SlideShare a Scribd company logo
1 of 90
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
CAO THỊ THỚI
ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
CAO THỊ THỚI
ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. HỒ SỸ SƠN
Hà Nội, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Hồ Sỹ Sơn. Các số liệu, ví dụ nêu trong Luận văn là hoàn
toàn trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào. Các thông tin và
tài liệu trích dẫn trong Luận văn được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Cao Thị Thới
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: CÁC CƠ SỞ CỦA ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN
NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN..........................................................................6
1.1. Cơ sở lý luận của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ....6
1.2. Cơ sở pháp lý của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản .18
1.3. Cơ sở thực tiễn của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
...............................................................................................................................35
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TẠI TỈNH LONG AN ................................................39
2.1. Khái quát tình hình xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh
Long An.................................................................................................................39
2.2. Thực tiễn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh
Long An.................................................................................................................40
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH
ĐÚNG TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN....................63
3.1. Các yêu cầu của định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản..........................................................................................................................63
3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản.....................................................................................................................66
KẾT LUẬN..............................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADPL :Áp dụng pháp luật
BLHS :Bộ luật hình sự
BLTTHS :Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT :Cơ quan điều tra
CTTP :Cấu thành tội phạm
HĐXX :Hội đồng xét xử
LDTNCĐTS :Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
PLHS :Pháp luật hình sự
TAND :Tòa án nhân dân
TNHS :Trách nhiệm hình sự
TTHS :Tố tụng hình sự
VKSND :Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số liệu phản ánh tình hình khởi tố, truy tố, xét xử tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Long An từ năm 2014-2018.
Bảng 2.2. Thống kê số các tội xâm phạm sở hữu mang tính chiếm đoạt trên địa bàn
tỉnh Long An từ năm 2014-2018.
Bảng 2.3. So sánh tỉ lệ các tội xâm phạm sở hữu mang tính chiếm đoạt với tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Long An từ năm 2014-2018
Bảng 2.4. Số liệu phản ánh tình hình trả hồ sơ điều tra bổ sung tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Long An từ năm 2014-2018
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự cho thấy, hiện nay các cơ
quan tiến hành tố tụng gặp khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh nói chung
nhất là các tội xâm phạm sở hữu nói riêng như tội cướp tài sản; tội cướp giật tài sản;
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (viết tắt LDTNCĐTS) và tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản…Có nhiều trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng có sự nhầm
lẫn giữa các tội danh này với nhau hay trường hợp phạm nhiều tội nhưng lại định tội
danh là một tội, hoặc không xác định được có sự chuyển hóa tội danh từ các tội
chiếm đoạt tài sản sang tội cướp tài sản. Từ đó, dẫn đến việc oan sai, bỏ lọt người
phạm tội, áp dụng mức hình phạt, loại hình phạt không đúng, gây dư luận không tốt,
giảm uy tín các cơ quan bảo vệ pháp luật và giảm hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
Tỉnh Long An là tỉnh nằm ở đồng bằng sông Cửu Long, thuộc vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam, cận kề với Tp. Hồ Chí Minh, có vai trò đặc biệt quan. Với
những thuận lợi đã đạt được, thì tình hình tội phạm không ngừng gia tăng, đặc biệt
là các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có tội LDTNCĐTS. Nhiều năm qua, công tác
khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án này tại tỉnh Long An cho thấy về cơ
bản việc định tội danh được thực hiện tương đối chính xác nhưng vẫn có một số
trường hợp giữa CQĐT, VKSND và TAND trong quá trình giải quyết vụ án xuất
hiện quan điểm khác nhau về định tội danh dẫn đến có vụ án phải trả hồ sơ nhiều
lần, kéo dài thời gian giải quyết và ảnh hưởng đến nhiều đối tượng do nhiều nguyên
nhân khác nhau mà đặc biệt từ chính hoạt động của các chủ thể định tội danh do
chưa nắm vững và nhận thức đúng những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội
danh nói chung và định tội danh tội LDTNCĐTS. Từ những thực trạng nêu trên cần
phải có sự nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện cả về mặt lý luận và thực tiễn
hoạt động định tội danh tội phạm. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp đảm bảo định
tội danh đúng tội phạm trong thực tiễn để hạn chế đến mức tối thiểu tình trạng
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội nhằm đảm bảo quyền con người
2
trong TTHS, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng như phù hợp với yêu cầu cải
cách của nền tư pháp nước ta hiện nay đã đặt ra. Chính vì những lý do nêu trên, tác
giả chọn đề tài“Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” làm đề tài luận văn nhằm góp
phần làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý cho việc định tội danh tội LDTNCĐTS được
áp dụng trong thực tiễn cho thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay có rất nhiều công trình khoa học liên quan đến đề tài của tác giả đã
được đề cập và công bố như: Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình lý luận chung về
định tội danh, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2003), Bình
luận khoa học Bộ luật Hình sự, Tập 2, NXB Tp. Hồ Chí Minh; Lê Văn Đệ (2004),
Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình luật hình sự Việt
Nam, Tập 2, NXB Công an nhân dân, Hà Nội…Ngoài ra, còn có các Luận văn Thạc
sĩ Luật học của nhiều tác giả liên quan đến vấn đề định tội danh nói chung và định
tội danh tội LDTNCĐTS theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
của nhiều tỉnh, thành phố của cả nước như: Hoàng Thị Kim Chi (2017) Định tội
danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật Việt
Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Thiện Tâm (2019) Định tội danh
từ thực tiễn huyện Cần Đước, tỉnh Long An; Đặng Xuân Sơn (2017) Định tội danh
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Thanh Hóa...Những công trình nghiên cứu, các bài viết, đề tài khoa học nêu trên
đều có giá trị về mặt lý luận khoa học và thực tiễn nhưng một số nội dung các đề tài
chỉ hướng đến việc phân tích, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về tội phạm
LDTNCĐTS trong mối quan hệ tách biệt hoàn toàn với những kiến thức lý luận về
định tội danh. Mặc dù, có rất nhiều công trình nghiên cứu về định tội danh nói
chung và định tội danh tội LDTNCĐTS nói riêng. Tuy nhiên, tác giả cho rằng một
số công trình nghiên cứu cách đây khá lâu nên không còn phù hợp với tình hình tội
phạm nước ta hiện nay về mặt giá trị lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, BLHS năm
3
2015 đã được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, trong đó những quy định
về phần chung cũng như phần các tội phạm có nhiều sửa đổi, bổ sung so với quy
định trong BLHS năm 1999 nhưng chưa có công trình, đề tài nghiên cứu nào xem
xét vấn đề định tội danh tội LDTNCĐTS ở góc độ hoàn chỉnh, toàn diện từ tỉnh
Long An. Những giá trị lý luận và thực tiễn của những công trình, kết quả nghiên
cứu đã công bố là một trong những nguồn tài liệu quan trọng mà tác giả có thể vận
dụng, tham khảo để hoàn thiện cho luận văn cuối khóa của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về định tội danh, các quy định của
pháp luật hình sự về tội LDTNCĐTS và thực tiễn định tội danh này tại tỉnh Long
An, luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm việc định tội danh đúng tội
LDTNCĐTS ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích những vấn đề lý luận về định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản;
Phân tích những quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản;
Phân tích, đánh giá thực trạng định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Long An;
Đề xuất các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu quan điểm khoa học, các quy định của BLHS
Việt Nam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và thực tiễn định tội danh tội
này trên địa bàn tỉnh Long An nhằm tìm ra những khó khăn, vướng mắc trong định
tội danh tội LDTNCĐTS, đề xuất các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội
LDTNCĐTS ở nước ta.
4
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự và tố tụng
hình sự. Về mặt thực tiễn, đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp số
liệu xét xử các vụ án LDTNCĐTS của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Long An trong
thời gian 05 năm từ năm 2014 đến 2018. Đây là nguồn tư liệu quan trọng giúp cho
việc phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động định tội danh tội LDTNCĐTS đảm
bảo được tính chính xác, độ tin cậy cao và từ đó đưa ra một số giải pháp bảo đảm
cho việc định tội danh nêu trên một cách có hiệu quả nhất trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tội
phạm, về hình phạt, về đấu tranh phòng, chống tội phạm, về cải cách tư pháp…
Đồng thời, đề tài còn được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp
nghiên cứu cụ thể khác nhau như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh, phương pháp nghiên cứu điển hình nhằm làm rõ nội dung các
vấn đề cần trình bày nêu trên và đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng định
tội danh về tội phạm này trên địa bàn tỉnh Long An một cách có hiệu quả nhất.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nghiên cứu đề tài luận văn sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận có liên
quan đến hoạt động định tội danh tội LDTNCĐTS trên địa bàn tỉnh Long An nói
riêng và cho cả nước nói chung. Ngoài ra, việc nghiên cứu của luận văn còn có ý
nghĩa rất lớn, có thể được vận dụng như một tài liệu tham khảo trong quá trình
nghiên cứu, giảng dạy đối với các cán bộ công tác thực tiễn, đặc biệt là cán bộ làm
công tác xét xử sẽ giúp ích một phần nào cho việc vận dụng vào quá trình giải quyết
các vụ án đã và đang xảy ra trong thực tế.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và được
kết cấu gồm ba chương.
5
Chương 1. Các cơ sở của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản;
Chương 2. Thực trạng định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản tại tỉnh Long An;
Chương 3. Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
6
Chương 1
CÁC CƠ SỞ CỦA ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Cơ sở lý luận của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của định tội danh tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.1.1.1. Khái niệm định tội danh
Theo khoa học luật hình sự, BLHS là văn bản pháp lý duy nhất quy định về
tội phạm và hình phạt. Chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong BLHS với tên gọi cụ thể mới được xem là tội phạm và phải chịu hình phạt. Có
thể xác định định tội là xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy
hiểm cho xã hội đã xảy ra với các dấu hiệu tương ứng trong quy phạm PLHS sẽ trở
thành khuôn mẫu pháp lý làm cơ sở cho người tiến hành tố tụng để có thể so sánh,
đối chiếu với những hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra trên thực tế, từ đó xác
định được người phạm tội đã phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của BLHS.
Tuy nhiên, khái niệm và đặc điểm định tội danh, chưa được quy định trong phần
chung của BLHS năm 2015. Hiện nay, các luật gia, các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất
nhiều định nghĩa khác nhau về định tội danh:
Quan điểm khác cho rằng“Định tội danh là quá trình nhận thức lý luận có
tính logic, là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ,
tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù
hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các
dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định,nhằm đạt
được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp
lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình một cách
công minh, có căn cứ và đúng pháp luật” [9, tr.716].
7
Theo quan điểm nêu trên, thì định tội danh trước hết là quá trình nhận thức lý
luận có tính logic, có nghĩa là khi tiến hành định tội danh phải tuân theo các quy
luật nhận thức nhất định, là hoạt động thực tiễn ADPLHS, hoạt động này là do các
chủ thể có thẩm quyền tiến hành theo quy định và được tiến hành trên cơ sở các
chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự được
thu thập theo đúng quy định của PLTTHS, để xác định sự phù hợp giữa các dấu
hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP
tương ứng do LHS quy định nhằm đạt được sự thật khách quan.
Từ khái niệm chung này, cần nêu khái niệm định tội danh tội LDTNCĐTS.
Hoạt động định tội danh nói chung và định tội danh tội LDTNCĐTS nói riêng là
tổng hợp các quy định của PLHS và pháp luật TTHS nhằm đảm bảo cho việc xác
định chính xác hành vi của người phạm tội thỏa mãn CTTP quy định tại Điều,
Khoản nào của BLHS, là cách thức mà các chủ thể lựa chọn các quy phạm tương
ứng để điều chỉnh hành vi cũng như các quy định của pháp luật TTHS về trình tự,
thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử cần áp dụng để việc truy cứu TNHS người
phạm tội được tiến hành nhanh chóng, chính xác, khách quan. Tội LDTNCĐTS là
một trong những tội phạm khá phổ biến và xảy ra trong thực tiễn cuộc sống nhất là
trong lĩnh vực dân sự và được PLHS qua các thời kỳ xác định là tội phạm bằng
nhiều quy định khác nhau. Khi chưa có BLHS năm 1985 thì việc xử lý tội phạm
LDTNCĐTS được thực hiện thông qua các văn bản pháp luật riêng lẻ được Nhà
nước ban hành, điển hình là hai Pháp lệnh được ban hành năm 1970 gồm Pháp lệnh
trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội
xâm phạm tài sản công dân. Thời điểm này, tội LDTNCĐTS được xác định là hành
vi“bội tín” cho đến khi BLHS Việt Nam đầu tiên được ban hành năm 1985 đã quy
