SlideShare a Scribd company logo
1 of 79
Download to read offline
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HỒNG THÁI
BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ
ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HỒNG THÁI
BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ
ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Văn Hưng
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Hồng Thái, mã số học viên 7701261001A, là học viên lớp
Cao học Luật Khóa 26 chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh
tế thành phố Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Bảo
vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc” (sau đây gọi tắt là “Luận văn”).
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là kết
quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Lê
Văn Hưng. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học
của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và
có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn
khách quan và trung thực.
Học viên thực hiện
Nguyễn Hồng Thái
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TÓM TẮT LUẬN VĂN
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM
KIẾN TRÚC ..............................................................................................................4
1.1. Tổng quan về vấn đề Quyền tác giả.....................................................................4
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm Quyền tác giả ..............................................................4
1.1.2. Chủ thể, nội dung, đối tượng của quyền tác giả................................................6
1.1.3. Hành vi xâm phạm quyền tác giả....................................................................10
1.1.4. Hợp đồng chuyển giao quyền tác giả..............................................................11
1.2. Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc ..........................................................12
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm .......................................................................................12
1.2.2. Đối tượng và phạm vi bảo hộ..........................................................................14
1.2.3. Chủ thể và nội dung quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.......................25
1.2.4. Hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.........................32
Tiểu kết chương 1......................................................................................................37
CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM
KIẾN TRÚC: KIẾN NGHỊ VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN..................................38
2.1. Thực trạng bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc tại Việt Nam hiện
nay.............................................................................................................................38
2.1.1. Thực trạng đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc........................38
2.1.2. Thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh chấp về quyền tác giả đối với tác
phẩm kiến trúc - Các trường hợp tranh chấp điển hình ............................................40
2.2. Nguyên nhân ......................................................................................................50
2.3. Giải pháp, kiến nghị và hướng hoàn thiện .........................................................55
2.3.1. Giải pháp .........................................................................................................55
2.3.2. Hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.................58
2.3.3. Những vấn đề cần lưu ý để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc
thông qua hợp đồng...................................................................................................63
Tiểu kết chương 2......................................................................................................67
KẾT LUẬN..............................................................................................................68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS Bộ Luật dân sự
BLTTDS Bộ Luật tố tụng dân sự
NĐ Nghị định
TT Thông tư
TTLT Thông tư liên tịch
NQ Nghị quyết
VHTTDL Văn hóa thể thao và Du lịch
BXD Bộ Xây dựng
SHTT Sở hữu trí tuệ
QHPLDS Quan hệ pháp luật dân sự
GCN Giấy chứng nhận
QTG
KTS
Quyền tác giả
Kiến trúc sư
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Quyền tác giả là vấn đề không mới, tuy nhiên thời gian vừa qua rộ lên nhiều
tranh cãi liên quan đến bản quyền. Trong lĩnh vực kiến trúc, vấn đề quyền tác giả
đang được nhắc đến và ngày càng có nhiều kiến trúc sư quan tâm đến lĩnh vực của
mình. Phần lớn các ý kiến đều cho rằng phải coi kiến trúc là tác phẩm để làm cơ sở
cho việc bảo vệ quyền tác giả và xa hơn là giữ gìn di sản kiến trúc.
Vậy làm thế nào để hiểu rõ hơn về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc
qua đó hiểu được các nội dung thường xảy ra trong tranh chấp quyền tác giả đối với
tác phẩm kiến trúc, thực trạng hiện nay của việc đăng ký quyền tác giả đối với tác
phẩm kiến trúc và áp dụng các biện pháp nào để bảo vệ các tác phẩm kiến trúc.
Với các nội dung giới hạn mà Luận văn đề cập hy vọng rằng giải quyết phần
nào các vấn đề cơ bản nói trên, luận văn được trình bày trong 02 chương, cụ thể:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.
- Chương 2: Thực tiễn bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc tại
Việt Nam - kiến nghị và hướng hoàn thiện.
Từ khóa: Tác phẩm, tác giả, kiến trúc, quyền tác giả, sở hữu trí tuệ
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, sự phát triển như vũ bão của khoa
học và công nghệ, việc bảo vệ quyền tác giả nói riêng, quyền sở hữu trí tuệ nói chung
đang là một vấn để ngày càng trở nên nóng bỏng. Đứng trước yêu cầu đó và thực tế
phát triển kinh tế xã hội của nước ta, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (bao gồm quyền
tác giả, các quyền liên quan và quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây
trồng) đang được Nhà nước ta quan tâm, đặc biệt là sau khi Việt Nam trở thành thành
viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) trong đó quyền sở hữu trí
tuệ là một bộ phận quan trọng trong các nội dung được đem ra đàm phán và Việt Nam
ta cần phải cam kết thực hiện.
Bên cạnh đó, việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và quyền tác giả đang ngày
càng gia tăng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đang gây ra những hậu quả
và hệ lụy xấu cho sự phát triển của đất nước.
Hiện nay, tranh chấp về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc, hội họa, văn
học, khoa học kỹ thuật được đề cập đến khá nhiều, tuy nhiên bên cạnh đó việc vi
phạm quyền tác giả ở một số mảng sáng tạo khác có thể rất ít được đề cập đến, có thể
kể ra đây chính là các tác phẩm kiến trúc.
Hiện nay, pháp luật về sở hữu trí tuệ Việt Nam ghi nhận vấn đề bảo hộ quyền
tác giả nói chung và quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng trong nhiều
văn bản pháp lý như Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ và các Nghị định, Thông tư
liên quan…, bên cạnh đó Việt Nam cũng đã rất nổ lực trong việc tham gia vào nhiều
điều ước quốc tế đa phương về quyền tác giả, quyền liên quan như công ước Berne,
Genever, Brussels, TRIPs… nhưng thực tiễn cho thấy việc vi phạm quyền tác giả
đối với tác phẩm kiến trúc còn khá phổ biến không ít chủ đầu tư sử dụng lại bản vẽ
thiết kế cho công trình này để xây dựng nên một công trình khác, tác giả sử dụng lại
bản vẽ thiết kế kiến trúc cho chủ đầu tư này để phân phối cho chủ đầu tư khác, chụp
ảnh một tác phẩm kiến trúc và sử dụng ảnh chụp đó mà không được phép của chủ sở
hữu quyền tác giả; Chủ đầu tư sửa chữa, cắt xén tác phẩm kiến trúc,…
2
Tuy nhiên, số liệu thực tế cho thấy tranh chấp tại Tòa án và Trung tâm bảo vệ
quyền tác giả chỉ đếm trên đầu ngón tay, hoặc vì một lý do nào đó mà các tranh chấp
này bị đình chỉ một cách khó hiểu. Cơ chế pháp luật bảo vệ quyền tác giả chưa được
hoàn thiện, cũng là nguyên nhân không nhỏ ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo vệ
quyền tác giả trong lĩnh vực còn khá mới mẻ này.
Cũng chính từ bối cảnh và thực tiễn đó, tác giả chọn đề tài “Bảo vệ quyền tác
giả đối với tác phẩm kiến trúc”, các thực trạng, nguyên nhân và giải pháp đưa ra
trong đề tài vẫn mang tính chủ quan, không tránh khỏi đánh giá một chiều, không thể
tránh khỏi thiếu sót.
2. Giả thiết, câu hỏi nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện bản luận văn này, tác giả đã đi tìm, sưu tầm tài liệu
nhưng hầu như, rất ít. Văn phòng đại diện của Cục bản quyền tác giả tại Tp.HCM,
Hội kiến trúc sư Tp.HCM, Hội kiến trúc sư Việt Nam, Tòa án nhân dân các cấp tại
Tp.HCM hầu như không cung cấp được nhiều số liệu liên quan đến đề tài. Chính vì
vậy, trong khuôn khổ đề tài luận văn, chỉ mong muốn làm rõ các câu hỏi sau:
Thứ nhất: Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc là gì? Các nội dung
thường xảy ra tranh chấp trong quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc?”.
Thứ hai: Thực trạng giải quyết tranh chấp về quyền tác giả đối với tác phẩm
kiến trúc?” và Giải pháp nào để tăng cường bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm
kiến trúc?”.
Luận văn đã nghiên cứu các quy định pháp luật về quyền tác giả đối với tác
phẩm kiến trúc. Trên cơ sở lý luận kết hợp với việc nghiên cứu thực tiễn xử lý của
các cơ quan tài phán để đưa ra phương hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền
tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.
Nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan dẫn đến sai sót trong việc
cấp bản quyền về tác giả, từ đó làm cơ sở cho việc đề xuất một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Luận văn cũng đề ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về
quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc và hoàn thiện quy định pháp luật tố tụng liên
quan tới giải quyết tranh chấp về quyền tác giả.
3
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Bản luận văn này tác giả tập trung vào vấn đề bảo vệ quyền tác giả đối với tác
phẩm kiến trúc ở Việt Nam theo những quy định của pháp luật trong nước trong mối
tương quan về nội dung pháp lý với các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết
tham gia và một số văn bản pháp lý liên quan.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tác giả lựa chọn xuất phát từ nguyên tắc chung của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, và cố gắng kết hợp thêm những phương pháp của lo-
gic hình thức như so sánh, tổng hợp, phân tích, loại trừ, phương pháp nghiên cứu Luật
đã được học, phương pháp Roccipi… Về việc tìm tài liệu, ngoài các tài liệu được
giáo viên hướng dẫn cung cấp, tác giả dựa vào một nguồn quan trọng là internet, giáo
trình, sách về quyền tác giả, và một phương pháp thu thập thực tế tại các cơ quan tòa
án, trung tâm trọng tài,... đây là một phương pháp mất nhiều thời gian và công sức,
nhiều khi lại không có được những kết quả ưng ý về mặt pháp lý nhưng là những số
liệu thực tiễn rất quý giá, một điểm nhấn của bản luận văn. Việc tác giả cố gắng sáng
tạo để tìm một phương pháp tiếp cận mới - khía cạnh chuyên môn, nó có thế sẽ không
được đánh giá cao về chuyên môn luật học nhưng thể hiện được một góc nhìn khác
gắn với thực tiễn nghiên cứu của đề tài.
5. Ứng dụng khoa học và tính thực tiễn của đề tài
Khả năng ứng dụng trong thực tiễn: Đăng ký với Sở Quy hoạch kiến trúc
Tp.HCM, Đại học Kiến trúc Tp.HCM, Hội kiến trúc sư Tp.HCM thực hiện hội thảo,
bàn giải pháp bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc thông qua những dữ
liệu trong đề tài luận văn đã được hoàn thiện, qua đó giúp cho các KTS nói riêng và
giới kiến trúc nói chung trang bị các biện pháp bảo vệ thành quả lao động sáng tạo
nghệ thuật của mình.
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ
ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC
1.1. Tổng quan về vấn đề Quyền tác giả
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm Quyền tác giả
Hiến pháp Việt Nam 2013, có quy định “Mọi người có quyền nghiên cứu khoa
học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động
đó”1
. “Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu,
phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ; bảo
đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ”2
và
“Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra
hoặc sở hữu”3
.
Quyền tác giả được hiểu theo nghĩa hẹp là tác giả, chủ sở hữu, người được sử
dụng tác phẩm, các chủ thể có quyền nhân thân và quyền tài sản theo quy định của
pháp luật. Hiểu theo nghĩa rộng, Quyền tác giả được hiểu là một chế định pháp luật
tổng hợp các quy phạm pháp luật xác nhận và bảo hộ các quyền nhân thân, quyền tài
sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa
học; quy định trình tự thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi có hành vi xâm hại.
Như vậy, hiểu theo cách đơn giản nhất thì quyền tác giả cho phép tác giả và
chủ sở hữu Quyền tác giả được độc quyền khai thác tác phẩm chống lại việc sao chép
bất hợp pháp4
.
Quyền tác giả đã khuyến khích nhiều nhà văn, nghệ sĩ, nhà khoa học sáng tạo,
nói như vậy không có nghĩa là phải một nhà văn, đạo diễn nổi tiếng mới có quyền tác
giả. Quyền tác giả xuất hiện không phụ thuộc vào nội dung hay chất lượng của tác
phẩm, Quyền tác giả phát sinh ngay khi tác phẩm ra đời mà không cần đơn yêu cầu
công nhận, không phải trải qua bất kỳ thẩm định nào của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, hay bất kỳ thủ tục đăng ký nào (trừ một vài ngoài lệ). Thí dụ: Bài thi của
1
Điều 40, Hiếp pháp 2013
2
Khoản 2, Điều 62, Hiến pháp 2013
3
Khoản 2 Điều 4 Luật SHTT 2005, Sửa đổi bổ dung 2009
4
Đại học Luật Tp.HCM (2016), Giáo trình Luật SHTT, NXB Hồng Đức - Hội Luật Gia Việt Nam, tr.49.
5
sinh viên cũng được bảo hộ quyền tác giả, cho dù kết quả thi có như thế nào đi chăng
nữa.
Ngoài những đặc điểm chung giống như quyền SHTT như:
- Đối tượng của quyền tác giả là thành quả của lao động sáng tạo, là sản
phẩm của hoạt động trí tuệ của con người.
- Đối tượng của quyền tác giả là tài sản vô hình phi vật chất chỉ có thể được
thể hiện và nhận biết thông qua một hình thức vật chất hữu hình nhất định.
Thì quyền tác giả còn có hai đặc điểm riêng:
- Thứ nhất, quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức sáng tạo, không bảo hộ nội
dung sáng tạo. Không ai bảo hộ một câu nói, hay một động tác đơn giản thể hiện
trong sinh hoạt hằng ngày. Cùng một nội dung như nhau có thể được thể hiện dưới
nhiều hình thức sáng tạo khác nhau, và mỗi hình thức thể hiện khác nhau đó đều có
thể được bảo hộ quyền tác giả. Nếu hình thức thể hiện của một ý tưởng trùng với nội
dung ý tưởng đó thì hình thức cũng không được bảo hộ, ví dụ câu nói đơn giản “anh
yêu em”, “tôi đang ăn cơm” sẽ không được bảo hộ quyền tác giả. Quyền tác giả chỉ
tập trung bảo vệ hình thức thể hiện, không bảo hộ nội dung tác phẩm. Vì thế, quyền
tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình
thức vật chất nhất định5
, thậm chí, tác phẩm được hưởng sự bảo hộ quyền tác giả bất
chấp chất lượng hay giá trị của tác phẩm, ví dụ: bức tranh của bé mẫu giáo vẽ cũng
được bảo hộ quyền tác giả đầy đủ. không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức,
phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký”6
.
Việc đăng ký quyền tác giả không tạo nên giá trị pháp lý xác lập quyền nhưng có giá
trị chứng cứ trong trường hợp xảy ra tranh chấp liên quan, nghĩa là tác giả, chủ sở
hữu quyền tác giả đã đăng ký được miễn trừ nghĩa vụ chứng minh tác phẩm đã đăng
ký đó là thuộc về mình.
- Thứ hai, tác phẩm được bảo hộ phải có tính nguyên gốc, tức là không sao
chép, bắt chước tác phẩm khác. Sự sao chép, bắt chước ở đây chỉ giới hạn về mặt
hình thức của tác phẩm, chứ không đề cập đến sự sao chép, bắt chước về ý tưởng hay
nội dung của tác phẩm. Bởi vì, theo đặc điểm quyền đã nêu, quyền tác giả chỉ bảo hộ
hình thức sáng tạo chứ không bảo hộ nội dung hay ý tưởng sáng tạo, nên việc tác giả
5
Đại học Luật Tp.HCM (2016), Giáo trình Luật SHTT, NXB Hồng Đức - Hội Luật Gia Việt Nam,tr.51.
6
Khoản 1 Điều 6 Luật SHTT 2005, sửa đổi bổ sung 2009
6
này ngẫu nhiên có cùng ý tưởng, sao chép, phát triển ý tưởng của tác giả khác là hành
vi được phép. Từ đó, có thể khẳng định nếu tác giả có những lao động trí óc, lao động
sáng tạo nhất định của riêng mình để hình thành nên tác phẩm nguyên gốc về mặt
hình thức, thì tác phẩm đó vẫn được bảo hộ quyền tác giả.
“Tác phẩm gốc được hiểu là bản vật thể hóa tác phẩm do chính tay tác giả làm
ra hoặc các bản được tác giả cho phép và trực tiếp giám sát làm ra, cụ thể trong thể
loại tác phẩm nghệ thuật tạo hình, tác phẩm gốc rất dễ bị nhầm lẫn, được hiểu nó
chính là tác phẩm của nghệ thuật tạo hình. Các tòa nhà công trình kiến trúc, xây dựng
là những bản vật thể hóa của tác phẩm kiến trúc, xây dựng. Khi chúng được tạo bởi
những người được chính tác giả ủy quyền giám sát việc xây dựng, thì cũng được coi
là tác phẩm gốc và được hưởng sự bảo hộ đặc biệt dành cho tác phẩm gốc”7
.
1.1.2. Chủ thể, nội dung, đối tượng của quyền tác giả
1.1.2.1. Chủ thể
Khoản 1 Điều 13 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định: “Tổ chức, cá nhân có tác
phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở
hữu quyền tác giả”. Như vậy, có hai loại chủ thể tham gia vào QHPLDS về quyền tác
giả là:
(i) Tác giả
Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học,
nghệ thuật và khoa học8
. Điểm mấu chốt trong việc xác định một người có phải là tác
giả của một tác phẩm hay không, là ở chỗ người đó có trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm
hay không. Một người chỉ được bảo hộ quyền tác giả trong phạm vi mà người đó trực
tiếp sáng tạo. Do đó, vì không trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm nên những người làm
công việc hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo ra tác
phẩm không được công nhận là tác giả. Vấn đề trực tiếp sáng tạo trong khái niệm tác
giả và khái niện nguyên gốc có liên quan đến nhau. Khi tác giả sáng tạo một tác phẩm
thì đương nhiên tác phẩm được sáng tạo đó mang tính nguyên gốc, trừ khi tác giả sao
chép từ một tác phẩm khác.
Cho rằng việc tác giả phải trực tiếp sáng tạo không có nghĩa là tác giả không có
7
Nguyễn Vân Nam (2016), Quyền tác giả: Đường hội nhập không trải hoa hồng, NXB Trẻ, tr.79.
8
Khoản 2 Điều 8 Nghị định 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21 tháng 9 năm 2006 về quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của bộ luật dân sự luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan;
7
quyền kế thừa sáng tạo của người khác. Pháp luật Việt Nam cũng công nhận người
dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể từ những tác phẩm khác cũng được coi là tác giả.
