Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật kinh tế với đề tài: Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, cho các bạn làm luận văn tham khảo
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Luận văn: Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học theo luật
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ TRUNG HIẾU
BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI
TÁC PHẨM VĂN HỌC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – Năm 2019
2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ TRUNG HIẾU
BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI
TÁC PHẨM VĂN HỌC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số : 8.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS LÊ MAI THANH
HÀ NỘI – Năm 2019
3. LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin chân thành cảm ơn Quý thầy cô, cán bộ Học viện Khoa học
Xã hội đã tận tình giảng dạy, hỗ trợ giúp đỡ trong suốt thời gian theo học tại
học viên.
Với tất cả lòng chân thành, em trân trọng kính gửi lời cảm ơn sâu sắc
đến PGS.TS Lê Mai Thanh đã hướng dẫn tận tình, chu đáo và đầy trách
nhiệm. Cô đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để giúp đỡ em hoàn thành luận văn
một cách tốt nhất.
Chân thành cảm ơn Liên hiệp Các Hội Văn học nghệ thuật, Hội Nhà
văn thành phố Đà Nẵng, Văn phòng Cục bản quyền tác giả tại thành phố Đà
Nẵng và các Sở Văn hóa & Thể thao, Sở Thông tin Truyền thông và đặc biệt
cảm ơn Nhà xuất bản Đà Nẵng đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi suốt thời
gian học vừa qua.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ
động viên tôi hoàn thành luận văn này.
4. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Lê Trung Hiếu
5. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI
TÁC PHẨM VĂN HỌC VÀ PHÁP LUẬT BẢO HỘ QUYỀN TÁC
GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC........................................................ 6
1.1. Khái niệm, nội dung và đặc điểm quyền tác giả đối với tác phẩm văn
học ..................................................................................................................... 6
1.2. Lý luận bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học..........................19
1.3. Cơ sở pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học........22
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO HỘ QUYỀN TÁC
GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC TỪ THỰC TIỄN THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG.............................................................................................27
2.1. Tác phẩm văn học tại thành phố Đà Nẵng và yêu cầu bảo hộ quyền tác
giả đối với tác phẩm văn học ..........................................................................27
2.2. Thực trạng xác lập quyền tác giả đối với tác phẩm văn học tại thành
phố Đà Nẵng....................................................................................................32
2.3. Thực trạng thực hiện quyền tác giả đối với tác phẩm văn học từ thực
tiễn thành phố Đà Nẵng...................................................................................36
2.4. Thực trạng thực thi quyền tác giả đối với tác phẩm văn học từ thực
tiễn thành phố Đà Nẵng...................................................................................40
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN
HỌC................................................................................................................47
3.1. Định hướng, hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm văn học ..................................................................................................47
6. 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm văn
học ...................................................................................................................51
KẾT LUẬN....................................................................................................61
TÀI LIỆU THAM KHẢO
7. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Từ/cụm từ được viết tắt
BLDS Bộ luật Dân sự năm 2015
BLHS Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa
đổi bổ sung năm 2017
BLTTDS Bộ Luật Tố tụng Dân sự năm
2015
CHXHCN Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
CSH Chủ sở hữu
Cư Berne Công ước Berne Công ước Bern về bảo hộ các tác
phẩm văn học nghệ thuật.
Hiệp định TRIPs Trade-Related
Intellectual
Property Rights
Agreement
Điều ước quốc tế đa phương về
Sở hữu trí tuệ và thương mại
trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
Luật SHTT Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005
được sửa đổi bổ sung năm 2009.
SHTT Sở hữu trí tuệ
QTG Quyền tác giả
PLVN Pháp luật Việt Nam
TPVH Tác phẩm văn học
WIPO World Intellectual
Property
Organization
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
WCT WIPO Copyright
Treaty
Hiệp ước của WIPO về quyền
tác giả
VNNIC Trung tâm Internet Việt Nam
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, trải qua quá trình lao động, chiến đấu,
xây dựng và bảo vệ đất nước, nhân dân ta đã sáng tạo nên những giá trị vật
chất và tinh thần vô cùng to lớn và đáng tự hào. Nền văn học Việt Nam là một
trong những bằng chứng tiêu biểu cho năng lực tinh thần sáng tạo ấy. Văn học
Việt Nam bao gồm hai bộ phận là văn học dân gian và văn học viết. Tác phẩm
văn học là nền tảng của văn học viết- là chặng đường đầu của nền văn học
dân tộc Việt Nam. Những giá trị mà các tác phẩm văn học (TPVH) mang đến
cho nhân loại là rất to lớn và toàn diện (trong sinh hoạt, giải trí, sản xuất kinh
doanh, học tập, nghiên cứu khoa học, quản lý nhà nước…)
Những giá trị về tinh thần cũng như lợi ích kinh tế mà việc bảo hộ
mang lại cho các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả của các TPVH hết sức cần
thiết và quan trọng.
Nếu cơ chế bảo hộ quyền tác giả được thực hiện tốt thì sẽ khuyến khích
sự sáng tạo của các tác giả. Nhờ đó có thể bảo tồn, phát huy những giá trị,
những nét tinh hoa văn hóa do các tác phẩm văn học mang lại, nhằm góp
phần làm cho các tác phẩm văn học trở nên phong phú và đa dạng hơn.
Ngược lại, nếu không được ghi nhận xứng đáng thì sẽ là rào cản làm hạn chế
động lực sáng tạo và ứng dụng các tác phẩm văn học vào trong các quá trình
sinh hoạt, giải trí, sản xuất kinh doanh, học tập, nghiên cứu khoa học….
Mặc dù ở Việt Nam quyền tác giả (QTG) đã được ghi nhận lần đầu tiên
tại Nghị định 142/HĐBT ngày 14/11/1986 của Hội đồng Bộ trưởng về bảo hộ
quyền tác giả và đến nay đã có hàng loạt văn bản có liên quan đã được ban
hành gồm Luật, các văn bản hướng dẫn thi hành. Việt Nam cũng là thành viên
của một số các điều ước quốc tế về quyền tác giả nhưng vấn đề bảo hộ QTG
9. 2
đối với tác phẩm văn học vẫn còn nhiều bất cập.
Nhận thức của người dân về quyền tác giả nói chung và quyền tác giả
đối với tác phẩm văn học nói riêng vẫn còn thấp. Việc tuân thủ và thi hành
pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học vẫn chưa thực sự hiệu
quả.
Trong kỷ nguyên công nghệ số phát triển bùng nổ như vũ bão như hiện
nay thì các phương tiện truyền thông đa dạng trở thành công cụ chủ yếu để
chuyển tải kiến thức, thành tựu đến khắp nơi trên thế giới và đồng thời việc vi
phạm QTG trở nên đa dạng và phức tạp hơn.
Bên cạnh đó, vấn đề bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học
vẫn chưa được coi trọng và được quan tâm đúng mức. Quyền tác giả của
nhiều tác phẩm văn học vẫn còn bị xâm phạm trắng trợn và vẫn chưa có biện
pháp thực thi hiệu quả nhằm ngăn chặn và đẩy lùi được những hành vi vi
phạm, tạo rào cản cho hoạt động sáng tác văn học.
Giới luật học đã tiến hành một số nghiên cứu thuộc các thể loại khác
nhau về bảo hộ QTG nói chung và QTG đối với một số đối tượng chuyên biệt
nói riêng. Nhưng vấn đề bảo hộ QTG đối với TPVH tại địa bàn một thành phố
lớn như Đà Nẵng vẫn chưa được nghiên cứu. Xuất phát từ những lý do trên,
tác giả chọn đề tài: “Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học theo pháp
luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” để làm đề tài cho luận văn
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Một số luận văn thạc sĩ liên quan đến quyền tác giả nói chung đã khai
thác vấn đề bảo hộ QTG dưới những khía cạnh khác nhau như:
- Bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam với việc Việt Nam gia nhập công
ước Berne, của Ngô Ngọc Phương, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội,
2006;
10. 3
- Công ước Berne và việc thực hiện trong lĩnh vực xuất bản ở Việt
Nam, của Phạm Thị Hương Giang, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội,
2008;
- Pháp luật về quyền tác giả ở Việt Nam thực trạng và hướng hoàn
thiện”, của tác giả Phạm Hùng, 2012;
- Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc được
khai thác trên tàu bay, của tác giả Nguyễn Thị Hà Linh 2012;
- Giới hạn quyền tác giả theo hiệp định TRIPs và pháp luật Việt Nam
của Nguyễn Thị Tuyết Nga, 2012;
- Pháp luật quốc tế và kinh nghiệm một số nước về bảo hộ quyền tác
giả đối với tác phẩm âm nhạc, của Trần Thị Thùy Dung, khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2016;
- Quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học theo pháp luật
sở hữu trí tuệ từ thực tiễn Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh của Lê Thị
Thanh Tâm, Học viện Khoa học Xã hội , 2016;
- Quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng theo pháp luật Việt
Nam của Đỗ Trung Kiên, Học viện Khoa học Xã hội, 2018;
Bên cạnh đó, còn có một số bài tạp chí, các chuyên đề, các cuộc hội
thảo, đề tài với chủ đề bảo hộ QTG được công bố tại Tạp chí chuyên ngành,
được tổ chức nghiên cứu và công bố tại các diễn đàn khác nhau. Tuy nhiên
hiện chưa có một công trình nghiên cứu cụ thể nào về bảo hộ QTG đối với
TPVH tại một số địa bàn nhất định mà việc xuất bản, công bố và lưu hành các
tác phẩm đó rất phổ biến.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đánh giá thực trạng pháp luật bảo hộ QTG đối với TPVH từ
thực tiễn thành phố Đà Nẵng nhằm xác định cơ sở cho các giải pháp hoàn
11. 4
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
văn học.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm nổi bật những vấn đề lý luận về quyền tác giả đối với tác phẩm
văn học và cơ sở pháp luật của Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả này.
Đánh giá thực trạng pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
văn học tại thành phố Đà Nẵng.
Trên cơ sở thực trạng bảo hộ, luận văn đề xuất phương hướng và kiến
nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật bảo hộ QTG đối với tác phẩm văn
học nói chung và tại thành phố Đà Nẵng nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, phân tích, đánh giá pháp luật về bảo hộ quyền tác
giả đối với tác phẩm văn học theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố
Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật về bảo hộ quyền tác giả
đối với tác phẩm văn học (văn học viết) mà không bao gồm các đối tượng
khác của quyền tác giả.
Luận văn giới hạn đánh giá thực trạng pháp luật thông qua thực tiễn
bảo hộ QTG đối với tác phẩm văn học (văn học viết) tại thành phố Đà Nẵng
từ khi Luật Sở hữu trí tuệ có hiệu lực.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ cơ lý luận
Luận văn sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và pháp luật làm phương pháp
luận nghiên cứu về bảo hộ QTG đối với tác phẩm văn học.