định về tội danh này mới được sửa đổi và thống nhất với tên gọi là tội LDTNCĐTS
nhưng có sự tách biệt ở hai điều luật cụ thể tương ứng với các hình thức sở hữu tài
sản và được Nhà nước ưu tiên bảo vệ ở các mức độ khác nhau mức hình phạt áp
dụng với quy định về tội LDTNCĐTS của Nhà nước nặng hơn so với quy định hình
phạt áp dụng hành vi phạm tội LDTNCĐTS của công dân. Đến khi BLHS năm
8
1999 có hiệu lực quy định tại Điều 140 đã đánh dấu cột mốc quan trọng quy định
thống nhất hành vi của người phạm tội LDTNCĐTS của công dân, của Nhà nước
trong một tội danh. Trước yêu cầu đổi mới của đất nước và hội nhập quốc tế, Quốc
hội đã ban hành luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS năm 1999 theo hướng
quy định nâng cao giá trị định lượng đối với tài sản bị chiếm đoạt từ một triệu đồng
lên mức bốn triệu đồng. Để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập cũng như
phù hợp với tình hình thực tiễn về phát triển kinh tế – xã hội nên BLHS năm 2015
ra đời đánh dấu một bước tiến mới trong kỹ thuật lập pháp
Tội LDTNCĐTS được thực hiện bằng những hành vi cụ thể, bao gồm: “Vay,
mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng
các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối. Vay, mượn, thuê tài sản của
người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và
đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại
tài sản”. Tuy nhiên, muốn đảm bảo tính chính xác khi xây dựng khái niệm về tội
LDTNCĐTS cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa quy định về tội phạm nói chung tại
Khoản 1 Điều 8 BLHS và Điều 175 BLHS năm 2015. Khoản 1 Điều 8 BLHS năm
2015 quy định “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hoá…”[29, tr.13]. Đây là khái niệm đầy đủ và hoàn chỉnh về mặt khoa học, nội
dung cũng như hình thức, thể hiện đầy đủ các đặc trưng của tội phạm, là cơ sở cho
việc xây dựng và hoàn thiện các quy định về CTTP với từng tội danh cụ thể. Hiện
nay hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận hành vi LDTNCĐTS
trong BLHS cũng giống như ở nước ta là quy định hình phạt tương ứng với hành vi
này ở các mức độ khác nhau như: BLHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
không ghi nhận trực tiếp về tội phạm này nhưng tại Điều 270 quy định “Người nào
chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác được người đó nhờ bảo quản với số
lượng tương đối lớn và không chịu hoàn trả người đó thì bị phạt....” [16, tr.172].
9
Theo Đề cương bài giảng luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học An ninh nhân
dân định nghĩa“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt toàn
bộ hay một phần tài sản được giao trên cơ sở hợp đồng đã được giao kết giữa chủ
tài sản và người có hành vi chiếm đoạt” [46, tr.120]. Theo bình luận khoa học
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) của TS Trần Văn Biên và TS Đinh
Thế Hưng đưa ra định nghĩa“ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi
chiếm đoạt bằng thủ đoạn vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được
tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối
hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó, hoặc, đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có
điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích
bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản” [4, tr.226]; hay theo bình
luận khoa học phần chung BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) của luật
gia Nguyễn Ngọc Điệp biên soạn khái niệm“ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản, được hiểu là hành vi sau khi vay, mượn, thuê hoặc nhận được tài sản của
người khác bằng các hình thức hợp đồng đã dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn
để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả
năng nhưng cố tình không trả hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp
dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản” [15, tr.121].
Tóm lại, theo quan điểm tác giả cho rằng khái niệm“tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi sau khi vay, mượn, thuê tài sản hoặc nhận
được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng đã dùng thủ đoạn gian dối
hoặc đến thời hạn trả lại mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả lại
tài sản hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có
khả năng trả lại tài sản”.
Khi chúng ta nêu được khái niệm tội LDTNCĐTS có ý nghĩa quan trọng cho
việc nghiên cứu và tiếp cận các vấn đề có liên quan đến việc định tội danh đối với
tội phạm này ở phần sau, góp phần làm rõ về mặt lý luận trong việc định tội danh
đối với tội phạm này ở nhiều phương diện khác nhau mà đặc biệt góp phần làm rõ
về các yếu tố CTTP này.
10
1.1.1.2. Đặc điểm của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản
Trước hết, định tội danh tội LDTNCĐTS được tiến hành bởi những chủ thể
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, là hoạt động có tính logic được tiến
hành bởi các cơ quan có tiến hành tố tụng gồm CQĐT, VKS, TA và một số cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thông qua những người tiến
hành tố tụng thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ được quy định cụ thể trong
BLTTHS năm 2015. Các chủ thể này ngoài việc được trang bị vốn kiến thức nhất
định về pháp luật còn được phép sử dụng tất cả các công cụ cần thiết cũng như biện
pháp nghiệp vụ mà pháp luật cho phép trên cơ sở trình tự, thủ tục được pháp luật
TTHS quy định để xác định sự tương thích giữa hành vi phạm tội và dấu hiệu cấu
thành của tội LDTNCĐTS, trên cơ sở đó có quyết định đúng đắn về mặt tội danh
đối với người phạm tội để đưa ra mức hình phạt hợp lý.
Thứ hai, định tội danh tội LDTNCĐTS là hoạt động ADPL trong thực tiễn
được tiến hành bởi các chủ thể tiến hành tố tụng và một số chủ thể có thẩm quyền
khác theo quy định của pháp luật TTHS, là quá trình phức tạp đòi hỏi khi thực hiện
phải có sự hỗ trợ tích cực từ các biện pháp nghiệp vụ cần thiết. Do vậy, muốn đảm
bảo tính chính xác trong việc định tội danh tội LDTNCĐTS thì hoạt động này phải
được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm CQĐT, VKS,
Tòa án và một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra theo quy định của pháp luật. Phải xác định có hành vi nguy hiểm cho xã hội hay
không. Việc xác định có hành vi phạm tội LDTNCĐTS xảy ra hay không là rất khó.
Cho nên các chủ thể có thẩm quyền cần áp dụng các biện pháp, kết hợp với kỹ
năng, kinh nghiệm nghề nghiệp, vốn kiến thức lý luận và thực tiễn để đưa ra kết
luận hành vi có dấu hiệu tội phạm hay không hay chỉ đơn thuần là những vi phạm
dân sự, lẽ ra họ là bị đơn trong vụ án dân sự hay vụ án kinh doanh thương mại.
Thứ ba, định tội danh tội LDTNCĐTS là việc ADPLHS vào thực tiễn bởi các
chủ thể tiến hành tố tụng bằng việc ban hành các văn bản, quyết định tố tụng nhằm
11
mục đích giải quyết vụ án hình sự phù hợp với các quy phạm PLHS và các quy
phạm pháp luật TTHS.
Thứ tư, mục đích của việc định tội danh tội LDTNCĐTS là xác định chính
xác người thực hiện hành vi phạm tội, phạm tội gì, thuộc điều, khoản nào được quy
định trong BLHS nhằm buộc họ phải chịu TNHS, hình phạt tương xứng với tính
chất, mức độ nguy hiểm và hậu quả của hành vi phạm tội đã gây ra.
1.1.1.3.Ý nghĩa của việc định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản
Định tội danh đúng tội LDTNCĐTS sẽ giúp cho việc điều tra, truy tố, xét xử
tội phạm này có căn cứ; là cơ sở để áp dụng đúng các quy định TTHS, đảm bảo việc
truy cứu TNHS đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội góp phần nâng cao uy tín, chất lượng của các cơ quan ngành
tư pháp mà đặc biệt là Tòa án án.
Định tội danh đúng tội LDTNCĐTS là tiền đề cho việc quyết định hình phạt
đảm bảo tính chính xác; thể hiện ý thức tuân thủ pháp luật, trình độ chuyên môn,
hiệu quả hoạt động của cơ quan, người tiến hành tố tụng nhưng quan trọng nhất là
Thẩm phán trong việc ban hành quyết định, bản án thật sự nghiêm minh, công bằng
và đúng pháp luật.
Định tội danh đúng tội LDTNCĐTS sẽ giúp cho việc ADPL một cách đúng
quy định, đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà
người phạm tội thực hiện được quy định tại Điều 175 BLHS năm 2015.
Định tội danh sai hậu quả tất yếu là quyết định hình phạt sẽ sai, làm cho hình
phạt đã tuyên không phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi nguy hiểm cho xã
hội, làm cho người bị kết án không thấy được lỗi do hành vi mà mình thực hiện. Từ
đó, không tự giác tuân thủ pháp luật, không thuyết phục quần chúng nhân dân về
tính đúng đắn và tính nghiêm minh của bản án, làm giảm tính tuyên truyền và giáo
dục pháp luật của bản án.
Tóm lại, định tội danh đúng có ý nghĩa chính trị - xã hội và pháp lý là đảm
bảo quyền con người và công bằng xã hội, là kênh hiện thực hóa chính sách hình sự
12
vào thực tiễn, là yếu tố bảo đảm chính xác tình hình tội phạm trong một không gian,
thời gian nhất định.
1.1.2. Chủ thể, các giai đoạn và các trường hợp định tội danh tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.1.2.1. Chủ thể của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Từ việc nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn thấy rằng, định tội danh tội
LDTNCĐTS do bởi các chủ thể là cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành. Theo qui
định tại Khoản 1 Điều 34 BLTTHS năm 2015, thì chủ thể tiến hành định tội danh
gồm: CQĐT, VKS, Tòa án và một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ như: Bộ đội
biên phòng; Hải quan; Kiểm lâm; Các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển; Các cơ
quan của Kiểm ngư; Các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra; Các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Các cơ quan cụ thể được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được quy định tại Khoản 1 Điều 35
BLTTHS năm 2015 [32, tr.25, 26,27,28]. Bên cạnh đó, còn có các cán bộ khoa học,
tác giả các bài viết, bài báo, giảng viên, sinh viên luật hay bất kỳ một người nào
quan tâm, có kiến thức pháp luật cũng có thể tiến hành định tội danh. Các chủ thể
trên có đặc điểm chung là khi tiến hành định tội danh cũng thực hiện việc lựa chọn
và so sánh các dấu hiệu của quy phạm pháp luật với thực tế khách quan để làm cơ
sở cho sự xác định sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội với CTTP cụ thể.
Người tiến hành tố tụng khi tiến hành định tội danh sẽ có ưu thế hơn với các chủ thể
khác vì họ có điều kiện tiếp cận và nắm chính xác, cụ thể các tình tiết khách quan
của vụ án nên định tội danh sẽ chính xác và phản ánh được bản chất của vụ án hình
sự, còn định tội danh do các chủ thể khác chỉ là sự thể hiện ý kiến cá nhân, quan
điểm pháp lý nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong quá trình nghiên cứu pháp luật.
1.1.2.2. Các giai đoạn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản
Để bảo đảm định tội danh đúng cần tiến hành theo trình tự nhất định, gồm
các giai đoạn:
13
Thứ nhất, xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội
Là một trong những bước rất quan trọng của định tội danh, bởi vì hành vi
xảy ra như thế nào nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của định tội danh cho nên các
chủ thể có thẩm quyền cần phải vận dụng kiến thức lý luận, thực tiễn và kết hợp
những kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp để đưa ra kết luận hành vi có dấu hiệu tội
phạm hay là những vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế. Chính vì thế, các chủ thể cần
phải xác định tầm quan trọng của thu thập, kiểm tra, đánh giá toàn diện chứng cứ
chứng minh sự thật của vụ án.
Các chủ thể khi xác định sự thật khách quan của vụ án, khi tiến hành điều tra,
truy tố và xét xử phải đảm bảo sự vô tư, khách quan, không suy diễn hay định kiến,
mà phải dựa vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập hợp pháp, đúng trình tự pháp luật và
được kiểm tra, phân tích, đánh giá theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, nhận thức nội dung của các quy định trong BLHS một cách đúng
đắn
Một hành vi phạm tội được xác định do chủ thể có năng lực TNHS và độ tuổi
mà BLHS đã quy định khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì cần tiến hành
đối chiếu, so sánh các dấu hiệu pháp lý đặc trưng, nhận định mức độ liên quan và sự
phù hợp giữa hành vi diễn ra trên thực tế với các yếu tố CTTP xem có thỏa mãn cấu
thành tội LDTNCĐTS hay không? Nếu có thì thuộc Điểm, Khoản, Điều 175 của
BLHS năm 2015.
Khi ban hành BLHS, nhà làm luật đã đánh giá một cách toàn diện tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi tương ứng, quy định chế tài áp
dụng đối với từng loại hành vi cũng như hiệu quả đạt được khi áp dụng các chế tài.
Từ thực tiễn ADPLHS cho thấy còn nhiều khó khăn, vướng mắc về định tội danh
tội LDTNCĐTS và quyết định hình phạt đối với các loại tội xâm phạm sở hữu có
tính chiếm đoạt và các tội xâm phạm sở hữu không mang tính chiếm đoạt dễ dẫn
đến sự nhằm lẫn định tội danh giữa tội này với tội khác.
Thứ ba, xác định mối quan hệ giữa các dấu hiệu thực tế và các dấu hiệu
được quy định trong luật, trên cơ sở đó rút ra kết luận
14
Đây là bước quan trọng nhất của quá trình định tội danh. Các dấu hiệu của
tội phạm được quy định trong luật và các tình tiết thực tế của vụ án là hai nhóm hiện
tượng được hợp nhất, thống nhất trong quá trình định tội danh. Do đó, để định tội
danh đúng, sau khi xác định sự thật khách quan của vụ án và tìm hiểu, phân tích các
quy phạm PLHS để nhận thức đúng đắn, sâu sắc nội dung của nó nhằm lựa chọn
đúng quy phạm PLHS tương ứng đã thoả mãn quy định tại Điều, Khoản nào của
BLHS năm 2015.
Thứ tư, đưa ra kết luận
Trong từng giai đoạn tố tụng của từng cơ quan tiến hành tố tụng đối với vụ
án hình sự thì sẽ kết luận về hành vi phạm tội gì, phải ban hành các văn bản tố tụng
khác nhau và phải tương ứng với từng giai đoạn tố tụng như CQĐT ban hành Quyết
định khởi tố, Quyết định không khởi tố…Viện kiểm sát ban hành Quyết định phê
chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định, lệnh của CQĐT…, Tòa án, thì ban hành
Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam, xử lý vật
chứng…[32, tr.29, 40, 45].
Như vậy, định tội danh tội LDTNCĐTS phải được thực hiện bởi các giai
đoạn nêu trên. Do đó, đòi hỏi người ADPL mà đặc biệt là Thẩm phán – Chủ tọa
phiên tòa phải cân nhắc, am hiểu pháp luật mới thực hiện tốt mới đảm bảo cho việc
định tội danh đúng và ban hành quyết định, bản án đúng người, đúng tội, nghiêm
minh và có hiệu quả cao trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
1.1.2.3. Các trường hợp định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản
* Định tội danh theo CTTP cơ bản
Các trường hợp phạm tội cụ thể của loại tội nhất định đều có những nội dung
biểu hiện giống nhau ở cả bốn yếu tố của tội phạm. Đây là những dấu hiệu chung,