Sáng tạo hay nguyên gốc trong khái niệm về quyền tác giả không là phải mới
như trong quyền sở hữu công nghiệp. Như vậy khi thấy hai tác phẩm giống nhau đừng
vội xác định ngay đó là có việc sao chép hay không, biết đâu lại là ngẫu nhiên.
Bên cạnh khái niệm tác giả chúng ta còn có đồng tác giả. Đó là những cùng
trực tiếp sáng tạo ra một tác phẩm được công nhận là các đồng tác giả của tác phẩm
đó. Dựa trên tính chất phần sáng tạo của các đồng tác giả vào tác phẩm chung, đồng
tác giả được phân thành hai loại:
- Thứ nhất: Các đồng tác giả cùng sáng tạo ra một tác phẩm nhưng phần sáng
tạo của mỗi người không thể tách ra thành từng phần riêng biệt để sử dụng độc lập.
Trường hợp này tương ứng với khái niệm sở hữu chung hợp nhất đối với quyền
sở hữu thông thường. Khi quyết định bất cứ vấn đề gì liên quan đến tác phẩm cần
phải có sự đồng thuận của tất cả các đồng tác giả.
- Thứ hai: Các đồng tác giả cùng sáng tạo ra một tác phẩm nhưng phần sáng
tạo của mỗi người có thể tách ra thành từng phần riêng biệt để sử dụng độc lập mà
không làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác.
Trường hợp này tương ứng với khái niệm sở hữu chung theo phần đối với
quyền sở hữu thông thường. Khi quyết định các vấn đề liên quan đến tác phẩm, ví dụ
chuyển nhượng hay chuyển giao quyền tác giả, nếu không đạt được sự đồng thuận
của các đồng tác giả đồng thời là đồng chủ sở hữu khác thì đồng tác giả vẫn có toàn
quyền quyết định đối với phần tác phẩm do mình sáng tạo ra.
Mỗi người có đầy đủ các quyền tài sản, quyền nhân thân của mình đối với
phần riêng biệt đó.
(ii) Chủ sở hữu quyền tác giả
Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn
bộ các quyền tài sản9
đối với tác phẩm như sao chép, phân phối, nhập khẩu tác phẩm,
làm tác phẩm phái sinh... Hay nói cách khác, chủ sở hữu là người độc quyền sử dụng,
định đoạt tác phẩm10
.
9
Điều 36 Luật SHTT 2005
10
Đại học Luật Tp.HCM (2016), Giáo trình Luật SHTT, NXB Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, tr.59.
8
Các căn cứ để xác định vai trò chủ sở hữu quyền tác giả:
- Tác giả sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật của mình để
sáng tạo ra tác phẩm thì tác giả đó cũng đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả.
- Tổ chức giao nhiệm vụ sáng tạo ra tác phẩm cho tác giả là người thuộc tổ
chức mình là chủ sở hữu quyền tác giả.
- Tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng với tác giả sáng tạo ra tác phẩm là chủ
sở hữu quyền tác giả.
- Tổ chức, cá nhân được thừa kế quyền tác giả là chủ sở hữu quyền tác giả.
- Tổ chức, cá nhân được chuyển giao quyền tác giả là chủ sở hữu quyền tác giả.
- Nhà nước là chủ sở hữu quyền tác giả trong các trường hợp như đối với tác
phẩm khuyết danh; tác phẩm còn trong thời hạn bảo hộ mà chủ sở hữu quyền tác giả
chết không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận di sản hoặc không được
quyền hưởng di sản; tác phẩm được chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao cho nhà
nước11
.
Điểm quan trọng xác định vai trò chủ sở hữu quyền tác giả, là sự đầu tư tài
chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật…để tạo nên tác phẩm. Cũng từ đó, chủ sở hữu quyền
tác giả được hưởng các quyền tác giả có liên quan đến tài sản để thu lại những lợi ích
vật chất tương ứng với sự đầu tư đã bỏ ra trước đó.
Việc phân biệt giữa tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả rất quan trọng, vì chủ
sở hữu quyền tác giả mới là người có quyền sử dụng, định đoạt tác phẩm, xét về gốc
độ kinh tế thì vai trò của chủ sở hữu quyền tác giả quan trọng hơn vai trò tác giả, vì
khi sử dụng hay trình diện tác phẩm các chủ thề khác phải xin phép hoặc trả thù lao
cho chủ sở hữu quyền tác giả.
1.1.2.2. Nội dung
Quyền tác giả đối với tác phẩm bao gồm quyền nhân thân (Điều 19 Luật SHTT
2005) và quyền tài sản (Điều 20 Luật SHTT 2005).
(i) Quyền nhân thân
Là quyền đặt tên cho tác phẩm; đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm,
được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; công bố tác
11
Điều 37,39,40,41,42 Luật SHTT 2005 và Luật sửa đổi bổ sung 2009,
9
phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm,
không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc sản phẩm dưới bất kỳ hình
thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả12
.
(ii) Quyền tài sản
Là quyền làm tác phẩm phái sinh; biểu diễn tác phẩm trước công chúng; sao
chép tác phẩm; phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bảo sao tác phẩm; truyền đạt tác
phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử
hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm13
.
Tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả có toàn bộ các quyền nhân thân,
quyền tài sản như liệt kê trên đây.
Trường hợp tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả, các quyền
nhân thân phi tài sản gồm quyền đặt tên cho tác phẩm, đứng tên trên tác phẩm và bảo
vệ sự toàn vẹn của tác phẩm là thuộc về tác giả, còn các quyền tài sản và quyền công
bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm hay còn gọi là quyền nhân thân gắn
với tài sản thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả.
Các quyền nhân thân phi tài sản được bảo hộ vô thời hạn, còn các quyền tài
sản và quyền nhân thân gắn liền với tài sản được bảo hộ suốt cuộc đời tác giả và 50
năm tiếp theo kể từ ngày tác giả hoặc đồng tác giả cuối cùng chết. Riêng đối với các
tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh
thì thời hạn bảo hộ quyền tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản là 50 năm kể từ
ngày tác phẩm được công bố lần đầu tiên.
Sự quy định thời hạn bảo hộ như trên là nhằm dung hòa lợi ích giữa một bên là
các chủ thể quyền tác giả và bên kia là cộng đồng xã hội nói chung. Bảo hộ quyền tác
giả nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp của các chủ thể quyền tác giả, kích thích sự sáng
tạo nhằm tạo ra ngày càng nhiều giá trị tinh thần đóng góp cho xã hội. Tuy nhiên nếu
bảo hộ vô thời hạn hoặc thời hạn bảo hộ quá dài thì sẽ ngăn cản những người còn lại
trong xã hội tiếp cận, sử dụng, khai thác…các tác phẩm đó, làm cho mục đích tạo ra
nhiều giá trị tinh thần đóng góp cho xã hội vì thế không thể thực hiện được. Vì vậy,
pháp luật quy định một thời hạn hợp lý để các chủ thể quyền tác giả khai thác lợi ích
từ lao động sáng tạo của chính mình, hết thời hạn đó, tác phẩm thuộc về công chúng.
12
Điều 19 Luật SHTT 2005
13
Điều 20 Luật SHTT 2005
10
1.1.2.3. Đối tượng
Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả theo Luật SHTT 2005 và
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ 2009 quy định tại Điều 14
và được hướng dẫn rõ thêm tại Nghị định 100/2006/NĐ-CP và số 85/2011/NĐ-CP,
cụ thể như sau:
“Điều 14. Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả
1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm:
a)……………….;…
i) Tác phẩm kiến trúc;
…………………….”14
.
Ngoài ra, còn quy định các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác
giả gồm tin tức thời sự thuần túy đưa tin; văn bản quy phạm pháp luật, văn bản
hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản
đó; quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, nguyên lý, số liệu15
... Bởi vì hoặc
chúng không phải là thành quả của lao động sáng tạo hoặc chúng là những thông tin
cơ bản cần thiết mà bất cứ cá nhân, tổ chức nào trong xã hội cũng có quyền tiếp cận,
nếu bảo hộ quyền tác giả cho những đối tượng này sẽ gây phương hại đến quyền được
thông tin của những người khác trong xã hội, không đảm bảo được sự dung hòa lợi
ích giữa các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả với cộng đồng xã hội nói chung.
1.1.3. Hành vi xâm phạm quyền tác giả
Các hành vi sử dụng tác phẩm nhằm mục đích kinh doanh mà không có sự
đồng ý của chủ thể quyền tác giả, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác là hành
vi xâm phạm quyền tác giả.
Các hành vi này còn gọi là hành vi ăn cắp bản quyền hay sao chép lậu16
, Điều
28 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 liệt kê đầy đủ các hành vi xâm phạm quyền tác giả, là
các hành vi vi phạm một trong các quyền nhân thân không gắn với tài sản, quyền
nhân thân gắn với tài sản và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
Tuy nhiên, trên thực tế việc liệt kê hành vi xâm phạm quyền tác giả vẫn chưa
14
Điều 14 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009;
15
Điều 15 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009;
16
Đại học Luật Tp.HCM (2016), Giáo trình Luật SHTT, NXB Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, tr.32.
11
phải là phương pháp tối ưu nhất xét về khía cạnh lập pháp thì việc liệt kê 16 hành vi
tại Điều 28 Luật SHTT không thể bao quát hết các hành vi xâm phạm quyền tác giả,
đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay.
Ngoài ra, vẫn có các trường hợp ngoại lệ: cũng như tất cả mọi lĩnh vực khác
trong đời sống xã hội, việc bảo hộ quyền tác giả cũng có một số trường hợp ngoại lệ
tuy có hành vi sử dụng không xin phép, không trả thù lao đối với tác phẩm đã công
bố của người khác vẫn không bị coi là vi phạm, như “Tự sao chép một bản nhằm mục
đích nghiên cứu khoa học của cá nhân; Tự sao chép một bản nhằm mục đích giảng
dạy, trừ trường hợp cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đã
được công bố để giảng dạy; Trích dẫn hợp lý nhằm mục đích cung cấp thông tin; Tổ
chức phát sóng tự làm bản sao tạm thời để phát sóng khi được hưởng quyền phát
sóng”17
.
Các ngoại lệ này còn được gọi là hành vi sử dụng hạn chế, là một giới hạn
quan trọng của quyền tác giả, theo đó mọi người đều được sử dụng một tác phẩm mà
không phải xin phép chủ thể quyền nếu việc sử dụng nói trên đáp ứng các điều kiện
nhất định. Cụ thể, các điều kiện cần và đủ để các hành vi sử dụng không xin phép,
không trả thù lao nói trên không bị coi là xâm phạm quyền tác giả:
Tác phẩm được sử dụng phải là tác phẩm đã công bố;
- Việc sử dụng tác phẩm như trên không làm ảnh hưởng đến việc khai thác
bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu
quyền tác giả; và
- Khi sử dụng phải thông tin về tên tác giả, nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.
1.1.4. Hợp đồng chuyển giao quyền tác giả
1.1.4.1. Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả
Loại hợp đồng này được hiểu là việc chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao
quyền sở hữu đối với các quyền công bố tác phẩm và quyền tài sản của mình theo
hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật có liên quan.
Đối với chủ sở hữu quyền tác giả không đồng thời là tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả chuyển nhượng toàn bộ các quyền mà mình có được đối với tác phẩm, cụ thể
là quyền công bố tác phẩm và quyền tài sản. Không được chuyển nhượng các quyền
17
Điều 32, Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009
12
nhân thn khác không phải là quyền công bố tác phẩm như quyền đặt tên tác phẩm,
đứng tên trên tác phẩm và bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, vì những quyền này thuộc
về tác giả chứ không thuộc về chủ sở hữu tác phẩm.
Đối với chủ sở hữu đồng thời là tác giả, các quyền đặt tên tác phẩm, đứng tên
trên tác phẩm và bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm cũng không được chuyển giao vì
đó là những quyền nhân thân phi tài sản, không gắn cũng như không mang lại bất kỳ
một giá trị thương mại nào mà chỉ gắn với giá trị tinh thần của chính người sáng tạo
ra tác phẩm bằng lao động trí óc của mình. Do đó, những quyền này phải luôn được
gắn với chính người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm mà không thể chuyển giao cho
người khác.
1.1.4.2. Hợp đồng chuyển quyền sử dụng quyền tác giả
Trong trường hợp này chủ sở hữu không chuyển giao toàn bộ quyền tài sản và
quyền công bố tác phẩm của mình cho người khácâ, mà chỉ cho phép người khác sử
dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm của
mình. Tất nhiên, vì những lý do đã phân tích ở trên, các quyền nhân thân phi tài sản
cũng không thể chuyển quyền sử dụng cho người khác.
Khác với chuyển giao quyền tác giả, sau khi chuyển quyền sử dụng quyền tác
giả, người chuyển giao vẫn là chủ sở hữu quyền tác giả, người nhận chuyển giao chỉ
là người sử dụng hợp pháp chứ không có tư cách chủ sở hữu.
Hợp đồng ghi nhận thỏa thuận giữa các bên về việc chuyển quyền sử dụng
quyền tác giả được gọi là hợp đồng chuyển quyền sử dụng quyền tác giả hay hợp
đồng sử dụng tác phẩm và phải được lập thành văn bản. Ngoài các điều khoản cơ bản,
trong hợp đồng sử dụng tác phẩm các bên có thể thỏa thuận rằng chủ sở hữu quyền
tác giả chỉ được chuyển quyền sử dụng cho một người sử dụng độc quyền hay có thể
chuyển cho nhiều người khác nhau, và người sử dụng có thể chuyển giao lại quyền
sử dụng cho bên thứ ba hay không.
1.2. Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm
Từ khái niệm chung về quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác
phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu, quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc được
hiểu là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm kiến trúc do sáng tạo ra hoặc sở
13
hữu. Là một dạng của quyền tác giả nói chung, quyền tác giả đối với tác phẩm kiến
trúc cũng có hai đặc điểm:
- Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc chỉ bảo hộ hình thức sáng tạo, không
bảo hộ nội dung, ý tưởng sáng tạo;
- Tác phẩm kiến trúc được bảo hộ là tác phẩm có tính nguyên gốc, do chính
tác giả sáng tạo ra, không bắt chước hay sao chép của người khác.
Mối quan hệ giữa quyền tác giả nói chung và quyền tác giả đối với tác phẩm
kiến trúc nói riêng là mối quan hệ biện chứng giữa hai cặp phạm trù cái chung và cái
riêng. Cái chung là cái sâu sắc, bản chất hơn cái riêng vì nó phản ánh những mặt,
những thuộc tính, những mối liên hệ bên trong, tất nhiên, ổn định, phổ biến tồn tại
trong các cái riêng cùng loại. Ngược lại cái riêng phong phú hơn cái chung bởi vì
ngoài những đặc điểm gia nhập vào cái chung, cái riêng còn có những đặc điểm riêng
biệt mà chỉ riêng nó có. Do đó bất cứ cái chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp
riêng cũng cần được cá biệt hóa.
Từ mối quan hệ cái chung - cái riêng trên đây ta thấy quyền tác giả đối với tác
phẩm kiến trúc ngoài những đặc điểm chung của quyền tác giả, còn có những điểm
riêng biệt mà chỉ riêng nó mới có. Những điểm riêng biệt này xuất phát từ những
điểm khác biệt về bản chất của đối tượng bảo hộ là tác phẩm kiến trúc so với các tác
phẩm thông thường khác. Từ đó, khi áp dụng quyền tác giả với tư cách là cái chung
vào trường hợp riêng là đối với tác phẩm kiến trúc, thì quyền tác giả đối với tác phẩm
kiến trúc cũng cần phải được cá biệt hóa để phù hợp với đối tượng mà nó áp dụng.
Luận văn này tập trung nghiên cứu về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc
như một cách thức góp phần giúp cho quá trình cá biệt hóa quyền tác giả vào trường
hợp riêng đối với tác phẩm kiến trúc được diễn ra đúng đắn và hiệu quả, phù hợp với
các quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội. Trong việc nghiên cứu quá trình cá
biệt hóa này, điểm mấu chốt được tập trung phân tích khái niệm và bản chất của tác
phẩm kiến trúc với tư cách là đối tượng của quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc,
từ những điểm khác biệt về khái niệm và bản chất của tác phẩm kiến trúc sẽ dẫn đến
những yêu cầu, đặc điểm khác biệt của quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.
14
1.2.2. Đối tượng và phạm vi bảo hộ
1.2.2.1. Tác phẩm kiến trúc hiểu theo chuyên môn về kiến trúc
Kiến trúc là khoa học và nghệ thuật xây dựng công trình, trang hoàng nhà cửa
và tổ chức không gian sống. Kiến trúc được xem như là một lĩnh vực hoạt động sáng
tạo chủ yếu của con người từ khi có xã hội loài người, nhằm cải tạo hoặc kiến tạo
mới môi trường sống phục vụ các quá trình sống của con người và xã hội.
Kiến trúc là một lĩnh vực hoạt động sáng tạo đặc biệt và khá phức tạp của
con người, nó bao hàm nhiều khái niệm: nghệ thuật, kỹ thuật, xã hội, kinh tế… và
luôn vận động biến đổi theo thời đại18
Từ điển tiếng Việt định nghĩa “kiến trúc” như sau: “1. Xây dựng các công
trình, thường là nhà cửa, theo những kiểu mẫu mang tính chất nghệ thuật. 2. Kiểu
mẫu, thiết kế, trang trí nhà cửa”19
. Đây rõ ràng là một khái niệm cụ thể, thông thường
như cách những người bình thường hiểu về kiến trúc.
Từ điển mở Wikipedia định nghĩa về kiến trúc như sau: “Kiến trúc là một
ngành nghệ thuật và khoa học về sắp xếp không gian, thiết kế các công trình kiến
trúc, rộng hơn có thể bao gồm việc thiết kế môi trường xây dựng tổng thể, từ vĩ mô
như quy hoạch đô thị, thiết kế đô thị và kiến trúc cảnh quan, kiến trúc công trình, đến
vi mô như thiết kế nội thất, thiết kế sản phẩm hay tạo dáng công nghiệp”20
.
Trong lĩnh vực chuyên môn về kiến trúc, kiến trúc thường được hiểu là nghệ
thuật và khoa học thiết kế, xây dựng các công trình và các tổ hợp công trình theo
những tiêu chuẩn thẩm mỹ và chức năng. Kiến trúc có khi còn được hiểu là công trình
được xây dựng lên sau khi đã nghiên cứu thiết kế và xây dựng. Tác phẩm kiến trúc
không chỉ là những công trình riêng lẻ mà còn có thể là một tập hợp nhiều công trình
phối hợp với nhau và với môi trường xung quanh tạo nên một tổ hợp, một tổng thể
như một đường phố, một khu nhà, một thị trấn, một thị xã hay một thành phố.
Như vậy, tổng hợp các ý kiến trên, ta thấy:
- Kiến trúc là một ngành nghệ thuật và khoa học về thiết kế gắn liền với xây
dựng, có hai chức năng là tính thẩm mỹ và tính công năng.
- Theo nghĩa hẹp, kiến trúc là thiết kế hình dáng bên ngoài và bố trí sắp xếp
18
KTS Nguyễn Hữu Trí (2009), Giáo trình Kiến trúc nhập môn, NXB, tr.19
19
Nguyễn Như Ý (2012), Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin,
20
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kiến_trúc
15
không gian chức năng bên trong công trình (thiết kế công trình).
- Theo nghĩa rộng, thiết kế kiến trúc còn bao gồm cả thiết kế ở tầm vĩ mô (thiết
kế quy hoạch) hay ở tầm vi mô (thiết kế nội thất).
(i) Tác phẩm kiến trúc dưới dạng thiết kế quy hoạch
Quy hoạch là công việc tổ chức không gian kiến trúc và bố trí các công trình
trên một khu vực lãnh thổ trong từng thời kỳ, làm cơ sở pháp lý cho việc chuẩn bị
đầu tư xây dựng, quản lý xây dựng và phát triển kinh tế xã hội. Thiết kế quy hoạch
được phân loại dựa trên tính chất của khu vực lãnh thổ được quy hoạch, bao gồm
thiết kế quy hoạch đô thị và thiết kế quy hoạch khu dân cư nông thôn.
Ngoài ra, trong lĩnh vực thiết kế kiến trúc ở tầm vĩ mô còn có một phân ngành
khá mới mẻ liên quan đến quy hoạch đô thị, đó là thiết kế đô thị.
(ii) Tác phẩm kiến trúc dưới dạng thiết kế công trình
Các công trình kiến trúc nhìn chung được chia thành 3 loại: công trình dân
dụng, công trình công nghiệp và công trình công cộng.
- Kiến trúc công trình dân dụng là xây dựng các loại nhà ở cho các cá nhân,