12. 5
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm có thể đạt được mục đích nghiên cứu, thì các phương pháp
chuyên ngành đều được áp dụng như: phương pháp phân tích - tổng hợp,
phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Phân tích tổng thể lý luận và pháp luật bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm văn học.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua thực trạng về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học tại thành phố
Đà Nẵng sẽ đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả về việc
bảo hộ QTG đối với tác phẩm văn học.
7. Kết cấu của luận văn
Không tính phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, thì
luận văn có kết cấu 03 chương:
Chương 1: Lý luận về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
và pháp luật bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học.
Chương 2: Thực trạng pháp luật bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
văn học từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hộ
quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
13. 6
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM
VĂN HỌC VÀ PHÁP LUẬT BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI
TÁC PHẨM VĂN HỌC
1.1. Khái niệm, nội dung và đặc điểm quyền tác giả đối với tác
phẩm văn học
1.1.1. Khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra toàn bộ hoặc một phần tác phẩm
văn học, nghệ thuật, khoa học (tại Điều 6 Nghị định 22/2018/NĐ-CP của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí
tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan).
Quyền tác giả, theo tiếng Anh thực chất là quyền sao chép, vì từ
“copyright” được ghép từ “copy” (sao chép) và “right” (quyền) [32].
Quyền tác giả là độc quyền của một tác giả đối với tác phẩm của họ.
Quyền tác giả được dùng để bảo vệ các tác phẩm – những sáng tạo tinh thần
có tính chất văn hóa. Quyền này bảo vệ các quyền lợi của các cá nhân, của
các tổ chức và lợi ích kinh tế của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả trong mối
liên quan với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Quyền này không
cần phải đăng ký và thuộc về tác giả khi một tác phẩm được ghi, giữ lại ít
nhất là một lần trên một phương tiện lưu trữ. Quyền tác giả chỉ được công
nhận khi tác phẩm được tạo lập một cách độc lập và duy nhất dưới hình thức
nhất định.
Ở mỗi quốc gia, pháp luật về quyền tác giả trao cho tác giả, chẳng hạn
nhạc sỹ, nhà văn, người viết phần mềm, nhà thiết kế trang web và các tác giả
sáng tạo khác sự bảo hộ pháp lý. Đối với các sáng tạo văn học của họ thì
thường được gọi là “tác phẩm”. Theo khoản 7 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ quy
14. 7
định: “Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và
khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào”[42]. Từ đó có
thể rút ra là “tác phẩm văn học” (TPVH) là sản phẩm được sáng tạo trong lĩnh
vực văn học thông qua hoạt động lao động bằng trí não của tác giả.
Quyền tác giả đối với tác phẩm văn học là một nhóm độc quyền đối
với tác phẩm của họ; trong số đó một số quyền chỉ có hiệu lực trong một thời
hạn nhất định. Những quyền này cho phép tác giả kiểm soát việc sử dụng tác
phẩm của mình theo nhiều cách khác nhau và nhận được tiền thù lao khi có
người sử dụng tác phẩm của mình.
Hơn nữa, pháp luật về quyền tác giả cũng trao cho tác giả “quyền nhân
thân” nhằm bảo vệ danh tiếng của tác giả và sự toàn vẹn của tác phẩm. Ngoài
ra, đối với mỗi hình thức tác phẩm khác nhau thì có thời hạn bảo hộ khác
nhau, tùy thuộc vào quy định của mỗi quốc gia. Công ước Berne (Cư Berne)
cho phép tác giả được hưởng quyền tài sản suốt đời cộng thêm tối thiểu 50
năm sau đó[62].
Tuy nhiên, các quốc gia tuân thủ Công ước Berne được phép nâng thời
hạn hưởng tác quyền dài hơn [62].
Đối tượng của QTG là những công trình sáng tạo - là thành quả lao
động bằng hoạt động của trí não của một hay nhiều tác giả. QTG là một
quyền năng rất quan trọng có liên quan thiết thực đến lợi ích của những người
sáng tạo khoa học nói riêng và tác động đến cả xã hội nói chung [42], [1],
[28].
Như vậy, hiểu một cách đơn giản quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá
nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo hoặc sở hữu, bao gồm các quyền
nhân thân và quyền tài sản (Điều 19 và Điều 20 luật Sở hữu trí tuệ).
Đối tượng được bảo hộ quyền tác giả là các tác phẩm trong lĩnh vực
văn học, khoa học và nghệ thuật [42]. Điều 14 Luật sở hữu trí tuệ (SHTT)
15. 8
quy định các loại hình tác phẩm được bảo hộ ngoài tác phẩm văn học còn các
tác phẩm khác như tác phẩm, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và các tác
phẩm khác, bài giảng, bài phát biểu, bài nói khác, tác phẩm báo chí, tác phẩm
âm nhạc, tác phẩm sân khấu, tác phẩm điện ảnh, tác phẩm tạo hình, mỹ thuật
ứng dụng, tác phẩm nhiếp ảnh, tác phẩm kiến trúc, nghệ thuật dân gian,....
Những đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác gải thì được quy
định tại điều 15 luật SHTT: “Tin tức thời sự thuần túy đưa tin; Văn bản quy
phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và
bản dịch chính thức cảu văn bản đó; Quy trình hệ thống, phương pháp, hoạt
động, khái niệm, nguyên lý, số liệu”.
Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả,
chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học [43, tr.12].
Khoản 7 Điều 4 Luật SHTT định nghĩa tác phẩm như sau: “Tác phẩm
là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện
bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào”. Do vậy tác phẩm phải là những
sáng tạo tinh thần của tác giả trong lĩnh vực văn học thể hiện dưới một
phương tiện hay hình thức nhất định. Các tác phẩm để được bảo hộ quyền tác
giả phải đáp ứng các yếu tố sau:
Thứ nhất, tác phẩm phải là thành quả của quá trình lao động trí tuệ
mang tính chất sáng tạo và chủ thể của hoạt động sáng tạo này là các tác giả
thông qua quá trình lao động trí óc, kinh nghiệm và các yếu tố hỗ trợ khác. Vì
vậy, tác phẩm văn học hết sức phong phú và đa dạng, chứa đựng những giá trị
tinh thần và giá trị kinh tế, công chúng đón nhận được nội dung tư tưởng, tình
cảm nhất định.
Thứ hai, tác phẩm được bảo hộ phải đảm bảo tính nguyên gốc, tức là
phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao
chép từ bất kỳ một tác phẩm nào khác. Vì ở mỗi quốc gia, ý nghĩa chính xác
16. 9
về tính nguyên gốc là khác nhau trong pháp luật về quyền tác giả. Việc xác
định tác phẩm “gốc” trong tác phẩm văn học dựa trên căn cứ thể hiện quá
trình lao động sáng tạo của tác giả, những “chất riêng” do tác giả sáng tạo ra.
Thực tế, có những trường hợp sao chép, mà tác phẩm gốc và tác phẩm sao
chép tương tự nhau hoặc giống nhau song người bình thường không thể nhìn
thấy được.
Mặc dù đã có tiêu chí xác định tác phẩm văn học mang tính nguyên gốc
nhưng khi có tranh chấp, tác giả phải chứng minh tác phẩm được sáng tạo độc
lập hoặc nếu có sử dụng tác phẩm của người khác thì phải chỉ rõ phần sử
dụng này để có thể xác định tính nguyên gốc của tác phẩm của mình và bảo
đảm quyền của tác giả khác.
Thứ ba, tác phẩm văn học chỉ được bảo hộ hình thức thể hiện như dưới
dạng văn bản hay vật thể, chứ không bảo hộ ý tưởng. Tại khoản 1 điều 6 Luật
SHTT có quy định :“Quyền tác giả phát sinh từ khi tác phẩm được sáng tạo và
được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội
dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa
công bố, đã đăng ký hay chưa” [37].
Bên cạnh đó, tác phẩm còn được thể hiện dưới dạng vật thể nhưng đa
số các loại hình tác phẩm trên đều được sử dụng trong hoạt động xuất bản.
Tuy nhiên, để đảm bảo an ninh và ổn định chính trị cũng như lợi ích chung
của cộng đồng, nhà nước không bảo hộ những tác phẩm có nội dung: chống
lại nhà nước, phá hoại đoàn kết toàn dân, tuyên truyền bạo lực, chiến tranh
xâm lược; truyền bá tư tưởng văn hóa phản động, lối sống dâm ô đồi trụy, các
hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mĩ tục; tiết
lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, bí mật quân sự, đời tư của công dân và bí mật
khác do pháp luật quy định; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng,
xúc phạm vĩ nhân, anh hùng dân tộc, vu khống, xúc phạm uy tín, danh dự và
17. 10
nhân phẩm của công dân. Những tác phẩm có nội dung đó không được nhà
nước bảo hộ và cũng không được sử dụng để xuất bản dưới bất kỳ hình thức
xuất bản nào.
Ngoài ra, Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học còn có quy
định điều kiện để một tác phẩm được bảo hộ phải đảm bảo được định hình
dưới một hình thức nhất định. Tại điều 3 Công ước Berne cũng quy định rõ
các nước thành viên tham gia nếu theo luật pháp nước mình quy định "coi sự
tuân thủ các thủ tục như lưu chiểu, đăng kí, thông báo như là một điều kiện để
một tác phẩm được bảo hộ thì cũng phải coi đây là một điều kiện bảo hộ theo
Công ước" [32].
Các tác phẩm văn học được bảo hộ không phụ thuộc vào việc công bố
hoặc chưa công bố nếu như quốc gia có tác phẩm đó là thành viên của Công
ước. Nếu là công dân hay cư dân của một nước là thành viên của Công ước
Berne đã công bố tác phẩm của mình tại một trong số các nước thành viên của
Công ước, thì tác phẩm văn học đấy sẽ tự động được hưởng sự bảo hộ quyền
tác giả theo quy định trong Công ước Berne ở tất cả các nước thành viên còn
lại của Công ước này.
Ngoài ra, tác phẩm văn học đấy cũng sẽ được bảo hộ ở các nước thành
viên khác giống như các nước đó bảo hộ các tác phẩm văn học của công dân
nước mình. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc bảo hộ quyền tác giả có tính chất
lãnh thổ. Tác phẩm chỉ được hưởng sự bảo hộ quyền tác giả nếu đáp ứng
được các tiêu chuẩn pháp lý được quy định bởi pháp luật về quyền tác giả của
nước muốn bảo hộ tác phẩm của mình. Vì vậy, mỗi nước có hệ thống bảo hộ
quyền tác giả riêng biệt, dựa trên một hay nhiều đạo luật quy định.
