Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện từ thực tiễn huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội, cho các bạn làm luận văn tham khảo
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
Tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện Hoài Đức, Hà Nội, 9đ
1. VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
CAO VĂN TÂM
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA
HUYỆN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN HOÀI ĐỨC,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60.38.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS Nguyễn Minh Phương
HÀ NỘI, 2016
HÀ NỘI, 2016
2. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
CAO VĂN TÂM
3. MỤC LỤC
Mở đầu 01
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA THANH TRA HUYỆN
08
1.1 Vị trí, vai trò của Thanh tra huyện 08
1.2 Đặc điểm về tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện 17
1.3 Các yếu tố tác động đến tổ chức và hoạt động của Thanh
tra huyện
22
Chương 2 THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH
TRA HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
27
2.1 Khái quát đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện Hoài Đức,
Thành phố Hà Nội
27
2.2 Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về tổ
chức và hoạt động của thanh tra huyện
28
2.3 Thực tiễn tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện
Hoài Đức, thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 - 2015
35
Chương 3 QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA HUYỆN
58
3.1 Nhu cầu hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt
động của thanh tra huyện
58
3.2 Quan điểm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh
tra huyện
61
3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động
của Thanh tra huyện
64
3.4 Các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức,
hoạt động của Thanh tra huyện Hoài Đức, Thành phố Hà
Nội
71
Kết luận 79
Danh mục tài liệu tham khảo 81
4. BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
1. ANCT An ninh chính trị
2. ANQP An ninh quốc phòng
3. BCH Ban chấp hành
4. BTV Ban Thường vụ
5. CTQG Chính trị quốc gia
6. HĐND Hội đồng nhân dân
7. KNTC Khiếu nại, tố cáo
8. MTTQ Mặt trận Tổ quốc
9. NQ/TU Nghị quyết Thành uỷ
10. NQ-TW Nghị quyết Trung ương
11. NXB Nhà xuất bản
12. PCTN Phòng, chống tham nhũng
13. QĐ-TW Quyết định Trung ương
14. ST Sự thật
15. THCS Trung học cơ sở
16. UBKT Ủy ban kiểm tra
17. UBND Uỷ ban nhân dân
18. GPMB Giải phóng mặt bằng
19. BHXH Bảo hiểm xã hội
20. CNH, ĐTH Công nghiệp hóa, đô thị hóa
21. VH-XH Văn hóa, xã hội
5. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ những ngày đầu xây dựng chính quyền nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã rất quan tâm đến vấn đề
giải quyết đơn thư của nhân dân. Vì vậy, ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký Sắc lệnh số 64-SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Ngay khi ra
đời, ngành Thanh tra đã khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong bộ máy
chính quyền nhân dân.
Sau khi Pháp lệnh Thanh tra được ban hành năm 1990, tiếp theo là Luật
Thanh tra năm 2004, Luật Thanh tra năm 2010, ngành Thanh tra Việt Nam đã
góp phần quan trọng vào việc PCTN; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hoặc kiến
nghị xử lý những sai phạm liên quan tới các lĩnh vực quản lý nhà nước; làm tốt
công tác giải quyết đơn thư, nhất là các vụ đông người, phức tạp; đề xuất với
Đảng và nhà nước có chủ trương, biện pháp để khắc phục những hạn chế,
khiếm khuyết về cơ chế, chính sách trong các lĩnh vực quản lý nhà nước…qua
đó góp phần quan trọng ổn định tình hình chính trị, giữ vững kỷ cương, luật
pháp, đảm bảo an ninh trật tự xã hội để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của ngành thanh tra nói
chung và cấp huyện nói riêng vẫn còn những bất cập, hạn chế trong tổ chức và
hoạt động, chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của xã hội và nhân dân, cụ thể:
Hệ thống văn bản về tổ chức, hoạt động của ngành thanh tra còn chưa đồng bộ,
thiếu tính kịp thời; cơ cấu, tổ chức chưa hợp lý dẫn đến hoạt động hiệu quả
chưa cao; công tác thanh tra trách nhiệm, giải quyết đơn thư có lúc chưa kịp
thời, chất lượng thấp; việc thực hiện các quyết định, kết luận có hiệu lực pháp
luật còn nhiều hạn chế; công tác PCTN chưa đem lại hiệu quả thiết thực.
Đối với Thanh tra huyện Hoài Đức, là huyện nằm ở phía tây của Thủ đô
Hà Nội, có dân số đông, đang có sự chuyển biến mạnh mẽ trong quá trình
CNH, ĐTH, thu hồi đất, GPMB nhiều dự án, bối cảnh đó đã tác động không
6. 2
nhỏ đến tổ chức, hoạt động của công tác thanh tra. Bên cạnh những kết quả tích
cực, công tác Thanh tra của huyện Hoài Đức vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế
như: Biên chế, cơ cấu tổ chức của cơ quan thanh tra thường xuyên biến động;
chưa phát huy hết vị trí, vai trò theo quy định; đội ngũ cán bộ năng lực còn hạn
chế, kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều; trong tổ chức, hoạt động vẫn chưa phát
huy được tính độc lập; sự phối hợp giữa các ngành trong hoạt động thanh tra
còn thiếu chặt chẽ; kết quả các cuộc thanh tra trách nhiệm hiệu quả chưa cao;
việc thực hiện các quyết định, kết luận có hiệu lực pháp luật chưa dứt điểm;
thanh tra huyện không có biên chế cho cán bộ chuyên trách PCTN nên công tác
này còn gặp nhiều khó khăn; công tác giải quyết đơn thư phụ thuộc vào nhiều
yếu tố nên kết quả giải quyết chưa thực sự đi tới gốc của vấn đề cần xử lý.
Từ thực tế trên đã đặt ra những yêu cầu cho quản lý nhà nước về công tác
thanh tra nói chung và ở huyện Hoài Đức nói riêng một thiết chế thanh tra hoàn
chỉnh, thực sự là một cơ quan bảo vệ pháp luật, nhằm phát hiện sơ hở trong cơ
chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm
pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật;
phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản
lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân. Từ những lý do này, học viên chọn đề tài “Tổ chức và
hoạt động của thanh tra huyện từ thực tiễn huyện Hoài Đức, Thành phố Hà
Nội” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian gần đây, đã có khá nhiều công trình, đề tài khoa học nghiên cứu
về tổ chức và hoạt động của ngành thanh tra, cụ thể như:
- Sách chuyên khảo:
+ “Đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra nhằm tăng
cường năng lực phòng, chống tham nhũng” của Viện khoa học Thanh tra
7. 3
(năm 2011), NXB Chính trị - Hành chính. Cuốn sách gồm 2 phần: Phần 1:
Một số vấn đề chung về công tác thanh tra - cơ sở thiết lập tổ chức và hoạt
động của ngành Thanh tra, vị trí, vai trò, đặc điểm của công tác thanh tra;
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra; yêu cầu đối với công
tác thanh tra trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN và cải cách hành chính. Phần 2: Việc đổi mới tổ chức, hoạt động của
ngành Thanh tra góp phần PCTN, trong đó đề cập đến Tổ chức và hoạt động
của ngành Thanh tra trong giai đoạn thực hiện pháp lệnh thanh tra năm 1990,
Luật Thanh tra năm 2004 và Luật Thanh tra năm 2010.
+ “Những vấn đề pháp lý cơ bản của việc đổi mới tổ chức và hoạt động
thanh tra nhà nước Việt Nam” của TS. Phạm Tuấn Khải (năm 1998). Cuốn
sách đưa ra một số quan điểm và phương hướng hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của thanh tra phù hợp với yêu cầu của cải cách nền hành chính trong
giai đoạn hiện nay. Tác giả đã đưa ra một số giải pháp về mặt khoa học cho
quá trình hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát, đóng góp thiết thực
vào việc nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra.
- Đề tài khoa học cấp Bộ
+“Đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra theo hướng đáp ứng yêu cầu
cải cách hành chính”, Trần Đức Lượng - Vụ trưởng Vụ thanh tra kinh tế II,
Thanh tra nhà nước làm chủ nhiệm đề tài (năm 1996);
+ “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thanh tra trách nhiệm của các cơ quan
hành chính nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo”, Bùi Nguyên Súy
(chủ nhiệm đề tài), Thanh tra Chính Phủ, 2007. Đề tài đã phân tích, làm rõ một
số các khái niệm về thanh tra, kiểm tra trách nhiệm giải quyết KNTC; làm rõ
vai trò, vị trí và nội dung thanh tra trách nhiệm của các cơ quan hành chính
nhà nước về giải quyết KNTC; đánh giá những kết quả đạt được và những
hạn chế trong công tác thanh tra trách nhiệm về giải quyết KNTC và rút ra
những nguyên nhân của hạn chế; đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm nâng
8. 4
cao chất lượng, hiệu quả của các cuộc thanh tra trách nhiệm giải quyết KNTC
nói chung của toàn ngành Thanh tra.
+ “Đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành thanh tra trong cơ chế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa - Luận cứ khoa học phục vụ sửa đổi Luật
thanh tra và hoàn thiện pháp luật về thanh tra”, Trần Văn Truyền-Tổng Thanh tra
Chính phủ (chủ nhiệm đề tài), Thanh tra Chính phủ 2009. Đề tài đã nghiên cứu
một cách sâu rộng về tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra, làm sáng tỏ
nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn, đưa ra những nhóm giải pháp đổi mới tổ chức
và hoạt động thanh tra, qua đó xác lập những luận cứ khoa học cho việc sửa
đổi Luật Thanh tra và hoàn thiện pháp luật về thanh tra.
+“Tăng cường mối quan hệ chỉ đạo, phối hợp trong hệ thống các tổ chức
thanh tra nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác thanh tra”,
Nguyễn Văn Thanh (chủ nhiệm đề tài). Đề tài đưa ra một số vấn đề lý luận về
tính hệ thống của các cơ quan thanh tra nhà nước và tính tất yếu của việc tăng
cường mối quan hệ trong hệ thống các cơ quan thanh tra nhà nước; nội dung
mối quan hệ trong hệ thống các cơ quan thanh tra nhà nước và biện pháp nhằm
tăng cường mối quan hệ đó.
+“Đổi mới công tác tổ chức cán bộ Thanh tra nhà nước”, Nguyễn Khắc
Hường (năm 2008). Đề tài nêu một số vấn đề lý luận về công tác tổ chức cán
bộ; thực trạng công tác cán bộ của ngành thanh tra và đưa ra một số giải pháp,
kiến nghị nhằm đổi mới công tác tổ chức cán bộ của ngành thanh tra.
- Luận án Tiến sĩ: “Hoàn thiện pháp luật thanh tra trong giai đoạn hiện
nay” (Nguyễn Thị Thương Huyền - Viện Nhà nước và Pháp luật, 2009); “Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn tổ chức và hoạt động thanh tra Việt Nam” (Lê
Thị Thu Oanh, Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, 2004).