đặc trưng của loại tội phạm đó và tổng hợp những dấu hiệu này chính là CTTP. Như
vậy, “cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho
loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự” [47, tr.53].
15
Theo như Giáo sư.Tiến sĩ.Võ Khánh Vinh xác định “Cấu thành tội phạm là
cơ sở pháp lý duy nhất của việc định tội danh, là mô hình pháp lý có các dấu hiệu
cần và đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự” [51, tr.68].
Cấu thành tội phạm cơ bản là CTTP chứa đựng các dấu hiệu đặc trưng, có ở
mọi trường hợp phạm tội của một loại tội. Cấu thành tội phạm cơ bản thể hiện đầy
đủ tính nguy hiểm cho xã hội của loại tội phạm đó và cho phép phân biệt với loại tội
phạm khác và chứa đựng yếu tố định tội nhằm xác định tội phạm là hành vi đã đến
mức là tội phạm và phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác. Đây là CTTP
được thể hiện ở Khoản 1 của đa số các tội phạm của BLHS năm 2015. Cấu thành tội
phạm có ý nghĩa rất quan trọng và là cơ sở pháp lý của định tội danh [51, tr.68,69].
* Định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng
Cấu thành tội phạm tăng nặng là cấu thành tội phạm bao gồm các dấu hiệu
định tội và những dấu hiệu khác phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm tăng lên đáng kể.
Định tội danh theo CTTP tăng nặng là việc định tội danh theo các dấu hiệu
định khung tăng nặng hay nói cách khác đó là các tình tiết định khung tăng nặng
TNHS được quy định tại các Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 Điều 175 BLHS năm
2015 của tội LDTNCĐTS.
Có thể nói, tội phạm được thực hiện bởi những con người cụ thể khác nhau
với những tình tiết, diễn biễn không giống nhau, để có căn cứ xác định mức độ nguy
hiểm của một tội phạm một cách chính xác và triệt để đáp ứng yêu cầu của nguyên
tắc phân hoá TNHS và cá thể hoá hình phạt, Điều 50 BLHS năm 2015 đã quy định
rõ một trong những căn cứ Toà án phải cân nhắc khi quyết định hình phạt là các tình
tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS nhưng khái niệm tình tiết tăng nặng TNHS lại
chưa được nhà làm luật ghi nhận trong BLHS năm 2015. “Các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự là những tình tiết trong một vụ án cụ thể làm tăng mức độ
nghiêm trọng của hành vi phạm tội và người phạm tội phải chịu một hình phạt
nghiêm khắc hơn trong một khung hình phạt”, theo tác giả Đinh Văn Quế [26, tr.
236,237];
16
Tòa án khi áp dụng các tình tiết tăng nặng đối với người phạm tội “phải làm
sáng tỏ ý thức chủ quan của người phạm tội để xét trường hợp này họ có phải thấy
trước hoặc có thể thấy trước được tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hay
không, thì mới được áp dụng tình tiết tăng nặng đó đối với họ” [26, tr. 239];
Đối với tội phạm trong vụ án LDTNCĐTS có thể có một tội phạm hoặc
nhiều tội phạm, một người phạm tội hoặc nhiều người phạm tội, nên việc xác định
tình tiết định tội và tình tiết tăng nặng TNHS chỉ trong phạm vi một tội phạm cụ thể
mà không được sử dụng tình tiết định tội của tội phạm này làm tình tiết tăng nặng
TNHS của tội phạm khác cũng như tình tiết tăng nặng của người phạm tội này làm
tình tiết tăng nặng TNHS cho người phạm tội khác và có tính chất hỗ trợ cho các
dấu hiệu CTTP để xác định chính xác, rõ ràng, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm. Cấu thành tội phạm nói chung và cấu thành tội LDTNCĐTS theo quy
định tại Điều 175 BLHS năm 2015 với tình tiết tăng nặng TNHS thể hiện mối quan
hệ giữa tính khái quát của PLHS và tính cụ thể của hoạt động ADPLHS.
* Định tội danh trong trường hợp đặc biệt
Định tội danh trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Theo bình luận khoa học BLHS năm 2015 của TS. Trần Văn Biên và Đinh
Thế Hưng đã liệt kê các hành vi coi là hành vi chuẩn bị phạm tội gồm:“Tìm kiếm,
sửa soạn công cụ, phương tiện tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm
và thành lập tham gia nhóm tội phạm” [4, tr. 26].
Chuẩn bị phạm tội là người phạm tội có những hành vi tạo ra điều kiện cần
thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó và
không phải hành vi chuẩn bị phạm tội nào cũng bị truy cứu TNHS.
Về TNHS ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội:
Theo quy định của BLHS năm 1999 đã quy định người chuẩn bị phạm tội
chỉ phải chịu TNHS về tội rất nghiêm trọng, hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, là giai
đoạn đầu của quá trình phạm tội. Nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm cho hành vi
xã hội còn rất thấp, khách thể chưa bị xâm phạm, hậu quả chưa xảy ra. Để xác định
người chuẩn bị phạm tội đối với tội LDTNCĐTS có bị truy cứu TNHS hay không,
17
thì tại phần chung của BLHS năm 2015 quy định 02 điều luật về chế định “chuẩn bị
phạm tội”, đó là Điều 14 và Điều 57 BLHS năm 2015. Theo Điều 14 BLHS năm
2015, thì“chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra
những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội
phạm trừ trường hợp quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a
khoản 2 Điều 299”. Đồng thời, theo Khoản 2 Điều 14 BLHS năm 2015 đã liệt kê
các tội phạm mà người phạm tội phải chịu TNHS trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội,
gồm 25 tội. Ngoài 25 trường hợp đã được liệt kê thì đối với các tội phạm khác mà
người phạm tội mới chuẩn bị phạm tội thì không bị truy cứu TNHS. Như vậy,
BLHS năm 2015 không có quy định giai đoạn chuẩn bị phạm tội đối với tội
LDTNCĐTS [29, tr. 17].
Định tội danh trong trường hợp phạm tội chưa đạt
Phạm tội chưa đạt là“cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được
đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm tội
chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt" [29, tr. 18].
Như vậy, phạm tội chưa đạt là giai đoạn thứ hai của quá trình phạm tội thể
hiện mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn giai đoạn đầu là chuẩn bị phạm tội.
Trường hợp phạm tội chưa đat, chủ thể đã thực sự bắt tay vào việc thực hiện
tội phạm, các quan hệ xã hội được LHS xác lập và bảo vệ đã bắt đầu bị xâm hại,
hậu quả đã gây ra cho xã hội, nên mức độ nguy hiểm cho xã hội của trường hợp này
rõ ràng cao hơn so với trường hợp chuẩn bị phạm tội. Đồng thời, sẽ đặc biệt nguy
hiểm hơn nếu không có căn cứ “do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn” ngăn
chặn lại việc tiếp tục để hành vi phạm tội đó tiếp diễn [4, tr. 27, 28].
Như vậy, trường hợp phạm tội chưa đạt đối với tội LDTNCĐTS cũng được
áp dụng để xử lý TNHS, vì đây là tội phạm có cấu thành vật chất, người phạm tội đã
thực hiện hành vi khách quan hoặc hành vi đi liền trước hành vi khách quan là dùng
thủ đoạn gian dối để chiếm cho bằng được tài sản của chủ sở hữu hoặc người đang
quản lý tài sản tuy hậu quả chưa xảy ra, tội phạm không thực hiện đến cùng là chưa
hoàn thành vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của tội phạm.
18
Định tội danh trong trường hợp đồng phạm
Tội phạm xảy ra có thể do một chủ thể thực hiện, cũng có thể nhiều chủ thể
khác nhau tham gia thực hiện.BLHS năm 1999 khẳng định kế thừa và phát triển chế
định đồng phạm trong các BLHS trước đó thể hiện“Đồng phạm là trường hợp có
hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. [29, tr.18]. Tại Điều 17 BLHS
năm 2015 lại tiếp tục quy định về đồng phạm nhưng đã bổ sung thêm Khoản 4
“người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của
người thực hiện”. Để xác định tội LDTNCĐTS khi thực hiện có đồng phạm hay
không có thể dựa vào dấu hiệu mặt chủ thể, chủ quan và mặt khách quan của tội
phạm đó. Khoa học luật hình sự và thực tiễn áp dụng các quy định của PLHS từ
trước đến nay đều dựa vào dấu hiệu chủ quan và khách quan để phân loại các hình
thức đồng phạm [4, tr. 30].
Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội
Hiện nay khái niệm về phạm tội nhiều lần chưa được quy định tại Điều luật
cụ thể nào trong BLHS năm 2015, chỉ quy định tại Điều 55 về quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội.
Phạm nhiều tội là trường hợp một người thực hiện hai tội phạm trở lên được
định tội danh độc lập và hai tội này chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS và đưa ra xét
xử một lần. Phạm nhiều tội là trường hợp một chủ thể phạm từ hai tội trở lên, theo
đó mỗi một tội trong số đó được thực hiện ở những thời gian khác nhau hoặc khi
hành vi của người phạm tội có dấu hiệu của từ hai tội trở lên mà những tội ấy được
quy định tại các điều luật khác nhau hoặc các khoản khác nhau của cùng một điều
luật nếu các đối tượng của tội phạm khác nhau được quy định trong phần các tội
phạm của BLHS và người phạm tội chưa bị xét xử về tội nào trong số tội đó.
1.2. Cơ sở pháp lý của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản
1.2.1. Các quy định khác thuộc phần chung của Bộ luật hình sự được áp
dụng để định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Phần chung của BLHS năm 2015 gồm 12 chương. Trong phần chung của
BLHS có các Điều luật liên quan đến việc định tội danh tội LDTNCĐTS như: Khái
19
niệm tội phạm (Điều 8); Tuổi chịu TNHS (Điều 12); Phạm tội chưa đạt (Điều
15)...phần chung BLHS không nêu hết các dấu hiệu cụ thể của bất kỳ một hành vi
phạm tội nào, nhưng khi định tội, nhà làm luật phải đồng thời dựa vào cả hai nhóm
quy phạm hình sự này vì, quy phạm phần chung và quy phạm phần các tội phạm có
mối liên hệ hữu cơ với nhau và định tội danh chính là sự lựa chọn một quy phạm cụ
thể đề cập đến một trường hợp cụ thể, vì thế việc áp dụng quy phạm phần các tội
phạm phải dựa trên những quy phạm chung và nguyên tắc được quy định ở phần
chung BLHS, các dấu hiệu của CTTP, về các giai đoạn của tội phạm; về đồng
phạm…Ngoài ra, khi cơ quan tiến hành tố tụng định tội danh tội LDTNCĐTS còn
phải căn cứ vào Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP, hướng dẫn, áp dụng một số quy định
của BLHS năm 1999 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, Thông tư số hướng dẫn
thi hành BLHS.
1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản
Tội phạm nói chung và tội LDTNCĐTSlà loại tội phạm thể hiện bản chất của
hành vi phạm tội. Cho nên khi xây dựng quy định này, nhà làm luật đã cụ thể hóa
tối đa các hành vi mà chủ thể phạm tội có thể thực hiện. Tại Điều 175 BLHS năm
2015 quy định như sau:
1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản
của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới
4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt
hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168,
169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật hình sự, chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài
sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người
khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó
20
hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình
không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người
khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp
pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm
đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm
đến 12 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng;
b) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt
tù từ 12 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Để tìm hiểu rõ CTTP của tội LDTNCĐTS, thì chúng ta cần phân tích các dấu
hiệu pháp lý của tội này.
1.2.2.1. Cấu thành tội phạm cơ bản của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản
Mỗi tội phạm đều có những đặc trưng khác nhau và được quy định khác biệt
trong BLHS năm 2015. Định tội danh là hoạt động của các chủ thể tiến hành tố tụng
21
trong quá trình thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, đi tìm sự tương thích giữa
hành vi với các yếu tố cấu thành được ghi nhận trong BLHS nên để tội danh tội
LDTNCĐTS được chính xác, toàn diện phải xác định đầy đủ các yếu tố cụ thể sau:
* Khách thể của tội phạm
Bất kỳ hoạt động nào của con người cũng nhằm vào những khách thể cụ thể,
tồn tại ngoài ý thức, độc lập với ý thức của chủ thể và hoạt động phạm tội cũng vậy.
Nhưng điều khác nhau cơ bản đó là hoạt động phạm tội không phải là để cải biến
mà gây thiệt hại cho chính khách thể và những khách thể đó được luật hình sự bảo
vệ [47, tr.62].
Đối tượng tác động của tội phạm là tài sản bao gồm: vật, tiền [4, tr.226]. Mỗi
hành vi phạm tội sẽ xâm phạm đến những quan hệ xã hội khác nhau được luật hình
sự bảo vệ và tội phạm nào cũng xâm phạm đến ít nhất một khách thể, nếu như hành
vi không xâm phạm bất cứ khách thể nào không được xem là tội phạm và không
thực hiện việc truy cứu TNHS. Tội LDTNCĐTS xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài
sản của chủ sở hữu được pháp luật bảo vệ. Đối tượng của tội phạm này được xác
định là tài sản, bao gồm vật, tiền, quyền, giấy tờ có giá và quyền tài sản theo quy
định tại Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 [28,
tr. 62]. Tuy nhiên, để trở thành đối tượng của tội phạm này thì tài sản phải thỏa mãn
những đặc điểm nhất định sau:
Tài sản phải là vật chất và có giá trị sử dụngphải đang có chủ sở hữu và có
thể chuyển dịch trong giao lưu dân sự. Quyền sở hữu tài sản phải là hợp pháp và
được pháp luật công nhận, bảo vệ, đó cũng phải là tài sản mà có thể đem ra giao
dịch, mua bán, trao đổi trên thị trườngthỏa mãn được các nhu cầu vật chất và tinh
thần của con người mới được xem là đối tượng tác động của tội LDTNCĐTS,
ngược lại những tài sản không có hoặc không còn giá trị sử dụng không thể trở
thành đối tượng tác động của tội phạm này. [49, tr 164, 165].
Để xác định một người phạm vào tội này, hành vi của người đó phải đã thỏa
mãn các dấu hiệu cơ bản nêu trên. Đồng thời, các dấu hiệu này cũng là cơ sở để
22
phân biệt tội LDTNCĐTS với các tội phạm khác như tội lừa đảm chiếm đoạt tài
sản; tội tham ô tài sản hay tội trộm cắp tài sản…
* Mặt khách quan của tội phạm
Là những biểu hiện của tội phạm diễn ra và tồn tại trong thế giới khách quan,
gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện tội
phạm như thời gian, địa điểm, phương tiện, công cụ phạm tội, hoàn cảnh phạm tội
[48, tr.114].
Hành vi khách quan của tội phạm là những xử sự có ý thức và có ý chí của
con người được thể hiện ra thế giới khách quan dưới những hình thức nhất định, gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc của tất cả các tội
phạm [48, tr.115].
Người thực hiện hành vi phạm tội LDTNCĐTS đã định hình ý thức chiếm
đoạt tài sản của người khác và thể hiện nó ra bên ngoài thông qua hành vi cụ thể,
đây là hoạt động có ý thức và có ý chí của chủ thể thực hiện hành viđể chiếm đoạt
cho được tài sản của chủ sở hữu hoặc người đang quản lý. Có hành vi chiếm đoạt tài
sản của người khác, là hành vi chuyển dịch một cách trái phép tài sản của người
khác thành tài sản của mìnhsau khi vay, mượn, thuê hoặc nhận được tài sản của
người khác bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc
dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả.
Mặt khách quan của tội LDTNCĐTS bao gồm các yếu tố
- Về hành vi khách quan của tội phạm
Trong các yếu tố CTTP của tội phạm LDTNCĐTS được quy định Khoản 1
Điều 175 BLHS năm 2015, thì hành vi khách quan, có những tình tiết khó chứng
minh, cụ thể như sau:
+ Tại điểm a khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015 quy định: “Vay, mượn, thuê
tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp
đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều
kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”.
23
Theo quy định“đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng
nhưng cố tình không trả” vẫn chưa được các cơ quan có thẩm quyền giải thích,
hướng dẫn. Nhưng một người sau khi vay, mượn, thuê tài sản bằng các hình thức
hợp đồng rồi họ bỏ địa phương đi nhưng để lại tài sản hợp pháp, thì có thể khởi tố
họ và để chứng minh hành vi “có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”
được hiểu như thế nào là vấn đề còn nhiều vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, nên
đã phát sinh nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm cho rằng, chỉ cần xác định
được tình tiết một người nào đó sau khi nhận được tài sản bằng các hình thức hợp
đồng rồi bỏ trốn mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng không trả tài sản cho chủ sở
hữu hoặc người quản lý tài sản hợp pháp là đủ cơ sở kết luận người đó phạm tội
LDTNCĐTS.
+Tại điểm b khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015 quy định: “vay, mượn, thuê
tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp
đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả
năng trả lại tài sản”.
Như vậy, chỉ các trường hợp người nhận được tài sản đã sử dụng tài sản đó
vào “mục đích bất hợp pháp”như: buôn lậu, rửa tiền, sản xuất, buôn bán ma túy…
nhưng họ dùng vốn vay để tiêu xài, xây nhà cửa, mua sắm đồ dùng, phương tiên đi
lại dẫn đến khi đến hạn không có điều kiện, khả năng trả nợ thì không coi là sử
dụng tài sản vào “mục đích bất hợp pháp” thì không phải bị xử lý TNHS. Trường
hợp vay, mượn tiền với số lượng rất lớn sau đó sử dụng tài sản vào việc tiêu xài
hoang phí dẫn đến không khả năng trả nợ, lại không thể truy cứu TNHS đối với họ,
vì việc dùng tiền vay, mượn để ăn chơi, tiêu xài…chỉ có thể xem xét đánh giá họ vi
phạm đạo đức xã hội không được xem là việc làm “bất hợp pháp”.
Thực tế hiện nay trên địa bàn tỉnh Long An, các vụ vỡ nợ phát sinh từ hợp
đồng vay, hợp đồng góp hụi, giá trị tài sản lên đến hàng chục tỷ đồng xảy ra rất
nhiều nơi đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự xã hội, gây bất bình trong
quần chúng nhân dân nhưng khi người bị hại có đơn yêu cầu đề nghị CQĐT công
an huyện, thành phố và cơ quan Cảnh sát điều tra công an tỉnh Long An để xử lý
24
các hành vi nêu trên nhưng hầu hết các cơ quan không thể xử lý các trường hợp này
bằng pháp luật hình sự được mà chuyển sang các vụ án dân sự dẫn đến khả năng thu
hồi tài sản hoặc đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người bị hại không được bảo vệ.
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi: Hậu quả nguy hiểm cho xã hội
là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ [48, tr.121]. Là tội phạm có cấu thành vật chất nên hậu quả được xác định là yếu
tố bắt buộc đối với cấu thành của tội LDTNCĐTS. Tại Điều 175 BLHS năm 2015
quy định mức định lượng tài sản tối thiểu đối với tài sản bị chiếm đoạt phải trị giá
từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã
bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội
này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống
chính của người bị hại và gia đình họ...thì mới có thể bị xử lý về tội phạm này.
+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt. Theo quy định
của Thông tư 02/2001, bị coi là đã bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi chiếm
đoạt nếu trước đó họ đã bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật theo đúng quy định của cơ quan có
thẩm quyền về một trong các hành vi chiếm đoạt như: cướp tài sản; bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản; cưỡng đoạt tài sản; cướp giật tài sản; công nhiên chiếm đoạt tài
sản; trộm cắp tài sản; lừa đảo chiếm đoạt tài sản; LDTNCĐTS; tham ô tài sản; lạm
dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà chưa hết thời hạn để được coi là
chưa từng vi phạm thì người thực hiện hành vi LDTNCĐTS dù tài sản có giá trị
dưới bốn triệu đồng vẫn có thể bị truy cứu TNHS về tội phạm này.
+ Đã bị kết án về tội chiếm đoạt chưa được xóa án tích. Tương tự trường hợp
“đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt”, người phạm tội có thể
bị truy cứu TNHS về tội LDTNCĐTS với giá trị tài sản dưới bốn triệu đồng nếu
trước khi thực hiện hành vi LDTNCĐTS, họ đã bị kết án về một trong các hành vi
chiếm đoạt, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả là mối liên hệ giữa một hiện
tượng là hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội đóng vai trò là nguyên nhân với
25
một hiện tượng là hậu quả nguy hiểm cho xã hội đóng vai trò là kết quả việc thực
hiện hành vi phạm tội là dấu hiệu bắt buộc đối với các tội phạm có CTTP vật chất
[48, tr.124]. Người phạm tội LDTNCĐTS chỉ có thể bị xử lý nếu như hành vi của
họ là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả và hậu quả là thiệt hại về tài sản chỉ xuất
phát từ hành vi mà người phạm tội thực hiện.
* Chủ thể của tội phạm
Là một trong những yếu tố quan trọng trong việc xác định có hành vi phạm
tội, vì chỉ khi nào xác định được chủ thể của tội phạm mới tiến hành định tội danh
và truy cứu TNHS. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng trong các BLHS
trước đây và ngay cả BLHS năm 1999 là“một trong những công cụ sắc bén, hữu
hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm” cũng quy định chỉ có con người
mới là chủ thể của tội phạm [30, tr.45].
Tội LDTNCĐTS, chủ thể thực hiện tội phạm được xác định là cá nhân phải
đủ tuổi chịu TNHS và có đầy đủ khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên mới có thể bị truy cứu TNHS về tội LDTNCĐTS của
người khác.
Chủ thể của tội LDTNCĐTS phải có năng lực TNHS. Năng lực trách nhiệm
hình sự được hiểu là khả năng nhận thức của cá nhân về tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi và khả năng điều khiển hành vi đó, tức họ có sự lựa chọn thực hiện
hay không thực hành vi nguy hiểm cho xã hội đó. Người có năng lực TNHS trước
hết phải đạt tới một độ tuổi nhất định để đảm bảo rằng cá nhân đó có khả năng nhận
thức đầy đủ về tính chất pháp lý của hành vi mà mình gây ra và có đủ khả năng điều
khiển được hành vi đó.
Chủ thể của tội LDTNCĐTS phải đủ tuổi chịu TNHS, tại Điều 12 BLHS
năm 2015 quy định về độ tuổi chịu TNHS“Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy
định khác” [29, tr.15]. Đối với tội LDTNCĐTS phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu TNHS đối với loại tội phạm
này. Bởi vì, họ là người chưa có năng lực TNHS đầy đủ nên chỉ chịu TNHS về một
26
số tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nghiêm
trọng do cố ý được quy định tại Khoản 2 Điều 12 BLHS năm 2015 [29, tr.15, 16].
Như vậy, để định tội danh tội LDTNCĐTS phải là cá nhân có năng lực chịu
TNHS và đạt độ tuổi từ 16 tuổi trở lên. Đây là một trong các điểm mới của BLHS
năm 2015 so với BLHS năm 1999. BLHS năm 2015 đã quy định sự tách bạch rõ
ràng hơn về độ tuổi chịu TNHS đối với người bị kết án tội LDTNCĐTS.
*Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm bao gồm“Lỗi,
động cơ, mục đích” [48, tr.152]. Trong đó yếu tố lỗi là bắt buộc với tất cả các loại
tội phạm, không có lỗi thì hành vi không bị xem là tội phạm và không truy cứu
TNHS.
Tội LDTNCĐTS được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, là người phạm tội
nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của
hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra [29, tr. 14]. Việc xác định lỗi trong tội
này là hành vi làm thiệt hại về tài sản, làm mất quyền sở hữu của chủ tài sản nhưng
vẫn thực hiện. Ban đầu khi giao kết hợp đồng, người phạm tội vẫn mong muốn thực
hiện hợp đồng, chỉ sau khi nhận được tài sản, ý thức chiếm đoạt mới hình thành, vì
thế họ bị truy cứu TNHS về tội phạm này.
Động cơ, mục đích phạm tội: Là những dấu hiệu bắt buộc của một hành vi có
ý chí, là những yếu tố nằm trong nội dung của mặt chủ quan. Theo từ điển tiếng
việt, thì “Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người thực hiện hành vi
phạm tội” [50, tr.212]; hay một cách hiểu khác “Động cơ phạm tội được hiểu là
động lực từ bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội” [48,
tr.168]. Trong tội LDTNCĐTS, thì động cơ phạm tội là “vì vụ lợi”. Mục đích phạm
tội“là kết quả trong ý thức mà người phạm tội mong muốn đạt được khi thực hiện
tội phạm” [48, tr. 169]. Mục đích phạm tội trong tội này phải gắn liền với các hành
vi dùng thủ đoạn gian dối, hành vi bỏ trốn, hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù
có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả. Nếu không có mục đích chiếm đoạt
tài sản hoặc mục đích chiếm đoạt tài sản có trước thời điểm nhận tài sản thông qua
27
hợp đồng, thì người thực hiện hành vi phạm tội không phạm tội này hoặc sẽ phạm
vào tội khác.
Động cơ và mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội
LDTNCĐTS. Ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục
đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của
người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội LDTNCĐTS.
Như vậy, bốn yếu tố CTTP của tội LDTNCĐTS có quan hệ chặt chẽ với
nhau, tồn tại khách quan, không thể tách rời nhau. Là cơ sở pháp lý để truy cứu
TNHS và để định tội danh chính xác đối với tội nêu trên. Cho nên, quá trình định
tội danh của tội phạm này, cơ quan, người tiến hành tố tụng không được bớt hoặc
thêm bất kỳ dấu hiệu nào. Mọi sự thêm, bớt hoặc xác định không đúng dấu hiệu nào
đó đều ảnh hưởng đến việc định tội danh.
1.2.2.2. Cấu thành tội phạm tăng nặng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản
Như đã trình bày tại mục 1.1.2.3. Các trường hợp định tội danh tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, cấu thành tội phạm tăng nặng của tội LDTNCĐTS là
CTTP có một trong những tình tiết sau:
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có tổ chức
Phạm tội có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người
cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi
dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải tội LDTNCĐTS có tổ chức nào cũng
đủ những người giữ vai trò nêu trên. Trong tội phạm này, thì người thực hành là
người trực tiếp thực hiện hành vi, những thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản từ
chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản [26, tr. 257].
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp
Tình tiết “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” vẫn được giữ nguyên là tình
tiết định khung tăng nặng của nhiều điều luật trong Chương các tội xâm phạm sở
hữu, trong đó có tội LDTNCĐTS hoặc là tình tiết tăng nặng TNHS. Điều này cho
28
thấy đây là một tình tiết phổ biến trong quan hệ xã hội cần được pháp luật hình sự
bảo vệ và quy định.
Sau khi BLHS năm 2015 có hiệu lực cho đến nay, chưa có văn bản nào thay
thế Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS
năm 1999 (viết tắt là Nghị quyết số 01), trong đó có quy định thế nào là phạm tội có
tính chất chuyên nghiệp. Cho nên, trong thực tiễn ADPLHS hiện nay, các cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng vẫn áp dụng quy định của Nghị quyết số 01 để
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm có liên quan đến tính chất chuyên nghiệp
[45, tr. 4,5].
Phạm tội có tính chuyên nghiệp là trường hợp có từ 05 lần trở lên phạm tội
LDTNCĐTS, trong đó có lần đã bị xét xử nhưng chưa xóa án tích, hoặc chưa lần
nào bị xét xử và chưa lần phạm tội nào hết thời hiệu truy cứu TNHS; và người
phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm
tội làm nguồn sống chính [4, tr. 221, 227].
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới
200.000.000 đồng
Trường hợp này xác định giá trị tài sản, là căn cứ giá thị trường vào thời
điểm phạm tội. Trong trường hợp không xác định được giá trị tài sản chiếm đoạt thì
phải trưng cầu giám định, là định giá tài sản. Do đặc điểm của tội này, người phạm
tội chỉ chiếm đoạt tài sản khi tài sản đó đang do mình quản lý, nên chỉ một số
trường hợp có giai đoạn phạm tội chưa đạt nên khi xác định tài sản bị chiếm đoạt có
giá trị bao nhiêu còn phải căn cứ vào hành vi, thủ đoạn gian dối phạm tội cụ thể,
không chỉ căn cứ vào giá trị tài sản mà người đang quản lý để xác định giá trị tài sản
bị chiếm đoạt. Ví vụ: A vay của B với số tiền là 500.000.000 đồng vay nhiều lần
bằng 05 giấy nợ với ngày tháng năm khác nhau. Nhưng A chỉ dùng thủ đoạn sửa
chữa một giấy nợ với số tiền 50.000.000 đồng thành 30.000.000 đồng để chiếm đoạt
số tiền 20.000.000 đồng, không phải sửa 04 giấy nợ còn lại. Trong trường hợp này
A chỉ chiếm đoạt số tiền 20.000.000 đồng, không phải số tiền 500.000.000 đồng.
29
Lợi dung chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Trong trường hợp này, cần phải xác định
Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do
một hình thức nào khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao
nhiệm vụ thực viện một công việc nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi
thực hiện công vụ.
Người có quyền hạn là người được giao thực hiện một công vụ và do thực
hiện công vụ đó nên họ có một quyền hạn nhất định.
Dùng thủ đoạn xảo quyệt để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Là trường hợp, người phạm tội dùng những thủ đoạn, cách thức thâm hiểm
làm cho người bị hại khó lường trước để mà đề phòng. Thông thường, những thủ
đoạn xảo quyệt người phạm tội dùng trong trường hợp này là sau khi đã nhận được
tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản một cách hợp pháp rồi mới dùng
thủ đoạn xảo quyệt để chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên cũng có trường hợp người
phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt ngay trước khi nhận được tài sản của chủ sở hữu,
nhưng thủ đoạn đó không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản chỉ nhằm ký kết được
hợp đồng một cách hợp pháp, lúc dùng thủ đoạn xảo quyệt, người phạm tội chưa có
ý định chiếm đoạt [26, tr. 258, 259].
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong trường hợp gây ảnh hưởng xấu
đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội
Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội là phải nói đến hành
vi của một cá nhân, pháp nhân làm phá vỡ trật tự, kỷ cương của xã hội một cách
nghiêm trọng, khiến cho một bộ phận không nhỏ người dân mất niềm tin, xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân… Trên thực tế đối với loại tội này, khi
