạn quyết định hình phạt đối với từng
14
trường hợp cụ thể khác nhau bảo đảm mục đích và hiệu quả của hình phạt,
đồng thời cũng quy định chặt chẽ nhằm tránh việc vận dụng không đúng.
Có nhiều quan điểm khoa học khác nhau về quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của Bộ luật hình sự nhưng vẫn chưa thống nhất và chưa bảo
đảm tính hệ thống, tính chặt chẽ, tính phù hợp, kỹ thuật xây dựng văn bản.
Nhiều quan điểm khoa học mới chỉ dừng lại ở việc giải thích nội dung của
quy phạm pháp luật về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật
hình sự mà chưa đưa ra đầy đủ những tiêu chí và tiêu chuẩn quan trọng đánh
giá khách quan và chính xác quy phạm pháp luật đó. Cụ thể:
Tại Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng:
Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật đã
quy định tức là áp dụng hình phạt đó với mức thấp hơn mức thấp
nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định đối với tội phạm bị
xét xử; còn chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn
nghĩa là thay thế loại hình phạt được quy định trong điều luật về tội
phạm bị xét xử bằng một loại hình phạt khác nhẹ hơn không được
quy định trong điều luật [15, tr. 332].
Theo quan điểm của ThS. Đinh Văn Quế trong bài Tìm hiểu về hình phạt
và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam thì: "Quyết định hình phạt
nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự là trường hợp Tòa án có thể áp dụng
mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy
định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn" [19, tr. 220].
Trên cơ sở khái niệm quyết định hình phạt nêu trên, đồng thời phân
tích toàn diện ngoài những đặc điểm chung của quyết định hình phạt, quyết
định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự còn bao gồm những đặc
điểm cơ bản được thừa nhận chung đó là:
- Là sự phản ứng, lên án của Nhà nước và xã hội đối với người có hành
vi phạm tội thể hiện thông qua việc phải chịu trách nhiệm hình sự của người đó.
15
- Phản ánh chính sách phân hóa tội phạm và người phạm tội, thể hiện
nguyên tắc "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng", "trừng trị kết hợp với giáo
dục, thuyết phục, cải tạo" và nguyên tắc nhân đạo xã hô ̣i chủ nghĩa trong luật
hình sự Việt Nam.
- Phải tuân thủ những điều kiện nhất định theo quy định của Bộ luật
hình sự.
- Việc áp dụng chỉ do duy nhất một cơ quan áp dụng là Tòa án và chỉ
được tiến hành sau khi định tội danh đối với cá nhân người phạm tội.
- Hình phạt do Tòa án quyết định đối với người bị kết án trong trường
hợp quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự không nằm
trong khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã quyết định
đưa ra xét xử, nhưng phải nằm trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn hoặc
loại hình phạt khác nhẹ hơn.
- Phải được thể hiện bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án tuyên áp dụng quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình
sự đối với người bị kết án.
Tóm lại, từ những phân tích nêu trên, theo học viên có thể đưa ra khái
niệm đang nghiên cứu như sau: Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
Bộ luật hình sự là hoạt động thực tiễn do Hội đồng xét xử áp dụng các quy
định của pháp luật hình sự dựa trên những nguyên tắc nhất định và được thực
hiện tùy thuộc vào từng trường hợp để quyết định một mức hình phạt nhẹ hơn
thuộc cùng một loại hình phạt được quy định trong khung hình phạt tại điều
luật cụ thể hoặc chuyển sang một loại hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn khung
hình phạt tại điều luật cụ thể của Phần các tội phạm Bộ luật hình sự mà bị
cáo đã thực hiện và bị Tòa án đưa ra xét xử.
Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự có những
ý nghĩa đó là:
- Hiện thực hóa nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn đảm
bảo các nguyên tắc khác như: pháp chế xã hội chủ nghĩa, công bằng và cá thể
16
hóa hình phạt nhằm động viên người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự được hưởng chính sách khoan hồng, nhân đạo và làm
giảm đáng kể tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tạo những
chuyển biến tích cực ảnh hưởng trong việc khắc phục hậu quả của tội phạm
gây ra, tố giác những đồng phạm khác trong vụ án…, qua đó, bảo đảm mục
đích và hiệu quả hình phạt của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam cải tạo,
giáo dục người phạm tội trở thành người công dân hòa nhập với xã hội với ý
thức, tôn trọng pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự tạo ra sự
linh hoạt đối với Tòa án khi quyết định hình phạt, nên có ý nghĩa quan trọng
giúp cho Tòa án giải quyết đúng đắn mỗi cá nhân người phạm tội trong từng
trường hợp phạm tội khác nhau trong mỗi khung hình phạt mà cơ quan lập
pháp không thể khái quát, bao quát, dự liệu hết được.
- Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự có ý
nghĩa quan trọng giúp cho Tòa án trong một số trường hợp đưa ra được phán
quyết hợp pháp, hợp lý và công bằng, góp phần tăng cường hiệu quả của
quyết định hình phạt và đạt được các mục đích của hình phạt đó, góp phần
đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
1.2. NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Với tuyên bố quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền "của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân", Nhà nước ta đã thực hiện các tư tưởng
pháp lý tiến bộ được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại ngay từ
khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 cho
đến nay thể hiện ở các mức độ khác nhau thông qua mười nguyên tắc của
hoạt động tư pháp hình sự được GS.TSKH. Lê Văn Cảm chỉ ra là: Pháp chế,
công minh, nhân đạo, dân chủ, bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật,
trách nhiệm hình sự do lỗi, trách nhiệm hình sự cá nhân, suy đoán vô tội, tiết
17
kiệm tối đa các biện pháp trấn áp về hình sự và bảo đảm sự tôn trọng các
quyền và tự do của con người trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án hình sự [4, tr. 78-79].
Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong luật
hình sự Việt Nam là một trường hợp đặc biệt của quyết định hình phạt nên
nguyên tắc của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
phải tuân theo các nguyên tắc nhất định của quyết định hình phạt, có nghĩa là
tổng thể các nguyên tắc thống nhất được rút ra từ các quy định của pháp luật
hình sự và là những tư tưởng xuất phát điểm có tính chất chỉ đạo, định hướng
cho hoạt động của Tòa án khi áp dụng chế tài hình sự đối với người bị coi là
có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự
quy định là tội phạm.
Tuân thủ triệt để những nguyên tắc này, hình phạt do Tòa án quyết
định đảm bảo được mục đích của hình phạt và hiệu quả công tác đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm.
Các nguyên tắc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật
hình sự phù hợp với các nguyên tắc chung của luật hình sự và mang tính đặc
thù riêng của hoạt động quyết định hình phạt; được đúc rút ra từ các quy định
của Bộ luật hình sự, từ chính sách hình sự của nhà nước; tạo thành hệ thống
logic biện chứng và thống nhất giữa các yếu tố chủ quan và khách quan tác
động hoạt động của Tòa án khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Hệ thống
các nguyên tắc đó được thừa nhận chung bao gồm:
- Nguyên tắc pháp chế xã hô ̣i chủ nghĩa;
- Nguyên tắc công bằng;
- Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa;
- Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt [51, tr. 162-163].
1.2.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Tiếp thu tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại trong hai văn bản quốc
tế về nhân quyền của Liên Hợp quốc mà Việt Nam đã ký kết tham gia, cam
18
kết thực hiê ̣n chống lại nguyên tắc tương tự là nguyên nhân dẫn đến tình trạng
vô pháp luật, tùy tiện, xâm phạm thô bạo các quyền lợi hợp pháp và tự do của
công dân, đó là Tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948 (theo Điểm 2 Điều
11) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966
(khoản 1 Điều 15) với quy đi ̣nh: "Không có tội phạm, không có hình phạt nếu
điều đó không được luật quy định" [42, tr. 62-69; tr. 175-202].
Thực hiện triệt để nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa phải đảm bảo
bốn nội dung cơ bản, đó là:
- Bất kỳ một hành vi nào chỉ bị coi là tội phạm bị trừng phạt bằng chế
tài pháp lý hình sự trong đó phải chịu hình phạt và các hậu quả pháp lý hình
sự khác của việc thực hiện hành vi đó chỉ và phải do Bộ luật hình sự - đạo luật
hình sự có hiệu lực pháp lý cao nhất đối với trách nhiệm hình sự và quyết
định hình phạt quy định. Chỉ người nào phạm một tội mới phải chịu trách
nhiệm hình sự và chỉ Hội đồng xét xử mới có thẩm quyền ra quyết định hình
phạt đối với bị cáo. Khi quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật
hình sự đối với bị cáo phải đảm bảo loại và mức hình phạt theo quy định của
Bộ luật hình sự.
- Việc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự nhất
thiết phải trên cơ sở tuân thủ, chấp hành và áp dụng nghiêm chỉnh và nhất
quán các quy phạm pháp luật hình sự. Trên cơ sở những căn cứ, nội dung của
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự và thực tế cá nhân
người phạm tội trong vụ án hình sự cụ thể đáp ứng những điều kiện quy định
của Bộ luật hình sự thì Tòa án mới có thể cân nhắc áp dụng quyết định hình
phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự đối với bị cáo đó.
- Không được áp dụng luật hình sự theo nguyên tắc tương tự.
- Bảo đảm tính hợp lý của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
Bộ luật hình sự là phương án tối ưu nhất và phù hợp với tính chất, mức độ của
hành vi phạm tội và vụ án hình sự đã gây ra đã bị giảm nhiều đáng kể sự nguy
19
hiểm cho xã hội đáp ứng đầy đủ mục đích của hình phạt, chính sách nhân đạo
xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn đảm bảo phục vụ tốt yêu cầu chính trị - xã hội tại
địa phương, được nhân dân và dư luận đồng tình ủng hộ [3, tr. 204-205].
1.2.2. Nguyên tắc công bằng
Công ước quốc tế quy định cấm kết án hoặc trừng phạt hai lần đối với
cùng một tội phạm thể hiện tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại đã có từ
thời đại xa xưa với câu ngạn ngữ La tinh cổ đại nổi tiếng: "Pháp luật là nghệ
thuật của sự thật và công lý". Hình phạt đối với người chấp hành án có đảm
bảo hiệu quả và mục đích của nó hay không được đánh giá trên cơ sở tổng thể
nhiều yếu tố, trong đó có sự đánh giá của dư luận xã hội, dân cư trên địa bàn,
ý thức pháp luật, đạo đức xã hội và hiệu quả cải tạo, giáo dục của người phạm
tội và bảo đảm phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
không phân biệt dân tộc, tôn giáo, địa vị kinh tế, giới tính,… [3, tr. 206-207].
Nguyên tắc công bằng phải bảo đảm những nội dung cơ bản trong quá
trình thực hiện quyết định hình phạt, đó là:
- Không một bị cáo nào có thể phải chịu trách nhiệm hình sự hai lần
về cùng một tội phạm hoặc tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng nguy hiểm
không đáng kể thì không bị coi là tội phạm.
- Quyết định hình phạt phải phù hợp với tính chất và mức độ nghiêm
trọng của tội phạm được thực hiện, động cơ và mục đích phạm tội, mức độ
lỗi, cũng như tính chất nguy hiểm cho xã hội của bị cáo.
- Bộ luật hình sự có các quy định để Tòa án có thể lựa chọn loại và
mức hình phạt phù hợp hơn cả đối với bị cáo trên cơ sở tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội thực tế của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội,
các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự trên cơ sở những đánh
giá, lập luận khách quan, cụ thể và đầy đủ lý do được ghi rõ trong bản án.
- Người có hành vi phạm tội với những tình tiết tương đương không
được đánh giá khác nhau không phân biệt dân tộc, tôn giáo, địa vị kinh tế,
20
giới tính,… đồng thời phải được đánh giá trong sự so sánh với những tội
phạm khác hoặc với những người phạm tội khác [3, tr. 206-207].
Bộ luật hình sự quy định một số điều luật thể hiện nguyên tắc công
bằng, đó là: Điều 29 Bộ luật hình sự quy định đối với hình phạt cảnh cáo hoặc
Điều 30 Bộ luật hình sự quy định đối với hình phạt tiền là hình phạt chính
hoặc Điều 31 Bộ luật hình sự quy định có thể phạt cải tạo không giam giữ từ
sáu tháng đến ba năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội
nghiêm trọng do Bộ luật hình sự quy định nếu xét thấy bị cáo đang có nơi làm
việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng và không cần thiết phải cách ly
người phạm tội khỏi xã hội.
Đây là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm và có ý nghĩa tiền đề, cơ sở để đạt được mục đích cải
tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội.
1.2.3. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa
Tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại về tính nhân đạo của pháp luật,
của quyết định hình phạt được thể hiện tại hai văn bản quốc tế quan trọng của
Liên hợp quốc (Điều 5 Tuyên ngôn nhân quyền và Điều 7 Công ước quốc tế)
và Công ước của Liên hợp quốc ngày 10/12/1984 về việc chống tra tấn và các
hình thức đối xử và hình phạt khác tàn nhẫn, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân
phẩm của người khác [42, tr. 48].
Đây là một nguyên tắc đặc thù của luật hình sự Việt Nam và đòi hỏi
phải đảm bảo mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có
ích cho xã hội trong suốt quá trình tranh tụng để đưa ra phán quyết của bản án
hình sự. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải xem xét toàn diện nhiều căn
cứ về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; mục
đích, động cơ, điều kiện, hoàn cảnh, tâm sinh lý và nhân thân của người phạm
tội; đồng thời phải đánh giá đầy đủ các lợi ích của Nhà nước, của xã hội, của
gia đình và của bị cáo trong mối quan hệ biện chứng, hài hòa và hợp lý.