- Luận văn thạc sĩ: Luận văn của tác giả Nguyễn Văn Kim năm 2004 “Vai
trò của các cơ quan Thanh tra nhà nước trong giải quyết khiếu nại hành chính ở
Việt Nam”; luận văn của tác giả Trần Thị Ngọc Hoan, năm 2011 về “Tổ chức và
9. 5
hoạt động của thanh tra ngành thông tin và truyền thông”; Luận văn thạc sĩ luật
của Vũ Văn Đức, năm 2013 “Tổ chức và hoạt động của Thanh tra tỉnh - từ thực
tiễn tỉnh Thanh Hóa”; luận văn của tác giả Trương Văn Trường, năm 2013 về
“Tổ chức và hoạt động của thanh tra hành chính cấp huyện từ thực tiễn huyện
Lý Nhân, tỉnh Hà Nam”.
- Ngoài ra còn một số bài viết, bài nghiên cứu đăng tải trên các tạp chí
chuyên ngành liên quan đến tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra nói
chung và của Thanh tra cấp huyện nói riêng.
Những công trình nghiên cứu trên phần lớn là nghiên cứu ở tầm vĩ mô,
mang tính tổng thể, ở không gian rộng hoặc ở chuyên ngành nhất định. Việc
nghiên cứu cụ thể đối với hoạt động và tổ chức của thanh tra cấp huyện trên địa
bàn Thành phố Hà Nội chưa có công trình nào đề cập tới. Do vậy việc nghiên
cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện từ thực tiễn huyện
Hoài Đức, thành phố Hà Nội” tiếp tục góp phần bổ sung và làm sâu sắc hơn
cơ sở lý luận cũng như thực tiễn về tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức, hoạt động
của thanh tra và đánh giá thực trạng tổ chức, hoạt động của Thanh tra huyện
Hoài Đức, luận văn đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy
và nâng cao hiệu quả hoạt động của thanh tra cấp huyện ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu các nội dung chính sau đây:
- Làm sáng tỏ những vấn đề cơ sở lý luận về tổ chức, hoạt động thanh tra
cấp huyện.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện
Hoài Đức, thành phố Hà Nội; chỉ ra những kết quả, hạn chế, vướng mắc và
nguyên nhân.
10. 6
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu
quả hoạt động của thanh tra cấp huyện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và phương thức
hoạt động của thanh tra huyện ở Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Cơ quan Thanh tra của Việt Nam gồm cơ quan Thanh tra hành chính và
Thanh tra chuyên ngành, luận văn tập trung khảo sát, đánh giá thực trạng tổ
chức và hoạt động của cơ quan Thanh tra cấp huyện (thanh tra hành chính) ở
huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội từ khi Luật Thanh tra năm 2010 có hiệu
lực đến nay, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
thanh tra huyện giai đoạn 2016-2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước
và pháp luật, về công tác thanh tra.
Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu; thống kê
số liệu, khảo sát và phân tích tình hình thực tiễn tại địa phương; so sánh, lịch sử.
Ngoài ra, tác giả cũng có sự tiếp thu, kế thừa thành tựu nghiên cứu của các công
trình thực hiện trước về vấn đề này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ luật học, luận văn góp phần hệ
thống hóa, phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của
thanh tra hành chính cấp huyện
- Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện qua thực
tiễn tại huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội khi Luật Thanh tra có hiệu lực
11. 7
(01/07/2011) đến nay; chỉ ra những kết quả và bất cập, hạn chế trong tổ chức
và hoạt động của thanh tra cấp huyện.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về tổ
chức, hoạt động thanh tra cấp huyện đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt
động của cơ quan thanh tra cấp huyện
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện Hoài
Đức, Thành phố Hà Nội
Chương 3: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu
quả hoạt động của thanh tra huyện
12. 8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA THANH TRA HUYỆN
1.1. Vị trí, vai trò của Thanh tra huyện
1.1.1. Khái niệm về thanh tra
Thuật ngữ “thanh tra”: Trong tiếng Anh là Inspect được xuất phát từ gốc
Latinh là Inspetare có nghĩa là “nhìn vào bên trong”, chỉ một sự kiểm tra, xem
xét từ bên ngoài vào hoạt động của một số đối tượng nhất định.
Theo Từ điển pháp luật Anh - Việt, thuật ngữ thanh tra là sự kiểm soát,
kiểm kê đối với đối tượng bị thanh tra [54, tr.203]. Cụ thể hơn, Từ điển Tiếng
Việt định nghĩa thanh tra là kiểm tra, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương,
cơ quan xí nghiệp [63,tr.882]. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của
Trường Đại học Luật Hà Nội, thanh tra được hiểu là hoạt động kiểm tra, giám
sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của cơ
quan, tổ chức cá nhân và giám sát việc giải quyết KNTC của cơ quan, người có
thẩm quyền [53, tr.106].
Tuy nhiên thực tế trong hoạt động quản lý nhà nước, nhiều người vẫn
đồng nhất và hiểu đơn thuần kiểm tra cũng là thanh tra do gắn liền với hoạt
động quản lý. Để tránh nhầm lẫn, chúng ta cần phân biệt rõ hai khái niệm này.
Khái niệm Thanh tra như đã nêu ở phần trên, còn kiểm tra là “xem xét
tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét” [63,tr.504]. Thực chất nếu hiểu theo
nghĩa hẹp, kiểm tra là hoạt động của chủ thể quản lý nhằm tiến hành xem xét,
xác minh một việc gì đó của đối tượng quản lý xem có phù hợp hay không với
chương trình, kế hoạch được đưa ra trước đó. Kiểm tra vốn là chức năng của
người quản lý, không phân biệt họ làm gì ở cấp bậc nào trong bộ máy quản lý
nói chung và bộ máy quản lý nhà nước nói riêng.
Có thể nói giữa hoạt động thanh tra và hoạt động kiểm tra có mối quan
hệ chặt chẽ, gần gũi và có nhiều điểm tương đồng nhau. Tuy nhiên với tư
cách là một hoạt động độc lập, kiểm tra có nhiều điểm khác biệt với thanh tra
như: về chủ thể tiến hành hoạt động kiểm tra rộng hơn hoạt động thanh tra
13. 9
nhưng mục đích của hoạt động thanh tra lại rộng hơn, sâu hơn hoạt động kiểm
tra; phương pháp tiến hành của hoạt động thanh tra sâu hơn, đi vào thực chất
đến tận cùng của vấn đề hơn hoạt động kiểm tra.
Theo từng giai đoạn lịch sử, khái niệm về thanh tra cũng được nhận thức
khác nhau. Đó là sự phản ánh về mô hình tổ chức các cơ quan nhà nước; về sự
kiểm soát đối với hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước:
Thời kỳ phong kiến, ở các triều đại Lý, Trần, Lê có cơ quan “Ngự sử đài”,
người đứng đầu là “Quan ngự sử” với chức năng gần giống như cơ quan thanh
tra hiện nay. Ngự sử đài có nhiệm vụ giúp vua trong việc theo dõi, xem xét các
công việc hệ trọng của triều đình. Quan ngự sử đời nhà Trần có quyền tiền trảm
hậu tấu và là chức quan duy nhất có quyền can gián vua. Thời nhà Lê có hàm
“Gián nghị đại phu” phong tặng cho bề tôi nào dám nói thẳng, nói đúng sự thật.
Năm 1945, ngay sau khi Nhà nước dân chủ nhân dân được thành lập,
ngày 23 tháng 11 năm 1945, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban
Thanh tra đặc biệt. Sắc lệnh nêu rõ: “Chính phủ sẽ lập ngay một Ban Thanh tra
đặc biệt, có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của
UBND và các cơ quan của Chính phủ”, từ đây thuật ngữ “Thanh tra” xuất hiện,
được chỉ một cơ quan cụ thể, quyền thanh tra được xác định và chính thức giao
cho Chính phủ.
Theo Pháp lệnh Thanh tra năm 1990; Thanh tra được coi là một chức năng
thiết yếu của quản lý Nhà nước; là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường
kỷ luật trong quản lý Nhà nước, thực hiện quyền dân chủ XHCN.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển Luật Thanh tra năm 2004, Luật Thanh tra
năm 2010 đã phân biệt Thanh tra nhà nước và Thanh tra nhân dân. Tuy nhiên
lại không quy định nhiệm vụ, quyền hạn chung của các cơ quan thanh tra nhà
nước mà quy định cụ thể cho từng cơ quan thanh tra nhà nước, nhưng có thể
khái quát nhiệm vụ, quyền hạn chung của các cơ quan thanh tra nhà nước là:
quản lý nhà nước về công tác thanh tra; thanh tra việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý của thủ
trưởng cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp; thực hiện nhiệm vụ giải quyết
14. 10
KNTC; PCTN theo quy định của pháp luật và theo dõi, đôn đốc việc thực hiện
các quyết định, kết luận có hiệu lực pháp luật.
Theo khoản 1 Điều 26 Luật thanh tra năm 2010, Thanh tra huyện được
hiểu: là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, có trách nhiệm giúp
UBND cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết KNTC và
PCTN; tiến hành thanh tra, giải quyết KNTC và PCTN theo quy định của pháp
luật.
1.1.2. Vị trí của thanh tra huyện
Luật Thanh tra năm 2010 đã không chia thành hai phân hệ như Luật
Thanh tra năm 2004 mà hệ thống cơ quan thanh tra được tổ chức thống nhất
theo chiều dọc từ trên xuống dưới theo cấp bậc. Việc quy định lại tổ chức hoạt
động của bộ máy thanh tra nhà nước thống nhất từ trên xuống dưới đã tạo cho
cơ quan thanh tra nói chung và cơ quan thanh tra các cấp nói riêng có sự nhất
quán trong hoạt động, có sự chỉ đạo chung thống nhất và tạo độc lập tương đối
cho cơ quan thanh tra khi thực hiện nhiệm vụ.
Theo quy định của pháp luật thanh tra hiện nay, thanh tra cấp huyện là
thanh tra hành chính, tại Khoản 2, Điều 3 luật Thanh tra năm 2010 quy định
“Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao”. Theo khái niệm này, thanh
tra hành chính là hoạt động thanh tra trong nội bộ bộ máy nhà nước; là thanh
tra của cơ quan cấp trên đối với cơ quan, đơn vị, cá nhân cấp dưới (thuộc
quyền quản lý trực tiếp); là thanh tra của chủ thể quản lý này với chủ thể quản
lý khác. Thanh tra hành chính vì vậy mang tính kiểm soát nội bộ
Còn “Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ
thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó” (khoản 3, Điều 3). Cơ quan
được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành không thành lập cơ
quan thanh tra chuyên ngành độc lập và khi tiến hành thanh tra, người được
15. 11
giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành được xử phạt vi phạm hành
chính và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy thanh tra chuyên ngành chỉ mang tính kiểm soát lĩnh vực chuyên
môn thuộc ngành đó phụ trách.
Qua phân tích nêu trên cho thấy, thanh tra hành chính và thanh tra
chuyên ngành có nhiều điểm khác biệt sâu sắc, thể hiện:
- Về chủ thể ra quyết định thanh tra, đối với thanh tra hành chính là
Chánh thanh tra nhà nước (hoặc thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước) còn
thanh tra chuyên ngành là Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở, Thủ
trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (hoặc
Bộ trưởng, Giám đốc sở).