áp dụng tình tiết này sẽ gặp những khó khăn nhất định vì chưa có hướng dẫn cụ thể.
Mặt khác, việc đánh giá tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an
toàn xã hội” là tình tiết định khung cơ bản đối với từng hành vi phạm tội cụ thể tại
các địa bàn, khi nào thì được xác định là tình tiết định khung cơ bản? Cơ quan nào
30
xác định “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” là tình tiết định
khung của CTTP ? Lại chưa được các nhà lập pháp quy định. Theo tác giả cho rằng
khi đánh giá tính chất của hành vi “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn
xã hội” trong vụ án lạm dụng là phải xem xét tính chất, hậu quả do hành vi phạm
tội “gây ra hoặc có thể gây ra” xâm phạm nghiêm trọng đến trật tự, kỷ cương xã
hội, xâm phạm đến sự mất ổn định nghiêm trọng đời sống của người dân, gây tâm
lý phẫn nộ trong một phạm vi rộng khu dân cư, vụ việc diễn ra thường xuyên, liên
tục... gây khó khăn cho công tác quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương.
Theo tác giả, thì những trường hợp vỡ hụi, xâm phạm đến hoạt động tín dụng, Ngân
hàng bị khởi tố về tội LDTNCĐTS đều là những hành vi “gây ảnh hưởng xấu đến
an ninh, trật tự, an toàn xã hội”.
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong trường hợp tái phạm
Trường hợp tái phạm trong vụ án lạm dụng tín nhiệm cũng giống như tất cả
các trường hợp hợp tái phạm khác, chỉ cần xác định người phạm tội có đủ các dấu
hiệu quy định tại Khoản 2 Điều 53 BLHS năm 2015. Đây là tình tiết thuộc về nhân
thân của người phạm tội, không phụ thuộc vào hành vi phạm tội cụ thể của tội phạm
này hay một tội phạm khác [29, tr. 40].
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới
500.000.000 đồng và trị giá 500.000.000 đồng trở lên
Như đã phân tích tình tiết LDTNCĐTS trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới
200.000.000 đồng. Khi xác định tài sản bị chiếm đoạt có giá trị bao nhiêu còn phải
căn cứ vào hành vi, thủ đoạn gian dối phạm tội cụ thể, không chỉ căn cứ vào giá trị
tài sản mà người đang quản lý để xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt, là cơ sở để
các cơ quan tiến hành tố tụng xác định được các tình tiết nào là định khung tăng
nặng và theo khoản nào của điều luật đã được quy định trong BLHS.
31
1.2.3. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội
phạm khác
Để có thể định tội danh chính xác tội LDTNCĐTS, cần phân biệt tội này với
một số tội khác, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng chức vụ
quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân, tội tham ô tài sản.
1.2.3.1. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản
Trong BLHS Việt Nam, các tội trong Chương các tội phạm xâm phạm sở
hữu, có nhiều tội danh có một hoặc một số dấu hiệu pháp lý giống nhau, đặc biệt có
những dấu hiệu về hành vi khách quan giống hoặc gần giống nhau. Điều này dễ dẫn
đến sai lầm trong nhận thức về các tội phạm tương tự. Từ đó, dẫn đến sự sai lầm
trong việc định tội danh cũng như quyết định hình phạt và mức hình phạt áp dụng
với người phạm tội. Trong số đó, thường có sự nhầm lẫn giữa tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản với tội LDTNCĐTS vì cùng có dấu hiệu dùng thủ đoạn gian dối để
chiếm đoạt tài sản.
Qua nghiên cứu các bản án, có thể thấy rằng một số Tòa án còn nhầm lẫn
trong việc xác định tội danh LDTNCĐTSvới tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi mặt
khách quan của cả hai tội đều có hành vi gian dối, nhất là các trường hợp có ký kết
hợp đồng dân sự. Để phân biệt hai tội này cần phải dựa vào một số điểm quan trọng
sau:
Thứ nhất, thời điểm người phạm tội nảy sinh ý thức mong muốn chiếm đoạt
tài sản
Về phương diện lý luận, nếu người phạm tội ngay từ thời điểm ban đầu đã có
ý định chiếm đoạt tài sản nên có những hành vi gian dối dẫn đến việc ký kết hợp
đồng giả tạo để từ đó được giao tài sản và như vậy họ chiếm đoạt tài sản thì được
coi đây là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Còn tội LDTNCĐTS thì ban đầu khi chưa
ký kết hợp đồng, người phạm tội chưa có ý thức chiếm đoạt tài sản nên việc ký hợp
đồng là hợp pháp giữa người bị hại với người phạm tội. Hợp đồng này được ký kết
trên cơ sở lòng tin giữa các bên và việc giao nhận tài sản dựa trên hợp đồng hợp
32
pháp. Sau khi nhận được tài sản, người phạm tội mới nẩy sinh ý định chiếm đoạt và
thực hiện ý định chiếm đoạt bằng thủ đoạn bỏ trốn hay thủ đoạn gian dối.
Thứ hai, dấu hiệu dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản
Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi dùng thủ đoạn gian dối là
hành vi đưa ra những thông tin không đúng sự thật bằng những thủ đoạn rất đa dạng
như qua lời nói, sử dụng giấy tờ giả hoặc giả danh người khác…để làm cho người
có tài sản tin đó là thật và tự nguyện giao tài sản cho người có hành vi gian dối
nhằm chiếm đoạt tài sản. Còn tội LDTNCĐTS, người phạm tội nhận tài sản của
người khác là hoàn toàn ngay thẳng, hợp pháp thông qua những hợp đồng bằng
miệng hoặc bằng văn bản. Hành vi gian dối trong tội LDTNCĐTS chỉ là những
hành vi che đậy nhằm không trả lại tài sản hoặc giá trị tài sản theo đúng nghĩa vụ
hợp đồng như giả tạo việc mất tài sản, đánh tráo tài sản, rút bớt số lượng tài sản…
Ngoài ra, hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản trong tội
LDTNCĐTS là hành vi chiếm đoạt và phải là chiếm đoạt được, nhưng khác với
hành vi chiếm đoạt ở các tội phạm khác. Hành vi chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển
dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của
mình. Dựa trên cơ sở đó, xem xét đến hành vi của người nhận được tài sản thông
qua các hình thức hợp đồng ngay thẳng vay, mượn, thuê… tài sản sau đó khi đến
thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả. Hành
vi đó là hành vi chiếm đoạt, và mang bản chất của hành vi LDTNCĐTS.
Như vậy, cùng là dấu hiệu“thủ đoạn gian dối” nhưng vai trò, ý nghĩa lại
khác nhau giữa hai tội, và vì thế, cách thức thực hiện thủ đoạn gian dối cũng khác
nhau.
Thứ ba, việc giao nhận tài sản giữa người có tài sản với người phạm tội
Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có ý định chiếm đoạt tài sản nên
ngay từ đầu đã có hành vi gian dối tạo được niềm tin giả tạo cho chủ sở hữu hoặc
người quản lý tài sản và có thể là do sự nhầm lẫn nên hợp đồng mới được lý kết. Do
vậy, hợp đồng này dựa trên uy tín, niềm tin giả tạo nên bản chất không phải là hợp
đồng hợp pháp theo quy định của Bộ Luật dân sự, mà đây là hình thức gian dối để
33
chiếm đoạt tài sản. Người có tài sản đã tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội là
do người phạm tội đã có những hành vi, thủ đoạn gian dối để dựng lên những điều
không đúng sự thật nhưng người có tài sản tin đó là thật và tự giác giao tài sản.
Với người phạm tội LDTNCĐTS thì hợp đồng giữa đôi bên là hợp pháp,
đúng đắn bởi khi ký kết hợp đồng các bên hoàn toàn trung thực, dựa trên sự tự do ý
chí, sự tự nguyện khi giao kết. Hợp đồng ký kết hoàn toàn đáp ứng điều kiện về mặt
pháp lý nên hợp đồng này hợp pháp. Do vậy, người phạm tội được giao tài sản một
cách hợp pháp dựa trên cơ sở hợp đồng. Như vậy, về bản chất người phạm tội nhận
được tài sản là đều do người có tài sản tự giác giao cho họ.
Thứ tư, thời điểm chiếm đoạt tài sản – thời điểm hoàn thành tội phạm
Cả hai tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội LDTNCĐTS được coi là hoàn
thành tội phạm khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản. Ở thời điểm này người
phạm tội có đầy đủ điều kiện khách quan và chủ quan để tự định đoạt tài sản đó
theo mong muốn của mình.
Như phân tích ở trên, theo quan điểm tác giả, hành vi khách quan của tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản gồm hai hành vi là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt.
Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản sau khi thực hiện hành vi gian dối tạo
được uy tín, niềm tin và dẫn đến ký kết hợp đồng và trên cơ sở hợp đồng, người
phạm tội nhận được tài sản hoặc không phải giao tài sản mà đáng lẻ phải giao cho
người bị lừa dối và khi làm chủ được tài sản trên thực tế thì coi như tội phạm đã
hoàn thành. Còn tội LDTNCĐTS thì người phạm tội sau khi ký kết hợp đồng, được
giao tài sản và tại thời điểm này người được chuyển giao tài sản chưa coi là có hành
vi chiếm đoạt tài sản. Ở giai đoạn tiếp theo là thực hiện các cam kết trong hợp đồng
thì người phạm tội LDTNCĐTS…mới có hành vi chiếm đoạt tài sản và được biểu
hiện như cố ý không giao trả lại tài sản của người khác một cách trái pháp luật…Do
vậy, thời điểm này mới coi là tội phạm hoàn thành.
Sự khác biệt giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội LDTNCĐTS thể hiện
ở một số điểm là thời điểm người phạm tội nảy sinh ý định phạm tội; cách thức thực
34
hiện thủ đoạn gian dối; tính chất việc giao nhận tài sản giữa các bên và thời điểm tội
phạm hoàn thành.
1.2.3.2. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội tham ô tài
sản
Theo Điều 353 BLHS năm 2015 quy định tội tham ô tài sản là hành vi lợi
dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý. Đối
với tội tham ô là tài sản dấu hiệu về chủ thể của tội phạm là dấu hiệu quan trọng
nhất để xác định tội phạm, sự khác nhau giữa tội tham ô tài sản với tội LDTNCĐTS
là sự khác nhau về dấu hiệu thuộc chủ thể của tội phạm.
Giống nhau: về hành vi chiếm đoạt tài sản, dấu hiệu chủ quan là lỗi cố ý trực
tiếp.
Khác nhau: về khách thể của tội phạm, tội tham ô tài sản xâm phạm vào sự
hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, đồng thời xâm phạm vào sở hữu tài sản
của cơ quan tổ chức đó; Về chủ thể chủ thể của tội tham ô là chủ thể đặc biệt, còn
chủ thể của tội LDTNCĐTS là chủ thể thường, bất kỳ ai có năng lực TNHS, có độ
tuổi nhất định; người phạm tội tham ô tài sản là người có chức vụ quyền hạn và có
trách nhiệm quản lý đối với tài sản là người được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài
sản như thủ kho, kế toán, người được giao vận chuyển tài sản của cơ quan, tổ chức,
đơn vị của mình…
Tóm lại, việc phân biệt giữa các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt với nhau, giữa các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác có ý
nghĩa quan trọng để xác định ranh giới giữa các tội phạm được quy định trong
BLHS và là căn cứ để xác định tội danh chính xác.
1.2.3.3. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng
chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân.
Tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài
sản của công dân bằng thủ đoạn lạm dụng chức vụ quyền hạn.
Tội LDTNCĐTS là hành vi chiếm đoạt toàn bộ hoặc một phần tài sản trong
hợp đồng dân sự.
35
Giống nhau
Khách thể của hai tội phạm này đều xâm phạm quyền sở hữu tài sản.
Mặt chủ quan đều là người phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.
Mặt khách quan người phạm tội với hai tội nêu trên đều có hành vi lạm dụng
tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản. Ngoài ra, hai tội phạm này đều là tội phạm cấu
thành vật chất.
Khác nhau
Tội LDTNCĐTS, dối tượng tác động là tài sản do người phạm tội quản lý,
còn tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, thì tài sản do người khác
quản lý.
Về chủ thể, tội LDTNCĐTS là người được chủ tài sản tín nhiệm giao quản lý
tài sản, chủ thể thường. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, chủ thể
của tội lạm dụng chức vụ quyền hạn là chủ thể đặc biệt là người có chức vụ.
Về mặt khách quan
Tội LDTNCĐTS người phạm tội đã thực hiện hành vi lạm dụng sự tín nhiệm
của chủ tài sản chiếm đoạt toàn bộ hoặc một phần tài sản trong hợp đồng.
Tội lạm dụng chức vụ quyền hạn người phạm tội đã lạm dụng chức vụ uy
hiếp tinh thần chủ tài sản và gian dối để chiếm đoạt tài sản của công dân.
Như vậy, tội LDTNCĐTS, thì người phạm tội đã chiếm đoạt tài sản mình
được giao trên cơ sở hợp đồng. Tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản
của công dân thì người phạm tội đã chiếm đoạt tài sản của công dân bằng thủ đoạn
lạm dụng chức vụ quyền hạn của mình.
1.3. Cơ sở thực tiễn của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản.
Để tiến hành định tội danh tội LDTNCĐTS, về mặt thực tế phải có hành vi
LDTNCĐTS và hành vi đó phải có dấu hiệu của tội phạm nói chung và dấu hiệu
của tội LDTNCĐTS như đã được quy định trong PLHS.
Hành vi xảy ra trên thực tế phải là hành vi khách quan của tội phạm là yếu tố
quan trọng nhất của mặt khách quan của tội phạm, không có hành vi thì tất cả
36
những yếu tố khác như hậu quả, phương tiện, công cụ, phương pháp phạm
tội…không có ý nghĩa gì cả. Ngoài ra, những biểu hiện của mặt chủ quan nhưlỗi,
mục đích, động cơ phạm tội cũng luôn gắn liền với hành vi khách quan cụ thể.
Trong những năm gần đây, tình hình vay tài sản giữa cá nhân với cá nhân
diễn ra khá phổ biến. Để vay được tài sản, giữa người vay và người cho vay chỉ căn
cứ vào “lòng tin”, mối quan hệ gia đình, họ hàng, hàng xóm hoặc thông qua người
trung gian có quan hệ với những người này mà không có bất cứ tài sản hoặc sự ràng
buộc nào khác về trách nhiệm trả nợ; thủ tục vay thì đơn giản, nhanh gọn dẫn đến
nhiều trường hợp người cho vay không thể, thậm chí không bao giờ lấy lại được tài
sản của mình. Hậu quả của sự việc là các tranh chấp khó giải quyết, trong đó có một
phần lỗi của chính người cho vay do lòng tham được trả lãi cao, bỏ qua phần thủ tục
cần thiết, không có biện pháp xác minh việc sử dụng tài sản của người vay… Về
phía người vay tài sản, khi không có khả năng thanh toán thì họ đưa ra rất nhiều lý
do tưởng chừng như rất “hợp lý” để giải trình cho việc sử dụng tài sản đã vay như
do làm ăn thua lỗ, người đi vay tiếp tục cho người khác vay để lấy lãi cao hơn…và
cuối cùng là họ xin “khất” nợ người cho vay, thậm chí nói rõ là không có tiền để trả
nợ cho người cho vay nên họ đã làm đơn tố cáo đến CQĐT có thẩm quyền để xem
xét, xử lý về hình sự. Một số hành vi xảy ra đã được các cơ quan tiến hành tố tụng
khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử về tội LDTNCĐTS khi thỏa mãn các dấu hiệu
CTTP được quy định tại Điều 140 BLHS năm 1999 hay Điều 175 BLHS năm 2015
đã được phân tích tại mục 1.2.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội LDTNCĐTS và
hành vi này còn thời hiệu truy cứu TNHS, được quy định tại Điều 27 BLHS năm
2017.
Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng, giữa cá nhân với tổ chức hoặc giữa
tổ chức với tổ chức có đăng ký kinh doanh đã ký kết các hợp đồng tín dụng với
nhau. Ngân hàng căn cứ các quy định về cho vay của Ngân hàng Nhà nước và các
quy định pháp luật khác có liên quan để thực hiện cho vay. Khách hàng đến vay tại
Ngân hàng phải đáp ứng đủ các điều kiện cho vay, ký hợp đồng tín dụng, hợp đồng
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

