SlideShare a Scribd company logo
1 of 105
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN MAI CHI
QUYỀN AN TỬ
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. VŨ CÔNG GIAO
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận
văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Mai Chi
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các hình vẽ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA QUYỀN AN TỬ......... 4
1.1. Một số khái niệm cơ bản..................................................................... 4
1.1.1. An tử và trợ tử ...................................................................................... 4
1.1.2. Quyền an tử........................................................................................... 7
1.2. Cơ sở hình thành quyền an tử............................................................ 8
1.2.1. Nguyên tắc hình thành quyền an tử ...................................................... 8
1.2.2. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của quyền an tử................12
1.3. Đặc điểm và ý nghĩa của quyền an tử .............................................27
1.3.1. Đặc điểm .............................................................................................27
1.3.2. Ý nghĩa................................................................................................29
1.4. Quan điểm về việc hợp pháp hóa quyền an tử trên thế giới.........32
1.4.1. Những quan điểm phản đối.................................................................32
1.4.2. Những quan điểm ủng hộ....................................................................36
Chương 2: PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN VỀ QUYỀN AN TỬ
TRÊN THẾ GIỚI..............................................................................41
2.1. Quyền an tử theo pháp luật nhân quyền quốc tế...........................41
2.2. Thực tiễn và pháp luật về quyền an tử ở một số quốc gia.............44
2.2.1. Quy định của các quốc gia và vùng lãnh thổ đã hợp pháp hoá
quyền an tử..........................................................................................44
2.2.2. Quy định của các quốc gia và vùng lãnh thổ chưa hợp pháp hoá
quyền an tử hoặc quy định một phần ..................................................50
2.2.3. Xu hướng hợp pháp hóa quyền an tử trên thế giới .............................56
2.3. Các tiêu chí chung về quyền an tử theo pháp luật quốc tế và
pháp luật của một số quốc gia ...........................................................60
2.3.1. Tiêu chí sinh học .................................................................................60
2.3.2. Tiêu chí pháp lý...................................................................................63
Chương 3: PHÁP LUẬT, THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT
RA VỀ QUYỀN AN TỬ Ở VIỆT NAM ..........................................69
3.1. Pháp luật và những vấn đề nảy sinh về quyền an tử trong
thực tiễn ở Việt Nam .........................................................................69
3.1.1. Quyền an tử theo pháp luật Việt Nam.................................................69
3.1.2. Nhu cầu thực tiễn về quyền an tử ở Việt Nam....................................70
3.2. Tranh luận về hợp pháp hóa quyền an tử ở Việt Nam ..................72
3.3. Quan điểm, giải pháp liên quan đến quyền an tử ở Việt Nam......75
3.3.1. Sự cần thiết hợp pháp hóa quyền an tử ở Việt Nam ...........................75
3.3.2. Đề xuất một số quy định cơ bản khi hợp pháp hóa quyền an tử.........76
3.3.3. Một số kiến nghị về quá trình xây dựng và thực hiện quy định
quyền an tử tại Việt Nam.....................................................................86
KẾT LUẬN ....................................................................................................92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................94
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ESA Hiệp hội An tử Hoa Kỳ (Euthanasia Society of America)
ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
(International Covenent on Civil and Political Rights)
NSLE Hiệp hội quốc gia về Hợp pháp hóa An tử của Hoa Kỳ (National
Society for the Legalization of Euthanasia)
NVVE Hiệp hộiAn tử tự nguyện Hà Lan (DutchVoluntary Euthanasia Society)
PVS Tình trạng thực vật kéo dài (Persistent Vegetative State)
SRD Hiệp hội Quyền An tử Hoa Kỳ (Society for the Right to Die)
UDHR Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (Universal Declaration of
Human Rights)
UN Liên hợp quốc (The United Nations)
UNCHR Ủy ban quyền con người Liên hợp quốc (The United Nations
Commission on Human Rights)
VELS Hiệp hội Công nhận An tử tự nguyện (Voluntary Euthanasia
Legislation Society)
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Số hiệu hình Tên hình Trang
Hình 1.1: Các trường hợp hưởng thụ quyền an tử tại Hà Lan,
2006 – 2014 25
Hình 1.2: Các trường hợp hưởng thụ quyền an tử tại Bỉ, 2002
– 2012 26
Hình 1.3: Các trường hợp thực hiện trợ tử theo Luật Cái chết
nhân phẩm tại bang Oregon, Hoa Kỳ, 1998 – 2011 26
Hình 2.1: Bản đồ quốc gia/ vùng lãnh thổ đã hợp pháp hóa an tử
hoặc trợ tử 44
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong khi các quyền con người cơ bản như quyền sống, quyền tự do và
bình đẳng… từ lâu đã được công nhận và trở thành mục tiêu tôn trọng, bảo
vệ, thực thi của nhiều quốc gia trên thế giới thì vào đầu thế kỉ XIX, sự thay
đổi lớn trong nhận thức và tư duy khoa học đã dẫn đến việc hình thành nhóm
quyền mới, trong đó có quyền an tử. Khoảng một phần tư thế kỷ trở lại đây,
vấn đề quyền an tử xuất hiện với tần suất ngày càng lớn trên các diễn đàn
quốc tế và ngay lập tức trở thành một trong những đề tài nhận được nhiều
quan tâm cũng như bắt nguồn cho nhiều tranh cãi.
Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam quyền an tử vẫn là một khái niệm
mới, còn khá xa lạ và dễ bị nhầm tưởng với một số hành vi vi phạm pháp luật,
trái đạo đức xã hội. Mặt khác, nguồn tài liệu khan hiếm và nếu có, cũng chưa
được toàn diện, sâu sắc dẫn đến nhiều e ngại khi tiếp cận vấn đề. Trong khi, ở
bình diện khoa học pháp lý, việc nghiên cứu về quyền an tử mang tính cấp
thiết, góp phần quan trọng vào hoạt động xây dựng nhà nước pháp quyền với
một hệ thống quyền dân sự, quyền nhân thân đầy đủ, hoàn thiện. Và trên thực
tế ở Việt Nam không phải không có những người có nguyện vọng này, thậm
chí số lượng ngày càng tăng.
Xuất phát từ thực trạng trên, tác giả quyết định chọn vấn đề Quyền an
tử - Những vấn đề lý luận và thực tiễn làm đề tài luận văn, mong có thể góp
một phần vào việc làm rõ bản chất cũng như hoàn thiện khung pháp luật,
chính sách về vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền an tử là một đề tài còn rất mới mẻ trong các nghiên cứu khoa
học pháp lý. Hiện nay, ở Việt Nam, chỉ có khóa luận tốt nghiệp Quyền an tử:
2
Một số vấn đề lý luận, thực tiễn trên thế giới và ở Việt Nam của tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Lân thực hiện năm 2014 là trực tiếp đề cập đến vấn đề này,
tuy nhiên công trình chưa phân tích được hết các khía cạnh của quyền cũng
như đánh giá được tình hình công nhận, thực hiện quyền trên phạm vi khu
vực và quốc tế. Ngoài ra, liên quan tới vấn đề quyền được chết có bài viết
Bước đầu tìm hiểu vấn đề quyền được chết trong bối cảnh hiện nay của tác
giả Trương Hồng Quang trong cuốn Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các
quyền mới xuất hiện trong quá trình phát triển xuất bản năm 2012. Công trình
này đã cung cấp một lượng tri thức, thông tin khá lớn về quyền an tử nhưng
chưa có sự phân tích một cách toàn diện về phạm vi quyền an tử, sự khác biệt
giữa an tử và trợ tử, những ý kiến trái chiều dựa trên quan điểm chính trị, tôn
giáo về vấn đề quyền an tử…
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Mục đích của luận văn là đưa ra được một cái nhìn toàn diện, có tính hệ
thống và khoa học về các vấn đề pháp lý, xã hội liên quan đến quyền an tử
trên thế giới và ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất những quan điểm, giải pháp
nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách hiện hành về vấn đề này ở
nước ta trong thời gian tới.
Quyền an tử có nội dung rất rộng và phức tạp, liên quan đến nhiều ngành
khoa học xã hội khác nhau. Trong phạm vi một luận văn thạc sĩ, đề tài này
chủ yếu đề cập và phân tích các khía cạnh pháp lý và xã hội cơ bản, mà không
đi sâu nghiên cứu các khía cạnh tâm lý học hay y tế… của vấn đề.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lí luận dùng để nghiên cứu đề tài này là các quan điểm duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Các phương pháp cụ thể được sử dụng để giải quyết những vấn đề đặt ra
trong khóa luận này là: tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh.
3
5. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Luận văn là công trình chuyên khảo toàn diện và có hệ thống về những
vấn đề pháp lý, thực tiễn về quyền an tử ở trên thế giới và ở Việt Nam. Luận
văn kế thừa, phát triển những ý kiến trao đổi, thảo luận hiện có về vấn đề này,
đồng thời bổ sung một số thông tin và phân tích mới góp phần làm sáng tỏ
hơn thực trạng và xu hướng liên quan đến quyền an tử trên thế giới và ở Việt
Nam. Luận văn cũng nêu những đề xuất cụ thể về sửa đổi, bổ sung pháp luật
liên quan đến quyền an tử ở nước ta trong thời gian tới.
Với kết quả nêu trên, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho các cơ quan nhà nước trong xây dựng, sửa đổi và thực thi các văn
bản pháp luật về vấn đề an tử. Thêm vào đó, luận văn cũng có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy môn luật nhân quyền
và các môn học khác có liên quan ở Khoa Luật ĐHQG Hà Nội và các cơ sở
đào tạo, nghiên cứu khác.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm các Phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và 3
chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận, thực tiễn của quyền an tử
Chương 2: Pháp luật và thực tiễn về quyền an tử trên thế giới
Chương 3: Pháp luật, thực tiễn và những vấn đề đặt ra về quyền an tử ở
Việt Nam.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA QUYỀN AN TỬ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. An tử và trợ tử
Thuật ngữ an tử hay cái chết êm ả (euthanasia) có nguồn gốc từ khái
niệm euthanatos trong tiếng Hy Lạp, xuất hiện rất sớm trong lịch sử, khoảng
thế kỉ thứ 5 trước Công nguyên. Hiện nay chưa có một định nghĩa toàn cầu
chính thức cho khái niệm này, nhưng nhìn chung những người ủng hộ an tử
và quyền an tử coi an tử là “Hành vi được biểu hiện dưới dạng hành động
hoặc không hành động, mà bản thân việc này hoặc việc này có mục đích là
giúp đỡ những cá nhân đang phải chịu đựng bệnh tật không có khả năng cứu
chữa được chết có nhân phẩm, dễ dàng và nhẹ nhàng hơn” [21].
Trong đó, hành động hoặc không hành động có thể được hiểu lần lượt
là việc trợ giúp giải thoát một người khỏi bệnh tật bằng phương pháp như
tiêm thuốc gây tử vong hoặc cho phép người đó được chết bằng cách rút bỏ
các điều trị y tế thông thường và cần thiết. Tuy nhiên phải chú ý rằng hành vi
không hành động chỉ được chấp nhận nếu việc can thiệp y khoa là vô ích và
gây gánh nặng quá mức cho bệnh nhân. Việc không cung cấp các phương
pháp trợ sinh trong trường hợp vẫn cải thiện được tình hình bệnh nhân, có thể
bị coi là hành vi giết người.
Qua thời gian, nội hàm của khái niệm an tử có nhiều thay đổi. Trước
đây an tử thường chỉ được dùng cho các trường hợp cá nhân đang phải chịu
đựng khổ sở do bệnh tật với mục đích giúp họ thoát khỏi đau đớn. Nhưng
ngày nay bệnh nhân được thực hiện cái chết êm ả với những lý do khác như
mục đích sống không còn đạt được, không có khả năng chi trả phí điều trị hay
giảm gánh nặng chăm sóc. Nhiều ý kiến phản đối, coi việc liên quan đến kinh
5
tế là không thể chấp nhận, nhưng thực tế đã chứng minh lý do này chiếm tỷ lệ
khá lớn trong các trường hợp mong muốn thực hiện an tử. Nỗi sợ hãi trở
thành gánh nặng tài chính cho thân nhân và gia đình là mối bận tâm lớn thứ
hai của những bệnh nhân không có khả năng chữa trị. Theo một cuộc điều tra
tại Oregon, Mỹ, nơi trợ tử đã được công nhận hợp pháp, 66% bệnh nhân
mong muốn thực hiện cái chết êm ả vì lý do này.
An tử có thể được phân biệt dựa trên nhiều tiêu chí, trong đó phổ biến
nhất dựa trên tính chất của sự tự nguyện và biện pháp thực hiện
- Dựa trên tính chất tự nguyện, an tử được chia thành an tử tự nguyện
(voluntary euthanasia ), an tử phi tự nguyện (non-voluntary euthanasia ) và an
tử trái nguyện vọng (involuntary euthanasia). Trong đó, an tử tự nguyện là
việc bệnh nhân đưa ra quyết định chấm dứt cuộc sống trong điều kiện tỉnh táo
và nhờ đến sự hỗ trợ của bác sĩ. An tử phi tự nguyện là trường hợp bệnh nhân
không có khả năng bày tỏ sự chấp thuận của họ (vì lý do hôn mê, tổn thương
não,…) và một người khác thay mặt người bệnh quyết định với điều kiện tiên
quyết là người bệnh này trước đó đã thể hiện mong muốn kết thúc cuộc sống
nếu lâm vào tình trạng này. An tử trái nguyện vọng còn được gọi là an tử ép
buộc hoặc an tử không tự nguyện, là khi người bệnh hoàn toàn từ chối hoặc
không hề bày tỏ mong muốn được giải thoát dưới bất kì hình thức nào nhưng
việc này vẫn được thực hiện đi ngược lại ý chí của họ. An tử trái nguyện
vọng, trong mọi trường hợp, đều bị coi là hành vi giết người.
Việc sử dụng các thuật ngữ trên có sự khác biệt ở nhiều quốc gia. Hiện
nay Hà Lan, một trong số những nước đầu tiên trên thế giới hợp pháp hóa
quyền an tử và ban hành pháp luật về an tử chỉ còn dùng duy nhất khái niệm
an tử, nhưng trong đó bao gồm cả an tử tự nguyện và an tử phi tự nguyện
dưới hình thức người bệnh chỉ định người đại diện cho mình trong trường hợp
lâm vào trạng thái mất ý thức và quyền định đoạt sẽ thuộc về người đại diện.
6
- Dựa trên tiêu chí phương pháp thực hiện, an tử được chia thành an tử
chủ động (active euthanasia) và an tử bị động (passive euthanasia) tương ứng
với hai loại hành vi hành động và không hành động kể trên. Theo đó, an tử
chủ động là trường hợp cố tình can thiệp để chấm dứt cuộc sống của bệnh
nhân. Hành vi này không phụ thuộc vào bất cứ yếu tố nào khác ngoại trừ sự
vận hành bình thường của các cơ quan trong cơ thể (như việc lưu thông máu
sẽ đưa chất độc đi khắp cơ thể). Đây có thể coi là cách thức có hiệu quả trong
mọi trường hợp, dù tình trạng của bệnh nhân như thế nào. Trong khi đó an tử
bị động là thu hồi các biện pháp chữa trị, hay nói cách khác là để bệnh nhân
chết đi. Vì vậy an tử bị động còn được coi là biện pháp tự nhiên và phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, nhất là tình trạng bệnh nhân và tính chất của các phương
pháp điều trị y học. An tử chủ động đem đến sự giải thoát nhanh hơn và dễ
dàng hơn cho người bệnh. Tuy nhiên, trước đây mọi hành vi an tử chủ động
đều là bất hợp pháp. Hiện nay một số hệ thống luật pháp đã không còn phân
biệt rạch ròi giữa hai phương pháp này.
Thực tế ở nhiều nơi, thuật ngữ an tử và trợ tử được sử dụng song song
và thay thế lẫn nhau. Tuy nhiên, giữa hai khái niệm này cũng có sự khác biệt.
Nếu như an tử là việc biết, trực tiếp hành động một cách có chủ đích đem đến
cái chết nhẹ nhàng cho một cá nhân thì trợ tử được định nghĩa là việc biết,
hành động trực tiếp một cách có chủ đích cung cấp phương tiện để cá nhân
thực hiện việc tự tử. Như vậy có thể thấy điểm phân biệt lớn nhất giữa an tử
và trợ tử là chủ thể nắm giữ vai trò chủ đạo trong quá trình, hay chủ thể thực
hiện toàn bộ hành vi hoặc thực hiện hành vi cuối cùng. Ví dụ việc bác sĩ tiêm
thuốc nhằm giải thoát cho bệnh nhân là an tử nhưng nếu bác sĩ kê đơn, cung
cấp thuốc cho bệnh nhân tự uống hoặc đưa kim tiêm vào tĩnh mạch bệnh nhân
nhưng để bệnh nhân tự vận hành quá trình đưa thuốc vào cơ thể (tự đẩy xi
lanh hoặc bấm nút) thì lại là trợ tử. Có sự khác biệt như vậy, nhưng nếu xét
7
cho cùng thì trợ tử là hình thức sơ khai của an tử, trong đó vai trò của bác sĩ
chưa được mở rộng. Ở hầu hết các nước đã thông qua luật an tử, hành vi trợ
tử cũng hợp pháp và thường được dùng chung với nhau. Theo một báo cáo
năm 2010 tại Hà Lan tỷ lệ an tử chủ động là 2,8% trong khi trợ tử là 0,1%
trên tổng số người chết. Con số tại Bỉ năm 2007 lần lượt là 1,9% và 0,07%..
Tuy nhiên chiều ngược lại không đúng. Ở những vùng lãnh thổ mới chỉ hợp
pháp hóa hành vi trợ tử, an tử có thể bị coi là hành vi vượt quá thẩm quyền và
dẫn tới khả năng phải chịu trách nhiệm pháp lý hoặc trách nhiệm nghề nghiệp
cho người thực hiện.
Đồng thời, cũng phải phân biệt hành vi an tử với hành vi cho phép từ
chối khám bệnh, chữa bệnh khi đang ở giai đoạn cuối hay hành vi cho phép
người bệnh hấp hối về nhà. Nếu hành vi an tử trực tiếp dẫn đến việc chấm dứt
sự sống của người bệnh thì các hành vi sau chỉ mang tính chất gián tiếp, tuy
cùng vì mục đích nhân đạo nhưng không có sự chủ động chấm dứt cuộc sống
của bác sĩ mà thay vào đó, bác sĩ chỉ chấp thuận theo nguyện vọng ngừng
điều trị của người bệnh. Và sự khác biệt lớn nhất là nếu an tử nhằm chấm dứt
những đau khổ kéo dài của người bệnh, thì việc cho phép từ chối điều trị và
về nhà trên, theo lời PGS.TS Trương Văn Việt, giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy,
thì “không phải để cho bệnh nhân chết mà là vì quan hệ tình cảm giữa người
sắp chết với người thân: gặp người thân lần cuối, có chết thì chết ở nhà, vấn
đề tín ngưỡng, tập quán” [12].
1.1.2. Quyền an tử
Xuất phát từ khái niệm an tử, quyền an tử có thể được định nghĩa là
quyền nhân thân và là đặc quyền của những cá nhân rơi vào trạng thái bệnh
lý không có khả năng chữa trị, được quyết định kết thúc cuộc sống của
mình với sự hỗ trợ của chủ thể có thẩm quyền và tuân theo các quy định
chặt chẽ của pháp luật.
8
Định nghĩa về quyền an tử có thể khác nhau tùy thuộc vào quan niệm
của các nhà làm luật mỗi quốc gia nhưng nhìn chung tất cả đều loại bỏ hành
vi an tử trái nguyện vọng ra khỏi nội hàm của khái niệm này. Có quốc gia
chấp nhận an tử chủ động, có quốc gia không, dẫn đến việc thu hẹp phạm vi
khái niệm quyền an tử chỉ được thực hiện dưới hình thức bị động. Điều tương
tự cũng xảy ra với việc có nên đặt ra giới hạn về độ tuổi với chủ thể hưởng
thụ quyền, cụ thể có nên cho phép trẻ vị thành niên có quyền an tử hay không.
Hiện nay tồn tại nhiều thuật ngữ có ý nghĩa tương tự quyền an tử như
quyền được chết (right to die) hay quyền được chết có nhân phẩm (right to
die with dignity). Theo ý kiến của người viết, nên dùng khái niệm quyền an
tử để biểu thị rõ mục đích tốt đẹp cũng như bản chất nhân đạo và ý nghĩa
nhân văn của quyền.
1.2. Cơ sở hình thành quyền an tử
1.2.1. Nguyên tắc hình thành quyền an tử
Quyền an tử dựa trên nguyên tắc tự do ý chí, nguyên tắc hành thiện và
sự kết hợp giữa hai nguyên tắc này.
- Nguyên tắc tự do ý chí (The Principle of Autonomy): Autonomy được
cấu thành từ hai từ Hy Lạp cổ là autos (tự thân) và nomos (luật). Vì vậy, về
mặt ngữ nghĩa, autonomy nghĩa là một người thụ hưởng quyết định của chính
mình. Theo Leenen, H.J.J, tác giả cuốn sách đầy ảnh hưởng Handbook of
Health Law, nguyên tắc tự do ý chí dựa trên bản chất tự nhiên của con người,
“Căn cứ hình thành quyền tự quyết của con người là nguyên tắc một con
người tự do, tự chủ có nhân phẩm cố hữu và xứng đáng được tôn trọng một
cách vô điều kiện, có quyền sắp đặt cuộc sống của mình” [34, tr.169]. Nguyên
tắc này cũng là cơ sở cho nhiều quyền con người khác, như quyền tự do tôn
giáo, quyền riêng tư, quyền tự do và bất khả xâm phạm về thân thể… Tuy
nhiên, nguyên tắc này không có nghĩa mọi sự tự quyết đều được chấp nhận,
9
bởi tự do ý chí không loại trừ nghĩa vụ tôn trong các nguyên tắc, mối quan hệ
khác trong xã hội, như quyền sống của chủ thể khác hay giá trị cộng đồng.
Đặt trong mối quan hệ với khái niệm an tử, tự do ý chí nghĩa là một chủ thể
nên được tự do trong việc định hình các yếu tố quyết định sự sống của mình
và lựa chọn cách sống lý tưởng mà mình muốn sống. Việc chính quyền hay
bác sĩ tiếp tục duy trì cuộc sống của người bệnh trái với mong muốn của họ
đã khiến cuộc sống của họ mất tự do và bản thân họ mất quyền tự chủ, dẫn
đến sự thiếu tôn trọng và bắt họ làm trái với lương tâm của họ.
Sự phát triển của khoa học kĩ thuật đã tăng cường khả năng của bác sĩ.
Những người hành nghề y có thể kéo dài sự sống cho những bệnh nhân trước
đây chắc chắn sẽ tử vong, nhưng nhiều trường hợp là trong đau đớn hoặc chịu
đựng kéo dài. Điều này, theo J.H.Van den Berg, một bác sĩ tâm thần người Hà
Lan, làm dấy lên vấn đề về y đức. Theo lời thề Hippocrates, bác sĩ được đào
tạo để cứu chữa, duy trì sự sống và đưa ra quyết định có lợi cho người bệnh.
Rút ngắn hoặc chủ động chấm dứt sự sống dưới bất kì hình thức nào là vô
nhân đạo. Việc kết hợp giữa công nghệ mới và quan điểm y đức cũ dẫn đến
hậu quả là người bệnh được kéo dài sự sống trong tình trạng vô nhân đạo. Van
den Berg cho rằng y đức mới phải nhận thức được việc chất lượng cuộc sống
quan trọng hơn độ dài. Quan điểm này sẽ đem đến cho người bệnh tiếng nói
trong các quyết định quan trọng, bởi chính họ chứ không phải các bác sĩ có
khả năng quyết định về chất lượng cuộc sống của mình. Và như vậy, việc chủ
động chấm dứt sự sống không còn là điều cấm kỵ trong y học.
Tuy nhiên, tự do ý chí trong an tử nên được nhìn nhận cẩn trọng. Tự do
ý chí của người bệnh không nên là quyền tự quyết loại trừ mọi ảnh hưởng bên
ngoài, hay là sự tự do ý chí tiêu cực. Tự do ý chí trong an tử là sự tự do ý chí
tích cực, hay nói cách khác, người bệnh phải hành động một cách có trách
nhiệm, quyết định trên cơ sở có xem xét đến những yếu tố khác. Luật pháp
10
nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ quy định bệnh nhân muốn thực hiện quyền
an tử phải đưa ra yêu cầu nhiều lần và cân nhắc kĩ càng. Mặc dù tiêu chí xem
xét không được quy định cụ thể nhưng rõ ràng người bệnh phải cân nhắc đến
những hậu quả khi đưa ra quyết định. Quyết định của người bệnh phải được
thảo luận với bác sĩ, và việc thảo luận này không chỉ dừng ở việc khẳng định
rằng người bệnh có thực sự mong muốn hưởng thụ quyền an tử, mà còn liên
quan đến vấn đề thế nào là không thể chịu đựng. Bác sĩ sẽ không đơn giản
công nhận mọi tuyên bố không thể chịu đựng xuất phát từ bệnh nhân. Họ có
nghĩa vụ phải xem xét tuyên bố này trong từng hoàn cảnh, từng trường hợp cụ
thể và trên tình hình tổng thể của người bệnh. Và những bằng chứng đưa ra
phải cho thấy rằng những khó khăn của người bệnh là không có triển vọng cải
thiện và xác thực là khó có thể chịu đựng.
- Nguyên tắc hành thiện (The Principle of Beneficence): Nguyên tắc
này yêu cầu một chủ thể phải hành động để thúc đẩy các quyền và lợi ích của
người khác, ngăn chặn những điều có hại cho họ. Trước đây, theo quan niệm
cũ, nguyên tắc này đồng nghĩa với việc bác sĩ phải làm mọi cách để ngăn chặn
cái chết. Nhưng cách giải thích này đã thay đổi trong thời gian gần đây. Sự
phát triển của khoa học – y học bắt đầu từ những năm 60 của thế kỉ trước đã
giúp ngày càng nhiều người nhận thức được rằng điều trị y khoa không phải
lúc nào cũng mang đến lợi ích cho bệnh nhân. Lúc này, làm mọi điều để giữ
sự sống của người bệnh chỉ thể hiện một sự “chuyên chế về mặt kỹ
thuật”[34,tr.173], dẫn dến việc không phải lợi ích của người bệnh mà chính
khả năng khoa học – y học mới là thứ quyết định liệu pháp điều trị của họ.
Khi khoa học kỹ thuật đem đến đau khổ cho người bệnh, liệu pháp điều trị
kéo dài sự sống sẽ ngày càng mâu thuẫn với nguyên tắc hành thiện. Vì vậy,
ngày nay nguyên tắc này áp đặt một nghĩa vụ giảm nhẹ đau đớn và chấm dứt
đau khổ cho người bệnh lên bác sĩ.
11
Điểm quan trọng nhất của nguyên tắc hành hiện là việc bác sĩ phải cân
nhắc điều gì có lợi nhất cho bệnh nhân của mình. Không phải quan điểm của
bệnh nhân, mà quan điểm của bác sĩ về tình trạng của bệnh nhân mới là yếu tố
chi phối. Nếu quan điểm của bác sĩ và bệnh nhân mâu thuẫn với nhau, quan
điểm của bác sĩ sẽ được coi trọng. Như đã đề cập ở trên, bác sĩ phải bị thuyết
phục rằng an tử là con đường duy nhất. Điều này không có nghĩa bệnh nhân
có ít tiếng nói trong cả quá trình, mà nhấn mạnh vào trách nhiệm của bác sĩ,
rằng họ mới là người có vai trò quan trọng nhất trong việc an tử. An tử chỉ
được chấp nhận khi bác sĩ tin rằng người bệnh không thể tiếp tục chịu đựng.
- Kết hợp nguyên tắc tự do ý chí và nguyên tắc hành thiện: Trong khi
nguyên tắc tự do ý chí đề cao vai trò của bệnh nhân thì nguyên tắc hành
thiện nhấn mạnh mối quan trọng của bác sĩ. Vậy việc cùng một lúc dựa trên
hai nguyên tắc này có mâu thuẫn? Thực tế chứng minh, hai nguyên tắc này
không xung đột với nhau mà bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau làm nền tảng cho
quyền an tử, và tạo nên một mối quan hệ hình mẫu trong y học nói chung
và vấn đề an tử nói riêng, mối quan hệ hợp tác thảo luận giữa bệnh nhân và
bác sĩ. Trong đó, bệnh nhân đóng vai trò quyết định và bác sĩ giữ vai trò
chủ động. Bệnh nhân mong muốn có thể dựa vào bác sĩ trong những giai
đoạn khó khăn, họ hy vọng rằng bác sĩ sẽ không để họ chết khổ sở. Còn
bác sĩ mong muốn có thể đáp ứng mong muốn của người bệnh, làm giảm
bớt những đau đớn của họ đồng thời giữ được y đức của chính mình. Có
thể thấy yếu tố trọng tâm trong mối quan hệ này là lòng tin. Lòng tin không
chỉ có nghĩa rằng người bệnh có thể chắc rằng bác sĩ của họ không lạm
dụng chức quyền, mà hơn thế, họ có thể chắc rằng họ sẽ không đơn độc
trong trường hợp không lối thoát. Ngược lại, bác sĩ cũng phải có lòng tin
rằng người bệnh đi đến quyết định an tử, dựa trên tình trạng không thể
thuyên giảm của họ, mà không vì bất cứ mục đích nào khác.
12
1.2.2. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của quyền an tử
An tử và quyền an tử có lịch sử phát triển lâu dài và dần được định hình
một cách chính thống và rõ nét qua thời gian.
- Về mặt lập pháp, từ thế kỉ V đến thế kỉ I trước công nguyên, người Hy