phục vụ các chức năng nảy sinh từ những yêu cầu cụ thể của con người: nhà ở riêng
biệt, nhà ở tập thể, ký túc xá, nhà chung cư, khách sạn, …
- Kiến trúc công trình công nghiệp là xây dựng nhà, công trình kỹ thuật, các
quần thể kiến trúc (xí nghiệp công nghiệp, khu, cụm công nghiệp), các đối tượng liên
quan đến dây chuyền phục vụ và hỗ trợ cho sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp.
Các công trình công nghiệp bao gồm nhà máy, xưởng sản xuất, công trình phụ trợ,
nhà kho, công trình kỹ thuật phụ thuộc…
- Kiến trúc công trình công cộng: là xây dựng những công trình hay tổ hợp
công trình để đáp ứng, thỏa mãn mọi nhu cầu của hoạt động vật chất, tinh thần của
các loại thành viên trong xã hội, như: công trình trụ sở; công trình giáo dục; công
trình văn hóa xã hội; công trình giao thông; công trình thương mại; công trình du lịch;
công trình thể dục thể thao; công trình chăm sóc sức khoẻ;
(iii) Tác phẩm kiến trúc dưới dạng thiết kế nội thất
Nội thất là nghệ thuật xử lý không gian bên trong ngôi nhà. Nó là phần hồn
trong kiến trúc, nó tôn bật dáng vẻ của kiến trúc. Thiết kế nội thất bao gồm quy hoạch,
16
bố trí và thiết kế các không gian bên trong của công trình. Mục đích của thiết kế nội
thất là sự hoàn thiện các chức năng, làm phong phú tính thẩm mỹ và nâng cao tâm lý
đối với không gian bên trong.
1.2.2.2. Tác phẩm kiến trúc theo quy định của Điều ước quốc tế và Luật
về quyền tác giả của một số quốc gia khác trên thế giới.
(i) Công ước Berne
Công ước Berne ngày 24/7/1971 (Đạo luật Paris, ngày 24 tháng 07 năm 1971
sửa đổi ngày 28 tháng 09 năm 1979) về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật
mà Việt Nam là thành viên chính thức từ ngày 26/10/2004 mặc dù không định nghĩa
trực tiếp thế nào là tác phẩm kiến trúc. Tuy nhiên qua các quy định khác nhau của
công ước, ta có thể nhận thấy những loại hình được Công ước Berne thừa nhận như
là một tác phẩm kiến trúc.
Công ước Berne 1971 quy định: “Thuật ngữ các tác phẩm văn học và nghệ
thuật bao gồm tất cả các sản phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật,
bất kỳ được biểu hiện theo phương thức hoặc dưới hình thức nào, chẳng hạn như
sách, tập in nhỏ và các bản viết khác, các bài giảng, bài phát biểu, bài thuyết giáo và
các tác phẩm cùng loại; các tác phẩm kịch hay nhạc kịch, các tác phẩm hoạt cảnh và
kịch câm, các bản nhạc có lời hay không lời, các tác phẩm điện ảnh và các tác phẩm
được diễn tả bằng một kỹ thuật tương tự với điện ảnh, các tác phẩm đồ họa, hội họa,
kiến trúc, điêu khắc, chạm trổ, in thạch bản; các tác phẩm nhiếp ảnh và các tác phẩm
được diễn tả bằng một kỹ thuật tương tự như nhiếp ảnh; các tác phẩm nghệ thuật ứng
dụng, minh họa, địa đồ, đồ án, bản phác họa và các tác phẩm tạo hình liên quan đến
địa lý, địa hình, kiến trúc hay khoa học”21
.
Các quy định khác của Công ước Berne có liên quan đến tác phẩm kiến trúc như:
"Tác phẩm đã công bố" là những tác phẩm đã được phát hành với sự đồng ý
của tác giả, không phân biệt phương pháp cấu tạo các bản sao, miễn là các bản đó
đáp ứng nhu cầu hợp lý của công chúng, tuỳ theo bản chất của tác phẩm. Không được
coi là công bố: trình diễn một tác phẩm sân khấu, nhạc kịch hay hoà tấu, trình chiếu
tác phẩm điện ảnh, đọc trước công chúng một tác phẩm văn học, phát thanh hay
truyền hình một tác phẩm văn học hay nghệ thuật, triển lãm một tác phẩm nghệ thuật
21
Điều 2.1 Công ước Berne 1971
17
hay xây dựng một tác phẩm kiến trúc.22
;
“Được Công ước này bảo hộ mặc dù không đáp ứng được những điều
kiện: Các tác giả của tác phẩm kiến trúc được xây dựng tại một nước thuộc Liên hiệp
hoặc những tác phẩm tạo hình gắn liền với một tòa nhà được xây dựng tại một nước
thuộc Liên hiệp”23
;
“Nếu là một tác phẩm kiến trúc được dựng lên tại một nước thuộc Liên hiệp
hay những tác phẩm hội họa hoặc tạo hình gắn liền với một tòa nhà hoặc cấu trúc đặt
tại một nước thuộc Liên hiệp thì nước này sẽ là nước gốc của tác phẩm”24
.
Như vậy, bằng những quy định này, Công ước Berne mặc nhiên thừa nhận tác
phẩm kiến trúc có thể được thể hiện dưới dạng công trình xây dựng trên thực tế. Hơn
thế nữa, giả sử tác phẩm kiến trúc được sáng tạo thông qua các bản vẽ tại một nước
khác, các bản vẽ lần đầu tiên được công bố tại một nước khác, tác giả và chủ sở hữu
lại mang các quốc tịch khác, thì quốc gia mà tại đó công trình kiến trúc được xây
dựng mới là quốc gia gốc của tác phẩm kiến trúc.
Như vậy, trong mối liên quan giữa các hình thức thể hiện khác nhau của tác
phẩm kiến trúc như bản vẽ, công trình xây dựng… thì công trình xây dựng vẫn chiếm
ưu thế hơn. Bên cạnh đó, các quy định này của công ước Berne cũng giúp làm rõ khái
niệm nên tác phẩm tạo hình liên quan đến kiến trúc có thể được hiểu là tác phẩm tạo
hình gắn liền với một tòa nhà, ví dụ: bức tượng nữ thần công lý (tác phẩm tạo hình)
trên mái nhà của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (tác phẩm kiến trúc).
Như vậy, Công ước Berne thừa nhận rằng tác phẩm kiến trúc có thể được biểu
hiện bất kỳ theo phương thức hoặc dưới hình thức nào, không loại trừ hình thức thể
hiện của tác phẩm kiến trúc là một công trình được xây dựng trên thực tế.
(ii) Luật Quyền tác giả của Hoa Kỳ
Luật quyền tác giả của Hoa kỳ ra đời rất sớm từ những nam 1790, sau nhiều
lần sửa đổi bổ sung vào năm 1909 và sau này được thay thế bởi Luật quyền tác giả
năm 1976. Sau khi gia nhập công ước Berne, Luật về quyền tác giả của Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ đã có chỉnh sửa cho phù hợp trong đó định nghĩa rất cụ thể và chi tiết
về tác phẩm kiến trúc như sau: “Tác phẩm kiến là thiết kế của một tòa nhà được thể
22
Điều 3.3 Công ước Berne 1971
23
Điểm b, Điều 4 Công ước Berne 1971
24
Điểm ii.c khoản 4 Điểu 5 Công ước Berne 1971
18
hiện dưới mọi hình thức trung gian hữu hình, bao gồm tòa nhà, sơ đồ kiến trúc hay
bản vẽ. Tác phẩm kiến trúc bao gồm toàn bộ hình dáng cũng như là sự sắp xếp và sự
cấu thành của không gian và các yếu tố trong thiết kế, nhưng không bao gồm đặc
điểm tiêu chuẩn cá nhân”25
.
Luật về Quyền tác giả của Hoa Kỳ không chỉ xác định được ngoại diên của
khái niệm tác phẩm kiến trúc thông qua việc liệt kê các loại hình thức thể hiện của
tác phẩm kiến trúc được bảo hộ (tòa nhà, sơ đồ kiến trúc hay bản vẽ) mà còn nêu rõ
nội hàm của khái niệm tác phẩm kiến trúc (toàn bộ hình dáng cũng như là sự sắp xếp
và sự cấu thành của không gian và các yếu tố trong thiết kế). Điều này tạo nên sự dễ
dàng, thuận lợi trong việc đánh giá, xác định một cách toàn diện một đối tượng có
được xem là tác phẩm kiến trúc hay hình thức thể hiện của tác phẩm kiến trúc hay
không.
Ngoài ra, còn quy định cụ thể về phạm vi quyền độc quyền đối với tác phẩm
kiến trúc: Quyền tác giả đối với một tác phẩm kiến trúc mà đã được xây dựng không
bao gồm quyền ngăn cấm việc tạo ra, phân phối, trình bầy tranh, hoạ, ảnh, hoặc các
trình bầy khác của tác phẩm, nếu công trình mà trên đó biểu hiện tác phẩm được đặt
trong, hoặc trong tầm nhìn từ, một nơi công cộng; Sửa đổi và dỡ bỏ công trình xây
dựng: Không trái với các quy định của Điều 106(2), chủ sở hữu công trình thể hiện
một tác phẩm kiến trúc có thể, không cần sự cho phép của tác giả hoặc chủ chủ sở
hữu quyền tác giả của tác phẩm kiến trúc đó, thực hiện hoặc cho phép thực hiện sự
sửa đổi đối với công trình này, và dỡ bỏ hoặc cho phép phá hủy công trình này26
.
(iii) Luật Quyền tác giả của Nhật Bản
Luật Quyền tác giả của Nhật Bản (Luật số 48 ngày 06/05/1970) không định
nghĩa trực tiếp thế nào là tác phẩm kiến trúc, nhưng có đề cập như sau:
“Tác phẩm được cho là đã công bố nếu được phát hành hoặc diễn kịch, trình
tấu, trình chiếu, truyền tải đến công chúng, kể chuyện hoặc trưng bày cho công chúng
xem (bao gồm trường hợp tác phẩm kiến trúc được xây dựng bởi chủ sở hữu quyền
tác giả hoặc người được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép”27
.
Ngoài ra Luật cũng quy định rõ rằng: “Tác giả có quyền bảo vệ sự toàn vẹn
25
Điều 101 Luật quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
26
Điều 120 Luật quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
27
Điều 4 Luật Quyền tác giả Nhật Bản
19
của tác phẩm và tên của tác phẩm chống lại mọi sự xuyên tạc, cắt xén và sửa chữa
khác chống lại anh ta, ngoại trừ các trường hợp sửa chữa sau: Sửa chữa tác phẩm kiến
trúc bằng cách mở rộng ra, xây dựng lại, sửa chữa lại, tu sửa lại”28
.
Và để nói về khai thác tác phẩm nghệ thuật công khai “Có thể khai thác tác
phẩm nghệ thuật có nguyên bản được đặt thường xuyên ngoài trời theo qui định tại
khoản 2 điều trên hoặc tác phẩm kiến trúc bằng bất cứ phương pháp nào, ngoại trừ
các trường hợp sau đây: Nhân bản tác phẩm điêu khắc, hoặc cung cấp đến công chúng
bằng cách chuyển; quyền sở hữu bản sao đó; Mô phỏng phục chế một tác phẩm kiến
trúc, hoặc cung cấp đến công chúng bằng cách chuyển quyền sở hữu bản sao đó; Sao
chép để trưng bày thường xuyên ngoài trời theo qui định tại khoản 2 điều trên; Sao
chép chuyên dành cho mục đích bán bản sao tác phẩm nghệ thuật hoặc bán bản sao
đó”29
.
Có thể hiểu rằng, tuy không trực tiếp quy định thế nào là tác phẩm kiến trúc,
nhưng thông qua các quy định khác, Luật Quyền tác giả của Nhật Bản cũng gián tiếp
thừa nhận tác phẩm kiến trúc có thể là những công trình xây dựng trên thực tế.
Tóm lại, về cơ bản, pháp luật của một số quốc gia trên thế giới đều có sự thống
nhất với nhau, cũng như sự phù hợp với quy định của Công ước Berne về khái niệm
tác phẩm kiến trúc.
1.2.2.3. Tác phẩm kiến trúc theo quy định của pháp luật Việt Nam
(i) Tác phẩm kiến trúc theo quy định của pháp luật hiện hành
“Tác phẩm kiến trúc là các bản vẽ dưới bất kỳ hình thức nào thể hiện ý tưởng
sáng tạo về ngôi nhà, công trình xây dựng, quy hoạch không gian (quy hoạch xây
dựng) đã hoặc chưa xây dựng. Tác phẩm kiến trúc bao gồm các bản vẽ thiết kế về
mặt bằng, mặt đứng, mặt cắt, phối cảnh, thể hiện ý tưởng sáng tạo về ngôi nhà, công
trình, tổ hợp công trình kiến trúc, tổ chức không gian, kiến trúc cảnh quan của một
vùng, một đô thị, hệ thống đô thị, khu chức năng đô thị, khu dân cư nông thôn. Mô
hình, sa bàn về ngôi nhà, công trình xây dựng hoặc quy hoạch không gian được coi
là tác phẩm kiến trúc độc lập”30
.
Có thể thấy, khái niệm này không nêu rõ được nội hàm của khái niệm tác phẩm
28
Khoản 2 Điều 20 Luật quyền tác giả Nhật Bản
29
Điều 46 Luật Quyền tác giả Nhật Bản
30
Điều 17, Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21/09/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan
20
kiến trúc, tức không định nghĩa rõ ràng được tác phẩm kiến trúc là gì, bản chất của
nó như thế nào, mà chỉ dùng phương pháp liệt kê để liệt kê các loại tác phẩm kiến
trúc. Như vậy, pháp luật Việt Nam rõ ràng không công nhận các công trình xây dựng
trên thực tế là một loại hình tác phẩm kiến trúc. Bản vẽ quy hoạch đô thị được xem
như một tác phẩm kiến trúc, còn bản vẽ thiết kế nội thất thì không được công nhận
nhưng cũng không bị loại trừ một cách rõ ràng. Các bản vẽ kỹ thuật cũng không được
xem như một tác phẩm kiến trúc, mà chỉ có các bản vẽ kiến trúc thể hiện mặt bằng,
mặt đứng, mặt cắt, phối cảnh.
Cách định nghĩa “tác phẩm kiến trúc là các bản vẽ…” thể hiện sự nhầm lẫn
giữa một đối tượng với các hình thức thể hiện của đối tượng đó. Như đã phân tích,
bản thân đối tượng của quyền tác giả là tài sản vô hình phi vật chất không thể được
nhận biết trực tiếp mà chỉ có thể được thể hiện và nhận biết thông qua một hình thức
vật chất hữu hình nhất định. Tác phẩm kiến trúc là một tài sản vô hình phi vật chất.
Nó chỉ có thể được thể hiện và nhận biết thông qua một hình thức vật chất hữu hình
nhất định nào đó. Hình thức vật chất hữu hình đó có thể là các bản vẽ thiết kế, hoặc
cũng có thể là công trình xây dựng trên thực tế như quy định của một số nước. Việc
quy định “tác phẩm kiến trúc là các bản vẽ…” chính là sự đánh đồng tác phẩm kiến
trúc vô hình vào hình thức thể hiện hữu hình của nó. Hai vấn đề này là hoàn toàn khác
nhau về bản chất.
So sánh với trường hợp tác phẩm tạo hình, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, hai
loại hình tác phẩm trên đây đều có thể được bảo hộ dưới dạng hình phẳng hai chiều
(tác phẩm hội họa, đồ họa…) hoặc hình khối ba chiều (tác phẩm điêu khắc, tác phẩm
mỹ thuật ứng là các đồ vật…). Điều đó có nghĩa là các tác phẩm trong không gian ba
chiều không bị ngăn cấm bảo hộ quyền tác giả. Ngoài ra, xét về quá trình hình thành
nên tác phẩm, tác phẩm điêu khắc có thể do tác giả sáng tạo tự tay thực hiện từ đầu
đến cuối, nhưng đa số các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng đều có thể không phải do tác
giả sáng tạo tự tay thực hiện từ đầu đến cuối mà thông qua các đơn vị trung gian thực
hiện lại trên cơ sở thiết kế sáng tạo của tác giả. Việc xây dựng một công trình trên
thực tế cũng tương tự như vậy, có thể không do tác giả trực tiếp thực hiện mà thông
qua các đơn vị thi công thực hiện theo đúng như thiết kế ban đầu của tác giả. Như
vậy, nếu các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng trong không gian ba chiều được bảo hộ
quyền tác giả thì một công trình kiến trúc đã xây dựng trên thực tế không có lý do gì
để không thể được bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.
21
Khác với kiểu dáng công nghiệp, quyền tác giả bảo hộ hình thức chứ không
bảo hộ nội dung sáng tạo, cái gì thuộc về nghệ thuật đều có thể được bảo hộ dưới
dạng quyền tác giả, do đó phần ứng dụng nhiều hơn phần mỹ thuật thì khả năng bảo
hộ quyền tác giả càng thấp. Quy định như hiện nay của Bộ Văn hóa Thể thao và Du
lịch về tác phẩm kiến trúc chỉ là bản vẽ chứ không phải tòa nhà là chưa đúng với quy
định của Công ước Berne, sau khi gia nhập công ước Berne, Hoa kỳ đã phải sửa định
nghĩa về tác phẩm kiến trúc trong Luật về quyền tác giả tác phẩm kiến trúc tại Điều
102 (a) “Tác phẩm kiến trúc là thiết kế của một tòa nhà được thể hiện dưới mọi hình
thức trung gian hữu hình, bao gồm tòa nhà, sơ đồ kiến trúc hay bản vẽ.
(ii) Tác phẩm kiến trúc theo các quy định trước đây
Trước đây khi chưa ban hành Luật Sở hữu trí tuệ 2005, vấn đề quyền tác giả
được quy định tại BLDS 1995 và Nghị định số 76/NĐ-CP ngày 29/11/1996 về việc
hướng dẫn thi hành một số quy định về quyền tác giả trong Bộ luật Dân sự 1995. Sau
đó, cụ thể hơn Bộ VHTT và BXD đã phối hợp ban hành thông tư liên tịch số
04/2003/TTLT/BVHTT- BXD ngày 24/01/2003 (vẫn còn hiệu lực) hướng dẫn về
quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc, trong đó nêu rõ “Tác phẩm kiến trúc là các
bản vẽ thiết kế thể hiện ý tưởng sáng tạo về ngôi nhà, công trình xây dựng, quy hoạch
không gian (quy hoạch xây dựng) đã hoặc chưa xây dựng. Tác phẩm kiến trúc bao
gồm các bản vẽ thiết kế về mặt bằng, mặt đứng, mặt cắt, phối cảnh, thể hiện ý tưởng
sáng tạo về ngôi nhà, công trình, tổ hợp công trình kiến trúc, tổ chức không gian, kiến
trúc cảnh quan của một vùng, một đô thị, hệ thống đô thị, khu chức năng đô thị, khu
dân cư nông thôn. Mô hình, sa bàn và bản thuyết minh (nếu có) về ngôi nhà cụ thể,
công trình xây dựng hoặc quy hoạch không gian được coi là bộ phận không tách rời
của tác phẩm kiến trúc, nhưng không thay thế bản vẽ thiết kế được coi là tác phẩm
kiến trúc độc lập”31
. Về cơ bản, khái niệm tác phẩm kiến trúc tại Nghị định
100/2006/NĐ-CP chính là sự kế thừa khái niệm tác phẩm kiến trúc tại TTLT này, chỉ
có một điểm khác biệt duy nhất là TTLT không coi mô hình, sa bàn là tác phẩm kiến
trúc độc lập, còn Nghị định 100/2006/NĐ-CP thì có quy định32
.
Thực tế, nội hàm của khái niệm tác phẩm kiến trúc đã được thể hiện khá rõ tại
Thông tư liên tịch số 1314 TTLB/XD-VH ngày 23/07/1991 của Bộ Xây dựng và Bộ
31
Khoản 1 Mục I Thông tư liên tịch số 04/2003/TTLT/BVHTT- BXD ngày 24/01/2003 hướng dẫn về quyền tác giả đối với
tác phẩm kiến trúc
32
Điều 17 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21/09/2006 về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan
22
văn hóa - thông tin - thể thao và du lịch, mà đến nay vẫn còn hiệu lực:
“Tác phẩm kiến trúc được hiểu là một sáng tạo nghệ thuật trong lĩnh vực xây
dựng, bao gồm:
- Tài liệu thiết kế: Sơ đồ tổng mặt bằng quy hoạch của đô thị (hay khu chức
năng đô thị) và điểm dân cư nông thôn; bản thiết kế sơ bộ ở giai đoạn luận chứng
kinh tế kỹ thuật (hay báo cáo kinh tế kỹ thuật), và thiết kế kỹ thuật; thiết kế điển hình
của công trình; các phương án dự thi về quy hoạch hay công trình;
- Các công trình, ngôi nhà đã được xây dựng”33
.
Đây rõ ràng là một định nghĩa sáng sủa, logic, đầy đủ nội hàm và ngoại diên
của khái niệm tác phẩm kiến trúc. Cụ thể, về nội hàm, tác phẩm kiến trúc là một sáng
tạo nghệ thuật trong lĩnh vực xây dựng. Về ngoại diên, tác phẩm kiến trúc bao gồm
(i) tài liệu thiết kế và (ii) các công trình, ngôi nhà đã được xây dựng.
Việc công nhận ngôi nhà, công trình đã được xây dựng là một loại hình của
tác phẩm kiến trúc về cơ bản cũng là phù hợp với quy định của điều ước quốc tế và
pháp luật các nước. Đối với tài liệu thiết kế, ngoài thiết kế kiến trúc thì thiết kế quy
hoạch đô thị, thiết kế sơ bộ và thiết kế kỹ thuật cũng được xem như một loại hình tác
phẩm kiến trúc.
Xét về mặt bản chất, hồ sơ thiết kế kỹ thuật chỉ giúp cho việc xây dựng nên
công trình trên thực tế được dễ dàng và chính xác theo đúng như ý đồ thiết kế của
người sáng tạo, đảm bảo an toàn và dự liệu các chi phí khi xây dựng công trình, chứ
nó không góp phần vào việc thiết kế hình dáng bên ngoài hay tổ chức, bố trí không
gian bên trong của công trình kiến trúc như một tác phẩm kiến trúc thật sự. Do đó,
các hồ sơ thiết kế kỹ thuật tuy rất quan trọng, cần thiết và không thể thiếu để xây
dựng nên một công trình trên thực tế, nhưng những sáng tạo này không phải là sáng
tạo kiến trúc và thành quả của những sáng tạo này, về mặt bản chất, không phải là tác
phẩm kiến trúc.
Tuy nhiên, nhìn chung khái niệm về tác phẩm kiến trúc như trên thể hiện sự
gần gũi với các quy định trong lĩnh vực kiến trúc, xây dựng và với các quan điểm về
tác phẩm kiến trúc trong lĩnh vực chuyên môn. Điều đáng tiếc là, cách quy định như
33
Khoản 1 Mục 1 Thông tư liên bộ số 1314 TTLB/XD-VH ngày 23/07/1991 của liên bộ Bộ Xây dựng - Bộ văn hóa - thông
tin - thể thao và Du lịch quy định về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc
23
trên đã không được Nghị định 76/CP và sau này là Nghị định 100/2006/NĐ-CP và
Nghị định số 85/2011/NĐ-CP ngày 10/11/2011 kế thừa khi quy định chi tiết về quyền
tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.
Quan trọng là Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày được ban hành khi Việt Nam
đã là thành viên của Công ước Berne, đáng lý ra các quy định phải có một bước tiến
đáng kể, hoặc ít nhất là ngang bằng với các quy định đã có trước đó. Đằng này, quy
định về tác phẩm kiến trúc trong Nghị định 100/2006/NĐ-CP lại là một bước thụt lùi
so với quy định tại Thông tư liên bộ 1314 TTLB/XD-VH mà cho đến Nghị định số
85/2011/NĐ-CP ngày 10/11/2011 vẫn không khắc phục được.
1.2.2.4. Nội dung và hình thức thể hiện của tác phẩm kiến trúc