1.1.2. Đặc điểm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
Quyền tác giả có tính chất lãnh thổ triệt để, tác phẩm chỉ được hưởng
sự bảo hộ quyền tác giả nếu đáp ứng các điều kiện bảo hộ được quy định bởi
18. 11
pháp luật về quyền tác giả của nước muốn bảo hộ tác phẩm của mình. Vì vậy,
mỗi nước có hệ thống bảo hộ quyền tác giả riêng biệt, dựa trên một hay nhiều
đạo luật quy định. Ngoài ra, quyền tác giả còn có những đặc điểm riêng sau:
Quyền tác giả chỉ được công nhận khi TPVH là sản phẩm của lao động
trí não, sáng tạo hoặc có một phần công sức của tác giả và có tính chất duy
nhất. Đối tượng của QTG là các TPVH luôn mang tính sáng tạo trực tiếp từ
con người cụ thể mang dấu ấn cá nhân hoặc tập thể thông qua hoạt động của
trí não và các yếu tố hỗ trợ khác tạo ra thành quả là các TPVH được thể hiện
dưới hình thức nhất định. Mọi cá nhân đều có quyền sáng tác các tác phẩm
văn học và khi cá nhân tạo ra các TPVH đó phải do tác giả trực tiếp thực hiện
thông qua hoạt động lao động bằng trí não của mình mà không phải sao chép
từ các TPVH của người khác, (khoản 3 điều 14 luật SHTT). Cá nhân làm các
công việc hỗ trợ đóng góp ý kiến, sửa chữa câu từ, cung cấp tư liệu, đưa ra ý
tưởng để người khác sáng tạo không phải là tác giả (Khoản 3 điều 6 Nghị
định 22/2018/NĐ-CP ngày 23/2/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên
quan).
QTG có thể bị giới hạn về thời gian theo quy định của pháp luật như:
quyền công bố, phổ biến các TPVH cũng như quyền cho người khác hoặc
không cho người khác sử dụng TPVH của tác giả đồng thời là CSH QTG đối
với TPVH và chỉ được bảo hộ trong thời hạn suốt cuộc đời tác giả và 50 năm
tiếp theo năm tác giả chết và trong trường hợp TPVH có đồng tác giả thì thời
hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng
chết (Khoản 2, Điều 27 luật SHTT). QTG có thể bị giới hạn về không gian,
một TPVH có thể được bảo hộ ở nước ngoài, nhưng không được bảo hộ ở
Việt Nam vì không đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ theo pháp luật Việt Nam
(PLVN) và ngược lại, một TPVH có thể được bảo hộ ở Việt Nam nhưng
19. 12
không được bảo hộ ở nước ngoài vì không đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo
hộ theo pháp luật nước ngoài [42]. QTG có thể không được công nhận, bảo
hộ đối với một số TPVH có nội dung vi phạm đến chính trị, an ninh quốc gia,
văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục…[28, tr.47- tr.48]
TPVH phải đảm bảo tính nguyên gốc, có nghĩa là không phải đòi hỏi ý
tưởng của TPVH mà là hình thức thể hiện của ý tưởng đó do chính tác giả lao
động bằng hoạt động của trí não sáng tạo ra. Tính nguyên gốc không có nghĩa
là không có tính kế thừa [35, tr.50] nhưng mang đặc trưng riêng biệt có tính
sáng tạo với tính cách riêng của tác giả là tác phẩm được tác giả sáng tạo.
Pháp luật về QTG chỉ bảo hộ hình thức chứa đựng TPVH khi nó được
sáng tác ra và được thể hiện dưới hình thức nhất định, mà không bảo hộ ý
tưởng sáng tác TPVH, không bảo hộ nội dung ý nghĩa giá trị của ý tưởng sáng
tác. Sự định hình của một TPVH được hiểu là khi TPVH xác lập trên một đối
tượng vật chất nào đó, ở một trạng thái bền vững hoặc ổn định đủ để có thể
nhận biết trực tiếp thông qua các giác quan của con người hoặc gián tiếp qua
máy móc, thiết bị hỗ trợ kỹ thuật mà con người có thể sao chép, nhân bản
TPVH và truyền đạt cho người khác [4, tr.32].
QTG được xác lập dựa vào chính hành vi tạo ra TPVH của tác giả,
không phụ thuộc vào thể thức, thủ tục bất kể nào (khoản 1 điều 6 luật SHTT).
Chủ thể khác được phép sử dụng TPVH được bảo hộ nếu việc sử dụng đó
không nhằm mục đích thương mại, không ảnh hưởng đến việc sử dụng, khai
thác bình thường của TPVH, không xâm hại đến các quyền, lợi ích hợp pháp
khác của tác giả và CSH QTG [42].
1.1.3. Nội dung quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
Nội dung quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản,
nằm đan xen ở các quy định của Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn
học nghệ thuật. Theo Điều 6 của Công ước Berne quyền nhân thân độc lập
20. 13
với quyền kinh tế của tác giả và cả sau khi quyền này đã được chuyển
nhượng, tác giả vẫn giữ nguyên quyền nhân thân như được thừa nhận mình là
tác giả của tác phẩm và phản đối bất kỳ sự xuyên tạc, cắt xén hay sửa đổi
hoặc những vi phạm khác đối với tác phẩm có thể làm phương hại đến danh
dự và tiếng tăm tác giả. Việc quy định những quyền trên phụ thuộc vào pháp
luật của từng quốc gia thành viên.
Luật SHTT cũng quy định nội dung của quyền tác giả đối với tác phẩm
bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Việc xác định rõ nội dung quyền
tác giả có ý nghĩa rất quan trọng bảo đảm cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác
giả biết được mình có một số hay tất cả các quyền tài sản và quyền nhân thân
quy định trong Điều 19 và Điều 20 của Luật SHTT.
Quyền nhân thân bao gồm có quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền
nhân thân không gắn liền với tài sản. Các quyền nhân thân không gắn với tài
sản là những quyền gắn liền với nhân thân của tác giả và không thể chuyển
giao, không thể thừa kế và được bảo hộ vô thời hạn, chỉ có tác giả mới có đặc
quyền này cho dù tác giả đồng thời hoặc không đồng thời là CSH QTG, bao
gồm các quyền:
Thứ nhất là quyền được đặt tên cho TPVH, điều này có ý nghĩa trong
việc cá biệt hóa TPVH, thường phản ảnh ý tưởng của tác giả giúp công chúng
dễ dàng tiếp cận với ý đồ của tác giả trong TPVH và không có ý nghĩa pháp
lý với việc bảo hộ QTG vì TPVH có thể được bảo hộ khi nó không có tên và
quyền đặt tên không áp dụng cho trường hợp tác giả dịch TPVH từ ngôn ngữ
này sang ngôn ngữ khác. Quyền đặt tên cho TPVH là quyền nhân thân chỉ
thuộc về tác giả của TPVH kể cả khi tác giả sáng tác ra TPVH theo hợp đồng
hoặc theo nhiệm vụ.
Thứ hai, đứng tên tác giả trong TPVH, điều này khẳng định TPVH là
kết quả hoạt động sáng tạo của mình tác giả thường đứng tên trên TPVH đó
21. 14
(có thể dùng tên thật hoặc bút danh). Tác giả có quyền yêu cầu được nêu tên
thật hoặc bút danh khi TPVH được công bố sử dụng.
Thứ ba, là quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm
văn học. Đây là quyền nhân thân duy nhất gắn với các quyền tài sản và có thể
chuyển giao quy định tại khoản 3 điều 19 luật SHTT. Thực chất, quyền này
không hoàn toàn là quyền nhân thân mà là quyền tài sản, vì thông qua việc
công bố TPVH của mình, tác giả thu được những lợi ích kinh tế nhất định.
Quyền này thuộc về tác giả, nếu tác giả đồng thời là CSH QTG; quyền này
thuộc về CSH QTG, nếu tác giả không đồng thời là CSH QTG. Quyền này chỉ
được bảo hộ có thời hạn trong suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả
chết, có thể được chuyển giao và có thể được thừa kế. Tuy nhiên, riêng quyền
được nhận giải thưởng đối với TPVH không chỉ mang ý nghĩa vật chất, mà cả
yếu tố tinh thần trong đó yếu tố tinh thần nổi trội hơn, vì vậy quyền này thuộc
về tác giả đồng thời hay không đồng thời là CSH QTG [42],[52].
Thứ tư, là quyền bảo vệ toàn vẹn TPVH không cho người khác sửa
chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương
hại đến danh dự và uy tín của tác giả. Điều này nhằm bảo vệ sự toàn vẹn của
TPVH nhằm tránh bị sai lệch nội dung. Trong các quyền nhân thân không thể
chuyển giao thì quyền bảo vệ sự toàn vẹn của TPVH được coi là quan trọng
nhất và chính vì quan trọng nhất thì trong thực tiễn nó cũng thường bị xâm
phạm nhiều nhất. Tuy nhiêu cũng có một số các ngoại lệ như:
- Trích dẫn hợp lý các TPVH vì mục đích giảng dạy, TPVH không bị
coi là xâm phạm quyền bảo vệ sự toàn vẹn của TPVH.
- Sau khi TPVH được công bố, những người khác làm phái sinh, có
những thay đổi mới về nội dung cũng như hình thức thể hiện so với ban đầu
thì cũng không được coi là xâm phạm quyền bảo vệ sự vẹn toàn của TPVH.
Khoản 3 Điều 20 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23/2/2018 của Chính
22. 15
phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về
quyền tác giả và quyền liên quan đã quy định: “Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của
tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm quy định tại
khoản 4 điều 19 của Luật SHTT là việc không cho người khác sửa chữa, cắt
xén tác phẩm trừ trường hợp có thỏa thuận với tác giả”[42].
Quyền tài sản của tác giả tại điều 20 Luật SHTT là một bộ phận của
QTG. Quyền tài sản là tập hợp các quyền nhằm bảo vệ lợi ích được khai thác,
tham gia vào quá trình sử dụng và khai thác các giá trị kinh tế TPVH của tác
giả. Trong trường hợp tác giả đồng thời là CSH QTG, thì phạm vi các quyền
tài sản của tác giả sẽ rộng hơn so với trường hợp tác giả không đồng thời là
CSH QTG. Các quyền tài sản của tác giả đồng thời là CSH QTG có thể
chuyển giao cho người khác thông qua các giao dịch pháp lý hoặc thông qua
thừa kế và có thể bị tịch biên để thi hành nghĩa vụ. Các quyền tài sản này đều
được bảo hộ có thời hạn (trong thời gian tác giả còn sống và 50 năm sau khi
tác giả chết).
Tác giả mà đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm văn học được độc quyền
sử dụng TPVH của mình, được quyền cấm mọi hành vi sử dụng tác phẩm văn
học của mình. Điều này cũng có nghĩa tác giả đồng thời là CSH QTG là
người có quyền cho phép người khác sử dụng TPVH của mình và hưởng lợi
ích phân chia từ việc cho người khác sử dụng TPVH đấy và thường được thực
hiện thông qua hình thức hợp đồng sử dụng, chuyển giao, nhượng quyền khai
thác các TPVH. Việc được hưởng nhuận bút, hưởng thù lao và những lợi ích
vật chất khác liên quan đến TPVH của mình là hệ quả của quyền cho người
khác sử dụng các TPVH của mình; pháp luật của nhiều nước quy định quyền
được độc quyền sử dụng TPVH, cho hoặc không cho người khác sử dụng
TPVH là quyền tài sản. Pháp luật của Việt Nam quy định quyền này là quyền
tinh thần hay còn gọi là quyền nhân thân, nhưng lại áp dụng cách điều chỉnh
23. 16
như các quyền tài sản, có nghĩa là quyền này có thể chuyển giao được và chỉ
được bảo hộ có thời hạn.