Lạp và La Mã cổ đại đã có tư tưởng an tử, tuy nhiên chưa hình thành nên khái
niệm này. Ở nơi đây, trước khi có sự xuất hiện của đạo Thiên Chúa, con người
có thái độ khoan dung đối với an tử tích cực và tự tử. Nhiều người không có
niềm tin vững chắc vào giá trị vốn có của đời sống nhân loại, vì vậy bác sĩ
ngoại đạo có thể thường xuyên tiến hành phá thai, an tử theo cả hai hình thức
tự nguyện và phi tự nguyện. Mặc dù lời thề Hippocrates cấm bác sĩ đưa
“thuốc gây chết người cho bất cứ ai dù họ yêu cầu” [30] hay gợi ý hành động
tương tự, gần như không có người hành y nào ở Hy Lạp và La Mã cổ đại tuân
thủ chặt chẽ lời thề này.
Đến tận thế kỉ I sau công nguyên, cụ thể năm 121 thuật ngữ an tử mới
xuất hiện lần đầu tiên trong tác phẩm De Vita Caesarum – Divus Augustus
(Cuộc đời các Ceasar – Con thần Augustus) của sử gia Gaius Suetonius
Tranquillus. Trong đoạn miêu tả về cái chết của Augustus Ceasar, ông đã viết:
Trong lúc ngài hỏi một số người mới đến từ thành thị về con
gái của Drusus, cô gái đang ốm, ngài đột ngột qua đời khi hôn
Livia, thốt ra những lời cuối cùng: “Hãy luôn nhớ đến cuộc hôn
nhân của chúng ta, Livia, và vĩnh biệt,” rồi may mắn có được một
cái chết dễ dàng và đúng như cách mà ngài hằng mong muốn.
Thường thì, mỗi khi nghe rằng ai đó chết nhanh chóng và không
đau đớn, ngài lại cầu rằng ngài và thân thể ngài sẽ có được một cái
chết êm ả tương tự, đó là khái niệm ngài quen dùng [28, tr.185].
Từ thế kỉ XII đến XV, sự lớn mạnh của đạo Thiên Chúa và đức tin cuộc
sống con người là quà tặng từ Chúa đã tái củng cố quan điểm phản đối an tử
13
của Hippocrates. Trong ba thế kỉ này, sự nhất trí trong các quan điểm y học
phản đối an tử đạt đến đỉnh điểm. Đến thế kỉ XVII, hệ thống Thông luật với
những quy định trừng phạt hoặc không chấp nhận tự tử và an tử đã không chỉ
phủ khắp các quốc gia là cái nôi của hệ thống này, mà còn vươn tới các thuộc
địa. Có thể kể đến việc các nhà làm luật của Providence Plantations, vùng
lãnh thổ sau này trở thành Rhode Island, đã tuyên bố vào năm 1647, rằng
Tự tử tuyệt đối là hành vi trái tự nhiên nhất, và hội đồng
lập pháp nay tuyên, rằng, người nào thực hiện hành vi này, tự tử
chỉ vì chủ tâm ghét bỏ chính cuộc sống của mình hay niềm hạnh
phúc của người khác... thì đồ đạc và tài sản của họ sẽ do nhà vua
định đoạt [44].
Tuy nhiên không thể phủ định một số động thái tích cực ủng hộ an tử
trong suốt thời kì này. Thomas More (1478-1535) thường được nhắc đến với
tư cách là người Thiên chúa giáo đầu tiên có những đề cập nổi bật đến an tử
trong tác phẩm Utopia của ông, trong đó những linh mục theo chủ nghĩa
không tưởng đã khuyến khích an tử khi người bệnh không thể cứu chữa và
phải chịu đau đớn (nhưng chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của bệnh
nhân). “Nếu một căn bệnh không chỉ đem lại đau đớn mà còn khổ sở không
dứt, thì các linh mục và chính quyền nên ủng hộ người này…tự giải thoát khỏi
cuộc sống đắng cay… hoặc cho phép người khác giải thoát giúp họ"[44]. Vấn
đề duy nhất khi sử dụng những lời này là việc Thomas More, một con chiên
mộ đạo, dùng Utopia như một công cụ chế giễu nhạo báng. Nhà triết học
người Anh, Francis Bacon (1561-1621), là người đầu tiên thảo luận về việc
kéo dài sự sống là một nhiệm vụ y khoa mới, gồm ba nhiệm vụ: duy trì sức
khỏe, chữa trị bệnh tật và kéo dài sự sống. Bacon cũng khẳng định rằng, “Họ
phải trau dồi các kĩ năng và sự tập trung chú ý mà nhờ đó những người đang
chết có thể thoát khỏi cuộc sống một cách dễ dàng và lặng lẽ hơn” [44]. Như
14
vậy Bacon chỉ đề cập đến khía cạnh bên ngoài của an tử, hay cái chết êm ái
cho cơ thể, không có sự chuẩn bị về mặt tinh thần. Có vẻ như ông không cất
tiếng nói cho an tử, mà đang ủng hộ một khái niệm khác được cho là tốt đẹp
hơn, đó là chăm sóc giảm nhẹ.
Còn ở các nước châu Âu, nhất là các nước chủ yếu theo đạo Thiên
Chúa, bàn luận về vấn đề an tử thậm chí còn là điều cấm kị cho đến thời kỳ
Khai sáng thế kỉ XVIII. Nhiều nhà văn đã tấn công vào các nhà thờ để truyền
bá về mọi khía cạnh đời sống, bao gồm cả an tử và tự tử. Mặc dù vậy, vấn đề
này không được quan tâm nhiều và rộng khắp. Và nó đã chứng minh sự nhất
thời của mình, khi dưới sự lãnh đạo của các nhà truyền giáo, một cuộc phản
công mang tính chất tôn giáo đã diễn ra vào cuối thế kỉ XVIII. Làn sóng phục
hưng tôn giáo, bắt đầu với cuộc Đại thức tỉnh vào khoảng giữa những năm
1700, đã ngăn cản những người theo chủ nghĩa thế tục và thuyết bất khả tri ở
cả hai bờ Đại Tây Dương dấy lên phong trào ủng hộ an tử. Và đến cuộc Đại
thức tỉnh lần hai vào những năm đầu của thế kỉ 19, những nhà truyền giáo tích
cực đã tăng cường lên án mạnh mẽ tự tử và an tử. Điểm sáng duy nhất cho an
tử trong thời kì này là vào cuối thế kỉ XVIII, ngày 1/6/1794, một đạo luật đã
được ban hành tại Vương quốc Phổ, trong đó giảm nhẹ hình phạt cho những
người thực hiện việc giải thoát cho bệnh nhân mắc bệnh không thể cứu chữa.
Sau đó không lâu, năm 1828, một văn bản pháp luật được ban hành tại
New York trong đó quy định rõ ràng an tử là hành vi trái pháp luật. Nhiều
bang và vùng lãnh thổ khác đã noi theo tấm gương này. Vào khoảng giữa năm
1857 và 1865, một Ủy ban New York do Dudley Field đứng đầu đã soạn thảo
dự luật hình sự trong đó nghiêm cấm việc trợ giúp tự tử, và đặc biệt, là hành
vi “cung cấp cho người khác vũ khí chết người hoặc thuốc độc, khi biết rằng
người đó có ý định sử dụng thuốc hoặc vũ khí này để kết thúc cuộc đời của
chính mình” [44]. Tại thời điểm Hiến pháp sửa đổi lần thứ 14 được thông qua,
15
an tử và trợ tử là tội hình sự ở hầu hết các bang. Bộ luật hình sự của Field
được thông qua tại vùng lãnh thổ Dakota năm 1877, New York năm 1881, và
tiếng nói của nó trở thành chuẩn mực cho các đạo luật của một số bang phía
Tây khác trong cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, như California đã pháp điển
hóa quy phạm cấm an tử năm 1874, sử dụng cách diễn đạt tương tự như trong
Bộ luật của Field.
Một cột mốc quan trọng trong tiến trình lịch sử của quyền an tử là việc
chiết xuất được morphine vào thế kỉ XIX và chất này được sử dụng làm thuốc
giảm đau trên diện rộng. Khi việc sử dụng thuốc giảm đau trở nên thông dụng
và phổ biến, Samuel Williams, một giáo viên, đã có bài phát biểu đầu tiên ủng
hộ cho an tử tích cực, trong đó đề cập đến việc thuốc không chỉ được dùng để
giảm các cơn đau không thể chữa trị mà còn để giải thoát cho bệnh nhân một
cách có chủ định.
Trong mọi trường hợp, người thực hành y nên thực hiện sứ
mệnh, là bất cứ khi nào bệnh nhân thực sự mong muốn, dùng
chloroform, hoặc chất gây mê khác mà bản thân nó hoặc nó thay thế
cho chloroform, ngay lập tức tiêu trừ ý thức, và ngay lập tức giúp
người đang chịu khổ sở được chết nhanh chóng và không đau đớn;
để ngăn chặn mọi nguy cơ lạm dụng có thể xảy ra với sứ mệnh này
cần có quy định phòng ngừa; và những biện pháp chứng minh sự
minh bạch và rõ ràng, rằng phương thức này chỉ áp dụng khi có
mong muốn sáng tỏ của bệnh nhân [35].
Mặc dù Tạp chí hiệp hội y khoa Hoa Kỳ coi bài phát biểu của
Samuel Williams là cố gắng khiến “người bác sĩ khoác chiếc áo của tên
đao phủ” [38, tr.11], trong suốt những năm cuối thế kỉ XIX, nó đã nhận được
sự chú ý nghiêm túc trên nhiều tạp chí y khoa khác và các hội nghị khoa học.
16
Nhưng hầu hết các bác sĩ vẫn giữ quan điểm thuốc giảm đau có thể dùng để
giảm bớt sự đau đớn, không phải thúc đẩy cái chết.
Thế kỉ XX là thế kỉ phát triển rực rỡ của an tử và quyền an tử. Sang thế
kỉ mới ngành y khoa đã có những bước tiến lớn. Việc sử dụng các phương
pháp khoa học và nguyên tắc y dược hiện đại đã củng cố quyền kiểm soát của
người hành nghề y đối với các trường đại học và các khóa đào tạo y khoa,
cuộc tranh luận về an tử chuyển sang xuất hiện trên các báo ngoài ngành và
các diễn đàn chính trị. Khoảng giữa năm 1905 và 1906, một dự luật hợp pháp
hóa an tử bị bác tại cơ qua lập pháp Ohio với 79 phiếu chống trên 23 phiếu
thuận. Năm 1906, một đề xướng hợp pháp hóa an tử không chỉ cho người trưởng
thành mắc bệnh không thể chữa trị, mà còn cả trẻ chịu dị tật lớn hoặc thiểu năng
được đưa ra và cũng bị bác. Sau năm 1906, sự hứng thú của công luận với vấn
đề an tử lại giảm xuống. Mãi đến tận những năm 1915 – 1917, cuộc tranh luận
về an tử một lần nữa bùng nổ sau sự kiện bác sĩ Harry John Haiselden thuộc
bệnh viện Hoa Kỳ - Đức tại Chicago cho phép một trẻ trai dị dạng được chết
thay vì tiến hành phẫu thuật và việc ra mắt bộ phim The Black Stork có nội dung
về an tử cho trẻ vị thành niên. Năm 1922, Nga giảm hình phạt đối với an tử trong
Bộ luật hình sự nhưng sau đó ít lâu văn bản này đã bị bãi bỏ.
Năm 1935, Hiệp hội Công nhận An tử tự nguyện (VELS), sau này đổi
tên thành Hiệp hội An tử, là tổ chức an tử đầu tiên của thế giới do Charles
Killick Millard, một bác sĩ công, đã thành lập tại London, Anh. Một năm sau
đó, Thượng viện Anh đã bác đề nghị hợp pháp hóa an tử. Còn tại Hoa Kỳ,
tranh cãi về an tử một lần nữa bắt lửa khi nền kinh tế lớn mạnh nhất thế giới
đang đứng trước cuộc Đại khủng hoảng. Năm 1937 thượng nghị sĩ Nebraska
John Comstock đã trình một dự luật tên Luật an tử tự nguyện lên Nghị viện
Mỹ. Dự luật này không bao giờ được đem ra bỏ phiếu nhưng đã chứng minh
một sự quan tâm mới tới việc hợp pháp hóa hành vi an tử.
17
Các điều tra ý kiến cộng đồng năm 1937 cho thấy rằng 45%
người Hoa Kỳ ủng hộ quan điểm của Harry John Haiselden rằng
an tử cho trẻ sinh ra bị dị dạng vĩnh viễn hoặc dị tật tinh thần là có
thể chấp nhận được [38, tr.33].
Chỉ một năm sau đó, ngày 16/1/1938, Hiệp hội quốc gia về Hợp pháp
hóa An tử của Hoa Kỳ (NSLE), không lâu sau đổi tên thành Hiệp hội An tử
Hoa Kỳ (ESA), được Đức giám mục Charles Francis Potter thành lập tại
New York. Theo Thời báo TIME,
Ngài và một nhóm quy tụ những người có tiếng khác tin vào
quyền được kết thúc một cách nhẹ nhàng của một cá nhân bị bệnh
không thể cứu chữa mạnh mẽ đến mức họ…thành lập một Hiệp hội
quốc gia về Hợp pháp hóa An tử… Ủy viên của tổ chức bao gồm cả
bác sĩ Clarence Cook Little thuộc Hiệp hội Kiểm soát Ung thư Hoa
Kỳ và Liên đoàn Kế hoạch hóa sinh sản Hoa Kỳ và thư kí Leon
Fradley Whitney của Hiệp hội Ưu sinh Hoa Kỳ [44].
Ngoài ra, thành viên hội còn có gần 2000 bác sĩ và hơn 50 nhà truyền
giáo. Tại thời điểm này, an tử được phần đông người hành nghề y ủng hộ.
Sang những năm 40 của thế kỉ XX, hợp pháp hóa quyền an tử tưởng
chừng chỉ còn là vấn đề thời gian đột nhiên vấp phải trở ngại – chiến tranh thế
giới với sự nổi dậy của Đức Quốc Xã. Tháng 10/1939, giữa cuộc khủng hoảng
chiến tranh bùng nổ, Hitler ra lệnh an tử diện rộng đối với những người đau
ốm và tàn tật. Chiến dịch mang tên Aktion T4, một chương trình an tử của
Đức Quốc Xã để loại bỏ “đời sống không đáng sống” [50] bước đầu tập trung
vào trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Nữ hộ sinh và bác sĩ được lệnh thống kê tên những
trẻ từ 3 tuổi trở xuống có dấu hiệu tâm thần chậm phát triển, dị dạng cơ thể,
hoặc những triệu chứng khác trong một bảng thống kê của Bộ y tế Đức Quốc
Xã. Chương trình an tử này của Đức Quốc Xã nhanh chóng mở rộng ra những
18
trẻ khuyết tật lớn hơn và người trưởng thành. Một thông tư vào tháng 10/1939
của Hitler có hiệu lực trở về từ ngày 1/9, đã mở rộng “quyền lực của các bác
sĩ được chỉ định đích danh có thể ban cho những người, theo cách đánh giá
nhân văn, là không thể chữa trị sau khi đã chuẩn đoán cẩn thận tình trạng
đau yếu của họ, một cái chết êm ả” [50]. Với động thái này, phong trào an tử
đang lên lâm vào thế bị động và tìm mọi cách chứng minh cái mình ủng hộ
không giống như cỗ máy giết người Đức Quốc Xã. Hệ quả năm 1950, Hiệp
hội Y khoa Thế giới đã bỏ phiếu về vấn đề kiến nghị tới các hiệp hội y khoa
quốc gia lên án an tử dưới mọi hình thức. Cùng năm Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ
tuyên bố phần lớn bác sĩ không tin vào an tử. Ngay cả công chúng cũng rơi
vào trạng thái lưỡng lự. Một điều tra ý kiến người dân Hoa Kỳ liệu họ có
đồng ý để một bác sĩ được phép kết thúc cuộc sống của bệnh nhân không có
khả năng chữa trị nếu bệnh nhân và gia đình bệnh nhân yêu cầu, “chỉ 36% nói
có, thấp hơn gần 10% so với những năm cuối thập niên 30” [38,tr.95].
Đứng trước tình hình này, năm 1952, VELS và ESA đã gửi một bản
kiến nghị đến Ủy ban quyền con người Liên hợp quốc (UNCHR) yêu cầu sửa
đổi Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (UDHR) để đưa thêm vào
Quyền của những người chịu đựng bệnh tật không thể cứu
chữa được thực hiện an tử hoặc cái chết êm ả.... Trước một sự thật
rằng quyền này không chỉ phù hợp với các quyền và sự tự do được
quy định trong UDHR mà còn cần thiết được công nhận, chúng tôi
bằng văn bản này kiến nghị UN tuyên bố quyền an tử của những
bệnh nhân không thể cữu chữa [36, tr.59].
Eleanor Roosevelt, Chủ tịch UNCHR, không đưa kiến nghị này lên
UNCHR. Trong hai thập kỉ tiếp theo, phong trào ủng hộ an tử vẫn nổi lên
mạnh mẽ ở nhiều nơi, có thể kể đến bản chúc thư y tế (living will) đầu tiên do
19
luật sư Louis Kutner soạn, dự luật an tử của bác sĩ Walter W. Sackett ở
Florida, dự luật an tử tự nguyện ở Idaho…nhưng tất cả đều không thành công.
Mãi đến những năm 1970, an tử và quyền an tử mới đạt được những
thành công bước đầu về mặt pháp lý. Năm 1970 ESA đã “hoàn tất việc phân
phát 60.000 chúc thư y tế” [26]. Năm 1973 Hiệp hội Bệnh viện Mỹ ban hành
Quy định về quyền của bệnh nhân, trong đó có quy định về quyền từ chối
điều trị. Cùng năm, bác sĩ Gertruida Postma, người đã tiêm cho mẹ mình
một mũi thuốc an tử, chỉ phải nhận mức phạt nhẹ tại Hà Lan. Sự việc này đã
châm ngòi cho phong trào an tử tại Hà Lan với sự ra đời của Hiệp hội An tử
tự nguyện Hà Lan (NVVE). Năm 1974, ESA đổi tên thành Hiệp hội Quyền
An tử Hoa Kỳ (SRD), tổ chức đầu tiên dùng tới khái niệm quyền an tử. Năm
1975 NVVE thành lập Ban Hỗ trợ Thành viên để tư vấn cho những người
sắp chết. “Trong năm đầu tiên đã nhận được 25 yêu cầu hỗ trợ”[26]. Năm
1976 Tòa tối cao New Jersey cho phép cha mẹ Karen Ann Quinlan ngắt mặt
nạ khí, tuyên bố rằng đó là sự chọn lựa của bản thân cô. Trường hợp của
Quinlan trở thành bước ngoặt lớn về mặt luật pháp. Năm 1976 Đạo luật Cái
chết tự nhiên đầu tiên được thông qua tại California. Văn bản này đã tạo chỗ
đứng pháp lý cho chúc thư y tế và cho phép người bị bệnh nan y có quyền
rút các điều trị y tế duy trì sự sống khi cái chết được cho là cận kề. Cùng
năm, 10 bang khác của Hoa Kỳ thông qua luật chết tự nhiên. Năm 1977 một
đề xuất của người dân lên Nghị viện Liên bang Thụy Sỹ về việc thực hiện an
tử cho bệnh nhân không thể chữa trị tại bang Zurich “được thông qua với
203.148 phiếu thuận trên 144.822 phiếu chống” [26]. Nhưng Nghị viện Liên
bang không tuân theo đề xuất này.
Ngày 05/05/1980 giáo hoàng John Paul II đã ban hành Tuyên ngôn An
tử phản đối cái chết êm ả nhưng cho phép sử dụng rộng rãi các chất giảm đau
và quyền từ chối điều trị đặc biệt để duy trì sự sống. Trong năm này, Hiệp hội
20
Hemlock do Derek Humphry thành lập tại Santa Monica, California đã ủng
hộ những thay đổi về mặt pháp lý và tuyên truyền các thông tin về an tử.
Hemlock cũng khởi xướng chiến dịch trợ tử tại Hoa Kỳ. “Số lượng thành viên
trong nước của Hemlock lên đến 50.000 chỉ trong vòng 10 năm” [26]. Các
hiệp hội về quyền an tử cũng được thành lập trong năm 1980 tại Pháp, Đức và
Canada. Năm 1980 cũng chào mừng sự ra đời của Liên hiệp quốc tế về Quyền
an tử tại Oxford, Anh với sự tham gia của 27 nhóm đến từ 18 quốc gia. Năm
1982, EXIT ADMD Suisse Romande của cộng đồng nói tiếng Pháp tại Thụy
Sỹ được thành lập và sau đó vào tháng 4 EXIT (Deutsche Schweiz) của cộng
đồng nói tiếng Đức và Ý tại Thụy Sỹ cũng ra đời. Cả hai tổ chức ban đầu chỉ
cung cấp thông tin cho thành viên của mình, nhưng sau đó bắt đầu thực hiện
trợ tử. Hành vi này ở Thụy Sỹ không bị luật điều chỉnh, trừ khi vì động cơ ích
kỷ. Năm 1984 quy định về Văn bản chỉ định các y pháp trị liệu (Advance care
directive) được công nhận tại 22 bang và quận Columbia. Cùng năm Tòa tối
cao Hà Lan thông qua luật an tử tự nguyện và trợ tử theo các điều kiện
nghiêm ngặt. Năm 1987 Hội nghị đoàn luật sư bang California đã thông qua
Nghị quyết số 3-4-87 và trở thành cơ quan chính phủ đầu tiên chấp nhận hoạt
động an tử. Năm 1988 Hiệp hội giáo đoàn nhất thể phổ độ đã thông qua một
nghị quyết quốc gia về việc trợ tử cho người bệnh vô phương cứu chữa, trở
thành cơ quan tôn giáo đầu tiên chấp nhận quyền an tử.
Năm 1990 Hiêp hội Y khoa Hoa Kỳ đã đưa ra quan điểm chính thức
rằng với sự đồng thuận sau khi được cung cấp đủ thông tin, một bác sĩ có thể
rút bỏ điều trị cho bệnh nhân cận kề cái chết, và cũng có thể ngừng các hỗ trợ
sống cho bệnh nhân hôn mê vĩnh viễn. Cùng năm Tòa tối cao liên bang đưa ra
phán quyết về vụ Nancy Beth Cruzan – động thái nhận được nhiều sự chú ý
bởi đây là vụ việc đầu tiên liên quan đến quyền an tử được Tóa tối cao liên
bang thụ lý. Phán quyết công nhận rằng một người trưởng thành đầy đủ nhận
21
thức có các quyền tự do được hiến pháp bảo vệ, trong đó có quyền từ chối
điều trị y khoa; nhưng cũng tán thành phán quyết của Tòa tối cao Missouri về
việc phải có minh chứng rõ ràng và thuyết phục về mong muốn được an tử
của người bệnh khi họ không còn khả năng đưa ra quyết định. Bên cạnh đó,
Quốc hội cũng đã thông qua Đạo luật quyền Tự quyết của bệnh nhân, trong
đó yêu cầu các bệnh viện nhận ngân sách thông báo cho bệnh nhân rằng họ có
quyền yêu cầu hoặc từ chối điều trị. Đạo luật này có hiệu lực một năm sau đó.
Năm 1991, bang Washington đã đưa ra dự luật bỏ phiếu số 119 hợp pháp hóa
trợ tử nhưng bị bãi bỏ. Ngày 03/11/1992, cử tri California đã bãi bỏ Đề nghị
số 161, dự luật Cái chết nhân phẩm của California, trong đó cho phép bác sĩ
đẩy nhanh cái chết bằng hành vi chủ động hoặc kê đơn để người bệnh không
có khả năng cứu chữa tự thực hiện, với “tỷ lệ bỏ phiếu là 54 – 46%”[44]. Đến
tháng 11/1994, các cử tri Oregon đã thông qua Đạo luật số 16, một đạo luật về
Cái chết nhân phẩm trong đó cho phép người bệnh không thể cứu chữa, theo
các biện pháp bảo vệ thích hợp, được bác sĩ kê đơn để kết thúc cuộc sống một
cách nhân đạo và nhân phẩm. “Tỷ lệ bỏ phiếu là 51-49%” [26]. Năm 1995,
Vùng lãnh thổ phía Bắc Australia thông qua luật an tử. Luật có hiệu lực từ
năm 1996 và bị bác bởi Nghị viện Australian năm 1997. Chỉ bốn trường hợp
được tiến hành theo luật này, tất cả đều do bác sĩ Philip Nitschke thực hiện.
Ngày 30/04/1997, tổng thống Clinton ký Luật cấm tài trợ trợ tử năm 1997,
theo đó việc sử dụng ngân sách phục vụ cái chết của người bệnh bị cấm
hoàn toàn. Năm 1998, Ủy ban dịch vụ y tế Oregon quyết định rằng việc chi
trả cho vấn đề an tử sẽ lấy từ ngân sách theo chương trình Kế hoạch Y tế
Oregon để người nghèo không bị phân biệt đối xử. Cùng năm Michigan đề
xuất Đề nghị B hợp pháp hóa trợ tử, và “đề nghị thất bại với tỷ lệ 29% thuận
trên 71% chống” [44].
22
Khác biệt với tình trạng thất bại liên tiếp trong những năm cuối của
thế kỉ XX, thế kỉ XXI chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của an tử và quyền
an tử. Năm 2000, Hà Lan thông qua luật an tử, trở thành quốc gia đầu tiên
trên thế giới hợp pháp hóa quyền này. Luật pháp Hà Lan cho phép an tử và
trợ tử có hiệu lực thi hành từ 01/02/2002. Tiếp đó, năm 2002, Bỉ cũng đã
thông qua một đạo luật tương tự Hà Lan. Ngày 19/02/2008, nghị viện
Luxembourg ban hành đạo luật hợp pháp hóa trợ tử và an tử. Ngày 04/11,
đạo luật Cái chết nhân phẩm của Washington được thông qua, giúp
Washington trở thành bang thứ hai của Mỹ hợp pháp hóa trợ tử. Ngày 05/12
cùng năm, thẩm phán bang Montana bà Dorothy McCarter tuyên rằng người
dân có quyền được trợ tử, và biến Montana thành bang thứ ba tại Hoa Kỳ
hợp pháp hóa việc trợ tử hỗ trợ được chết. Nhưng mãi đến tận 31/12/2009,
Tòa tối cao bang Montana mới xác nhận rằng trợ tử không đi ngược lại
chính sách công tại in Montana, pháp luật bang không truy tố bác sĩ của
bang khi họ giúp đỡ người bệnh nan y được chết nhưng từ chối đưa ra phán
quyết liệu an tử có phải một quyền nên được hiến pháp Montana quy định.
Ngày 20/05/2013 Vermont trở thành bang thứ tư cho phép trợ tử, theo đạo
luật Quyết định kết thúc cuộc sống – đạo luật trợ tử đầu tiên tại Hoa Kỳ
được hợp pháp hóa theo đúng trình tự lập pháp (Oregon và Washington
thông qua đạo luật tương tự bằng việc tổ chức cho công dân bỏ phiếu, đạo
luật của Montana thông qua một vụ việc xét xử). Tương tự luật của Oregon
và Washington, luật Vermont cũng quy định biện pháp bảo đảm để quản lý
những bác sĩ được phép kê đơn thuốc trợ tử cho bệnh nhân nan y của bang
này. Tuy nhiên, những biện pháp bảo đảm này sẽ hết hạn vào ngày
01/07/2016, sau thời điểm này, “việc thực hành kê đơn thuốc kết thúc cuộc
sống sẽ chịu sự giám sát của các tiêu chuẩn hành nghề đang điều chỉnh
hành vi của bác sĩ trong các khía cạnh khác của y học” [33].
23
Và đến ngày 02/03/2014, Vương quốc Bỉ đã trở thành quốc gia đầu
tiên hợp pháp hóa quyền an tử cho trẻ vị thành niên mắc bệnh nan y và
không thể chữa trị. Hà Lan cũng có một quy định tương tự nhưng cấm áp
dụng cho trẻ dưới 12 tuổi. Trong khi đó, ngày 05/06/2014, Quebec trở
thành thị trấn Canada đầu tiên thông qua luật an tử.
- Về ý kiến cộng đồng, có thể thấy xu hướng ủng hộ quyền an tử ngày
càng mạnh và nhu cầu hưởng thụ quyền an tử trong thực tế ngày càng nhiều.
Trong suốt thời kì cổ đại, việc sử dụng an tử như một phương thức chống lại
đau đớn kéo dài được ủng hộ rộng rãi, và cách thường được sử dụng nhất là
cung cấp cho bệnh nhân thuốc độc khi họ yêu cầu. Đến cuối thế kỷ XX, nhiều
cuộc điều tra xã hội học được thực hiện trên toàn cầu cho thấy:
+ Phần lớn người hành nghề y mong muốn giúp đỡ bệnh nhân của
mình kết thúc cuộc sống: Một cuộc thăm dò ý kiến về vấn đề trợ tử của
trường đại học Glasgow năm 1996 đã cho thấy giới y khoa ủng hộ mạnh
mẽ hợp pháp hóa trợ tử. Phần lớn người hành nghề y (54%) mong muốn
luật pháp được sửa đổi cho phép trợ tử trong một số trường hợp nhất định,
trong khi chỉ có 36% phản đối. 55% người được khảo sát cho rằng điều này
chỉ nên được được cho phép đối với những người trong tình trạng nan y
hoặc chịu đựng đau đớn khủng khiếp về mặt thể xác hoặc tinh thần.
+ Phần đông công chúng ủng hộ việc hợp pháp hóa an tử: Báo cáo về
quan điểm xã hội Anh năm 1996 dựa trên nhiều cuộc điều tra công chúng
toàn quốc cho thấy rằng mặc dù số liệu chính xác có giao động nhưng tất
cả đã thể hiện một quan điểm thống nhất là phần đông ủng hộ việc hợp pháp
hóa an tử tự nguyện, với tỷ lệ 82%. “Tỷ lệ ủng hộ lớn nhất (86%) đối với
trường hợp cá nhân trong tình trạng bệnh lý không thể cứu chữa và đang
sống phụ thuộc vào thiết bị hỗ trợ, không thể quyết định về tương lai của
chính bản thân mình – như trong trường hợp hôn mê vĩnh viễn” [27].
24
Tỷ lệ ủng hộ này còn lớn hơn tỷ lệ ủng hộ trong trường hợp bệnh nhân
trong tình trạng bệnh lý không thể chữa trị, chịu nhiều đau đớn và ở giai đoạn
cuối (80%). Trong khi đó, không một cuộc điều tra khảo sát trên phạm vi quốc
gia nào cho thấy phần đông phản đối an tử tự nguyện. Thậm chí cuộc khảo sát
do nhóm chống an tử tự nguyện có tên Doctors Who Respect Human Life năm
1987 cho thấy 72% người tham gia ủng hộ hợp pháp hóa an tử tự nguyện. Thực
tế, các nhóm chống an tử tự nguyễn vẫn chưa tiến hành được một cuộc điều tra
nào ở Anh không cho thấy phần đông công chúng ủng hộ an tử tự nguyện.
Tương tự, 64% dân số Mỹ cho rằng bác sĩ nên được cho phép kết thúc cuộc
sống của bệnh nhân trong tình trạng nan y và chịu đau đớn nếu người bệnh
mong muốn được chết theo Khảo sát của trung tâm Roper năm 1990. Tại Úc, tỷ
lệ còn cao hơn, 78% ủng hộ quyền chấm dứt cuộc sống bệnh nhân của bác sĩ
theo Khảo sát của Trung tâm nghiên cứu Roy Morgan năm 1995.
+ Người lớn tuổi và người khuyết tật ủng hộ an tử tự nguyện mạnh mẽ
hơn: Các nhóm chống an tử tự nguyện thường khẳng định rằng việc an tử
hoặc trợ tử có thể đe dọa đến nhóm người yếu thế nhất trong xã hội – cụ thể là
người già và người khuyết tật. Thực tế chứng minh điều ngược lại, những
nhóm này thể hiện sự ủng hộ còn cao hơn. Cuộc điều tra được cho là đầu tiên
nhắm vào đối tượng thuộc nhóm này là của Yours magazine vào tháng
11/1994 trên nhóm người đã về hưu, cho thấy “92% phản hồi rằng bác sĩ nên
được cho phép kết thúc cuộc sống của bệnh nhân bệnh nan y mong muốn
được chết. Chỉ 29% đồng ý rằng hợp pháp hóa an tử đặt ra nguy cơ an tử trái
nguyện vọng một cách vô nhân đạo trên thực tế” [28].
+ Phần đông người theo Công giáo La Mã ủng hộ quyền an tử: Có một
quan niệm sai lầm rằng người theo Kitô giáo phản đối an tử tự nguyện và trợ
tử. Rõ ràng, hệ thống giáo hội phản ứng an tử tự nguyện nhưng nghiên cứu
năm 1993 của NOP cho thấy rằng 73% người theo Công giáo tại Vương quốc
Anh đồng ý rằng bác sĩ nên được cho phép giúp đỡ bệnh nhân không thể cứu
chữa giải thoát.
25
+ Và sự ủng hộ an tử ngày càng lớn mạnh. Các cuộc điều tra không chỉ cho
thấy rằng an tử và trợ tử được phần đông cộng đồng ủng hộ, mà còn thể hiện sự
ủng hộ ngày càng lớn mạnh dành cho vấn đề này. Tại Anh, theo Báo cáo về quan
điểm xã hội năm 1996, “Tỷ lệ ủng hộ việc cho phép hỗ trợ y tế trong việc chấm
dứt cuộc sống của người bệnh không có khả năng chữa trị và chịu nhiều đau đớn
tăng từ 75% năm 1984 lên 79% năm 1989 và 82% năm 1994” [27].
Nghiên cứu của NOP năm 1993 ghi nhận tỷ lệ tăng từ 69% (1976)
lên 79% (1993).
Đến thế kỉ XXI, khi quyền an tử đã được hợp pháp hóa tại nhiều quốc
gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, sự ủng hộ không chỉ dừng lại ở việc bày tỏ
quan điểm hay ghi nhận những trường hợp nhỏ lẻ mà thể hiện qua nhu cầu
thực tế ngày càng tăng lên. Tại Hà Lan, quốc gia thứ hai trên thế giới hợp
pháp hóa quyền an tử, số lượng các trường hợp đã thực hiện an tử đã tăng lên
gấp 2 lần trong vòng 6 năm (từ gần 2000 vụ năm 2006 đến hơn 4000 năm
2012) và có xu hướng tiếp tục tăng mạnh trong năm 2014.
Hình 1.1: Các trường hợp hưởng thụ quyền an tử tại Hà Lan,
2006 – 2014 [17]
26
Tại Bỉ, quốc gia thứ ba trên thế giới hợp pháp hóa quyền an tử, số