- Về đối tượng thanh tra: Thanh tra hành chính là cá nhân, cơ quan, tổ
chức phải có quan hệ về mặt tổ chức với cơ quan quản lý. Còn đối tượng của
hoạt động thanh tra chuyên ngành là tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực
hiện hoạt động thuộc thẩm quyền quản lý ngành, lĩnh vực, chuyên môn.
- Về phạm vi thanh tra: Đối với hoạt động thanh tra hành chính phạm vi
thanh tra mang tính toàn diện, mọi mặt của đối tượng hoặc thanh tra, đánh giá
một mặt của đối tượng. Còn hoạt động thanh tra chuyên ngành là hoạt động
thanh tra trong phạm vi ngành, lĩnh vực, hoạt động chuyên môn.
- Về trình tự, thủ tục, cách thức tiến hành thanh tra: Hoạt động thanh tra
hành chính được tiến hành bởi các Đoàn thanh tra. Khi cơ quan có thẩm
quyền ra quyết định thanh tra hành chính sẽ thành lập Đoàn thanh tra để tiến
hành hoạt động thanh tra theo trình tự, thủ tục thời hạn theo quy định. Còn
hoạt động thanh tra chuyên ngành do các Thanh tra viên, người được giao
thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành thực hiện trong phạm vi, nhiệm
vụ, thời hạn được giao.
Trong hệ thống các cơ quan thanh tra, Thanh tra cấp huyện có vị trí vừa là
cơ quan thanh tra được giao nhiệm vụ thực hiện hoạt động thanh tra hành chính
đối với các đối tượng thuộc quyền quản lý trực tiếp của UBND cấp huyện,
16. 12
đồng thời vừa là bộ phận tham mưu, giúp việc cho UBND cấp huyện về công
tác thanh tra, giải quyết KNTC và PCTN. Cơ quan Thanh tra cấp huyện cũng là
đơn vị thấp nhất trong hệ thống các cơ quan Thanh tra hành chính.
Quan hệ của cơ quan Thanh tra huyện với Chủ tịch UBND huyện: Trong
quan hệ công tác giữa thanh tra cấp huyện với Chủ tịch UBND cấp huyện thì
thanh tra huyện chịu sự chỉ đạo trực tiếp và toàn diện của Chủ tịch UBND cấp
huyện. Thanh tra huyện là cơ quan tham mưu giúp Chủ tịch UBND huyện
trong quản lý nhà nước về công tác Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng, chống tham nhũng. Trực tiếp tham mưu giải quyết KNTC và kiến nghị
xử lý tố cáo giúp Chủ tịch UBND cấp huyện.
Quan hệ của thanh tra cấp huyện với các cơ quan chuyên môn cấp huyện:
là quan hệ phối hợp tham mưu giúp việc UBND huyện trong việc nắm thông
tin và xử lý các thông tin liên quan đến hoạt động thanh tra, giải quyết KNTC
và PCTN. Thanh tra huyện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được UBND
huyện giao, tiến hành thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật nhiệm vụ
của cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện.
Quan hệ của cơ quan Thanh tra huyện với UBKT cùng cấp: Đảng ta đề
ra đường lối, chủ trương để Nhà nước cụ thể hóa bằng chính sách, pháp luật;
Đảng bồi dưỡng, đào tạo đảng viên để bầu và bổ nhiệm vào các cương vị lãnh
đạo của Nhà nước. Vì thế, cùng với công tác kiểm tra của UBKT Huyện ủy,
Thanh tra cấp huyện sẽ góp phần bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, cụ thể là của
BCH Đảng bộ, BTV Huyện ủy đối với cơ quan nhà nước và công chức, đảng
viên. Trong quan hệ với UBKT huyện ủy thì Thanh tra có vai trò phối hợp,
đồng chí Chánh thanh tra huyện đồng thời là Ủy viên UBKT Huyện ủy.
Đối với Thanh tra cấp tỉnh, Thanh tra cấp huyện là cấp dưới trực tiếp,
chịu sự chỉ đạo của Thanh tra cấp tỉnh về chuyên môn, nghiệp vụ trong công
tác thanh tra, giải quyết KNTC, PCTN và đôn đốc các quyết định, kết luận có
hiệu lực pháp luật. Thanh tra cấp huyện hàng tháng, quý, năm có trách nhiệm
báo cáo công tác với Thanh tra cấp tỉnh và các báo cáo chuyên đề theo yêu
17. 13
cầu của thanh tra cấp tỉnh. Thực hiện việc chỉ đạo, tập huấn nghiệp vụ,
chuyên môn của Thanh tra cấp tỉnh.
1.1.3. Vai trò của Thanh tra huyện
a. Thanh tra là phương thức bảo đảm pháp chế Xã hội chủ nghĩa
Một trong những nguyên tắc cơ bản phải được tuân thủ của hệ thống
chính trị và bộ máy nhà nước ta là nguyên tắc pháp chế XHCN. Nội dung của
nguyên tắc pháp chế là sự bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ một cách tuyệt
đối, không có một thực thể nào đứng trên hay đứng ngoài pháp luật. Nguyên
tắc pháp chế hiện hữu ở việc chấp hành pháp luật cả từ phía các cơ quan nhà
nước và từ phía các cá nhân, tổ chức là đối tượng chịu sự quản lý của nhà nước.
Tầm quan trọng của hoạt động thanh tra được Thủ tướng Phạm Văn
Đồng nhấn mạnh: “Vị trí, tầm quan trọng của công tác thanh tra là ở chỗ nó
phát hiện cho mình những cái mà mình cần, nó thường xuyên là tai mắt của
mình, nó biết nhìn, biết thấy, biết phát hiện và biết chỉ cho mình thấy những cái
mà mình cần biết” [55, tr.93].
Tại Điều 1 Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 đã khẳng định: “Thanh tra là
một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước”. Phát triển hơn đến
Luật Thanh tra 2004 và đặc biệt đến Luật Thanh tra năm 2010, cơ quan thanh
tra thực hiện chức năng quản lý nhà nước được thể hiện cụ thể hóa trong quy
định của từng cấp thanh tra. Thanh tra cấp huyện: “có trách nhiệm giúp UBND
cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra…”
Hoạt động thanh tra cấp huyện không chỉ tìm ra những sơ hở, yếu kém
trong công tác quản lý, phát hiện những nội dung trong chủ trương, chính sách
chưa phù hợp với yêu cầu thực tế khách quan mà còn phải phát huy những
nhân tố tích cực, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức và cá nhân trên phạm vi thuộc quản lý của UBND cấp huyện. Có
như vậy, hiệu quả công tác thanh tra mới đáp ứng được yêu cầu phát triển trong
hoàn cảnh thực tiễn của địa phương, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước
mới được nâng lên.
18. 14
Sự vi phạm pháp luật đã, đang và sẽ còn là một thực tế với nhiều lý do
khác nhau. Để giải quyết vấn đề này, chủ thể quản lý có thể áp dụng nhiều biện
pháp từ giáo dục, thuyết phục đến cưỡng chế. Các biện pháp đó đều có thể
được thực hiện thông qua công tác thanh tra, qua thanh tra có thể đánh giá được
một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đó chấp hành pháp luật ra sao, có vi phạm
pháp luật hay không, vi phạm ở mức độ nào... Từ đó đề ra những biện pháp xử
lý thích hợp.
b. Thanh tra là một biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý
những hành vi vi phạm pháp luật
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý
mà thiếu sự kiểm tra, thanh tra là nguyên nhân của bệnh quan liêu, dẫn đến
tham ô, lãng phí. Để chống bệnh quan liêu, Người cho rằng chỉ có một cách,
đó là phải kiểm tra, kiểm soát. Ngay từ năm 1945, Sắc lệnh số 64/SL do Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký ngày 23/11/1945 về thành lập Ban thanh tra đặc biệt đã
quy định quyền hạn của Ban thanh tra đặc biệt là: “Đình chức, bắt giam bất
cứ nhân viên nào trong UBND hay Chính phủ đã phạm lỗi”. Mặt khác, theo
Bác muốn ngăn chặn và xử lý được những hành vi vi phạm của người khác thì
trước tiên chính cán bộ thanh tra phải là người gương mẫu.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã xác định phải “lấy bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, hiệu quả thực thi nhiệm vụ để đánh
giá, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút,
trọng dụng nhân tài.” Văn kiện cũng đưa ra một trong những biện pháp đẩy
mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng là “Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy
các cơ quan có chức năng đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng,
lãng phí. Xây dựng cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn quan hệ “lợi ích nhóm”,
chống đặc quyền, đặc lợi, khắc phục “tư duy nhiệm kỳ” ”.
19. 15
Luật Thanh tra và nhiều văn bản pháp luật khác đã quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan thanh tra và các cơ quan có chức năng kiểm tra,
giám sát khác trong việc đấu tranh phòng chống những hành vi vi phạm pháp
luật. Tuy nhiên, vai trò của thanh tra không chỉ và không phải chủ yếu là phát
hiện và xử lý mà quan trọng hơn, thanh tra đóng vai trò như một biện pháp
phòng ngừa hữu hiệu các hành vi vi phạm pháp luật.
Đối với cấp huyện, thông qua hoạt động thanh tra cấp huyện, những sai
sót trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật trong phạm vi
huyện được phát hiện và khắc phục kịp thời; những lỗ hổng, sự vướng mắc
trong các chính sách, pháp luật được kiến nghị điều chỉnh hợp lý. Bên cạnh
đó, thông qua hoạt động thanh tra, các chủ thể quản lý thu thập nhiều thông
tin góp phần phát hiện sự thay đổi và dự báo những vấn đề sẽ phát sinh để có
biện pháp phòng ngừa thích hợp. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong quá trình đất nước đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay.
c. Thanh tra giúp bảo đảm việc thực hiện các quyền tự do của công dân
Nhà nước XHCN Việt Nam mang bản chất nhân dân, tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là cội nguồn, là chủ thể của quyền lực
nhà nước. Tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận: “1. Nhà nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”.
Với quy định trên đã đặt ra yêu cầu là hoạt động của bộ máy nhà nước
phải luôn hướng tới lợi ích của nhân dân. Hoạt động toàn ngành thanh tra nói
chung trong đó có Thanh tra cấp huyện đã góp phần bảo đảm quyền làm chủ
của nhân dân thông qua hoạt động giải quyết KNTC và thanh tra. Nhờ có phạm
vi hoạt động rộng khắp trong tất cả các lĩnh vực nên thanh tra đã góp phần đấu
tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm, bảo vệ các quyền
tự do cơ bản của công dân, lợi ích của Nhà nước và cộng đồng. Đúng
là“Chúng ta có chính sách đúng, có pháp luật phù hợp với thực tiễn nhưng nếu
20. 16
không thanh tra, kiểm tra việc thực hiện thì các chủ trương, pháp luật đó sẽ
không đi vào đời sống và nạn tham nhũng, sách nhiễu, phiền hà dân vẫn sẽ xảy
ra” [18, tr.52].