Đối với trường hợp tác giả không đồng thời là CSH QTG thì quyền
nhân thân của tác giả hẹp hơn so với trường hợp tác giả đồng thời là CSH
QTG gồm: các quyền nhân thân không gắn với tài sản và không thể chuyển
giao và quyền bảo vệ sự toàn vẹn của TPVH, không cho người khác sửa chữa,
cắt xén hoặc xuyên tạc TPVH dưới bất kì hình thức nào gây phương hại đến
danh dự và uy tín của tác giả.
Quyền tài sản của tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả
gồm: được hưởng nhuận bút; được hưởng thù lao khi tác phẩm văn học của
mình được sử dụng; được nhận giải thưởng đối với tác phẩm văn học mà
mình là tác giả. Người có nghĩa vụ trả nhuận bút trong trường hợp này là chủ
sở hữu QTG bất kể chủ sở hữu QTG trực tiếp sử dụng tác phẩm văn học hoặc
cho phép người thứ ba sử dụng và CSH QTG có thu được tiền sử dụng từ
người thứ ba hay không, thì CSH QTG vẫn luôn là người có nghĩa vụ trả tiền
nhuận bút cho tác giả.
Trường hợp TPVH được trao giải thưởng, thì tác giả trực tiếp nhận giải
thưởng (kể cả danh hiệu lẫn tiền thưởng, nếu có) từ cơ quan tổ chức trao giải
thưởng, không qua người trung gian là CSH QTG vì giải thưởng chứa đựng
yếu tố tinh thần chiếm ưu thế cao hơn yếu tố vật chất, nên quyền này thuộc về
tác giả. Chủ sở hữu quyền tác giả không đồng thời là tác giả có quyền tài sản:
được hưởng lợi ích vật chất từ việc sử dụng TPVH tại điều 36 luật SHTT quy
định: Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc
toàn bộ các quyền tài sản quy định tại điều 20 của Luật SHTT.
Chủ sở hữu quyền tác giả đương nhiên có độc quyền hoặc cho phép
người khác thực hiện quyền này và sẽ được hưởng lợi ích từ người khác thông
qua việc cho phép thực hiện quyền đó gồm:
24. 17
- Làm tác phẩm văn học phái sinh như: dịch, biên dịch, biên soạn, tuyển
chọn…Người không phải là CSH QTG khi làm TPVH phái sinh phải trả tiền
nhuận bút, thù lao …cho CSH QTG gốc.
- Quyền sao chép tác phẩm văn học được quy định tại khoản 10 điều 4
Luật SHTT: “Là việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản
ghi âm, ghi hình bằng bất kì phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc
tạo ra bản sao dưới hình thức điện tử ’’[37] . Quyền sao chép thuộc QTG một
lần nữa được hướng dẫn tại khoản 2 điều 21 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP
ngày 23/2/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan, theo đó “quyền
sao chép quyền tác giả là một trong các quyền tài sản độc quyền thuộc QTG,
do CSH thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra bản sao tác
phẩm bằng bất kì phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo ra bản
sao dưới hình thức điện tử”. Nếu như trước đây, sao chép được hiểu là việc
làm các bản sao dưới các hình thức vật chất hữu hình như văn bản, đĩa…thì
quy định này đã mở rộng phạm vi quyền sao chép đến cả các hình thức điện
tử có nghĩa là sẽ được số hóa thong qua các phương tiện kỹ thuật. Quy định
này hoàn toàn phù hợp với khái niệm sao chép trong điều 9 Cư Berne về bảo
hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật qui định: “tác giả được hưởng độc quyền
cho phép sao in các tác phẩm đó dưới bất kì hình thức nào’’[45].
Chủ sở hữu quyền tác giả có quyền được phân phối, được nhập khẩu
bản gốc hoặc bản sao của tác phẩm văn học; Quyền này được xem là một
trong những phương thức sử dụng TPVH một cách độc lập. Phân phối TPVH
là việc đưa những vật thể hiện hoặc sao chép TPVH vào giao lưu dân sự
thông qua các hợp đồng như mua bán, trao đổi, tặng cho…Đối tượng phân
phối có thể là bản gốc hoặc bản sao của TPVH. Bên cạnh đó CSH QTG còn
có quyền truyền đạt TPVH đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô
25. 18
tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác.
CSH QTG có được những độc quyền khai thác, sử dụng những thành
quả sáng tạo, đầu tư của họ vì những đóng góp của họ. Tuy nhiên điều này có
thể là nguyên nhân gây cản trở cho sự tiếp cận của công chúng và vô hình
ngăn chặn các giao lưu dân sự liên quan đến loại quyền tài sản đặc biệt này.
Vì thế, để hài hòa lợi ích của chủ thể QTG và lợi ích cộng đồng trong việc
tiếp cận, sử dụng TPVH.
PLVN có quy định các hạn chế của QTG đối với một số hành vi sử
dụng, khai thác QTG như được sử dụng TPVH được công bố mà không phải
xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao hoặc không phải xin phép
nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ thể quyền khi sử dụng TPVH
được công bố (Điều 25, điều 26 Luật SHTT).
Do đó, bên cạnh việc quy định độc quyền sao chép cho CSH, pháp luật
còn quy định những hạn chế QTG đối với quyền sao chép sao cho phù hợp
với khoản 2 điều 9 Cư Berne về Bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật quy
định: “Luật pháp quốc gia thành viên có quyền cho phép sao in tác phẩm
trong một vài trường hợp đặc biệt, miễn là sự sao in đó không phương hại đến
việc khai thác bình thường tác phẩm hoặc không gây thiệt hại bất chính cho
những quyền lợi hợp pháp của tác giả”
Với các quyền trên, chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu tự mình thực
hiện hoặc cho phép người khác thực hiện, trong trường hợp khi cho người
khác thực hiện quyền, họ có thể được hưởng tiền nhuận bút, thù lao, các lợi
ích khác theo thỏa thuận. Mọi hành vi sử dụng tác phẩm mà không xin phép
chủ sở hữu tác phẩm đều bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả.
Bên cạnh việc tác giả được thừa nhận và bảo hộ quyền theo quy định,
thì pháp luật cũng có những giới hạn về quyền tác giả. Việc giới hạn thể hiện
ở chỗ pháp luật quy định những trường hợp nhất định thì cá nhân, tổ chức
26. 19
khác có quyền sử dụng tác phẩm được công bố mà không xin phép, không
phải trả nhuận bút, thù lao cho tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, sử dụng tác
phẩm được công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền (Điều
25 và Điều 26 Luật SHTT). Luật SHTT quy định về giới hạn quyền tác giả
như vậy, một mặt là để đảm bảo tác giả, chủ sở hữu tác phẩm không lạm dụng
những đặc quyền dành cho họ, mặt khác đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích của
tác giả, chủ sở hữu tác phẩm với lợi ích của cộng đồng, bảo tồn và phát triển
những giá trị chung ở mức độ hợp lý.
1.2. Lý luận bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
1.2.1. Định nghĩa bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
Tại khoản 2 điệu 4 Luật STTT quy định Quyền tác giả: là quyền của tổ
chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu [37]. Quyền
tác giả đối với TPVH là quyền tài sản, tính chất vô hình nên chỉ có thể xác lập
và nhận biết bằng pháp luật nên cần sự bảo hộ từ phía Nhà nước.
Thuật ngữ “bảo hộ”: là được “che chở, không để bị hư hỏng, tổn
thất”[47, tr.31]. Do đó, bảo hộ quyền tác giả đối với TPVH là việc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền bằng pháp luật ghi nhận, bảo đảm thực hiện và bảo
vệ quyền tác giả của người sáng tạo, chủ sở hữu tác phẩm văn học.
QTG của tác phẩm văn học cũng tự động phát sinh khi TPVH được
sáng tạo và thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt
nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ đã công bố hay chưa
công bố đã đăng ký hay chưa đăng ký (Khoản 1 điều 6 luật SHTT). Nhưng để
miễn giảm được nghĩa vụ chứng minh khi có tranh chấp về QTG xãy ra thì
việc đăng ký bảo hộ QTG TPVH vẫn được khuyến khích thực hiện.
Việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học mang ý nghĩa vô
cùng quan trọng, nhằm các mục đích như sau:
27. 20
- Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học là nhằm loại trừ các
hành vi khai thác, sử dụng bất hợp pháp các tác phẩm văn học của người khác
mà không có sự cho phép của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả của tác
phẩm văn học đó.
- Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học là nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của tác giả đối với tác phẩm văn học do mình sáng tạo ra.
- Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học đồng thời mang ý nghĩa
bảo vệ giá trị của các tác phẩm văn học đó.
- Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nhằm góp phần thúc
đẩy sự phát triển sáng tạo của văn học nghệ thuật nói riêng và sự phát triển
của nền kinh tế nói chung.
- Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phổ biến các tác phẩm văn học có giá trị.
1.2.2. Nội dung bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
Nội dung bảo hộ bao gồm bảo hộ việc xác lập, thực hiện và thực thi
QTG đối với TPVH.
QTG đối với TPVH được xác lập ngay từ khi TPVH được tạo ra và định
hình dưới dạng vật chất nhất định, không cần phải thủ tục đăng ký bảo hộ.
Tuy nhiên để “giảm thiểu nghĩa vụ chứng minh” khi có xãy ra tranh chấp thì
việc đăng ký bảo hộ QTG vẫn là thủ tục được khuyến khích hiện nay. Việc
xác lập bảo hộ QTG bằng hình thức đăng ký bảo hộ cho thấy tác giả (CSH)
TPVH ý thức được vấn đề bảo vệ QTG đối với TPVH của chính mình, mặc
dù không phải là thủ tục bắt buộc. Đăng ký QTH là việc mà tác giả (CSH)
QTG nộp đơn và các hồ sơ kèm theo (đơn) cho cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền ghi nhận và lưu giữ lại những thông tin về tác giả, tác phẩm, CSH QTG
tác phẩm.
Xác lập quyền dựa trên các tiêu chí; trong đó để được bảo hộ QTG thì
28. 21
TPVH phải đảm bảo được tính nguyên gốc. Khái niệm “nguyên gốc” là khái
niệm rất quan trọng nhưng lại không được quy định cụ thể trong luật mà chỉ
được hiểu tính nguyên gốc liên quan đến hình thức thể hiện ý tưởng chứ
không liên quan đến bản thân ý tưởng hay ý nghĩa bên trong nó. Tính nguyên
gốc có nghĩa là TPVH được bảo đảm bằng sự sáng tạo ra một cách độc lập,
trực tiếp từ lao động bằng trí não, đồng thời sẽ thể hiện được phong cách
riêng của tác giả và không được sao chép từ bất cứ một TPVH nào khác.