Như đã phân tích tại phần lý luận chung, quyền tác giả không bảo hộ nội dung
ý tưởng sáng tạo mà chỉ bảo hộ hình thức sáng tạo. Tác phẩm kiến trúc cũng không
phải là trường hợp ngoại lệ. Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc cũng chỉ bảo
hộ hình thức thể hiện mà không bảo hộ nội dung ý tưởng sáng tạo. Vấn đề đặt ra là
việc phân định giữa nội dung và hình thức không phải lúc nào cũng dễ dàng và chính
xác.
Khi thiết kế một công trình, người kiến trúc sư thường phác thảo các ý tưởng
thiết kế của mình trước, ví dụ ý tưởng thiết kế công trình có hình dạng hoa sen mang
ý nghĩa truyền thống dân tộc hay ý tưởng bố trí giếng trời ở giữa nhà để vừa tạo không
gian xanh mát vừa tận dụng gió và ánh sáng tự nhiên… Rõ ràng bản thân các ý tưởng
nói trên không được bảo hộ quyền tác giả. Một kiến trúc sư khác cũng hoàn toàn có
thể nghĩ ra ý tưởng thiết kế công trình có hình dạng tương tự, thậm chí là sao chép
những ý tưởng đó để sáng tạo nên tác phẩm của riêng mình, cũng vẫn không phải là
hành vi vi phạm.
Mỗi một kiến trúc sư thường có những phong cách thiết kế khác nhau. Có
người theo phong cách đơn giản, kiệm chi tiết; có người theo phong cách hiện đại, đa
dụng; có người theo phong cách dân tộc, cổ truyền… và thường họ trung thành với
phong cách thiết kế của mình từ đầu đến cuối. Đối với một số kiến trúc sư nổi tiếng
trên thế giới, người trong cùng lĩnh vực kiến trúc chỉ cần nhìn vào phong cách thiết
kế của công trình đã có thể xác định được công trình do ai thiết kế. Tuy nhiên, phong
cách thiết kế cũng không phải là cái được bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến
trúc. Về mặt luật pháp, không ai ngăn cấm một người sao chép phong cách thiết kế
24
của người khác hay của một công trình khác để sáng tạo công trình cho riêng mình.
Ví dụ một kiến trúc sư sáng tạo nên một tác phẩm kiến trúc với phong cách chủ đạo
là những khối lập phương và gam màu đỏ - đen - trắng, thì việc một kiến trúc sư khác,
hoặc chính kiến trúc sư đó, sử dụng cùng phong cách đó cho những công trình khác
tiếp theo của những chủ đầu tư khác nhau, không phải là hành vi xâm phạm quyền
tác giả hoặc quyền của chủ sở hữu quyền tác giả của công trình ban đầu.
Như vậy, rõ ràng là ý tưởng hay phong cách thiết kế của một tác phẩm kiến
trúc không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Tuy nhiên,
khi các ý tưởng hay phong cách nói trên đã được hiện thực hóa vào trong bản vẽ thiết
kế hoặc công trình xây dựng, thì phần nào của bản vẽ hay công trình là hình thức thể
hiện và được bảo hộ, phần nào chỉ đơn thuần là nội dung hay ý tưởng và không được
bảo hộ? Đây rõ ràng là một vấn đề phức tạp và trừu tượng vì bản thân khái niệm
quyền tác giả lẫn khái niệm tác phẩm kiến trúc đều vô cùng trừu tượng và phức tạp.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng tác phẩm kiến trúc ở đây không phải là bản vẽ hay công
trình mà là một đối tượng vô hình phi vật chất. Tác phẩm kiến trúc được thể hiện và
nhận biết thông qua các hình thức vật chất hữu hình khác như bản vẽ hay công trình.
Bản thân bản vẽ hay công trình không phải là tác phẩm kiến trúc mà chỉ đơn thuần là
hình thức thể hiện của tác phẩm kiến trúc mà thôi. Phần nội dung bao gồm các sự vật
hiện tượng cụ thể có thể có trong một công trình xây dựng như tường, cửa, mái, nền…
không thuộc phạm vi bảo hộ. Các kiến trúc sư khác đương nhiên được quyền sáng
tạo tác phẩm kiến trúc cũng với những tường, cửa, mái, nền… như vậy.
Cái được bảo hộ là hình thức thể hiện ra bên ngoài của những thiết kế chứa
đựng các nội dung đó, thông qua những bản vẽ cụ thể. Các bản vẽ này bao gồm các
ký tự và hình vẽ được quy ước như những ký hiệu đơn giản và phổ biến trong lĩnh
vực kiến trúc. Thông qua sáng tạo của mình kiến trúc sư kết hợp các ký hiệu lại với
nhau tạo thành hình thức thể hiện một tác phẩm kiến trúc nguyên gốc chứa đựng toàn
bộ nội dung ý tưởng sáng tạo về công trình.
Tất nhiên không ai bảo hộ một bản vẽ đơn giản gồm ký hiệu thể hiện một căn
phòng đơn giản với tường, cửa, mái, nền… vì lúc này hình thức thể hiện hoàn toàn
trùng với nội dung tác phẩm. Để được bảo hộ, hình thức thể hiện phải bộc lộ được
thành quả lao động sáng tạo của tác giả vào trong tác phẩm34
.
34
Nguyễn Vân Nam (2016), Quyền tác giả: Đường hội nhập không trải hoa hồng, NXB Trẻ, tr.512.
25
1.2.3. Chủ thể và nội dung quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc
1.2.3.1. Khía cạnh pháp lý
(i) Chủ thể quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc là:
- Tác giả, đồng tác giả: Tác giả, đồng tác giả là người, những người trực tiếp
sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm kiến trúc.
- Chủ sở hữu quyền tác giả: Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm
giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản đối với tác phẩm kiến trúc như sao
chép, phân phối, làm tác phẩm phái sinh... Hay nói cách khác, chủ sở hữu là người
độc quyền sử dụng, định đoạt tác phẩm kiến trúc. Các căn cứ để xác định vai trò chủ
sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc như: tác giả sử dụng thời gian, tài
chính, cơ sở vật chất - kỹ thuật của mình để sáng tạo ra tác phẩm kiến trúc; tổ chức
giao nhiệm vụ sáng tạo ra tác phẩm kiến trúc cho tác giả là người thuộc tổ chức mình;
tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng với tác giả sáng tạo ra tác phẩm kiến trúc; tổ chức,
cá nhân được thừa kế hoặc chuyển giao quyền tác giả là chủ sở hữu quyền tác giả đối
với tác phẩm kiến trúc hoặc nhà nước trong một vài trường hợp.
(ii) Nội dung quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc dành cho tác giả và chủ
sở hữu quyền tác giả gồm:
- Quyền của tác giả:
+ Đặt tên cho tác phẩm: Cần lưu ý là quyền đặt tên cho tác phẩm hoàn toàn
không đồng nghĩa với quyền đặt tên cho một công trình trên thực tế với tư cách là
hình thức thể hiện của tác phẩm. Quyền đặt tên cho công trình thuộc về chủ sở hữu
công trình. Hai tên gọi này không nhất thiết phải trùng nhau. Ví dụ chủ đầu tư đặt tên
tòa nhà của mình là “nhà hàng ABC”, còn tác giả có thể đặt tên cho tác phẩm kiến
trúc của mình là “nhà hàng ABC” hoặc “nhà hàng làng tre” hoặc “nắng và gió” hay
bất kỳ tên nào khác, trùng hoặc không trùng với tên công trình. Ngay cả trong trường
hợp công trình xây dựng được công nhận là một hình thức thể hiện của tác phẩm kiến
trúc, thì điều này vẫn đúng trong mọi trường hợp.
+ Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; nêu tên thật hoặc bút danh khi
tác phẩm được công bố, sử dụng. Việc đứng tên trên tác phẩm kiến trúc còn là quy
định bắt buộc để quy trách nhiệm đối với các sự cố nếu có xảy ra đối với công trình.
26
+ Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén
hoặc xuyên tạc sản phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và
uy tín của tác giả.
- Quyền của chủ sở hữu quyền tác giả:
+ Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm. Cần lưu ý
là pháp luật quy định xây dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc không phải là hành
vi công bố tác phẩm35
.
+ Làm tác phẩm phái sinh;
+ Sao chép tác phẩm kiến trúc
+ Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bảo sao tác phẩm kiến trúc;
+ Truyền đạt tác phẩm kiến trúc đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến,
vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác.
1.2.3.2. Xác định tư cách chủ thể và nội dung quyền tác giả đối với tác
phẩm kiến trúc trong một số trường hợp cụ thể
(i) Trường hợp tự thiết kế
Thông thường thì chủ đầu tư sẽ giao kết hợp đồng với kiến trúc sư hành nghề
độc lập hoặc công ty tư vấn thiết kế kiến trúc để những đối tượng này thực hiện dịch
vụ thiết kế. Tuy nhiên cũng có không ít trường hợp chủ đầu tư là kiến trúc sư hoặc
không phải là kiến trúc sư nhưng muốn tự mình thực hiện việc thiết kế. Thiết kế xây
dựng nhà ở riêng lẻ phải đáp ứng yêu cầu tuân thủ tiêu chuẩn áp dụng, quy chuẩn kỹ
thuật, quy định của pháp luật về sử dụng vật liệu xây dựng, đáp ứng yêu cầu về công
năng sử dụng, công nghệ áp dụng (nếu có); bảo đảm an toàn chịu lực, an toàn trong
sử dụng, mỹ quan, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống
cháy, nổ và điều kiện an toàn khác. Hộ gia đình được tự thiết kế nhà ở riêng lẻ có
tổng diện tích sàn xây dựng nhỏ hơn 250 m2 hoặc dưới 3 tầng hoặc có chiều cao dưới
12 mét, phù hợp với quy hoạch xây dựng được duyệt và chịu trách nhiệm trước pháp
luật về chất lượng thiết kế, tác động của công trình xây dựng đến môi trường và an
toàn của các công trình lân cận36
.
35
Điều 22 Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21/09/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan
36
Khoản 3, 7 Điều 79 Luật xây dựng 2014
27
Trong trường hợp này, chủ đầu tư là tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác
giả đối với tác phẩm kiến trúc nên có toàn bộ các quyền nhân thân, quyền tài sản đối
với tác phẩm kiến trúc mà họ sáng tạo ra.
(ii) Trường hợp giao kết hợp đồng với kiến trúc sư hành nghề độc lập
Trong trường hợp này, nếu không có thỏa thuận khác, kiến trúc sư là tác giả
và chủ đầu tư là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc, thể hiện qua
việc chủ đầu tư mới là người đầu tư tài chính cho kiến trúc sư thực hiện việc sáng tạo
ra tác phẩm kiến trúc, và việc thực hiện tác phẩm kiến trúc là theo “đơn đặt hàng”
của chủ đầu tư. Nghĩa là kiến trúc sư nắm giữ các quyền nhân thân ngoại trừ quyền
công bố, còn chủ đầu tư nắm giữ tất cả các quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm
kiến trúc. Như vậy, nếu kiến trúc sư muốn công bố tác phẩm của mình lên các tạp chí
hay chương trình truyền hình giới thiệu về nhà đẹp thì phải được sự đồng ý của chủ
sở hữu.
Tuy nhiên pháp luật vẫn để ngỏ khả năng các bên có thể có những thỏa thuận
khác nhau về tư cách chủ thể của mình cũng như các quyền gắn liền với các tư cách
chủ thể đó. Ví dụ các bên có thể thỏa thuận rằng kiến trúc sư được giữ toàn bộ các
quyền nhân thân lẫn quyền tài sản đối với tác phẩm. Trong trường hợp đó, thay vì
chủ sở hữu có quyền sao chép tác phẩm kiến trúc để xây dựng thêm cho mình nhiều
công trình tương tự thì ngược lại muốn sao chép chủ đầu tư phải được sự cho phép
của kiến trúc sư và kiến trúc sư thì được toàn quyền sao chép cũng như phân phối bản
sao cho nhiều đối tượng khác nhau. Vấn đề nghe có vẻ bất hợp lý, nhưng trong một
số trường hợp đặc biệt các bên vẫn có quyền thỏa thuận như trên để phù hợp với mục
đích riêng của mình khi tham gia giao dịch. Ví dụ trong trường hợp kiến trúc sư thiết
kế miễn phí hoặc với giá rẻ nhà tình thương cho đối tượng chính sách, thì cơ sở đó
cũng không có mục đích đòi hỏi độc quyền sử dụng tác phẩm, và nếu sau đó kiến trúc
sư sử dụng lại tác phẩm kiến trúc đó cho một viện cô nhi khác cũng với mục đích từ
thiện thì cũng không có lợi ích của bên nào bị xâm hại.
Vấn đề đặt ra là thỏa thuận ngược lại, tức kiến trúc sư từ chối và giao toàn bộ
quyền nhân thân của mình cho chủ đầu tư thì có được không? Cần lưu ý là trong bất
kỳ trường hợp nào, dù pháp luật có để ngỏ các khả năng cho các bên đạt được những
thỏa thuận khác, thì những thỏa thuận đó cũng không được trái với pháp luật. Tinh
thần của quy định là bảo vệ những quyền tinh thần cho người bằng lao động trí óc
28
của mình trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, đồng thời các quyền nhân thân ngoại trừ
quyền công bố tác phẩm của tác giả cũng không được chuyển giao trong trường hợp
chuyển nhượng quyền tác giả hay chuyển quyền sử dụng. Hợp đồng dịch vụ thiết kế
về bản chất cũng giống như một hợp đồng chuyển giao quyền tác giả, hoặc có chứa
các điều khoản giống như một hợp đồng chuyển giao quyền tác giả, cho nên cũng có
thể coi hợp đồng dịch vụ thiết kế giống như một loại hợp đồng chuyển giao quyền
tác giả đầu tiên mà tại đó tác giả chuyển giao quyền công bố và các quyền tài sản của
mình cho chủ đầu tư. Cho nên, trong hợp đồng dịch vụ thiết kế cũng tương tự như
trong hợp đồng chuyển giao quyền tác giả, việc thỏa thuận chuyển giao cả các quyền
nhân thân khác ngoài quyền công bố là hành vi bị cấm.
Trong nhiều trường hợp, tác giả sáng tạo ra tác phẩm dựa trên ý tưởng ban đầu
của chủ đầu tư, hoặc chủ đầu tư có những góp ý nhất định vào việc hoàn thiện tác
phẩm. Đây là trường hợp hết sức tự nhiên vì suy cho cùng chính chủ đầu tư mới là
người đầu tư tài chính cũng như trực tiếp sử dụng công trình xây dựng. Trong những
trường hợp này dù chủ đầu tư có đưa ra ý tưởng hay có những góp ý xác đáng, thậm
chí những góp ý làm cho tác phẩm kiến trúc được hoàn thành hoàn toàn khác xa tác
phẩm phác thảo ban đầu, thì chủ đầu tư vẫn chỉ là người góp ý chứ không phải là
người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm nên không có quyền của đồng tác giả tác phẩm
kiến trúc. Trong trường hợp chủ đầu tư trực tiếp sáng tạo một phần hoặc toàn bộ tác
phẩm kiến trúc thì được giữ vai trò đồng tác giả cho những sáng tạo của mình hoặc
giữ vai trò tác giả đối với tác phẩm phái sinh.
(iii) Trường hợp giao kết hợp đồng với tổ chức tư vấn thiết kế kiến trúc
Điều chắc chắn là tổ chức tư vấn thiết kế kiến trúc không phải là cá nhân nên
không thể được ghi nhận là tác giả nắm giữ các quyền nhân thân đối với tác phẩm
kiến trúc. Lúc này có sự xuất hiện của ba bên: kiến trúc sư, tổ chức tư vấn thiết kế
kiến trúc và chủ đầu tư nên vấn đề có vẻ cũng trở nên phức tạp hơn. Tuy nhiên, nếu
phân tích mối quan hệ cũng như các hợp đồng mà các bên ký kết trong mối tương
quan với các hợp đồng chuyển giao quyền tác giả, thì vấn đề trở nên hết sức đơn giản.
Thứ nhất, mối quan hệ giữa tổ chức tư vấn thiết kế kiến trúc với kiến trúc sư
là mối quan hệ giữa người giao nhiệm vụ thiết kế với nhân viên nhận nhiệm vụ thiết
kế thuộc tổ chức của mình và do mình trả lương. Do đó kiến trúc sư có quyền tác giả
và tổ chức tư vấn thiết kế kiến trúc có quyền của chủ sở hữu quyền tác giả.
29
Thứ hai, mối quan hệ giữa tổ chức tư vấn thiết kế kiến trúc với chủ đầu tư là
mối quan hệ giao kết hợp đồng thiết kế. Hợp đồng này về bản chất là tương ứng với
hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu quyền tác giả từ tổ chức tư vấn thiết kế kiến trúc
sang cho chủ đầu tư. Do đó, bằng hợp đồng dịch vụ thiết kế ký kết với chủ đầu tư, tổ
chức tư vấn thiết kế kiến trúc đã chuyển giao toàn bộ quyền của chủ sở hữu quyền
tác giả mà mình có được sang cho chủ đầu tư.
Trên thực tế, hai mối quan hệ này diễn ra cùng lúc và song song với nhau.
Tổng hợp hai mối quan hệ nói trên, kiến trúc sư là tác giả và nắm giữ quyền nhân
thân ngoại trừ quyền công bố tác phẩm kiến trúc, còn chủ đầu tư nắm giữ toàn bộ
quyền tài sản cũng như quyền công bố tác phẩm kiến trúc. Tổ chức tư vấn thiết kế
kiến trúc, suy cho cùng không giữ một vai trò gì trong mối quan hệ quyền tác giả này.
Điều này cũng phù hợp với thực tế các tổ chức tư vấn thiết kế kiến trúc ngoài việc
đứng tên ký hợp đồng, đóng dấu trên các bản vẽ và nhận tiền thù lao thiết kế, tức
những quan hệ về mặt quản lý, thì những công việc chuyên môn trong quá trình sáng
tạo ra tác phẩm kiến trúc đều được thực hiện độc lập bởi kiến trúc sư. Trong trường
hợp tổ chức tư vấn thiết kế cử nhiều hơn một kiến trúc sư tham gia vào việc thiết kế,
thì các kiến trúc sư là đồng tác giả của tác phẩm kiến trúc.
(iv) Trường hợp thiết kế phương án kiến trúc dự thi
Luật Xây dựng 2014, quy định các công trình bắt buộc phải thi tuyển thiết kế
kiến trúc trước khi lập dự án đầu tư xây dựng, gồm Công trình công cộng quy mô
lớn, có yêu cầu kiến trúc đặc thù phải tổ chức thi tuyển hoặc tuyển chọn thiết kế kiến
trúc công trình xây dựng trước khi lập Báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng37
.
Ngoài ra Luật Xây dựng 2014 cũng quy định tác giả của phương án thiết kế kiến trúc
đã được lựa chọn được bảo đảm quyền tác giả, được ưu tiên thực hiện các bước thiết
kế tiếp theo khi đủ điều kiện năng lực thiết kế xây dựng38
.
Ở đây cần lưu ý hai vấn đề. Thứ nhất là không chỉ riêng tác giả của phương án
được lựa chọn như quy định nêu trên mà mọi cá nhân gửi phương án dự thi dù là
được lựa chọn hay không được lựa chọn đều được công nhận là tác giả và được bảo
hộ các quyền nhân thân phi tài sản đối với phương án dự thi do mình trực tiếp sáng
tạo ra. Đây là vấn đề hiển nhiên và không có gì phải bàn cãi.
37
Khoản 1, Điều 81, Luật Xây dựng năm 2014
38
Khoản 3, Điều 81, Luật Xây dựng năm 2014
30
Vấn đề thứ hai, quan trọng và phức tạp hơn, là ai sẽ có tư cách chủ sở hữu nắm
giữ các quyền tài sản và quyền nhân thân liên quan đến tài sản đối với các phương án
dự thi trong cả hai trường hợp phương án dự thi được chọn lẫn không được chọn, tác
giả phương án, chủ đầu tư hay ban tổ chức cuộc thi. Trong một số trường hợp, chủ
đầu tư không trực tiếp tổ chức thi tuyển mà thông qua một đơn vị trung gian. Vấn đề
này hiện nay pháp luật không quy định mà để cho các bên tự do định đoạt thông qua
thể lệ cuộc thi rằng người dự thi, chủ đầu tư hay ban tổ chức giữ tư cách chủ sở hữu
quyền tác giả.
Tuy nhiên trong trường hợp thể lệ cuộc thi không quy định mà có tranh chấp
xảy ra thì tư cách chủ sở hữu sẽ được quyết định như thế nào? Đối với tác phẩm được
lựa chọn và sau đó ký hợp đồng để thực hiện các bước tiếp theo thì hiển nhiên chủ
đầu tư sẽ nắm giữ tư cách chủ sở hữu đối với tác phẩm dự thi lẫn những tác phẩm sau
này trên cơ sở hợp đồng mới ký. Tuy nhiên đối với các tác phẩm không được chọn
hoặc chưa biết là có được lựa chọn hay không, việc công nhận tư cách chủ sở hữu
thuộc về chủ đầu tư, hoặc ít nhất là công nhận cho chủ đầu tư quyền sử dụng một số
quyền tài sản nếu tư cách chủ sở hữu thuộc về tác giả, sẽ tạo nên sự hợp tình hợp lý
khi giải quyết vấn đề. Chỉ trong những trường hợp đó hành vi của chủ đầu tư hoặc
của ban tổ chức cuộc thi dưới sự cho phép của chủ đầu tư sao chép tác phẩm kiến trúc
ra thành nhiều bản để gửi cho ban giám khảo chấm thi hoặc trưng bày, chụp ảnh,
truyền đạt các tác phẩm kiến trúc trên các phương tiện thông tin đại chúng để thông
tin, quảng bá về cuộc thi sẽ không bị coi là hành vi vi phạm. Bên cạnh đó trong hầu
hết các trường hợp chủ đầu tư cũng đều có một khoản kinh phí hỗ trợ cho tất cả các
đơn vị dự thi thực hiện phương án dự thi, đổi lại chủ đầu tư giữ tư cách chủ sở hữu
hoặc được chuyển quyền sử dụng một số quyền tài sản của chủ sở hữu cũng là một
sự cân bằng lợi ích chính đáng giữa các bên trong quan hệ thi tuyển phương án thiết
kế kiến trúc.
(v) Xác định tư cách tác giả, đồng tác giả trong một số trường hợp khác
Như đã phân tích, nếu có nhiều hơn một kiến trúc sư tham gia vào việc thiết
kế, trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm kiến trúc thì các kiến trúc sư là đồng tác giả của tác
phẩm kiến trúc. Tuy nhiên đối với một số người khác cũng cần phải được xác định
có hay không có tư cách đồng tác giả tác phẩm kiến trúc, cụ thể:
+ Chủ nhiệm thiết kế, chủ trì thiết kế: Đối với các công trình có quy mô lớn,
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf
Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf

More Related Content

Similar to Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf

Similar to Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf (20)

Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOT
Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOTLuận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOT
Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOT
 
Luận văn: Quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học, 9đ - Gửi miễn...
Luận văn: Quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học, 9đ - Gửi miễn...Luận văn: Quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học, 9đ - Gửi miễn...
Luận văn: Quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học, 9đ - Gửi miễn...
 
BÀI MẪU Khóa luận tốt nghiệp quyền tác giả, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận tốt nghiệp quyền tác giả, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Khóa luận tốt nghiệp quyền tác giả, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận tốt nghiệp quyền tác giả, HAY, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Quản lý về đăng ký quyền tác giả theo pháp luật, HAY
Luận văn: Quản lý về đăng ký quyền tác giả theo pháp luật, HAYLuận văn: Quản lý về đăng ký quyền tác giả theo pháp luật, HAY
Luận văn: Quản lý về đăng ký quyền tác giả theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh doanh bất động sản
Luận văn: Giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh doanh bất động sảnLuận văn: Giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh doanh bất động sản
Luận văn: Giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh doanh bất động sản
 
Khóa Luận Bảo Hộ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Âm Nhạc.docx
Khóa Luận Bảo Hộ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Âm Nhạc.docxKhóa Luận Bảo Hộ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Âm Nhạc.docx
Khóa Luận Bảo Hộ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Âm Nhạc.docx
 
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAYLuận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
 
tiểu luận .pdf
tiểu luận .pdftiểu luận .pdf
tiểu luận .pdf
 
Luận văn: Hợp đồng chuyển nhượng nhà ở theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng chuyển nhượng nhà ở theo pháp luật, HAYLuận văn: Hợp đồng chuyển nhượng nhà ở theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng chuyển nhượng nhà ở theo pháp luật, HAY
 
Luận văn:Trách nhiệm của các chủ thể trong xây dựng văn bản quy phạm
Luận văn:Trách nhiệm của các chủ thể trong xây dựng văn bản quy phạmLuận văn:Trách nhiệm của các chủ thể trong xây dựng văn bản quy phạm
Luận văn:Trách nhiệm của các chủ thể trong xây dựng văn bản quy phạm
 
Đề tài: Trách nhiệm của chủ thể trong xây dựng văn bản quy phạm
Đề tài: Trách nhiệm của chủ thể trong xây dựng văn bản quy phạmĐề tài: Trách nhiệm của chủ thể trong xây dựng văn bản quy phạm
Đề tài: Trách nhiệm của chủ thể trong xây dựng văn bản quy phạm
 
Pháp luật về hết quyền sở hữu trí tuệ trong nhập khẩu song song
Pháp luật về hết quyền sở hữu trí tuệ trong nhập khẩu song song Pháp luật về hết quyền sở hữu trí tuệ trong nhập khẩu song song
Pháp luật về hết quyền sở hữu trí tuệ trong nhập khẩu song song
 
Luận văn: Pháp luật về hết quyền sở hữu trí tuệ và nhập khẩu, HOT
Luận văn: Pháp luật về hết quyền sở hữu trí tuệ và nhập khẩu, HOTLuận văn: Pháp luật về hết quyền sở hữu trí tuệ và nhập khẩu, HOT
Luận văn: Pháp luật về hết quyền sở hữu trí tuệ và nhập khẩu, HOT
 
SỬ DỤNG VẬT LIỆU TỪ THỰC VẬT TRONG CẢI TẠO MẶT ĐỨNG CÔNG TRÌNH NHÀ Ở THÀNH...
SỬ DỤNG VẬT LIỆU TỪ THỰC VẬT TRONG CẢI TẠO MẶT ĐỨNG CÔNG TRÌNH NHÀ Ở THÀNH...SỬ DỤNG VẬT LIỆU TỪ THỰC VẬT TRONG CẢI TẠO MẶT ĐỨNG CÔNG TRÌNH NHÀ Ở THÀNH...
SỬ DỤNG VẬT LIỆU TỪ THỰC VẬT TRONG CẢI TẠO MẶT ĐỨNG CÔNG TRÌNH NHÀ Ở THÀNH...
 
Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả.doc
Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả.docTrách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả.doc
Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả.doc
 
Thừa Kế Quyền Sử Dụng Đất Ở Và Nhà Ở Gắn Liền Với Đất (Qua Thực Tiễn Tại Thàn...
Thừa Kế Quyền Sử Dụng Đất Ở Và Nhà Ở Gắn Liền Với Đất (Qua Thực Tiễn Tại Thàn...Thừa Kế Quyền Sử Dụng Đất Ở Và Nhà Ở Gắn Liền Với Đất (Qua Thực Tiễn Tại Thàn...
Thừa Kế Quyền Sử Dụng Đất Ở Và Nhà Ở Gắn Liền Với Đất (Qua Thực Tiễn Tại Thàn...
 
Thi hành pháp luật trong giải quyết khiếu nại đất đai của ủy ban nhân dân
Thi hành pháp luật trong giải quyết khiếu nại đất đai của ủy ban nhân dânThi hành pháp luật trong giải quyết khiếu nại đất đai của ủy ban nhân dân
Thi hành pháp luật trong giải quyết khiếu nại đất đai của ủy ban nhân dân
 
Pháp luật về nhà ở xã hội từ thực tiễn thực hiện tại thành phố hà nội
Pháp luật về nhà ở xã hội từ thực tiễn thực hiện tại thành phố hà nộiPháp luật về nhà ở xã hội từ thực tiễn thực hiện tại thành phố hà nội
Pháp luật về nhà ở xã hội từ thực tiễn thực hiện tại thành phố hà nội
 
Luận văn: Pháp luật về thế chấp công trình xây dựng, HAY
Luận văn: Pháp luật về thế chấp công trình xây dựng, HAYLuận văn: Pháp luật về thế chấp công trình xây dựng, HAY
Luận văn: Pháp luật về thế chấp công trình xây dựng, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn xét xử tại ...
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn xét xử tại ...Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn xét xử tại ...
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn xét xử tại ...
 

More from Man_Ebook

More from Man_Ebook (20)

BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdf
BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdfBÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdf
BÀI GIẢNG MÔN HỌC CƠ SỞ NGÔN NGỮ, Dùng cho hệ Cao đẳng chuyên nghiệp.pdf
 
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.doc
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.docTL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.doc
TL Báo cáo Thực tập tại Nissan Đà Nẵng.doc
 
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình thực vật học 2 - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô động vật - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ hệ thống A - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình ngôn ngữ mô hình hóa UML - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình nguyên lý máy học - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mô hình hóa quyết định - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdf
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdfGiáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdf
Giáo trình Linux và phần mềm nguồn mở.pdf
 
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình logic học đại cương - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdf
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdfGiáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdf
Giáo trình lý thuyết điều khiển tự động.pdf
 
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình mạng máy tính - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdf
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdfGiáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdf
Giáo trình lý thuyết xếp hàng và ứng dụng đánh giá hệ thống.pdf
 
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdf
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdfGiáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdf
Giáo trình lập trình cho thiết bị di động.pdf
 
Giáo trình lập trình web - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình web  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình lập trình web  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình web - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình lập trình .Net - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình .Net  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình lập trình .Net  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình .Net - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình lập trình song song - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình song song  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình lập trình song song  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình lập trình song song - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 
Giáo trình lập trình hướng đối tượng.pdf
Giáo trình lập trình hướng đối tượng.pdfGiáo trình lập trình hướng đối tượng.pdf
Giáo trình lập trình hướng đối tượng.pdf
 
Giáo trình lập trình hướng đối tượng Java.pdf
Giáo trình lập trình hướng đối tượng Java.pdfGiáo trình lập trình hướng đối tượng Java.pdf
Giáo trình lập trình hướng đối tượng Java.pdf
 
Giáo trình kỹ thuật phản ứng - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình kỹ thuật phản ứng  - Trường ĐH Cần Thơ.pdfGiáo trình kỹ thuật phản ứng  - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
Giáo trình kỹ thuật phản ứng - Trường ĐH Cần Thơ.pdf
 