Trong quá trình thực hiện quyền tự do, dân chủ của mình, công dân có
quyền tố cáo đối với những cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức vi phạm
pháp luật khi thực thi công vụ; khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành
vi hành chính của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nếu quyết định hành
chính, hành vi hành chính đó xâm hại trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp
của họ.
Với vị trí, vai trò là cơ quan tham mưu UBND huyện, trực tiếp là Chủ tịch
UBND huyện trong giải quyết KNTC thuộc thẩm quyền, cơ quan Thanh tra có
trách nhiệm tham mưu UBND huyện tiến hành xác minh, ban hành kết luận tố
cáo, quyết định giải quyết khiếu nại hành chính và gửi công dân. Bảo đảm đơn
thư KNTC của công dân đều được xem xét giải quyết, bảo vệ tốt quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, đồng thời kiến nghị việc xử lý đối với các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật.
Thanh tra cấp huyện còn có vai trò quan trọng, thể hiện là phương tiện
phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm nảy sinh trong quản lý nhà nước;
các thông tin và kết quả thanh tra có tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội
phạm trên địa bàn. Tuy nhiên tác dụng này chỉ có được khi các kết luận, kiến
nghị thanh tra được đưa ra trên cơ sở tôn trọng sự thật khách quan, đúng pháp
luật, hợp lý và cán bộ thanh tra là người không chỉ giỏi về chuyên môn nghiệp
vụ mà còn là tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức.
Thanh tra còn là phương tiện hoàn thiện bản thân chủ thể quản lý nhà nước
là UBND cấp huyện. Thông qua hoạt động thanh tra sẽ giúp UBND cấp huyện
hoàn thiện các phương tiện quản lý nhà nước đặc biệt là sự chỉ đạo, điều hành và
hoạt động của UBND cũng như đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Bên cạnh
đó, hoạt động thanh tra cấp huyện giúp cho UBND cấp huyện ra các quyết định
áp dụng chính xác, đúng đắn, khách quan và phù hợp hơn với thực tế.
21. 17
1.2. Đặc điểm về tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện
1.2.1. Thanh tra huyện được tổ chức theo nguyên tắc “song trùng trực
thuộc”
Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010 thì Thanh tra huyện là cơ
quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, có trách nhiệm giúp UBND
cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết KNTC và
PCTN; tiến hành thanh tra, giải quyết KNTC và PCTN theo quy định của
pháp luật. Trong quá trình tổ chức bộ máy và hoạt động, Thanh tra huyện
chịu sự chỉ đạo, điều hành của Chủ tịch UBND huyện, đồng thời phải chịu sự
chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra cấp tỉnh.
Với quy định trên đã thể hiện Thanh tra huyện là cơ quan được tổ chức
chức theo nguyên tắc “Song trùng trực thuộc”, tức là về mặt tổ chức, bộ máy,
con người, ngân sách, cơ sở vật chất sẽ do UBND cấp huyện đảm bảo và chỉ
đạo. Thanh tra huyện có nhiệm vụ tham mưu giúp UBND huyện trong quản
lý nhà nước về thanh tra thuộc phạm vi quản lý của UBND cấp huyện; giúp
UBND cấp huyện quản lý nhà nước về công tác giải quyết KNTC; thực hiện
nhiệm vụ giải quyết KNTC; giúp UBND huyện quản lý về công tác PCTN;
thực hiện nhiệm vụ PCTN theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh là cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện thì Thanh tra
huyện còn là cấp dưới của Thanh tra cấp tỉnh theo quan hệ ngành dọc, vì vậy
thanh tra huyện còn phải chịu sự chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ của
Thanh tra tỉnh trong các lĩnh vực thanh tra; giải quyết KNTC; PCTN và đôn
đốc, thực hiện các quyết định, kết luận có hiệu lực pháp luật.
Từ việc tổ chức như trên nên về công chức, thanh tra viên của Thanh tra
huyện cũng có những đặc thù, theo quy định thì Chánh Thanh tra huyện do
Chủ tịch UBND cấp huyện bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, tuy nhiên việc
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức chánh thanh tra của UBND huyện phải có
thống nhất với Chánh Thanh tra tỉnh. Mặc dù con người, biên chế thuộc
UBND huyện nhưng đội ngũ Thanh tra viên của Thanh tra huyện lại do Chủ
22. 18
tịch UBND cấp tỉnh bổ nhiệm trên cơ sở xét duyệt của Thanh tra tỉnh và sở
Nội vụ.
1.2.2. Thanh tra huyện là “cơ quan thanh tra hành chính”
Thanh tra hành chính được hiểu là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc
thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn. Với đặc điểm là cơ quan
thanh tra hành chính, Thanh tra cấp huyện có chức năng, nhiệm vụ là xem xét,
đánh giá các đối tượng thuộc quyền quản lý trực tiếp của UBND cấp huyện.
Đối tượng thanh tra của Thanh tra cấp huyện là các cơ quan, tổ chức, cá nhân
thuộc sự quản lý trực tiếp của UBND cấp huyện bao gồm: các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND cấp huyện (gọi là các phòng, ban), UBND cấp xã và cá
nhân, tổ chức thuộc sự quản lý trực tiếp của UBND cấp huyện.
Với tư cách là cơ quan thanh tra thực hiện hoạt động thanh tra hành chính,
Thanh tra cấp huyện giúp UBND cấp huyện xem xét, đánh giá việc chấp hành
pháp luật của các đối tượng thuộc quyền quản lý trực tiếp của mình nhằm ngăn
ngừa hoặc phát hiện các sai phạm của họ, đồng thời phát hiện những sơ hở,
khiếm khuyết trong cơ chế chính sách với mục đích cao nhất là nâng cao hiệu
quả quản lý của UBND huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện và làm bộ máy
trong sạch, tạo dựng niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước, là yếu tố
quyết định thành công của một chính quyền.
Thanh tra cấp huyện trong hệ thống các cơ quan Thanh tra hành chính là
cơ quan thấp nhất, dưới thanh tra huyện không còn “chân rết” hay cán bộ cơ sở
phụ trách địa bàn. Do đó, để hướng dẫn chuyên môn và nắm số liệu liên quan
đến hoạt động công tác giải quyết đơn thư, PCTN của cơ sở, cơ quan Thanh tra
huyện đều thực hiện qua hoạt động báo cáo của UBND xã.
1.2.3. Thanh tra là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước
Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra có mối liên hệ chặt chẽ
với tính quyền uy - phục tùng của quản lý nhà nước. Là một chức năng của
quản lý nhà nước, thanh tra phải thể hiện như một tác động tích cực nhằm thực
hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Nói về quyền lực
23. 19
nhà nước trong quá trình thanh tra cũng có nghĩa là xác định về mặt pháp lý
tính chất nhà nước của tổ chức thanh tra. Vì vậy, thanh tra phải được Nhà nước
sử dụng như một công cụ có hiệu quả trong quá trình quản lý.
Có thể nói, thanh tra là một hoạt động luôn mang tính quyền lực nhà
nước. Chủ thể tiến hành thanh tra phải là cơ quan nhà nước, áp dụng quyền
năng của Nhà nước trong quá trình hoạt động của mình và nhân danh Nhà nước
khi áp dụng quyền năng đó. Thanh tra chỉ xuất hiện từ khi Nhà nước ra đời
trong lịch sử và nó cũng sẽ tiêu vong cùng với sự tiêu vong của Nhà nước.
Như vậy, chủ thể duy nhất tiến hành thanh tra là Nhà nước, thanh tra xuất
hiện, tồn tại và tiêu vong cùng với Nhà nước. Ở các nước trên thế giới, dù mô
hình tổ chức hoạt động thanh tra có khác nhau nhưng đều có chung đặc điểm
này. Luật Thanh tra năm 2010 đã quy định: cơ quan thanh tra nhà nước trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện và giúp cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết KNTC
và PCTN; tiến hành thanh tra, giải quyết KNTC và PCTN theo quy định.
Đối với thanh tra huyện, tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra
thể hiện ở chỗ, thanh tra huyện có quyền hạn được xác định và khả năng thực
hiện những quyền hạn đó, cụ thể: Quyết định tổ chức các cuộc thanh tra theo
chương trình, kế hoạch được phê duyệt; trình Chủ tịch UBND huyện phê duyệt
hoặc quyết định thanh tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật;
yêu cầu đối tượng thanh tra, các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin,
tài liệu có liên quan; niêm phong tài liệu, kiểm kê tài sản, trưng cầu giám định;
yêu cầu cấp có thẩm quyền giải quyết đề nghị của thanh tra, yêu cầu truy cứu
trách nhiệm đối với những người có lỗi gây ra những vi phạm được phát hiện,
kể cả việc chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật có dấu hiệu của tội phạm
sang cơ quan điều tra để xử lý.
Tính quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra được cụ thể hoá qua
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra huyện, phương thức tiến
hành thanh tra, xử lý kết quả thanh tra, quan hệ giữa cơ quan thanh tra huyện
24. 20
với đối tượng bị thanh tra... Nếu chỉ chú trọng đến một mặt nào đó mà không
thực hiện đồng bộ tính quyền lực nhà nước trên các lĩnh vực đều dẫn đến hạ
thấp vai trò và hiệu quả của hoạt động thanh tra, hạn chế hiệu lực thanh tra.
1.2.4. Hoạt động của Thanh tra huyện gắn liền với hoạt động quản lý của
UBND huyện, đáp ứng yêu cầu và mục tiêu quản lý nhà nước ở địa phương:
Thanh tra là một phạm trù lịch sử, thanh tra gắn liền với vai trò của Nhà
nước trong kiểm soát nhà nước, kiểm soát xã hội. Chính bản chất của quá trình
lao động xã hội đã đòi hỏi tất yếu phải có sự quản lý của Nhà nước để điều hoà
những hoạt động đơn lẻ và thực hiện những chức năng chung.
Trong mối quan hệ giữa quản lý và thanh tra thì quản lý nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, chi phối hoạt động của thanh tra (quy định thẩm quyền của các cơ
quan thanh tra, quy định về tổ chức, quyết định và kết luận thanh tra, sử dụng
các kết quả, các thông tin từ phía các cơ quan thanh tra). Mặt khác, hoạt động
chấp hành của quản lý nhà nước thường bao hàm cả sự điều hành, cho nên trong
quá trình thực hiện các văn bản pháp luật đòi hỏi phải có sự kiểm tra nghiêm
ngặt của các cơ quan có thẩm quyền.
Qua phân tích cho thấy, thanh tra là những công cụ, phương tiện để quản
lý nhà nước. Đối với cấp huyện, Thanh tra là cơ quan chuyên môn thuộc
UBND huyện, có chức năng xem xét, đánh giá kết quả, hiệu quả công việc thực
hiện các quyết định quản lý của UBND huyện, phát huy những mặt tích cực,
phát hiện những sai phạm để đề xuất, kiến nghị với UBND cấp huyện sửa đổi,
điều chỉnh các thức điều hành và xử lý các vi phạm.