Để được bảo hộ QTG, các TPVH phải được định hình dưới một dạng
vật chất nhất định mà bằng các giác quan của con người hoặc bằng các
phương tiện kỹ thuật có thể nhận biết được. Tác phẩm văn học sẽ không được
bảo hộ dưới dạng ý tưởng, suy nghĩ … mà chỉ bảo hộ cách thức thể hiện ý
tưởng dưới một dạng vật chất cụ thể mà bằng hình thức trực tiếp thông qua
các giác quan hoặc gián tiếp qua các thiết bị hỗ trợ kỹ thuật mà công chúng
biết đến sự tồn tại của các TPVH đó.
Thực hiện QTG đối với TPVH là việc thực hiện nội dung QTG bởi các
chủ thể như tác giả, CSH QTG và các chủ thể được phép khai thác quyền tác
giả. QTG đối với TPVH là một tập hợp các quyền của các chủ thể quyền đối
với TPVH do họ sáng tạo ra hoặc sở hữu, các quyền này được pháp luật bảo hộ
và thừa nhận gồm: quyền nhân thân và quyền tài sản được quy định tại điều 19
và điều 20 Luật SHTT, tại điều 20 và điều 21 Nghị định số 22/2018/NĐ – CP
ngày 23/2/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan.
Việc thực thi bảo hộ QTG đối với TPVH theo điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên là Hiệp định TRIPs (Hiệp định về các khía cạnh thương
mại của sở hữu trí tuệ và có hiệu lực tại Việt Nam ngày 01/01/1995) Hiệp
định này bao gồm những nguyên tắc toàn diện nhất về thực thi quyền SHTT
trên phạm vi toàn thế giới. Hiệp định TRIPs thể hiện bước phát triển rất rõ
29. 22
ràng với việc dành hẳn phần III với 21 điều (từ điều 41 đến điều 61) quy định
về thực thi quyền SHTT. Để đảm bảo việc thực thi quyền SHTT theo quy
định của Hiệp định Trips thì các quốc gia thành viên có thể áp dụng ba loại
thủ tục là hành chính, dân sự và hình sự để đảm bảo đạt hiệu quả cho việc
thực thi. Nhưng các thủ tục này phải được áp dụng một cách bình đẳng, công
bằng, không được tốn kém nhằm tránh tạo sự cản trở trong hoạt động thương
mại hợp pháp và chống lại sự lạm dụng các thủ tục đó (khoản 1, 2, Điều 41
Hiệp định TRIPs) [46].
1.2.3. Cơ chế bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
Cơ chế bảo hộ tác phẩm văn học được thực hiện thông qua một số cơ
quan quản lý Nhà nước cũng như các tổ chức chuyên nghiệp hỗ trợ khác.
Để xác lập quyền, cơ quan chuyên trách thực hiện là Cục bản quyền tác
giả thuộc Bộ Văn hóa Thể thao & Du lịch (điều 51 luật SHTT và điều 35
Nghị định 22/2018/NĐ-CP) thực hiện nhiệm vụ cấp đổi và thu hồi giấy chứng
nhận quyền tác giả TPVH.
Ngoài các cơ quan quản lý nhà nước còn các tổ chức dịch vụ, các tổ
chức tư vấn tập thể cũng góp phần vào việc thực thi quyền tác giả đối với
TPVH. Thay vì tác giả tự quản lí quyền của mình xuất hiện giải pháp là quản
lí tập thể cho cả người sáng tạo và nhà sử dụng. Việc “quản lí tập thể” bắt
nguồn từ các nước có nền công nghiệp về bản quyền phát triển, điều này đã
mở đường nhằm đạt được sự hài hòa về lợi ích chung trong quan hệ giữa
Người sáng tạo – Nhà sử dụng – Công chúng hưởng thụ [18].
1.3. Cơ sở pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn
học
1.3.1. Pháp luật Việt Nam
QTG ở nước ta là một lĩnh vực tuy không còn mới, ý tưởng về bảo hộ
QTG đã được ghi nhận từ Hiến pháp năm 1946. Nhà nước Việt Nam dân chủ
30. 23
cộng hòa đã công nhận quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản của công dân
và bảo đảm quyền tư hữu tài sản và quyền lợi của trí thức và đến Hiến pháp
năm 2013 tại điều 40, điều 41 tái khẳng định lại điều này một lần nữa.
Theo PLVN, bảo hộ QTG được điều chỉnh bởi một hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật, bao gồm:
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 số 50/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm
2005, được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 36/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm
2009;
Luật Xuất bản năm 2012 cũng có một số điều khoản quy định về QTG,
nhằm tăng cường quản lí ở các lĩnh vực đặc biệt quan trọng này;
Luật Hải quan 2014 đã có quy định các biện pháp bảo hộ tại biên giới
đối với hàng hóa xuất nhập khẩu liên quan đến SHTT;
Luật xử lý phạt vi phạm hành chính 2012;
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015;
Bộ luật Hình sự năm 2015 số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm
2015, được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 12/2017/QH13 ngày 20 tháng 6 năm
2017;
Nghị định 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật SHTT về bảo vệ quyền
SHTT và quản lý nhà nước về SHTT được sửa đổi bổ sung Nghị định số
119/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010;
Nghị định 131/2013/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 16/10/2013
quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan; Nghị
định gồm 4 chương, 43 điều sửa đổi, bổ sung một số hành vi vi phạm; điều
chỉnh mức phạt tiền, hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu
quả để phù hợp với thực tiễn và các quy định mới của Luật Xử lý vi phạm
hành chính 2012; Nghị định này được sửa đổi bởi Nghị định số 28/2017/NĐ-
31. 24
CP ngày 20/3/2017 của Chính phủ.
Nghị định 18/2014/NĐ-CP quy định về chế độ nhuận bút trong báo chí
và xuất bản ngày 14/3/2014 của Chính phủ;
Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23/2/2018 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả
và quyền liên quan.
* Văn bản pháp luật của thành phố Đà Nẵng
Quyết định số 7326/QĐ-UBND ngày 23/10/2006 của UBND thành phố
về ban hành Chương trình hành động về hợp tác phòng và chống xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn 2006 -
2010.
Quy chế phối hợp liên ngành số 01/KH&CN-CA-HQ-TM ngày
08/02/2007 giữa Sở KH&CN, Công an, Cục Hải Quan và Sở Công Thương
về phối hợp hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Quyết định số 26/2008/QĐ-UBND ngày 24/4/2008 của UBND thành
phố về Quy định về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan quản lý
Nhà nước về quyền tác giả và quyền liên quan trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng.
Kế hoạch số 10582/KH-UBND ngày 12/12/2012 của UBND thành phố
về phối hợp hành động phòng và chống xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2012 - 2015.
Quyết định số 692/QĐ-UBND ngày 24/01/2014 về việc ban hành Quy
chế phối hợp liên ngành trong hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ bằng
biện pháp hành chính trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
1.3.2. Pháp luật quốc tế
Vấn đề bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học còn có thể được
32. 25
điều chỉnh bởi các điều ước quốc tế đa phương, song phương quan trọng mà
Việt Nam đã là thành viên trong lĩnh vực này như:
Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật năm 1886 có
hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 26/10/2004;
Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ (TRIPs) có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 11/01/2007;
Hiệp định giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ về thiết lập quan hệ quyền tác giả ngày 27/6/1997;
Hiệp định thương mại (BTA) giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam và
Chính phủ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ ngày 13/7/2000;
Hiệp định giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Liên bang
Thụy Sỹ về bảo hộ sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ ngày
07/7/1999, có hiệu lực từ ngày 08/6/2000.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn tham gia một số Hiệp định thương mại tự
do có nội dung bảo hộ QTG nhưng về cơ bản liên quan đến TPVH không có
nhiều nội dung khác biệt so với các quy định của TRIPs. Mặc dù, cũng cần
phải nhấn mạnh rằng Việt Nam chưa gia nhập một số điều ước quốc tế đa
phương quan trọng trong lĩnh QTG, trực tiếp điều chỉnh vấn đề bảo hộ QTG
trong môi trường số (kỹ thuật số) như: Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả
(WCT, có hiệu lực từ ngày 06/3/2002) được ký kết nhằm làm rõ một số quy
định của CƯ Berne về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật trong môi trường
số, ví dụ làm rõ hơn về quyền sao chép, quyền truyền đạt tác phẩm trong môi
trường số. Đồng thời, Công ước này cũng bổ sung thêm một số quyền của tác
giả, quyền và nghĩa vụ của quốc gia thành viên trong việc bảo hộ QTG trong
môi trường số [2], [28].
Mặc dù PLVN còn một số điểm chưa thực sự phù hợp với quy định của
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng như chưa thực sự phù hợp
33. 26
với tình hình thực tế của Việt Nam hiện nay, nhưng có thể đánh giá một cách
khách quan rằng pháp luật SHTT về cơ bản đã đầy đủ. Và trong trường hợp
có sự khác nhau giữa quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên với quy định tại Điều 5 Luật SHTT Việt Nam khẳng định nguyên tắc cho
phép áp dụng quy định của điều ước quốc tế. Điều này thực sự đã tạo được cơ
sở pháp lý cho việc bảo hộ QTG nói riêng, quyền SHTT nói chung tại Việt
Nam. Cho đến nay, các quy định của PLVN về QTG cơ bản đã phù hợp với
các Công ước Quốc tế về QTG, đặc biệt là với Hiệp định TRIPs và CƯ Berne.
Việt Nam phải đầu tư nhiều nguồn lực mới bảo đảm thi hành tốt các cam kết
trong khuôn khổ TRIPs và các điều ước đa phương, song phương mà Việt
Nam là thành viên[42,tr.26].
Tiểu kết Chương 1
Quyền tác giả và bảo hộ quyền tác giả đối với TPVH là một trong
những bộ phận rất quan trọng của cấu thành quyền SHTT. Pháp luật của quốc
gia hay quốc tế đều rất quan tâm đến việc bảo hộ quyền tác giả đối với TPVH.
Đây là loại quyền rất dễ bị xâm phạm và có xu hướng gia tăng ở hầu hết các
quốc gia trên thế giới.
Những lý luận về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học và bảo hộ
quyền tác giả đối với TPVH tại chương 1 sẽ là tiền đề để chúng ta có thể tiếp
tục nghiên cứu và đánh giá thực trạng bảo hộ quyền tác giả đối với TPVH
theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng đồng thời gợi mở
định hướng giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền tác giả đối
với TPVH hiện nay.
34. 27
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ
ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG
2.1. Tác phẩm văn học tại thành phố Đà Nẵng và yêu cầu bảo hộ
quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
Tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân
hoặc một tập thể sáng tạo nhằm thực hiện những khái quát về cuộc sống, con
người; biểu hiện tâm tư, tình cảm, thái độ của chủ thể trước thực tại bằng hình
tượng nghệ thuật [2].