lượng người đăng ký được hưởng thụ quyền giữ mức tăng ổn định từ thời
điểm luật được thông qua, và đến năm 2012 đã vượt quá 1400 trường hợp.
Hình 1.2: Các trường hợp hưởng thụ quyền an tử tại Bỉ,
2002 – 2012 [ 54]
Chính phủ bang Oregon hợp pháp hóa trợ tử vào năm 1994 và đạo luật chính
thức có hiệu lực từ 1998, từ đó đến năm 2011, số lượng các trường hợp yêu cầu
hưởng thụ quyền tăng từ 16 (1998) lên 71 (2011), đồng nghĩa với việc tăng 450%
Hình 1.3: Các trường hợp thực hiện trợ tử theo Luật Cái chết nhân
phẩm tại bang Oregon, Hoa Kỳ, 1998 – 2011 [42]
27
Trong khoảng thời gian tương tự, cơ quan có thẩm quyền của Thụy Sĩ
đã ghi nhận mức tăng thậm chí còn lớn hơn bang Oregon, từ 43 trường hợp
năm 1998 đến 297 năm 2009, “đồng nghĩa với việc tăng 700%” [25].
1.3. Đặc điểm và ý nghĩa của quyền an tử
1.3.1. Đặc điểm
- Quyền an tử là một quyền nhân thân
Quyền an tử cần được định nghĩa như một nhân thân bởi về bản chất:
+ Quyền an tử gắn liền với một chủ thể nhất định và không thể chuyển
giao được cho chủ thể khác. Một chủ thể chỉ có quyền và có khả năng hưởng
thụ quyền an tử khi đó là chủ thể sống, trong khi sống và quyền sống là tài
sản thuộc sở hữu riêng của mỗi người. Hay nói cách khác một cá nhân
không thể áp đặt quyền an tử lên một chủ thể nào khác ngoài chính bản thân
mình, đơn giản bởi sự sống của chủ thể đó không thuộc phạm vi có thể quyết
định rằng chấm dứt hay không của họ. Ngay cả trong trường hợp người bệnh
có chúc thư y tế và trao quyền quyết định vào tay một người khác trước khi
mất khả năng tự quyết thì cũng không thể coi là người bệnh đã chuyển giao
quyền an tử của họ cho người này. Bởi việc người được trao quyền sau đó sẽ
quyết định như thế nào đều đã nằm trong dự tính của người bệnh, nên khi
người bệnh thực hiện các thủ tục trên thì đồng nghĩa với việc họ đã quyết
định chấp nhận thực hiện quyền an tử của mình trong trường hợp lâm vào
tình trạng bệnh lý không thể cứu chữa và nhằm mục đích duy nhất là thoát
khỏi đau đớn, khổ sở.
+ Quyền an tử mang tính chất phi tài sản. Quyền an tử không thể đem
ra mua bán, cầm cố, thế chấp…bởi chủ thể khác không thể đặt mình vào vị
thế của người có quyền để hưởng thụ quyền này
- Quyền an từ là đặc quyền
Đồng thời, quyền an tử cũng là một đặc quyền. Điều này không có
28
nghĩa quyền an tử chỉ thuộc về một nhóm chủ thể cá biệt trong xã hội, mà đặc
quyền có nghĩa quyền an tử chỉ phát sinh khi chủ thể hưởng thụ quyền ở trong
tình trạng đặc biệt, khi rơi vào trạng thái bệnh lý không còn khả năng cứu
chữa. Đây là đặc điểm quan trọng giúp phân biệt giữa hành vi hưởng thụ
quyền an tử và hành vi tự tử, cũng như phân biệt giữa hành vi thực hiện an tử
và hành vi trợ giúp, xúi giục người khác tự tử. Nếu như quyền an tử và thực
hiện an tử chỉ áp dụng đối với những bệnh nhân mắc bệnh nan y, không có hy
vọng chữa trị, và trong luật pháp một số quốc gia còn quy định thêm rằng thời
hạn sống không còn dài, thì tự tử và hành vi xúi giục, trợ giúp người khác tự
tử có thể được thực hiện bởi các chủ thể không mắc bệnh hoặc đối với các
chủ thể không mắc bệnh, vì thế bị coi là hành vi có hại cho xã hội, và bị luật
pháp nhiều quốc gia quy định là tội hình sự.
Hiện nay hầu hết các quốc gia quy định chủ thể của quyền an tử là
người thành niên, có đủ năng lực hành vi để tự ý thức về tình trạng của bản
thân cũng như đưa ra quyết định về cuộc sống của mình một các chính chắn
nhất. Tuy nhiên xu hướng trẻ hóa chủ thể của quyền an tử đã và đang phát
triển, nhận được sự ủng hộ. Theo quan điểm của người viết, quyền an tử chỉ
nên bị chi phối bởi yếu tố tình trạng bệnh lý, không nên dựa trên yếu tố độ
tuổi để đảm bảo tính khách quan của quyền.
- Quyền an tử là quyền thực hiện được khi có sự hỗ trợ của chủ thể có
thẩm quyền
Quyền an tử không giống như các quyền khác là chủ thể có thể tự do
hưởng thụ quyền bằng khả năng của mình. Một chủ thể khi hội tụ đủ các điều
kiện chỉ có thể hưởng thụ quyền thông qua sự trợ giúp của người khác. Sự trợ
giúp này có thể biểu hiện bằng hành vi hành động (tiêm thuốc gây chết người
trong an tử chủ động) hoặc không hành động (không tiếp tục các hỗ trợ y tế
trong an tử bị động). Ngay cả trong trường hợp trợ tử, khi người bệnh tự thực
29
hiện việc đưa thuốc gây chết vào cơ thể hoặc uống thuốc gây chết, họ vẫn cần
đến sự trợ giúp của bác sĩ trong việc kê đơn và có được các loại thuốc mình
cần một cách hợp pháp. Mọi hành vi chấm dứt sự sống không có sự hỗ trợ của
chủ thể có thẩm quyền đều mang tính chất chủ quan, bộc phát và đây chính là
đặc điểm nữa giúp phân biệt giữa việc hưởng thụ quyền an tử và tự tử dù chủ
thể có ở trong cùng một tình trạng bệnh lý không thể cứu chữa.
Ngoài ra, chủ thể hỗ trợ cũng phải tuân theo các quy định của pháp
luật. Họ phải là những bác sĩ có bằng cấp, đủ thẩm quyền thực hiện chứng
nhận tình trạng của bệnh nhân cũnng như có đủ kiế thức, kĩ năng và kinh
nghiệm để thực hiện an tử trong trường hợp bệnh nhân không thể hoặc không
muốn tự thực hiện.
- Quyền an tử là quyền được thực hiện theo quy định chặt chẽ và
nghiêm ngặt của pháp luật.
Xuất phát từ tính chất nhân thân và đặc quyền, quyền an tử chỉ được
thực hiện khi đáp ứng đủ các điều kiện và theo quy trình chặt chẽ do pháp luật
các quốc gia quy định. Hiện nay ở nhiều quốc gia, thủ tục đê tiến hành việc an
tử cũng như để hưởng thụ quyền an tử hết sức chặt chẽ và ngặt nghèo nhằm
mục đích tránh mọi trường hợp lạm dụng, bởi hậu quả của một vụ việc sai
phạm là không thể cứ chữa bằng mọi biện pháp. Việc không tuân thủ đúng
theo các quy định này có thể làm phát sinh trách nhiệm hình sự hoặc dân sự
hoặc kỷ luật nghề nghiệp đối với người thực hiện an tử cho bệnh nhân.
1.3.2. Ý nghĩa
1.3.2.1. Ý nghĩa pháp lý
Thứ nhất, quyền an tử là sự khẳng định rằng pháp luật tôn trọng giá trị
tự do và quyền tự quyết của con người. Rõ ràng, pháp luật các quốc gia, khu
vực và quốc tế ngày càng đề cao các giá trị này, trong khi quyết định về giá trị
30
cuộc sống của chính bản thân mình lại là quyết định căn bản và gắn liền với
mỗi chủ thể nhất.
Thứ hai, quyền an tử sẽ là công cụ pháp lý giúp cho việc quản lý hoạt
động an tử. Vì bị cấm đoán hoặc không được cho phép nên những người có
nguyện vọng được hưởng thụ quyền an tử cũng như những bác sĩ có ý định
thực hiện an tử cho người bệnh luôn phải sống một cuộc sống ngầm với
những hành vi mà họ cố tình che giấu không để cho người khác biết. Những
hành vi này có thể có tác động tiêu cực đến xã hội nên rất cần được quản lý
bởi nhà nước để hạn chế những tác động tiêu cực đó. Do vậy, công nhận
quyền an tử sẽ góp phần thay đổi cách nhìn của xã hội với những đối tượng
này từ đó họ sẽ dần dần không muốn che giấu và công khai hóa hành vi của
mình. Sự công khai hành vi của họ là một điều kiện rất thuận lợi để nhà nước
có thể quản lý một hiệu quả.
Thứ ba, việc công nhận quyền an tử sẽ giải quyết được tình trạng
pháp lý bế tắc cũng như những cuộc chiến pháp lý không lối thoát khi mà
nhu cầu được an tử ngày càng cao và việc thực hiện an tử vẫn diễn ra trên
thực tế. Hợp pháp hóa quyền an tử không những sẽ giúp việc quản lý hoạt
động này một cách công khai, minh bạch vàdễ dàng hơn mà còn hạn chế
những trường hợp xét xử sai bản chất vụ việc hoặc sử dụng an tử vào mục
đích khác thay vì nhân đạo.
1.3.2.2. Ý nghĩa xã hội
Thứ nhất, sự không công nhận quyền an tử đã và đang gây ra nhiều
tranh cãi cũng như bức xúc trong cộng đồng những người hành nghề y, những
người hành nghề luật cũng như những bệnh nhân mắc bệnh nan y. Thời kì
trước đây, những bức xúc đó còn chưa đáng kể vì nhiều nguyên nhân: số
lượng người có nhu cầu hưởng thụ quyền còn thấp, tư tưởng tôn giáo mang
đậm thành kiến với hành vi tự nguyện chấm dứt cuộc sống khiến phong trào
31
đấu tranh đòi quyền an tử còn manh nha, chưa mạnh mẽ. Nhưng trải qua thời
gian, số lượng người có mong muốn hưởng thụ quyền đã tăng lên, hơn nữa,
sự giao lưu văn hóa, tư tưởng mang đến thay đổi đáng kể trong nhận thức của
cộng đồng, nhiều vấn đề trước đây bị cho là trái với thuần phong thậm chí là
tội lỗi (như hành vi tự tử) đã được nhìn nhận thoáng hơn, trở thành một hiện
tượng xã hội không còn bị cấm đoán hay điều chỉnh bởi pháp luật hình sự.
Vấn đề an tử cũng vậy, với sự đồng tình, ủng hộ ngày càng lớn, đến một thời
điểm nào đó, cộng đồng những người có mong muốn hưởng thụ quyền an tử
chắc chắn sẽ đấu tranh đòi quyền lợi cho mình và hậu quả có thể nhìn thấy là
những bất ổn về an ninh, kinh tế, chính trị... Như vậy, các quốc gia cần giải
quyết vấn đề này kịp thời để đảm bảo cho sự ổn định. Và giải pháp đúng đắn
để giải quyết vấn đề này là công nhận quyền an tử.
Thứ hai, hiện nay, nhìn chung cả xã hội vẫn chưa có những hiểu biết
đầy đủ về hành vi an tử và quyền an tử nên tất nhiên sự e dè của xã hội đối
với quyền này còn phổ biến. Sự e dè này khiến cho đa số những người có
mong muốn hưởng thụ quyền cảm thấy lạc lõng, không được chấp nhận thậm
chí có thể là thù hận xã hội bất công. Đó là những tác động tiêu cực có thể
gây ảnh hưởng không nhỏ đối với xã hội. Như vậy, việc giáo dục, tuyên
truyền làm thay đổi cách nhìn nhận của xã hội đối an tử và quyền an tử là rất
cần thiết để giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực nêu trên. Một biện pháp có
thể áp dụng chính là công nhận quyền an tử. Cùng với việc tuyên truyền, vận
động thì việc công nhận quyền an tử có vai trò khẳng định thái độ đồng tình
và trân trọng của nhà nước đối với những đối tượng hưởng thụ quyền. Qua sự
cho phép của pháp luật, xã hội cũng nhận thức được sự cần thiết phải có cái
nhìn bao dung đối với hoạt động an tử và những người có mong muốn hoặc
thực hiện an tử.
32
1.4. Quan điểm về việc hợp pháp hóa quyền an tử trên thế giới
1.4.1. Những quan điểm phản đối
Từ khi xuất hiện đến nay, an tử và quyền an tử luôn là vấn đề gây tranh
cãi. Càng ngày càng xuất hiện nhiều quan điểm ủng hộ cũng như phản đối
quyền an tử. Trong phạm vi khuôn khổ của luận văn, người viết chỉ nêu lên
những quan điểm được nhiều người sử dụng, có quá trình phát triển dài lâu vf
vẫn tiếp tục phát triển đến thời điểm hiện tại.
- An tử là sự chối bỏ giá trị cuộc sống. Quyền sống là một quyền con
người cơ bản tuyệt đối, tự nhiên và không thể chuyển giao. Quan điểm rằng
sự sống con người có giá trị to lớn nhất, phải được tôn trọng và bảo toàn bằng
mọi giá dựa trên quan niệm cũ về tính thiêng liêng của cuộc sống, đối lập với
quan điểm về chất lượng cuộc sống, thứ làm nền tảng cho quyền an tử, cho
rằng nên kết thúc sự sống trong trường hợp việc tiếp tục là vô nghĩa. Nếu
quan điểm sau được chấp nhận, phẩm giá con người sẽ sụp đổ. Những người
ủng hộ quyền an tử, coi quyền này là sự bảo vệ cần thiết, và trong nhiều
trường hợp, mặc dù việc hưởng thụ quyền lấy đi mạng sống của con người,
thì vẫn không đáng bị pháp luật trừng phạt. Nhưng họ quên đi một việc, về
bản chất sự bảo vệ cần thiết là điều chỉ diễn ra trong trường hợp cần bảo vệ
tính mạng của người khác, trong khi với an tử, sự sống của con người bị tước
đoạt không nhằm mục đích bảo vệ tính mạng của bất cứ ai. Một con người,
mặc dù ốm đau và không có khả năng thực hiện những hoạt động đời sống
phổ biến nhất, thì vẫn là một con người. Con người đặc biệt bởi họ là con
người, họ đặc biệt tới thời điểm cuối cùng của cuộc đời và sự sống phải được
duy trì càng dài càng tốt, con người không nên được trợ giúp để chết trong
yên bình, mà sống đến khi họ tự nhiên chết đi.
- An tử không phải là lựa chọn tối ưu. Thứ nhất, trước đây khi nhắc đến
bệnh tật, con người sẽ coi chữa trị là hệ quả tất yếu, nhưng nay trong một thế
33
giới đương đại với sự tồn tại của ung thư, AIDS, cao huyết áp… phương pháp
được dùng phải là chăm sóc, khi chữa trị còn là một điều xa vời. Như vậy,
biện luận quyền an tử dựa trên tình trạng bệnh lý không lối thoát của người
bệnh trở nên vô nghĩa, bởi họ không phải chỉ có một lựa chọn duy nhất, mà
họ có thể chọn giữa không chữa trị hoặc được chăm sóc. Thực tế y học chứng
minh rằng nhiều bệnh nhân mong muốn kết thúc cuộc sống làm vậy bởi họ
mong được giải thoát, họ tuyệt vọng hoặc sự đau đớn và chịu đựng của họ
không được quan tâm. Vì vậy, thái độ tận tình, liệu pháp chống tuyệt vọng,
cách tiếp cận giảm nhẹ và chăm sóc phục hồi chức năng mới là lối thoát. Khi
đối mặt với đau khổ, tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống, đề ra chiến lược và phấn
đấu đạt được chăm sóc tối ưu sẽ tốt hơn là tìm kiếm cái chết. Thứ hai, luôn có
cách giải quyết kể cả trong những tình trạng phức tạp nhất thay vì an tử.
Nghĩa vụ của người bác sĩ là chấm dứt đau đớn, không phải cuộc sống của
người bệnh. Việc áp dụng các phương pháp giảm đau không hề bị hạn chế.
Phương pháp thì có nhiều, dễ áp dụng, ngày càng tinh vi và không ngừng phát
triển. Trong các trường hợp đặc biệt bác sĩ thậm chí có thể cho bệnh nhân
dùng thuốc an thần nặng để đưa họ vào giấc ngủ và chờ đợi tự nhiên thực hiện
công việc của mình.
- Liệu quyền an tử có hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện? Những người
ủng hộ quyền an tử khẳng định rằng việc hưởng thụ quyền sẽ không bao giờ trái
nguyện vọng. Nhưng họ chỉ nhìn thấy hai mặt sáng tối của vấn đề. Nghi vấn sâu
sắc nhất về quyền an tử nằm ở chỗ: liệu đây là hành động củng cố quyền tự do ý
chí và quyền lựa chọn, hay là một cách tích cực loại bỏ những người ốm yếu,
bệnh tật, già cả và khuyết tật? Ngày nay, câu trả lời là cả hai.
- Việc hợp pháp hóa cũng như hưởng thụ quyền an tử hoàn toàn dựa
trên cơ sở y học liệu có chính xác? Thứ nhất, khoa học y khoa không ngừng
phát triển và càng ngày càng có nhiều công nghệ mới được phát minh và đưa
34
vào ứng dụng. Vì vậy, bệnh không thể chữa trị hoàn toàn có khả năng tìm
được lối thoát trong tương lai, hay nói cách khác, căn cứ thực hiện quyền an
tử sẽ không còn chắc chắn qua thời gian. Thứ hai, nguy cơ chẩn đoán bệnh sai
là hoàn toàn có thể. Một người không mắc bệnh được chẩn đoán có bệnh,
người mắc bệnh nhẹ được chẩn đoán mắc bệnh nặng, thậm chí ngay cả trường
hợp chủ thể mắc bệnh nặng, trong tình trạng y khoa không có khả năng chữa
trị, thì việc dự đoán chính xác thời điểm người bệnh qua đời, theo nhận định
của hầu hết bác sĩ, là không khả thi. Rất nhiều trường hợp người bệnh được
chẩn đoán mắc bệnh nan y, thời gian duy trì ngắn nhưng trên thực tế người
bệnh vẫn có thể sống từ 2 đến 10 năm. Vậy sẽ như thế nào nếu chỉ một sai
lầm nhỏ dẫn đến việc thực hiện an tử mà hậu quả là không thế cứu vãn.
- Người bệnh có mong muốn chết bởi trở ngại về tâm thần và sự đồng
thuận của họ với phương án an tử có thể không phải ý chí tỉnh táo của họ. Cố
gắng tìm kiếm cái chết thường xuất hiện ở các bệnh nhân trầm cảm, tâm thần
phân liệt, sử dụng thuốc cũng như rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Hay nói cách
khác, việc tìm kiếm cái chết cũng có thể là dấu hiệu bệnh tâm thần, và hành
động đó của người bệnh là một nỗ lực kêu gọi sự giúp đỡ và cứu trợ, không
phải mong muốn thực sự của họ và không nên bị đẩy vào tình trạng sử dụng
phương pháp cuối cùng là chấm dứt sự sống.
- Việc hợp pháp hóa quyền an tử có thể làm giảm sự chú ý của xã hội đối
với những người đang trong tình trạng cần được quan tâm. Kinh nghiệm của Hà
Lan cho thấy sau khi có luật an tử, rất ít cố gắng, nỗ lực cải thiện điều trị bệnh tật
hoặc giảm nhẹ đau đớn được ghi nhận. Thêm vào đó, hợp pháp hóa an tử làm
giảm lòng tin của cộng đồng, của bệnh nhân vào các điều trị y khoa và y đức.
Nhiệm vụ của bác sĩ luôn là người cứu người, không phải là giết người.
- Hợp pháp hóa quyền an tử có thể dẫn tới hệ quả lạm dụng như an tử
cho người tàn tật và bệnh nhân mắc bệnh có thể chữa trị. Những nhà hoạt động
35
ủng hộ an tử định nghĩ bệnh nan y với rất nhiều thuật ngữ và khái niệm như hết
hy vọng, vô phương, đau đớn về thể xác hoặc tinh thần, mất khả năng về trí lực
và sức lực, hoặc chất lượng cuộc sống không đạt được…khiến cho dường như,
mỗi người đều có lý do sử dụng quyền an tử của mình. Vấn đề về việc sử dụng
thuật ngữ cũng như sự vô năng trong việc định nghĩa một cách tuyệt đối những
căn bệnh chết người, khiến quyền an tử có thể gây nên phản ứng tiêu cực.
- An tử có thể trở thành một biện pháp nhằm hạn chế chi phí y tế. Nếu
quyền an tử được hợp pháp hóa, có khả năng các bác sĩ sẽ áp dụng rộng rãi
thay vì điều trị kéo dài, để giảm chi phí cho người bệnh của họ. Người bệnh
nan y là nhóm cần được bảo vệ. Họ là những người yếu thế trước áp lực do
đau đớn bệnh tật, tuyệt vọng trong hoàn cảnh vô phương cứu chữa, và tác
dụng của điều trị y tế. Những người coi an tử là quyền phải nhận thức được
rằng không sớm thì muộn quyền này cũng sẽ trở thành một loại nghĩa vụ.
- Nhiều tôn giáo tin rằng chỉ đấng tối cao mới có quyền sinh sát và họ
không chấp nhận việc này. Trong đó có thể kể đến một số tôn giáo lớn như Cơ
đốc giáo, đạo Tin lành, đạo Hồi, đạo Do Thái và đạo Hindu. Theo đạo Hồi thì
Hành động này bị cấm đoán… bởi nó chứa đựng vai trò tích
cực của bác sĩ trong việc chấm dứt cuộc sống hoặc thúc đẩy cái
chết của người bệnh… Đây là hành động giết người, và, giết người
là một tội ác lớn và vì vậy bị đạo Hồi, tôn giáo thuần tình thương,
cấm đoán [43].
Còn đạo Do Thái quy định
Cấm mọi hình thức an tử, bởi đây là hành vi giết người. Cuộc
sống của một con người không phải của anh ta – mà thuộc về Đấng
người đã tạo ra nó. Do đó nó chỉ có thể bị thu hồi bởi Chủ sở hữu
đích thực. Cho dù mục đích cao quý thế nào, hành vi giết người
nhân đạo là sự xâm phạm trắng trợn đến một thế lực đứng trên thế
giới này [43].
36
Hầu hết người theo đạo Hindu cho rằng bác sĩ không nên chấp nhận
yêu cầu an tử của bệnh nhân bởi điều này sẽ khiến tâm hồn và thể xác bị chia
rẽ không theo tự nhiên. Hệ quả này sẽ làm gây tổn hại cho nghiệp của cả bác
sĩ lẫn người bệnh. Ngoài ra, tín đồ đạo Hindu còn tin rằng không thể cho phép
an tử vì nó vi phạm lời dạy ahimsa (không làm điều có hại). Người theo đạo
Cơ đốc phản đối an tử, dựa trên đức tin rằng cuộc sống do Chúa ban tặng, và
rằng con người được tạo nên bởi hình dung của Chúa. Nhiều nhà thờ nhấn
mạnh sự quan trọng của việc không can thiệp đến quá trình tự nhiên của cái
chết…Họ tin rằng phẩm giá nội tại và giá trị cuộc sống con người của mỗi cá
nhân là như nhau, vì vậy việc dựa trên tình trạng y tế của họ để kết luận cuộc
sống vô giá trị là sai lầm. Đồng dạng với tín người Cơ đốc giáo, tín đồ đạo
Tin lành coi cuộc sống là một món quà bất khả xâm phạm từ Chúa. Tình yêu
của tín đồ với Chúa và món quà của ngài khiến những tín đồ này có nghĩa vụ
phải tránh xa bất kì suy nghĩ nào xâm phạm đến món quà vô giá này thông
qua hành vi tự tử hoặc an tử.
1.4.2. Những quan điểm ủng hộ
Tương tự quan điểm phản đối, quan điểm ủng hộ quyền an tử xuất hiện
ngày càng nhiều và đa dạng, được đề cập chi tiết trong nhiều bài báo và diễn
đàn. Vì vậy ở phần này, người viết sẽ trình bày những quan điểm ủng hộ đối
ứng với những quan điểm phản đối trên, đồng thời cũng là những quan điểm
đang được sử dụng nhiều hiện nay:
- An tử không phải là sự chối bỏ giá trị cuộc sống mà ngược lại, là sự
tôn trọng giá trị cuộc sống, tôn trọng nhân quyền, phẩm giá con người và vì
mục đích nhân đạo. Giá trị cuộc sống chỉ có thể đạt được khi cuộc sống có
chất lượng. Việc người bệnh lâm vào tình trạng bệnh lý không thể cứu chữa,
với đau đớn dai dẳng, kéo dài và không thể chịu đựng đã giảm chất lượng
cuộc sống xuống dưới mức tối thiểu. Vậy chính việc bắt buộc con người,
37
trong trường hợp này, tiếp tục duy trì sự sống mới là một sự phủ định giá trị
cuộc sống, phủ định phẩm giá con người. Nhất là khi xem xét đến hoàn cảnh
của một số nước nghèo, nền y học và cơ sở vật chất chưa phát triển thì sự chịu
đựng của con người còn lớn hơn nhiều lần. Hơn nữa, con người vốn có quyền
an tử. Con người là một chủ thể sinh học độc lập, có quyền kiểm soát thân thể
và cuộc sống của chính mình, có quyền tự quyết và thực hiện quyết định đó.
Mọi sự hạn chế áp đặt lên quyền con người là điều không cần thiết. Tờ The
Independent, tháng 03/2002, nhận xét, “Trong trường hợp không có người
phụ thuộc gây sức ép theo cách này hay cách khác, quyền lựa chọn của cá
nhân nên là tối cao. Nếu người bệnh tỉnh táo, và ý định của họ đủ sáng tỏ, thì
điều này không còn gì phải bàn cãi” [18].
Quyền an tử lại không nhằm đến mục đích nào khác ngoài nhân đạo.
Những tiến bộ trong công nghệ ngày nay thường đưa đến việc con người sống
lâu hơn và cũng thường chịu đau khổ vì bệnh tật trong thời gian dài hơn, và
điều này đồng nghĩa với một cái chết hành hạ chậm rãi. Lúc này an tử được
coi nhà những lựa chọn hợp lý nhất. Từ thế kỷ thứ 16, việc người hành nghề y
thực hiện trợ tử cho những người mắc bệnh nan y đã được cho rằng không
nên bị quy tội theo pháp luật hoặc đạo đức.
- An tử không phải là biện pháp tối ưu nhưng là biện pháp cuối cùng.
Luật pháp không quy định bắt buộc người lâm vào trạng thái y tế không lối
thoát phải an tử, mà chỉ mở ra một cánh cửa cho những người có nhu cầu tự
nguyện đi qua. Nhiều nước và vùng lãnh thổ đã hợp pháp hóa an tử quy định
bác sĩ có nghĩa vụ cung cấp thông tin về các liệu pháp chăm sóc giảm nhẹ cho
bệnh nhân và những phương án khác. Có thể thấy, người bệnh một khi đã
dùng đến biện pháp an tử, có nghĩa họ không còn sự lựa chọn nào khác và đây
là biện pháp cuối cùng. Việc không mở cánh cửa này sẽ khiến cho con người
lâm vào tình trạng bế tắc, tuyệt vọng, thậm chí phải sử dụng đến những biện
pháp cực đoan như an tử trái pháp luật hoặc tự tử.
38
- An tử, về bản chất là dựa trên cơ sở tự nguyện và kết luận y khoa
chính xác đã được kiểm định. Nếu có luật an tử thì tính tự nguyện cũng như
tính chính xác khi xác định tình trạng y tế của người bệnh sẽ càng được đảm bảo
hơn bởi được đặt trong khuôn khổ pháp luật quy định chặt chẽ. Thực tế đã chứng
minh việc không thông qua luật an tử khiến cho nhiều tiêu cực lạm phát. Năm
2005 tại Hà Lan, một nghiên cứu do Tạp chí Y khoa New England cho thấy 0,4%
các vụ việc an tử tại đất nước này không có bằng chứng rõ ràng về tính tự nguyện.
Nhưng so sánh với số liệu năm 1991, thời điểm luật an tử và trợ tử của đất nước
này chưa được thông qua, con số lên đến 0,8%. Hay nói cách khác, thông qua luật
an tử giúp giảm thiểu một nửa những cái chết không mong muốn. Tại Anh, năm
2012, một nghiên cứu chỉ ra rằng “có khoảng 57.000 bệnh nhân mỗi năm qua đời
mà không được biết rằng các thiết bị hỗ trợ sống của họ đã dừng” [39]. Thay vào
đó, họ bị đẩy vào hoàn cảnh phải chết nhằm giảm bớt đau đớn mà không hề biết.
Như vậy về cơ bản, các bác sĩ tại Anh đã và đang thực hiện an tử - mà không hề bị
ràng buộc bởi bất cứ quy định pháp lý nào.
Lo ngại về việc thực hiện quyền an tử sai đối tượng cũng giống như lo
ngại về việc xét xử hình sự sai người, sai tội. Như vậy, cứ có khả năng sai sót
thì cần cấm đoán? Không phải, việc lường trước khả năng sai sót là điều cần
thiết, nhưng là để đề ra các biện pháp khắc phục một khi đã đưa vào thực
hiện. Pháp luật là để phục vụ số đông, trong khi sai sót nếu có xảy ra nằm ở
phạm vi đơn lẻ, nhỏ hẹp. Vì vậy nếu thấy cần thiết pháp luật vẫn cần thông
qua một số chính sách, đồng thời để ra các quy định nhằm giảm thiểu đến
mức tối đa sai phạm.
- An tử chỉ được thực hiện cho những người có đủ năng lực nhận thức,
suy nghĩ và đưa ra quyết định. Vì vậy việc lo ngại trở ngại tâm thần sẽ làm
ảnh hưởng đến khả năng tự quyết của người có nhu cầu là không có căn cứ.
Không chỉ bác sĩ điều trị phải chứng nhận khả năng tâm lý/tâm thần của
39
người bệnh, mà bác sĩ tư vấn/bác sĩ thứ hai cũng có nhiệm vụ này. Trong
trường hợp có nghi ngờ về khả năng tâm lý/tâm thần của người bệnh, bác sĩ
điều trị hoặc bác sĩ tư vấn phải giới thiệu họ đến kiểm tra với một bác sĩ
chuyên khoa về tâm lý/tâm thần. Thiết nghĩ, với những quy định chặt chẽ và
qua nhiều bước như vậy, việc một người không có dấu hiệu bệnh tâm thần
đưa ra quyết định và được thực hiện an tử là khó có khả năng.
- Việc hợp pháp hóa quyền an tử không thể làm giảm sự chú ý của xã
hội đối với những người đang trong tình trạng cần được quan tâm, bởi an tử
không nhằm mục đích chữa trị, các căn bệnh vẫn còn đó và bên cạnh những
người có nhu cầu an tử vẫn có những người có nhu cầu được chữa trị và chờ
đợi vào tiến bộ của khoa học kĩ thuật. Hơn nữa tiết kiệm nguồn lực về cơ sở
vật chất và nhân sự dành cho việc duy trì sự sống cho những người bệnh nan
y bước vào giai đoạn cuối đồng thời cũng là những người không còn mong
muốn tiếp tục sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu và phát triển các
thành tựu y khoa mới, không những liệu pháp chữa trị mà còn là biện pháp
ngăn ngừa từ giai đoạn sơ khai.
- Một trong những nghi ngờ lớn dẫn đến việc phản đối hợp pháp hóa an
tử là việc này sẽ gây nên áp lực đối với các nhóm dễ bị tổn thương, trong đó
có người già, người tàn tật. Đó là một lo ngại dễ hiểu và không nên xem nhẹ:
Tuy nhiên, lý do này cũng không có cơ sở thực tế. Lấy Oregon làm ví dụ, năm
1994, Oregon trở thành tiểu bang đầu tiên ở Mỹ hợp pháp hóa trợ tử, luật có
hiệu lực vào năm 1998.
Mười năm sau, số lượng các vụ trợ tử là 341 – không phải
341 vụ trong một năm mà 341 vụ trong một thập kỉ, chiếm khoảng
0,2% số lượng bệnh nhân tử vong, con số quá nhỏ gần như không
đáng được nhắc đến. Năm 2007, Tạp chí Y Đức phân tích từng
trường hợp bệnh nhân lựa chọn phương án này và kết quả cho thấy
người nghèo, người cao tuổi, dân tộc thiểu số, hoặc nhóm "dễ bị tổn
thương" rất hiếm khi so với các nhóm khác [39].
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Thừa kế theo pháp luật - vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Thừa kế theo pháp luật - vấn đề lý luận và thực tiễnLuận văn: Thừa kế theo pháp luật - vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Thừa kế theo pháp luật - vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận văn: Trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng
Luận văn: Trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùngLuận văn: Trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng
Luận văn: Trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng
 