Thanh tra huyện là một khâu trong chu trình quản lý, bị rằng buộc, chế
ước bởi quản lý của chủ thể quản lý nhà nước cấp huyện. Trong quá trình đó,
thanh tra phản ánh và bảo vệ mục đích của quản lý. Vì thế, có thể nói: “Một
chủ thể hành chính và cơ chế quản lý nhà nước sẽ không đầy đủ nếu thiếu
thanh tra. Trong một tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, hoạt động có
tính hiệu quả của thanh tra sẽ ngăn chặn được nguy cơ biến dạng, tùy tiện,
thiếu kỉ cương trong hoạt động quản lý nhà nước” [28, tr.20].
25. 21
1.2.5. Hoạt động của Thanh tra huyện có tính khách quan và độc lập tương
đối
Khác với hoạt động kiểm tra thường do bản thân các cơ quan, tổ chức tự
thực hiện, hoạt động thanh tra thường được tiến hành bởi một cơ quan chuyên
trách. Cơ quan thanh tra huyện có nhiệm vụ chủ yếu là xem xét, đánh giá một
cách khách quan việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các cơ
quan, tổ chức và cá nhân thuộc phạm vi UBND huyện quản lý.
Tính khách quan thể hiện trong quá trình thanh tra của thanh tra cấp huyện
phải căn cứ vào pháp luật và chính sách hiện hành, đồng thời phải xuất phát từ
thực tế cuộc sống, đặt sự vật, hiện tượng, việc làm đang xem xét trong sự phát
triển biện chứng với quan điểm khoa học, hoàn cảnh của từng vấn đề cụ thể từ
đó mới đánh giá được đâu là đúng, đâu là sai, nguyên nhân của tình trạng đó để
ra kết luận một cách chính xác. Đồng thời nó thể hiện ở việc quyết định của cơ
quan thanh tra cấp huyện không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người ra
quyết định và không bị phụ thuộc vào bất cứ nhân tố nào có thể dùng ảnh hưởng
hay quyền lực để tác động đến kết quả thanh tra.
Tính độc lập của cơ quan thanh tra nói chung trong đó có cơ quan thanh
tra cấp huyện là một thuộc tính bản chất của hoạt động thanh tra, cần phải hiểu
đây là quan niệm mang tính tương đối, không nên cho rằng tính độc lập của
hoạt động thanh tra hoàn toàn biệt lập, tách rời quản lý nhà nước. Khi nói đến
tính độc lập của thanh tra cần phải xem xét sự độc lập của hoạt động đến đâu,
độc lập với chủ thể, đối tượng nào; sự độc lập đó thể hiện như thế nào và giới
hạn của sự độc lập đó ra sao.
Chủ thể Thanh tra cấp huyện phải tương đối độc lập với chủ thể quản lý
nhà nước trong việc xem xét, đánh giá, kết luận, kiến nghị xử lý; sự độc lập của
cơ quan thanh tra trong việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tự chịu
trách nhiệm về việc ra các quyết định trong hoạt động thanh tra; tự mình tổ
chức các hoạt động thanh tra theo thẩm quyền hoặc theo chương trình, kế
hoạch đã được phê duyệt; độc lập trong việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ
26. 22
thanh tra; về tài chính, vật chất, phương tiện và các điều kiện khác, không bị
phụ thuộc vào đối tượng thanh tra về nơi ăn, ở, phương tiện đi lại…
Có tính độc lập thì hoạt động thanh tra cấp huyện mới khách quan, thể
hiện rõ hơn quan điểm trong việc thực thi và hoàn thành nhiệm vụ. Độc lập
trong hoạt động thì cơ quan thanh tra mới đảm bảo được tính khách quan. Khi
đạt được sự khách quan nhất định, cơ quan thanh tra mới có thể thực sự tách ra
khỏi sự chỉ đạo, lãnh đạo hoạt động từ các cơ quan khác, chủ động thực hiện
nhiệm vụ được giao, làm việc đạt được mục đích đặt ra. Sự thừa nhận này
không xuất phát từ quan điểm coi tính độc lập của thanh tra đồng nghĩa với sự
cô lập, tự tách mình ra mà nó hòa quyện trong trật tự pháp chế thống nhất với
các thuộc tính quyền lực nhà nước và gắn liền với quản lý nhà nước.
1.3. Các yếu tố tác động đến tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện
1.3.1. Yếu tố chính trị - pháp lý
Để cơ quan Thanh tra huyện cũng như hoạt động thanh tra hoạt động
hiệu quả phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố chính trị - pháp lý, thể hiện bằng việc
sự quan tâm, sâu sát, sự định hướng lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện uỷ, sự điều
hành của UBND huyện; nếu sự lãnh đạo, điều hành đối với công tác thanh tra
tốt, quan tâm, tạo điều kiện cho công tác này, đảm bảo sự khách quan, độc lập
thì hiệu quả của hoạt động thanh tra sẽ được nâng cao, nếu không sẽ ngược lại.
Mặt khác, để tiến hành hoạt động thanh tra, thanh tra huyện phải căn cứ
vào những trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, đồng thời căn cứ vào yêu cầu
công tác quản lý, các quy định pháp luật khác để đưa ra những kiến nghị hoặc
xử lý các hành vi vi phạm, do vậy đòi hỏi các quy định pháp luật về thanh tra
phải có sự phù hợp, chặt chẽ và đầy đủ. Trên thực tế, chúng ta thấy rằng, hệ
thống các quy định pháp luật về thanh tra thời gian gần đây ngày càng được đổi
mới nhằm đáp ứng yêu cầu công tác quản lý, song cũng chính là nhằm bảo đảm
tính đặc thù của công tác thanh tra. Trước đây, khi cơ sở pháp lý cho hoạt động
thanh tra chưa được kiện toàn, còn nhiều hạn chế, bất cập, việc tiến hành của
cơ quan đã gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Chẳng hạn như việc: Luật Thanh
27. 23
tra năm 2004 quy định thanh tra theo ngành lĩnh vực chỉ được thành lập ở bộ,
sở đã làm hạn chế công tác thanh tra chuyên ngành, nhất là các lĩnh vực liên
quan đến đời sống, sinh hoạt của người dân.
Ngoài tác động từ các quy định pháp luật về thanh tra (các quy định liên
quan tới thẩm quyền, trình tự thủ tục tiến hành hoạt động thanh tra) thì các quy
định pháp luật về nội dung (pháp luật về tài chính, ngân hành, y tế, giáo dục,
đất đai...) cũng có ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động thanh tra. Điều này được
minh chứng qua một số trường hợp khi xử lý kiến nghị của cơ quan thanh tra
đã gặp phải vướng mắc do pháp luật chưa có những chế tài cụ thể, chưa quy
định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình quản lý.
Như vậy, cơ sở chính trị - pháp lý cho hoạt động thanh tra hay những
quy định pháp luật về thanh tra nói riêng và pháp luật nói chung đóng vai trò
quan trọng và là yếu tố tác động trực tiếp, có ảnh hướng lớn tới chất lượng,
hiệu quả hoạt động thanh tra nói chung và của cấp huyện nói riêng.
1.3.2. Yếu tố về tổ chức - cán bộ
Thực tế cho thấy, Thanh tra có vị trí, vai trò rất lớn trong quản lý nhà
nước, tuy nhiên để thực hiện được điều này thì công tác tổ chức - cán bộ phải
được làm tốt. Một bộ máy thanh tra tổ chức hợp lý, tinh gọn có sự phân công
quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng, cụ thể; quy định sự phối hợp nhịp nhàng sẽ
là điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện tốt hoạt động thanh tra và ngược lại,
nếu tổ chức thanh tra thiết kế không hợp lý, thiếu tính liên kết, không rõ về vai
trò vị trí, không thể hiện tính minh bạch về nhiệm vụ quyền hạn, khi đó nó sẽ là
rào cản cho sự linh hoạt và tính trách nhiệm trong hoạt động thanh tra. Điều
này đòi hỏi việc tổ chức hoạt động của Thanh tra huyện phải bám sát luật
Thanh tra, phải xác định được đúng số lượng, chỉ tiêu biên chế trong mỗi cấp,
mỗi cơ quan thanh tra tuỳ thuộc vào yêu cầu, tình hình thực tế của mỗi đơn vị.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: Cán bộ là gốc của công việc.
cán bộ nào, phong trào ấy. Đối với ngành thanh tra, Người cũng căn dặn: “Cán
bộ thanh tra như cái gương cho người ta soi mặt, gương mờ thì không soi
28. 24
được”. Điều này thể hiện, là người cán bộ Thanh tra phải không ngừng tu
dưỡng, rèn luyện để trở thành cán bộ tốt, góp phần nâng cao vị thế, vai trò của
ngành thanh tra. Thanh tra huyện cần có một đội ngũ cán bộ, công chức, thanh
tra viên có trình độ, năng lực, trách nhiệm, đạo đức và có kinh nghiệm thực
tiễn. Khi công tác cán bộ không được làm tốt, bố trí không đủ biên chế, nhiều
lao động hợp đồng, công chức thanh tra là những người không am hiểu pháp
luật hoặc lĩnh vực phụ trách sẽ khiến cho hoạt động thanh tra gặp rất nhiều khó
khăn, hiệu quả thấp.
1.3.3. Yếu tố về kinh tế - cơ sở vật chất
Công tác Thanh tra muốn hoạt động thường xuyên, chất lượng thì yếu tố
kinh tế - cơ sở vật chất có tác động rất lớn. Khi cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc
hậu, không theo kịp sự phát triển của xã hội thì không thể có hoạt động thanh
tra đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của công tác quản lý và của xã hội. Yếu tố
kinh tế, cơ sở sở vật chất cho hoạt động thanh tra bao gồm từ trụ sở làm việc,
tài sản, trang thiết bị làm việc, các vật tư, đồ dùng phục vụ tác nghiệp trong
hoạt động thanh tra, giải quyết đơn thư như: bàn, ghế, máy vi tính, máy quay,
máy chụp ảnh, máy ghi âm…đây là các trang thiết bị cần thiết nhằm giúp cán
bộ, công chức, thanh tra viên tác nghiệp, hoạt động được tốt hơn.
Yếu tố kinh tế còn thể hiện ở chế độ tiền lương, phụ cấp cho cán bộ,
công chức làm công tác thanh tra, nhằm bảo đảm cho cuộc sống của cán bộ,
công chức và gia đình của người làm công tác thanh tra được ở mức trung bình
khá của xã hội trở lên, giúp cán bộ thanh tra yên tâm công tác, hạn chế tiêu cực
trong quá trình hoạt động. Ngoài ra, công tác khen thưởng, động viên cũng có ý
nghĩa lớn nhằm giúp cho cán bộ trong ngành nói chung và thanh tra cấp huyện
nói riêng thêm yêu, gắn bó và hăng say, trách nhiệm khi làm việc.