Tác phẩm văn học có thể tồn tại dưới hình thức truyền miệng (văn học
dân gian, folklore văn học) hay dưới hình thức văn bản nghệ thuật được giữ
gìn qua văn tự (văn học viết, văn học bác học), có thể được viết bằng văn vần
hay văn xuôi. Hiện thực trong tác phẩm văn học bao giờ cũng là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan đã được khúc xạ qua lăng kính của nhà văn.
Nhưng luận văn chỉ để cập đến tác phẩm văn học viết như trong phần phạm vi
nghiên cứu đã trình bày ở trên.
Đà Nẵng là một thành phố trung điểm của các di sản thế giới như Cố đô
Huế, phố cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn. Ngoài ra thành phố Đà Nẵng nằm
trên trục giao thông Bắc - Nam về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường
hàng không, là một trong những cửa ngõ quan trọng ra biển của Tây Nguyên
và các nước Lào, đông bắc Campuchia, Thái Lan và Myanmar. Nên nơi đây
có sự giao thoa rất lớn giữa các nền văn hóa, điều này góp phần làm cho các
TPVH tại thành phố Đà Nẵng trở nên phong phú đa dạng và đặc sắc hơn.
Các TPVH ở Đà Nẵng hiện nay phần lớn là do sự sáng tác của các tác
giả hoặc từ các đơn vị đặt hàng trong và ngoài tỉnh, thành phố. Điều này là sự
35. 28
khích lệ rất lớn cho các văn nghệ sĩ của thành phố. Đồng thời góp phần nâng
cao về chất lượng cũng như về số lượng các TPVH để phát triển tri thức mới
và phục vụ cộng đồng.
2.1.1. Đặc điểm các tác phẩm văn học tại thành phố Đà Nẵng
Trong những năm qua, hoạt động sáng tác các TPVH của thành phố Đà
Nẵng được quan tâm và đầu tư với các khoản kinh phí hằng năm từ nguồn
ngân sách của thành phố (Hội Liên hiệp các Hội văn học thành phố, Nhà sáng
tác thành phố). Hoạt động sáng tác các TPVH góp phần thúc đẩy giữ ổn định
về mặt tư tưởng, chính trị và văn hóa đồng thời nâng cao nhận thức của người
dân, được tiếp cận những giá trị đẹp của cuộc sống, vì thế việc sáng tác TPVH
giữ một vai trò trò rất quan trọng. Chất lượng sáng tác các TPVH phụ thuộc
rất nhiều vào ý thức và năng lực của người sáng tác đồng thời cũng phụ thuộc
vào người cảm thụ, điều này thúc đẩy cả người sáng tác lẫn người thụ hưởng
đều phải nâng cao trình độ tri thức, tầm hiểu biết về nhân sinh quan, thế giới
quan và dần dần sẽ hình thành được cái “chất” sáng tác của riêng mỗi người.
Điều này sẽ phục vụ rất đắc lực trong các tiêu chuẩn để bình xét, bình chọn
các TPVH đạt giải của Hội đồng Văn học nghệ thuật thành phố hằng năm.
Đặc điểm các TPVH ở thành phố hiện nay bao gồm: thơ, ca, ký, hồi ký,
truyện ngắn, tiểu thuyết….chủ yếu là mang tính tự sự về chuyện đời chuyện
mình chuyện người chưa mang tính khoa học, nghiên cứu chuyên sâu về một
vùng đất, về con người xứ Quảng ... nên xét về mặt giá trị vẫn chưa cao so với
nguồn kinh phí mà thành phố đã chi trả hàng năm cho hoạt động sáng tác các
TPVH để phục vụ cho sự nghiệp tư tưởng chính trị văn hóa của thành phố.
Mặc dù, hằng năm cũng có những TPVH đạt giải của Hội Nhà văn Việt Nam
nhưng rất ít những TPVH được đánh giá là xuất sắc. Các TPVH về nghiên
cứu con người, lịch sử, sự kiện, văn hóa… là những TPVH được hình thành
theo hình thức đặt hàng hoặc thực hiện nghĩa vụ lao động của tác giả đối với
36. 29
CSH vẫn là Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật thành phố, nhưng việc
phân định quyền và nghĩa vụ của tác giả và CSH chưa rõ ràng, còn chồng lấn
xâm phạm lẫn nhau. Mặc dù đây là những TPVH có giá trị kinh tế rất cao vì
đó là những công trình nghiên cứu được hình thành bởi các nhà nghiên cứu có
uy tín với bề dày kinh nghiệm trong nghiên cứu khảo cứu nền văn hóa, lịch
sử, con nước của từng vùng đất.
Những quy định hướng dẫn chi tiết cụ thể về QTG chưa được ban hành
tại Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật thành phố cũng như ít được tuyên
truyền. Hiện nay Liên hiệp các Hội văn học Nghệ thuật thành phố cũng không
có bộ phận theo dõi, giám sát, tư vấn về việc bảo về và khai thác QTG. Điều
này làm hạn chế hoạt động sáng tác các TPVH, đồng thời cũng hạn chế khả
năng bảo hộ QTG và khả năng thương mại hóa các TPVH cản trở quá trình
nhận thức về việc vi phạm SHTT, đặc biệt là hành vi xâm phạm QTG còn khá
phổ biến hiện nay.
Với vấn đề nhận thức QTG của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật
thành phố với tư cách là CSH QTG và người sáng tác (tác giả) TPVH đều
không hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình hoặc không biết về các đặc quyền
của mình khi có xẫy ra tranh chấp về QTG. Đồng thời các chủ thể quyền còn
cố tình xâm phạm lẫn nhau vì chưa có một chế tài phân định rõ ràng nên cứ
mặc nhiên vi phạm trong hoạt động khai thác bảo hộ QTG.
2.1.2. Yêu cầu bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học tại
thành phố Đà Nẵng
Việc bảo tồn và phát huy những giá trị vốn có của TPVH ở Việt Nam
nói chung và ở thành phố Đà Nẵng nói riêng là một việc làm hết sức cần thiết
bởi những mục đích rất quan trọng.
Trước hết, cũng giống như mục đích chung của các nước trên thế giới
khi bảo hộ TPVH, pháp luật Việt Nam có những quy định về bảo hộ TPVH
37. 30
nhằm duy trì những giá trị truyền thống, nét tinh hoa văn hóa của dân tộc, đồng
thời bảo tồn sự phát triển lâu dài, bền vững của TPVH. Hơn nữa, Việt Nam là
một nước có bề dày truyền thống, những nét đẹp văn hóa đều được đúc kết và
thể hiện qua các tác phẩm văn học. Mỗi một TPVH là cả một quá trình sáng
tạo, là một kho tri thức, một kho kinh nghiệm rất quý báu của ông cha để lại vì
thế chúng cần được gìn giữ và được bảo hộ. Việc bảo hộ, duy trì và phát huy
những giá trị vốn có của TPVH cũng giống như bảo vệ đạo đức của cả một xã
hội, khích lệ lòng dân, duy trì những nét văn hóa truyền thống của các cộng
đồng làng xã tồn tại từ lâu đời, đó là những vốn cổ, là tâm hồn của người Việt
không được để mai mọt. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử ông cha ta đã cố công
xây dựng và gìn giữ những áng văn chương bất hủ của dân tộc như thơ, ca, hò
vè, kí, ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích... chúng đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi
con người ở mỗi một vùng miền trên đất nước Việt Nam nói riêng và cả dân
tộc ta nói chung. Do đó, chúng ta không thể làm mất đi những nét đẹp văn hoá
mà ông cha ta bao đời nay gây dựng và gìn giữ, mà chúng ta phải bảo vệ những
gì được coi là tinh hoa văn hóa của dân tộc. Hơn thế nữa, bảo hộ QTG đối với
TPVH nhằm mục đích là duy trì và cân bằng giữa việc chống lại việc lạm
dụng, làm tổn hại tới sự phát triển của TPVH đồng thời đảm bảo sự tự do sáng
tạo lấy nguồn cảm hứng từ các tác phẩm đó. Đó là việc đảm bảo sự cân bằng
giữa một mặt là gìn giữ và một mặt là phát triển chúng.
Bên cạnh đó, một lợi ích quan trọng mà việc bảo hộ TPVH đó mang lại,
đó là những lợi ích kinh tế….Vì vậy, chúng ta cần phải xem xét lợi ích này
một cách kĩ lưỡng và phải đề cao chúng. Một đất nước đang phát triển như
Việt Nam khi mà tiềm lực về kinh tế chưa mạnh thì ta phải biết dựa vào
những tiềm lực khác để phục vụ cho lợi ích kinh tế. Khai thác tác phẩm văn
học sẽ đem lại lợi ích này, điển hình là khai thác chúng cho mục đích phục vụ
du lịch, những giá trị truyền thống là một lợi thế để thu hút sự quan tâm của
38. 31
du khách nước ngoài, ví dụ như thơ ca dân gian, câu truyện cổ tích, thần thoại
được sân khấu hóa,...trong lễ hội Fesstival, lễ hội vùng miền….Việc khai thác
TPVH sẽ đem lại một nguồn thu lớn, là một nguồn động lực mạnh cho sự
phát triển kinh tế chung của đất nước.
Trong kinh nghiệm về bảo hộ quyền SHTT của các nước trên thế giới
cho thấy, nơi nào mà nhận thức của công chúng càng cao về quyền SHTT thì
tình hình về vi phạm SHTT càng thấp. Điều này sẽ thúc đẩy sự phát triển
mạnh về kinh tế- văn hóa và xã hội.
Các chuyên gia của tổ chức SHTT thế giới (WIPO) đã đưa ra nhận định
rằng: SHTT là một “công cụ có khả năng” phát triển kinh tế và tạo ra của cải
chưa được sử dụng với hiệu quả tối ưu tại tất cả các nước, đặc biệt là trong thế
giới đang phát triển [46, tr.25].
Yêu cầu về bảo hộ về QTG tại thành phố Đà Nẵng có thể có cái nhìn ở
nhiều khía cạnh khác nhau:
- Nâng cao nhận thức về hoạt động bảo hộ SHTT nói chung và QTG
nói riêng đối với các TPVH tại thành phố Đà Nẵng.
- Khai thác tiềm năng của SHTT để nhằm hoàn thiện việc thương mại
hóa quyền này.
Thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng cho thấy việc nhận thức của đại đa số
người dân về SHTT nói chung và QTG nói riêng đối với TPVH là chưa có
hoặc có nhưng cũng rất ít, lờ mờ và điều kiện để người dân có điều kiện tiếp
cận được nguồn thông tin về SHTT cũng rất khó khăn. Hầu như việc tuyên
truyền về vẫn đề SHTT nói chung và về QTG đối với TPVH hầu như là chỉ
tập trung phổ biến tuyên truyền ở các diễn đàn, hội nghị, các cuộc họp
báo…mà không được nhân rộng đến các điểm văn hóa của xã phường… Đây
cũng chính mà sự thiếu sót của cơ quan quản lý trong lĩnh vực này.