21
Nguyên tắc nhân đạo được thể hiện với các nội dung cơ bản, đó là:
- Hình phạt, các biện pháp tư pháp và chế định pháp lý hình sự khác
áp dụng đối với bị cáo không nhằm mục đích gây nên những đau đớn về thể
xác và hạ thấp nhân phẩm con người.
- Nếu trong việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự mà thiếu dù chỉ
là một trong năm đặc điểm của tội phạm, thiếu một trong năm dấu hiệu của
chủ thể tội phạm, thiếu một trong năm điều kiện của trách nhiệm hình sự, thì
tương ứng như vậy, hành vi ấy không phải là tội phạm, người thực hiện hành vi
ấy không phải là chủ thể tội phạm và do vậy, trách nhiệm hình sự bị loại trừ.
- Mức độ trách nhiệm hình sự của người phạm tội là người có năng
lực trách nhiệm hình sự hạn chế, người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc
nuôi con nhỏ, người đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo được giảm
nhẹ hơn so với người phạm tội là người bình thường [3, tr. 207-209].
Các quy định trong Bộ luật hình sự thể hiện nguyên tắc này như sau:
- Tại khoản 3 Điều 3 Bộ luật hình sự quy định: Đối với người lần đầu
phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục.
- Tại khoản 2 Điều 7 Bộ luật hình sự quy định: điều luật quy định một
tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn
chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm
hình phạt, xóa án tích và các quy định khác không có lợi cho người phạm tội,
thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều
luật đó có hiệu lực thi hành.
- Tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự quy định: điều luật xóa bỏ một
tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ
hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy
định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm
tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.
22
- Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Điều 46 Bộ luật hình
sự và quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định theo Điều 47 Bộ luật hình sự.
- Miễn hình phạt theo Điều 54 Bộ luật hình sự.
- Các quy định đối với người chưa thành niên phạm tội theo các điều
từ Điều 57 đến Điều 63 Bộ luật hình sự [3, tr. 207-209].
1.2.4. Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt
Căn cứ các quy định của pháp luật hình sự và ý thức pháp luật xã hội
chủ nghĩa, Tòa án phải đánh giá đầy đủ và toàn diện các tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; mục đích, động cơ, hoàn cảnh,
điều kiện và nhân thân của người phạm tội; các tình tiết giảm nhẹ và tăng
nặng trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt cụ thể đối với bị cáo đảm
bảo mục đích và hiệu quả của hình phạt. Do đó, phản ánh rõ "nguyên tắc xử
lý" trong luật hình sự Việt Nam là mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện
kịp thời, xử lý nhanh chóng và công minh theo đúng pháp luật, góp phần đảm
bảo mục đích cơ bản của hoạt động tư pháp hình sự trong Nhà nước pháp
quyền - bảo vệ vững chắc các quyền tự do của công dân với phương châm
"không bỏ lọt kẻ phạm tội, tránh làm oan người vô tội" [3, tr. 211-212].
Tùy theo tính chất và mức độ gây nguy hại cho xã hội theo quy định
của pháp luật mà phân loại tội phạm để xử lý hình sự và quyết định hình phạt
khác nhau. Tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy đến ba năm tù là tội phạm ít nghiêm trọng; tội
phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối
với tội ấy đến bảy năm tù là tội phạm nghiêm trọng; tội phạm gây nguy hại rất
lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến mười
lăm năm tù là tội phạm rất nghiêm trọng; tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn
cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên mười lăm
năm tù, tù chung thân hoặc tử hình là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Các điều
23
luật trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự đều quy định khung hình
phạt và các hình phạt khác nhau để Tòa án quyết định hình phạt trên những cơ
sở, căn cứ nhất định theo quy định luật hình sự nhằm cá thể hóa hình phạt
trong áp dụng luật hình sự đối với từng vụ án hình sự và bị cáo khác nhau.
Nguyên tắc này được thể hiện thông qua nhiều quy phạm như sau:
- Tại Điều 2 Bộ luật hình sự quy định: Chỉ người nào phạm một tội đã
được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Tại khoản 2 Điều 3 Bộ luật hình sự quy định:
Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố
chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức
vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo
quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả
nghiêm trọng. Khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai
báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự
nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra [23].
- Trong Bộ luật hình sự quy định: Điều 8 (Khái niệm tội phạm); Điều 9
(Cố ý phạm tội); Điều 10 (Vô ý phạm tội); Điều 11 (Sự kiện bất ngờ); Điều 12
(Tuổi chịu trách nhiệm hình sự); Điều 13 (Tình trạng không có năng lực trách
nhiệm hình sự); Điều 14 (Phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc
chất kích thích mạnh khác); Điều 15 (Phòng vệ chính đáng); Điều 16 (Tình
thế cấp thiết); Điều 17 (Chuẩn bị phạm tội); Điều 18 (Phạm tội chưa đạt);
Điều 19 (Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội); Điều 49 (Tái phạm, tái
phạm nguy hiểm); Điều 53 (Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng
phạm),... [3, tr. 211-212].
Nguyên tắc này có ý nghĩa rất lớn trong tư tưởng pháp lý loại trừ nguyên
tắc trách nhiệm hình sự tập thể như là di sản pháp lý phi nhân tính của các chế
độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, phát xít đàn áp dã man người dân.
24
1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC
QUY ĐỊNH VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1985 ĐẾN NAY
1.3.1. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1985 đến năm 1999
Ngày 27/6/1985, Quốc hội đã thông qua Bộ luật hình sự đầu tiên tạo
cơ pháp lý thống nhất và quan trọng trong công tác đấu tranh phòng và chống
tội phạm. Khi pháp điển hóa lần thứ nhất luật hình sự Việt Nam - Bộ luật hình
sự năm 1985, quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định đã được ghi nhận chính
thức, nhưng chỉ được quy định chung cùng với những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự tại Điều 38 Bộ luật hình sự.
Trong khoảng 15 năm tồn tại, Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa
đổi, bổ sung 4 lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997, trong đó tiếp tục
hoàn thiện một số quy định Phần chung về hình phạt như về hình phạt tiền, về
nguyên tắc tổng hợp hình phạt, về điều kiện cho hưởng án treo,… để các quy
định này phù hợp hơn với tình hình tội phạm cũng như tình hình áp dụng luật
hình sự.
Theo khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985 đã phản ánh nội
dung của quy định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình
sự: "Khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án có thể quyết định một hình phạt
dưới mức thấp nhất mà điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một hình phạt
khác nhẹ hơn. Lý do giảm nhẹ này phải được ghi trong bản án" [21].
Để thống nhất việc áp dụng khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự năm
1985, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết
số 01/1989/HĐTP ngày 19/4/1989 quy định:
1 - Khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ là khi có từ 2 tình tiết
giảm nhẹ trở lên, trong đó có ít nhất là một tình tiết đã được quy
định tại khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự.
25
Việc bị cáo chưa đến tuổi thành niên đã là một tình tiết giảm
nhẹ đặc biệt, cho nên đối với bị cáo chưa thành niên thì chỉ cần có
một tình tiết giảm nhẹ đã được quy định ở khoản 1 Điều 38 Bộ luật
hình sự là có thể áp dụng khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự.
2 - Tùy theo số lượng và tính chất của các tình tiết giảm
nhẹ, đồng thời tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội mà quyết định giảm nhẹ trong khung hình phạt hay áp
dụng một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đó,
hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.
a) Thông thường Tòa án giảm nhẹ trong khung hình phạt
cho bị cáo khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
bị cáo, nhưng hành vi phạm tội của họ tương ứng với mức cao
(bằng hoặc gần với mức cao nhất) của khung hình phạt. Nghĩa là,
trong những trường hợp mà nếu không có nhiều tình tiết giảm nhẹ,
thì bị cáo phải bị phạt ở mức cao của khung hình phạt, do đó khi có
nhiều tình tiết giảm nhẹ, họ được hưởng một hình phạt ở mức thấp
(bằng hoặc gần với mức thấp nhất) của khung hình phạt.
b) Tòa án chỉ quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất
của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc
loại nhẹ hơn khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
bị cáo, đồng thời hành vi phạm tội mà nếu không có nhiều tình tiết
giảm nhẹ thì bị cáo cũng chỉ bị phạt ở mức thấp của khung hình
phạt, do đó, khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án có thể cho họ
được hưởng một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
đó hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.
Tòa án chỉ quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất đối
với loại hình phạt tù có thời hạn, nếu mức thấp nhất của khung hình
phạt là trên 3 tháng tù. Nếu mức thấp nhất của khung hình phạt là
26
3 tháng tù, thì theo Điều 25 Bộ luật hình sự Tòa án không thể phạt
tù dưới 3 tháng cho nên phải chuyển sang hình phạt khác thuộc loại
nhẹ hơn.
Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ và hình phạt cải tạo
ở đơn vị kỷ luật của quân đội thì theo Điều 24 và Điều 70 Bộ luật
hình sự, Tòa án không được quyết định một hình phạt dưới 6 tháng,
mà có thể chuyển sang loại hình phạt nhẹ hơn là "cảnh cáo".
3 - Những tình tiết đã là yếu tố định tội ví dụ như tội giết
người do vượt quá thời hạn phòng vệ chính đáng quy định tại Điều
102 Bộ luật hình sự hoặc là yếu tố định khung hình phạt ví dụ như
tình tiết tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật
nghiêm trọng của nạn nhân quy định tại khoản 3 Điều 101 hoặc
khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự, thì không được coi là tình tiết
giảm nhẹ của chính tội đó nữa.
4 - Trong trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ, vừa có tình
tiết tăng nặng, thì Tòa án phải cân nhắc hai loại tình tiết đó để quyết
định hình phạt cho hợp lý. Thông thường nếu tính chất của các tình
tiết giảm nhẹ tương đương với tính chất của các tình tiết tăng nặng
thì Tòa án không áp dụng khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự. Nhưng
nếu các tình tiết giảm nhẹ có ý nghĩa giảm nhẹ nhiều hơn, thì Tòa
án vẫn có thể áp dụng khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự.
5 - Khi kết án một người về nhiều tội, nếu tội nào của họ có
nhiều tình tiết giảm nhẹ, thì Tòa án áp dụng khoản 3 Điều 38 Bộ
luật hình sự để quyết định hình phạt đối với riêng tội đó, rồi tổng
hợp các hình phạt theo đúng quy định của Điều 41 Bộ luật hình sự
về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội và Điều 43
Bộ luật hình sự về tổng hợp hình phạt khác loại.
6 - Các lý do của việc áp dụng khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình
sự phải được nêu rõ ở phần nhận định của bản án và trong trường
27
hợp này ở phần quyết định của bản án cần viện dẫn cả khoản 3 Điều
38 Bộ luật hình sự (ngay sau khi điều khoản được áp dụng đối với
tội phạm của người bị kết án) [35].
Tòa án nhân dân tối cao đã tổng kết kinh nghiệm về những thiếu sót
phổ biến của các Tòa án cấp dưới trong việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ không
đúng nên đã xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Ví dụ: Bản án sơ
thẩm số 163/HSST ngày 27 tháng 4 năm 1999 của Tòa án nhân dân tỉnh ĐN
đã coi "số tiền giả đã được thu hồi ít, các bị cáo tuổi đời còn trẻ, bị cáo khi
phạm tội còn trong độ tuổi vị thành niên" là tình tiết giảm nhẹ để áp dụng
khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985. Việc áp dụng này là không đúng
với thực tế và không làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo vì số tiền
thu được không do bị cáo tự khai nộp mà do cơ quan điều tra thu hồi được,
mặt khác tuổi đời của các bị cáo đã ngoài 20 tuổi. Vì vậy, bản án nói trên đã
bị Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm để xét xử lại theo hướng
tăng hình phạt cho các bị cáo.
Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao chưa hướng dẫn việc Tòa án có thể quyết định hình
phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật quy định trong phạm vi nào, nên khó
tránh khỏi việc lạm dụng trong một số trường hợp Tòa án quyết định mức
hình phạt quá nhẹ so với mức thấp nhất của khung hình phạt đang áp dụng,
không tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội. Ví dụ: L một thủ kho quản lý vũ khí, trong thời gian công tác L đã
chiếm đoạt và bán trái phép một số lượng lớn vũ khí quân dụng (hàng chục
khẩu súng và hạng vạn viên đạn các loại), Viện kiểm sát đã truy tố L theo
khoản 3 Điều 95 Bộ luật hình sự năm 1985. Tòa án sơ thẩm đã căn cứ vào
tình tiết L đã ăn năn hối cải, thật thà khai báo, tự nguyện bồi thường và đã áp
dụng khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985 để tuyên L chịu 3 năm tù với
tội chiếm đoạt vũ khí quân dụng và 2 năm tù về tội mua bán trái phép vũ khí
28
quân dụng. Như vậy, L bị tổng hợp hình phạt là 5 năm tù tương đương hình
phạt thuộc khoản 1 Điều 95 Bộ luật hình sự năm 1985. Chính vì vậy, bản án
này đã bị kháng nghị giám đốc thẩm và bị hủy án để xét xử sơ thẩm lại.