More Related Content

What's hot

Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đĐịnh tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ...
 Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ... Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ...hieu anh
 

What's hot (18)

Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đĐịnh tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Hà Nội, 9đ
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long An
Luận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long AnLuận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long An
Luận văn: Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Giuộc, Long An
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Các tội hối lộ theo pháp luật hình sự tại TPHCM, 9đ
Luận văn: Các tội hối lộ theo pháp luật hình sự tại TPHCM, 9đLuận văn: Các tội hối lộ theo pháp luật hình sự tại TPHCM, 9đ
Luận văn: Các tội hối lộ theo pháp luật hình sự tại TPHCM, 9đ
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà NộiLuận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
 
Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản Quận 1, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản Quận 1, TPHCM, 9đLuận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản Quận 1, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản Quận 1, TPHCM, 9đ
 
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ...
 Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ... Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ...
 
Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản tỉnh Bình Dương, 9đ
Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản tỉnh Bình Dương, 9đNhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản tỉnh Bình Dương, 9đ
Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản tỉnh Bình Dương, 9đ
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật, HAY, 9đ
Luận văn: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật, HAY, 9đLuận văn: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật, HAY, 9đ
Luận văn: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật, HAY, 9đ
 
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, 9đ
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, 9đLuận văn: Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, 9đ
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, 9đ
 

Similar to Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
ĐỀ TÀI : NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI : NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐỀ TÀI : NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI : NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Luận Văn 1800
 
Luận án: Nhân thân người phạm tội tại Thành phố Hồ Chí Minh, HAY - Gửi miễn p...
Luận án: Nhân thân người phạm tội tại Thành phố Hồ Chí Minh, HAY - Gửi miễn p...Luận án: Nhân thân người phạm tội tại Thành phố Hồ Chí Minh, HAY - Gửi miễn p...
Luận án: Nhân thân người phạm tội tại Thành phố Hồ Chí Minh, HAY - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

Similar to Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (20)

Luận văn: Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Bình Phước
Luận văn: Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Bình PhướcLuận văn: Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Bình Phước
Luận văn: Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Bình Phước
 
Luận văn: Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Luận văn: Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAYLuận văn: Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Luận văn: Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự huyện Đông Anh
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự huyện Đông AnhLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự huyện Đông Anh
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự huyện Đông Anh
 
Luận văn: Điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Luận văn: Điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Điều tra vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật tại huyện Sóc Sơn
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật tại huyện Sóc SơnLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật tại huyện Sóc Sơn
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật tại huyện Sóc Sơn
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đĐề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
 
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
 
Nguyên nhân, điều kiện của tội cướp giật tài sản tại tỉnh Tiền Giang
Nguyên nhân, điều kiện của tội cướp giật tài sản tại tỉnh Tiền GiangNguyên nhân, điều kiện của tội cướp giật tài sản tại tỉnh Tiền Giang
Nguyên nhân, điều kiện của tội cướp giật tài sản tại tỉnh Tiền Giang
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật tại quận 1, TPHCM
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật tại quận 1, TPHCMLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật tại quận 1, TPHCM
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật tại quận 1, TPHCM
 
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự tại TPHCM, 9đ
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự tại TPHCM, 9đLuận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự tại TPHCM, 9đ
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự tại TPHCM, 9đ
 
Đề tài: Hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Đề tài: Hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sảnĐề tài: Hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Đề tài: Hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
 
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sựLuận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
 
ĐỀ TÀI : NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI : NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐỀ TÀI : NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI : NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
 
Luận án: Nhân thân người phạm tội tại Thành phố Hồ Chí Minh, HAY - Gửi miễn p...
Luận án: Nhân thân người phạm tội tại Thành phố Hồ Chí Minh, HAY - Gửi miễn p...Luận án: Nhân thân người phạm tội tại Thành phố Hồ Chí Minh, HAY - Gửi miễn p...
Luận án: Nhân thân người phạm tội tại Thành phố Hồ Chí Minh, HAY - Gửi miễn p...
 
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
 
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAY
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAYLuận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAY
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HAY
 
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
Đề tài: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Recently uploaded

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxTrnHiYn5
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...ChuThNgnFEFPLHN
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxDungxPeach
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptPhamThiThuThuy1
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnpmtiendhti14a5hn
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 

Recently uploaded (20)