Bảo Vệ Quyền Tác Giả Đối Với Tác Phẩm Kiến Trúc​.pdf

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN HỒNG THÁI BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
  • 2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN HỒNG THÁI BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60380107 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Văn Hưng TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi tên là Nguyễn Hồng Thái, mã số học viên 7701261001A, là học viên lớp Cao học Luật Khóa 26 chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc” (sau đây gọi tắt là “Luận văn”). Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Lê Văn Hưng. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn khách quan và trung thực. Học viên thực hiện Nguyễn Hồng Thái
  • 4. MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TÓM TẮT LUẬN VĂN PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC ..............................................................................................................4 1.1. Tổng quan về vấn đề Quyền tác giả.....................................................................4 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm Quyền tác giả ..............................................................4 1.1.2. Chủ thể, nội dung, đối tượng của quyền tác giả................................................6 1.1.3. Hành vi xâm phạm quyền tác giả....................................................................10 1.1.4. Hợp đồng chuyển giao quyền tác giả..............................................................11 1.2. Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc ..........................................................12 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm .......................................................................................12 1.2.2. Đối tượng và phạm vi bảo hộ..........................................................................14 1.2.3. Chủ thể và nội dung quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.......................25 1.2.4. Hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.........................32 Tiểu kết chương 1......................................................................................................37 CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC: KIẾN NGHỊ VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN..................................38 2.1. Thực trạng bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc tại Việt Nam hiện nay.............................................................................................................................38 2.1.1. Thực trạng đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc........................38 2.1.2. Thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh chấp về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc - Các trường hợp tranh chấp điển hình ............................................40 2.2. Nguyên nhân ......................................................................................................50
  • 5. 2.3. Giải pháp, kiến nghị và hướng hoàn thiện .........................................................55 2.3.1. Giải pháp .........................................................................................................55 2.3.2. Hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.................58 2.3.3. Những vấn đề cần lưu ý để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc thông qua hợp đồng...................................................................................................63 Tiểu kết chương 2......................................................................................................67 KẾT LUẬN..............................................................................................................68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS Bộ Luật dân sự BLTTDS Bộ Luật tố tụng dân sự NĐ Nghị định TT Thông tư TTLT Thông tư liên tịch NQ Nghị quyết VHTTDL Văn hóa thể thao và Du lịch BXD Bộ Xây dựng SHTT Sở hữu trí tuệ QHPLDS Quan hệ pháp luật dân sự GCN Giấy chứng nhận QTG KTS Quyền tác giả Kiến trúc sư
  • 7. TÓM TẮT LUẬN VĂN Quyền tác giả là vấn đề không mới, tuy nhiên thời gian vừa qua rộ lên nhiều tranh cãi liên quan đến bản quyền. Trong lĩnh vực kiến trúc, vấn đề quyền tác giả đang được nhắc đến và ngày càng có nhiều kiến trúc sư quan tâm đến lĩnh vực của mình. Phần lớn các ý kiến đều cho rằng phải coi kiến trúc là tác phẩm để làm cơ sở cho việc bảo vệ quyền tác giả và xa hơn là giữ gìn di sản kiến trúc. Vậy làm thế nào để hiểu rõ hơn về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc qua đó hiểu được các nội dung thường xảy ra trong tranh chấp quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc, thực trạng hiện nay của việc đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc và áp dụng các biện pháp nào để bảo vệ các tác phẩm kiến trúc. Với các nội dung giới hạn mà Luận văn đề cập hy vọng rằng giải quyết phần nào các vấn đề cơ bản nói trên, luận văn được trình bày trong 02 chương, cụ thể: - Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. - Chương 2: Thực tiễn bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc tại Việt Nam - kiến nghị và hướng hoàn thiện. Từ khóa: Tác phẩm, tác giả, kiến trúc, quyền tác giả, sở hữu trí tuệ
  • 8. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, việc bảo vệ quyền tác giả nói riêng, quyền sở hữu trí tuệ nói chung đang là một vấn để ngày càng trở nên nóng bỏng. Đứng trước yêu cầu đó và thực tế phát triển kinh tế xã hội của nước ta, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (bao gồm quyền tác giả, các quyền liên quan và quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng) đang được Nhà nước ta quan tâm, đặc biệt là sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) trong đó quyền sở hữu trí tuệ là một bộ phận quan trọng trong các nội dung được đem ra đàm phán và Việt Nam ta cần phải cam kết thực hiện. Bên cạnh đó, việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và quyền tác giả đang ngày càng gia tăng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đang gây ra những hậu quả và hệ lụy xấu cho sự phát triển của đất nước. Hiện nay, tranh chấp về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc, hội họa, văn học, khoa học kỹ thuật được đề cập đến khá nhiều, tuy nhiên bên cạnh đó việc vi phạm quyền tác giả ở một số mảng sáng tạo khác có thể rất ít được đề cập đến, có thể kể ra đây chính là các tác phẩm kiến trúc. Hiện nay, pháp luật về sở hữu trí tuệ Việt Nam ghi nhận vấn đề bảo hộ quyền tác giả nói chung và quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng trong nhiều văn bản pháp lý như Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ và các Nghị định, Thông tư liên quan…, bên cạnh đó Việt Nam cũng đã rất nổ lực trong việc tham gia vào nhiều điều ước quốc tế đa phương về quyền tác giả, quyền liên quan như công ước Berne, Genever, Brussels, TRIPs… nhưng thực tiễn cho thấy việc vi phạm quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc còn khá phổ biến không ít chủ đầu tư sử dụng lại bản vẽ thiết kế cho công trình này để xây dựng nên một công trình khác, tác giả sử dụng lại bản vẽ thiết kế kiến trúc cho chủ đầu tư này để phân phối cho chủ đầu tư khác, chụp ảnh một tác phẩm kiến trúc và sử dụng ảnh chụp đó mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả; Chủ đầu tư sửa chữa, cắt xén tác phẩm kiến trúc,…
  • 9. 2 Tuy nhiên, số liệu thực tế cho thấy tranh chấp tại Tòa án và Trung tâm bảo vệ quyền tác giả chỉ đếm trên đầu ngón tay, hoặc vì một lý do nào đó mà các tranh chấp này bị đình chỉ một cách khó hiểu. Cơ chế pháp luật bảo vệ quyền tác giả chưa được hoàn thiện, cũng là nguyên nhân không nhỏ ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo vệ quyền tác giả trong lĩnh vực còn khá mới mẻ này. Cũng chính từ bối cảnh và thực tiễn đó, tác giả chọn đề tài “Bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc”, các thực trạng, nguyên nhân và giải pháp đưa ra trong đề tài vẫn mang tính chủ quan, không tránh khỏi đánh giá một chiều, không thể tránh khỏi thiếu sót. 2. Giả thiết, câu hỏi nghiên cứu Trong quá trình thực hiện bản luận văn này, tác giả đã đi tìm, sưu tầm tài liệu nhưng hầu như, rất ít. Văn phòng đại diện của Cục bản quyền tác giả tại Tp.HCM, Hội kiến trúc sư Tp.HCM, Hội kiến trúc sư Việt Nam, Tòa án nhân dân các cấp tại Tp.HCM hầu như không cung cấp được nhiều số liệu liên quan đến đề tài. Chính vì vậy, trong khuôn khổ đề tài luận văn, chỉ mong muốn làm rõ các câu hỏi sau: Thứ nhất: Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc là gì? Các nội dung thường xảy ra tranh chấp trong quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc?”. Thứ hai: Thực trạng giải quyết tranh chấp về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc?” và Giải pháp nào để tăng cường bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc?”. Luận văn đã nghiên cứu các quy định pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Trên cơ sở lý luận kết hợp với việc nghiên cứu thực tiễn xử lý của các cơ quan tài phán để đưa ra phương hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan dẫn đến sai sót trong việc cấp bản quyền về tác giả, từ đó làm cơ sở cho việc đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Luận văn cũng đề ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc và hoàn thiện quy định pháp luật tố tụng liên quan tới giải quyết tranh chấp về quyền tác giả.
  • 10. 3 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Bản luận văn này tác giả tập trung vào vấn đề bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc ở Việt Nam theo những quy định của pháp luật trong nước trong mối tương quan về nội dung pháp lý với các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết tham gia và một số văn bản pháp lý liên quan. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu tác giả lựa chọn xuất phát từ nguyên tắc chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng, và cố gắng kết hợp thêm những phương pháp của lo- gic hình thức như so sánh, tổng hợp, phân tích, loại trừ, phương pháp nghiên cứu Luật đã được học, phương pháp Roccipi… Về việc tìm tài liệu, ngoài các tài liệu được giáo viên hướng dẫn cung cấp, tác giả dựa vào một nguồn quan trọng là internet, giáo trình, sách về quyền tác giả, và một phương pháp thu thập thực tế tại các cơ quan tòa án, trung tâm trọng tài,... đây là một phương pháp mất nhiều thời gian và công sức, nhiều khi lại không có được những kết quả ưng ý về mặt pháp lý nhưng là những số liệu thực tiễn rất quý giá, một điểm nhấn của bản luận văn. Việc tác giả cố gắng sáng tạo để tìm một phương pháp tiếp cận mới - khía cạnh chuyên môn, nó có thế sẽ không được đánh giá cao về chuyên môn luật học nhưng thể hiện được một góc nhìn khác gắn với thực tiễn nghiên cứu của đề tài. 5. Ứng dụng khoa học và tính thực tiễn của đề tài Khả năng ứng dụng trong thực tiễn: Đăng ký với Sở Quy hoạch kiến trúc Tp.HCM, Đại học Kiến trúc Tp.HCM, Hội kiến trúc sư Tp.HCM thực hiện hội thảo, bàn giải pháp bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc thông qua những dữ liệu trong đề tài luận văn đã được hoàn thiện, qua đó giúp cho các KTS nói riêng và giới kiến trúc nói chung trang bị các biện pháp bảo vệ thành quả lao động sáng tạo nghệ thuật của mình.
  • 11. 4 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC 1.1. Tổng quan về vấn đề Quyền tác giả 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm Quyền tác giả Hiến pháp Việt Nam 2013, có quy định “Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó”1 . “Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ; bảo đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ”2 và “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”3 . Quyền tác giả được hiểu theo nghĩa hẹp là tác giả, chủ sở hữu, người được sử dụng tác phẩm, các chủ thể có quyền nhân thân và quyền tài sản theo quy định của pháp luật. Hiểu theo nghĩa rộng, Quyền tác giả được hiểu là một chế định pháp luật tổng hợp các quy phạm pháp luật xác nhận và bảo hộ các quyền nhân thân, quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; quy định trình tự thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi có hành vi xâm hại. Như vậy, hiểu theo cách đơn giản nhất thì quyền tác giả cho phép tác giả và chủ sở hữu Quyền tác giả được độc quyền khai thác tác phẩm chống lại việc sao chép bất hợp pháp4 . Quyền tác giả đã khuyến khích nhiều nhà văn, nghệ sĩ, nhà khoa học sáng tạo, nói như vậy không có nghĩa là phải một nhà văn, đạo diễn nổi tiếng mới có quyền tác giả. Quyền tác giả xuất hiện không phụ thuộc vào nội dung hay chất lượng của tác phẩm, Quyền tác giả phát sinh ngay khi tác phẩm ra đời mà không cần đơn yêu cầu công nhận, không phải trải qua bất kỳ thẩm định nào của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hay bất kỳ thủ tục đăng ký nào (trừ một vài ngoài lệ). Thí dụ: Bài thi của 1 Điều 40, Hiếp pháp 2013 2 Khoản 2, Điều 62, Hiến pháp 2013 3 Khoản 2 Điều 4 Luật SHTT 2005, Sửa đổi bổ dung 2009 4 Đại học Luật Tp.HCM (2016), Giáo trình Luật SHTT, NXB Hồng Đức - Hội Luật Gia Việt Nam, tr.49.
  • 12. 5 sinh viên cũng được bảo hộ quyền tác giả, cho dù kết quả thi có như thế nào đi chăng nữa. Ngoài những đặc điểm chung giống như quyền SHTT như: - Đối tượng của quyền tác giả là thành quả của lao động sáng tạo, là sản phẩm của hoạt động trí tuệ của con người. - Đối tượng của quyền tác giả là tài sản vô hình phi vật chất chỉ có thể được thể hiện và nhận biết thông qua một hình thức vật chất hữu hình nhất định. Thì quyền tác giả còn có hai đặc điểm riêng: - Thứ nhất, quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức sáng tạo, không bảo hộ nội dung sáng tạo. Không ai bảo hộ một câu nói, hay một động tác đơn giản thể hiện trong sinh hoạt hằng ngày. Cùng một nội dung như nhau có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức sáng tạo khác nhau, và mỗi hình thức thể hiện khác nhau đó đều có thể được bảo hộ quyền tác giả. Nếu hình thức thể hiện của một ý tưởng trùng với nội dung ý tưởng đó thì hình thức cũng không được bảo hộ, ví dụ câu nói đơn giản “anh yêu em”, “tôi đang ăn cơm” sẽ không được bảo hộ quyền tác giả. Quyền tác giả chỉ tập trung bảo vệ hình thức thể hiện, không bảo hộ nội dung tác phẩm. Vì thế, quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định5 , thậm chí, tác phẩm được hưởng sự bảo hộ quyền tác giả bất chấp chất lượng hay giá trị của tác phẩm, ví dụ: bức tranh của bé mẫu giáo vẽ cũng được bảo hộ quyền tác giả đầy đủ. không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký”6 . Việc đăng ký quyền tác giả không tạo nên giá trị pháp lý xác lập quyền nhưng có giá trị chứng cứ trong trường hợp xảy ra tranh chấp liên quan, nghĩa là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đã đăng ký được miễn trừ nghĩa vụ chứng minh tác phẩm đã đăng ký đó là thuộc về mình. - Thứ hai, tác phẩm được bảo hộ phải có tính nguyên gốc, tức là không sao chép, bắt chước tác phẩm khác. Sự sao chép, bắt chước ở đây chỉ giới hạn về mặt hình thức của tác phẩm, chứ không đề cập đến sự sao chép, bắt chước về ý tưởng hay nội dung của tác phẩm. Bởi vì, theo đặc điểm quyền đã nêu, quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức sáng tạo chứ không bảo hộ nội dung hay ý tưởng sáng tạo, nên việc tác giả 5 Đại học Luật Tp.HCM (2016), Giáo trình Luật SHTT, NXB Hồng Đức - Hội Luật Gia Việt Nam,tr.51. 6 Khoản 1 Điều 6 Luật SHTT 2005, sửa đổi bổ sung 2009
  • 13. 6 này ngẫu nhiên có cùng ý tưởng, sao chép, phát triển ý tưởng của tác giả khác là hành vi được phép. Từ đó, có thể khẳng định nếu tác giả có những lao động trí óc, lao động sáng tạo nhất định của riêng mình để hình thành nên tác phẩm nguyên gốc về mặt hình thức, thì tác phẩm đó vẫn được bảo hộ quyền tác giả. “Tác phẩm gốc được hiểu là bản vật thể hóa tác phẩm do chính tay tác giả làm ra hoặc các bản được tác giả cho phép và trực tiếp giám sát làm ra, cụ thể trong thể loại tác phẩm nghệ thuật tạo hình, tác phẩm gốc rất dễ bị nhầm lẫn, được hiểu nó chính là tác phẩm của nghệ thuật tạo hình. Các tòa nhà công trình kiến trúc, xây dựng là những bản vật thể hóa của tác phẩm kiến trúc, xây dựng. Khi chúng được tạo bởi những người được chính tác giả ủy quyền giám sát việc xây dựng, thì cũng được coi là tác phẩm gốc và được hưởng sự bảo hộ đặc biệt dành cho tác phẩm gốc”7 . 1.1.2. Chủ thể, nội dung, đối tượng của quyền tác giả 1.1.2.1. Chủ thể Khoản 1 Điều 13 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định: “Tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả”. Như vậy, có hai loại chủ thể tham gia vào QHPLDS về quyền tác giả là: (i) Tác giả Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học8 . Điểm mấu chốt trong việc xác định một người có phải là tác giả của một tác phẩm hay không, là ở chỗ người đó có trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm hay không. Một người chỉ được bảo hộ quyền tác giả trong phạm vi mà người đó trực tiếp sáng tạo. Do đó, vì không trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm nên những người làm công việc hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo ra tác phẩm không được công nhận là tác giả. Vấn đề trực tiếp sáng tạo trong khái niệm tác giả và khái niện nguyên gốc có liên quan đến nhau. Khi tác giả sáng tạo một tác phẩm thì đương nhiên tác phẩm được sáng tạo đó mang tính nguyên gốc, trừ khi tác giả sao chép từ một tác phẩm khác. Cho rằng việc tác giả phải trực tiếp sáng tạo không có nghĩa là tác giả không có 7 Nguyễn Vân Nam (2016), Quyền tác giả: Đường hội nhập không trải hoa hồng, NXB Trẻ, tr.79. 8 Khoản 2 Điều 8 Nghị định 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21 tháng 9 năm 2006 về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của bộ luật dân sự luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan;
  • 14. 7 quyền kế thừa sáng tạo của người khác. Pháp luật Việt Nam cũng công nhận người dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể từ những tác phẩm khác cũng được coi là tác giả. Sáng tạo hay nguyên gốc trong khái niệm về quyền tác giả không là phải mới như trong quyền sở hữu công nghiệp. Như vậy khi thấy hai tác phẩm giống nhau đừng vội xác định ngay đó là có việc sao chép hay không, biết đâu lại là ngẫu nhiên. Bên cạnh khái niệm tác giả chúng ta còn có đồng tác giả. Đó là những cùng trực tiếp sáng tạo ra một tác phẩm được công nhận là các đồng tác giả của tác phẩm đó. Dựa trên tính chất phần sáng tạo của các đồng tác giả vào tác phẩm chung, đồng tác giả được phân thành hai loại: - Thứ nhất: Các đồng tác giả cùng sáng tạo ra một tác phẩm nhưng phần sáng tạo của mỗi người không thể tách ra thành từng phần riêng biệt để sử dụng độc lập. Trường hợp này tương ứng với khái niệm sở hữu chung hợp nhất đối với quyền sở hữu thông thường. Khi quyết định bất cứ vấn đề gì liên quan đến tác phẩm cần phải có sự đồng thuận của tất cả các đồng tác giả. - Thứ hai: Các đồng tác giả cùng sáng tạo ra một tác phẩm nhưng phần sáng tạo của mỗi người có thể tách ra thành từng phần riêng biệt để sử dụng độc lập mà không làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác. Trường hợp này tương ứng với khái niệm sở hữu chung theo phần đối với quyền sở hữu thông thường. Khi quyết định các vấn đề liên quan đến tác phẩm, ví dụ chuyển nhượng hay chuyển giao quyền tác giả, nếu không đạt được sự đồng thuận của các đồng tác giả đồng thời là đồng chủ sở hữu khác thì đồng tác giả vẫn có toàn quyền quyết định đối với phần tác phẩm do mình sáng tạo ra. Mỗi người có đầy đủ các quyền tài sản, quyền nhân thân của mình đối với phần riêng biệt đó. (ii) Chủ sở hữu quyền tác giả Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản9 đối với tác phẩm như sao chép, phân phối, nhập khẩu tác phẩm, làm tác phẩm phái sinh... Hay nói cách khác, chủ sở hữu là người độc quyền sử dụng, định đoạt tác phẩm10 . 9 Điều 36 Luật SHTT 2005 10 Đại học Luật Tp.HCM (2016), Giáo trình Luật SHTT, NXB Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, tr.59.
  • 15. 8 Các căn cứ để xác định vai trò chủ sở hữu quyền tác giả: - Tác giả sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật của mình để sáng tạo ra tác phẩm thì tác giả đó cũng đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả. - Tổ chức giao nhiệm vụ sáng tạo ra tác phẩm cho tác giả là người thuộc tổ chức mình là chủ sở hữu quyền tác giả. - Tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng với tác giả sáng tạo ra tác phẩm là chủ sở hữu quyền tác giả. - Tổ chức, cá nhân được thừa kế quyền tác giả là chủ sở hữu quyền tác giả. - Tổ chức, cá nhân được chuyển giao quyền tác giả là chủ sở hữu quyền tác giả. - Nhà nước là chủ sở hữu quyền tác giả trong các trường hợp như đối với tác phẩm khuyết danh; tác phẩm còn trong thời hạn bảo hộ mà chủ sở hữu quyền tác giả chết không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận di sản hoặc không được quyền hưởng di sản; tác phẩm được chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao cho nhà nước11 . Điểm quan trọng xác định vai trò chủ sở hữu quyền tác giả, là sự đầu tư tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật…để tạo nên tác phẩm. Cũng từ đó, chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng các quyền tác giả có liên quan đến tài sản để thu lại những lợi ích vật chất tương ứng với sự đầu tư đã bỏ ra trước đó. Việc phân biệt giữa tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả rất quan trọng, vì chủ sở hữu quyền tác giả mới là người có quyền sử dụng, định đoạt tác phẩm, xét về gốc độ kinh tế thì vai trò của chủ sở hữu quyền tác giả quan trọng hơn vai trò tác giả, vì khi sử dụng hay trình diện tác phẩm các chủ thề khác phải xin phép hoặc trả thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả. 1.1.2.2. Nội dung Quyền tác giả đối với tác phẩm bao gồm quyền nhân thân (Điều 19 Luật SHTT 2005) và quyền tài sản (Điều 20 Luật SHTT 2005). (i) Quyền nhân thân Là quyền đặt tên cho tác phẩm; đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; công bố tác 11 Điều 37,39,40,41,42 Luật SHTT 2005 và Luật sửa đổi bổ sung 2009,
  • 16. 9 phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc sản phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả12 . (ii) Quyền tài sản Là quyền làm tác phẩm phái sinh; biểu diễn tác phẩm trước công chúng; sao chép tác phẩm; phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bảo sao tác phẩm; truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm13 . Tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả có toàn bộ các quyền nhân thân, quyền tài sản như liệt kê trên đây. Trường hợp tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả, các quyền nhân thân phi tài sản gồm quyền đặt tên cho tác phẩm, đứng tên trên tác phẩm và bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm là thuộc về tác giả, còn các quyền tài sản và quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm hay còn gọi là quyền nhân thân gắn với tài sản thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả. Các quyền nhân thân phi tài sản được bảo hộ vô thời hạn, còn các quyền tài sản và quyền nhân thân gắn liền với tài sản được bảo hộ suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo kể từ ngày tác giả hoặc đồng tác giả cuối cùng chết. Riêng đối với các tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh thì thời hạn bảo hộ quyền tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản là 50 năm kể từ ngày tác phẩm được công bố lần đầu tiên. Sự quy định thời hạn bảo hộ như trên là nhằm dung hòa lợi ích giữa một bên là các chủ thể quyền tác giả và bên kia là cộng đồng xã hội nói chung. Bảo hộ quyền tác giả nhằm đảm bảo lợi ích hợp pháp của các chủ thể quyền tác giả, kích thích sự sáng tạo nhằm tạo ra ngày càng nhiều giá trị tinh thần đóng góp cho xã hội. Tuy nhiên nếu bảo hộ vô thời hạn hoặc thời hạn bảo hộ quá dài thì sẽ ngăn cản những người còn lại trong xã hội tiếp cận, sử dụng, khai thác…các tác phẩm đó, làm cho mục đích tạo ra nhiều giá trị tinh thần đóng góp cho xã hội vì thế không thể thực hiện được. Vì vậy, pháp luật quy định một thời hạn hợp lý để các chủ thể quyền tác giả khai thác lợi ích từ lao động sáng tạo của chính mình, hết thời hạn đó, tác phẩm thuộc về công chúng. 12 Điều 19 Luật SHTT 2005 13 Điều 20 Luật SHTT 2005