Bộ luật hình sự năm 1985 mới chỉ ghi nhận quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của Bộ luật hình sự là một trường hợp đặc biệt trong việc áp
dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chứ không phải là trường hợp
đặc biệt của quyết định hình phạt; đồng thời dễ dẫn đến sự lạm dụng quyết
định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự từ phía Tòa án khi tùy ý
áp dụng thêm tình tiết khác và có thể coi đó là tình tiết giảm nhẹ theo quy
định khoản 2 Điều 38 Bộ luật hình sự. Mặt khác, đã không dự liệu được quyết
định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong trường hợp điều
luật chỉ có một khung hình phạt.
1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999 đến nay
Ngày 21/12/1999, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa X nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật hình sự mới thay thế Bộ luật
hình sự được Quốc hội thông qua ngày 27/6/1985 và các Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua ngày 28/12/1989,
ngày 12/8/1991, ngày 22/12/1992 và ngày 10/5/1997. Theo Nghị quyết số 32/QH10
của Quốc hội thì Bộ luật hình sự 1999 có hiệu lực từ ngày 01/7/2000.
Luật hình sự pháp điển hóa lần thứ hai thì các quy định về quyết định
hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự cũng đã được sửa đổi, bổ sung
và tiếp tục hoàn thiện với nhiều điểm mới về nội dung và kĩ thuật lập pháp
bảo đảm mối quan hệ giữa các chương trong Phần chung, giữa các điều luật
trong một chương được chặt chẽ, bảo đảm tính logíc và tính khoa học cao hơn.
Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự đã được
ghi nhận và quy định thành một điều luật độc lập có tên cụ thể cũng góp phần
làm rõ ý tưởng của người làm luật cũng như nội dung của điều luật.
29
Để thống nhất áp dụng quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ
luật hình sự, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị
quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/08/2000 hướng dẫn cụ thể đối với
trường hợp điều luật có từ hai khung hình phạt trở lên và người phạm tội bị
truy cứu trách nhiệm hình sự không phải theo khung hình phạt nhẹ nhất; đối
với trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó
là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật; cần hạn chế và phải hết sức chặt
chẽ khi áp dụng trong trường hợp nếu không có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy
định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; đối với trường hợp xét xử cùng một
lần một người phạm nhiều tội; chỉ áp dụng đối với các hình phạt chính mà
không áp dụng đối với hình phạt bổ sung.
Ngày 30/9/2002, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn số
148/KHXX hướng dẫn về việc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ
luật hình sự đối với những hành vi phạm tội được thực hiện trước 0 giờ 00
ngày 01/7/2000 mà sau thời điểm này mới bị xét xử, căn cứ vào quy định tại
khoản 2 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 và hướng dẫn tại Thông tư liên tịch
số 02/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA của Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an "Hướng dẫn thi
hành Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 và Mục 2 Nghị quyết số 32/QH10
ngày 21/12/1999 của Quốc hội", thì Tòa án vẫn có thể quyết định một hình
phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một hình
phạt khác thuộc loại nhẹ hơn khi có hai tình tiết giảm nhẹ trở lên mà trong đó
chỉ có một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự
năm 1985 hoặc khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Các trường hợp
khác, Tòa án chỉ có thể quyết định một hình phạt nhẹ hơn dưới mức thấp nhất
của khung hình phạt mà điều luật đã quy định khi có ít nhất hai tình tiết giảm
nhẹ quy định từ khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.
30
1.4. QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.4.1. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Điều 63 Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1997, sửa
đổi năm 2005, 2009 quy định:
Khi có tình tiết giảm nhẹ mà Bộ luật này quy định được áp
dụng một hình phạt giảm nhẹ thì phải quyết định hình phạt theo
khung hình phạt nhẹ hơn theo quy định. Trong trường hợp không có
tình tiết giảm nhẹ theo quy định của Bộ luật này, nhưng căn cứ vào
tình tiết đặc thù của vụ án Tòa án nhân dân tối cao có thể quyết định
hình phạt nhẹ hơn trong khung hình phạt [12, tr. 60-61].
Điều 67 Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: "Sau
khi phạm tội mà tự nguyện đầu thú với công an và thực thà khai báo hành vi
phạm tội của bản thân thì gọi là tự thú, đối với người phạm tội mà tự thú thì có thể
xử phạt nhẹ hơn hoặc áp dụng một khung hình phạt nhẹ hơn..." [12, tr. 67-68].
Điều 68 Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định:
Nếu người phạm tội có biểu hiện lập công như vạch trần
được hành vi phạm tội của người khác, qua kiểm tra thực tế thấy
đúng hoặc cung cấp những manh mối quan trọng để từ đó phá được
những vụ án khác thì có thể xử phạt nhẹ hơn hoặc áp dụng một
khung hình phạt nhẹ hơn. Nếu lập công lớn thì có thể được áp dụng
một khung hình phạt nhẹ hơn hoặc miễn hình phạt [12, tr. 63].
Khác với luật hình sự Việt Nam quy định về quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa quy định chỉ cần có tình tiết giảm nhẹ mà Bộ luật quy định được áp dụng
một hình phạt giảm nhẹ thì bắt buộc phải quyết định hình phạt theo khung
hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt mà bị cáo bị xét xử mà không nhất thiết
31
phải là khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật, nhưng không được
chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Hơn nữa, Bộ luật hình sự
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa mở rộng phạm vi áp dụng quyết định hình
phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong những trường hợp tự thú
hoặc lập công lớn.
Như vậy, so sánh thấy rằng Bộ luật hình sự Việt Nam có thể tiếp thu
quan điểm khoa học của Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa áp
dụng quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong những
trường hợp tự thú hoặc lập công lớn sẽ góp phần thiết thực trong công tác đấu
tranh phòng và chống các tội phạm càng ngày phức tạp và có tổ chức trong thời
gian tới, đồng thời thực hiện thực chất nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa
đối với người phạm tội tự thú hoặc lập công lớn đặc biệt giúp cho các cơ quan
bảo vệ pháp luật phá tan các tổ chức tội phạm góp phần đảm bảo tốt an ninh
trật tự xã hội.
1.4.2. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
Liên bang Nga
Điều 65 Bộ luật hình sự Liên bang Nga năm 1996, sửa đổi năm 2010
quy định:
Khi có những tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự liên quan
đến động cơ và mục đích phạm tội, vai trò của người phạm tội, xử
sự của người phạm tội trong hoặc sau khi thực hiện tội phạm cũng
như khi có các tình tiết khác làm giảm đáng kể mức độ nguy hiểm
của tội phạm hoặc góp phần tích cực vào việc khám phá tội phạm
do một nhóm người thực hiện thì Tòa án có thể quyết định hình
phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với tội phạm đã
phạm hoặc quyết định một hình phạt nhẹ hơn hình phạt quy định tại
điều luật đó hoặc không áp dụng hình phạt bổ sung mà điều luật
quy định là hình phạt bắt buộc [45, tr. 86-88].
32
Điều 62 Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy định:
Khi có các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm i và
điểm k Điều 62 Bộ luật này và không có các tình tiết tăng nặng, thì
hình phạt không thể quá 3/4 thời hạn hình phạt hoặc 3/4 mức phạt
của loại hình phạt nặng hơn được quy định tại điều luật tương ứng
thuộc Phần riêng của Bộ luật này [45, tr. 80].
Tương tự, khác với Bộ luật hình sự Việt Nam quy định về quyết định
hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật hình sự Liên bang
Nga quy định rõ chỉ những tình tiết đặc biệt thể hiện bản chất làm giảm đáng
kể mức độ nguy hiểm của tội phạm thì Tòa án có thể quyết định hình phạt
dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với tội phạm đã phạm mà không
nhất thiết phải là khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật, hoặc quyết
định một hình phạt nhẹ hơn hình phạt quy định tại điều luật đó, hoặc không áp
dụng hình phạt bổ sung mà điều luật quy định là hình phạt bắt buộc. Tại Liên
bang Nga, Tòa án có thể quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật
hình sự đối với hình phạt chính và hình phạt bổ sung mà điều luật quy định là
hình phạt bắt buộc; đồng thời tạo sự linh hoạt hơn cho Tòa án trong những
trường hợp áp dụng khi có 2 tình tiết cụ thể và không có các tình tiết tăng
nặng, hoặc được đề nghị khoan hồng đặc biệt từ đoàn bồi thẩm.
Do vậy, Bộ luật hình sự Việt Nam có thể tiếp thu quan điểm khoa học
của Bộ luật hình sự Liên bang Nga về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của Bộ luật hình sự cần phải quy định những tình tiết giảm nhẹ thể hiện bản chất
làm giảm đáng kể mức độ nguy hiểm của tội phạm mới làm rõ được bản chất,
nội dung và ý nghĩa của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình
sự. Ngoài ra, cần đề cao và tin tưởng hơn nữa đối với vai trò độc lập xét xử của
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật để nhận định, đánh giá
đưa ra bản án phán quyết khách quan, đảm bảo đúng tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội đã giảm rất nhiều trong trường hợp đặc biệt, phù hợp
33
với bản chất, nội dung và ý nghĩa của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của
Bộ luật hình sự.
1.4.3. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
Nhật Bản
Điều 68 Bộ luật hình sự Nhật Bản năm 1907, sửa đổi năm 2011 quy định:
Khi có từ một hoặc hai lý do trở lên, phải được giảm nhẹ
mức hình phạt theo luật quy định, thì sẽ áp dụng như trường hợp
dưới đây:
1. Giảm nhẹ hình phạt từ tử hình xuống tù chung thân; hoặc
tù 10 năm hoặc cấm cố;
2. Giảm nhẹ tù chung thân hoặc cấm cố xuống còn trên 7 năm
hoặc cấm cố;
3. Giảm nhẹ tù có thời hạn hoặc giảm nhẹ cấm cố thì giảm
xuống một phần hai của kỳ dài và kỳ ngắn;
4. Giảm nhẹ hình phạt tiền xuống còn một phần hai mức
tiền nhiều và tiền ít;
5. Giảm nhẹ hình phạt giam giữ xuống còn một phần hai
mức kỳ dài;
6. Giảm phạt tiền mức nhẹ xuống còn một phần hai mức
tiền phạt ấy [13, tr. 81-82].
Điều 69 Bộ luật hình sự Nhật Bản quy định: "Trong trường hợp giảm
nhẹ hình phạt theo quy định của pháp luật, nếu điều khoản áp dụng có hai
hình phạt trở lên, thì quy định điều khoản áp dụng hình phạt đó trước rồi mới
giảm nhẹ hình phạt" [13, tr. 69-70].
Như vậy, so sánh với Bộ luật hình sự Việt Nam quy định về quyết
định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật hình sự Nhật
Bản tạo ra sự linh hoạt tối đa cho Tòa án áp dụng lý do giảm nhẹ tùy thuộc
vào từng người phạm tội với những tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
34
và hậu quả của vụ án hình sự đối với an ninh trật tự xã hội như thế nào để
thực hiện các phương thức với những mức giảm nhẹ hình phạt theo quy định
pháp luật. Đồng thời, Bộ luật hình sự Nhật Bản quy định cụ thể Tòa án quyết
định giảm nhẹ đối với từng loại hình phạt trong giới hạn nhất định.
Việc nhận định, đánh giá đầy đủ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội và áp dụng quy định về quyết định hình phạt nhẹ
hơn quy định của Bộ luật hình sự hoàn toàn phụ thuộc vào Tòa án Nhật Bản.
Bản án hình sự phải phân tích lý do làm giảm rất đáng kể tính chất, mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội cùng với hậu quả đã được khắc phục rất
nhiều để làm nổi bật và rõ ràng trong quyết định hình phạt của Tòa án giảm
nhẹ hình phạt đáng kể đối với bị cáo theo từng loại hình phạt được ghi nhận
cụ thể trong quy định của pháp luật.
1.4.4. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
Thụy Điển
Điều 5 Chương 29 Bộ luật hình sự Thụy Điển năm 2009 quy định:
...8. Do có nhiều tình tiết giảm nhẹ khác thì người phạm tội
có thể được hưởng hình phạt nhẹ hơn so với hình phạt áp dụng đối
với tội đó. Trong trường hợp tương tự, trường hợp có một hoặc
nhiều tình tiết quy định tại đoạn 1 điều này thì Tòa án có thể quyết
định hình phạt nhẹ hơn so với hình phạt áp dụng đối với tội đó
trong những trường hợp tương tự [46, tr. 282].
Điều 3 Chương 2 Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định:
Để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội, ngoài những quy định về tình tiết giảm nhẹ đối
với từng loại tội danh cụ thể cần cân nhắc các tình tiết sau đây:
1. Phạm tội do hành vi phạm tội nghiêm trọng của người
khác gây ra.
35
2. Bị cáo là người không bình thường hoặc có rối loạn về
tinh thần, hoặc vì các nguyên nhân khác mà bị giảm đáng kể khả năng
điều khiển hành vi của mình.
3. Hành vi của bị cáo là do sự chậm phát triển một cách rõ
ràng hoặc do thiếu kinh nghiệm hoặc khả năng suy xét.
4. Hành vi phạm tội xảy ra do lòng thương người.
5. Hành vi thuộc trường hợp không được miễn trách nhiệm
hình sự sẽ được miễn theo quy định tại Chương 24.
Phạm tội trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ thì có thể
được hưởng hình phạt nhẹ hơn hình phạt quy định đối với tội đó
trong trường hợp khác (Luật 1994:548) [46, tr. 10-12].
Điều 5 Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định:
1. Bị cáo có bị thương nặng do hậu quả của việc phạm tội
hay không.
2. Bị cáo đã cố gắng hết sức nhằm ngăn chặn thiệt hại hoặc
bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội của mình gây ra hay chưa.