Trong thời gian gần đây tình hình vi phạm về QTG của các TPVH có
39. 32
chiều hướng tăng như sáng tác thơ, truyện, văn xuôi….hoặc các TPVH của
các tác giả được ra bán trên mạng khi chưa được sự đồng ý của CSH QTG.
Việc trích dẫn, ghi chú thiếu nguồn hoặc cố ý không dẫn nguồn hoặc thậm chí
là sao chép nguyên y nội dung đã diễn ra ngày càng nhiều nhưng rất bối rối
trong việc xử lý các vi phạm xâm phạm về SHTT nói chung và QTG nói riêng.
Mặc dù, sao chép có thể chỉ là một bản nhưng sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích hợp phát của CSH QTG. Không chỉ riêng tại thành phố Đà Nẵng mà hầu
như trên cả nước, việc đến tiệm photocopy hoặc lên mạng Internet tìm kiếm
một hay nhiều TPVH có nội dung tương tự nhau thì cũng rất là dễ dàng. Việc
xuất bản được coi là “bà đỡ” của các tác phẩm văn học công bố dưới hình thức
xuất bản phẩm [16]. Việc in ấn, nhân bản… khi chưa có được sự đồng ý bằng
lời hoặc bằng văn bản đồng ý của tác giả hoặc CSH QTG vẫn thường xuyên
diễn ra ngày càng tăng [39]. Điều này sẽ nguy hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của tác giả hoặc CSH QTG đồng thời sẽ làm giảm đi động lực sáng tác,
sưu tầm, biên soạn các TPVH hay và sự tiếp cận với nền tri thức cũng như
được hưởng thụ trí thức mới của công chúng cũng giảm sút nghiêm trọng.
2.2. Thực trạng xác lập quyền tác giả đối với tác phẩm văn học tại
thành phố Đà Nẵng
2.2.1. Thực trạng về điều kiện xác lập quyền tác giả đối với tác phẩm
văn học
Việc bảo hộ của QTG đối với TPVH được xác lập tự động ngay sau khi
tác phẩm được hoàn thành, không cần được đánh giá và công nhận, cũng
không cần phải thông qua thủ tục cấp bằng bảo hộ nào. Tại khoản 1 điều 6
Luật STTT cũng đã qui định “Việc nộp đơn để được cấp giấy chứng nhận
đăng ký quyền tác giả không phải là điều kiện bắt buộc đẻ được hưởng quyền
tác giả”[37].
Tuy nhiên, việc đăng ký bảo hộ để được cấp giấy chứng nhận QTG đối
40. 33
với TPVH là việc làm cần thiết được nhà nước khuyến khích vì việc đăng ký
QTG có ý nghĩa khi chủ thể có giấy chứng nhận QTG đối với TPVH là chứng
cứ chứng minh QTG khi có tranh chấp. Có nghĩa là khi đăng ký QTG sẽ
“giảm thiểu nghĩa vụ chứng minh” (điều 203 Luật SHTT), đây là việc nên
làm nhất vì thủ tục đăng ký QTG tương đối đơn giản và không yêu cầu thẩm
định về mặt nội dung.
Hiện nay do sự nhận thức của một bộ phận rất lớn của các tác giả, CHS
QTG các TPVH thì thường không quan tâm đến QTG, chỉ khi nào các TPVH
của mình bị xâm phạm thì lúc này tìm kiếm phương án xử lý. Vì vậy các
TPVH cần được ghi nhận và xác lập QTG một cách kịp thời, chính xác và đầy
đủ nhất.
TPVH hiện nay tại thành phố Đà Nẵng thông thường được bảo hộ theo
các loại sau :
- Một là, các TPVH được sáng tác, biên soạn, sưu tầm...theo hình thức
hợp đồng do ngân sách Nhà nước chi trả thông qua các hình thức đặt hàng
(điều 27 Nghị định 22/2018/NĐ-CP). Thì đây là các TPVH thuộc quyền sở
hữu của các tổ chức (các đơn vị hành chính sự nghiệp) được Thành phố ủy
quyền quản lý và khai thác, tiến hành các hoạt động xác lập QTG các TPVH
mà đơn vị được phân công quản lý, khai thác và bảo lưu chứng cứ phát sinh
về QTG của TPVH đó.
- Hai là, các TPVH do cá nhân tác giả tự sáng tác, biên soạn, sưu tầm…
không sử dụng ngân sách của Nhà nước. Thì việc bảo vệ QTG đối với TPVH
của mình là việc của cá nhân tác giả (đồng tác giả)/ chủ sở hữu QTG đối với
TPVH.
2.2.2. Thực trạng về hình thức xác lập quyền tác giả đối với tác phẩm
văn học tại thành phố Đà Nẵng
- Xác lập quyền tác giả đủ đối với TPVH là rất cần thiết. Điều này, sẽ
41. 34
giúp tác giả CSH các TPVH được “giảm thiểu nghĩa vụ chứng minh”. Việc
đăng ký QTG là việc nên thực hiện nhất vì khi thủ tục đăng ký QTG tương
đối đơn giản và không yêu cầu thẩm định về mặt nội dung các TPVH [13,
tr.268].
- Việc xác lập quyền tác giả đối với TPVH hiện nay tại thành phố Đà
Nẵng cũng chỉ xoay quanh các hình thức sau:
+ QTG đối với TPVH được xác lập tự động ngay sau khi TPVH được
hoàn thành, không cần được đánh giá và công nhận, cũng không cần phải
thông qua thủ tục cấp bằng bảo hộ nào (Khoản 1, điều 6 Luật SHTT). Hiện
nay tại thành phố Đà Nẵng, đây là hình thức được biết và sử dụng phổ biến.
Bởi lẽ, lý do thứ nhất là các tác giả CSH TPVH chưa hiểu rõ về tầm quan
trọng của việc đăng ký QTG khi TPVH hoàn thành, họ chỉ nghĩ việc bảo hộ
QTG này được quy định trong Luật SHTT nên hiển nhiên là QTG của họ
được bảo hộ, nhưng quên mất rằng điều này đồng thời là khe hở để các đối
tượng khác muốn xâm phạm đến sự toàn vẹn của TPVH. Ví dụ, trường hợp của
ông Nguyễn Văn Chín (tác giả tập thơ Hồn Non Nước) đọc tác phẩm thơ của
mình tại Câu lạc bộ thơ Hàn Giang trong một buổi gặp mặt. Mặc dù tác phẩm
đã được hình thành, nhưng lại không có chứng cứ chứng minh. Một người khác
là bà Nguyễn Thị Thu Nguyệt có mặt trong đêm thơ ấy lại lấy hai khổ thơ trong
bài thơ ông Chín đưa vào tác phẩm thơ của mình mà không trích dẫn và làm
thủ tục xuất bản. Để đảm bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình, ông Chín
phải chứng minh 2 khổ thơ mà được xuất bản trong tập thơ của bà Nguyệt là
của chính mình. Đây là một điều rất khó khăn và gây lãng phí thời gian trong
việc bảo vệ QTG đối với TPVH mà ông Chín là tác giả [29].
+ Xác lập thông qua hình thức đăng ký với Cơ quan có thẩm quyền
(Văn phòng đại diện Cục Bản quyền tác giả tại Đà Nẵng, Sở Văn hóa & Thể
thao Đà Nẵng - gọi tắt là Cơ quan đăng ký bảo hộ QTG) (theo điều 49, điều
42. 35
50 Luật SHTT). Điều này được pháp luật khuyến khích, vì thủ tục đăng ký
QTG rất đơn giản vì không phụ thuộc vào nội dung hay hình thức bảo hộ. Mặt
khác, điều này sẽ được ghi nhận, công khai trên trang web của Cục bản quyền
tác giả và Niên giám đăng ký quyền tác giả Việt Nam hàng năm. Tất cả thông
tin về QTG sẽ được tra cứu rất dễ dàng, thuận tiện cho việc khai thác, sử dụng
có hiệu quả nhất đời với TPVH. Bên cạnh đó, sẽ ngăn ngừa được các hành vi
gian dối và xâm phạm đến sự toàn vẹn của TPVH. Qua việc xác lập bằng hình
thức đăng ký QTG tại các Cơ quan đăng ký bảo hộ QTG thì công chúng sẽ
được tiếp cận dễ dàng hơn với kho tài sản tri thức của nhân loại nhằm phục vụ
cho công tác nghiên cứu, học tập, bảo tồn giữ gìn và phát huy những nét văn
hóa trong đời sống xã hội. Giấy chứng nhận đăng ký QTG cũng là một căn cứ
để chứng minh QTG của TPVH do mình là tác giả CSH trong việc khai thác,
sử dụng, chuyển giao, chuyển nhượng các TPVH một cách thuận tiện và dễ
dàng. Vì QTG được bảo hộ khi TPVH được định hình dưới dạng một hình
thức xác định, không phân biệt nội dung, chất lượng, ngôn ngữ, hình thức.
Việc đăng ký này chỉ yêu cầu tác giả CSH các TPVH đăng ký hoàn thành đầy
đủ nội dung của bộ hồ sơ về việc yêu cầu đăng ký bảo hộ QTG đối với
TPVH.
Hiện nay, việc xác lập QTG đối với SHTT nói chung và đối với TPVH
nói riêng đã được thuận tiện và dễ dàng hơn trước đây. Tại thành phố Đà
Nẵng, các tác giả hoặc CSH các TPVH có nhu cầu muốn đăng ký xác lập
quyền QTG của mình thì có thể đến Sở Văn hóa Thể thao hoặc Văn phòng đại
diện Cục Bản quyền tác giả tại Đà Nẵng để thực hiện các thủ tục đăng ký
(khoản 1 điều 34 Nghị định 22/2018/NĐ-CP). Mặc dù với sự thuận tiện như
vậy nhưng hầu như các tác giả, CSH các TPVH đều không muốn thực hiện
quyền lợi của mình, vì nhiều lý do khác nhau. Điều này cũng dễ dàng nhận
thấy vì vấn đề đăng ký QTG đối với TPVH còn chưa được chú ý, đồng thời
43. 36
cũng chưa có nhưng chương trình tư vấn tuyên truyền về quyền lợi về QTG
đối với TPVH một cách cụ thể, bên cạnh đó thì việc khai thác QTG đối với
TPVH hiện nay cũng chưa được coi trọng.
2.3. Thực trạng thực hiện quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Quyền tác giả đối với TPVH là những quyền năng mà pháp luật trao
cho chủ thể QTG đối với TPVH. Từ các quyền năng đó là cơ sở pháp lý để
chủ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia vào quá trình
sáng tạo và khai thác. Nội dung bảo hộ QTG bao gồm hai nội dung, đó là bảo
hộ quyền nhân thân và quyền tài sản.
Tác phẩm văn học được ghi lại bằng văn tự cụ thể thông qua chữ viết
gồm: văn vần (thơ), văn xuôi; và được xếp vào các thể loại nhất định (như tự
sự, trữ tình, kịch, nhật ký, ký, tùy bút…) hay một thể tài văn học nhất định
(như hài kịch, bi kịch, thơ trào phúng, thơ tự do, truyện tiếu lâm, truyện ngắn,
tiểu thuyết,…).