  • 17. 10 1.1.2.3. Đối tượng Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả theo Luật SHTT 2005 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ 2009 quy định tại Điều 14 và được hướng dẫn rõ thêm tại Nghị định 100/2006/NĐ-CP và số 85/2011/NĐ-CP, cụ thể như sau: “Điều 14. Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả 1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm: a)……………….;… i) Tác phẩm kiến trúc; …………………….”14 . Ngoài ra, còn quy định các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả gồm tin tức thời sự thuần túy đưa tin; văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó; quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, nguyên lý, số liệu15 ... Bởi vì hoặc chúng không phải là thành quả của lao động sáng tạo hoặc chúng là những thông tin cơ bản cần thiết mà bất cứ cá nhân, tổ chức nào trong xã hội cũng có quyền tiếp cận, nếu bảo hộ quyền tác giả cho những đối tượng này sẽ gây phương hại đến quyền được thông tin của những người khác trong xã hội, không đảm bảo được sự dung hòa lợi ích giữa các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả với cộng đồng xã hội nói chung. 1.1.3. Hành vi xâm phạm quyền tác giả Các hành vi sử dụng tác phẩm nhằm mục đích kinh doanh mà không có sự đồng ý của chủ thể quyền tác giả, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Các hành vi này còn gọi là hành vi ăn cắp bản quyền hay sao chép lậu16 , Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 liệt kê đầy đủ các hành vi xâm phạm quyền tác giả, là các hành vi vi phạm một trong các quyền nhân thân không gắn với tài sản, quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Tuy nhiên, trên thực tế việc liệt kê hành vi xâm phạm quyền tác giả vẫn chưa 14 Điều 14 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009; 15 Điều 15 Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009; 16 Đại học Luật Tp.HCM (2016), Giáo trình Luật SHTT, NXB Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, tr.32.
  • 18. 11 phải là phương pháp tối ưu nhất xét về khía cạnh lập pháp thì việc liệt kê 16 hành vi tại Điều 28 Luật SHTT không thể bao quát hết các hành vi xâm phạm quyền tác giả, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay. Ngoài ra, vẫn có các trường hợp ngoại lệ: cũng như tất cả mọi lĩnh vực khác trong đời sống xã hội, việc bảo hộ quyền tác giả cũng có một số trường hợp ngoại lệ tuy có hành vi sử dụng không xin phép, không trả thù lao đối với tác phẩm đã công bố của người khác vẫn không bị coi là vi phạm, như “Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học của cá nhân; Tự sao chép một bản nhằm mục đích giảng dạy, trừ trường hợp cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đã được công bố để giảng dạy; Trích dẫn hợp lý nhằm mục đích cung cấp thông tin; Tổ chức phát sóng tự làm bản sao tạm thời để phát sóng khi được hưởng quyền phát sóng”17 . Các ngoại lệ này còn được gọi là hành vi sử dụng hạn chế, là một giới hạn quan trọng của quyền tác giả, theo đó mọi người đều được sử dụng một tác phẩm mà không phải xin phép chủ thể quyền nếu việc sử dụng nói trên đáp ứng các điều kiện nhất định. Cụ thể, các điều kiện cần và đủ để các hành vi sử dụng không xin phép, không trả thù lao nói trên không bị coi là xâm phạm quyền tác giả: Tác phẩm được sử dụng phải là tác phẩm đã công bố; - Việc sử dụng tác phẩm như trên không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; và - Khi sử dụng phải thông tin về tên tác giả, nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. 1.1.4. Hợp đồng chuyển giao quyền tác giả 1.1.4.1. Hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả Loại hợp đồng này được hiểu là việc chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao quyền sở hữu đối với các quyền công bố tác phẩm và quyền tài sản của mình theo hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật có liên quan. Đối với chủ sở hữu quyền tác giả không đồng thời là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả chuyển nhượng toàn bộ các quyền mà mình có được đối với tác phẩm, cụ thể là quyền công bố tác phẩm và quyền tài sản. Không được chuyển nhượng các quyền 17 Điều 32, Luật SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009
  • 19. 12 nhân thn khác không phải là quyền công bố tác phẩm như quyền đặt tên tác phẩm, đứng tên trên tác phẩm và bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, vì những quyền này thuộc về tác giả chứ không thuộc về chủ sở hữu tác phẩm. Đối với chủ sở hữu đồng thời là tác giả, các quyền đặt tên tác phẩm, đứng tên trên tác phẩm và bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm cũng không được chuyển giao vì đó là những quyền nhân thân phi tài sản, không gắn cũng như không mang lại bất kỳ một giá trị thương mại nào mà chỉ gắn với giá trị tinh thần của chính người sáng tạo ra tác phẩm bằng lao động trí óc của mình. Do đó, những quyền này phải luôn được gắn với chính người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm mà không thể chuyển giao cho người khác. 1.1.4.2. Hợp đồng chuyển quyền sử dụng quyền tác giả Trong trường hợp này chủ sở hữu không chuyển giao toàn bộ quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm của mình cho người khácâ, mà chỉ cho phép người khác sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm của mình. Tất nhiên, vì những lý do đã phân tích ở trên, các quyền nhân thân phi tài sản cũng không thể chuyển quyền sử dụng cho người khác. Khác với chuyển giao quyền tác giả, sau khi chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, người chuyển giao vẫn là chủ sở hữu quyền tác giả, người nhận chuyển giao chỉ là người sử dụng hợp pháp chứ không có tư cách chủ sở hữu. Hợp đồng ghi nhận thỏa thuận giữa các bên về việc chuyển quyền sử dụng quyền tác giả được gọi là hợp đồng chuyển quyền sử dụng quyền tác giả hay hợp đồng sử dụng tác phẩm và phải được lập thành văn bản. Ngoài các điều khoản cơ bản, trong hợp đồng sử dụng tác phẩm các bên có thể thỏa thuận rằng chủ sở hữu quyền tác giả chỉ được chuyển quyền sử dụng cho một người sử dụng độc quyền hay có thể chuyển cho nhiều người khác nhau, và người sử dụng có thể chuyển giao lại quyền sử dụng cho bên thứ ba hay không. 1.2. Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm Từ khái niệm chung về quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu, quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc được hiểu là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm kiến trúc do sáng tạo ra hoặc sở
  • 20. 13 hữu. Là một dạng của quyền tác giả nói chung, quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc cũng có hai đặc điểm: - Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc chỉ bảo hộ hình thức sáng tạo, không bảo hộ nội dung, ý tưởng sáng tạo; - Tác phẩm kiến trúc được bảo hộ là tác phẩm có tính nguyên gốc, do chính tác giả sáng tạo ra, không bắt chước hay sao chép của người khác. Mối quan hệ giữa quyền tác giả nói chung và quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng là mối quan hệ biện chứng giữa hai cặp phạm trù cái chung và cái riêng. Cái chung là cái sâu sắc, bản chất hơn cái riêng vì nó phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ bên trong, tất nhiên, ổn định, phổ biến tồn tại trong các cái riêng cùng loại. Ngược lại cái riêng phong phú hơn cái chung bởi vì ngoài những đặc điểm gia nhập vào cái chung, cái riêng còn có những đặc điểm riêng biệt mà chỉ riêng nó có. Do đó bất cứ cái chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được cá biệt hóa. Từ mối quan hệ cái chung - cái riêng trên đây ta thấy quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc ngoài những đặc điểm chung của quyền tác giả, còn có những điểm riêng biệt mà chỉ riêng nó mới có. Những điểm riêng biệt này xuất phát từ những điểm khác biệt về bản chất của đối tượng bảo hộ là tác phẩm kiến trúc so với các tác phẩm thông thường khác. Từ đó, khi áp dụng quyền tác giả với tư cách là cái chung vào trường hợp riêng là đối với tác phẩm kiến trúc, thì quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc cũng cần phải được cá biệt hóa để phù hợp với đối tượng mà nó áp dụng. Luận văn này tập trung nghiên cứu về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc như một cách thức góp phần giúp cho quá trình cá biệt hóa quyền tác giả vào trường hợp riêng đối với tác phẩm kiến trúc được diễn ra đúng đắn và hiệu quả, phù hợp với các quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội. Trong việc nghiên cứu quá trình cá biệt hóa này, điểm mấu chốt được tập trung phân tích khái niệm và bản chất của tác phẩm kiến trúc với tư cách là đối tượng của quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc, từ những điểm khác biệt về khái niệm và bản chất của tác phẩm kiến trúc sẽ dẫn đến những yêu cầu, đặc điểm khác biệt của quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.
  • 21. 14 1.2.2. Đối tượng và phạm vi bảo hộ 1.2.2.1. Tác phẩm kiến trúc hiểu theo chuyên môn về kiến trúc Kiến trúc là khoa học và nghệ thuật xây dựng công trình, trang hoàng nhà cửa và tổ chức không gian sống. Kiến trúc được xem như là một lĩnh vực hoạt động sáng tạo chủ yếu của con người từ khi có xã hội loài người, nhằm cải tạo hoặc kiến tạo mới môi trường sống phục vụ các quá trình sống của con người và xã hội. Kiến trúc là một lĩnh vực hoạt động sáng tạo đặc biệt và khá phức tạp của con người, nó bao hàm nhiều khái niệm: nghệ thuật, kỹ thuật, xã hội, kinh tế… và luôn vận động biến đổi theo thời đại18 Từ điển tiếng Việt định nghĩa “kiến trúc” như sau: “1. Xây dựng các công trình, thường là nhà cửa, theo những kiểu mẫu mang tính chất nghệ thuật. 2. Kiểu mẫu, thiết kế, trang trí nhà cửa”19 . Đây rõ ràng là một khái niệm cụ thể, thông thường như cách những người bình thường hiểu về kiến trúc. Từ điển mở Wikipedia định nghĩa về kiến trúc như sau: “Kiến trúc là một ngành nghệ thuật và khoa học về sắp xếp không gian, thiết kế các công trình kiến trúc, rộng hơn có thể bao gồm việc thiết kế môi trường xây dựng tổng thể, từ vĩ mô như quy hoạch đô thị, thiết kế đô thị và kiến trúc cảnh quan, kiến trúc công trình, đến vi mô như thiết kế nội thất, thiết kế sản phẩm hay tạo dáng công nghiệp”20 . Trong lĩnh vực chuyên môn về kiến trúc, kiến trúc thường được hiểu là nghệ thuật và khoa học thiết kế, xây dựng các công trình và các tổ hợp công trình theo những tiêu chuẩn thẩm mỹ và chức năng. Kiến trúc có khi còn được hiểu là công trình được xây dựng lên sau khi đã nghiên cứu thiết kế và xây dựng. Tác phẩm kiến trúc không chỉ là những công trình riêng lẻ mà còn có thể là một tập hợp nhiều công trình phối hợp với nhau và với môi trường xung quanh tạo nên một tổ hợp, một tổng thể như một đường phố, một khu nhà, một thị trấn, một thị xã hay một thành phố. Như vậy, tổng hợp các ý kiến trên, ta thấy: - Kiến trúc là một ngành nghệ thuật và khoa học về thiết kế gắn liền với xây dựng, có hai chức năng là tính thẩm mỹ và tính công năng. - Theo nghĩa hẹp, kiến trúc là thiết kế hình dáng bên ngoài và bố trí sắp xếp 18 KTS Nguyễn Hữu Trí (2009), Giáo trình Kiến trúc nhập môn, NXB, tr.19 19 Nguyễn Như Ý (2012), Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, 20 https://vi.wikipedia.org/wiki/Kiến_trúc
  • 22. 15 không gian chức năng bên trong công trình (thiết kế công trình). - Theo nghĩa rộng, thiết kế kiến trúc còn bao gồm cả thiết kế ở tầm vĩ mô (thiết kế quy hoạch) hay ở tầm vi mô (thiết kế nội thất). (i) Tác phẩm kiến trúc dưới dạng thiết kế quy hoạch Quy hoạch là công việc tổ chức không gian kiến trúc và bố trí các công trình trên một khu vực lãnh thổ trong từng thời kỳ, làm cơ sở pháp lý cho việc chuẩn bị đầu tư xây dựng, quản lý xây dựng và phát triển kinh tế xã hội. Thiết kế quy hoạch được phân loại dựa trên tính chất của khu vực lãnh thổ được quy hoạch, bao gồm thiết kế quy hoạch đô thị và thiết kế quy hoạch khu dân cư nông thôn. Ngoài ra, trong lĩnh vực thiết kế kiến trúc ở tầm vĩ mô còn có một phân ngành khá mới mẻ liên quan đến quy hoạch đô thị, đó là thiết kế đô thị. (ii) Tác phẩm kiến trúc dưới dạng thiết kế công trình Các công trình kiến trúc nhìn chung được chia thành 3 loại: công trình dân dụng, công trình công nghiệp và công trình công cộng. - Kiến trúc công trình dân dụng là xây dựng các loại nhà ở cho các cá nhân, phục vụ các chức năng nảy sinh từ những yêu cầu cụ thể của con người: nhà ở riêng biệt, nhà ở tập thể, ký túc xá, nhà chung cư, khách sạn, … - Kiến trúc công trình công nghiệp là xây dựng nhà, công trình kỹ thuật, các quần thể kiến trúc (xí nghiệp công nghiệp, khu, cụm công nghiệp), các đối tượng liên quan đến dây chuyền phục vụ và hỗ trợ cho sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp. Các công trình công nghiệp bao gồm nhà máy, xưởng sản xuất, công trình phụ trợ, nhà kho, công trình kỹ thuật phụ thuộc… - Kiến trúc công trình công cộng: là xây dựng những công trình hay tổ hợp công trình để đáp ứng, thỏa mãn mọi nhu cầu của hoạt động vật chất, tinh thần của các loại thành viên trong xã hội, như: công trình trụ sở; công trình giáo dục; công trình văn hóa xã hội; công trình giao thông; công trình thương mại; công trình du lịch; công trình thể dục thể thao; công trình chăm sóc sức khoẻ; (iii) Tác phẩm kiến trúc dưới dạng thiết kế nội thất Nội thất là nghệ thuật xử lý không gian bên trong ngôi nhà. Nó là phần hồn trong kiến trúc, nó tôn bật dáng vẻ của kiến trúc. Thiết kế nội thất bao gồm quy hoạch,
  • 23. 16 bố trí và thiết kế các không gian bên trong của công trình. Mục đích của thiết kế nội thất là sự hoàn thiện các chức năng, làm phong phú tính thẩm mỹ và nâng cao tâm lý đối với không gian bên trong. 1.2.2.2. Tác phẩm kiến trúc theo quy định của Điều ước quốc tế và Luật về quyền tác giả của một số quốc gia khác trên thế giới. (i) Công ước Berne Công ước Berne ngày 24/7/1971 (Đạo luật Paris, ngày 24 tháng 07 năm 1971 sửa đổi ngày 28 tháng 09 năm 1979) về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật mà Việt Nam là thành viên chính thức từ ngày 26/10/2004 mặc dù không định nghĩa trực tiếp thế nào là tác phẩm kiến trúc. Tuy nhiên qua các quy định khác nhau của công ước, ta có thể nhận thấy những loại hình được Công ước Berne thừa nhận như là một tác phẩm kiến trúc. Công ước Berne 1971 quy định: “Thuật ngữ các tác phẩm văn học và nghệ thuật bao gồm tất cả các sản phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật, bất kỳ được biểu hiện theo phương thức hoặc dưới hình thức nào, chẳng hạn như sách, tập in nhỏ và các bản viết khác, các bài giảng, bài phát biểu, bài thuyết giáo và các tác phẩm cùng loại; các tác phẩm kịch hay nhạc kịch, các tác phẩm hoạt cảnh và kịch câm, các bản nhạc có lời hay không lời, các tác phẩm điện ảnh và các tác phẩm được diễn tả bằng một kỹ thuật tương tự với điện ảnh, các tác phẩm đồ họa, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, chạm trổ, in thạch bản; các tác phẩm nhiếp ảnh và các tác phẩm được diễn tả bằng một kỹ thuật tương tự như nhiếp ảnh; các tác phẩm nghệ thuật ứng dụng, minh họa, địa đồ, đồ án, bản phác họa và các tác phẩm tạo hình liên quan đến địa lý, địa hình, kiến trúc hay khoa học”21 . Các quy định khác của Công ước Berne có liên quan đến tác phẩm kiến trúc như: "Tác phẩm đã công bố" là những tác phẩm đã được phát hành với sự đồng ý của tác giả, không phân biệt phương pháp cấu tạo các bản sao, miễn là các bản đó đáp ứng nhu cầu hợp lý của công chúng, tuỳ theo bản chất của tác phẩm. Không được coi là công bố: trình diễn một tác phẩm sân khấu, nhạc kịch hay hoà tấu, trình chiếu tác phẩm điện ảnh, đọc trước công chúng một tác phẩm văn học, phát thanh hay truyền hình một tác phẩm văn học hay nghệ thuật, triển lãm một tác phẩm nghệ thuật 21 Điều 2.1 Công ước Berne 1971
  • 24. 17 hay xây dựng một tác phẩm kiến trúc.22 ; “Được Công ước này bảo hộ mặc dù không đáp ứng được những điều kiện: Các tác giả của tác phẩm kiến trúc được xây dựng tại một nước thuộc Liên hiệp hoặc những tác phẩm tạo hình gắn liền với một tòa nhà được xây dựng tại một nước thuộc Liên hiệp”23 ; “Nếu là một tác phẩm kiến trúc được dựng lên tại một nước thuộc Liên hiệp hay những tác phẩm hội họa hoặc tạo hình gắn liền với một tòa nhà hoặc cấu trúc đặt tại một nước thuộc Liên hiệp thì nước này sẽ là nước gốc của tác phẩm”24 . Như vậy, bằng những quy định này, Công ước Berne mặc nhiên thừa nhận tác phẩm kiến trúc có thể được thể hiện dưới dạng công trình xây dựng trên thực tế. Hơn thế nữa, giả sử tác phẩm kiến trúc được sáng tạo thông qua các bản vẽ tại một nước khác, các bản vẽ lần đầu tiên được công bố tại một nước khác, tác giả và chủ sở hữu lại mang các quốc tịch khác, thì quốc gia mà tại đó công trình kiến trúc được xây dựng mới là quốc gia gốc của tác phẩm kiến trúc. Như vậy, trong mối liên quan giữa các hình thức thể hiện khác nhau của tác phẩm kiến trúc như bản vẽ, công trình xây dựng… thì công trình xây dựng vẫn chiếm ưu thế hơn. Bên cạnh đó, các quy định này của công ước Berne cũng giúp làm rõ khái niệm nên tác phẩm tạo hình liên quan đến kiến trúc có thể được hiểu là tác phẩm tạo hình gắn liền với một tòa nhà, ví dụ: bức tượng nữ thần công lý (tác phẩm tạo hình) trên mái nhà của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (tác phẩm kiến trúc). Như vậy, Công ước Berne thừa nhận rằng tác phẩm kiến trúc có thể được biểu hiện bất kỳ theo phương thức hoặc dưới hình thức nào, không loại trừ hình thức thể hiện của tác phẩm kiến trúc là một công trình được xây dựng trên thực tế. (ii) Luật Quyền tác giả của Hoa Kỳ Luật quyền tác giả của Hoa kỳ ra đời rất sớm từ những nam 1790, sau nhiều lần sửa đổi bổ sung vào năm 1909 và sau này được thay thế bởi Luật quyền tác giả năm 1976. Sau khi gia nhập công ước Berne, Luật về quyền tác giả của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã có chỉnh sửa cho phù hợp trong đó định nghĩa rất cụ thể và chi tiết về tác phẩm kiến trúc như sau: “Tác phẩm kiến là thiết kế của một tòa nhà được thể 22 Điều 3.3 Công ước Berne 1971 23 Điểm b, Điều 4 Công ước Berne 1971 24 Điểm ii.c khoản 4 Điểu 5 Công ước Berne 1971
  • 25. 18 hiện dưới mọi hình thức trung gian hữu hình, bao gồm tòa nhà, sơ đồ kiến trúc hay bản vẽ. Tác phẩm kiến trúc bao gồm toàn bộ hình dáng cũng như là sự sắp xếp và sự cấu thành của không gian và các yếu tố trong thiết kế, nhưng không bao gồm đặc điểm tiêu chuẩn cá nhân”25 . Luật về Quyền tác giả của Hoa Kỳ không chỉ xác định được ngoại diên của khái niệm tác phẩm kiến trúc thông qua việc liệt kê các loại hình thức thể hiện của tác phẩm kiến trúc được bảo hộ (tòa nhà, sơ đồ kiến trúc hay bản vẽ) mà còn nêu rõ nội hàm của khái niệm tác phẩm kiến trúc (toàn bộ hình dáng cũng như là sự sắp xếp và sự cấu thành của không gian và các yếu tố trong thiết kế). Điều này tạo nên sự dễ dàng, thuận lợi trong việc đánh giá, xác định một cách toàn diện một đối tượng có được xem là tác phẩm kiến trúc hay hình thức thể hiện của tác phẩm kiến trúc hay không. Ngoài ra, còn quy định cụ thể về phạm vi quyền độc quyền đối với tác phẩm kiến trúc: Quyền tác giả đối với một tác phẩm kiến trúc mà đã được xây dựng không bao gồm quyền ngăn cấm việc tạo ra, phân phối, trình bầy tranh, hoạ, ảnh, hoặc các trình bầy khác của tác phẩm, nếu công trình mà trên đó biểu hiện tác phẩm được đặt trong, hoặc trong tầm nhìn từ, một nơi công cộng; Sửa đổi và dỡ bỏ công trình xây dựng: Không trái với các quy định của Điều 106(2), chủ sở hữu công trình thể hiện một tác phẩm kiến trúc có thể, không cần sự cho phép của tác giả hoặc chủ chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm kiến trúc đó, thực hiện hoặc cho phép thực hiện sự sửa đổi đối với công trình này, và dỡ bỏ hoặc cho phép phá hủy công trình này26 . (iii) Luật Quyền tác giả của Nhật Bản Luật Quyền tác giả của Nhật Bản (Luật số 48 ngày 06/05/1970) không định nghĩa trực tiếp thế nào là tác phẩm kiến trúc, nhưng có đề cập như sau: “Tác phẩm được cho là đã công bố nếu được phát hành hoặc diễn kịch, trình tấu, trình chiếu, truyền tải đến công chúng, kể chuyện hoặc trưng bày cho công chúng xem (bao gồm trường hợp tác phẩm kiến trúc được xây dựng bởi chủ sở hữu quyền tác giả hoặc người được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép”27 . Ngoài ra Luật cũng quy định rõ rằng: “Tác giả có quyền bảo vệ sự toàn vẹn 25 Điều 101 Luật quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 26 Điều 120 Luật quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 27 Điều 4 Luật Quyền tác giả Nhật Bản
  • 26. 19 của tác phẩm và tên của tác phẩm chống lại mọi sự xuyên tạc, cắt xén và sửa chữa khác chống lại anh ta, ngoại trừ các trường hợp sửa chữa sau: Sửa chữa tác phẩm kiến trúc bằng cách mở rộng ra, xây dựng lại, sửa chữa lại, tu sửa lại”28 . Và để nói về khai thác tác phẩm nghệ thuật công khai “Có thể khai thác tác phẩm nghệ thuật có nguyên bản được đặt thường xuyên ngoài trời theo qui định tại khoản 2 điều trên hoặc tác phẩm kiến trúc bằng bất cứ phương pháp nào, ngoại trừ các trường hợp sau đây: Nhân bản tác phẩm điêu khắc, hoặc cung cấp đến công chúng bằng cách chuyển; quyền sở hữu bản sao đó; Mô phỏng phục chế một tác phẩm kiến trúc, hoặc cung cấp đến công chúng bằng cách chuyển quyền sở hữu bản sao đó; Sao chép để trưng bày thường xuyên ngoài trời theo qui định tại khoản 2 điều trên; Sao chép chuyên dành cho mục đích bán bản sao tác phẩm nghệ thuật hoặc bán bản sao đó”29 . Có thể hiểu rằng, tuy không trực tiếp quy định thế nào là tác phẩm kiến trúc, nhưng thông qua các quy định khác, Luật Quyền tác giả của Nhật Bản cũng gián tiếp thừa nhận tác phẩm kiến trúc có thể là những công trình xây dựng trên thực tế. Tóm lại, về cơ bản, pháp luật của một số quốc gia trên thế giới đều có sự thống nhất với nhau, cũng như sự phù hợp với quy định của Công ước Berne về khái niệm tác phẩm kiến trúc. 1.2.2.3. Tác phẩm kiến trúc theo quy định của pháp luật Việt Nam (i) Tác phẩm kiến trúc theo quy định của pháp luật hiện hành “Tác phẩm kiến trúc là các bản vẽ dưới bất kỳ hình thức nào thể hiện ý tưởng sáng tạo về ngôi nhà, công trình xây dựng, quy hoạch không gian (quy hoạch xây dựng) đã hoặc chưa xây dựng. Tác phẩm kiến trúc bao gồm các bản vẽ thiết kế về mặt bằng, mặt đứng, mặt cắt, phối cảnh, thể hiện ý tưởng sáng tạo về ngôi nhà, công trình, tổ hợp công trình kiến trúc, tổ chức không gian, kiến trúc cảnh quan của một vùng, một đô thị, hệ thống đô thị, khu chức năng đô thị, khu dân cư nông thôn. Mô hình, sa bàn về ngôi nhà, công trình xây dựng hoặc quy hoạch không gian được coi là tác phẩm kiến trúc độc lập”30 . Có thể thấy, khái niệm này không nêu rõ được nội hàm của khái niệm tác phẩm 28 Khoản 2 Điều 20 Luật quyền tác giả Nhật Bản 29 Điều 46 Luật Quyền tác giả Nhật Bản 30 Điều 17, Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21/09/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan
  • 27. 20 kiến trúc, tức không định nghĩa rõ ràng được tác phẩm kiến trúc là gì, bản chất của nó như thế nào, mà chỉ dùng phương pháp liệt kê để liệt kê các loại tác phẩm kiến trúc. Như vậy, pháp luật Việt Nam rõ ràng không công nhận các công trình xây dựng trên thực tế là một loại hình tác phẩm kiến trúc. Bản vẽ quy hoạch đô thị được xem như một tác phẩm kiến trúc, còn bản vẽ thiết kế nội thất thì không được công nhận nhưng cũng không bị loại trừ một cách rõ ràng. Các bản vẽ kỹ thuật cũng không được xem như một tác phẩm kiến trúc, mà chỉ có các bản vẽ kiến trúc thể hiện mặt bằng, mặt đứng, mặt cắt, phối cảnh. Cách định nghĩa “tác phẩm kiến trúc là các bản vẽ…” thể hiện sự nhầm lẫn giữa một đối tượng với các hình thức thể hiện của đối tượng đó. Như đã phân tích, bản thân đối tượng của quyền tác giả là tài sản vô hình phi vật chất không thể được nhận biết trực tiếp mà chỉ có thể được thể hiện và nhận biết thông qua một hình thức vật chất hữu hình nhất định. Tác phẩm kiến trúc là một tài sản vô hình phi vật chất. Nó chỉ có thể được thể hiện và nhận biết thông qua một hình thức vật chất hữu hình nhất định nào đó. Hình thức vật chất hữu hình đó có thể là các bản vẽ thiết kế, hoặc cũng có thể là công trình xây dựng trên thực tế như quy định của một số nước. Việc quy định “tác phẩm kiến trúc là các bản vẽ…” chính là sự đánh đồng tác phẩm kiến trúc vô hình vào hình thức thể hiện hữu hình của nó. Hai vấn đề này là hoàn toàn khác nhau về bản chất. So sánh với trường hợp tác phẩm tạo hình, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, hai loại hình tác phẩm trên đây đều có thể được bảo hộ dưới dạng hình phẳng hai chiều (tác phẩm hội họa, đồ họa…) hoặc hình khối ba chiều (tác phẩm điêu khắc, tác phẩm mỹ thuật ứng là các đồ vật…). Điều đó có nghĩa là các tác phẩm trong không gian ba chiều không bị ngăn cấm bảo hộ quyền tác giả. Ngoài ra, xét về quá trình hình thành nên tác phẩm, tác phẩm điêu khắc có thể do tác giả sáng tạo tự tay thực hiện từ đầu đến cuối, nhưng đa số các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng đều có thể không phải do tác giả sáng tạo tự tay thực hiện từ đầu đến cuối mà thông qua các đơn vị trung gian thực hiện lại trên cơ sở thiết kế sáng tạo của tác giả. Việc xây dựng một công trình trên thực tế cũng tương tự như vậy, có thể không do tác giả trực tiếp thực hiện mà thông qua các đơn vị thi công thực hiện theo đúng như thiết kế ban đầu của tác giả. Như vậy, nếu các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng trong không gian ba chiều được bảo hộ quyền tác giả thì một công trình kiến trúc đã xây dựng trên thực tế không có lý do gì để không thể được bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.