3. Bị cáo đầu thú, tự thú hay không.
4. Bị cáo sẽ bị thiệt hại nếu bị trục xuất khỏi Vương Quốc
do phạm tội của mình hay không.
5. Bị cáo do phạm tội mà đã bị sa thải tại nơi làm việc hoặc
có cơ sở vững chắc để nhận định là sẽ bị sa thải hoặc bị cáo sẽ gặp
những trở ngại hoặc khó khăn đáng kể trong công việc hoặc nghề
nghiệp của mình hay không.
6. Do tuổi tác và bệnh tật, bị cáo không có khả năng chịu
được hình phạt áp dụng căn cứ vào tính chất, mức độ của tội đó.
7. Một thời gian quá dài trôi qua kể từ ngày tội phạm được
thực hiện, so với tính chất của tội phạm đó... [46, tr. 13-14].
Như vậy, khác với Bộ luật hình sự Việt Nam quy định về quyết định
hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật hình sự Thụy Điển
36
tạo ra sự linh hoạt cho Tòa án trong việc lựa chọn các căn cứ giảm nhẹ có thể
là những tình tiết giảm nhẹ đối với từng loại tội danh cụ thể, hoặc những tình
tiết khác liên quan đến việc xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội được liệt kê theo quy định thì Tòa án có thể quyết định
hình phạt nhẹ hơn hình phạt áp dụng đối với tội đó mà không nhất thiết phải
là hình phạt trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Tùy trường
hợp cụ thể trong từng vụ án hình sự mà Tòa án ở Thụy Điển có thể quyết định
hình phạt với mức và loại hình phạt cụ thể miễn là bảo đảm nhẹ hơn hình phạt
áp dụng đối với tội mà người phạm tội đã thực hiện.
Tóm lại, Bộ luật hình sự nước ngoài cũng quy định về quyết định hình
phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với người phạm tội có những
tình tiết đặc biệt làm giảm thật sự và khách quan tính chất, mức độ nguy hiểm
đáng kể của tội phạm cùng hậu quả của vụ án. Trường hợp tự thú hoặc lập
công lớn đặc biệt giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật phá tan các tổ chức
tội phạm góp phần quan trọng trong công tác đấu tranh, phòng chống các tội
phạm có tổ chức tại một số quốc gia được ghi nhận là tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự quan trọng để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt mà bị cáo đã phạm. Bộ luật hình sự của nhiều quốc gia phát
triển đề cao và quy định vai trò độc lập xét xử, chỉ tuân theo pháp luật của
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải nhận định, đánh giá lý do hoặc những
tình tiết đặc biệt thể hiện bản chất làm giảm đáng kể mức độ nguy hiểm của
tội phạm, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt đối với tội phạm đã phạm mà không nhất thiết phải là khung
hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật.
37
Chương 2
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
2.1. CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ
Để phân tích đầy đủ và toàn diện về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của Bộ luật hình sự, cần phải làm rõ tính khoa học pháp lý của quy định
này phù hợp với các quy định của Phần chung, Phần các tội phạm của Bộ luật
hình sự và đảm bảo tính hệ thống, liên quan với các quy phạm pháp luật hình
sự khác hướng dẫn áp dụng thống nhất quy định Điều 47 Bộ luật hình sự.
2.1.1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm đã thực hiện
- Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là
căn cứ phân loại tội phạm và xác định khung hình phạt cho từng tội phạm.
Từng điều luật trong Bộ luật hình sự cấu thành bởi các khung hình phạt có
mức khởi điểm và mức cao nhất của mỗi khung là khác nhau với những tình
tiết định khung hình phạt khác nhau, thể hiện những tính chất và mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội khác nhau khi bị cáo có số lượng tình tiết định
khung hoặc bị xét xử ở khung hình phạt khác nhau hoặc có tình tiết, yếu tố
khác nhau mặc dù cùng bị xét xử cùng một loại tội phạm và cùng một khung
hình phạt.
Thực tiễn xét xử, có nhiều bản luận tội hoặc bản án chỉ nêu chung
chung "hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội" còn nguy hiểm
như thế nào, mức độ nguy hiểm ra sao thì không phân tích được, dẫn đến khi
quyết định hình phạt không chính xác (quá nghiêm khắc hoặc quá nhẹ). Như
vậy, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội phụ thuộc vào
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOTLuận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiệnLuận văn: Phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện BiênLuận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Quy chế pháp lý và hoạt động xây dựng đảo nhân tạo, HOT
Luận văn: Quy chế pháp lý và hoạt động xây dựng đảo nhân tạo, HOTLuận văn: Quy chế pháp lý và hoạt động xây dựng đảo nhân tạo, HOT
Luận văn: Quy chế pháp lý và hoạt động xây dựng đảo nhân tạo, HOT
 
Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạtLuận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Luận văn: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
 
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOTLuận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
 
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niênLuận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOTLuận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOTLuận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
 
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đTội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Chủ thể đặc biệt trong Luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Chủ thể đặc biệt trong Luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Chủ thể đặc biệt trong Luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Chủ thể đặc biệt trong Luật hình sự Việt Nam, HAY
 

Similar to Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY

Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp Luật Hình Sự Việt Nam
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp Luật Hình Sự Việt NamCác tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp Luật Hình Sự Việt Nam
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp Luật Hình Sự Việt NamDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY (20)

Luận văn: Xét xử tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Xét xử tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiLuận văn: Xét xử tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Xét xử tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạmLuận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm
 
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sựLuận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOTLuận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
 
Luận văn: Tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong hình phạt
Luận văn: Tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong hình phạtLuận văn: Tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong hình phạt
Luận văn: Tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong hình phạt
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp Luật Hình Sự Việt Nam
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp Luật Hình Sự Việt NamCác tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp Luật Hình Sự Việt Nam
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo pháp Luật Hình Sự Việt Nam
 
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thực tiễn tại Đà Nẵng, HAY
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thực tiễn tại Đà Nẵng, HAYTình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thực tiễn tại Đà Nẵng, HAY
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thực tiễn tại Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sựLuận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
 
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt NamLuận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...
 
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAYĐề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sựCác tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Giảm nhẹ TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Giảm nhẹ TNHS đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Giảm nhẹ TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Giảm nhẹ TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TRONG LUẬT HÌNH SỰ
CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TRONG LUẬT HÌNH SỰCÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TRONG LUẬT HÌNH SỰ
CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TRONG LUẬT HÌNH SỰ
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )lamdapoet123
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11zedgaming208
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx22146042
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 

Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ NGỌC SINH QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ NGỌC SINH QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt HÀ NỘI - 2015
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Vò Ngäc Sinh
  • 4. 4 MỞ ĐẦU Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 9 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam 9 1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của quyết định hình phạt 9 1.1.2. Khái niệm và ý nghĩa của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam 13 1.2. Những nguyên tắc của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ Luật hình sự Việt Nam 16 1.2.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa 17 1.2.2. Nguyên tắc công bằng 19 1.2.3. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa 20 1.2.4. Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt 22 1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam từ năm 1985 đến nay 24 1.3.1. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 đến năm 1999 24 1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 đến nay 28 1.4. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới 30
  • 5. 5 1.4.1. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 30 1.4.2. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Liên bang Nga 31 1.4.3. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Nhật Bản 33 1.4.4. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Thụy Điển 34 Chương 2: QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 37 2.1. Căn cứ quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam 37 2.1.1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện 37 2.1.2. Căn cứ vào nhân thân người phạm tội 39 2.1.3. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự 42 2.1.4. Căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự 43 2.2. Nội dung quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự 44 2.2.1. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội 47 2.2.2. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự đối với các giai đoạn phạm tội và đồng phạm 48 2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam trên địa bàn thành phố Hải Phòng 58 2.3.1. Khái quát tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của thành phố Hải Phòng 58
  • 6. 6 2.3.2. Tình hình áp dụng quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng 60 2.4. Một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản 69 2.4.1. Một số tồn tại, hạn chế 69 2.4.2. Nguyên nhân 72 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG 74 3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự 74 3.1.1. Về mặt thực tiễn 74 3.1.2. Về mặt lý luận 75 3.1.3. Về mặt lập pháp 76 3.2. Hoàn thiện quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam 77 3.2.1. Nhận xét chung 77 3.2.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung 78 3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự 80 3.3.1. Giải pháp nâng cao năng lực, chất lượng đội ngũ Thẩm phán 83 3.3.2. Giải pháp nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ Hội thẩm nhân dân 89 3.3.3. Giải pháp tăng cường vai trò kiểm sát, giám sát việc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự 91 3.3.4. Giải pháp về bồi dưỡng, tập huấn, hướng dẫn quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự 92 KẾT LUẬN 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Bảng tổng hợp số liệu trong giai đoạn 8 năm (2007-2014) về xét xử sơ thẩm, phúc thẩm của hai cấp xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng 60 2.2 Bảng tổng hợp số liệu trong giai đoạn 8 năm (2007-2014) về áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự đối với hai cấp xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng 62 2.3 Bảng tổng hợp số liệu trong giai đoạn 8 năm (2007-2014) về áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự đối với người chưa thành niên, trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, đồng phạm 63 2.4 Bảng tổng hợp số liệu trong giai đoạn 8 năm (2007-2014) về áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự đối với các hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt cho hưởng án treo, hình phạt tù không cho hưởng án treo 65 3.1 Bảng kiến nghị sửa đổi quy định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự 79
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp luật hình sự là cơ sở pháp lý chủ yếu và quan trọng nhất của Nhà nước pháp quyền Việt Nam - con đường mới, đúng đắn, tất yếu và có tính quy luật cho sự phát triển của xã hội Việt Nam trong thế kỷ XXI đã được khởi xướng tại Đại hội Đảng lần thứ VIII (năm 1996) và tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; duy trì trật tự an toàn xã hội, trật tự quản lý kinh tế; tích cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến trình đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, bảo đảm cho mọi người được sống trong môi trường xã hội và sinh thái an toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao. Pháp luật và chính sách hình sự của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn hướng tới bảo đảm sự hài hòa và tương quan, đồng thuận và công bằng trong đánh giá hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự; giữa việc cần thiết hay không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt nghiêm khắc với việc cần thiết hay không cần thiết áp dụng hình phạt nhẹ hơn quy định mà vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội; giữa những chế tài pháp lý hình sự với các biện pháp tác động xã hội; giữa yêu cầu bảo đảm tính hướng thiện, nhân đạo trong xử lý người phạm tội với sự lên án, phê phán của dư luận xã hội. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân người phạm tội là những yếu tố phản ánh khả năng cải tạo của người phạm tội để tìm ra
  • 9. 2 biện pháp xử lý về hình sự có thể trong giới hạn đủ cần thiết vừa đạt được mục đích của hình phạt là nhằm cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật, các quy tắc của cuộc sống chung. Theo ý nghĩa này, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải là những tình tiết phản ánh khả năng cải tạo tốt của người phạm tội thể hiện thông qua thái độ thành thực hối lỗi về việc thực hiện tội phạm, có quan hệ tốt với cộng đồng, gia đình, có ý thức lao động, tinh thần sẵn sàng chịu trách nhiệm, quyết tâm cải tạo phục thiện, v.v… Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phản ánh mức độ thực hiện tội phạm chưa trọn vẹn do nguyên nhân khách quan hoặc do sự tự nguyện của người phạm tội; tác hại của tội phạm gây ra không lớn hoặc đã được khắc phục, mức độ lỗi hạn chế do người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế về khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, là người phạm tội trong tình trạng tinh thần bị kích động vì hành vi trái pháp luật của người khác, là người chưa thành niên… Đó là những tình tiết có khả năng làm giảm đi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Khi quy định hình phạt trong khâu lập pháp và nhất là khi Tòa án quyết định hình phạt, cần tính đến để có biện pháp hạn chế đến mức có thể những hậu quả phụ của hình phạt đối với những người không gây ra hành vi phạm tội nhưng vì lẽ này hay lẽ khác có mối liên hệ với người phạm tội chính là cơ sở mà pháp luật hình sự Việt Nam quy định tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vì lý do nhân đạo. Việc cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm để quy định khung hình phạt đối với các nhà làm luật bao giờ cũng mang tính khái quát và không thể có điều kiện để tính hết và quy định hết tất cả các trường hợp phạm tội khác nhau để quy định những hình phạt tương ứng đối với từng trường hợp phạm tội có thể xảy ra trên thực tế. Để tăng khả năng lựa chọn của Tòa án khi quyết định hình phạt đối với những trường hợp phạm tội cụ thể
  • 10. 3 khác nhau và nhằm bảo đảm sự công bằng và mục đích của hình phạt "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục", pháp luật hình sự Việt Nam quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự. Với những lý do nêu trên, học viên quyết định lựa chọn đề tài: "Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hải Phòng" làm Luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự là một trường hợp quyết định hình phạt đặc biệt có ảnh hưởng rất quan trọng đến chính sách xử lý hình sự, ảnh hưởng đến cơ quan Tòa án áp dụng và cá nhân người phạm tội. Một số quy định của Bộ luật hình sự nói chung cũng như quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự vẫn còn một số bất cập, hạn chế, làm ảnh hưởng đến sự thống nhất, hiệu quả áp dụng quy định pháp luật và chưa đảm bảo mục đích hình phạt đối với người phạm tội. Do quyết định hình phạt có vị trí, vai trò quan trọng trong luật hình sự, nên có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh, phương diện khác nhau về quyết định hình phạt và trách nhiệm hình sự, trong đó có quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam, cụ thể như sau: * Dưới góc độ sách chuyên khảo, tham khảo, giáo trình có một số công trình như: 1) PGS.TS. Trịnh Quốc Toản: Chương XVI - Quyết định hình phạt, Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản năm 2003, 2007 (GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên); 2) PGS.TS. Lê Văn Đệ: Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010; 3) PGS.TS. Dương Tuyết Miên: Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội,
  • 11. 4 2007; 4) ThS. Đinh Văn Quế: Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000; v.v... * Dưới góc độ khóa luận, luận văn, luận án tiến sĩ luật học có một số công trình như: 1) Trần Thị Thu Hà: Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2005; 2) Lê Xuân Lục: Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, 2013, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. * Một số bài viết trên các tạp chí khoa học pháp lý như: 1) GS.TSKH. Lê Văn Cảm, GS.TS. Võ Khánh Vinh: Quyết định hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt đối với một tội - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1+2/1988; 2) TS. Phạm Mạnh Hùng: Vấn đề quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3/2001; 3) TS. Lê Đăng Doanh: Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2003; 4) TS. Trần Thị Quang Vinh: Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của pháp luật hình sự, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2000; 5) ThS. Phạm Văn Báu: Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật, những bất cập và phương hướng hoàn thiện, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 18/2008; v.v… Như vậy, nhiều công trình nghiên cứu khoa học trên đây đều đưa ra một số quan điểm phản ánh những bất cập của quy định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, nhưng vẫn thiếu dẫn chứng thực trạng cụ thể áp dụng quy định này trên địa phương nhất định để đề cập những vướng mắc, khó khăn thực tế cần kiến nghị, khắc phục. Đây cũng chính là một lý do để học viên muốn đóng góp quan điểm của riêng mình khi bàn về vấn đề trên. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của Bô ̣luật hình sự Việt Nam hiện hành về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự
  • 12. 5 trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng áp dụng quy định này tại địa bàn thành phố Hải Phòng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho sự cần thiết để học viên lựa chọn đề tài "Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hải Phòng" làm luận văn thạc sĩ luật học, góp phần đáp ứng sự cần thiết trong nghiên cứu khoa học pháp lý và đòi hỏi khách quan trong thực tiễn áp dụng quy định của Bô ̣luâ ̣t hình sự. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về các vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam; đồng thời đi sâu phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong giai đoạn 8 năm (2007-2014). Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn, từ đó đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định này của Bộ luật hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Làm rõ các đặc điểm chung của quy định về quyết định hình phạt, đặc điểm cơ bản của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, từ đó làm sáng tỏ khái niệm và ý nghĩa của việc quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam. - Hệ thống hóa lịch sử hình thành và phát triển của quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam từ năm 1985 đến nay.