1.3.4. Yếu tố văn hoá - xã hội
Thực tiễn cho thấy, các yếu tố về tổ chức dân cư, truyền thống, thói
quen, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo… đã ảnh hưởng lớn đến quá
trình thực hiện pháp luật của cán bộ, công chức và người dân, đây là yếu tố trực
29. 25
tiếp tác động đến hoạt động của các cơ quan thanh tra đặc biệt là cơ quan thanh
tra huyện là cấp gần cơ sở, chịu tác động của văn hoá, tập quán, thói quen của
nhân dân địa phương.
Về tổ chức dân cư đã hình thành và tồn tại từ rất lâu đời trên cơ sở sự
liên kết rất chặt chẽ của quan hệ huyết thống, họ hàng từ đó hình thành những
thói quen chưa mang tính ý thức xã hội cao như sống dựa nhiều vào quy phạm
đạo đức, phong tục, tập tục, quy ước của dòng họ, địa phương… những thói
quen này làm cản trở việc tuân thủ pháp luật của cán bộ, công chức và người
dân, làm hạn chế hoạt động của thanh tra viên và cán bộ cơ quan thanh tra khi
thực thi nhiệm vụ.
Về lối sống, yếu tố tâm lý của người dân Việt Nam nhất là ở nông thôn
thường bảo thủ, cách tư duy thường mang tính manh mún, cắt xẻ, chắp vá,
thiếu tính năng động, thói quen bắt chước… đã tạo thành tư duy và hành động,
cách thức của cán bộ, công chức, của người dân là thường làm việc xuất phát từ
lợi ích cá nhân, dễ nảy sinh hành hành động tuỳ tiện, vi phạm pháp luật do vậy
đã khiến cho hoạt động thanh tra, giải quyết đơn thư thêm phức tạp.
30. 26
Tiểu kết chương 1
Ngay trong những ngày đầu xây dựng chính quyền nhân dân, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã rất quan tâm tới công
tác Thanh tra. Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 64-
SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt, đây là nền tảng để hình thành nên hệ
thống Thanh tra Việt Nam. Kể từ khi Pháp lệnh Thanh tra được ban hành năm
1990, sau này là Luật Thanh tra năm 2004, năm 2010 vị trí, vai trò, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của ngành Thanh tra càng được khẳng định, trở thành một
công cụ quản lý hữu hiệu của nhà nước, góp phần quan trọng vào việc ổn định
tình hình chính trị, giữ vững kỷ cương, luật pháp, đảm bảo an ninh trật tự xã
hội để thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển đất nước.
Thanh tra cấp huyện với vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được quy định
rõ và ngày càng hoàn thiện tại các văn bản Luật của nhà nước đã là cơ sở pháp lý
quan trọng để thanh tra huyện tham mưu giúp UBND huyện làm tốt công tác
quản lý nhà nước về thanh tra, giải quyết KNTC, PCTN và đôn đốc các quyết
định, kết luận có hiệu lực pháp luật. Từ đó góp phần tạo ra môi trường xã hội ổn
định, là tiền đề để huyện phát triển mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội.
31. 27
Chương 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA
HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện Hoài Đức, Thành
phố Hà Nội
Hoài Đức là huyện ngoại thành phía tây Thủ đô Hà Nội, với diện tích đất
tự nhiên 8.245 ha, dân số khoảng 188.275 người, đơn vị hành chính gồm 19 xã,
01 thị trấn. Huyện có hệ thống giao thông thuận lợi, đang trong quá trình công
nghiệp hóa, đô thị hoá, thu hút nhiều dự án đầu tư; nhiều làng nghề phát triển. 5
năm qua, huyện Hoài Đức đã có nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế, văn
hóa - xã hội, cụ thể:
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng bình quân từ năm 2010 đến nay đạt
11,3%/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng tăng trưởng bình quân
10,1%/năm; thương mại - dịch vụ đạt 15,4%/năm; nông nghiệp đạt 0,7%/năm.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực; thu nhập bình quân
đầu người tăng từ 22 triệu đồng/người/năm năm 2010 lên 35,5 triệu
đồng/người/năm năm 2015.
Văn hóa, xã hội: Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá được triển khai rộng khắp. Đến nay, số làng văn hóa đạt 58%; cơ quan, đơn
vị văn hóa đạt 77,1%, số gia đình văn hóa đạt 85%. Sự nghiệp giáo dục và đào
tạo phát triển khá toàn diện. Chất lượng khám chữa bệnh được chú trọng, hầu
hết các xã, thị trấn đã đạt chuẩn quốc gia về y tế; đã có 42/70 trường đạt chuẩn
quốc gia, 100% trạm y tế có bác sỹ, 100% thôn có nhân viên y tế, 100% xã, thị
trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế; tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 1,46%.
Về an ninh, quốc phòng: Công tác quân sự địa phương được làm tốt.
Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm được tăng cường, đã phát hiện, ngăn
chặn xử lý kịp thời một số tội phạm nghiêm trọng phát sinh. Công tác kiểm sát,
điều tra, xét xử, thi hành án có chuyển biến tích cực. Chất lượng hoạt động tố
tụng, xét xử, thi hành án ngày càng được nâng cao, góp phần quan trọng tạo ra
môi trường ổn định tại địa phương.
32. 28
Thanh tra cấp huyện là cơ quan ngang phòng thuộc UBND huyện nên có
trụ sở hoạt động riêng. Trụ sở cơ quan Thanh tra huyện đã được trang bị cơ sở
vật chất, phương tiện làm việc cần thiết như bàn ghế, máy tính để bàn, máy tính
cá nhân, kết nối mạng internet, máy phô tô, máy in, điện thoại, máy ảnh, máy
ghi âm... những trang thiết bị trên, là tiền đề quan trọng đem lại kết quả hoạt
động tốt cho cơ quan thanh tra huyện Hoài Đức.
Xuất phát từ vị trí địa lý, điều kiện kinh tế, VH-XH và dân cư, Hoài Đức
đã và đang có những bước phát triển khá, đạt được các thành tựu quan trọng về
mọi mặt, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Song cũng không tránh
khỏi những khó khăn, hạn chế do tác động mặt trái của quá trình CNH, ĐTH,
vấn đề thu hồi đất, GPMB, những tranh chấp trong nhân dân diễn ra ngày càng
nhiều và phức tạp… Các cơ quan chức năng vì một phần chuyên môn còn yếu,
lực lượng thiếu, cá biệt trách nhiệm còn chưa cao nên công việc còn tồn đọng,
không giải quyết kịp thời, đã ít nhiều ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối
với hiệu quả điều hành, lãnh đạo của chính quyền địa phương huyện Hoài Đức.
2.2. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về tổ chức và
hoạt động của thanh tra huyện
2.2.1. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện giai đoạn
từ 1945 đến năm 2010
Từ năm 1945 đến trước năm 1990, do Việt Nam phải tiến hành cuộc
kháng chiến cứu nước vì vậy các văn bản pháp luật về tổ chức hoạt động Thanh
tra nói chung và Thanh tra cấp huyện nói riêng chưa được tập trung xây dựng.
Chỉ đến khi đất nước hoà bình, tiến hành công cuộc đổi mới, pháp luật về thanh
tra mới từng bước được xây dựng và hoàn thiện.
Theo Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, Thanh tra huyện được xác định là
cơ quan thuộc UBND cùng cấp có chức năng quản lý Nhà nước về công tác
thanh tra, thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi quản lý Nhà nước của
UBND cùng cấp; chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch UBND cùng cấp và
sự chỉ đạo của Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương
đương về công tác, tổ chức, nghiệp vụ thanh tra.
33. 29
Về cơ cấu, tổ chức bộ máy, Thanh tra huyện gồm có: Chánh thanh tra,
Phó chánh thanh tra và thanh tra viên. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Chánh
thanh tra do Chủ tịch UBND cấp huyện đề nghị Chánh thanh tra cấp tỉnh
quyết định.
Thanh tra huyện có nhiệm vụ, quyền hạn là chỉ đạo, hướng dẫn công tác,
tổ chức, nghiệp vụ thanh tra đối với UBND cấp xã; hướng dẫn, kiểm tra các
cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, UBND cấp xã thực hiện các quy
định của Nhà nước về công tác thanh tra và việc xét, giải quyết KNTC; kiến
nghị UBND cấp huyện quyết định đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ
những kiến nghị, quyết định không đúng của UBND cấp xã về công tác thanh
tra; Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch Nhà
nước của trưởng phòng, ban, Chủ tịch UBND cấp xã; việc do Chủ tịch UBND
cùng cấp hoặc Chánh thanh tra cấp tỉnh giao.
Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật của các cơ quan, đơn vị,
cá nhân thuộc quyền quản lý của các cơ quan cấp trên hoặc địa phương khác
đóng tại địa phương mình theo thẩm quyền quản lý Nhà nước của chính
quyền cùng cấp. Yêu cầu trưởng phòng, ban, Chủ tịch UBND cấp xã thanh tra
hoặc phúc tra việc thuộc phạm vi trách nhiệm của mình.
Kiến nghị Chủ tịch UBND cùng cấp giải quyết KNTC đối với Chủ tịch
UBND cấp xã, trưởng phòng, ban; giải quyết KNTC mà Chủ tịch UBND cấp
xã, trưởng phòng, ban đã giải quyết, nhưng đương sự còn khiếu nại hoặc phát
hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
Đến Luật Thanh tra năm 2004, về cơ bản vị trí của Thanh tra cấp huyện
vẫn được kế thừa từ Pháp lệnh Thanh tra năm 1990. Tuy nhiên, do đến Luật
Thanh tra năm 2004 không còn quy định về Thanh tra xã, phường, thị trấn
nên thẩm quyền của thanh tra huyện cũng thu gọn, chỉ còn là: Thanh tra việc
thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của UBND cấp xã, của cơ quan
chuyên môn thuộc UBND cấp huyện; Thanh tra vụ việc có liên quan đến
trách nhiệm của nhiều UBND xã, phường, thị trấn, nhiều cơ quan chuyên
34. 30
môn thuộc UBND cấp huyện; Thanh tra vụ việc khác do Chủ tịch UBND
huyện giao; Thực hiện nhiệm vụ giải quyết KNTC theo quy định của pháp
luật về KNTC.
Có một nhiệm vụ mới mà Luật Thanh tra 2004 bổ sung cho thanh tra
huyện là thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa và chống tham nhũng theo quy định
của pháp luật về chống tham nhũng; tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác
thanh tra, giải quyết KNTC, PCTN thuộc phạm vi quản lý nhà nước của
UBND cấp huyện.
2.2.2. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện giai đoạn
từ năm 2011
Luật Thanh tra năm 2011 vẫn xác định Thanh tra huyện là cơ quan
chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, có trách nhiệm giúp UBND cùng cấp
quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết KNTC và PCTN; tiến hành
thanh tra, giải quyết KNTC và PCTN theo quy định của pháp luật.
Về cơ cấu tổ chức của Thanh tra huyện có Chánh Thanh tra, Phó Chánh
Thanh tra và Thanh tra viên. Chánh Thanh tra huyện do Chủ tịch UBND cấp
huyện bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Chánh Thanh
tra cấp tỉnh.