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 

Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CAO THỊ THỚI ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CAO THỊ THỚI ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HỒ SỸ SƠN Hà Nội, năm 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Hồ Sỹ Sơn. Các số liệu, ví dụ nêu trong Luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào. Các thông tin và tài liệu trích dẫn trong Luận văn được ghi rõ nguồn gốc. Tác giả luận văn Cao Thị Thới
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: CÁC CƠ SỞ CỦA ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN..........................................................................6 1.1. Cơ sở lý luận của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ....6 1.2. Cơ sở pháp lý của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản .18 1.3. Cơ sở thực tiễn của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. ...............................................................................................................................35 Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TẠI TỈNH LONG AN ................................................39 2.1. Khái quát tình hình xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Long An.................................................................................................................39 2.2. Thực tiễn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Long An.................................................................................................................40 Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH ĐÚNG TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN....................63 3.1. Các yêu cầu của định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản..........................................................................................................................63 3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.....................................................................................................................66 KẾT LUẬN..............................................................................................................77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADPL :Áp dụng pháp luật BLHS :Bộ luật hình sự BLTTHS :Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT :Cơ quan điều tra CTTP :Cấu thành tội phạm HĐXX :Hội đồng xét xử LDTNCĐTS :Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản PLHS :Pháp luật hình sự TAND :Tòa án nhân dân TNHS :Trách nhiệm hình sự TTHS :Tố tụng hình sự VKSND :Viện kiểm sát nhân dân
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Số liệu phản ánh tình hình khởi tố, truy tố, xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Long An từ năm 2014-2018. Bảng 2.2. Thống kê số các tội xâm phạm sở hữu mang tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Long An từ năm 2014-2018. Bảng 2.3. So sánh tỉ lệ các tội xâm phạm sở hữu mang tính chiếm đoạt với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Long An từ năm 2014-2018 Bảng 2.4. Số liệu phản ánh tình hình trả hồ sơ điều tra bổ sung tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Long An từ năm 2014-2018
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự cho thấy, hiện nay các cơ quan tiến hành tố tụng gặp khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh nói chung nhất là các tội xâm phạm sở hữu nói riêng như tội cướp tài sản; tội cướp giật tài sản; tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (viết tắt LDTNCĐTS) và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản…Có nhiều trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng có sự nhầm lẫn giữa các tội danh này với nhau hay trường hợp phạm nhiều tội nhưng lại định tội danh là một tội, hoặc không xác định được có sự chuyển hóa tội danh từ các tội chiếm đoạt tài sản sang tội cướp tài sản. Từ đó, dẫn đến việc oan sai, bỏ lọt người phạm tội, áp dụng mức hình phạt, loại hình phạt không đúng, gây dư luận không tốt, giảm uy tín các cơ quan bảo vệ pháp luật và giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tỉnh Long An là tỉnh nằm ở đồng bằng sông Cửu Long, thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, cận kề với Tp. Hồ Chí Minh, có vai trò đặc biệt quan. Với những thuận lợi đã đạt được, thì tình hình tội phạm không ngừng gia tăng, đặc biệt là các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có tội LDTNCĐTS. Nhiều năm qua, công tác khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án này tại tỉnh Long An cho thấy về cơ bản việc định tội danh được thực hiện tương đối chính xác nhưng vẫn có một số trường hợp giữa CQĐT, VKSND và TAND trong quá trình giải quyết vụ án xuất hiện quan điểm khác nhau về định tội danh dẫn đến có vụ án phải trả hồ sơ nhiều lần, kéo dài thời gian giải quyết và ảnh hưởng đến nhiều đối tượng do nhiều nguyên nhân khác nhau mà đặc biệt từ chính hoạt động của các chủ thể định tội danh do chưa nắm vững và nhận thức đúng những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội danh tội LDTNCĐTS. Từ những thực trạng nêu trên cần phải có sự nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện cả về mặt lý luận và thực tiễn hoạt động định tội danh tội phạm. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp đảm bảo định tội danh đúng tội phạm trong thực tiễn để hạn chế đến mức tối thiểu tình trạng không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội nhằm đảm bảo quyền con người
  • 8. 2 trong TTHS, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng như phù hợp với yêu cầu cải cách của nền tư pháp nước ta hiện nay đã đặt ra. Chính vì những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài“Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” làm đề tài luận văn nhằm góp phần làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý cho việc định tội danh tội LDTNCĐTS được áp dụng trong thực tiễn cho thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay có rất nhiều công trình khoa học liên quan đến đề tài của tác giả đã được đề cập và công bố như: Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự, Tập 2, NXB Tp. Hồ Chí Minh; Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Tập 2, NXB Công an nhân dân, Hà Nội…Ngoài ra, còn có các Luận văn Thạc sĩ Luật học của nhiều tác giả liên quan đến vấn đề định tội danh nói chung và định tội danh tội LDTNCĐTS theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn của nhiều tỉnh, thành phố của cả nước như: Hoàng Thị Kim Chi (2017) Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Thiện Tâm (2019) Định tội danh từ thực tiễn huyện Cần Đước, tỉnh Long An; Đặng Xuân Sơn (2017) Định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa...Những công trình nghiên cứu, các bài viết, đề tài khoa học nêu trên đều có giá trị về mặt lý luận khoa học và thực tiễn nhưng một số nội dung các đề tài chỉ hướng đến việc phân tích, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về tội phạm LDTNCĐTS trong mối quan hệ tách biệt hoàn toàn với những kiến thức lý luận về định tội danh. Mặc dù, có rất nhiều công trình nghiên cứu về định tội danh nói chung và định tội danh tội LDTNCĐTS nói riêng. Tuy nhiên, tác giả cho rằng một số công trình nghiên cứu cách đây khá lâu nên không còn phù hợp với tình hình tội phạm nước ta hiện nay về mặt giá trị lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, BLHS năm
  • 9. 3 2015 đã được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, trong đó những quy định về phần chung cũng như phần các tội phạm có nhiều sửa đổi, bổ sung so với quy định trong BLHS năm 1999 nhưng chưa có công trình, đề tài nghiên cứu nào xem xét vấn đề định tội danh tội LDTNCĐTS ở góc độ hoàn chỉnh, toàn diện từ tỉnh Long An. Những giá trị lý luận và thực tiễn của những công trình, kết quả nghiên cứu đã công bố là một trong những nguồn tài liệu quan trọng mà tác giả có thể vận dụng, tham khảo để hoàn thiện cho luận văn cuối khóa của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về định tội danh, các quy định của pháp luật hình sự về tội LDTNCĐTS và thực tiễn định tội danh này tại tỉnh Long An, luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm việc định tội danh đúng tội LDTNCĐTS ở nước ta hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Phân tích những vấn đề lý luận về định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; Phân tích những quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; Phân tích, đánh giá thực trạng định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Long An; Đề xuất các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu quan điểm khoa học, các quy định của BLHS Việt Nam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và thực tiễn định tội danh tội này trên địa bàn tỉnh Long An nhằm tìm ra những khó khăn, vướng mắc trong định tội danh tội LDTNCĐTS, đề xuất các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội LDTNCĐTS ở nước ta.
  • 10. 4 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự. Về mặt thực tiễn, đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp số liệu xét xử các vụ án LDTNCĐTS của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Long An trong thời gian 05 năm từ năm 2014 đến 2018. Đây là nguồn tư liệu quan trọng giúp cho việc phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động định tội danh tội LDTNCĐTS đảm bảo được tính chính xác, độ tin cậy cao và từ đó đưa ra một số giải pháp bảo đảm cho việc định tội danh nêu trên một cách có hiệu quả nhất trong thời gian tới. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tội phạm, về hình phạt, về đấu tranh phòng, chống tội phạm, về cải cách tư pháp… Đồng thời, đề tài còn được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác nhau như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp nghiên cứu điển hình nhằm làm rõ nội dung các vấn đề cần trình bày nêu trên và đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng định tội danh về tội phạm này trên địa bàn tỉnh Long An một cách có hiệu quả nhất. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Nghiên cứu đề tài luận văn sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận có liên quan đến hoạt động định tội danh tội LDTNCĐTS trên địa bàn tỉnh Long An nói riêng và cho cả nước nói chung. Ngoài ra, việc nghiên cứu của luận văn còn có ý nghĩa rất lớn, có thể được vận dụng như một tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy đối với các cán bộ công tác thực tiễn, đặc biệt là cán bộ làm công tác xét xử sẽ giúp ích một phần nào cho việc vận dụng vào quá trình giải quyết các vụ án đã và đang xảy ra trong thực tế. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và được kết cấu gồm ba chương.
  • 11. 5 Chương 1. Các cơ sở của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; Chương 2. Thực trạng định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Long An; Chương 3. Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
  • 12. 6 Chương 1 CÁC CƠ SỞ CỦA ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. Cơ sở lý luận của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.1.1.1. Khái niệm định tội danh Theo khoa học luật hình sự, BLHS là văn bản pháp lý duy nhất quy định về tội phạm và hình phạt. Chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS với tên gọi cụ thể mới được xem là tội phạm và phải chịu hình phạt. Có thể xác định định tội là xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra với các dấu hiệu tương ứng trong quy phạm PLHS sẽ trở thành khuôn mẫu pháp lý làm cơ sở cho người tiến hành tố tụng để có thể so sánh, đối chiếu với những hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra trên thực tế, từ đó xác định được người phạm tội đã phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của BLHS. Tuy nhiên, khái niệm và đặc điểm định tội danh, chưa được quy định trong phần chung của BLHS năm 2015. Hiện nay, các luật gia, các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về định tội danh: Quan điểm khác cho rằng“Định tội danh là quá trình nhận thức lý luận có tính logic, là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định,nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật” [9, tr.716].
  • 13. 7 Theo quan điểm nêu trên, thì định tội danh trước hết là quá trình nhận thức lý luận có tính logic, có nghĩa là khi tiến hành định tội danh phải tuân theo các quy luật nhận thức nhất định, là hoạt động thực tiễn ADPLHS, hoạt động này là do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành theo quy định và được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự được thu thập theo đúng quy định của PLTTHS, để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP tương ứng do LHS quy định nhằm đạt được sự thật khách quan. Từ khái niệm chung này, cần nêu khái niệm định tội danh tội LDTNCĐTS. Hoạt động định tội danh nói chung và định tội danh tội LDTNCĐTS nói riêng là tổng hợp các quy định của PLHS và pháp luật TTHS nhằm đảm bảo cho việc xác định chính xác hành vi của người phạm tội thỏa mãn CTTP quy định tại Điều, Khoản nào của BLHS, là cách thức mà các chủ thể lựa chọn các quy phạm tương ứng để điều chỉnh hành vi cũng như các quy định của pháp luật TTHS về trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử cần áp dụng để việc truy cứu TNHS người phạm tội được tiến hành nhanh chóng, chính xác, khách quan. Tội LDTNCĐTS là một trong những tội phạm khá phổ biến và xảy ra trong thực tiễn cuộc sống nhất là trong lĩnh vực dân sự và được PLHS qua các thời kỳ xác định là tội phạm bằng nhiều quy định khác nhau. Khi chưa có BLHS năm 1985 thì việc xử lý tội phạm LDTNCĐTS được thực hiện thông qua các văn bản pháp luật riêng lẻ được Nhà nước ban hành, điển hình là hai Pháp lệnh được ban hành năm 1970 gồm Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản công dân. Thời điểm này, tội LDTNCĐTS được xác định là hành vi“bội tín” cho đến khi BLHS Việt Nam đầu tiên được ban hành năm 1985 đã quy định về tội danh này mới được sửa đổi và thống nhất với tên gọi là tội LDTNCĐTS nhưng có sự tách biệt ở hai điều luật cụ thể tương ứng với các hình thức sở hữu tài sản và được Nhà nước ưu tiên bảo vệ ở các mức độ khác nhau mức hình phạt áp dụng với quy định về tội LDTNCĐTS của Nhà nước nặng hơn so với quy định hình phạt áp dụng hành vi phạm tội LDTNCĐTS của công dân. Đến khi BLHS năm
  • 14. 8 1999 có hiệu lực quy định tại Điều 140 đã đánh dấu cột mốc quan trọng quy định thống nhất hành vi của người phạm tội LDTNCĐTS của công dân, của Nhà nước trong một tội danh. Trước yêu cầu đổi mới của đất nước và hội nhập quốc tế, Quốc hội đã ban hành luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS năm 1999 theo hướng quy định nâng cao giá trị định lượng đối với tài sản bị chiếm đoạt từ một triệu đồng lên mức bốn triệu đồng. Để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập cũng như phù hợp với tình hình thực tiễn về phát triển kinh tế – xã hội nên BLHS năm 2015 ra đời đánh dấu một bước tiến mới trong kỹ thuật lập pháp Tội LDTNCĐTS được thực hiện bằng những hành vi cụ thể, bao gồm: “Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối. Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”. Tuy nhiên, muốn đảm bảo tính chính xác khi xây dựng khái niệm về tội LDTNCĐTS cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa quy định về tội phạm nói chung tại Khoản 1 Điều 8 BLHS và Điều 175 BLHS năm 2015. Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 quy định “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá…”[29, tr.13]. Đây là khái niệm đầy đủ và hoàn chỉnh về mặt khoa học, nội dung cũng như hình thức, thể hiện đầy đủ các đặc trưng của tội phạm, là cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện các quy định về CTTP với từng tội danh cụ thể. Hiện nay hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận hành vi LDTNCĐTS trong BLHS cũng giống như ở nước ta là quy định hình phạt tương ứng với hành vi này ở các mức độ khác nhau như: BLHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không ghi nhận trực tiếp về tội phạm này nhưng tại Điều 270 quy định “Người nào chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác được người đó nhờ bảo quản với số lượng tương đối lớn và không chịu hoàn trả người đó thì bị phạt....” [16, tr.172].
  • 15. 9 Theo Đề cương bài giảng luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học An ninh nhân dân định nghĩa“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt toàn bộ hay một phần tài sản được giao trên cơ sở hợp đồng đã được giao kết giữa chủ tài sản và người có hành vi chiếm đoạt” [46, tr.120]. Theo bình luận khoa học BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) của TS Trần Văn Biên và TS Đinh Thế Hưng đưa ra định nghĩa“ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt bằng thủ đoạn vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó, hoặc, đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản” [4, tr.226]; hay theo bình luận khoa học phần chung BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) của luật gia Nguyễn Ngọc Điệp biên soạn khái niệm“ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, được hiểu là hành vi sau khi vay, mượn, thuê hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng đã dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản” [15, tr.121]. Tóm lại, theo quan điểm tác giả cho rằng khái niệm“tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi sau khi vay, mượn, thuê tài sản hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng đã dùng thủ đoạn gian dối hoặc đến thời hạn trả lại mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả lại tài sản hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”. Khi chúng ta nêu được khái niệm tội LDTNCĐTS có ý nghĩa quan trọng cho việc nghiên cứu và tiếp cận các vấn đề có liên quan đến việc định tội danh đối với tội phạm này ở phần sau, góp phần làm rõ về mặt lý luận trong việc định tội danh đối với tội phạm này ở nhiều phương diện khác nhau mà đặc biệt góp phần làm rõ về các yếu tố CTTP này.
  • 16. 10 1.1.1.2. Đặc điểm của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Trước hết, định tội danh tội LDTNCĐTS được tiến hành bởi những chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, là hoạt động có tính logic được tiến hành bởi các cơ quan có tiến hành tố tụng gồm CQĐT, VKS, TA và một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thông qua những người tiến hành tố tụng thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ được quy định cụ thể trong BLTTHS năm 2015. Các chủ thể này ngoài việc được trang bị vốn kiến thức nhất định về pháp luật còn được phép sử dụng tất cả các công cụ cần thiết cũng như biện pháp nghiệp vụ mà pháp luật cho phép trên cơ sở trình tự, thủ tục được pháp luật TTHS quy định để xác định sự tương thích giữa hành vi phạm tội và dấu hiệu cấu thành của tội LDTNCĐTS, trên cơ sở đó có quyết định đúng đắn về mặt tội danh đối với người phạm tội để đưa ra mức hình phạt hợp lý. Thứ hai, định tội danh tội LDTNCĐTS là hoạt động ADPL trong thực tiễn được tiến hành bởi các chủ thể tiến hành tố tụng và một số chủ thể có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật TTHS, là quá trình phức tạp đòi hỏi khi thực hiện phải có sự hỗ trợ tích cực từ các biện pháp nghiệp vụ cần thiết. Do vậy, muốn đảm bảo tính chính xác trong việc định tội danh tội LDTNCĐTS thì hoạt động này phải được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm CQĐT, VKS, Tòa án và một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật. Phải xác định có hành vi nguy hiểm cho xã hội hay không. Việc xác định có hành vi phạm tội LDTNCĐTS xảy ra hay không là rất khó. Cho nên các chủ thể có thẩm quyền cần áp dụng các biện pháp, kết hợp với kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp, vốn kiến thức lý luận và thực tiễn để đưa ra kết luận hành vi có dấu hiệu tội phạm hay không hay chỉ đơn thuần là những vi phạm dân sự, lẽ ra họ là bị đơn trong vụ án dân sự hay vụ án kinh doanh thương mại. Thứ ba, định tội danh tội LDTNCĐTS là việc ADPLHS vào thực tiễn bởi các chủ thể tiến hành tố tụng bằng việc ban hành các văn bản, quyết định tố tụng nhằm