  • 13. 6 - Phân tích các quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam, qua đó, phân biệt quy định này với quy định về quyết định hình phạt. - Nghiên cứu quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới để rút ra nhận xét, đánh giá. - Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong giai đoạn 08 năm (2007-2014). - Luận chứng sự cần thiết phải hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, qua đó, đề xuất hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định này của Bộ luật hình sự. 3.3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng quy định trong thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân các cấp trên địa bàn thành phố Hải Phòng và các nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định này. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong giai đoạn 08 năm (2007-2014). 4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết của Đại hội Đảng X, XI và các Nghị quyết số 08-NQ/TW
  • 14. 7 ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Quá trình nghiên cứu đề tài, luận văn cũng bám sát việc sử dụng các phương pháp nghiên cứ uchính của khoa học luật hình sự để thấy rõmứ c độhiê ̣u quả của quy đi ̣nh quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, đó là: phương pháp xã hô ̣i học, phương pháp lôgíc hình thứ c, phương pháp luâ ̣t học - lịch sử, phương pháp luâ ̣t ho ̣c - so sánh và phương pháp biện chứng. Ngoài ra, luâ ̣n văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, quy nạp để phân tích cụthể hơn thực tra ̣ng áp dụng quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trên đi ̣a bàn thành phố Hải Phòng, cũng như nhằm làm rõ n hững nguyên nhân cơ bản của các bất câ ̣p, tồn ta ̣i trong thực tiễn áp dụng. 5. Những đóng góp mới của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng liên quan tới quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam. Một số điểm mới cơ bản của luận văn là: - Xây dựng khái niệm quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam, bảo đảm lý luận khoa học, thống nhất, đồng thời chỉ ra các đặc điểm cơ bản của nó. - Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình quy định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam từ năm 1985 cho đến nay. - Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình áp dụng quy định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự của Tòa án nhân dân các cấp trên địa bàn thành phố Hải Phòng; nguyên nhân cơ bản và những tồn tại, hạn chế của thực tiễn áp dụng quy định này.
  • 15. 8 - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất sự cần thiết và việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng áp dụng quy định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn được mong muốn sẽ là một tài liệu nghiên cứu, tham khảo đóng góp trong công tác nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự nói chung, góp phần thiết thực đối với các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên trong quá trình xét xử các vụ án hình sự, đảm bảo việc tuyên bản án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và đạt hiệu quả của mục đích hình phạt đối với người phạm tội. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự. Chương 2: Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng.
  • 16. 9 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của quyết định hình phạt Người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì phải chịu hậu quả pháp lý thể hiện trong việc Tòa án nhân dân nhân danh Nhà nước kết án người đã bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm đó, còn người bị kết án phải chịu sự tác động về mặt pháp lý hình sự theo một trình tự, tố tụng riêng. Tuy nhiên, mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hô ̣i chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Đồng thời, góp phần tác động lớn đối với xã hội thông qua tác dụng tuyên truyền, phổ biến các quy định luật hình sự, tính nghiêm minh các phán quyết của Tòa án; từ đó tạo nên lòng tin của công dân đối với sự nghiêm minh của pháp chế, tính minh bạch và sự bình đẳng của pháp luật, sức mạnh và uy tín của cơ quan tư pháp, tính nhân đạo và dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và sự tuân thủ, ý thức chấp hành pháp luật của người dân, cũng như chủ động cảnh giác, phòng ngừa các hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nói một cách khác, đúng như PGS.TS. Trịnh Quốc Toản đã viết: "Hình phạt là sự thống nhất giữa trừng trị và cải tạo, giáo dục… Chúng ta chỉ nói đến hình phạt khi có sự tồn tại của hai yếu tố đó" [41, tr. 28-29]. Trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội thì: "Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội" [15, tr. 317].
  • 17. 10 Trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội và theo PGS. TS. Lê Văn Đệ trong bài Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam thì: "Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội cụ thể" [10, tr. 161], [43, tr. 201]. Các khái niệm nêu trên đều thể hiện quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) và mức hình phạt cụ thể theo quy định luật hình sự để áp dụng đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và có lỗi trong việc phạm tội. Quyết định hình phạt đối với hình phạt chính chỉ đặt ra trong trường hợp Tòa án phán quyết đối với người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự và cần thiết phải áp dụng hình phạt nhằm trừng trị, cải tạo và giáo dục họ; đồng thời, Tòa án có thể lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể; cũng có thể chỉ là việc Tòa án chọn loại hoặc chọn mức hình phạt cụ thể trong trường hợp khung hình phạt quy định loại hình phạt nhất định. Quyết định hình phạt đối với hình phạt bổ sung là việc lựa chọn hình phạt bổ sung (có thể là một hoặc nhiều loại) và xác định mức hình phạt đã được quy định nhằm hỗ trợ cho hình phạt chính mới bảo đảm đầy đủ mục đích hình phạt đối với người phạm tội. Với ý nghĩa đó, quyết định hình phạt chính được coi là nội dung cơ bản của quyết định hình phạt và quyết định bản chất của khái niệm quyết định hình phạt. Tuy nhiên, quyết định hình phạt trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội còn được hiểu theo nghĩa rộng hơn đó là: Quyết định hình phạt là tổng hợp các hoạt động của Tòa án trong việc xác định người phạm tội có được miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt hay không, xác định khung hình phạt, loại và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi khung hình phạt cụ thể hoặc dưới đó [43, tr. 201-202]. Trong Giáo trình kỹ năng xét xử vụ án hình sự của Học viện Tư pháp định nghĩa:
  • 18. 11 Quyết định hình phạt là một giai đoạn, một nội dung của áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản điều luật) theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong bản án buộc tội [14, tr. 42]. Quyết định hình phạt là hoạt động tư duy của Hội đồng xét xử ngay sau khi đã xác định tội danh đối với hành vi phạm tội, nếu định tội là tiền đề, là cơ sở cho việc quyết định hình phạt, thì quyết định hình phạt là kết quả cuối cùng của hoạt động xét xử. Quyết định hình phạt chính xác có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động xét xử của Tòa án. Để quyết định hình phạt chính xác, đúng pháp luật, ngoài việc định tội chính xác, Tòa án còn phải tuân theo những nguyên tắc, những căn cứ về quyết định hình phạt đã được quy định trong Bộ luật hình sự. Ngoài ra, Tòa án còn phải xem xét cân nhắc đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của từng địa phương, yêu cầu của việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm và các yếu tố khác có liên quan đến việc quyết định hình phạt. Tóm lại, từ những phân tích nêu trên, theo học viên có thể đưa ra khái niệm đang nghiên cứu như sau: Quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật của Tòa án do Hội đồng xét xử thực hiện căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự và dựa trên những nguyên tắc nhất định, được thực hiện tùy thuộc vào từng trường hợp để xác định loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể áp dụng cho bị cáo phạm tội cụ thể hoặc miễn hình phạt cho người đó theo quy định của Bộ luật hình sự phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam có những đặc điểm cơ bản và ý nghĩa như sau: Thứ nhất, quyết định hình phạt có căn cứ, đúng pháp luật, công minh là tiền đề, điều kiện để đạt được mục đích của hình phạt được quy định tại Điều 27 Bộ luật hình sự:
  • 19. 12 Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm [23]. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải hướng tới mục đích của hình phạt mà mình đã tuyên trong bản án phải đảm bảo hiệu quả và hài hòa giữa "trừng trị" và "cải tạo, giáo dục", nếu hình phạt được áp đặt cho một trong những mục đích nào đó sẽ làm ảnh hưởng các mục đích khác, sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả và mục đích đầy đủ của hình phạt. Trường hợp coi nhẹ tính trừng trị của hình phạt thì có thể dẫn đến hình phạt quá nhẹ, không tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, làm giảm tính răn đe, giáo dục đối với người phạm tội, làm lung lay niềm tin của người dân và của phần lớn những người trực tiếp tham gia công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Ngược lại, nếu coi nhẹ tính nhân đạo, tính giáo dục sẽ tạo ra quyết định hình phạt nghiêm khắc dẫn đến tâm lý tiêu cực, phản giáo dục và khó cải tạo đối với người phạm tội. Do vậy, bản án của Tòa án quyết định hình phạt đảm bảo tính nhân đạo, công minh và đúng pháp luật sẽ đạt được mục đích của hình phạt đối với người phạm tội. Thứ hai, quyết định hình phạt đúng đắn sẽ có ý nghĩa nâng cao hiệu quả của hình phạt vì hậu quả tiêu cực do quyết định hình phạt tạo ra càng nhỏ thì hiệu quả của hình phạt càng cao, ngược lại quyết định hình phạt đưa đến hậu quả tiêu cực thì hiệu quả của hình phạt càng thấp. Mục đích của hình phạt đảm bảo hiệu quả nếu Tòa án quyết định hình phạt có thể tiết kiệm đến mức thấp nhất yếu tố trấn áp về hình sự khi sử dụng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được quy định trong pháp luật hình sự. Thứ ba, quyết định hình phạt là một hoạt động tư duy mang tính pháp lý nghiêm minh, chặt chẽ nhưng nhân văn của Hội đồng xét xử trên cơ sở xem
  • 20. 13 xét toàn diện, đầy đủ những chứng cứ, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, điều kiện, hoàn cảnh và nhân thân của người phạm tội, cũng như điều kiện kinh tế - chính trị và xã hội và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm của mỗi địa phương... Hiệu quả cao của pháp luật hình sự đạt được không phải là bằng sự mở rộng phạm vi áp dụng hoặc tăng nặng hình phạt, mà phải bằng việc phân hóa tối đa trách nhiệm hình sự và bảo đảm hoàn toàn nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm hình sự. Tội phạm hóa những hành vi nguy hiểm cho xã hội và quyết định hình phạt đối với những người gây ra tội phạm cũng làm ảnh hưởng tiêu cực nhiều đối với Nhà nước về nhiều mặt, do vậy, rất cần thiết phải giảm nhẹ sự trấn áp về hình sự đối với bị cáo, cũng như sự cần thiết của việc kết hợp với tính nhân văn và nguyên tắc xã hội chủ nghĩa. 1.1.2. Khái niệm và ý nghĩa của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam Khi quyết định hình phạt đối với bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, mặc dù Tòa án có thể tuyên cho người phạm tội ở mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng xét về mức độ tương xứng giữa tội phạm và hình phạt thì hình phạt đó vẫn nghiêm khắc, chưa đạt được mục đích, hiệu quả của hình phạt, vì vậy, luật hình sự cho phép Tòa án quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Việc cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong mỗi khung hình phạt tuy đảm bảo tương đối tính khoa học, tính hợp lý và tính khái quát cao; nhưng phán quyết của Tòa án đối với người phạm tội ảnh hưởng tiêu cực đối với con người cụ thể, trực tiếp hạn chế một phần quyền con người, quyền công dân, ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý, ý thức cải tạo của người chấp hành án, ảnh hưởng đến hoạt động của gia đình, ý thức của đa số người thân cũng như những người dân sống trên địa bàn của người đó. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự nhằm tạo cho Tòa án khả năng lựa chọn trong giai đoạn quyết định hình phạt đối với từng
  • 21. 14 trường hợp cụ thể khác nhau bảo đảm mục đích và hiệu quả của hình phạt, đồng thời cũng quy định chặt chẽ nhằm tránh việc vận dụng không đúng. Có nhiều quan điểm khoa học khác nhau về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự nhưng vẫn chưa thống nhất và chưa bảo đảm tính hệ thống, tính chặt chẽ, tính phù hợp, kỹ thuật xây dựng văn bản. Nhiều quan điểm khoa học mới chỉ dừng lại ở việc giải thích nội dung của quy phạm pháp luật về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự mà chưa đưa ra đầy đủ những tiêu chí và tiêu chuẩn quan trọng đánh giá khách quan và chính xác quy phạm pháp luật đó. Cụ thể: Tại Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng: Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật đã quy định tức là áp dụng hình phạt đó với mức thấp hơn mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định đối với tội phạm bị xét xử; còn chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn nghĩa là thay thế loại hình phạt được quy định trong điều luật về tội phạm bị xét xử bằng một loại hình phạt khác nhẹ hơn không được quy định trong điều luật [15, tr. 332]. Theo quan điểm của ThS. Đinh Văn Quế trong bài Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam thì: "Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự là trường hợp Tòa án có thể áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn" [19, tr. 220]. Trên cơ sở khái niệm quyết định hình phạt nêu trên, đồng thời phân tích toàn diện ngoài những đặc điểm chung của quyết định hình phạt, quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự còn bao gồm những đặc điểm cơ bản được thừa nhận chung đó là: - Là sự phản ứng, lên án của Nhà nước và xã hội đối với người có hành vi phạm tội thể hiện thông qua việc phải chịu trách nhiệm hình sự của người đó.