Về vai trò, nhiệm vụ quyền hạn của Thanh tra huyện theo Luật thanh tra
2010 thể hiện trên hai phương diện sau đây:
Thứ nhất, trong quản lý nhà nước về thanh tra, Thanh tra huyện có nhiệm
vụ, quyền hạn: xây dựng kế hoạch thanh tra trình Chủ tịch UBND cấp huyện
phê duyệt và tổ chức thực hiện kế hoạch đó; báo cáo kết quả về công tác thanh
tra; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử
lý về thanh tra của Chủ tịch UBND cấp huyện và Thanh tra huyện.
Thứ hai, trong hoạt động thanh tra, Thanh tra huyện có nhiệm vụ, quyền
hạn: thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn của
cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, của UBND cấp xã; thanh tra vụ
việc phức tạp, có liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan chuyên môn
35. 31
thuộc UBND cấp huyện, UBND cấp xã; thực hiện nhiệm vụ giải quyết KNTC;
thực hiện nhiệm vụ PCTN; thanh tra vụ việc khác do Chủ tịch UBND cấp
huyện giao.
Như vậy, Luật thanh tra 2010 đã cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của
Thanh tra huyện một cách rõ nét cả về phương diện quản lý nhà nước về
thanh tra và trong hoạt động thanh tra, thể hiện sự tiến bộ, hoàn thiện của
pháp luật đối với công tác thanh tra nói chung và Thanh tra huyện nói
riêng. Đồng thời đã bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra
huyện như: Xây dựng kế hoạch thanh tra trình Chủ tịch UBND cấp huyện
phê duyệt, tổ chức thực hiện kế hoạch đó và báo cáo kết quả về công tác
thanh tra; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị,
quyết định xử lý về thanh tra; giúp UBND cấp huyện quản lý nhà nước về
công tác giải quyết KNTC và công tác PCTN.
Ngoài ra, theo quy định tại Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014
của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-
TTCP-BNV ngày 08/9/2014 của Thanh tra Chính phủ và Bộ nội vụ ban hành về
hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của thanh tra tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh thì nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra huyện gồm những nội dung sau:
Thứ nhất là trình UBND cấp huyện ban hành quyết định, chỉ thị về công tác
thanh tra, giải quyết KNTC, PCTN; chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện
các nhiệm vụ cải cách hành chính thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước được giao.
Thứ hai là trình Chủ tịch UBND cấp huyện kế hoạch thanh tra hàng năm
và các chương trình, kế hoạch khác theo quy định của pháp luật. Tổ chức thực
hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch sau khi được
UBND cấp huyện hoặc Chủ tịch UBND cấp huyện phê duyệt.
Thứ ba là thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và hướng
dẫn chuyên môn, nghiệp vụ công tác thanh tra, giải quyết KNTC, PCTN cho cán
bộ, công chức xã, phường, thị trấn. Hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc Chủ tịch
36. 32
UBND xã, phường, thị trấn, thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp
huyện trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra, giải quyết KNTC và PCTN.
Phối hợp với Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp hướng dẫn nghiệp vụ công tác
cho các Ban Thanh tra nhân dân xã, phường, thị trấn.
Đối với nhiệm vụ trong từng lĩnh vực cụ thể, Theo Thông tư số
03/2014/TTLT-TTCP-BNV, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra huyện được
thể hiện như sau:
- Trong lĩnh vực thanh tra: Thanh tra huyện có trách nhiệm Thanh tra việc
thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của UBND cấp xã, của cơ quan
chuyên môn thuộc UBND cấp huyện; thanh tra vụ việc phức tạp có liên quan
đến trách nhiệm của nhiều UBND xã, thị trấn, nhiều cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cấp huyện theo kế hoạch được duyệt hoặc đột xuất khi phát hiện có dấu
hiệu vi phạm pháp luật; Thanh tra vụ việc khác do Chủ tịch UBND cấp huyện
giao; Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết
định xử lý về thanh tra của Thanh tra huyện và Chủ tịch UBND cấp huyện.
- Trong lĩnh vực giải quyết KNTC: Thanh tra huyện có nhiệm vụ hướng
dẫn UBND cấp xã và các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc quyền quản lý của
UBND cấp huyện thực hiện việc tiếp công dân, xử lý đơn KNTC, giải quyết
KNTC;
Tiến hành xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết vụ việc KNTC
thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp huyện khi được giao và các đơn thư
thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Mặt khác, thanh tra huyện phải xem xét, kết luận việc giải quyết tố cáo mà
chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn và thủ trưởng các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND cấp huyện đã giải quyết nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật;
trường hợp có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo vi phạm pháp luật thì kiến
nghị Chủ tịch UBND cấp huyện xem xét, giải quyết lại theo quy định; theo dõi,
kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận
nội dung tố cáo, quyết định xử lý tố cáo của Chủ tịch UBND cấp huyện.
37. 33
- Trong lĩnh vực PCTN: Thanh tra huyện có nhiệm vụ tiến hành thanh tra,
kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về PCTN của UBND cấp xã
và các cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý của UBND cấp huyện; kiểm tra,
giám sát nội bộ nhằm ngăn chặn hành vi tham nhũng trong hoạt động thanh tra,
giải quyết KNTC và PCTN. Phối hợp với cơ quan tư pháp trong việc phát hiện,
xử lý người có hành vi tham nhũng.
Tiến hành xác minh kê khai tài sản, thu nhập theo quy định của pháp luật
về PCTN; tổng hợp kết quả kê khai, công khai, xác minh, kết luận, xử lý vi
phạm về minh bạch tài sản, thu nhập trong phạm vi địa phương mình; định kỳ
báo cáo kết quả về Thanh tra tỉnh;
- Về tham mưu đôn đốc, chỉ đạo, thực hiện các quyết định, kết luận có
hiệu lực pháp luật: Đây là một nhiệm vụ, quyền hạn mới của cơ quan Thanh tra
theo luật Thanh tra năm 2010, theo quy định thì Thanh tra huyện có trách
nhiệm tổng hợp, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị,
quyết định xử lý về thanh tra, kết luận giải quyết tố cáo và quyết định giải
quyết khiếu nại của Thanh tra Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, các sở,
ngành cấp tỉnh và Chủ tịch UBND cấp huyện, Thanh tra huyện. Tham mưu
UBND huyện xây dựng kế hoạch để chỉ đạo, đôn đốc việc thực hiện các quyết
định, kết luận có hiệu lực pháp luật trên địa bàn.
Ngoài ra, Thanh tra huyện còn có nhiệm vụ tổ chức ứng dụng tiến bộ khoa
học, công nghệ; xây dựng hệ thống thông tin, lưu trữ phục vụ công tác quản lý
nhà nước và chuyên môn, nghiệp vụ. Tổng hợp, thông tin, báo cáo kết quả
công tác thanh tra, giải quyết KNTC, PCTN theo quy định của UBND cấp
huyện và Thanh tra tỉnh. Tiến hành quản lý biên chế, công chức, thực hiện các
chế độ, chính sách, chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật, đào tạo và bồi dưỡng
đối với công chức thuộc phạm vi quản lý của Thanh tra huyện theo quy định
của pháp luật và theo phân cấp của UBND cấp huyện. Được quyền quản lý, sử
dụng tài chính, tài sản được giao theo quy định của pháp luật và theo phân cấp.
38. 34
Qua phân tích vai trò, nhiệm vụ của thanh tra huyện cho thấy chức năng
của Thanh tra cấp huyện là những phương diện hoạt động chủ yếu của Thanh
tra cấp huyện nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước UBND huyện ở mỗi
giai đoạn cụ thể. Chức năng của Thanh tra cấp huyện được thể hiện:
Thứ nhất, xem xét, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm
vụ nội bộ do là cơ quan thực hiện hoạt động thanh tra nên hoạt động chủ yếu
của Thanh tra cấp huyện là xem xét, đánh giá. Tuy nhiên, hoạt động xem xét,
đánh giá của Thanh tra cấp huyện chỉ là hoạt động xem xét, đánh giá việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức thuộc phạm
vi quản lý trực tiếp của UBND cấp huyện trong khi Thanh tra cấp huyện cũng
là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện. Các đối tượng chịu sự xem
xét, đánh giá của Thanh tra cấp huyện cụ thể là: các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cấp huyện, UBND cấp xã và các cá nhân, tổ chức thuộc sự quản lý trực
tiếp của UBND cấp huyện.
Thứ hai là thanh tra huyện có chức năng tham mưu cho UBND huyện
trong lĩnh vực quản lý nhà nước về thanh tra, giải quyết KNTC và PCTN. Việc
tham mưu không đơn thuần là giúp việc, đóng góp ý kiến mang tính đề xuất mà
còn có quyền bảo lưu ý kiến, và được trình bày và bảo vệ ý kiến của mình
trước cơ quan hoặc cá nhân lãnh đạo, quản lý có thẩm quyền và người có trách
nhiệm ra quyết định.
Qua những quy định về vai trò, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan Thanh tra cấp huyện đã cho thấy pháp luật về thanh tra của nước ta đang
trong quá trình hoàn thiện để xứng đáng với sự tin tưởng của Đảng, Nhà nước
và nhân dân giao cho, xứng đáng với lời Bác dạy: “thanh tra là tai mắt của
trên, là bạn của dưới”. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra
huyện được quy định một cách cụ thể đã giúp cho việc tổ chức bộ máy và hoạt
động thanh tra huyện ngày càng nhanh nhậy, hiệu quả và đáp ứng được nhu
cầu quản lý nhà nước và sự phát triển của địa phương.
39. 35
2.3. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện Hoài Đức,
thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 - 2015
2.3.1. Những kết quả, hạn chế trong tổ chức của Thanh tra huyện
Hoài Đức và nguyên nhân
a. Kết quả đạt được
Hiện nay tổng biên chế của cơ quan Thanh tra huyện Hoài Đức theo quy
định được 07 biên chế, nhưng thực tế cơ quan có 08 công chức, thanh tra viên và
nhân sự hợp đồng gồm: 01 Chánh Thanh tra và 02 Phó chánh thanh tra; 05 công
chức, người lao động (03 biên chế và 02 hợp đồng).
Về chất lượng công chức: cả 08 công chức, nhân sự hợp đồng đều có trình
độ đại học, 02 người có trình độ thạc sĩ luật, 02 người có trình độ cao cấp chính
trị, 02 người trung cấp chính trị, có 04 người được bổ nhiệm thanh tra viên.
Theo quy chế làm việc của Thanh tra huyện Hoài Đức thì nhiệm vụ,
quyền hạn của từng công chức, thanh tra viên như sau:
Đối với Chánh thanh tra huyện: phụ trách chung, chịu trách nhiệm trước
Huyện ủy, HĐND, UBND huyện và Thanh tra Thành phố Hà Nội về hoạt động
của cơ quan Thanh tra huyện và kết quả công tác Thanh tra trên địa bàn huyện
Hoài Đức. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật Thanh
tra năm 2010 và Quy chế làm việc của Ủy ban nhân dân huyện Hoài Đức.