Việc sáng tác ra các TPVH bằng nhiều hình thức khác nhau, có thể sử
dụng Ngân sách Nhà nước hoặc không sử dụng Ngân sách Nhà nước.
Đối với các trường hợp tác giả là CHS QTG đối với TPVH, QTG (gồm
quyền nhân thân và quyền tài sản) thuộc về tác giả. (điều 37 luật SHTT).
Đối với trường hợp được hợp đồng thuê biên soạn, sáng tác, sưu tầm….
các TPVH hoặc sử dụng Ngân sách Nhà nước để thực hiện công việc sáng
tác, biên soạn, sưu tầm (điều 39 luật SHTT)…các TPVH thì tác giả không
đồng thời là CSH QTG của các TPVH này.
Trường hợp tác giả không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm biên soạn,
sáng tác, sưu tầm…thì QTG đối với TPVH được phân định như sau:
Đối với quyền nhân thân không thể chuyển giao của tác giả gồm: quyền
được “khai sinh” cho TPVH (đặt tên, đứng tên) và quyền bảo vệ sự toàn vẹn
44. 37
của TPVH, quyền được nhận thù lao, nhận giải thưởng thuộc về tác giả.
Đối với quyền nhân thân có thể chuyển giao của tác giả gồm: quyền
công bố hoặc cho phép người khác (tổ chức, cá nhân) công bố TPVH của
mình và toàn bộ nhóm quyền tài sản đối với TPVH thuộc về chủ sở hữu
TPVH. Nhóm quyền này thuộc về tổ chức, cá nhân cấp kinh phí để tác giả
thực hiện việc biên soạn, sáng tác, sưu tầm… đối với TPVH; không thuộc về
tác giả. Nhưng trên thực tế, tại thành phố Đà Nẵng thì một số tác giả sau khi
nhận các hợp đồng đặt hàng biên soạn, sáng tác, sưu tầm…đối với TPVH của
Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật thành phố xong thì lại tự khai thác tác
phẩm, vi phạm nghĩa vụ đối với CSH QTG (khoản 3 điều 20 luật SHTT).
QTG còn bị xâm phạm theo cách một TPVH có hơn một tác giả nhưng
thực chất chỉ có một tác giả thực sự làm việc (nghiên cứu, sưu tầm), còn các
tác giả còn lại thì ghi danh để báo cáo thành tích hoặc chỉ góp ý, sửa đổi hoặc
cung cấp tư liệu cho TPVH thì cũng vẫn được ghi là đồng tác giả hoặc vì lý
do “tế nhị” nào đấy vẫn được đứng tên trong TPVH đấy, mặc dù tại khoản 3
điều 6 Nghị định 22/2018/NĐ-CP ngày 23/2/2018 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả
và quyền liên quan có quy định: “Người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư
liệu cho người khác sáng tạo ra tác phẩm không được công nhận là tác giả
hoặc đồng tác giả”. Để xác minh ai mới là tác giả thực sự của TPVH này thì
là điều rất khó và cũng vô cùng tế nhị. Đôi khi việc đứng tên trong TPVH là
một hình thức nhằm tạo uy tín, danh thế khi TPVH được đề cử các giải
thưởng văn học lớn, nhưng theo phân tích ở trên điều này sẽ gây thiệt thòi cho
chính tác giả nên cần phải quy định cụ thể hơn nhằm bảo vệ và khuyến khích
tác giả. Tuy nhiên, đối với một số các TPVH vẫn có sự tùy tiện khi để tên tác
giả là “nhiều tác giả” hoặc Nhóm tác giả Câu lạc bộ…. Nếu thực sự các tác
giả này có “công” góp phần hình thành TPVH thì cũng đáng, nhưng đằng này
45. 38
chỉ muốn ghi danh và không có đóng góp gì trong TPVH đấy.
Một số tác giả được hợp đồng để đặt hàng biên soạn, sáng tác, sưu
tầm…đối với TPVH thì lại cải biên một chút ít và mang đúng nội dung TPVH
này đăng ký xuất bản với Nhà xuất bản với mục đích thương mại. Đây là một
dạng vi phạm QTG khác đang xãy ra tại Đà Nẵng trong những năm gần đây.
Song bên cạnh đó, việc phát triển của hệ thống viễn thông, đặc biệt là
mạng Internet như hiện nay, vấn đề số hóa các TPVH rất dễ dàng, đồng thời
các TPVH được số hóa ngày càng nhiều nhằm mục đích lưu trữ và thương
mại. Việc số hóa các TPVH được hiểu là không phải là một tác phẩm mới mà
là thay đổi hình thức thể hiện của một tác phẩm khác nhau về dạng số hóa để
lưu trữ lâu dài và sử dụng bởi các thiết bị kỹ thuật. Chính vì vậy TPVH khi
được số hóa không phải là TPVH mới nên nó vẫn phải chịu sự điều chỉnh của
Luật SHTT và các văn bản hướng dẫn mà không có thêm quy định đặc biệt
nào khác cho hình thức thể hiện tác phẩm [44]. Nhưng việc thương mại các
TPVH bằng số hóa cũng là một thách thức đặt ra cho các Ban ngành vì không
thể kiểm soát được số lượng được thương mại (số lượng bản được bán ra).
Tâm lý chung của người Việt là thích dùng miễn phí, nên việc mua một bản
số hóa TPVH rồi “share” (chia sẻ) trên một số các diễn đàn văn học hoặc các
chợ điện tử trực tuyến.. Điều này vi phạm nghiêm trọng đến QTG và CSH
QTG.
Tại thành phố Đà Nẵng, với đặc điểm Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ
thuật là CSH QTG đối với các TPVH có sử dụng ngân sách Nhà nước thì
QTG và CSH QTG đang được thực hiện chồng chéo giữa các bên. Tác giả và
CSH QTG có những hành vi ứng xử nhầm lẫn; tác giả không phải là CSH
QTG nhưng tác giả vẫn cho mình cái quyền như của CSH QTG hoặc ngược
lại, CSH QTG lại có những hành vi như thể mình là tác giả của TPVH ấy. Vì
thế điều đáng đặt ra hiện nay là làm sao phải ý thức về quyền và nghĩa vụ của
46. 39
các bên tham gia phù hợp với các quy định của pháp luật về SHTT.
Bên cạnh đấy, việc đăng ký CSH QTG để xuất bản một TPVH rất đơn
giản và việc Nhà xuất bản không thể phân biệt đâu là tác giả hoặc CSH QTG
thực sự của TPVH đó. Vì để đăng ký xuất bản một TPVH thì việc kê khai thời
hạn bản quyền, CSH bản quyền thì do tự tác giả hoặc người đăng ký xuất bản
làm hộ tại điều 10 Nghị định số 195/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ
về việc quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật Xuất bản năm
2012. Pháp luật về xuất bản cũng không có qui định rõ về vấn đề này, nên gây
khó khăn trong việc hướng dẫn thực hiện đăng ký CSH QTG và xác nhận
CSH QTG thực sự của một xuất bản phẩm.
Việc bảo vệ sự toàn vẹn của TPVH cũng có thể bị xâm phạm khi thực
hiện việc biên tập để xuất bản. Biên tập viên của Nhà xuất bản có thể sẽ sửa
đổi một số chi tiết cho đúng với các chuẩn mực xã hội, ngôn từ và chính tả
nhưng có thể sẽ làm sai lệch ý tưởng của tác giả, CSH QTG của TPVH khi
chưa được sự đồng ý của tác giả, CSH QTG hoặc áp đặt tác giả, CSH QTG
phải thay đổi theo sự sửa đổi của biên tập viên, việc này vô tình lại dẫn đến
việc vi phạm QTG ( khoản 4 điều 19 luật SHTT).
Tác giả là người phải có trách nhiệm tôn trọng quyền tài sản của CSH
QTG nhất nhưng trên thực tế thì tác giả lại chính là người xâm phạm quyền
tài sản của CSH QTG nhiều nhất. Điều này đã xảy ra khi tác giả tự ý mang
TPVH đã được xuất bản của mình gửi bán tại các địa điểm kinh doanh xuất
bản phẩm khi chưa được sự đồng ý của CSH QTG hoặc chuyển giao bản thảo
TPVH đó thực hiện liên kết xuất bản với Nhà xuất bản để kinh doanh thu lợi
lại cho tác giả khi chưa được sự chấp thuận từ CSH QTG... Nhưng CSH QTG
lại không có ý kiến phải chấm dứt hành vi vi phạm này hoặc có yêu cầu bồi
thường. Đó là hiện trạng vẫn còn tồn tại gây tổn hại nghiêm trọng đến CSH
QTG tại thành phố Đà Nẵng [40].
47. 40
Việc xác định quyền của tác giả và quyền CSH QTG đối với TPVH tại
thành phố Đà Nẵng phát sinh trong quá trình sáng tác, biên soạn, sưu
tầm…các TPVH là rất quan trọng, vì đó là cơ sở để thúc đẩy tinh thần sáng
tạo của các tác giả và dung hòa lợi ích giữa tác giả và CSH QTG. Chính vì
thế, vấn đề đặt ra hiện nay là xác định cho được quyền đối với từng loại
quyền SHTT sao cho hài hòa giữa quyền và lợi ích của các bên tham gia phù
hợp với quy định của pháp luật về QTG.
Vì vậy cần phải có cơ chế giám sát và hành lang pháp lý đầy đủ với
những biện pháp giáo dục, tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao ý thức pháp
luật về SHTT nhằm thực hiện đúng pháp luật và những cam kết với quốc tế
mà Việt Nam là thành viên.
2.4. Thực trạng thực thi quyền tác giả đối với tác phẩm văn học từ
thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Các biện pháp bảo vệ quyền tác giả đối với TPVH có thể áp dụng chế
tài chung đối với vi phạm về sở hữu trí tuệ: sử dụng các biện pháp dân sự,
hành chính hoặc hình sự. Bản chất là quyền dân sự nên biện pháp chủ yếu cần
được áp dụng là các biện pháp dân sự. Tuy nhiên trên thực tiễn bên bị xâm
phạm quyền hay yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp hành
chính (phạt tiền).
Hiện nay, việc thực thi QTG đối với TPVH tại thành phố Đà Nẵng vẫn
chưa được quan tâm đúng mức, mặc dù các cơ quan hữu quan của thành phố
trong lĩnh vực này đã có nhiều văn bản nhằm thực thi hiệu quả pháp luật
SHTT. Theo báo cáo Sở Khoa học & Công nghệ thành phố trong giai đoạn
2006 - 2016, các cơ quan chức năng đã phối hợp xử lý 753 vụ vi phạm quyền
sở hữu trí tuệ xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng với tổng số tiền phạt trên
11 tỷ đồng, hơn 26.000 sản phẩm bị xử lý, góp phần từng bước lành mạnh hoá
môi trường kinh doanh và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sản