  • 22. 15 - Phản ánh chính sách phân hóa tội phạm và người phạm tội, thể hiện nguyên tắc "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng", "trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục, cải tạo" và nguyên tắc nhân đạo xã hô ̣i chủ nghĩa trong luật hình sự Việt Nam. - Phải tuân thủ những điều kiện nhất định theo quy định của Bộ luật hình sự. - Việc áp dụng chỉ do duy nhất một cơ quan áp dụng là Tòa án và chỉ được tiến hành sau khi định tội danh đối với cá nhân người phạm tội. - Hình phạt do Tòa án quyết định đối với người bị kết án trong trường hợp quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự không nằm trong khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử, nhưng phải nằm trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn hoặc loại hình phạt khác nhẹ hơn. - Phải được thể hiện bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án tuyên áp dụng quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự đối với người bị kết án. Tóm lại, từ những phân tích nêu trên, theo học viên có thể đưa ra khái niệm đang nghiên cứu như sau: Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự là hoạt động thực tiễn do Hội đồng xét xử áp dụng các quy định của pháp luật hình sự dựa trên những nguyên tắc nhất định và được thực hiện tùy thuộc vào từng trường hợp để quyết định một mức hình phạt nhẹ hơn thuộc cùng một loại hình phạt được quy định trong khung hình phạt tại điều luật cụ thể hoặc chuyển sang một loại hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn khung hình phạt tại điều luật cụ thể của Phần các tội phạm Bộ luật hình sự mà bị cáo đã thực hiện và bị Tòa án đưa ra xét xử. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự có những ý nghĩa đó là: - Hiện thực hóa nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc khác như: pháp chế xã hội chủ nghĩa, công bằng và cá thể
  • 23. 16 hóa hình phạt nhằm động viên người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được hưởng chính sách khoan hồng, nhân đạo và làm giảm đáng kể tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tạo những chuyển biến tích cực ảnh hưởng trong việc khắc phục hậu quả của tội phạm gây ra, tố giác những đồng phạm khác trong vụ án…, qua đó, bảo đảm mục đích và hiệu quả hình phạt của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người công dân hòa nhập với xã hội với ý thức, tôn trọng pháp chế xã hội chủ nghĩa. - Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự tạo ra sự linh hoạt đối với Tòa án khi quyết định hình phạt, nên có ý nghĩa quan trọng giúp cho Tòa án giải quyết đúng đắn mỗi cá nhân người phạm tội trong từng trường hợp phạm tội khác nhau trong mỗi khung hình phạt mà cơ quan lập pháp không thể khái quát, bao quát, dự liệu hết được. - Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự có ý nghĩa quan trọng giúp cho Tòa án trong một số trường hợp đưa ra được phán quyết hợp pháp, hợp lý và công bằng, góp phần tăng cường hiệu quả của quyết định hình phạt và đạt được các mục đích của hình phạt đó, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. 1.2. NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Với tuyên bố quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền "của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân", Nhà nước ta đã thực hiện các tư tưởng pháp lý tiến bộ được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại ngay từ khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 cho đến nay thể hiện ở các mức độ khác nhau thông qua mười nguyên tắc của hoạt động tư pháp hình sự được GS.TSKH. Lê Văn Cảm chỉ ra là: Pháp chế, công minh, nhân đạo, dân chủ, bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, trách nhiệm hình sự do lỗi, trách nhiệm hình sự cá nhân, suy đoán vô tội, tiết
  • 24. 17 kiệm tối đa các biện pháp trấn áp về hình sự và bảo đảm sự tôn trọng các quyền và tự do của con người trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự [4, tr. 78-79]. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam là một trường hợp đặc biệt của quyết định hình phạt nên nguyên tắc của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự phải tuân theo các nguyên tắc nhất định của quyết định hình phạt, có nghĩa là tổng thể các nguyên tắc thống nhất được rút ra từ các quy định của pháp luật hình sự và là những tư tưởng xuất phát điểm có tính chất chỉ đạo, định hướng cho hoạt động của Tòa án khi áp dụng chế tài hình sự đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm. Tuân thủ triệt để những nguyên tắc này, hình phạt do Tòa án quyết định đảm bảo được mục đích của hình phạt và hiệu quả công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Các nguyên tắc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự phù hợp với các nguyên tắc chung của luật hình sự và mang tính đặc thù riêng của hoạt động quyết định hình phạt; được đúc rút ra từ các quy định của Bộ luật hình sự, từ chính sách hình sự của nhà nước; tạo thành hệ thống logic biện chứng và thống nhất giữa các yếu tố chủ quan và khách quan tác động hoạt động của Tòa án khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Hệ thống các nguyên tắc đó được thừa nhận chung bao gồm: - Nguyên tắc pháp chế xã hô ̣i chủ nghĩa; - Nguyên tắc công bằng; - Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa; - Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt [51, tr. 162-163]. 1.2.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa Tiếp thu tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại trong hai văn bản quốc tế về nhân quyền của Liên Hợp quốc mà Việt Nam đã ký kết tham gia, cam
  • 25. 18 kết thực hiê ̣n chống lại nguyên tắc tương tự là nguyên nhân dẫn đến tình trạng vô pháp luật, tùy tiện, xâm phạm thô bạo các quyền lợi hợp pháp và tự do của công dân, đó là Tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948 (theo Điểm 2 Điều 11) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966 (khoản 1 Điều 15) với quy đi ̣nh: "Không có tội phạm, không có hình phạt nếu điều đó không được luật quy định" [42, tr. 62-69; tr. 175-202]. Thực hiện triệt để nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa phải đảm bảo bốn nội dung cơ bản, đó là: - Bất kỳ một hành vi nào chỉ bị coi là tội phạm bị trừng phạt bằng chế tài pháp lý hình sự trong đó phải chịu hình phạt và các hậu quả pháp lý hình sự khác của việc thực hiện hành vi đó chỉ và phải do Bộ luật hình sự - đạo luật hình sự có hiệu lực pháp lý cao nhất đối với trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt quy định. Chỉ người nào phạm một tội mới phải chịu trách nhiệm hình sự và chỉ Hội đồng xét xử mới có thẩm quyền ra quyết định hình phạt đối với bị cáo. Khi quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự đối với bị cáo phải đảm bảo loại và mức hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự. - Việc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự nhất thiết phải trên cơ sở tuân thủ, chấp hành và áp dụng nghiêm chỉnh và nhất quán các quy phạm pháp luật hình sự. Trên cơ sở những căn cứ, nội dung của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự và thực tế cá nhân người phạm tội trong vụ án hình sự cụ thể đáp ứng những điều kiện quy định của Bộ luật hình sự thì Tòa án mới có thể cân nhắc áp dụng quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự đối với bị cáo đó. - Không được áp dụng luật hình sự theo nguyên tắc tương tự. - Bảo đảm tính hợp lý của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự là phương án tối ưu nhất và phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và vụ án hình sự đã gây ra đã bị giảm nhiều đáng kể sự nguy
  • 26. 19 hiểm cho xã hội đáp ứng đầy đủ mục đích của hình phạt, chính sách nhân đạo xã hội chủ nghĩa nhưng vẫn đảm bảo phục vụ tốt yêu cầu chính trị - xã hội tại địa phương, được nhân dân và dư luận đồng tình ủng hộ [3, tr. 204-205]. 1.2.2. Nguyên tắc công bằng Công ước quốc tế quy định cấm kết án hoặc trừng phạt hai lần đối với cùng một tội phạm thể hiện tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại đã có từ thời đại xa xưa với câu ngạn ngữ La tinh cổ đại nổi tiếng: "Pháp luật là nghệ thuật của sự thật và công lý". Hình phạt đối với người chấp hành án có đảm bảo hiệu quả và mục đích của nó hay không được đánh giá trên cơ sở tổng thể nhiều yếu tố, trong đó có sự đánh giá của dư luận xã hội, dân cư trên địa bàn, ý thức pháp luật, đạo đức xã hội và hiệu quả cải tạo, giáo dục của người phạm tội và bảo đảm phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội không phân biệt dân tộc, tôn giáo, địa vị kinh tế, giới tính,… [3, tr. 206-207]. Nguyên tắc công bằng phải bảo đảm những nội dung cơ bản trong quá trình thực hiện quyết định hình phạt, đó là: - Không một bị cáo nào có thể phải chịu trách nhiệm hình sự hai lần về cùng một tội phạm hoặc tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng nguy hiểm không đáng kể thì không bị coi là tội phạm. - Quyết định hình phạt phải phù hợp với tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, động cơ và mục đích phạm tội, mức độ lỗi, cũng như tính chất nguy hiểm cho xã hội của bị cáo. - Bộ luật hình sự có các quy định để Tòa án có thể lựa chọn loại và mức hình phạt phù hợp hơn cả đối với bị cáo trên cơ sở tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thực tế của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự trên cơ sở những đánh giá, lập luận khách quan, cụ thể và đầy đủ lý do được ghi rõ trong bản án. - Người có hành vi phạm tội với những tình tiết tương đương không được đánh giá khác nhau không phân biệt dân tộc, tôn giáo, địa vị kinh tế,
  • 27. 20 giới tính,… đồng thời phải được đánh giá trong sự so sánh với những tội phạm khác hoặc với những người phạm tội khác [3, tr. 206-207]. Bộ luật hình sự quy định một số điều luật thể hiện nguyên tắc công bằng, đó là: Điều 29 Bộ luật hình sự quy định đối với hình phạt cảnh cáo hoặc Điều 30 Bộ luật hình sự quy định đối với hình phạt tiền là hình phạt chính hoặc Điều 31 Bộ luật hình sự quy định có thể phạt cải tạo không giam giữ từ sáu tháng đến ba năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật hình sự quy định nếu xét thấy bị cáo đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng và không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Đây là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và có ý nghĩa tiền đề, cơ sở để đạt được mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội. 1.2.3. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa Tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại về tính nhân đạo của pháp luật, của quyết định hình phạt được thể hiện tại hai văn bản quốc tế quan trọng của Liên hợp quốc (Điều 5 Tuyên ngôn nhân quyền và Điều 7 Công ước quốc tế) và Công ước của Liên hợp quốc ngày 10/12/1984 về việc chống tra tấn và các hình thức đối xử và hình phạt khác tàn nhẫn, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm của người khác [42, tr. 48]. Đây là một nguyên tắc đặc thù của luật hình sự Việt Nam và đòi hỏi phải đảm bảo mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội trong suốt quá trình tranh tụng để đưa ra phán quyết của bản án hình sự. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải xem xét toàn diện nhiều căn cứ về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; mục đích, động cơ, điều kiện, hoàn cảnh, tâm sinh lý và nhân thân của người phạm tội; đồng thời phải đánh giá đầy đủ các lợi ích của Nhà nước, của xã hội, của gia đình và của bị cáo trong mối quan hệ biện chứng, hài hòa và hợp lý.