  • 28. 21 Khác với kiểu dáng công nghiệp, quyền tác giả bảo hộ hình thức chứ không bảo hộ nội dung sáng tạo, cái gì thuộc về nghệ thuật đều có thể được bảo hộ dưới dạng quyền tác giả, do đó phần ứng dụng nhiều hơn phần mỹ thuật thì khả năng bảo hộ quyền tác giả càng thấp. Quy định như hiện nay của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch về tác phẩm kiến trúc chỉ là bản vẽ chứ không phải tòa nhà là chưa đúng với quy định của Công ước Berne, sau khi gia nhập công ước Berne, Hoa kỳ đã phải sửa định nghĩa về tác phẩm kiến trúc trong Luật về quyền tác giả tác phẩm kiến trúc tại Điều 102 (a) “Tác phẩm kiến trúc là thiết kế của một tòa nhà được thể hiện dưới mọi hình thức trung gian hữu hình, bao gồm tòa nhà, sơ đồ kiến trúc hay bản vẽ. (ii) Tác phẩm kiến trúc theo các quy định trước đây Trước đây khi chưa ban hành Luật Sở hữu trí tuệ 2005, vấn đề quyền tác giả được quy định tại BLDS 1995 và Nghị định số 76/NĐ-CP ngày 29/11/1996 về việc hướng dẫn thi hành một số quy định về quyền tác giả trong Bộ luật Dân sự 1995. Sau đó, cụ thể hơn Bộ VHTT và BXD đã phối hợp ban hành thông tư liên tịch số 04/2003/TTLT/BVHTT- BXD ngày 24/01/2003 (vẫn còn hiệu lực) hướng dẫn về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc, trong đó nêu rõ “Tác phẩm kiến trúc là các bản vẽ thiết kế thể hiện ý tưởng sáng tạo về ngôi nhà, công trình xây dựng, quy hoạch không gian (quy hoạch xây dựng) đã hoặc chưa xây dựng. Tác phẩm kiến trúc bao gồm các bản vẽ thiết kế về mặt bằng, mặt đứng, mặt cắt, phối cảnh, thể hiện ý tưởng sáng tạo về ngôi nhà, công trình, tổ hợp công trình kiến trúc, tổ chức không gian, kiến trúc cảnh quan của một vùng, một đô thị, hệ thống đô thị, khu chức năng đô thị, khu dân cư nông thôn. Mô hình, sa bàn và bản thuyết minh (nếu có) về ngôi nhà cụ thể, công trình xây dựng hoặc quy hoạch không gian được coi là bộ phận không tách rời của tác phẩm kiến trúc, nhưng không thay thế bản vẽ thiết kế được coi là tác phẩm kiến trúc độc lập”31 . Về cơ bản, khái niệm tác phẩm kiến trúc tại Nghị định 100/2006/NĐ-CP chính là sự kế thừa khái niệm tác phẩm kiến trúc tại TTLT này, chỉ có một điểm khác biệt duy nhất là TTLT không coi mô hình, sa bàn là tác phẩm kiến trúc độc lập, còn Nghị định 100/2006/NĐ-CP thì có quy định32 . Thực tế, nội hàm của khái niệm tác phẩm kiến trúc đã được thể hiện khá rõ tại Thông tư liên tịch số 1314 TTLB/XD-VH ngày 23/07/1991 của Bộ Xây dựng và Bộ 31 Khoản 1 Mục I Thông tư liên tịch số 04/2003/TTLT/BVHTT- BXD ngày 24/01/2003 hướng dẫn về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc 32 Điều 17 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21/09/2006 về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan
  • 29. 22 văn hóa - thông tin - thể thao và du lịch, mà đến nay vẫn còn hiệu lực: “Tác phẩm kiến trúc được hiểu là một sáng tạo nghệ thuật trong lĩnh vực xây dựng, bao gồm: - Tài liệu thiết kế: Sơ đồ tổng mặt bằng quy hoạch của đô thị (hay khu chức năng đô thị) và điểm dân cư nông thôn; bản thiết kế sơ bộ ở giai đoạn luận chứng kinh tế kỹ thuật (hay báo cáo kinh tế kỹ thuật), và thiết kế kỹ thuật; thiết kế điển hình của công trình; các phương án dự thi về quy hoạch hay công trình; - Các công trình, ngôi nhà đã được xây dựng”33 . Đây rõ ràng là một định nghĩa sáng sủa, logic, đầy đủ nội hàm và ngoại diên của khái niệm tác phẩm kiến trúc. Cụ thể, về nội hàm, tác phẩm kiến trúc là một sáng tạo nghệ thuật trong lĩnh vực xây dựng. Về ngoại diên, tác phẩm kiến trúc bao gồm (i) tài liệu thiết kế và (ii) các công trình, ngôi nhà đã được xây dựng. Việc công nhận ngôi nhà, công trình đã được xây dựng là một loại hình của tác phẩm kiến trúc về cơ bản cũng là phù hợp với quy định của điều ước quốc tế và pháp luật các nước. Đối với tài liệu thiết kế, ngoài thiết kế kiến trúc thì thiết kế quy hoạch đô thị, thiết kế sơ bộ và thiết kế kỹ thuật cũng được xem như một loại hình tác phẩm kiến trúc. Xét về mặt bản chất, hồ sơ thiết kế kỹ thuật chỉ giúp cho việc xây dựng nên công trình trên thực tế được dễ dàng và chính xác theo đúng như ý đồ thiết kế của người sáng tạo, đảm bảo an toàn và dự liệu các chi phí khi xây dựng công trình, chứ nó không góp phần vào việc thiết kế hình dáng bên ngoài hay tổ chức, bố trí không gian bên trong của công trình kiến trúc như một tác phẩm kiến trúc thật sự. Do đó, các hồ sơ thiết kế kỹ thuật tuy rất quan trọng, cần thiết và không thể thiếu để xây dựng nên một công trình trên thực tế, nhưng những sáng tạo này không phải là sáng tạo kiến trúc và thành quả của những sáng tạo này, về mặt bản chất, không phải là tác phẩm kiến trúc. Tuy nhiên, nhìn chung khái niệm về tác phẩm kiến trúc như trên thể hiện sự gần gũi với các quy định trong lĩnh vực kiến trúc, xây dựng và với các quan điểm về tác phẩm kiến trúc trong lĩnh vực chuyên môn. Điều đáng tiếc là, cách quy định như 33 Khoản 1 Mục 1 Thông tư liên bộ số 1314 TTLB/XD-VH ngày 23/07/1991 của liên bộ Bộ Xây dựng - Bộ văn hóa - thông tin - thể thao và Du lịch quy định về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc
  • 30. 23 trên đã không được Nghị định 76/CP và sau này là Nghị định 100/2006/NĐ-CP và Nghị định số 85/2011/NĐ-CP ngày 10/11/2011 kế thừa khi quy định chi tiết về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Quan trọng là Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày được ban hành khi Việt Nam đã là thành viên của Công ước Berne, đáng lý ra các quy định phải có một bước tiến đáng kể, hoặc ít nhất là ngang bằng với các quy định đã có trước đó. Đằng này, quy định về tác phẩm kiến trúc trong Nghị định 100/2006/NĐ-CP lại là một bước thụt lùi so với quy định tại Thông tư liên bộ 1314 TTLB/XD-VH mà cho đến Nghị định số 85/2011/NĐ-CP ngày 10/11/2011 vẫn không khắc phục được. 1.2.2.4. Nội dung và hình thức thể hiện của tác phẩm kiến trúc Như đã phân tích tại phần lý luận chung, quyền tác giả không bảo hộ nội dung ý tưởng sáng tạo mà chỉ bảo hộ hình thức sáng tạo. Tác phẩm kiến trúc cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc cũng chỉ bảo hộ hình thức thể hiện mà không bảo hộ nội dung ý tưởng sáng tạo. Vấn đề đặt ra là việc phân định giữa nội dung và hình thức không phải lúc nào cũng dễ dàng và chính xác. Khi thiết kế một công trình, người kiến trúc sư thường phác thảo các ý tưởng thiết kế của mình trước, ví dụ ý tưởng thiết kế công trình có hình dạng hoa sen mang ý nghĩa truyền thống dân tộc hay ý tưởng bố trí giếng trời ở giữa nhà để vừa tạo không gian xanh mát vừa tận dụng gió và ánh sáng tự nhiên… Rõ ràng bản thân các ý tưởng nói trên không được bảo hộ quyền tác giả. Một kiến trúc sư khác cũng hoàn toàn có thể nghĩ ra ý tưởng thiết kế công trình có hình dạng tương tự, thậm chí là sao chép những ý tưởng đó để sáng tạo nên tác phẩm của riêng mình, cũng vẫn không phải là hành vi vi phạm. Mỗi một kiến trúc sư thường có những phong cách thiết kế khác nhau. Có người theo phong cách đơn giản, kiệm chi tiết; có người theo phong cách hiện đại, đa dụng; có người theo phong cách dân tộc, cổ truyền… và thường họ trung thành với phong cách thiết kế của mình từ đầu đến cuối. Đối với một số kiến trúc sư nổi tiếng trên thế giới, người trong cùng lĩnh vực kiến trúc chỉ cần nhìn vào phong cách thiết kế của công trình đã có thể xác định được công trình do ai thiết kế. Tuy nhiên, phong cách thiết kế cũng không phải là cái được bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Về mặt luật pháp, không ai ngăn cấm một người sao chép phong cách thiết kế
  • 31. 24 của người khác hay của một công trình khác để sáng tạo công trình cho riêng mình. Ví dụ một kiến trúc sư sáng tạo nên một tác phẩm kiến trúc với phong cách chủ đạo là những khối lập phương và gam màu đỏ - đen - trắng, thì việc một kiến trúc sư khác, hoặc chính kiến trúc sư đó, sử dụng cùng phong cách đó cho những công trình khác tiếp theo của những chủ đầu tư khác nhau, không phải là hành vi xâm phạm quyền tác giả hoặc quyền của chủ sở hữu quyền tác giả của công trình ban đầu. Như vậy, rõ ràng là ý tưởng hay phong cách thiết kế của một tác phẩm kiến trúc không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Tuy nhiên, khi các ý tưởng hay phong cách nói trên đã được hiện thực hóa vào trong bản vẽ thiết kế hoặc công trình xây dựng, thì phần nào của bản vẽ hay công trình là hình thức thể hiện và được bảo hộ, phần nào chỉ đơn thuần là nội dung hay ý tưởng và không được bảo hộ? Đây rõ ràng là một vấn đề phức tạp và trừu tượng vì bản thân khái niệm quyền tác giả lẫn khái niệm tác phẩm kiến trúc đều vô cùng trừu tượng và phức tạp. Tuy nhiên cần lưu ý rằng tác phẩm kiến trúc ở đây không phải là bản vẽ hay công trình mà là một đối tượng vô hình phi vật chất. Tác phẩm kiến trúc được thể hiện và nhận biết thông qua các hình thức vật chất hữu hình khác như bản vẽ hay công trình. Bản thân bản vẽ hay công trình không phải là tác phẩm kiến trúc mà chỉ đơn thuần là hình thức thể hiện của tác phẩm kiến trúc mà thôi. Phần nội dung bao gồm các sự vật hiện tượng cụ thể có thể có trong một công trình xây dựng như tường, cửa, mái, nền… không thuộc phạm vi bảo hộ. Các kiến trúc sư khác đương nhiên được quyền sáng tạo tác phẩm kiến trúc cũng với những tường, cửa, mái, nền… như vậy. Cái được bảo hộ là hình thức thể hiện ra bên ngoài của những thiết kế chứa đựng các nội dung đó, thông qua những bản vẽ cụ thể. Các bản vẽ này bao gồm các ký tự và hình vẽ được quy ước như những ký hiệu đơn giản và phổ biến trong lĩnh vực kiến trúc. Thông qua sáng tạo của mình kiến trúc sư kết hợp các ký hiệu lại với nhau tạo thành hình thức thể hiện một tác phẩm kiến trúc nguyên gốc chứa đựng toàn bộ nội dung ý tưởng sáng tạo về công trình. Tất nhiên không ai bảo hộ một bản vẽ đơn giản gồm ký hiệu thể hiện một căn phòng đơn giản với tường, cửa, mái, nền… vì lúc này hình thức thể hiện hoàn toàn trùng với nội dung tác phẩm. Để được bảo hộ, hình thức thể hiện phải bộc lộ được thành quả lao động sáng tạo của tác giả vào trong tác phẩm34 . 34 Nguyễn Vân Nam (2016), Quyền tác giả: Đường hội nhập không trải hoa hồng, NXB Trẻ, tr.512.
  • 32. 25 1.2.3. Chủ thể và nội dung quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc 1.2.3.1. Khía cạnh pháp lý (i) Chủ thể quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc là: - Tác giả, đồng tác giả: Tác giả, đồng tác giả là người, những người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm kiến trúc. - Chủ sở hữu quyền tác giả: Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản đối với tác phẩm kiến trúc như sao chép, phân phối, làm tác phẩm phái sinh... Hay nói cách khác, chủ sở hữu là người độc quyền sử dụng, định đoạt tác phẩm kiến trúc. Các căn cứ để xác định vai trò chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc như: tác giả sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất - kỹ thuật của mình để sáng tạo ra tác phẩm kiến trúc; tổ chức giao nhiệm vụ sáng tạo ra tác phẩm kiến trúc cho tác giả là người thuộc tổ chức mình; tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng với tác giả sáng tạo ra tác phẩm kiến trúc; tổ chức, cá nhân được thừa kế hoặc chuyển giao quyền tác giả là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc hoặc nhà nước trong một vài trường hợp. (ii) Nội dung quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc dành cho tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả gồm: - Quyền của tác giả: + Đặt tên cho tác phẩm: Cần lưu ý là quyền đặt tên cho tác phẩm hoàn toàn không đồng nghĩa với quyền đặt tên cho một công trình trên thực tế với tư cách là hình thức thể hiện của tác phẩm. Quyền đặt tên cho công trình thuộc về chủ sở hữu công trình. Hai tên gọi này không nhất thiết phải trùng nhau. Ví dụ chủ đầu tư đặt tên tòa nhà của mình là “nhà hàng ABC”, còn tác giả có thể đặt tên cho tác phẩm kiến trúc của mình là “nhà hàng ABC” hoặc “nhà hàng làng tre” hoặc “nắng và gió” hay bất kỳ tên nào khác, trùng hoặc không trùng với tên công trình. Ngay cả trong trường hợp công trình xây dựng được công nhận là một hình thức thể hiện của tác phẩm kiến trúc, thì điều này vẫn đúng trong mọi trường hợp. + Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng. Việc đứng tên trên tác phẩm kiến trúc còn là quy định bắt buộc để quy trách nhiệm đối với các sự cố nếu có xảy ra đối với công trình.
  • 33. 26 + Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc sản phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. - Quyền của chủ sở hữu quyền tác giả: + Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm. Cần lưu ý là pháp luật quy định xây dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc không phải là hành vi công bố tác phẩm35 . + Làm tác phẩm phái sinh; + Sao chép tác phẩm kiến trúc + Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bảo sao tác phẩm kiến trúc; + Truyền đạt tác phẩm kiến trúc đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác. 1.2.3.2. Xác định tư cách chủ thể và nội dung quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc trong một số trường hợp cụ thể (i) Trường hợp tự thiết kế Thông thường thì chủ đầu tư sẽ giao kết hợp đồng với kiến trúc sư hành nghề độc lập hoặc công ty tư vấn thiết kế kiến trúc để những đối tượng này thực hiện dịch vụ thiết kế. Tuy nhiên cũng có không ít trường hợp chủ đầu tư là kiến trúc sư hoặc không phải là kiến trúc sư nhưng muốn tự mình thực hiện việc thiết kế. Thiết kế xây dựng nhà ở riêng lẻ phải đáp ứng yêu cầu tuân thủ tiêu chuẩn áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật, quy định của pháp luật về sử dụng vật liệu xây dựng, đáp ứng yêu cầu về công năng sử dụng, công nghệ áp dụng (nếu có); bảo đảm an toàn chịu lực, an toàn trong sử dụng, mỹ quan, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống cháy, nổ và điều kiện an toàn khác. Hộ gia đình được tự thiết kế nhà ở riêng lẻ có tổng diện tích sàn xây dựng nhỏ hơn 250 m2 hoặc dưới 3 tầng hoặc có chiều cao dưới 12 mét, phù hợp với quy hoạch xây dựng được duyệt và chịu trách nhiệm trước pháp luật về chất lượng thiết kế, tác động của công trình xây dựng đến môi trường và an toàn của các công trình lân cận36 . 35 Điều 22 Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21/09/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan 36 Khoản 3, 7 Điều 79 Luật xây dựng 2014
  • 34. 27 Trong trường hợp này, chủ đầu tư là tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc nên có toàn bộ các quyền nhân thân, quyền tài sản đối với tác phẩm kiến trúc mà họ sáng tạo ra. (ii) Trường hợp giao kết hợp đồng với kiến trúc sư hành nghề độc lập Trong trường hợp này, nếu không có thỏa thuận khác, kiến trúc sư là tác giả và chủ đầu tư là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc, thể hiện qua việc chủ đầu tư mới là người đầu tư tài chính cho kiến trúc sư thực hiện việc sáng tạo ra tác phẩm kiến trúc, và việc thực hiện tác phẩm kiến trúc là theo “đơn đặt hàng” của chủ đầu tư. Nghĩa là kiến trúc sư nắm giữ các quyền nhân thân ngoại trừ quyền công bố, còn chủ đầu tư nắm giữ tất cả các quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm kiến trúc. Như vậy, nếu kiến trúc sư muốn công bố tác phẩm của mình lên các tạp chí hay chương trình truyền hình giới thiệu về nhà đẹp thì phải được sự đồng ý của chủ sở hữu. Tuy nhiên pháp luật vẫn để ngỏ khả năng các bên có thể có những thỏa thuận khác nhau về tư cách chủ thể của mình cũng như các quyền gắn liền với các tư cách chủ thể đó. Ví dụ các bên có thể thỏa thuận rằng kiến trúc sư được giữ toàn bộ các quyền nhân thân lẫn quyền tài sản đối với tác phẩm. Trong trường hợp đó, thay vì chủ sở hữu có quyền sao chép tác phẩm kiến trúc để xây dựng thêm cho mình nhiều công trình tương tự thì ngược lại muốn sao chép chủ đầu tư phải được sự cho phép của kiến trúc sư và kiến trúc sư thì được toàn quyền sao chép cũng như phân phối bản sao cho nhiều đối tượng khác nhau. Vấn đề nghe có vẻ bất hợp lý, nhưng trong một số trường hợp đặc biệt các bên vẫn có quyền thỏa thuận như trên để phù hợp với mục đích riêng của mình khi tham gia giao dịch. Ví dụ trong trường hợp kiến trúc sư thiết kế miễn phí hoặc với giá rẻ nhà tình thương cho đối tượng chính sách, thì cơ sở đó cũng không có mục đích đòi hỏi độc quyền sử dụng tác phẩm, và nếu sau đó kiến trúc sư sử dụng lại tác phẩm kiến trúc đó cho một viện cô nhi khác cũng với mục đích từ thiện thì cũng không có lợi ích của bên nào bị xâm hại. Vấn đề đặt ra là thỏa thuận ngược lại, tức kiến trúc sư từ chối và giao toàn bộ quyền nhân thân của mình cho chủ đầu tư thì có được không? Cần lưu ý là trong bất kỳ trường hợp nào, dù pháp luật có để ngỏ các khả năng cho các bên đạt được những thỏa thuận khác, thì những thỏa thuận đó cũng không được trái với pháp luật. Tinh thần của quy định là bảo vệ những quyền tinh thần cho người bằng lao động trí óc
  • 35. 28 của mình trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, đồng thời các quyền nhân thân ngoại trừ quyền công bố tác phẩm của tác giả cũng không được chuyển giao trong trường hợp chuyển nhượng quyền tác giả hay chuyển quyền sử dụng. Hợp đồng dịch vụ thiết kế về bản chất cũng giống như một hợp đồng chuyển giao quyền tác giả, hoặc có chứa các điều khoản giống như một hợp đồng chuyển giao quyền tác giả, cho nên cũng có thể coi hợp đồng dịch vụ thiết kế giống như một loại hợp đồng chuyển giao quyền tác giả đầu tiên mà tại đó tác giả chuyển giao quyền công bố và các quyền tài sản của mình cho chủ đầu tư. Cho nên, trong hợp đồng dịch vụ thiết kế cũng tương tự như trong hợp đồng chuyển giao quyền tác giả, việc thỏa thuận chuyển giao cả các quyền nhân thân khác ngoài quyền công bố là hành vi bị cấm. Trong nhiều trường hợp, tác giả sáng tạo ra tác phẩm dựa trên ý tưởng ban đầu của chủ đầu tư, hoặc chủ đầu tư có những góp ý nhất định vào việc hoàn thiện tác phẩm. Đây là trường hợp hết sức tự nhiên vì suy cho cùng chính chủ đầu tư mới là người đầu tư tài chính cũng như trực tiếp sử dụng công trình xây dựng. Trong những trường hợp này dù chủ đầu tư có đưa ra ý tưởng hay có những góp ý xác đáng, thậm chí những góp ý làm cho tác phẩm kiến trúc được hoàn thành hoàn toàn khác xa tác phẩm phác thảo ban đầu, thì chủ đầu tư vẫn chỉ là người góp ý chứ không phải là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm nên không có quyền của đồng tác giả tác phẩm kiến trúc. Trong trường hợp chủ đầu tư trực tiếp sáng tạo một phần hoặc toàn bộ tác phẩm kiến trúc thì được giữ vai trò đồng tác giả cho những sáng tạo của mình hoặc giữ vai trò tác giả đối với tác phẩm phái sinh. (iii) Trường hợp giao kết hợp đồng với tổ chức tư vấn thiết kế kiến trúc Điều chắc chắn là tổ chức tư vấn thiết kế kiến trúc không phải là cá nhân nên không thể được ghi nhận là tác giả nắm giữ các quyền nhân thân đối với tác phẩm kiến trúc. Lúc này có sự xuất hiện của ba bên: kiến trúc sư, tổ chức tư vấn thiết kế kiến trúc và chủ đầu tư nên vấn đề có vẻ cũng trở nên phức tạp hơn. Tuy nhiên, nếu phân tích mối quan hệ cũng như các hợp đồng mà các bên ký kết trong mối tương quan với các hợp đồng chuyển giao quyền tác giả, thì vấn đề trở nên hết sức đơn giản. Thứ nhất, mối quan hệ giữa tổ chức tư vấn thiết kế kiến trúc với kiến trúc sư là mối quan hệ giữa người giao nhiệm vụ thiết kế với nhân viên nhận nhiệm vụ thiết kế thuộc tổ chức của mình và do mình trả lương. Do đó kiến trúc sư có quyền tác giả và tổ chức tư vấn thiết kế kiến trúc có quyền của chủ sở hữu quyền tác giả.
  • 36. 29 Thứ hai, mối quan hệ giữa tổ chức tư vấn thiết kế kiến trúc với chủ đầu tư là mối quan hệ giao kết hợp đồng thiết kế. Hợp đồng này về bản chất là tương ứng với hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu quyền tác giả từ tổ chức tư vấn thiết kế kiến trúc sang cho chủ đầu tư. Do đó, bằng hợp đồng dịch vụ thiết kế ký kết với chủ đầu tư, tổ chức tư vấn thiết kế kiến trúc đã chuyển giao toàn bộ quyền của chủ sở hữu quyền tác giả mà mình có được sang cho chủ đầu tư. Trên thực tế, hai mối quan hệ này diễn ra cùng lúc và song song với nhau. Tổng hợp hai mối quan hệ nói trên, kiến trúc sư là tác giả và nắm giữ quyền nhân thân ngoại trừ quyền công bố tác phẩm kiến trúc, còn chủ đầu tư nắm giữ toàn bộ quyền tài sản cũng như quyền công bố tác phẩm kiến trúc. Tổ chức tư vấn thiết kế kiến trúc, suy cho cùng không giữ một vai trò gì trong mối quan hệ quyền tác giả này. Điều này cũng phù hợp với thực tế các tổ chức tư vấn thiết kế kiến trúc ngoài việc đứng tên ký hợp đồng, đóng dấu trên các bản vẽ và nhận tiền thù lao thiết kế, tức những quan hệ về mặt quản lý, thì những công việc chuyên môn trong quá trình sáng tạo ra tác phẩm kiến trúc đều được thực hiện độc lập bởi kiến trúc sư. Trong trường hợp tổ chức tư vấn thiết kế cử nhiều hơn một kiến trúc sư tham gia vào việc thiết kế, thì các kiến trúc sư là đồng tác giả của tác phẩm kiến trúc. (iv) Trường hợp thiết kế phương án kiến trúc dự thi Luật Xây dựng 2014, quy định các công trình bắt buộc phải thi tuyển thiết kế kiến trúc trước khi lập dự án đầu tư xây dựng, gồm Công trình công cộng quy mô lớn, có yêu cầu kiến trúc đặc thù phải tổ chức thi tuyển hoặc tuyển chọn thiết kế kiến trúc công trình xây dựng trước khi lập Báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng37 . Ngoài ra Luật Xây dựng 2014 cũng quy định tác giả của phương án thiết kế kiến trúc đã được lựa chọn được bảo đảm quyền tác giả, được ưu tiên thực hiện các bước thiết kế tiếp theo khi đủ điều kiện năng lực thiết kế xây dựng38 . Ở đây cần lưu ý hai vấn đề. Thứ nhất là không chỉ riêng tác giả của phương án được lựa chọn như quy định nêu trên mà mọi cá nhân gửi phương án dự thi dù là được lựa chọn hay không được lựa chọn đều được công nhận là tác giả và được bảo hộ các quyền nhân thân phi tài sản đối với phương án dự thi do mình trực tiếp sáng tạo ra. Đây là vấn đề hiển nhiên và không có gì phải bàn cãi. 37 Khoản 1, Điều 81, Luật Xây dựng năm 2014 38 Khoản 3, Điều 81, Luật Xây dựng năm 2014
  • 37. 30 Vấn đề thứ hai, quan trọng và phức tạp hơn, là ai sẽ có tư cách chủ sở hữu nắm giữ các quyền tài sản và quyền nhân thân liên quan đến tài sản đối với các phương án dự thi trong cả hai trường hợp phương án dự thi được chọn lẫn không được chọn, tác giả phương án, chủ đầu tư hay ban tổ chức cuộc thi. Trong một số trường hợp, chủ đầu tư không trực tiếp tổ chức thi tuyển mà thông qua một đơn vị trung gian. Vấn đề này hiện nay pháp luật không quy định mà để cho các bên tự do định đoạt thông qua thể lệ cuộc thi rằng người dự thi, chủ đầu tư hay ban tổ chức giữ tư cách chủ sở hữu quyền tác giả. Tuy nhiên trong trường hợp thể lệ cuộc thi không quy định mà có tranh chấp xảy ra thì tư cách chủ sở hữu sẽ được quyết định như thế nào? Đối với tác phẩm được lựa chọn và sau đó ký hợp đồng để thực hiện các bước tiếp theo thì hiển nhiên chủ đầu tư sẽ nắm giữ tư cách chủ sở hữu đối với tác phẩm dự thi lẫn những tác phẩm sau này trên cơ sở hợp đồng mới ký. Tuy nhiên đối với các tác phẩm không được chọn hoặc chưa biết là có được lựa chọn hay không, việc công nhận tư cách chủ sở hữu thuộc về chủ đầu tư, hoặc ít nhất là công nhận cho chủ đầu tư quyền sử dụng một số quyền tài sản nếu tư cách chủ sở hữu thuộc về tác giả, sẽ tạo nên sự hợp tình hợp lý khi giải quyết vấn đề. Chỉ trong những trường hợp đó hành vi của chủ đầu tư hoặc của ban tổ chức cuộc thi dưới sự cho phép của chủ đầu tư sao chép tác phẩm kiến trúc ra thành nhiều bản để gửi cho ban giám khảo chấm thi hoặc trưng bày, chụp ảnh, truyền đạt các tác phẩm kiến trúc trên các phương tiện thông tin đại chúng để thông tin, quảng bá về cuộc thi sẽ không bị coi là hành vi vi phạm. Bên cạnh đó trong hầu hết các trường hợp chủ đầu tư cũng đều có một khoản kinh phí hỗ trợ cho tất cả các đơn vị dự thi thực hiện phương án dự thi, đổi lại chủ đầu tư giữ tư cách chủ sở hữu hoặc được chuyển quyền sử dụng một số quyền tài sản của chủ sở hữu cũng là một sự cân bằng lợi ích chính đáng giữa các bên trong quan hệ thi tuyển phương án thiết kế kiến trúc. (v) Xác định tư cách tác giả, đồng tác giả trong một số trường hợp khác Như đã phân tích, nếu có nhiều hơn một kiến trúc sư tham gia vào việc thiết kế, trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm kiến trúc thì các kiến trúc sư là đồng tác giả của tác phẩm kiến trúc. Tuy nhiên đối với một số người khác cũng cần phải được xác định có hay không có tư cách đồng tác giả tác phẩm kiến trúc, cụ thể: + Chủ nhiệm thiết kế, chủ trì thiết kế: Đối với các công trình có quy mô lớn,