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
 
Đề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật
Đề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luậtĐề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật
Đề tài: Vai trò của ý thức pháp luật với việc thực hiện pháp luật
 
Chế định người đại diện của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp
Chế định người đại diện của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệpChế định người đại diện của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp
Chế định người đại diện của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp
 
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật Hôn nhân, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật Hôn nhân, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật Hôn nhân, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật Hôn nhân, HOT
 
Luận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAYLuận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAY
Luận văn: Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAYLuận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
 
Luận văn: Tổ chức quản lý công ty cổ phần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Tổ chức quản lý công ty cổ phần theo pháp luật, HAYLuận văn: Tổ chức quản lý công ty cổ phần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Tổ chức quản lý công ty cổ phần theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, HAY
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, HAYLuận văn: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, HAY
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đìnhĐề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
Đề tài: Hủy việc kết hôn trái pháp luật theo Luật Hôn nhân Gia đình
 
Luận văn: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật, HAY
Luận văn: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật, HAYLuận văn: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật, HAY
Luận văn: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật, HAY
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAY
Luận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAYLuận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAY
Luận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đLuận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
 
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOTLuận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
 
Luận văn: Công ước quốc tế về bắt giữ tàu biển, HAY
Luận văn: Công ước quốc tế về bắt giữ tàu biển, HAYLuận văn: Công ước quốc tế về bắt giữ tàu biển, HAY
Luận văn: Công ước quốc tế về bắt giữ tàu biển, HAY
 
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
 

Similar to Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT

Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt NamKhóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt NamDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNuioKila
 

Similar to Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT (20)

Quyền An Tử Những Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.doc
Quyền An Tử Những Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.docQuyền An Tử Những Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.doc
Quyền An Tử Những Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn.doc
 
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt NamKhóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
Khóa luận Quyền an tử và vấn đề hợp pháp hóa na tử ở Việt Nam
 
Quyền Tình Dục Pháp Luật, Thực Tiễn Trên Thế Giới Và Việt Nam.doc
Quyền Tình Dục Pháp Luật, Thực Tiễn Trên Thế Giới Và Việt Nam.docQuyền Tình Dục Pháp Luật, Thực Tiễn Trên Thế Giới Và Việt Nam.doc
Quyền Tình Dục Pháp Luật, Thực Tiễn Trên Thế Giới Và Việt Nam.doc
 
Luận văn Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Của Người Đồng Tính.docx
Luận văn Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Của Người Đồng Tính.docxLuận văn Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Của Người Đồng Tính.docx
Luận văn Hoàn Thiện Pháp Luật Về Quyền Của Người Đồng Tính.docx
 
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, HAY
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, HAYLuận văn: Pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, HAY
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, HAY
 
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáoLuận văn: Pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
 
Bảo đảm quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt Nam
Bảo đảm quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt NamBảo đảm quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt Nam
Bảo đảm quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt Nam
 
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
 
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xóa án tích theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn, HAY - Gửi miễn phí...
 