  • 28. 21 Nguyên tắc nhân đạo được thể hiện với các nội dung cơ bản, đó là: - Hình phạt, các biện pháp tư pháp và chế định pháp lý hình sự khác áp dụng đối với bị cáo không nhằm mục đích gây nên những đau đớn về thể xác và hạ thấp nhân phẩm con người. - Nếu trong việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự mà thiếu dù chỉ là một trong năm đặc điểm của tội phạm, thiếu một trong năm dấu hiệu của chủ thể tội phạm, thiếu một trong năm điều kiện của trách nhiệm hình sự, thì tương ứng như vậy, hành vi ấy không phải là tội phạm, người thực hiện hành vi ấy không phải là chủ thể tội phạm và do vậy, trách nhiệm hình sự bị loại trừ. - Mức độ trách nhiệm hình sự của người phạm tội là người có năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế, người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc nuôi con nhỏ, người đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo được giảm nhẹ hơn so với người phạm tội là người bình thường [3, tr. 207-209]. Các quy định trong Bộ luật hình sự thể hiện nguyên tắc này như sau: - Tại khoản 3 Điều 3 Bộ luật hình sự quy định: Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục. - Tại khoản 2 Điều 7 Bộ luật hình sự quy định: điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành. - Tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự quy định: điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.
  • 29. 22 - Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Điều 46 Bộ luật hình sự và quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định theo Điều 47 Bộ luật hình sự. - Miễn hình phạt theo Điều 54 Bộ luật hình sự. - Các quy định đối với người chưa thành niên phạm tội theo các điều từ Điều 57 đến Điều 63 Bộ luật hình sự [3, tr. 207-209]. 1.2.4. Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt Căn cứ các quy định của pháp luật hình sự và ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa, Tòa án phải đánh giá đầy đủ và toàn diện các tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; mục đích, động cơ, hoàn cảnh, điều kiện và nhân thân của người phạm tội; các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt cụ thể đối với bị cáo đảm bảo mục đích và hiệu quả của hình phạt. Do đó, phản ánh rõ "nguyên tắc xử lý" trong luật hình sự Việt Nam là mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng và công minh theo đúng pháp luật, góp phần đảm bảo mục đích cơ bản của hoạt động tư pháp hình sự trong Nhà nước pháp quyền - bảo vệ vững chắc các quyền tự do của công dân với phương châm "không bỏ lọt kẻ phạm tội, tránh làm oan người vô tội" [3, tr. 211-212]. Tùy theo tính chất và mức độ gây nguy hại cho xã hội theo quy định của pháp luật mà phân loại tội phạm để xử lý hình sự và quyết định hình phạt khác nhau. Tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến ba năm tù là tội phạm ít nghiêm trọng; tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến bảy năm tù là tội phạm nghiêm trọng; tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến mười lăm năm tù là tội phạm rất nghiêm trọng; tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Các điều
  • 30. 23 luật trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự đều quy định khung hình phạt và các hình phạt khác nhau để Tòa án quyết định hình phạt trên những cơ sở, căn cứ nhất định theo quy định luật hình sự nhằm cá thể hóa hình phạt trong áp dụng luật hình sự đối với từng vụ án hình sự và bị cáo khác nhau. Nguyên tắc này được thể hiện thông qua nhiều quy phạm như sau: - Tại Điều 2 Bộ luật hình sự quy định: Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. - Tại khoản 2 Điều 3 Bộ luật hình sự quy định: Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng. Khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra [23]. - Trong Bộ luật hình sự quy định: Điều 8 (Khái niệm tội phạm); Điều 9 (Cố ý phạm tội); Điều 10 (Vô ý phạm tội); Điều 11 (Sự kiện bất ngờ); Điều 12 (Tuổi chịu trách nhiệm hình sự); Điều 13 (Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự); Điều 14 (Phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác); Điều 15 (Phòng vệ chính đáng); Điều 16 (Tình thế cấp thiết); Điều 17 (Chuẩn bị phạm tội); Điều 18 (Phạm tội chưa đạt); Điều 19 (Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội); Điều 49 (Tái phạm, tái phạm nguy hiểm); Điều 53 (Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm),... [3, tr. 211-212]. Nguyên tắc này có ý nghĩa rất lớn trong tư tưởng pháp lý loại trừ nguyên tắc trách nhiệm hình sự tập thể như là di sản pháp lý phi nhân tính của các chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, phát xít đàn áp dã man người dân.
  • 31. 24 1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1985 ĐẾN NAY 1.3.1. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 đến năm 1999 Ngày 27/6/1985, Quốc hội đã thông qua Bộ luật hình sự đầu tiên tạo cơ pháp lý thống nhất và quan trọng trong công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm. Khi pháp điển hóa lần thứ nhất luật hình sự Việt Nam - Bộ luật hình sự năm 1985, quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định đã được ghi nhận chính thức, nhưng chỉ được quy định chung cùng với những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điều 38 Bộ luật hình sự. Trong khoảng 15 năm tồn tại, Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997, trong đó tiếp tục hoàn thiện một số quy định Phần chung về hình phạt như về hình phạt tiền, về nguyên tắc tổng hợp hình phạt, về điều kiện cho hưởng án treo,… để các quy định này phù hợp hơn với tình hình tội phạm cũng như tình hình áp dụng luật hình sự. Theo khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985 đã phản ánh nội dung của quy định quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự: "Khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác nhẹ hơn. Lý do giảm nhẹ này phải được ghi trong bản án" [21]. Để thống nhất việc áp dụng khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/1989/HĐTP ngày 19/4/1989 quy định: 1 - Khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ là khi có từ 2 tình tiết giảm nhẹ trở lên, trong đó có ít nhất là một tình tiết đã được quy định tại khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự.
  • 32. 25 Việc bị cáo chưa đến tuổi thành niên đã là một tình tiết giảm nhẹ đặc biệt, cho nên đối với bị cáo chưa thành niên thì chỉ cần có một tình tiết giảm nhẹ đã được quy định ở khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự là có thể áp dụng khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự. 2 - Tùy theo số lượng và tính chất của các tình tiết giảm nhẹ, đồng thời tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà quyết định giảm nhẹ trong khung hình phạt hay áp dụng một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đó, hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. a) Thông thường Tòa án giảm nhẹ trong khung hình phạt cho bị cáo khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, nhưng hành vi phạm tội của họ tương ứng với mức cao (bằng hoặc gần với mức cao nhất) của khung hình phạt. Nghĩa là, trong những trường hợp mà nếu không có nhiều tình tiết giảm nhẹ, thì bị cáo phải bị phạt ở mức cao của khung hình phạt, do đó khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ, họ được hưởng một hình phạt ở mức thấp (bằng hoặc gần với mức thấp nhất) của khung hình phạt. b) Tòa án chỉ quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đồng thời hành vi phạm tội mà nếu không có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo cũng chỉ bị phạt ở mức thấp của khung hình phạt, do đó, khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án có thể cho họ được hưởng một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đó hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Tòa án chỉ quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất đối với loại hình phạt tù có thời hạn, nếu mức thấp nhất của khung hình phạt là trên 3 tháng tù. Nếu mức thấp nhất của khung hình phạt là
  • 33. 26 3 tháng tù, thì theo Điều 25 Bộ luật hình sự Tòa án không thể phạt tù dưới 3 tháng cho nên phải chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ và hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội thì theo Điều 24 và Điều 70 Bộ luật hình sự, Tòa án không được quyết định một hình phạt dưới 6 tháng, mà có thể chuyển sang loại hình phạt nhẹ hơn là "cảnh cáo". 3 - Những tình tiết đã là yếu tố định tội ví dụ như tội giết người do vượt quá thời hạn phòng vệ chính đáng quy định tại Điều 102 Bộ luật hình sự hoặc là yếu tố định khung hình phạt ví dụ như tình tiết tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân quy định tại khoản 3 Điều 101 hoặc khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự, thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ của chính tội đó nữa. 4 - Trong trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ, vừa có tình tiết tăng nặng, thì Tòa án phải cân nhắc hai loại tình tiết đó để quyết định hình phạt cho hợp lý. Thông thường nếu tính chất của các tình tiết giảm nhẹ tương đương với tính chất của các tình tiết tăng nặng thì Tòa án không áp dụng khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự. Nhưng nếu các tình tiết giảm nhẹ có ý nghĩa giảm nhẹ nhiều hơn, thì Tòa án vẫn có thể áp dụng khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự. 5 - Khi kết án một người về nhiều tội, nếu tội nào của họ có nhiều tình tiết giảm nhẹ, thì Tòa án áp dụng khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt đối với riêng tội đó, rồi tổng hợp các hình phạt theo đúng quy định của Điều 41 Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội và Điều 43 Bộ luật hình sự về tổng hợp hình phạt khác loại. 6 - Các lý do của việc áp dụng khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự phải được nêu rõ ở phần nhận định của bản án và trong trường
  • 34. 27 hợp này ở phần quyết định của bản án cần viện dẫn cả khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự (ngay sau khi điều khoản được áp dụng đối với tội phạm của người bị kết án) [35]. Tòa án nhân dân tối cao đã tổng kết kinh nghiệm về những thiếu sót phổ biến của các Tòa án cấp dưới trong việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ không đúng nên đã xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Ví dụ: Bản án sơ thẩm số 163/HSST ngày 27 tháng 4 năm 1999 của Tòa án nhân dân tỉnh ĐN đã coi "số tiền giả đã được thu hồi ít, các bị cáo tuổi đời còn trẻ, bị cáo khi phạm tội còn trong độ tuổi vị thành niên" là tình tiết giảm nhẹ để áp dụng khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985. Việc áp dụng này là không đúng với thực tế và không làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo vì số tiền thu được không do bị cáo tự khai nộp mà do cơ quan điều tra thu hồi được, mặt khác tuổi đời của các bị cáo đã ngoài 20 tuổi. Vì vậy, bản án nói trên đã bị Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm để xét xử lại theo hướng tăng hình phạt cho các bị cáo. Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chưa hướng dẫn việc Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật quy định trong phạm vi nào, nên khó tránh khỏi việc lạm dụng trong một số trường hợp Tòa án quyết định mức hình phạt quá nhẹ so với mức thấp nhất của khung hình phạt đang áp dụng, không tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Ví dụ: L một thủ kho quản lý vũ khí, trong thời gian công tác L đã chiếm đoạt và bán trái phép một số lượng lớn vũ khí quân dụng (hàng chục khẩu súng và hạng vạn viên đạn các loại), Viện kiểm sát đã truy tố L theo khoản 3 Điều 95 Bộ luật hình sự năm 1985. Tòa án sơ thẩm đã căn cứ vào tình tiết L đã ăn năn hối cải, thật thà khai báo, tự nguyện bồi thường và đã áp dụng khoản 3 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985 để tuyên L chịu 3 năm tù với tội chiếm đoạt vũ khí quân dụng và 2 năm tù về tội mua bán trái phép vũ khí
  • 35. 28 quân dụng. Như vậy, L bị tổng hợp hình phạt là 5 năm tù tương đương hình phạt thuộc khoản 1 Điều 95 Bộ luật hình sự năm 1985. Chính vì vậy, bản án này đã bị kháng nghị giám đốc thẩm và bị hủy án để xét xử sơ thẩm lại. Bộ luật hình sự năm 1985 mới chỉ ghi nhận quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự là một trường hợp đặc biệt trong việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chứ không phải là trường hợp đặc biệt của quyết định hình phạt; đồng thời dễ dẫn đến sự lạm dụng quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự từ phía Tòa án khi tùy ý áp dụng thêm tình tiết khác và có thể coi đó là tình tiết giảm nhẹ theo quy định khoản 2 Điều 38 Bộ luật hình sự. Mặt khác, đã không dự liệu được quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt. 1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 đến nay Ngày 21/12/1999, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa X nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật hình sự mới thay thế Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua ngày 27/6/1985 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua ngày 28/12/1989, ngày 12/8/1991, ngày 22/12/1992 và ngày 10/5/1997. Theo Nghị quyết số 32/QH10 của Quốc hội thì Bộ luật hình sự 1999 có hiệu lực từ ngày 01/7/2000. Luật hình sự pháp điển hóa lần thứ hai thì các quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự cũng đã được sửa đổi, bổ sung và tiếp tục hoàn thiện với nhiều điểm mới về nội dung và kĩ thuật lập pháp bảo đảm mối quan hệ giữa các chương trong Phần chung, giữa các điều luật trong một chương được chặt chẽ, bảo đảm tính logíc và tính khoa học cao hơn. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự đã được ghi nhận và quy định thành một điều luật độc lập có tên cụ thể cũng góp phần làm rõ ý tưởng của người làm luật cũng như nội dung của điều luật.
  • 36. 29 Để thống nhất áp dụng quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/08/2000 hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp điều luật có từ hai khung hình phạt trở lên và người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự không phải theo khung hình phạt nhẹ nhất; đối với trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật; cần hạn chế và phải hết sức chặt chẽ khi áp dụng trong trường hợp nếu không có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; đối với trường hợp xét xử cùng một lần một người phạm nhiều tội; chỉ áp dụng đối với các hình phạt chính mà không áp dụng đối với hình phạt bổ sung. Ngày 30/9/2002, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn số 148/KHXX hướng dẫn về việc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 01/7/2000 mà sau thời điểm này mới bị xét xử, căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 và hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an "Hướng dẫn thi hành Điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 và Mục 2 Nghị quyết số 32/QH10 ngày 21/12/1999 của Quốc hội", thì Tòa án vẫn có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn khi có hai tình tiết giảm nhẹ trở lên mà trong đó chỉ có một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985 hoặc khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Các trường hợp khác, Tòa án chỉ có thể quyết định một hình phạt nhẹ hơn dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định từ khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.