Đối với 2 Phó chánh thanh tra, một đồng chí được giao thường trực tiếp
công dân và giải quyết KNTC; phụ trách báo cáo công tác tiếp dân và giải
quyết KNTC; đôn đốc, kiểm tra việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị phản ánh của công dân. Tham gia các đoàn thanh tra, kiểm tra, giám sát
của Huyện ủy, HĐND, UBND huyện. Giải quyết khiếu nại, tố cáo, tham gia
hoặc làm trưởng đoàn thanh tra hành chính.
Phó chánh thanh tra thứ hai phụ trách việc xây dựng kế hoạch công tác
năm, kế hoạch thanh tra, kế hoạch PCTN. Trực tiếp phụ trách đôn đốc thực
hiện các kết luận, quyết định có hiệu lực pháp luật; theo dõi, tham mưu công
tác tổng hợp PCTN; tham gia giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo. Tham gia
40. 36
các đoàn thanh tra, kiểm tra, giám sát của Huyện ủy, HĐND, UBND huyện
hoặc trưởng đoàn thanh tra hành chính.
Về công chức, thanh tra viên cơ quan thanh tra huyện Hoài Đức căn cứ
vào tình hình thực tế, năng lực, chuyên môn được bố trí, phân công cụ thể:
- 01 Thanh tra viên được giao nhiệm vụ chủ yếu tham mưu giải quyết khiếu
nại, tố cáo và xác minh, kết luận các vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân.
- 01 Thanh tra viên được giao nhiệm vụ chính tham mưu cho Chánh
thanh tra trong lĩnh vực tài chính, tài sản của cơ quan; trực tiếp làm kế toán cơ
quan. Phụ trách tham mưu thanh tra lĩnh vực kinh tế, tài chính, tài sản kiêm
nhiệm Tổ trưởng công đoàn cơ quan Thanh tra.
- 01 đồng chí chuyên viên Phụ trách công tác văn phòng; mở sổ theo dõi
tổng hợp, phân loại, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, đề nghị, phản
ánh. Chịu trách nhiệm tham mưu xây dựng báo cáo kết quả công tác tháng,
quý, năm; các báo cáo chuyên đề. Trực tiếp tiếp công dân thường xuyên, đột
xuất vào thứ tư hàng tuần tại trụ sở tiếp công dân huyện.
- 01 nhân sự hợp đồng được giao phụ trách theo dõi việc thực hiện các
kết luận, quyết định có hiệu lực pháp luật. Tham mưu xây dựng kế hoạch đôn
đốc hàng năm và báo cáo liên quan đến thực hiện các quyết định có hiệu lực
pháp luật; PCTN và cải cách tư pháp.
- 01 nhân sự hợp đồng được giao tham mưu trong lĩnh vực thanh tra xây
dựng cơ bản; tham gia các vụ việc phối hợp với các ngành trong lĩnh vực giải
quyết đơn thư.
Ngoài ra, các công chức, thanh tra viên, nhân sự hợp đồng cơ quan thanh
tra đều phải tham gia giải quyết đơn thư KNTC, phối hợp tham gia các đoàn
kiểm tra, thanh tra, giám sát của Huyện ủy, HĐND, UBND huyện; các đoàn
thanh tra hành chính.
Quy chế cơ quan Thanh tra Hoài Đức cũng quy định rõ nhiệm vụ, quyền
hạn cụ thể đối với lãnh đạo cơ quan thanh tra trong quá trình lãnh đạo, điều
hành hoạt động cơ quan. Những nội dung do Chánh thanh tra quyết định bao
41. 37
gồm: Quyết định trong việc phân công nhiệm vụ công tác cho công chức trong
cơ quan do yêu cầu nhiệm vụ đặt ra; quyết định những vấn đề về tài chính, mua
sắm tài sản phục vụ công tác.
Chịu trách nhiệm ký các kết luận, thông báo, báo cáo về công tác thanh
tra cũng như giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo thuộc thẩm quyền. Kiểm tra
sửa các báo cáo xác minh, kết luận thanh tra do mình trực tiếp chỉ đạo trước khi
trình lãnh đạo huyện duyệt. Ký các công văn giấy tờ liên quan đến đôn đốc các
cơ quan hữu quan.
Đối với các Phó chánh thanh tra được được quyết định các vấn đề: Phân
công cán bộ trực tiếp giải quyết các vụ khiếu nại, tố cáo theo lĩnh vực được
phân công phụ trách; trực tiếp quyết định những nội dung khác trong lĩnh vực
phân công khi đồng chí Chánh thanh tra đi vắng hoặc ủy quyền và báo cáo lại
với đồng chí Thủ trưởng cơ quan; cùng bàn bạc, thống nhất với thủ trưởng cơ
quan những nội dung công việc thuộc về tập thể lãnh đạo.
Chịu trách nhiệm ký các văn bản, kết luận về công tác thanh tra cũng
như giải quyết đơn thư mà mình trực tiếp tham gia kiểm tra, xác minh. Kiểm
tra, chỉnh sửa các báo cáo xác minh, kết luận mà mình trực tiếp chỉ đạo trước
khi trình đồng chí Chánh thanh tra và lãnh đạo huyện ký. Ký các công văn giấy
tờ liên quan đến các cơ quan hữu quan khi đồng chí Chánh thanh tra đi vắng.
Thanh tra huyện Hoài Đức đã thường xuyên quan tâm đến công tác củng
cố tổ chức bộ máy thanh tra, xây dựng đội ngũ công chức thanh tra có trình độ
năng lực, xây dựng lập trường tư tưởng chính trị cho công chức, thanh tra viên,
đảng viên; thường xuyên quan tâm đến công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ
lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho công chức, chuyên viên; công
chức trong cơ quan đều thực hiện tốt nội dung 05 điều kỷ luật của ngành; triển
khai sâu rộng tới toàn thể cán bộ Đảng viên Chỉ thị số 345/CT-TTCP ngày
23/02/2012 của Tổng Thanh tra Chính phủ về đẩy mạnh học tập và làm theo
tấm đạo đức Hồ Chí Minh trong ngành Thanh tra.
42. 38
Công tác đào tạo, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cũng được tập thể
lãnh đạo cơ quan Thanh tra quan tâm. Việc đào tạo bồi dưỡng được tập trung
vào nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, những kiến thức bổ sung đảm
bảo cho công chức có đủ điều kiện, tiêu chuẩn cần thiết để bổ nhiệm vào ngạch
Thanh tra viên. Qua đó đã giúp đội ngũ công chức Thanh tra huyện được củng
cố tăng cường theo chiều sâu về chuyên môn, đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao. Kết quả cụ thể, từ năm 2011 đến năm 2015, cơ quan thanh tra Hoài
Đức đã cử 07 công chức đi học lớp thanh tra viên và đã được bổ nhiệm thanh
tra viên; cử 02 công chức là đảng viên đi học lớp Trung cấp lý luận chính trị -
Hành chính; cử 02 công chức đi học lớp cao cấp lý luận chính trị - Hành chính;
tạo điều kiện để 02 công chức tham gia chương trình đào tạo cao học Luật.
b. Một số hạn chế
Từ thực tiễn tổ chức bộ máy và công tác cán bộ của cơ quan thanh tra
huyện Hoài Đức cho thấy vẫn còn nảy sinh một số bất cập, hạn chế sau:
Trước hết, Văn bản của pháp luật quy định về tổ chức của Thanh tra huyện
có chỗ chưa phù hợp, rõ ràng gây khó khăn trong thực tiễn tổ chức bộ máy, cán
bộ. Cụ thể:
- Về vị trí, chức năng: Theo Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-TTCP-
BNV ngày 08/9/2014 thì Thanh tra huyện chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức,
biên chế và công tác của UBND cấp huyện; đồng thời chịu sự chỉ đạo về công
tác, hướng dẫn về nghiệp vụ của Thanh tra tỉnh. Với quy định này sẽ khiến
Thanh tra huyện không thể độc lập trong tổ chức và hoạt động như cơ quan
Tòa án và Kiểm sát nhân dân. Mọi hoạt động của cơ quan thanh tra sẽ chịu ảnh
hưởng, tác động không nhỏ từ UBND huyện, vì thế để thanh tra phát huy được
vị trí, chức năng của mình, không rơi vào hình thức thì phải có cơ chế để hoạt
động thanh tra đảm bảo được tính độc lập tương đối của mình.
- Về nhiệm vụ cụ thể: Cũng theo Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-
TTCP-BNV, Thanh tra cấp huyện còn có thêm nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra,
đôn đốc việc thực hiện các quyết định, kết luận có hiệu lực pháp luật.
Đối với nhiệm vụ này, dù đã có Thông tư số 01/2013/TT-TTCP ngày
43. 39
01/5/2013; Nghị định 33/2015/NĐ-CP ngày 27/3/2015 của Chính phủ quy định
về hoạt động theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị,
quyết định xử lý về thanh tra. Tuy nhiên, theo cả 2 văn bản trên thì đối tượng
đôn đốc không có các quyết định, kết luận giải quyết đơn thư KNTC; cơ quan
thanh tra cũng chỉ làm nhiệm vụ đôn đốc đơn thuần, biện pháp đôn đốc, kiểm
tra, giám sát còn chung chung; không quy định các chế tài đối với các đối
tượng chậm hoặc không thực hiện kết luận, đặc biệt là không có quy định về
trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành quyết định, dẫn tới hiệu quả đôn đốc việc
thực hiện kết luận, quyết định có hiệu lực pháp luật không cao, nhiều quyết
định, kết luận qua thời gian dài nhưng vẫn chưa thực hiện được dứt điểm.
Đối với việc thu hồi tiền về ngân sách nhà nước qua thanh tra, giải quyết
đơn thư, dù Thanh tra chính phủ và Ngân hàng nhà nước đã có Thông tư số
07/2015/TTLT-TTCP-NHNN ngày 25/11/2015 quy định về hướng dẫn việc
phong toả tài khoản của đối tượng thanh tra. Nhưng thực tế, để phong tỏa được
tài khoản của đối tượng phải thực hiện kết luận, quyết định có hiệu lực pháp
luật cũng không dễ dàng, do chưa có cơ sở pháp lý quy định chặt chẽ về trình
tự thủ tục phong tỏa tài khoản và thực tế hiện nay, huyện Hoài Đức cũng chưa
tiến hành phong tỏa được tài khoản của đối tượng nào.
- Về biên chế: Theo quy định của luật Thanh tra và các văn bản hướng
dẫn thi hành thì biên chế công chức của Thanh tra huyện được giao trên cơ sở
vị trí việc làm, gắn với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động và nằm trong
tổng biên chế công chức của huyện được cấp có thẩm quyền giao. Nhưng
không nêu là có bao nhiêu biên chế cụ thể, nhất là những huyện ở các thành
phố đặc thù như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Như vậy, biên chế của Thanh tra huyện là do chủ tịch UBND huyện
quyết định trong khi pháp luật thanh tra hiện nay chưa quy định cụ thể mức
biên chế với Thanh tra huyện nên việc quyết định nhân sự cho Thanh tra huyện
đang mang nặng tính cảm tính của Chủ tịch UBND huyện, trong khi thực trạng
chung của ngành thanh tra là số lượng biên chế ít và chất lượng công chức