Luận văn: Quyền của người đồng tính, HAY, 9đ
Luận văn: Quyền của người đồng tính, HAY, 9đLuận văn: Quyền của người đồng tính, HAY, 9đ
Luận văn: Quyền của người đồng tính, HAY, 9đ
 
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
 
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOTLuận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
 
Công Lý Và Sự Thể Hiện Công Lý Trong Hiến Pháp Việt Nam.docx
Công Lý Và Sự Thể Hiện Công Lý Trong Hiến Pháp Việt Nam.docxCông Lý Và Sự Thể Hiện Công Lý Trong Hiến Pháp Việt Nam.docx
Công Lý Và Sự Thể Hiện Công Lý Trong Hiến Pháp Việt Nam.docx
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong xử lý hành chính, HOT
 
Đề tài: Bảo vệ quyền nhân thân bằng pháp luật dân sự về báo chí
Đề tài: Bảo vệ quyền nhân thân bằng pháp luật dân sự về báo chíĐề tài: Bảo vệ quyền nhân thân bằng pháp luật dân sự về báo chí
Đề tài: Bảo vệ quyền nhân thân bằng pháp luật dân sự về báo chí
 
Luận văn: Bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực báo chí, HAY
Luận văn: Bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực báo chí, HAYLuận văn: Bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực báo chí, HAY
Luận văn: Bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực báo chí, HAY
 
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOTLuận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
 
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Quản lý Nhà nước về bảo hiểm y tế tự nguyện, HAY, 9đ
Luận văn: Quản lý Nhà nước về bảo hiểm y tế tự nguyện, HAY, 9đLuận văn: Quản lý Nhà nước về bảo hiểm y tế tự nguyện, HAY, 9đ
Luận văn: Quản lý Nhà nước về bảo hiểm y tế tự nguyện, HAY, 9đ
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (19)