  • 37. 30 1.4. QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI 1.4.1. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Điều 63 Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1997, sửa đổi năm 2005, 2009 quy định: Khi có tình tiết giảm nhẹ mà Bộ luật này quy định được áp dụng một hình phạt giảm nhẹ thì phải quyết định hình phạt theo khung hình phạt nhẹ hơn theo quy định. Trong trường hợp không có tình tiết giảm nhẹ theo quy định của Bộ luật này, nhưng căn cứ vào tình tiết đặc thù của vụ án Tòa án nhân dân tối cao có thể quyết định hình phạt nhẹ hơn trong khung hình phạt [12, tr. 60-61]. Điều 67 Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: "Sau khi phạm tội mà tự nguyện đầu thú với công an và thực thà khai báo hành vi phạm tội của bản thân thì gọi là tự thú, đối với người phạm tội mà tự thú thì có thể xử phạt nhẹ hơn hoặc áp dụng một khung hình phạt nhẹ hơn..." [12, tr. 67-68]. Điều 68 Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: Nếu người phạm tội có biểu hiện lập công như vạch trần được hành vi phạm tội của người khác, qua kiểm tra thực tế thấy đúng hoặc cung cấp những manh mối quan trọng để từ đó phá được những vụ án khác thì có thể xử phạt nhẹ hơn hoặc áp dụng một khung hình phạt nhẹ hơn. Nếu lập công lớn thì có thể được áp dụng một khung hình phạt nhẹ hơn hoặc miễn hình phạt [12, tr. 63]. Khác với luật hình sự Việt Nam quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định chỉ cần có tình tiết giảm nhẹ mà Bộ luật quy định được áp dụng một hình phạt giảm nhẹ thì bắt buộc phải quyết định hình phạt theo khung hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt mà bị cáo bị xét xử mà không nhất thiết
  • 38. 31 phải là khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật, nhưng không được chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Hơn nữa, Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa mở rộng phạm vi áp dụng quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong những trường hợp tự thú hoặc lập công lớn. Như vậy, so sánh thấy rằng Bộ luật hình sự Việt Nam có thể tiếp thu quan điểm khoa học của Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa áp dụng quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự trong những trường hợp tự thú hoặc lập công lớn sẽ góp phần thiết thực trong công tác đấu tranh phòng và chống các tội phạm càng ngày phức tạp và có tổ chức trong thời gian tới, đồng thời thực hiện thực chất nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa đối với người phạm tội tự thú hoặc lập công lớn đặc biệt giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật phá tan các tổ chức tội phạm góp phần đảm bảo tốt an ninh trật tự xã hội. 1.4.2. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Liên bang Nga Điều 65 Bộ luật hình sự Liên bang Nga năm 1996, sửa đổi năm 2010 quy định: Khi có những tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự liên quan đến động cơ và mục đích phạm tội, vai trò của người phạm tội, xử sự của người phạm tội trong hoặc sau khi thực hiện tội phạm cũng như khi có các tình tiết khác làm giảm đáng kể mức độ nguy hiểm của tội phạm hoặc góp phần tích cực vào việc khám phá tội phạm do một nhóm người thực hiện thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với tội phạm đã phạm hoặc quyết định một hình phạt nhẹ hơn hình phạt quy định tại điều luật đó hoặc không áp dụng hình phạt bổ sung mà điều luật quy định là hình phạt bắt buộc [45, tr. 86-88].
  • 39. 32 Điều 62 Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy định: Khi có các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm i và điểm k Điều 62 Bộ luật này và không có các tình tiết tăng nặng, thì hình phạt không thể quá 3/4 thời hạn hình phạt hoặc 3/4 mức phạt của loại hình phạt nặng hơn được quy định tại điều luật tương ứng thuộc Phần riêng của Bộ luật này [45, tr. 80]. Tương tự, khác với Bộ luật hình sự Việt Nam quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy định rõ chỉ những tình tiết đặc biệt thể hiện bản chất làm giảm đáng kể mức độ nguy hiểm của tội phạm thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với tội phạm đã phạm mà không nhất thiết phải là khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật, hoặc quyết định một hình phạt nhẹ hơn hình phạt quy định tại điều luật đó, hoặc không áp dụng hình phạt bổ sung mà điều luật quy định là hình phạt bắt buộc. Tại Liên bang Nga, Tòa án có thể quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự đối với hình phạt chính và hình phạt bổ sung mà điều luật quy định là hình phạt bắt buộc; đồng thời tạo sự linh hoạt hơn cho Tòa án trong những trường hợp áp dụng khi có 2 tình tiết cụ thể và không có các tình tiết tăng nặng, hoặc được đề nghị khoan hồng đặc biệt từ đoàn bồi thẩm. Do vậy, Bộ luật hình sự Việt Nam có thể tiếp thu quan điểm khoa học của Bộ luật hình sự Liên bang Nga về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự cần phải quy định những tình tiết giảm nhẹ thể hiện bản chất làm giảm đáng kể mức độ nguy hiểm của tội phạm mới làm rõ được bản chất, nội dung và ý nghĩa của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, cần đề cao và tin tưởng hơn nữa đối với vai trò độc lập xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật để nhận định, đánh giá đưa ra bản án phán quyết khách quan, đảm bảo đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đã giảm rất nhiều trong trường hợp đặc biệt, phù hợp
  • 40. 33 với bản chất, nội dung và ý nghĩa của quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự. 1.4.3. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Nhật Bản Điều 68 Bộ luật hình sự Nhật Bản năm 1907, sửa đổi năm 2011 quy định: Khi có từ một hoặc hai lý do trở lên, phải được giảm nhẹ mức hình phạt theo luật quy định, thì sẽ áp dụng như trường hợp dưới đây: 1. Giảm nhẹ hình phạt từ tử hình xuống tù chung thân; hoặc tù 10 năm hoặc cấm cố; 2. Giảm nhẹ tù chung thân hoặc cấm cố xuống còn trên 7 năm hoặc cấm cố; 3. Giảm nhẹ tù có thời hạn hoặc giảm nhẹ cấm cố thì giảm xuống một phần hai của kỳ dài và kỳ ngắn; 4. Giảm nhẹ hình phạt tiền xuống còn một phần hai mức tiền nhiều và tiền ít; 5. Giảm nhẹ hình phạt giam giữ xuống còn một phần hai mức kỳ dài; 6. Giảm phạt tiền mức nhẹ xuống còn một phần hai mức tiền phạt ấy [13, tr. 81-82]. Điều 69 Bộ luật hình sự Nhật Bản quy định: "Trong trường hợp giảm nhẹ hình phạt theo quy định của pháp luật, nếu điều khoản áp dụng có hai hình phạt trở lên, thì quy định điều khoản áp dụng hình phạt đó trước rồi mới giảm nhẹ hình phạt" [13, tr. 69-70]. Như vậy, so sánh với Bộ luật hình sự Việt Nam quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật hình sự Nhật Bản tạo ra sự linh hoạt tối đa cho Tòa án áp dụng lý do giảm nhẹ tùy thuộc vào từng người phạm tội với những tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
  • 41. 34 và hậu quả của vụ án hình sự đối với an ninh trật tự xã hội như thế nào để thực hiện các phương thức với những mức giảm nhẹ hình phạt theo quy định pháp luật. Đồng thời, Bộ luật hình sự Nhật Bản quy định cụ thể Tòa án quyết định giảm nhẹ đối với từng loại hình phạt trong giới hạn nhất định. Việc nhận định, đánh giá đầy đủ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và áp dụng quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự hoàn toàn phụ thuộc vào Tòa án Nhật Bản. Bản án hình sự phải phân tích lý do làm giảm rất đáng kể tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cùng với hậu quả đã được khắc phục rất nhiều để làm nổi bật và rõ ràng trong quyết định hình phạt của Tòa án giảm nhẹ hình phạt đáng kể đối với bị cáo theo từng loại hình phạt được ghi nhận cụ thể trong quy định của pháp luật. 1.4.4. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự Thụy Điển Điều 5 Chương 29 Bộ luật hình sự Thụy Điển năm 2009 quy định: ...8. Do có nhiều tình tiết giảm nhẹ khác thì người phạm tội có thể được hưởng hình phạt nhẹ hơn so với hình phạt áp dụng đối với tội đó. Trong trường hợp tương tự, trường hợp có một hoặc nhiều tình tiết quy định tại đoạn 1 điều này thì Tòa án có thể quyết định hình phạt nhẹ hơn so với hình phạt áp dụng đối với tội đó trong những trường hợp tương tự [46, tr. 282]. Điều 3 Chương 2 Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định: Để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, ngoài những quy định về tình tiết giảm nhẹ đối với từng loại tội danh cụ thể cần cân nhắc các tình tiết sau đây: 1. Phạm tội do hành vi phạm tội nghiêm trọng của người khác gây ra.
  • 42. 35 2. Bị cáo là người không bình thường hoặc có rối loạn về tinh thần, hoặc vì các nguyên nhân khác mà bị giảm đáng kể khả năng điều khiển hành vi của mình. 3. Hành vi của bị cáo là do sự chậm phát triển một cách rõ ràng hoặc do thiếu kinh nghiệm hoặc khả năng suy xét. 4. Hành vi phạm tội xảy ra do lòng thương người. 5. Hành vi thuộc trường hợp không được miễn trách nhiệm hình sự sẽ được miễn theo quy định tại Chương 24. Phạm tội trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ thì có thể được hưởng hình phạt nhẹ hơn hình phạt quy định đối với tội đó trong trường hợp khác (Luật 1994:548) [46, tr. 10-12]. Điều 5 Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định: 1. Bị cáo có bị thương nặng do hậu quả của việc phạm tội hay không. 2. Bị cáo đã cố gắng hết sức nhằm ngăn chặn thiệt hại hoặc bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội của mình gây ra hay chưa. 3. Bị cáo đầu thú, tự thú hay không. 4. Bị cáo sẽ bị thiệt hại nếu bị trục xuất khỏi Vương Quốc do phạm tội của mình hay không. 5. Bị cáo do phạm tội mà đã bị sa thải tại nơi làm việc hoặc có cơ sở vững chắc để nhận định là sẽ bị sa thải hoặc bị cáo sẽ gặp những trở ngại hoặc khó khăn đáng kể trong công việc hoặc nghề nghiệp của mình hay không. 6. Do tuổi tác và bệnh tật, bị cáo không có khả năng chịu được hình phạt áp dụng căn cứ vào tính chất, mức độ của tội đó. 7. Một thời gian quá dài trôi qua kể từ ngày tội phạm được thực hiện, so với tính chất của tội phạm đó... [46, tr. 13-14]. Như vậy, khác với Bộ luật hình sự Việt Nam quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật hình sự Thụy Điển
  • 43. 36 tạo ra sự linh hoạt cho Tòa án trong việc lựa chọn các căn cứ giảm nhẹ có thể là những tình tiết giảm nhẹ đối với từng loại tội danh cụ thể, hoặc những tình tiết khác liên quan đến việc xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được liệt kê theo quy định thì Tòa án có thể quyết định hình phạt nhẹ hơn hình phạt áp dụng đối với tội đó mà không nhất thiết phải là hình phạt trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Tùy trường hợp cụ thể trong từng vụ án hình sự mà Tòa án ở Thụy Điển có thể quyết định hình phạt với mức và loại hình phạt cụ thể miễn là bảo đảm nhẹ hơn hình phạt áp dụng đối với tội mà người phạm tội đã thực hiện. Tóm lại, Bộ luật hình sự nước ngoài cũng quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với người phạm tội có những tình tiết đặc biệt làm giảm thật sự và khách quan tính chất, mức độ nguy hiểm đáng kể của tội phạm cùng hậu quả của vụ án. Trường hợp tự thú hoặc lập công lớn đặc biệt giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật phá tan các tổ chức tội phạm góp phần quan trọng trong công tác đấu tranh, phòng chống các tội phạm có tổ chức tại một số quốc gia được ghi nhận là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quan trọng để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà bị cáo đã phạm. Bộ luật hình sự của nhiều quốc gia phát triển đề cao và quy định vai trò độc lập xét xử, chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải nhận định, đánh giá lý do hoặc những tình tiết đặc biệt thể hiện bản chất làm giảm đáng kể mức độ nguy hiểm của tội phạm, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với tội phạm đã phạm mà không nhất thiết phải là khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật.
  • 44. 37 Chương 2 QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 2.1. CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT NHẸ HƠN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ Để phân tích đầy đủ và toàn diện về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, cần phải làm rõ tính khoa học pháp lý của quy định này phù hợp với các quy định của Phần chung, Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự và đảm bảo tính hệ thống, liên quan với các quy phạm pháp luật hình sự khác hướng dẫn áp dụng thống nhất quy định Điều 47 Bộ luật hình sự. 2.1.1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện - Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là căn cứ phân loại tội phạm và xác định khung hình phạt cho từng tội phạm. Từng điều luật trong Bộ luật hình sự cấu thành bởi các khung hình phạt có mức khởi điểm và mức cao nhất của mỗi khung là khác nhau với những tình tiết định khung hình phạt khác nhau, thể hiện những tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khác nhau khi bị cáo có số lượng tình tiết định khung hoặc bị xét xử ở khung hình phạt khác nhau hoặc có tình tiết, yếu tố khác nhau mặc dù cùng bị xét xử cùng một loại tội phạm và cùng một khung hình phạt. Thực tiễn xét xử, có nhiều bản luận tội hoặc bản án chỉ nêu chung chung "hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội" còn nguy hiểm như thế nào, mức độ nguy hiểm ra sao thì không phân tích được, dẫn đến khi quyết định hình phạt không chính xác (quá nghiêm khắc hoặc quá nhẹ). Như vậy, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội phụ thuộc vào