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 

Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN MAI CHI QUYỀN AN TỬ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. VŨ CÔNG GIAO HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Mai Chi
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các hình vẽ MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA QUYỀN AN TỬ......... 4 1.1. Một số khái niệm cơ bản..................................................................... 4 1.1.1. An tử và trợ tử ...................................................................................... 4 1.1.2. Quyền an tử........................................................................................... 7 1.2. Cơ sở hình thành quyền an tử............................................................ 8 1.2.1. Nguyên tắc hình thành quyền an tử ...................................................... 8 1.2.2. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của quyền an tử................12 1.3. Đặc điểm và ý nghĩa của quyền an tử .............................................27 1.3.1. Đặc điểm .............................................................................................27 1.3.2. Ý nghĩa................................................................................................29 1.4. Quan điểm về việc hợp pháp hóa quyền an tử trên thế giới.........32 1.4.1. Những quan điểm phản đối.................................................................32 1.4.2. Những quan điểm ủng hộ....................................................................36 Chương 2: PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN VỀ QUYỀN AN TỬ TRÊN THẾ GIỚI..............................................................................41 2.1. Quyền an tử theo pháp luật nhân quyền quốc tế...........................41 2.2. Thực tiễn và pháp luật về quyền an tử ở một số quốc gia.............44
  • 4. 2.2.1. Quy định của các quốc gia và vùng lãnh thổ đã hợp pháp hoá quyền an tử..........................................................................................44 2.2.2. Quy định của các quốc gia và vùng lãnh thổ chưa hợp pháp hoá quyền an tử hoặc quy định một phần ..................................................50 2.2.3. Xu hướng hợp pháp hóa quyền an tử trên thế giới .............................56 2.3. Các tiêu chí chung về quyền an tử theo pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia ...........................................................60 2.3.1. Tiêu chí sinh học .................................................................................60 2.3.2. Tiêu chí pháp lý...................................................................................63 Chương 3: PHÁP LUẬT, THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ QUYỀN AN TỬ Ở VIỆT NAM ..........................................69 3.1. Pháp luật và những vấn đề nảy sinh về quyền an tử trong thực tiễn ở Việt Nam .........................................................................69 3.1.1. Quyền an tử theo pháp luật Việt Nam.................................................69 3.1.2. Nhu cầu thực tiễn về quyền an tử ở Việt Nam....................................70 3.2. Tranh luận về hợp pháp hóa quyền an tử ở Việt Nam ..................72 3.3. Quan điểm, giải pháp liên quan đến quyền an tử ở Việt Nam......75 3.3.1. Sự cần thiết hợp pháp hóa quyền an tử ở Việt Nam ...........................75 3.3.2. Đề xuất một số quy định cơ bản khi hợp pháp hóa quyền an tử.........76 3.3.3. Một số kiến nghị về quá trình xây dựng và thực hiện quy định quyền an tử tại Việt Nam.....................................................................86 KẾT LUẬN ....................................................................................................92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................94
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ESA Hiệp hội An tử Hoa Kỳ (Euthanasia Society of America) ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (International Covenent on Civil and Political Rights) NSLE Hiệp hội quốc gia về Hợp pháp hóa An tử của Hoa Kỳ (National Society for the Legalization of Euthanasia) NVVE Hiệp hộiAn tử tự nguyện Hà Lan (DutchVoluntary Euthanasia Society) PVS Tình trạng thực vật kéo dài (Persistent Vegetative State) SRD Hiệp hội Quyền An tử Hoa Kỳ (Society for the Right to Die) UDHR Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (Universal Declaration of Human Rights) UN Liên hợp quốc (The United Nations) UNCHR Ủy ban quyền con người Liên hợp quốc (The United Nations Commission on Human Rights) VELS Hiệp hội Công nhận An tử tự nguyện (Voluntary Euthanasia Legislation Society)
  • 6. DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ Số hiệu hình Tên hình Trang Hình 1.1: Các trường hợp hưởng thụ quyền an tử tại Hà Lan, 2006 – 2014 25 Hình 1.2: Các trường hợp hưởng thụ quyền an tử tại Bỉ, 2002 – 2012 26 Hình 1.3: Các trường hợp thực hiện trợ tử theo Luật Cái chết nhân phẩm tại bang Oregon, Hoa Kỳ, 1998 – 2011 26 Hình 2.1: Bản đồ quốc gia/ vùng lãnh thổ đã hợp pháp hóa an tử hoặc trợ tử 44
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong khi các quyền con người cơ bản như quyền sống, quyền tự do và bình đẳng… từ lâu đã được công nhận và trở thành mục tiêu tôn trọng, bảo vệ, thực thi của nhiều quốc gia trên thế giới thì vào đầu thế kỉ XIX, sự thay đổi lớn trong nhận thức và tư duy khoa học đã dẫn đến việc hình thành nhóm quyền mới, trong đó có quyền an tử. Khoảng một phần tư thế kỷ trở lại đây, vấn đề quyền an tử xuất hiện với tần suất ngày càng lớn trên các diễn đàn quốc tế và ngay lập tức trở thành một trong những đề tài nhận được nhiều quan tâm cũng như bắt nguồn cho nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam quyền an tử vẫn là một khái niệm mới, còn khá xa lạ và dễ bị nhầm tưởng với một số hành vi vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội. Mặt khác, nguồn tài liệu khan hiếm và nếu có, cũng chưa được toàn diện, sâu sắc dẫn đến nhiều e ngại khi tiếp cận vấn đề. Trong khi, ở bình diện khoa học pháp lý, việc nghiên cứu về quyền an tử mang tính cấp thiết, góp phần quan trọng vào hoạt động xây dựng nhà nước pháp quyền với một hệ thống quyền dân sự, quyền nhân thân đầy đủ, hoàn thiện. Và trên thực tế ở Việt Nam không phải không có những người có nguyện vọng này, thậm chí số lượng ngày càng tăng. Xuất phát từ thực trạng trên, tác giả quyết định chọn vấn đề Quyền an tử - Những vấn đề lý luận và thực tiễn làm đề tài luận văn, mong có thể góp một phần vào việc làm rõ bản chất cũng như hoàn thiện khung pháp luật, chính sách về vấn đề này. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Quyền an tử là một đề tài còn rất mới mẻ trong các nghiên cứu khoa học pháp lý. Hiện nay, ở Việt Nam, chỉ có khóa luận tốt nghiệp Quyền an tử:
  • 8. 2 Một số vấn đề lý luận, thực tiễn trên thế giới và ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Lân thực hiện năm 2014 là trực tiếp đề cập đến vấn đề này, tuy nhiên công trình chưa phân tích được hết các khía cạnh của quyền cũng như đánh giá được tình hình công nhận, thực hiện quyền trên phạm vi khu vực và quốc tế. Ngoài ra, liên quan tới vấn đề quyền được chết có bài viết Bước đầu tìm hiểu vấn đề quyền được chết trong bối cảnh hiện nay của tác giả Trương Hồng Quang trong cuốn Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các quyền mới xuất hiện trong quá trình phát triển xuất bản năm 2012. Công trình này đã cung cấp một lượng tri thức, thông tin khá lớn về quyền an tử nhưng chưa có sự phân tích một cách toàn diện về phạm vi quyền an tử, sự khác biệt giữa an tử và trợ tử, những ý kiến trái chiều dựa trên quan điểm chính trị, tôn giáo về vấn đề quyền an tử… 3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu Mục đích của luận văn là đưa ra được một cái nhìn toàn diện, có tính hệ thống và khoa học về các vấn đề pháp lý, xã hội liên quan đến quyền an tử trên thế giới và ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách hiện hành về vấn đề này ở nước ta trong thời gian tới. Quyền an tử có nội dung rất rộng và phức tạp, liên quan đến nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau. Trong phạm vi một luận văn thạc sĩ, đề tài này chủ yếu đề cập và phân tích các khía cạnh pháp lý và xã hội cơ bản, mà không đi sâu nghiên cứu các khía cạnh tâm lý học hay y tế… của vấn đề. 4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lí luận dùng để nghiên cứu đề tài này là các quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Các phương pháp cụ thể được sử dụng để giải quyết những vấn đề đặt ra trong khóa luận này là: tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh.
  • 9. 3 5. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn Luận văn là công trình chuyên khảo toàn diện và có hệ thống về những vấn đề pháp lý, thực tiễn về quyền an tử ở trên thế giới và ở Việt Nam. Luận văn kế thừa, phát triển những ý kiến trao đổi, thảo luận hiện có về vấn đề này, đồng thời bổ sung một số thông tin và phân tích mới góp phần làm sáng tỏ hơn thực trạng và xu hướng liên quan đến quyền an tử trên thế giới và ở Việt Nam. Luận văn cũng nêu những đề xuất cụ thể về sửa đổi, bổ sung pháp luật liên quan đến quyền an tử ở nước ta trong thời gian tới. Với kết quả nêu trên, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nước trong xây dựng, sửa đổi và thực thi các văn bản pháp luật về vấn đề an tử. Thêm vào đó, luận văn cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy môn luật nhân quyền và các môn học khác có liên quan ở Khoa Luật ĐHQG Hà Nội và các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khác. 6. Kết cấu của luận văn Luận văn bao gồm các Phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và 3 chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận, thực tiễn của quyền an tử Chương 2: Pháp luật và thực tiễn về quyền an tử trên thế giới Chương 3: Pháp luật, thực tiễn và những vấn đề đặt ra về quyền an tử ở Việt Nam.
  • 10. 4 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA QUYỀN AN TỬ 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. An tử và trợ tử Thuật ngữ an tử hay cái chết êm ả (euthanasia) có nguồn gốc từ khái niệm euthanatos trong tiếng Hy Lạp, xuất hiện rất sớm trong lịch sử, khoảng thế kỉ thứ 5 trước Công nguyên. Hiện nay chưa có một định nghĩa toàn cầu chính thức cho khái niệm này, nhưng nhìn chung những người ủng hộ an tử và quyền an tử coi an tử là “Hành vi được biểu hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động, mà bản thân việc này hoặc việc này có mục đích là giúp đỡ những cá nhân đang phải chịu đựng bệnh tật không có khả năng cứu chữa được chết có nhân phẩm, dễ dàng và nhẹ nhàng hơn” [21]. Trong đó, hành động hoặc không hành động có thể được hiểu lần lượt là việc trợ giúp giải thoát một người khỏi bệnh tật bằng phương pháp như tiêm thuốc gây tử vong hoặc cho phép người đó được chết bằng cách rút bỏ các điều trị y tế thông thường và cần thiết. Tuy nhiên phải chú ý rằng hành vi không hành động chỉ được chấp nhận nếu việc can thiệp y khoa là vô ích và gây gánh nặng quá mức cho bệnh nhân. Việc không cung cấp các phương pháp trợ sinh trong trường hợp vẫn cải thiện được tình hình bệnh nhân, có thể bị coi là hành vi giết người. Qua thời gian, nội hàm của khái niệm an tử có nhiều thay đổi. Trước đây an tử thường chỉ được dùng cho các trường hợp cá nhân đang phải chịu đựng khổ sở do bệnh tật với mục đích giúp họ thoát khỏi đau đớn. Nhưng ngày nay bệnh nhân được thực hiện cái chết êm ả với những lý do khác như mục đích sống không còn đạt được, không có khả năng chi trả phí điều trị hay giảm gánh nặng chăm sóc. Nhiều ý kiến phản đối, coi việc liên quan đến kinh
  • 11. 5 tế là không thể chấp nhận, nhưng thực tế đã chứng minh lý do này chiếm tỷ lệ khá lớn trong các trường hợp mong muốn thực hiện an tử. Nỗi sợ hãi trở thành gánh nặng tài chính cho thân nhân và gia đình là mối bận tâm lớn thứ hai của những bệnh nhân không có khả năng chữa trị. Theo một cuộc điều tra tại Oregon, Mỹ, nơi trợ tử đã được công nhận hợp pháp, 66% bệnh nhân mong muốn thực hiện cái chết êm ả vì lý do này. An tử có thể được phân biệt dựa trên nhiều tiêu chí, trong đó phổ biến nhất dựa trên tính chất của sự tự nguyện và biện pháp thực hiện - Dựa trên tính chất tự nguyện, an tử được chia thành an tử tự nguyện (voluntary euthanasia ), an tử phi tự nguyện (non-voluntary euthanasia ) và an tử trái nguyện vọng (involuntary euthanasia). Trong đó, an tử tự nguyện là việc bệnh nhân đưa ra quyết định chấm dứt cuộc sống trong điều kiện tỉnh táo và nhờ đến sự hỗ trợ của bác sĩ. An tử phi tự nguyện là trường hợp bệnh nhân không có khả năng bày tỏ sự chấp thuận của họ (vì lý do hôn mê, tổn thương não,…) và một người khác thay mặt người bệnh quyết định với điều kiện tiên quyết là người bệnh này trước đó đã thể hiện mong muốn kết thúc cuộc sống nếu lâm vào tình trạng này. An tử trái nguyện vọng còn được gọi là an tử ép buộc hoặc an tử không tự nguyện, là khi người bệnh hoàn toàn từ chối hoặc không hề bày tỏ mong muốn được giải thoát dưới bất kì hình thức nào nhưng việc này vẫn được thực hiện đi ngược lại ý chí của họ. An tử trái nguyện vọng, trong mọi trường hợp, đều bị coi là hành vi giết người. Việc sử dụng các thuật ngữ trên có sự khác biệt ở nhiều quốc gia. Hiện nay Hà Lan, một trong số những nước đầu tiên trên thế giới hợp pháp hóa quyền an tử và ban hành pháp luật về an tử chỉ còn dùng duy nhất khái niệm an tử, nhưng trong đó bao gồm cả an tử tự nguyện và an tử phi tự nguyện dưới hình thức người bệnh chỉ định người đại diện cho mình trong trường hợp lâm vào trạng thái mất ý thức và quyền định đoạt sẽ thuộc về người đại diện.
  • 12. 6 - Dựa trên tiêu chí phương pháp thực hiện, an tử được chia thành an tử chủ động (active euthanasia) và an tử bị động (passive euthanasia) tương ứng với hai loại hành vi hành động và không hành động kể trên. Theo đó, an tử chủ động là trường hợp cố tình can thiệp để chấm dứt cuộc sống của bệnh nhân. Hành vi này không phụ thuộc vào bất cứ yếu tố nào khác ngoại trừ sự vận hành bình thường của các cơ quan trong cơ thể (như việc lưu thông máu sẽ đưa chất độc đi khắp cơ thể). Đây có thể coi là cách thức có hiệu quả trong mọi trường hợp, dù tình trạng của bệnh nhân như thế nào. Trong khi đó an tử bị động là thu hồi các biện pháp chữa trị, hay nói cách khác là để bệnh nhân chết đi. Vì vậy an tử bị động còn được coi là biện pháp tự nhiên và phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhất là tình trạng bệnh nhân và tính chất của các phương pháp điều trị y học. An tử chủ động đem đến sự giải thoát nhanh hơn và dễ dàng hơn cho người bệnh. Tuy nhiên, trước đây mọi hành vi an tử chủ động đều là bất hợp pháp. Hiện nay một số hệ thống luật pháp đã không còn phân biệt rạch ròi giữa hai phương pháp này. Thực tế ở nhiều nơi, thuật ngữ an tử và trợ tử được sử dụng song song và thay thế lẫn nhau. Tuy nhiên, giữa hai khái niệm này cũng có sự khác biệt. Nếu như an tử là việc biết, trực tiếp hành động một cách có chủ đích đem đến cái chết nhẹ nhàng cho một cá nhân thì trợ tử được định nghĩa là việc biết, hành động trực tiếp một cách có chủ đích cung cấp phương tiện để cá nhân thực hiện việc tự tử. Như vậy có thể thấy điểm phân biệt lớn nhất giữa an tử và trợ tử là chủ thể nắm giữ vai trò chủ đạo trong quá trình, hay chủ thể thực hiện toàn bộ hành vi hoặc thực hiện hành vi cuối cùng. Ví dụ việc bác sĩ tiêm thuốc nhằm giải thoát cho bệnh nhân là an tử nhưng nếu bác sĩ kê đơn, cung cấp thuốc cho bệnh nhân tự uống hoặc đưa kim tiêm vào tĩnh mạch bệnh nhân nhưng để bệnh nhân tự vận hành quá trình đưa thuốc vào cơ thể (tự đẩy xi lanh hoặc bấm nút) thì lại là trợ tử. Có sự khác biệt như vậy, nhưng nếu xét
  • 13. 7 cho cùng thì trợ tử là hình thức sơ khai của an tử, trong đó vai trò của bác sĩ chưa được mở rộng. Ở hầu hết các nước đã thông qua luật an tử, hành vi trợ tử cũng hợp pháp và thường được dùng chung với nhau. Theo một báo cáo năm 2010 tại Hà Lan tỷ lệ an tử chủ động là 2,8% trong khi trợ tử là 0,1% trên tổng số người chết. Con số tại Bỉ năm 2007 lần lượt là 1,9% và 0,07%.. Tuy nhiên chiều ngược lại không đúng. Ở những vùng lãnh thổ mới chỉ hợp pháp hóa hành vi trợ tử, an tử có thể bị coi là hành vi vượt quá thẩm quyền và dẫn tới khả năng phải chịu trách nhiệm pháp lý hoặc trách nhiệm nghề nghiệp cho người thực hiện. Đồng thời, cũng phải phân biệt hành vi an tử với hành vi cho phép từ chối khám bệnh, chữa bệnh khi đang ở giai đoạn cuối hay hành vi cho phép người bệnh hấp hối về nhà. Nếu hành vi an tử trực tiếp dẫn đến việc chấm dứt sự sống của người bệnh thì các hành vi sau chỉ mang tính chất gián tiếp, tuy cùng vì mục đích nhân đạo nhưng không có sự chủ động chấm dứt cuộc sống của bác sĩ mà thay vào đó, bác sĩ chỉ chấp thuận theo nguyện vọng ngừng điều trị của người bệnh. Và sự khác biệt lớn nhất là nếu an tử nhằm chấm dứt những đau khổ kéo dài của người bệnh, thì việc cho phép từ chối điều trị và về nhà trên, theo lời PGS.TS Trương Văn Việt, giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy, thì “không phải để cho bệnh nhân chết mà là vì quan hệ tình cảm giữa người sắp chết với người thân: gặp người thân lần cuối, có chết thì chết ở nhà, vấn đề tín ngưỡng, tập quán” [12]. 1.1.2. Quyền an tử Xuất phát từ khái niệm an tử, quyền an tử có thể được định nghĩa là quyền nhân thân và là đặc quyền của những cá nhân rơi vào trạng thái bệnh lý không có khả năng chữa trị, được quyết định kết thúc cuộc sống của mình với sự hỗ trợ của chủ thể có thẩm quyền và tuân theo các quy định chặt chẽ của pháp luật.
  • 14. 8 Định nghĩa về quyền an tử có thể khác nhau tùy thuộc vào quan niệm của các nhà làm luật mỗi quốc gia nhưng nhìn chung tất cả đều loại bỏ hành vi an tử trái nguyện vọng ra khỏi nội hàm của khái niệm này. Có quốc gia chấp nhận an tử chủ động, có quốc gia không, dẫn đến việc thu hẹp phạm vi khái niệm quyền an tử chỉ được thực hiện dưới hình thức bị động. Điều tương tự cũng xảy ra với việc có nên đặt ra giới hạn về độ tuổi với chủ thể hưởng thụ quyền, cụ thể có nên cho phép trẻ vị thành niên có quyền an tử hay không. Hiện nay tồn tại nhiều thuật ngữ có ý nghĩa tương tự quyền an tử như quyền được chết (right to die) hay quyền được chết có nhân phẩm (right to die with dignity). Theo ý kiến của người viết, nên dùng khái niệm quyền an tử để biểu thị rõ mục đích tốt đẹp cũng như bản chất nhân đạo và ý nghĩa nhân văn của quyền. 1.2. Cơ sở hình thành quyền an tử 1.2.1. Nguyên tắc hình thành quyền an tử Quyền an tử dựa trên nguyên tắc tự do ý chí, nguyên tắc hành thiện và sự kết hợp giữa hai nguyên tắc này. - Nguyên tắc tự do ý chí (The Principle of Autonomy): Autonomy được cấu thành từ hai từ Hy Lạp cổ là autos (tự thân) và nomos (luật). Vì vậy, về mặt ngữ nghĩa, autonomy nghĩa là một người thụ hưởng quyết định của chính mình. Theo Leenen, H.J.J, tác giả cuốn sách đầy ảnh hưởng Handbook of Health Law, nguyên tắc tự do ý chí dựa trên bản chất tự nhiên của con người, “Căn cứ hình thành quyền tự quyết của con người là nguyên tắc một con người tự do, tự chủ có nhân phẩm cố hữu và xứng đáng được tôn trọng một cách vô điều kiện, có quyền sắp đặt cuộc sống của mình” [34, tr.169]. Nguyên tắc này cũng là cơ sở cho nhiều quyền con người khác, như quyền tự do tôn giáo, quyền riêng tư, quyền tự do và bất khả xâm phạm về thân thể… Tuy nhiên, nguyên tắc này không có nghĩa mọi sự tự quyết đều được chấp nhận,
  • 15. 9 bởi tự do ý chí không loại trừ nghĩa vụ tôn trong các nguyên tắc, mối quan hệ khác trong xã hội, như quyền sống của chủ thể khác hay giá trị cộng đồng. Đặt trong mối quan hệ với khái niệm an tử, tự do ý chí nghĩa là một chủ thể nên được tự do trong việc định hình các yếu tố quyết định sự sống của mình và lựa chọn cách sống lý tưởng mà mình muốn sống. Việc chính quyền hay bác sĩ tiếp tục duy trì cuộc sống của người bệnh trái với mong muốn của họ đã khiến cuộc sống của họ mất tự do và bản thân họ mất quyền tự chủ, dẫn đến sự thiếu tôn trọng và bắt họ làm trái với lương tâm của họ. Sự phát triển của khoa học kĩ thuật đã tăng cường khả năng của bác sĩ. Những người hành nghề y có thể kéo dài sự sống cho những bệnh nhân trước đây chắc chắn sẽ tử vong, nhưng nhiều trường hợp là trong đau đớn hoặc chịu đựng kéo dài. Điều này, theo J.H.Van den Berg, một bác sĩ tâm thần người Hà Lan, làm dấy lên vấn đề về y đức. Theo lời thề Hippocrates, bác sĩ được đào tạo để cứu chữa, duy trì sự sống và đưa ra quyết định có lợi cho người bệnh. Rút ngắn hoặc chủ động chấm dứt sự sống dưới bất kì hình thức nào là vô nhân đạo. Việc kết hợp giữa công nghệ mới và quan điểm y đức cũ dẫn đến hậu quả là người bệnh được kéo dài sự sống trong tình trạng vô nhân đạo. Van den Berg cho rằng y đức mới phải nhận thức được việc chất lượng cuộc sống quan trọng hơn độ dài. Quan điểm này sẽ đem đến cho người bệnh tiếng nói trong các quyết định quan trọng, bởi chính họ chứ không phải các bác sĩ có khả năng quyết định về chất lượng cuộc sống của mình. Và như vậy, việc chủ động chấm dứt sự sống không còn là điều cấm kỵ trong y học. Tuy nhiên, tự do ý chí trong an tử nên được nhìn nhận cẩn trọng. Tự do ý chí của người bệnh không nên là quyền tự quyết loại trừ mọi ảnh hưởng bên ngoài, hay là sự tự do ý chí tiêu cực. Tự do ý chí trong an tử là sự tự do ý chí tích cực, hay nói cách khác, người bệnh phải hành động một cách có trách nhiệm, quyết định trên cơ sở có xem xét đến những yếu tố khác. Luật pháp
  • 16. 10 nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ quy định bệnh nhân muốn thực hiện quyền an tử phải đưa ra yêu cầu nhiều lần và cân nhắc kĩ càng. Mặc dù tiêu chí xem xét không được quy định cụ thể nhưng rõ ràng người bệnh phải cân nhắc đến những hậu quả khi đưa ra quyết định. Quyết định của người bệnh phải được thảo luận với bác sĩ, và việc thảo luận này không chỉ dừng ở việc khẳng định rằng người bệnh có thực sự mong muốn hưởng thụ quyền an tử, mà còn liên quan đến vấn đề thế nào là không thể chịu đựng. Bác sĩ sẽ không đơn giản công nhận mọi tuyên bố không thể chịu đựng xuất phát từ bệnh nhân. Họ có nghĩa vụ phải xem xét tuyên bố này trong từng hoàn cảnh, từng trường hợp cụ thể và trên tình hình tổng thể của người bệnh. Và những bằng chứng đưa ra phải cho thấy rằng những khó khăn của người bệnh là không có triển vọng cải thiện và xác thực là khó có thể chịu đựng. - Nguyên tắc hành thiện (The Principle of Beneficence): Nguyên tắc này yêu cầu một chủ thể phải hành động để thúc đẩy các quyền và lợi ích của người khác, ngăn chặn những điều có hại cho họ. Trước đây, theo quan niệm cũ, nguyên tắc này đồng nghĩa với việc bác sĩ phải làm mọi cách để ngăn chặn cái chết. Nhưng cách giải thích này đã thay đổi trong thời gian gần đây. Sự phát triển của khoa học – y học bắt đầu từ những năm 60 của thế kỉ trước đã giúp ngày càng nhiều người nhận thức được rằng điều trị y khoa không phải lúc nào cũng mang đến lợi ích cho bệnh nhân. Lúc này, làm mọi điều để giữ sự sống của người bệnh chỉ thể hiện một sự “chuyên chế về mặt kỹ thuật”[34,tr.173], dẫn dến việc không phải lợi ích của người bệnh mà chính khả năng khoa học – y học mới là thứ quyết định liệu pháp điều trị của họ. Khi khoa học kỹ thuật đem đến đau khổ cho người bệnh, liệu pháp điều trị kéo dài sự sống sẽ ngày càng mâu thuẫn với nguyên tắc hành thiện. Vì vậy, ngày nay nguyên tắc này áp đặt một nghĩa vụ giảm nhẹ đau đớn và chấm dứt đau khổ cho người bệnh lên bác sĩ.
  • 17. 11 Điểm quan trọng nhất của nguyên tắc hành hiện là việc bác sĩ phải cân nhắc điều gì có lợi nhất cho bệnh nhân của mình. Không phải quan điểm của bệnh nhân, mà quan điểm của bác sĩ về tình trạng của bệnh nhân mới là yếu tố chi phối. Nếu quan điểm của bác sĩ và bệnh nhân mâu thuẫn với nhau, quan điểm của bác sĩ sẽ được coi trọng. Như đã đề cập ở trên, bác sĩ phải bị thuyết phục rằng an tử là con đường duy nhất. Điều này không có nghĩa bệnh nhân có ít tiếng nói trong cả quá trình, mà nhấn mạnh vào trách nhiệm của bác sĩ, rằng họ mới là người có vai trò quan trọng nhất trong việc an tử. An tử chỉ được chấp nhận khi bác sĩ tin rằng người bệnh không thể tiếp tục chịu đựng. - Kết hợp nguyên tắc tự do ý chí và nguyên tắc hành thiện: Trong khi nguyên tắc tự do ý chí đề cao vai trò của bệnh nhân thì nguyên tắc hành thiện nhấn mạnh mối quan trọng của bác sĩ. Vậy việc cùng một lúc dựa trên hai nguyên tắc này có mâu thuẫn? Thực tế chứng minh, hai nguyên tắc này không xung đột với nhau mà bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau làm nền tảng cho quyền an tử, và tạo nên một mối quan hệ hình mẫu trong y học nói chung và vấn đề an tử nói riêng, mối quan hệ hợp tác thảo luận giữa bệnh nhân và bác sĩ. Trong đó, bệnh nhân đóng vai trò quyết định và bác sĩ giữ vai trò chủ động. Bệnh nhân mong muốn có thể dựa vào bác sĩ trong những giai đoạn khó khăn, họ hy vọng rằng bác sĩ sẽ không để họ chết khổ sở. Còn bác sĩ mong muốn có thể đáp ứng mong muốn của người bệnh, làm giảm bớt những đau đớn của họ đồng thời giữ được y đức của chính mình. Có thể thấy yếu tố trọng tâm trong mối quan hệ này là lòng tin. Lòng tin không chỉ có nghĩa rằng người bệnh có thể chắc rằng bác sĩ của họ không lạm dụng chức quyền, mà hơn thế, họ có thể chắc rằng họ sẽ không đơn độc trong trường hợp không lối thoát. Ngược lại, bác sĩ cũng phải có lòng tin rằng người bệnh đi đến quyết định an tử, dựa trên tình trạng không thể thuyên giảm của họ, mà không vì bất cứ mục đích nào khác.
  • 18. 12 1.2.2. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của quyền an tử An tử và quyền an tử có lịch sử phát triển lâu dài và dần được định hình một cách chính thống và rõ nét qua thời gian. - Về mặt lập pháp, từ thế kỉ V đến thế kỉ I trước công nguyên, người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã có tư tưởng an tử, tuy nhiên chưa hình thành nên khái niệm này. Ở nơi đây, trước khi có sự xuất hiện của đạo Thiên Chúa, con người có thái độ khoan dung đối với an tử tích cực và tự tử. Nhiều người không có niềm tin vững chắc vào giá trị vốn có của đời sống nhân loại, vì vậy bác sĩ ngoại đạo có thể thường xuyên tiến hành phá thai, an tử theo cả hai hình thức tự nguyện và phi tự nguyện. Mặc dù lời thề Hippocrates cấm bác sĩ đưa “thuốc gây chết người cho bất cứ ai dù họ yêu cầu” [30] hay gợi ý hành động tương tự, gần như không có người hành y nào ở Hy Lạp và La Mã cổ đại tuân thủ chặt chẽ lời thề này. Đến tận thế kỉ I sau công nguyên, cụ thể năm 121 thuật ngữ an tử mới xuất hiện lần đầu tiên trong tác phẩm De Vita Caesarum – Divus Augustus (Cuộc đời các Ceasar – Con thần Augustus) của sử gia Gaius Suetonius Tranquillus. Trong đoạn miêu tả về cái chết của Augustus Ceasar, ông đã viết: Trong lúc ngài hỏi một số người mới đến từ thành thị về con gái của Drusus, cô gái đang ốm, ngài đột ngột qua đời khi hôn Livia, thốt ra những lời cuối cùng: “Hãy luôn nhớ đến cuộc hôn nhân của chúng ta, Livia, và vĩnh biệt,” rồi may mắn có được một cái chết dễ dàng và đúng như cách mà ngài hằng mong muốn. Thường thì, mỗi khi nghe rằng ai đó chết nhanh chóng và không đau đớn, ngài lại cầu rằng ngài và thân thể ngài sẽ có được một cái chết êm ả tương tự, đó là khái niệm ngài quen dùng [28, tr.185]. Từ thế kỉ XII đến XV, sự lớn mạnh của đạo Thiên Chúa và đức tin cuộc sống con người là quà tặng từ Chúa đã tái củng cố quan điểm phản đối an tử
  • 19. 13 của Hippocrates. Trong ba thế kỉ này, sự nhất trí trong các quan điểm y học phản đối an tử đạt đến đỉnh điểm. Đến thế kỉ XVII, hệ thống Thông luật với những quy định trừng phạt hoặc không chấp nhận tự tử và an tử đã không chỉ phủ khắp các quốc gia là cái nôi của hệ thống này, mà còn vươn tới các thuộc địa. Có thể kể đến việc các nhà làm luật của Providence Plantations, vùng lãnh thổ sau này trở thành Rhode Island, đã tuyên bố vào năm 1647, rằng Tự tử tuyệt đối là hành vi trái tự nhiên nhất, và hội đồng lập pháp nay tuyên, rằng, người nào thực hiện hành vi này, tự tử chỉ vì chủ tâm ghét bỏ chính cuộc sống của mình hay niềm hạnh phúc của người khác... thì đồ đạc và tài sản của họ sẽ do nhà vua định đoạt [44]. Tuy nhiên không thể phủ định một số động thái tích cực ủng hộ an tử trong suốt thời kì này. Thomas More (1478-1535) thường được nhắc đến với tư cách là người Thiên chúa giáo đầu tiên có những đề cập nổi bật đến an tử trong tác phẩm Utopia của ông, trong đó những linh mục theo chủ nghĩa không tưởng đã khuyến khích an tử khi người bệnh không thể cứu chữa và phải chịu đau đớn (nhưng chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của bệnh nhân). “Nếu một căn bệnh không chỉ đem lại đau đớn mà còn khổ sở không dứt, thì các linh mục và chính quyền nên ủng hộ người này…tự giải thoát khỏi cuộc sống đắng cay… hoặc cho phép người khác giải thoát giúp họ"[44]. Vấn đề duy nhất khi sử dụng những lời này là việc Thomas More, một con chiên mộ đạo, dùng Utopia như một công cụ chế giễu nhạo báng. Nhà triết học người Anh, Francis Bacon (1561-1621), là người đầu tiên thảo luận về việc kéo dài sự sống là một nhiệm vụ y khoa mới, gồm ba nhiệm vụ: duy trì sức khỏe, chữa trị bệnh tật và kéo dài sự sống. Bacon cũng khẳng định rằng, “Họ phải trau dồi các kĩ năng và sự tập trung chú ý mà nhờ đó những người đang chết có thể thoát khỏi cuộc sống một cách dễ dàng và lặng lẽ hơn” [44]. Như
  • 20. 14 vậy Bacon chỉ đề cập đến khía cạnh bên ngoài của an tử, hay cái chết êm ái cho cơ thể, không có sự chuẩn bị về mặt tinh thần. Có vẻ như ông không cất tiếng nói cho an tử, mà đang ủng hộ một khái niệm khác được cho là tốt đẹp hơn, đó là chăm sóc giảm nhẹ. Còn ở các nước châu Âu, nhất là các nước chủ yếu theo đạo Thiên Chúa, bàn luận về vấn đề an tử thậm chí còn là điều cấm kị cho đến thời kỳ Khai sáng thế kỉ XVIII. Nhiều nhà văn đã tấn công vào các nhà thờ để truyền bá về mọi khía cạnh đời sống, bao gồm cả an tử và tự tử. Mặc dù vậy, vấn đề này không được quan tâm nhiều và rộng khắp. Và nó đã chứng minh sự nhất thời của mình, khi dưới sự lãnh đạo của các nhà truyền giáo, một cuộc phản công mang tính chất tôn giáo đã diễn ra vào cuối thế kỉ XVIII. Làn sóng phục hưng tôn giáo, bắt đầu với cuộc Đại thức tỉnh vào khoảng giữa những năm 1700, đã ngăn cản những người theo chủ nghĩa thế tục và thuyết bất khả tri ở cả hai bờ Đại Tây Dương dấy lên phong trào ủng hộ an tử. Và đến cuộc Đại thức tỉnh lần hai vào những năm đầu của thế kỉ 19, những nhà truyền giáo tích cực đã tăng cường lên án mạnh mẽ tự tử và an tử. Điểm sáng duy nhất cho an tử trong thời kì này là vào cuối thế kỉ XVIII, ngày 1/6/1794, một đạo luật đã được ban hành tại Vương quốc Phổ, trong đó giảm nhẹ hình phạt cho những người thực hiện việc giải thoát cho bệnh nhân mắc bệnh không thể cứu chữa. Sau đó không lâu, năm 1828, một văn bản pháp luật được ban hành tại New York trong đó quy định rõ ràng an tử là hành vi trái pháp luật. Nhiều bang và vùng lãnh thổ khác đã noi theo tấm gương này. Vào khoảng giữa năm 1857 và 1865, một Ủy ban New York do Dudley Field đứng đầu đã soạn thảo dự luật hình sự trong đó nghiêm cấm việc trợ giúp tự tử, và đặc biệt, là hành vi “cung cấp cho người khác vũ khí chết người hoặc thuốc độc, khi biết rằng người đó có ý định sử dụng thuốc hoặc vũ khí này để kết thúc cuộc đời của chính mình” [44]. Tại thời điểm Hiến pháp sửa đổi lần thứ 14 được thông qua,
  • 21. 15 an tử và trợ tử là tội hình sự ở hầu hết các bang. Bộ luật hình sự của Field được thông qua tại vùng lãnh thổ Dakota năm 1877, New York năm 1881, và tiếng nói của nó trở thành chuẩn mực cho các đạo luật của một số bang phía Tây khác trong cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, như California đã pháp điển hóa quy phạm cấm an tử năm 1874, sử dụng cách diễn đạt tương tự như trong Bộ luật của Field. Một cột mốc quan trọng trong tiến trình lịch sử của quyền an tử là việc chiết xuất được morphine vào thế kỉ XIX và chất này được sử dụng làm thuốc giảm đau trên diện rộng. Khi việc sử dụng thuốc giảm đau trở nên thông dụng và phổ biến, Samuel Williams, một giáo viên, đã có bài phát biểu đầu tiên ủng hộ cho an tử tích cực, trong đó đề cập đến việc thuốc không chỉ được dùng để giảm các cơn đau không thể chữa trị mà còn để giải thoát cho bệnh nhân một cách có chủ định. Trong mọi trường hợp, người thực hành y nên thực hiện sứ mệnh, là bất cứ khi nào bệnh nhân thực sự mong muốn, dùng chloroform, hoặc chất gây mê khác mà bản thân nó hoặc nó thay thế cho chloroform, ngay lập tức tiêu trừ ý thức, và ngay lập tức giúp người đang chịu khổ sở được chết nhanh chóng và không đau đớn; để ngăn chặn mọi nguy cơ lạm dụng có thể xảy ra với sứ mệnh này cần có quy định phòng ngừa; và những biện pháp chứng minh sự minh bạch và rõ ràng, rằng phương thức này chỉ áp dụng khi có mong muốn sáng tỏ của bệnh nhân [35]. Mặc dù Tạp chí hiệp hội y khoa Hoa Kỳ coi bài phát biểu của Samuel Williams là cố gắng khiến “người bác sĩ khoác chiếc áo của tên đao phủ” [38, tr.11], trong suốt những năm cuối thế kỉ XIX, nó đã nhận được sự chú ý nghiêm túc trên nhiều tạp chí y khoa khác và các hội nghị khoa học.
  • 22. 16 Nhưng hầu hết các bác sĩ vẫn giữ quan điểm thuốc giảm đau có thể dùng để giảm bớt sự đau đớn, không phải thúc đẩy cái chết. Thế kỉ XX là thế kỉ phát triển rực rỡ của an tử và quyền an tử. Sang thế kỉ mới ngành y khoa đã có những bước tiến lớn. Việc sử dụng các phương pháp khoa học và nguyên tắc y dược hiện đại đã củng cố quyền kiểm soát của người hành nghề y đối với các trường đại học và các khóa đào tạo y khoa, cuộc tranh luận về an tử chuyển sang xuất hiện trên các báo ngoài ngành và các diễn đàn chính trị. Khoảng giữa năm 1905 và 1906, một dự luật hợp pháp hóa an tử bị bác tại cơ qua lập pháp Ohio với 79 phiếu chống trên 23 phiếu thuận. Năm 1906, một đề xướng hợp pháp hóa an tử không chỉ cho người trưởng thành mắc bệnh không thể chữa trị, mà còn cả trẻ chịu dị tật lớn hoặc thiểu năng được đưa ra và cũng bị bác. Sau năm 1906, sự hứng thú của công luận với vấn đề an tử lại giảm xuống. Mãi đến tận những năm 1915 – 1917, cuộc tranh luận về an tử một lần nữa bùng nổ sau sự kiện bác sĩ Harry John Haiselden thuộc bệnh viện Hoa Kỳ - Đức tại Chicago cho phép một trẻ trai dị dạng được chết thay vì tiến hành phẫu thuật và việc ra mắt bộ phim The Black Stork có nội dung về an tử cho trẻ vị thành niên. Năm 1922, Nga giảm hình phạt đối với an tử trong Bộ luật hình sự nhưng sau đó ít lâu văn bản này đã bị bãi bỏ. Năm 1935, Hiệp hội Công nhận An tử tự nguyện (VELS), sau này đổi tên thành Hiệp hội An tử, là tổ chức an tử đầu tiên của thế giới do Charles Killick Millard, một bác sĩ công, đã thành lập tại London, Anh. Một năm sau đó, Thượng viện Anh đã bác đề nghị hợp pháp hóa an tử. Còn tại Hoa Kỳ, tranh cãi về an tử một lần nữa bắt lửa khi nền kinh tế lớn mạnh nhất thế giới đang đứng trước cuộc Đại khủng hoảng. Năm 1937 thượng nghị sĩ Nebraska John Comstock đã trình một dự luật tên Luật an tử tự nguyện lên Nghị viện Mỹ. Dự luật này không bao giờ được đem ra bỏ phiếu nhưng đã chứng minh một sự quan tâm mới tới việc hợp pháp hóa hành vi an tử.
  • 23. 17 Các điều tra ý kiến cộng đồng năm 1937 cho thấy rằng 45% người Hoa Kỳ ủng hộ quan điểm của Harry John Haiselden rằng an tử cho trẻ sinh ra bị dị dạng vĩnh viễn hoặc dị tật tinh thần là có thể chấp nhận được [38, tr.33]. Chỉ một năm sau đó, ngày 16/1/1938, Hiệp hội quốc gia về Hợp pháp hóa An tử của Hoa Kỳ (NSLE), không lâu sau đổi tên thành Hiệp hội An tử Hoa Kỳ (ESA), được Đức giám mục Charles Francis Potter thành lập tại New York. Theo Thời báo TIME, Ngài và một nhóm quy tụ những người có tiếng khác tin vào quyền được kết thúc một cách nhẹ nhàng của một cá nhân bị bệnh không thể cứu chữa mạnh mẽ đến mức họ…thành lập một Hiệp hội quốc gia về Hợp pháp hóa An tử… Ủy viên của tổ chức bao gồm cả bác sĩ Clarence Cook Little thuộc Hiệp hội Kiểm soát Ung thư Hoa Kỳ và Liên đoàn Kế hoạch hóa sinh sản Hoa Kỳ và thư kí Leon Fradley Whitney của Hiệp hội Ưu sinh Hoa Kỳ [44]. Ngoài ra, thành viên hội còn có gần 2000 bác sĩ và hơn 50 nhà truyền giáo. Tại thời điểm này, an tử được phần đông người hành nghề y ủng hộ. Sang những năm 40 của thế kỉ XX, hợp pháp hóa quyền an tử tưởng chừng chỉ còn là vấn đề thời gian đột nhiên vấp phải trở ngại – chiến tranh thế giới với sự nổi dậy của Đức Quốc Xã. Tháng 10/1939, giữa cuộc khủng hoảng chiến tranh bùng nổ, Hitler ra lệnh an tử diện rộng đối với những người đau ốm và tàn tật. Chiến dịch mang tên Aktion T4, một chương trình an tử của Đức Quốc Xã để loại bỏ “đời sống không đáng sống” [50] bước đầu tập trung vào trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Nữ hộ sinh và bác sĩ được lệnh thống kê tên những trẻ từ 3 tuổi trở xuống có dấu hiệu tâm thần chậm phát triển, dị dạng cơ thể, hoặc những triệu chứng khác trong một bảng thống kê của Bộ y tế Đức Quốc Xã. Chương trình an tử này của Đức Quốc Xã nhanh chóng mở rộng ra những
  • 24. 18 trẻ khuyết tật lớn hơn và người trưởng thành. Một thông tư vào tháng 10/1939 của Hitler có hiệu lực trở về từ ngày 1/9, đã mở rộng “quyền lực của các bác sĩ được chỉ định đích danh có thể ban cho những người, theo cách đánh giá nhân văn, là không thể chữa trị sau khi đã chuẩn đoán cẩn thận tình trạng đau yếu của họ, một cái chết êm ả” [50]. Với động thái này, phong trào an tử đang lên lâm vào thế bị động và tìm mọi cách chứng minh cái mình ủng hộ không giống như cỗ máy giết người Đức Quốc Xã. Hệ quả năm 1950, Hiệp hội Y khoa Thế giới đã bỏ phiếu về vấn đề kiến nghị tới các hiệp hội y khoa quốc gia lên án an tử dưới mọi hình thức. Cùng năm Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ tuyên bố phần lớn bác sĩ không tin vào an tử. Ngay cả công chúng cũng rơi vào trạng thái lưỡng lự. Một điều tra ý kiến người dân Hoa Kỳ liệu họ có đồng ý để một bác sĩ được phép kết thúc cuộc sống của bệnh nhân không có khả năng chữa trị nếu bệnh nhân và gia đình bệnh nhân yêu cầu, “chỉ 36% nói có, thấp hơn gần 10% so với những năm cuối thập niên 30” [38,tr.95]. Đứng trước tình hình này, năm 1952, VELS và ESA đã gửi một bản kiến nghị đến Ủy ban quyền con người Liên hợp quốc (UNCHR) yêu cầu sửa đổi Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (UDHR) để đưa thêm vào Quyền của những người chịu đựng bệnh tật không thể cứu chữa được thực hiện an tử hoặc cái chết êm ả.... Trước một sự thật rằng quyền này không chỉ phù hợp với các quyền và sự tự do được quy định trong UDHR mà còn cần thiết được công nhận, chúng tôi bằng văn bản này kiến nghị UN tuyên bố quyền an tử của những bệnh nhân không thể cữu chữa [36, tr.59]. Eleanor Roosevelt, Chủ tịch UNCHR, không đưa kiến nghị này lên UNCHR. Trong hai thập kỉ tiếp theo, phong trào ủng hộ an tử vẫn nổi lên mạnh mẽ ở nhiều nơi, có thể kể đến bản chúc thư y tế (living will) đầu tiên do
  • 25. 19 luật sư Louis Kutner soạn, dự luật an tử của bác sĩ Walter W. Sackett ở Florida, dự luật an tử tự nguyện ở Idaho…nhưng tất cả đều không thành công. Mãi đến những năm 1970, an tử và quyền an tử mới đạt được những thành công bước đầu về mặt pháp lý. Năm 1970 ESA đã “hoàn tất việc phân phát 60.000 chúc thư y tế” [26]. Năm 1973 Hiệp hội Bệnh viện Mỹ ban hành Quy định về quyền của bệnh nhân, trong đó có quy định về quyền từ chối điều trị. Cùng năm, bác sĩ Gertruida Postma, người đã tiêm cho mẹ mình một mũi thuốc an tử, chỉ phải nhận mức phạt nhẹ tại Hà Lan. Sự việc này đã châm ngòi cho phong trào an tử tại Hà Lan với sự ra đời của Hiệp hội An tử tự nguyện Hà Lan (NVVE). Năm 1974, ESA đổi tên thành Hiệp hội Quyền An tử Hoa Kỳ (SRD), tổ chức đầu tiên dùng tới khái niệm quyền an tử. Năm 1975 NVVE thành lập Ban Hỗ trợ Thành viên để tư vấn cho những người sắp chết. “Trong năm đầu tiên đã nhận được 25 yêu cầu hỗ trợ”[26]. Năm 1976 Tòa tối cao New Jersey cho phép cha mẹ Karen Ann Quinlan ngắt mặt nạ khí, tuyên bố rằng đó là sự chọn lựa của bản thân cô. Trường hợp của Quinlan trở thành bước ngoặt lớn về mặt luật pháp. Năm 1976 Đạo luật Cái chết tự nhiên đầu tiên được thông qua tại California. Văn bản này đã tạo chỗ đứng pháp lý cho chúc thư y tế và cho phép người bị bệnh nan y có quyền rút các điều trị y tế duy trì sự sống khi cái chết được cho là cận kề. Cùng năm, 10 bang khác của Hoa Kỳ thông qua luật chết tự nhiên. Năm 1977 một đề xuất của người dân lên Nghị viện Liên bang Thụy Sỹ về việc thực hiện an tử cho bệnh nhân không thể chữa trị tại bang Zurich “được thông qua với 203.148 phiếu thuận trên 144.822 phiếu chống” [26]. Nhưng Nghị viện Liên bang không tuân theo đề xuất này. Ngày 05/05/1980 giáo hoàng John Paul II đã ban hành Tuyên ngôn An tử phản đối cái chết êm ả nhưng cho phép sử dụng rộng rãi các chất giảm đau và quyền từ chối điều trị đặc biệt để duy trì sự sống. Trong năm này, Hiệp hội
  • 26. 20 Hemlock do Derek Humphry thành lập tại Santa Monica, California đã ủng hộ những thay đổi về mặt pháp lý và tuyên truyền các thông tin về an tử. Hemlock cũng khởi xướng chiến dịch trợ tử tại Hoa Kỳ. “Số lượng thành viên trong nước của Hemlock lên đến 50.000 chỉ trong vòng 10 năm” [26]. Các hiệp hội về quyền an tử cũng được thành lập trong năm 1980 tại Pháp, Đức và Canada. Năm 1980 cũng chào mừng sự ra đời của Liên hiệp quốc tế về Quyền an tử tại Oxford, Anh với sự tham gia của 27 nhóm đến từ 18 quốc gia. Năm 1982, EXIT ADMD Suisse Romande của cộng đồng nói tiếng Pháp tại Thụy Sỹ được thành lập và sau đó vào tháng 4 EXIT (Deutsche Schweiz) của cộng đồng nói tiếng Đức và Ý tại Thụy Sỹ cũng ra đời. Cả hai tổ chức ban đầu chỉ cung cấp thông tin cho thành viên của mình, nhưng sau đó bắt đầu thực hiện trợ tử. Hành vi này ở Thụy Sỹ không bị luật điều chỉnh, trừ khi vì động cơ ích kỷ. Năm 1984 quy định về Văn bản chỉ định các y pháp trị liệu (Advance care directive) được công nhận tại 22 bang và quận Columbia. Cùng năm Tòa tối cao Hà Lan thông qua luật an tử tự nguyện và trợ tử theo các điều kiện nghiêm ngặt. Năm 1987 Hội nghị đoàn luật sư bang California đã thông qua Nghị quyết số 3-4-87 và trở thành cơ quan chính phủ đầu tiên chấp nhận hoạt động an tử. Năm 1988 Hiệp hội giáo đoàn nhất thể phổ độ đã thông qua một nghị quyết quốc gia về việc trợ tử cho người bệnh vô phương cứu chữa, trở thành cơ quan tôn giáo đầu tiên chấp nhận quyền an tử. Năm 1990 Hiêp hội Y khoa Hoa Kỳ đã đưa ra quan điểm chính thức rằng với sự đồng thuận sau khi được cung cấp đủ thông tin, một bác sĩ có thể rút bỏ điều trị cho bệnh nhân cận kề cái chết, và cũng có thể ngừng các hỗ trợ sống cho bệnh nhân hôn mê vĩnh viễn. Cùng năm Tòa tối cao liên bang đưa ra phán quyết về vụ Nancy Beth Cruzan – động thái nhận được nhiều sự chú ý bởi đây là vụ việc đầu tiên liên quan đến quyền an tử được Tóa tối cao liên bang thụ lý. Phán quyết công nhận rằng một người trưởng thành đầy đủ nhận
  • 27. 21 thức có các quyền tự do được hiến pháp bảo vệ, trong đó có quyền từ chối điều trị y khoa; nhưng cũng tán thành phán quyết của Tòa tối cao Missouri về việc phải có minh chứng rõ ràng và thuyết phục về mong muốn được an tử của người bệnh khi họ không còn khả năng đưa ra quyết định. Bên cạnh đó, Quốc hội cũng đã thông qua Đạo luật quyền Tự quyết của bệnh nhân, trong đó yêu cầu các bệnh viện nhận ngân sách thông báo cho bệnh nhân rằng họ có quyền yêu cầu hoặc từ chối điều trị. Đạo luật này có hiệu lực một năm sau đó. Năm 1991, bang Washington đã đưa ra dự luật bỏ phiếu số 119 hợp pháp hóa trợ tử nhưng bị bãi bỏ. Ngày 03/11/1992, cử tri California đã bãi bỏ Đề nghị số 161, dự luật Cái chết nhân phẩm của California, trong đó cho phép bác sĩ đẩy nhanh cái chết bằng hành vi chủ động hoặc kê đơn để người bệnh không có khả năng cứu chữa tự thực hiện, với “tỷ lệ bỏ phiếu là 54 – 46%”[44]. Đến tháng 11/1994, các cử tri Oregon đã thông qua Đạo luật số 16, một đạo luật về Cái chết nhân phẩm trong đó cho phép người bệnh không thể cứu chữa, theo các biện pháp bảo vệ thích hợp, được bác sĩ kê đơn để kết thúc cuộc sống một cách nhân đạo và nhân phẩm. “Tỷ lệ bỏ phiếu là 51-49%” [26]. Năm 1995, Vùng lãnh thổ phía Bắc Australia thông qua luật an tử. Luật có hiệu lực từ năm 1996 và bị bác bởi Nghị viện Australian năm 1997. Chỉ bốn trường hợp được tiến hành theo luật này, tất cả đều do bác sĩ Philip Nitschke thực hiện. Ngày 30/04/1997, tổng thống Clinton ký Luật cấm tài trợ trợ tử năm 1997, theo đó việc sử dụng ngân sách phục vụ cái chết của người bệnh bị cấm hoàn toàn. Năm 1998, Ủy ban dịch vụ y tế Oregon quyết định rằng việc chi trả cho vấn đề an tử sẽ lấy từ ngân sách theo chương trình Kế hoạch Y tế Oregon để người nghèo không bị phân biệt đối xử. Cùng năm Michigan đề xuất Đề nghị B hợp pháp hóa trợ tử, và “đề nghị thất bại với tỷ lệ 29% thuận trên 71% chống” [44].
  • 28. 22 Khác biệt với tình trạng thất bại liên tiếp trong những năm cuối của thế kỉ XX, thế kỉ XXI chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của an tử và quyền an tử. Năm 2000, Hà Lan thông qua luật an tử, trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới hợp pháp hóa quyền này. Luật pháp Hà Lan cho phép an tử và trợ tử có hiệu lực thi hành từ 01/02/2002. Tiếp đó, năm 2002, Bỉ cũng đã thông qua một đạo luật tương tự Hà Lan. Ngày 19/02/2008, nghị viện Luxembourg ban hành đạo luật hợp pháp hóa trợ tử và an tử. Ngày 04/11, đạo luật Cái chết nhân phẩm của Washington được thông qua, giúp Washington trở thành bang thứ hai của Mỹ hợp pháp hóa trợ tử. Ngày 05/12 cùng năm, thẩm phán bang Montana bà Dorothy McCarter tuyên rằng người dân có quyền được trợ tử, và biến Montana thành bang thứ ba tại Hoa Kỳ hợp pháp hóa việc trợ tử hỗ trợ được chết. Nhưng mãi đến tận 31/12/2009, Tòa tối cao bang Montana mới xác nhận rằng trợ tử không đi ngược lại chính sách công tại in Montana, pháp luật bang không truy tố bác sĩ của bang khi họ giúp đỡ người bệnh nan y được chết nhưng từ chối đưa ra phán quyết liệu an tử có phải một quyền nên được hiến pháp Montana quy định. Ngày 20/05/2013 Vermont trở thành bang thứ tư cho phép trợ tử, theo đạo luật Quyết định kết thúc cuộc sống – đạo luật trợ tử đầu tiên tại Hoa Kỳ được hợp pháp hóa theo đúng trình tự lập pháp (Oregon và Washington thông qua đạo luật tương tự bằng việc tổ chức cho công dân bỏ phiếu, đạo luật của Montana thông qua một vụ việc xét xử). Tương tự luật của Oregon và Washington, luật Vermont cũng quy định biện pháp bảo đảm để quản lý những bác sĩ được phép kê đơn thuốc trợ tử cho bệnh nhân nan y của bang này. Tuy nhiên, những biện pháp bảo đảm này sẽ hết hạn vào ngày 01/07/2016, sau thời điểm này, “việc thực hành kê đơn thuốc kết thúc cuộc sống sẽ chịu sự giám sát của các tiêu chuẩn hành nghề đang điều chỉnh hành vi của bác sĩ trong các khía cạnh khác của y học” [33].
  • 29. 23 Và đến ngày 02/03/2014, Vương quốc Bỉ đã trở thành quốc gia đầu tiên hợp pháp hóa quyền an tử cho trẻ vị thành niên mắc bệnh nan y và không thể chữa trị. Hà Lan cũng có một quy định tương tự nhưng cấm áp dụng cho trẻ dưới 12 tuổi. Trong khi đó, ngày 05/06/2014, Quebec trở thành thị trấn Canada đầu tiên thông qua luật an tử. - Về ý kiến cộng đồng, có thể thấy xu hướng ủng hộ quyền an tử ngày càng mạnh và nhu cầu hưởng thụ quyền an tử trong thực tế ngày càng nhiều. Trong suốt thời kì cổ đại, việc sử dụng an tử như một phương thức chống lại đau đớn kéo dài được ủng hộ rộng rãi, và cách thường được sử dụng nhất là cung cấp cho bệnh nhân thuốc độc khi họ yêu cầu. Đến cuối thế kỷ XX, nhiều cuộc điều tra xã hội học được thực hiện trên toàn cầu cho thấy: + Phần lớn người hành nghề y mong muốn giúp đỡ bệnh nhân của mình kết thúc cuộc sống: Một cuộc thăm dò ý kiến về vấn đề trợ tử của trường đại học Glasgow năm 1996 đã cho thấy giới y khoa ủng hộ mạnh mẽ hợp pháp hóa trợ tử. Phần lớn người hành nghề y (54%) mong muốn luật pháp được sửa đổi cho phép trợ tử trong một số trường hợp nhất định, trong khi chỉ có 36% phản đối. 55% người được khảo sát cho rằng điều này chỉ nên được được cho phép đối với những người trong tình trạng nan y hoặc chịu đựng đau đớn khủng khiếp về mặt thể xác hoặc tinh thần. + Phần đông công chúng ủng hộ việc hợp pháp hóa an tử: Báo cáo về quan điểm xã hội Anh năm 1996 dựa trên nhiều cuộc điều tra công chúng toàn quốc cho thấy rằng mặc dù số liệu chính xác có giao động nhưng tất cả đã thể hiện một quan điểm thống nhất là phần đông ủng hộ việc hợp pháp hóa an tử tự nguyện, với tỷ lệ 82%. “Tỷ lệ ủng hộ lớn nhất (86%) đối với trường hợp cá nhân trong tình trạng bệnh lý không thể cứu chữa và đang sống phụ thuộc vào thiết bị hỗ trợ, không thể quyết định về tương lai của chính bản thân mình – như trong trường hợp hôn mê vĩnh viễn” [27].
  • 30. 24 Tỷ lệ ủng hộ này còn lớn hơn tỷ lệ ủng hộ trong trường hợp bệnh nhân trong tình trạng bệnh lý không thể chữa trị, chịu nhiều đau đớn và ở giai đoạn cuối (80%). Trong khi đó, không một cuộc điều tra khảo sát trên phạm vi quốc gia nào cho thấy phần đông phản đối an tử tự nguyện. Thậm chí cuộc khảo sát do nhóm chống an tử tự nguyện có tên Doctors Who Respect Human Life năm 1987 cho thấy 72% người tham gia ủng hộ hợp pháp hóa an tử tự nguyện. Thực tế, các nhóm chống an tử tự nguyễn vẫn chưa tiến hành được một cuộc điều tra nào ở Anh không cho thấy phần đông công chúng ủng hộ an tử tự nguyện. Tương tự, 64% dân số Mỹ cho rằng bác sĩ nên được cho phép kết thúc cuộc sống của bệnh nhân trong tình trạng nan y và chịu đau đớn nếu người bệnh mong muốn được chết theo Khảo sát của trung tâm Roper năm 1990. Tại Úc, tỷ lệ còn cao hơn, 78% ủng hộ quyền chấm dứt cuộc sống bệnh nhân của bác sĩ theo Khảo sát của Trung tâm nghiên cứu Roy Morgan năm 1995. + Người lớn tuổi và người khuyết tật ủng hộ an tử tự nguyện mạnh mẽ hơn: Các nhóm chống an tử tự nguyện thường khẳng định rằng việc an tử hoặc trợ tử có thể đe dọa đến nhóm người yếu thế nhất trong xã hội – cụ thể là người già và người khuyết tật. Thực tế chứng minh điều ngược lại, những nhóm này thể hiện sự ủng hộ còn cao hơn. Cuộc điều tra được cho là đầu tiên nhắm vào đối tượng thuộc nhóm này là của Yours magazine vào tháng 11/1994 trên nhóm người đã về hưu, cho thấy “92% phản hồi rằng bác sĩ nên được cho phép kết thúc cuộc sống của bệnh nhân bệnh nan y mong muốn được chết. Chỉ 29% đồng ý rằng hợp pháp hóa an tử đặt ra nguy cơ an tử trái nguyện vọng một cách vô nhân đạo trên thực tế” [28]. + Phần đông người theo Công giáo La Mã ủng hộ quyền an tử: Có một quan niệm sai lầm rằng người theo Kitô giáo phản đối an tử tự nguyện và trợ tử. Rõ ràng, hệ thống giáo hội phản ứng an tử tự nguyện nhưng nghiên cứu năm 1993 của NOP cho thấy rằng 73% người theo Công giáo tại Vương quốc Anh đồng ý rằng bác sĩ nên được cho phép giúp đỡ bệnh nhân không thể cứu chữa giải thoát.
  • 31. 25 + Và sự ủng hộ an tử ngày càng lớn mạnh. Các cuộc điều tra không chỉ cho thấy rằng an tử và trợ tử được phần đông cộng đồng ủng hộ, mà còn thể hiện sự ủng hộ ngày càng lớn mạnh dành cho vấn đề này. Tại Anh, theo Báo cáo về quan điểm xã hội năm 1996, “Tỷ lệ ủng hộ việc cho phép hỗ trợ y tế trong việc chấm dứt cuộc sống của người bệnh không có khả năng chữa trị và chịu nhiều đau đớn tăng từ 75% năm 1984 lên 79% năm 1989 và 82% năm 1994” [27]. Nghiên cứu của NOP năm 1993 ghi nhận tỷ lệ tăng từ 69% (1976) lên 79% (1993). Đến thế kỉ XXI, khi quyền an tử đã được hợp pháp hóa tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, sự ủng hộ không chỉ dừng lại ở việc bày tỏ quan điểm hay ghi nhận những trường hợp nhỏ lẻ mà thể hiện qua nhu cầu thực tế ngày càng tăng lên. Tại Hà Lan, quốc gia thứ hai trên thế giới hợp pháp hóa quyền an tử, số lượng các trường hợp đã thực hiện an tử đã tăng lên gấp 2 lần trong vòng 6 năm (từ gần 2000 vụ năm 2006 đến hơn 4000 năm 2012) và có xu hướng tiếp tục tăng mạnh trong năm 2014. Hình 1.1: Các trường hợp hưởng thụ quyền an tử tại Hà Lan, 2006 – 2014 [17]
  • 32. 26 Tại Bỉ, quốc gia thứ ba trên thế giới hợp pháp hóa quyền an tử, số lượng người đăng ký được hưởng thụ quyền giữ mức tăng ổn định từ thời điểm luật được thông qua, và đến năm 2012 đã vượt quá 1400 trường hợp. Hình 1.2: Các trường hợp hưởng thụ quyền an tử tại Bỉ, 2002 – 2012 [ 54] Chính phủ bang Oregon hợp pháp hóa trợ tử vào năm 1994 và đạo luật chính thức có hiệu lực từ 1998, từ đó đến năm 2011, số lượng các trường hợp yêu cầu hưởng thụ quyền tăng từ 16 (1998) lên 71 (2011), đồng nghĩa với việc tăng 450% Hình 1.3: Các trường hợp thực hiện trợ tử theo Luật Cái chết nhân phẩm tại bang Oregon, Hoa Kỳ, 1998 – 2011 [42]
  • 33. 27 Trong khoảng thời gian tương tự, cơ quan có thẩm quyền của Thụy Sĩ đã ghi nhận mức tăng thậm chí còn lớn hơn bang Oregon, từ 43 trường hợp năm 1998 đến 297 năm 2009, “đồng nghĩa với việc tăng 700%” [25]. 1.3. Đặc điểm và ý nghĩa của quyền an tử 1.3.1. Đặc điểm - Quyền an tử là một quyền nhân thân Quyền an tử cần được định nghĩa như một nhân thân bởi về bản chất: + Quyền an tử gắn liền với một chủ thể nhất định và không thể chuyển giao được cho chủ thể khác. Một chủ thể chỉ có quyền và có khả năng hưởng thụ quyền an tử khi đó là chủ thể sống, trong khi sống và quyền sống là tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi người. Hay nói cách khác một cá nhân không thể áp đặt quyền an tử lên một chủ thể nào khác ngoài chính bản thân mình, đơn giản bởi sự sống của chủ thể đó không thuộc phạm vi có thể quyết định rằng chấm dứt hay không của họ. Ngay cả trong trường hợp người bệnh có chúc thư y tế và trao quyền quyết định vào tay một người khác trước khi mất khả năng tự quyết thì cũng không thể coi là người bệnh đã chuyển giao quyền an tử của họ cho người này. Bởi việc người được trao quyền sau đó sẽ quyết định như thế nào đều đã nằm trong dự tính của người bệnh, nên khi người bệnh thực hiện các thủ tục trên thì đồng nghĩa với việc họ đã quyết định chấp nhận thực hiện quyền an tử của mình trong trường hợp lâm vào tình trạng bệnh lý không thể cứu chữa và nhằm mục đích duy nhất là thoát khỏi đau đớn, khổ sở. + Quyền an tử mang tính chất phi tài sản. Quyền an tử không thể đem ra mua bán, cầm cố, thế chấp…bởi chủ thể khác không thể đặt mình vào vị thế của người có quyền để hưởng thụ quyền này - Quyền an từ là đặc quyền Đồng thời, quyền an tử cũng là một đặc quyền. Điều này không có
  • 34. 28 nghĩa quyền an tử chỉ thuộc về một nhóm chủ thể cá biệt trong xã hội, mà đặc quyền có nghĩa quyền an tử chỉ phát sinh khi chủ thể hưởng thụ quyền ở trong tình trạng đặc biệt, khi rơi vào trạng thái bệnh lý không còn khả năng cứu chữa. Đây là đặc điểm quan trọng giúp phân biệt giữa hành vi hưởng thụ quyền an tử và hành vi tự tử, cũng như phân biệt giữa hành vi thực hiện an tử và hành vi trợ giúp, xúi giục người khác tự tử. Nếu như quyền an tử và thực hiện an tử chỉ áp dụng đối với những bệnh nhân mắc bệnh nan y, không có hy vọng chữa trị, và trong luật pháp một số quốc gia còn quy định thêm rằng thời hạn sống không còn dài, thì tự tử và hành vi xúi giục, trợ giúp người khác tự tử có thể được thực hiện bởi các chủ thể không mắc bệnh hoặc đối với các chủ thể không mắc bệnh, vì thế bị coi là hành vi có hại cho xã hội, và bị luật pháp nhiều quốc gia quy định là tội hình sự. Hiện nay hầu hết các quốc gia quy định chủ thể của quyền an tử là người thành niên, có đủ năng lực hành vi để tự ý thức về tình trạng của bản thân cũng như đưa ra quyết định về cuộc sống của mình một các chính chắn nhất. Tuy nhiên xu hướng trẻ hóa chủ thể của quyền an tử đã và đang phát triển, nhận được sự ủng hộ. Theo quan điểm của người viết, quyền an tử chỉ nên bị chi phối bởi yếu tố tình trạng bệnh lý, không nên dựa trên yếu tố độ tuổi để đảm bảo tính khách quan của quyền. - Quyền an tử là quyền thực hiện được khi có sự hỗ trợ của chủ thể có thẩm quyền Quyền an tử không giống như các quyền khác là chủ thể có thể tự do hưởng thụ quyền bằng khả năng của mình. Một chủ thể khi hội tụ đủ các điều kiện chỉ có thể hưởng thụ quyền thông qua sự trợ giúp của người khác. Sự trợ giúp này có thể biểu hiện bằng hành vi hành động (tiêm thuốc gây chết người trong an tử chủ động) hoặc không hành động (không tiếp tục các hỗ trợ y tế trong an tử bị động). Ngay cả trong trường hợp trợ tử, khi người bệnh tự thực
  • 35. 29 hiện việc đưa thuốc gây chết vào cơ thể hoặc uống thuốc gây chết, họ vẫn cần đến sự trợ giúp của bác sĩ trong việc kê đơn và có được các loại thuốc mình cần một cách hợp pháp. Mọi hành vi chấm dứt sự sống không có sự hỗ trợ của chủ thể có thẩm quyền đều mang tính chất chủ quan, bộc phát và đây chính là đặc điểm nữa giúp phân biệt giữa việc hưởng thụ quyền an tử và tự tử dù chủ thể có ở trong cùng một tình trạng bệnh lý không thể cứu chữa. Ngoài ra, chủ thể hỗ trợ cũng phải tuân theo các quy định của pháp luật. Họ phải là những bác sĩ có bằng cấp, đủ thẩm quyền thực hiện chứng nhận tình trạng của bệnh nhân cũnng như có đủ kiế thức, kĩ năng và kinh nghiệm để thực hiện an tử trong trường hợp bệnh nhân không thể hoặc không muốn tự thực hiện. - Quyền an tử là quyền được thực hiện theo quy định chặt chẽ và nghiêm ngặt của pháp luật. Xuất phát từ tính chất nhân thân và đặc quyền, quyền an tử chỉ được thực hiện khi đáp ứng đủ các điều kiện và theo quy trình chặt chẽ do pháp luật các quốc gia quy định. Hiện nay ở nhiều quốc gia, thủ tục đê tiến hành việc an tử cũng như để hưởng thụ quyền an tử hết sức chặt chẽ và ngặt nghèo nhằm mục đích tránh mọi trường hợp lạm dụng, bởi hậu quả của một vụ việc sai phạm là không thể cứ chữa bằng mọi biện pháp. Việc không tuân thủ đúng theo các quy định này có thể làm phát sinh trách nhiệm hình sự hoặc dân sự hoặc kỷ luật nghề nghiệp đối với người thực hiện an tử cho bệnh nhân. 1.3.2. Ý nghĩa 1.3.2.1. Ý nghĩa pháp lý Thứ nhất, quyền an tử là sự khẳng định rằng pháp luật tôn trọng giá trị tự do và quyền tự quyết của con người. Rõ ràng, pháp luật các quốc gia, khu vực và quốc tế ngày càng đề cao các giá trị này, trong khi quyết định về giá trị
  • 36. 30 cuộc sống của chính bản thân mình lại là quyết định căn bản và gắn liền với mỗi chủ thể nhất. Thứ hai, quyền an tử sẽ là công cụ pháp lý giúp cho việc quản lý hoạt động an tử. Vì bị cấm đoán hoặc không được cho phép nên những người có nguyện vọng được hưởng thụ quyền an tử cũng như những bác sĩ có ý định thực hiện an tử cho người bệnh luôn phải sống một cuộc sống ngầm với những hành vi mà họ cố tình che giấu không để cho người khác biết. Những hành vi này có thể có tác động tiêu cực đến xã hội nên rất cần được quản lý bởi nhà nước để hạn chế những tác động tiêu cực đó. Do vậy, công nhận quyền an tử sẽ góp phần thay đổi cách nhìn của xã hội với những đối tượng này từ đó họ sẽ dần dần không muốn che giấu và công khai hóa hành vi của mình. Sự công khai hành vi của họ là một điều kiện rất thuận lợi để nhà nước có thể quản lý một hiệu quả. Thứ ba, việc công nhận quyền an tử sẽ giải quyết được tình trạng pháp lý bế tắc cũng như những cuộc chiến pháp lý không lối thoát khi mà nhu cầu được an tử ngày càng cao và việc thực hiện an tử vẫn diễn ra trên thực tế. Hợp pháp hóa quyền an tử không những sẽ giúp việc quản lý hoạt động này một cách công khai, minh bạch vàdễ dàng hơn mà còn hạn chế những trường hợp xét xử sai bản chất vụ việc hoặc sử dụng an tử vào mục đích khác thay vì nhân đạo. 1.3.2.2. Ý nghĩa xã hội Thứ nhất, sự không công nhận quyền an tử đã và đang gây ra nhiều tranh cãi cũng như bức xúc trong cộng đồng những người hành nghề y, những người hành nghề luật cũng như những bệnh nhân mắc bệnh nan y. Thời kì trước đây, những bức xúc đó còn chưa đáng kể vì nhiều nguyên nhân: số lượng người có nhu cầu hưởng thụ quyền còn thấp, tư tưởng tôn giáo mang đậm thành kiến với hành vi tự nguyện chấm dứt cuộc sống khiến phong trào
  • 37. 31 đấu tranh đòi quyền an tử còn manh nha, chưa mạnh mẽ. Nhưng trải qua thời gian, số lượng người có mong muốn hưởng thụ quyền đã tăng lên, hơn nữa, sự giao lưu văn hóa, tư tưởng mang đến thay đổi đáng kể trong nhận thức của cộng đồng, nhiều vấn đề trước đây bị cho là trái với thuần phong thậm chí là tội lỗi (như hành vi tự tử) đã được nhìn nhận thoáng hơn, trở thành một hiện tượng xã hội không còn bị cấm đoán hay điều chỉnh bởi pháp luật hình sự. Vấn đề an tử cũng vậy, với sự đồng tình, ủng hộ ngày càng lớn, đến một thời điểm nào đó, cộng đồng những người có mong muốn hưởng thụ quyền an tử chắc chắn sẽ đấu tranh đòi quyền lợi cho mình và hậu quả có thể nhìn thấy là những bất ổn về an ninh, kinh tế, chính trị... Như vậy, các quốc gia cần giải quyết vấn đề này kịp thời để đảm bảo cho sự ổn định. Và giải pháp đúng đắn để giải quyết vấn đề này là công nhận quyền an tử. Thứ hai, hiện nay, nhìn chung cả xã hội vẫn chưa có những hiểu biết đầy đủ về hành vi an tử và quyền an tử nên tất nhiên sự e dè của xã hội đối với quyền này còn phổ biến. Sự e dè này khiến cho đa số những người có mong muốn hưởng thụ quyền cảm thấy lạc lõng, không được chấp nhận thậm chí có thể là thù hận xã hội bất công. Đó là những tác động tiêu cực có thể gây ảnh hưởng không nhỏ đối với xã hội. Như vậy, việc giáo dục, tuyên truyền làm thay đổi cách nhìn nhận của xã hội đối an tử và quyền an tử là rất cần thiết để giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực nêu trên. Một biện pháp có thể áp dụng chính là công nhận quyền an tử. Cùng với việc tuyên truyền, vận động thì việc công nhận quyền an tử có vai trò khẳng định thái độ đồng tình và trân trọng của nhà nước đối với những đối tượng hưởng thụ quyền. Qua sự cho phép của pháp luật, xã hội cũng nhận thức được sự cần thiết phải có cái nhìn bao dung đối với hoạt động an tử và những người có mong muốn hoặc thực hiện an tử.
  • 38. 32 1.4. Quan điểm về việc hợp pháp hóa quyền an tử trên thế giới 1.4.1. Những quan điểm phản đối Từ khi xuất hiện đến nay, an tử và quyền an tử luôn là vấn đề gây tranh cãi. Càng ngày càng xuất hiện nhiều quan điểm ủng hộ cũng như phản đối quyền an tử. Trong phạm vi khuôn khổ của luận văn, người viết chỉ nêu lên những quan điểm được nhiều người sử dụng, có quá trình phát triển dài lâu vf vẫn tiếp tục phát triển đến thời điểm hiện tại. - An tử là sự chối bỏ giá trị cuộc sống. Quyền sống là một quyền con người cơ bản tuyệt đối, tự nhiên và không thể chuyển giao. Quan điểm rằng sự sống con người có giá trị to lớn nhất, phải được tôn trọng và bảo toàn bằng mọi giá dựa trên quan niệm cũ về tính thiêng liêng của cuộc sống, đối lập với quan điểm về chất lượng cuộc sống, thứ làm nền tảng cho quyền an tử, cho rằng nên kết thúc sự sống trong trường hợp việc tiếp tục là vô nghĩa. Nếu quan điểm sau được chấp nhận, phẩm giá con người sẽ sụp đổ. Những người ủng hộ quyền an tử, coi quyền này là sự bảo vệ cần thiết, và trong nhiều trường hợp, mặc dù việc hưởng thụ quyền lấy đi mạng sống của con người, thì vẫn không đáng bị pháp luật trừng phạt. Nhưng họ quên đi một việc, về bản chất sự bảo vệ cần thiết là điều chỉ diễn ra trong trường hợp cần bảo vệ tính mạng của người khác, trong khi với an tử, sự sống của con người bị tước đoạt không nhằm mục đích bảo vệ tính mạng của bất cứ ai. Một con người, mặc dù ốm đau và không có khả năng thực hiện những hoạt động đời sống phổ biến nhất, thì vẫn là một con người. Con người đặc biệt bởi họ là con người, họ đặc biệt tới thời điểm cuối cùng của cuộc đời và sự sống phải được duy trì càng dài càng tốt, con người không nên được trợ giúp để chết trong yên bình, mà sống đến khi họ tự nhiên chết đi. - An tử không phải là lựa chọn tối ưu. Thứ nhất, trước đây khi nhắc đến bệnh tật, con người sẽ coi chữa trị là hệ quả tất yếu, nhưng nay trong một thế
  • 39. 33 giới đương đại với sự tồn tại của ung thư, AIDS, cao huyết áp… phương pháp được dùng phải là chăm sóc, khi chữa trị còn là một điều xa vời. Như vậy, biện luận quyền an tử dựa trên tình trạng bệnh lý không lối thoát của người bệnh trở nên vô nghĩa, bởi họ không phải chỉ có một lựa chọn duy nhất, mà họ có thể chọn giữa không chữa trị hoặc được chăm sóc. Thực tế y học chứng minh rằng nhiều bệnh nhân mong muốn kết thúc cuộc sống làm vậy bởi họ mong được giải thoát, họ tuyệt vọng hoặc sự đau đớn và chịu đựng của họ không được quan tâm. Vì vậy, thái độ tận tình, liệu pháp chống tuyệt vọng, cách tiếp cận giảm nhẹ và chăm sóc phục hồi chức năng mới là lối thoát. Khi đối mặt với đau khổ, tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống, đề ra chiến lược và phấn đấu đạt được chăm sóc tối ưu sẽ tốt hơn là tìm kiếm cái chết. Thứ hai, luôn có cách giải quyết kể cả trong những tình trạng phức tạp nhất thay vì an tử. Nghĩa vụ của người bác sĩ là chấm dứt đau đớn, không phải cuộc sống của người bệnh. Việc áp dụng các phương pháp giảm đau không hề bị hạn chế. Phương pháp thì có nhiều, dễ áp dụng, ngày càng tinh vi và không ngừng phát triển. Trong các trường hợp đặc biệt bác sĩ thậm chí có thể cho bệnh nhân dùng thuốc an thần nặng để đưa họ vào giấc ngủ và chờ đợi tự nhiên thực hiện công việc của mình. - Liệu quyền an tử có hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện? Những người ủng hộ quyền an tử khẳng định rằng việc hưởng thụ quyền sẽ không bao giờ trái nguyện vọng. Nhưng họ chỉ nhìn thấy hai mặt sáng tối của vấn đề. Nghi vấn sâu sắc nhất về quyền an tử nằm ở chỗ: liệu đây là hành động củng cố quyền tự do ý chí và quyền lựa chọn, hay là một cách tích cực loại bỏ những người ốm yếu, bệnh tật, già cả và khuyết tật? Ngày nay, câu trả lời là cả hai. - Việc hợp pháp hóa cũng như hưởng thụ quyền an tử hoàn toàn dựa trên cơ sở y học liệu có chính xác? Thứ nhất, khoa học y khoa không ngừng phát triển và càng ngày càng có nhiều công nghệ mới được phát minh và đưa
  • 40. 34 vào ứng dụng. Vì vậy, bệnh không thể chữa trị hoàn toàn có khả năng tìm được lối thoát trong tương lai, hay nói cách khác, căn cứ thực hiện quyền an tử sẽ không còn chắc chắn qua thời gian. Thứ hai, nguy cơ chẩn đoán bệnh sai là hoàn toàn có thể. Một người không mắc bệnh được chẩn đoán có bệnh, người mắc bệnh nhẹ được chẩn đoán mắc bệnh nặng, thậm chí ngay cả trường hợp chủ thể mắc bệnh nặng, trong tình trạng y khoa không có khả năng chữa trị, thì việc dự đoán chính xác thời điểm người bệnh qua đời, theo nhận định của hầu hết bác sĩ, là không khả thi. Rất nhiều trường hợp người bệnh được chẩn đoán mắc bệnh nan y, thời gian duy trì ngắn nhưng trên thực tế người bệnh vẫn có thể sống từ 2 đến 10 năm. Vậy sẽ như thế nào nếu chỉ một sai lầm nhỏ dẫn đến việc thực hiện an tử mà hậu quả là không thế cứu vãn. - Người bệnh có mong muốn chết bởi trở ngại về tâm thần và sự đồng thuận của họ với phương án an tử có thể không phải ý chí tỉnh táo của họ. Cố gắng tìm kiếm cái chết thường xuất hiện ở các bệnh nhân trầm cảm, tâm thần phân liệt, sử dụng thuốc cũng như rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Hay nói cách khác, việc tìm kiếm cái chết cũng có thể là dấu hiệu bệnh tâm thần, và hành động đó của người bệnh là một nỗ lực kêu gọi sự giúp đỡ và cứu trợ, không phải mong muốn thực sự của họ và không nên bị đẩy vào tình trạng sử dụng phương pháp cuối cùng là chấm dứt sự sống. - Việc hợp pháp hóa quyền an tử có thể làm giảm sự chú ý của xã hội đối với những người đang trong tình trạng cần được quan tâm. Kinh nghiệm của Hà Lan cho thấy sau khi có luật an tử, rất ít cố gắng, nỗ lực cải thiện điều trị bệnh tật hoặc giảm nhẹ đau đớn được ghi nhận. Thêm vào đó, hợp pháp hóa an tử làm giảm lòng tin của cộng đồng, của bệnh nhân vào các điều trị y khoa và y đức. Nhiệm vụ của bác sĩ luôn là người cứu người, không phải là giết người. - Hợp pháp hóa quyền an tử có thể dẫn tới hệ quả lạm dụng như an tử cho người tàn tật và bệnh nhân mắc bệnh có thể chữa trị. Những nhà hoạt động
  • 41. 35 ủng hộ an tử định nghĩ bệnh nan y với rất nhiều thuật ngữ và khái niệm như hết hy vọng, vô phương, đau đớn về thể xác hoặc tinh thần, mất khả năng về trí lực và sức lực, hoặc chất lượng cuộc sống không đạt được…khiến cho dường như, mỗi người đều có lý do sử dụng quyền an tử của mình. Vấn đề về việc sử dụng thuật ngữ cũng như sự vô năng trong việc định nghĩa một cách tuyệt đối những căn bệnh chết người, khiến quyền an tử có thể gây nên phản ứng tiêu cực. - An tử có thể trở thành một biện pháp nhằm hạn chế chi phí y tế. Nếu quyền an tử được hợp pháp hóa, có khả năng các bác sĩ sẽ áp dụng rộng rãi thay vì điều trị kéo dài, để giảm chi phí cho người bệnh của họ. Người bệnh nan y là nhóm cần được bảo vệ. Họ là những người yếu thế trước áp lực do đau đớn bệnh tật, tuyệt vọng trong hoàn cảnh vô phương cứu chữa, và tác dụng của điều trị y tế. Những người coi an tử là quyền phải nhận thức được rằng không sớm thì muộn quyền này cũng sẽ trở thành một loại nghĩa vụ. - Nhiều tôn giáo tin rằng chỉ đấng tối cao mới có quyền sinh sát và họ không chấp nhận việc này. Trong đó có thể kể đến một số tôn giáo lớn như Cơ đốc giáo, đạo Tin lành, đạo Hồi, đạo Do Thái và đạo Hindu. Theo đạo Hồi thì Hành động này bị cấm đoán… bởi nó chứa đựng vai trò tích cực của bác sĩ trong việc chấm dứt cuộc sống hoặc thúc đẩy cái chết của người bệnh… Đây là hành động giết người, và, giết người là một tội ác lớn và vì vậy bị đạo Hồi, tôn giáo thuần tình thương, cấm đoán [43]. Còn đạo Do Thái quy định Cấm mọi hình thức an tử, bởi đây là hành vi giết người. Cuộc sống của một con người không phải của anh ta – mà thuộc về Đấng người đã tạo ra nó. Do đó nó chỉ có thể bị thu hồi bởi Chủ sở hữu đích thực. Cho dù mục đích cao quý thế nào, hành vi giết người nhân đạo là sự xâm phạm trắng trợn đến một thế lực đứng trên thế giới này [43].
  • 42. 36 Hầu hết người theo đạo Hindu cho rằng bác sĩ không nên chấp nhận yêu cầu an tử của bệnh nhân bởi điều này sẽ khiến tâm hồn và thể xác bị chia rẽ không theo tự nhiên. Hệ quả này sẽ làm gây tổn hại cho nghiệp của cả bác sĩ lẫn người bệnh. Ngoài ra, tín đồ đạo Hindu còn tin rằng không thể cho phép an tử vì nó vi phạm lời dạy ahimsa (không làm điều có hại). Người theo đạo Cơ đốc phản đối an tử, dựa trên đức tin rằng cuộc sống do Chúa ban tặng, và rằng con người được tạo nên bởi hình dung của Chúa. Nhiều nhà thờ nhấn mạnh sự quan trọng của việc không can thiệp đến quá trình tự nhiên của cái chết…Họ tin rằng phẩm giá nội tại và giá trị cuộc sống con người của mỗi cá nhân là như nhau, vì vậy việc dựa trên tình trạng y tế của họ để kết luận cuộc sống vô giá trị là sai lầm. Đồng dạng với tín người Cơ đốc giáo, tín đồ đạo Tin lành coi cuộc sống là một món quà bất khả xâm phạm từ Chúa. Tình yêu của tín đồ với Chúa và món quà của ngài khiến những tín đồ này có nghĩa vụ phải tránh xa bất kì suy nghĩ nào xâm phạm đến món quà vô giá này thông qua hành vi tự tử hoặc an tử. 1.4.2. Những quan điểm ủng hộ Tương tự quan điểm phản đối, quan điểm ủng hộ quyền an tử xuất hiện ngày càng nhiều và đa dạng, được đề cập chi tiết trong nhiều bài báo và diễn đàn. Vì vậy ở phần này, người viết sẽ trình bày những quan điểm ủng hộ đối ứng với những quan điểm phản đối trên, đồng thời cũng là những quan điểm đang được sử dụng nhiều hiện nay: - An tử không phải là sự chối bỏ giá trị cuộc sống mà ngược lại, là sự tôn trọng giá trị cuộc sống, tôn trọng nhân quyền, phẩm giá con người và vì mục đích nhân đạo. Giá trị cuộc sống chỉ có thể đạt được khi cuộc sống có chất lượng. Việc người bệnh lâm vào tình trạng bệnh lý không thể cứu chữa, với đau đớn dai dẳng, kéo dài và không thể chịu đựng đã giảm chất lượng cuộc sống xuống dưới mức tối thiểu. Vậy chính việc bắt buộc con người,
  • 43. 37 trong trường hợp này, tiếp tục duy trì sự sống mới là một sự phủ định giá trị cuộc sống, phủ định phẩm giá con người. Nhất là khi xem xét đến hoàn cảnh của một số nước nghèo, nền y học và cơ sở vật chất chưa phát triển thì sự chịu đựng của con người còn lớn hơn nhiều lần. Hơn nữa, con người vốn có quyền an tử. Con người là một chủ thể sinh học độc lập, có quyền kiểm soát thân thể và cuộc sống của chính mình, có quyền tự quyết và thực hiện quyết định đó. Mọi sự hạn chế áp đặt lên quyền con người là điều không cần thiết. Tờ The Independent, tháng 03/2002, nhận xét, “Trong trường hợp không có người phụ thuộc gây sức ép theo cách này hay cách khác, quyền lựa chọn của cá nhân nên là tối cao. Nếu người bệnh tỉnh táo, và ý định của họ đủ sáng tỏ, thì điều này không còn gì phải bàn cãi” [18]. Quyền an tử lại không nhằm đến mục đích nào khác ngoài nhân đạo. Những tiến bộ trong công nghệ ngày nay thường đưa đến việc con người sống lâu hơn và cũng thường chịu đau khổ vì bệnh tật trong thời gian dài hơn, và điều này đồng nghĩa với một cái chết hành hạ chậm rãi. Lúc này an tử được coi nhà những lựa chọn hợp lý nhất. Từ thế kỷ thứ 16, việc người hành nghề y thực hiện trợ tử cho những người mắc bệnh nan y đã được cho rằng không nên bị quy tội theo pháp luật hoặc đạo đức. - An tử không phải là biện pháp tối ưu nhưng là biện pháp cuối cùng. Luật pháp không quy định bắt buộc người lâm vào trạng thái y tế không lối thoát phải an tử, mà chỉ mở ra một cánh cửa cho những người có nhu cầu tự nguyện đi qua. Nhiều nước và vùng lãnh thổ đã hợp pháp hóa an tử quy định bác sĩ có nghĩa vụ cung cấp thông tin về các liệu pháp chăm sóc giảm nhẹ cho bệnh nhân và những phương án khác. Có thể thấy, người bệnh một khi đã dùng đến biện pháp an tử, có nghĩa họ không còn sự lựa chọn nào khác và đây là biện pháp cuối cùng. Việc không mở cánh cửa này sẽ khiến cho con người lâm vào tình trạng bế tắc, tuyệt vọng, thậm chí phải sử dụng đến những biện pháp cực đoan như an tử trái pháp luật hoặc tự tử.
  • 44. 38 - An tử, về bản chất là dựa trên cơ sở tự nguyện và kết luận y khoa chính xác đã được kiểm định. Nếu có luật an tử thì tính tự nguyện cũng như tính chính xác khi xác định tình trạng y tế của người bệnh sẽ càng được đảm bảo hơn bởi được đặt trong khuôn khổ pháp luật quy định chặt chẽ. Thực tế đã chứng minh việc không thông qua luật an tử khiến cho nhiều tiêu cực lạm phát. Năm 2005 tại Hà Lan, một nghiên cứu do Tạp chí Y khoa New England cho thấy 0,4% các vụ việc an tử tại đất nước này không có bằng chứng rõ ràng về tính tự nguyện. Nhưng so sánh với số liệu năm 1991, thời điểm luật an tử và trợ tử của đất nước này chưa được thông qua, con số lên đến 0,8%. Hay nói cách khác, thông qua luật an tử giúp giảm thiểu một nửa những cái chết không mong muốn. Tại Anh, năm 2012, một nghiên cứu chỉ ra rằng “có khoảng 57.000 bệnh nhân mỗi năm qua đời mà không được biết rằng các thiết bị hỗ trợ sống của họ đã dừng” [39]. Thay vào đó, họ bị đẩy vào hoàn cảnh phải chết nhằm giảm bớt đau đớn mà không hề biết. Như vậy về cơ bản, các bác sĩ tại Anh đã và đang thực hiện an tử - mà không hề bị ràng buộc bởi bất cứ quy định pháp lý nào. Lo ngại về việc thực hiện quyền an tử sai đối tượng cũng giống như lo ngại về việc xét xử hình sự sai người, sai tội. Như vậy, cứ có khả năng sai sót thì cần cấm đoán? Không phải, việc lường trước khả năng sai sót là điều cần thiết, nhưng là để đề ra các biện pháp khắc phục một khi đã đưa vào thực hiện. Pháp luật là để phục vụ số đông, trong khi sai sót nếu có xảy ra nằm ở phạm vi đơn lẻ, nhỏ hẹp. Vì vậy nếu thấy cần thiết pháp luật vẫn cần thông qua một số chính sách, đồng thời để ra các quy định nhằm giảm thiểu đến mức tối đa sai phạm. - An tử chỉ được thực hiện cho những người có đủ năng lực nhận thức, suy nghĩ và đưa ra quyết định. Vì vậy việc lo ngại trở ngại tâm thần sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng tự quyết của người có nhu cầu là không có căn cứ. Không chỉ bác sĩ điều trị phải chứng nhận khả năng tâm lý/tâm thần của
  • 45. 39 người bệnh, mà bác sĩ tư vấn/bác sĩ thứ hai cũng có nhiệm vụ này. Trong trường hợp có nghi ngờ về khả năng tâm lý/tâm thần của người bệnh, bác sĩ điều trị hoặc bác sĩ tư vấn phải giới thiệu họ đến kiểm tra với một bác sĩ chuyên khoa về tâm lý/tâm thần. Thiết nghĩ, với những quy định chặt chẽ và qua nhiều bước như vậy, việc một người không có dấu hiệu bệnh tâm thần đưa ra quyết định và được thực hiện an tử là khó có khả năng. - Việc hợp pháp hóa quyền an tử không thể làm giảm sự chú ý của xã hội đối với những người đang trong tình trạng cần được quan tâm, bởi an tử không nhằm mục đích chữa trị, các căn bệnh vẫn còn đó và bên cạnh những người có nhu cầu an tử vẫn có những người có nhu cầu được chữa trị và chờ đợi vào tiến bộ của khoa học kĩ thuật. Hơn nữa tiết kiệm nguồn lực về cơ sở vật chất và nhân sự dành cho việc duy trì sự sống cho những người bệnh nan y bước vào giai đoạn cuối đồng thời cũng là những người không còn mong muốn tiếp tục sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu và phát triển các thành tựu y khoa mới, không những liệu pháp chữa trị mà còn là biện pháp ngăn ngừa từ giai đoạn sơ khai. - Một trong những nghi ngờ lớn dẫn đến việc phản đối hợp pháp hóa an tử là việc này sẽ gây nên áp lực đối với các nhóm dễ bị tổn thương, trong đó có người già, người tàn tật. Đó là một lo ngại dễ hiểu và không nên xem nhẹ: Tuy nhiên, lý do này cũng không có cơ sở thực tế. Lấy Oregon làm ví dụ, năm 1994, Oregon trở thành tiểu bang đầu tiên ở Mỹ hợp pháp hóa trợ tử, luật có hiệu lực vào năm 1998. Mười năm sau, số lượng các vụ trợ tử là 341 – không phải 341 vụ trong một năm mà 341 vụ trong một thập kỉ, chiếm khoảng 0,2% số lượng bệnh nhân tử vong, con số quá nhỏ gần như không đáng được nhắc đến. Năm 2007, Tạp chí Y Đức phân tích từng trường hợp bệnh nhân lựa chọn phương án này và kết quả cho thấy người nghèo, người cao tuổi, dân tộc thiểu số, hoặc nhóm "dễ bị tổn thương" rất hiếm khi so với các nhóm khác [39].