  • 17. 11 mục đích giải quyết vụ án hình sự phù hợp với các quy phạm PLHS và các quy phạm pháp luật TTHS. Thứ tư, mục đích của việc định tội danh tội LDTNCĐTS là xác định chính xác người thực hiện hành vi phạm tội, phạm tội gì, thuộc điều, khoản nào được quy định trong BLHS nhằm buộc họ phải chịu TNHS, hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm và hậu quả của hành vi phạm tội đã gây ra. 1.1.1.3.Ý nghĩa của việc định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Định tội danh đúng tội LDTNCĐTS sẽ giúp cho việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này có căn cứ; là cơ sở để áp dụng đúng các quy định TTHS, đảm bảo việc truy cứu TNHS đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội góp phần nâng cao uy tín, chất lượng của các cơ quan ngành tư pháp mà đặc biệt là Tòa án án. Định tội danh đúng tội LDTNCĐTS là tiền đề cho việc quyết định hình phạt đảm bảo tính chính xác; thể hiện ý thức tuân thủ pháp luật, trình độ chuyên môn, hiệu quả hoạt động của cơ quan, người tiến hành tố tụng nhưng quan trọng nhất là Thẩm phán trong việc ban hành quyết định, bản án thật sự nghiêm minh, công bằng và đúng pháp luật. Định tội danh đúng tội LDTNCĐTS sẽ giúp cho việc ADPL một cách đúng quy định, đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà người phạm tội thực hiện được quy định tại Điều 175 BLHS năm 2015. Định tội danh sai hậu quả tất yếu là quyết định hình phạt sẽ sai, làm cho hình phạt đã tuyên không phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi nguy hiểm cho xã hội, làm cho người bị kết án không thấy được lỗi do hành vi mà mình thực hiện. Từ đó, không tự giác tuân thủ pháp luật, không thuyết phục quần chúng nhân dân về tính đúng đắn và tính nghiêm minh của bản án, làm giảm tính tuyên truyền và giáo dục pháp luật của bản án. Tóm lại, định tội danh đúng có ý nghĩa chính trị - xã hội và pháp lý là đảm bảo quyền con người và công bằng xã hội, là kênh hiện thực hóa chính sách hình sự
  • 18. 12 vào thực tiễn, là yếu tố bảo đảm chính xác tình hình tội phạm trong một không gian, thời gian nhất định. 1.1.2. Chủ thể, các giai đoạn và các trường hợp định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.1.2.1. Chủ thể của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Từ việc nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn thấy rằng, định tội danh tội LDTNCĐTS do bởi các chủ thể là cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành. Theo qui định tại Khoản 1 Điều 34 BLTTHS năm 2015, thì chủ thể tiến hành định tội danh gồm: CQĐT, VKS, Tòa án và một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ như: Bộ đội biên phòng; Hải quan; Kiểm lâm; Các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển; Các cơ quan của Kiểm ngư; Các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Các cơ quan cụ thể được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được quy định tại Khoản 1 Điều 35 BLTTHS năm 2015 [32, tr.25, 26,27,28]. Bên cạnh đó, còn có các cán bộ khoa học, tác giả các bài viết, bài báo, giảng viên, sinh viên luật hay bất kỳ một người nào quan tâm, có kiến thức pháp luật cũng có thể tiến hành định tội danh. Các chủ thể trên có đặc điểm chung là khi tiến hành định tội danh cũng thực hiện việc lựa chọn và so sánh các dấu hiệu của quy phạm pháp luật với thực tế khách quan để làm cơ sở cho sự xác định sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội với CTTP cụ thể. Người tiến hành tố tụng khi tiến hành định tội danh sẽ có ưu thế hơn với các chủ thể khác vì họ có điều kiện tiếp cận và nắm chính xác, cụ thể các tình tiết khách quan của vụ án nên định tội danh sẽ chính xác và phản ánh được bản chất của vụ án hình sự, còn định tội danh do các chủ thể khác chỉ là sự thể hiện ý kiến cá nhân, quan điểm pháp lý nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong quá trình nghiên cứu pháp luật. 1.1.2.2. Các giai đoạn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Để bảo đảm định tội danh đúng cần tiến hành theo trình tự nhất định, gồm các giai đoạn:
  • 19. 13 Thứ nhất, xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội Là một trong những bước rất quan trọng của định tội danh, bởi vì hành vi xảy ra như thế nào nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của định tội danh cho nên các chủ thể có thẩm quyền cần phải vận dụng kiến thức lý luận, thực tiễn và kết hợp những kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp để đưa ra kết luận hành vi có dấu hiệu tội phạm hay là những vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế. Chính vì thế, các chủ thể cần phải xác định tầm quan trọng của thu thập, kiểm tra, đánh giá toàn diện chứng cứ chứng minh sự thật của vụ án. Các chủ thể khi xác định sự thật khách quan của vụ án, khi tiến hành điều tra, truy tố và xét xử phải đảm bảo sự vô tư, khách quan, không suy diễn hay định kiến, mà phải dựa vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập hợp pháp, đúng trình tự pháp luật và được kiểm tra, phân tích, đánh giá theo quy định của pháp luật. Thứ hai, nhận thức nội dung của các quy định trong BLHS một cách đúng đắn Một hành vi phạm tội được xác định do chủ thể có năng lực TNHS và độ tuổi mà BLHS đã quy định khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì cần tiến hành đối chiếu, so sánh các dấu hiệu pháp lý đặc trưng, nhận định mức độ liên quan và sự phù hợp giữa hành vi diễn ra trên thực tế với các yếu tố CTTP xem có thỏa mãn cấu thành tội LDTNCĐTS hay không? Nếu có thì thuộc Điểm, Khoản, Điều 175 của BLHS năm 2015. Khi ban hành BLHS, nhà làm luật đã đánh giá một cách toàn diện tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi tương ứng, quy định chế tài áp dụng đối với từng loại hành vi cũng như hiệu quả đạt được khi áp dụng các chế tài. Từ thực tiễn ADPLHS cho thấy còn nhiều khó khăn, vướng mắc về định tội danh tội LDTNCĐTS và quyết định hình phạt đối với các loại tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt và các tội xâm phạm sở hữu không mang tính chiếm đoạt dễ dẫn đến sự nhằm lẫn định tội danh giữa tội này với tội khác. Thứ ba, xác định mối quan hệ giữa các dấu hiệu thực tế và các dấu hiệu được quy định trong luật, trên cơ sở đó rút ra kết luận
  • 20. 14 Đây là bước quan trọng nhất của quá trình định tội danh. Các dấu hiệu của tội phạm được quy định trong luật và các tình tiết thực tế của vụ án là hai nhóm hiện tượng được hợp nhất, thống nhất trong quá trình định tội danh. Do đó, để định tội danh đúng, sau khi xác định sự thật khách quan của vụ án và tìm hiểu, phân tích các quy phạm PLHS để nhận thức đúng đắn, sâu sắc nội dung của nó nhằm lựa chọn đúng quy phạm PLHS tương ứng đã thoả mãn quy định tại Điều, Khoản nào của BLHS năm 2015. Thứ tư, đưa ra kết luận Trong từng giai đoạn tố tụng của từng cơ quan tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự thì sẽ kết luận về hành vi phạm tội gì, phải ban hành các văn bản tố tụng khác nhau và phải tương ứng với từng giai đoạn tố tụng như CQĐT ban hành Quyết định khởi tố, Quyết định không khởi tố…Viện kiểm sát ban hành Quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định, lệnh của CQĐT…, Tòa án, thì ban hành Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam, xử lý vật chứng…[32, tr.29, 40, 45]. Như vậy, định tội danh tội LDTNCĐTS phải được thực hiện bởi các giai đoạn nêu trên. Do đó, đòi hỏi người ADPL mà đặc biệt là Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa phải cân nhắc, am hiểu pháp luật mới thực hiện tốt mới đảm bảo cho việc định tội danh đúng và ban hành quyết định, bản án đúng người, đúng tội, nghiêm minh và có hiệu quả cao trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. 1.1.2.3. Các trường hợp định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản * Định tội danh theo CTTP cơ bản Các trường hợp phạm tội cụ thể của loại tội nhất định đều có những nội dung biểu hiện giống nhau ở cả bốn yếu tố của tội phạm. Đây là những dấu hiệu chung, đặc trưng của loại tội phạm đó và tổng hợp những dấu hiệu này chính là CTTP. Như vậy, “cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự” [47, tr.53].
  • 21. 15 Theo như Giáo sư.Tiến sĩ.Võ Khánh Vinh xác định “Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý duy nhất của việc định tội danh, là mô hình pháp lý có các dấu hiệu cần và đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự” [51, tr.68]. Cấu thành tội phạm cơ bản là CTTP chứa đựng các dấu hiệu đặc trưng, có ở mọi trường hợp phạm tội của một loại tội. Cấu thành tội phạm cơ bản thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của loại tội phạm đó và cho phép phân biệt với loại tội phạm khác và chứa đựng yếu tố định tội nhằm xác định tội phạm là hành vi đã đến mức là tội phạm và phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác. Đây là CTTP được thể hiện ở Khoản 1 của đa số các tội phạm của BLHS năm 2015. Cấu thành tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng và là cơ sở pháp lý của định tội danh [51, tr.68,69]. * Định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng Cấu thành tội phạm tăng nặng là cấu thành tội phạm bao gồm các dấu hiệu định tội và những dấu hiệu khác phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm tăng lên đáng kể. Định tội danh theo CTTP tăng nặng là việc định tội danh theo các dấu hiệu định khung tăng nặng hay nói cách khác đó là các tình tiết định khung tăng nặng TNHS được quy định tại các Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 Điều 175 BLHS năm 2015 của tội LDTNCĐTS. Có thể nói, tội phạm được thực hiện bởi những con người cụ thể khác nhau với những tình tiết, diễn biễn không giống nhau, để có căn cứ xác định mức độ nguy hiểm của một tội phạm một cách chính xác và triệt để đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc phân hoá TNHS và cá thể hoá hình phạt, Điều 50 BLHS năm 2015 đã quy định rõ một trong những căn cứ Toà án phải cân nhắc khi quyết định hình phạt là các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS nhưng khái niệm tình tiết tăng nặng TNHS lại chưa được nhà làm luật ghi nhận trong BLHS năm 2015. “Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là những tình tiết trong một vụ án cụ thể làm tăng mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và người phạm tội phải chịu một hình phạt nghiêm khắc hơn trong một khung hình phạt”, theo tác giả Đinh Văn Quế [26, tr. 236,237];
  • 22. 16 Tòa án khi áp dụng các tình tiết tăng nặng đối với người phạm tội “phải làm sáng tỏ ý thức chủ quan của người phạm tội để xét trường hợp này họ có phải thấy trước hoặc có thể thấy trước được tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hay không, thì mới được áp dụng tình tiết tăng nặng đó đối với họ” [26, tr. 239]; Đối với tội phạm trong vụ án LDTNCĐTS có thể có một tội phạm hoặc nhiều tội phạm, một người phạm tội hoặc nhiều người phạm tội, nên việc xác định tình tiết định tội và tình tiết tăng nặng TNHS chỉ trong phạm vi một tội phạm cụ thể mà không được sử dụng tình tiết định tội của tội phạm này làm tình tiết tăng nặng TNHS của tội phạm khác cũng như tình tiết tăng nặng của người phạm tội này làm tình tiết tăng nặng TNHS cho người phạm tội khác và có tính chất hỗ trợ cho các dấu hiệu CTTP để xác định chính xác, rõ ràng, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Cấu thành tội phạm nói chung và cấu thành tội LDTNCĐTS theo quy định tại Điều 175 BLHS năm 2015 với tình tiết tăng nặng TNHS thể hiện mối quan hệ giữa tính khái quát của PLHS và tính cụ thể của hoạt động ADPLHS. * Định tội danh trong trường hợp đặc biệt Định tội danh trong trường hợp chuẩn bị phạm tội Theo bình luận khoa học BLHS năm 2015 của TS. Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng đã liệt kê các hành vi coi là hành vi chuẩn bị phạm tội gồm:“Tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm và thành lập tham gia nhóm tội phạm” [4, tr. 26]. Chuẩn bị phạm tội là người phạm tội có những hành vi tạo ra điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó và không phải hành vi chuẩn bị phạm tội nào cũng bị truy cứu TNHS. Về TNHS ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội: Theo quy định của BLHS năm 1999 đã quy định người chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu TNHS về tội rất nghiêm trọng, hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, là giai đoạn đầu của quá trình phạm tội. Nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm cho hành vi xã hội còn rất thấp, khách thể chưa bị xâm phạm, hậu quả chưa xảy ra. Để xác định người chuẩn bị phạm tội đối với tội LDTNCĐTS có bị truy cứu TNHS hay không,
  • 23. 17 thì tại phần chung của BLHS năm 2015 quy định 02 điều luật về chế định “chuẩn bị phạm tội”, đó là Điều 14 và Điều 57 BLHS năm 2015. Theo Điều 14 BLHS năm 2015, thì“chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm trừ trường hợp quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299”. Đồng thời, theo Khoản 2 Điều 14 BLHS năm 2015 đã liệt kê các tội phạm mà người phạm tội phải chịu TNHS trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội, gồm 25 tội. Ngoài 25 trường hợp đã được liệt kê thì đối với các tội phạm khác mà người phạm tội mới chuẩn bị phạm tội thì không bị truy cứu TNHS. Như vậy, BLHS năm 2015 không có quy định giai đoạn chuẩn bị phạm tội đối với tội LDTNCĐTS [29, tr. 17]. Định tội danh trong trường hợp phạm tội chưa đạt Phạm tội chưa đạt là“cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt" [29, tr. 18]. Như vậy, phạm tội chưa đạt là giai đoạn thứ hai của quá trình phạm tội thể hiện mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn giai đoạn đầu là chuẩn bị phạm tội. Trường hợp phạm tội chưa đat, chủ thể đã thực sự bắt tay vào việc thực hiện tội phạm, các quan hệ xã hội được LHS xác lập và bảo vệ đã bắt đầu bị xâm hại, hậu quả đã gây ra cho xã hội, nên mức độ nguy hiểm cho xã hội của trường hợp này rõ ràng cao hơn so với trường hợp chuẩn bị phạm tội. Đồng thời, sẽ đặc biệt nguy hiểm hơn nếu không có căn cứ “do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn” ngăn chặn lại việc tiếp tục để hành vi phạm tội đó tiếp diễn [4, tr. 27, 28]. Như vậy, trường hợp phạm tội chưa đạt đối với tội LDTNCĐTS cũng được áp dụng để xử lý TNHS, vì đây là tội phạm có cấu thành vật chất, người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan hoặc hành vi đi liền trước hành vi khách quan là dùng thủ đoạn gian dối để chiếm cho bằng được tài sản của chủ sở hữu hoặc người đang quản lý tài sản tuy hậu quả chưa xảy ra, tội phạm không thực hiện đến cùng là chưa hoàn thành vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của tội phạm.
  • 24. 18 Định tội danh trong trường hợp đồng phạm Tội phạm xảy ra có thể do một chủ thể thực hiện, cũng có thể nhiều chủ thể khác nhau tham gia thực hiện.BLHS năm 1999 khẳng định kế thừa và phát triển chế định đồng phạm trong các BLHS trước đó thể hiện“Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. [29, tr.18]. Tại Điều 17 BLHS năm 2015 lại tiếp tục quy định về đồng phạm nhưng đã bổ sung thêm Khoản 4 “người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hiện”. Để xác định tội LDTNCĐTS khi thực hiện có đồng phạm hay không có thể dựa vào dấu hiệu mặt chủ thể, chủ quan và mặt khách quan của tội phạm đó. Khoa học luật hình sự và thực tiễn áp dụng các quy định của PLHS từ trước đến nay đều dựa vào dấu hiệu chủ quan và khách quan để phân loại các hình thức đồng phạm [4, tr. 30]. Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội Hiện nay khái niệm về phạm tội nhiều lần chưa được quy định tại Điều luật cụ thể nào trong BLHS năm 2015, chỉ quy định tại Điều 55 về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội. Phạm nhiều tội là trường hợp một người thực hiện hai tội phạm trở lên được định tội danh độc lập và hai tội này chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS và đưa ra xét xử một lần. Phạm nhiều tội là trường hợp một chủ thể phạm từ hai tội trở lên, theo đó mỗi một tội trong số đó được thực hiện ở những thời gian khác nhau hoặc khi hành vi của người phạm tội có dấu hiệu của từ hai tội trở lên mà những tội ấy được quy định tại các điều luật khác nhau hoặc các khoản khác nhau của cùng một điều luật nếu các đối tượng của tội phạm khác nhau được quy định trong phần các tội phạm của BLHS và người phạm tội chưa bị xét xử về tội nào trong số tội đó. 1.2. Cơ sở pháp lý của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.2.1. Các quy định khác thuộc phần chung của Bộ luật hình sự được áp dụng để định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Phần chung của BLHS năm 2015 gồm 12 chương. Trong phần chung của BLHS có các Điều luật liên quan đến việc định tội danh tội LDTNCĐTS như: Khái
  • 25. 19 niệm tội phạm (Điều 8); Tuổi chịu TNHS (Điều 12); Phạm tội chưa đạt (Điều 15)...phần chung BLHS không nêu hết các dấu hiệu cụ thể của bất kỳ một hành vi phạm tội nào, nhưng khi định tội, nhà làm luật phải đồng thời dựa vào cả hai nhóm quy phạm hình sự này vì, quy phạm phần chung và quy phạm phần các tội phạm có mối liên hệ hữu cơ với nhau và định tội danh chính là sự lựa chọn một quy phạm cụ thể đề cập đến một trường hợp cụ thể, vì thế việc áp dụng quy phạm phần các tội phạm phải dựa trên những quy phạm chung và nguyên tắc được quy định ở phần chung BLHS, các dấu hiệu của CTTP, về các giai đoạn của tội phạm; về đồng phạm…Ngoài ra, khi cơ quan tiến hành tố tụng định tội danh tội LDTNCĐTS còn phải căn cứ vào Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP, hướng dẫn, áp dụng một số quy định của BLHS năm 1999 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, Thông tư số hướng dẫn thi hành BLHS. 1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Tội phạm nói chung và tội LDTNCĐTSlà loại tội phạm thể hiện bản chất của hành vi phạm tội. Cho nên khi xây dựng quy định này, nhà làm luật đã cụ thể hóa tối đa các hành vi mà chủ thể phạm tội có thể thực hiện. Tại Điều 175 BLHS năm 2015 quy định như sau: 1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó
  • 26. 20 hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; e) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; b) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. 4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Để tìm hiểu rõ CTTP của tội LDTNCĐTS, thì chúng ta cần phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội này. 1.2.2.1. Cấu thành tội phạm cơ bản của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Mỗi tội phạm đều có những đặc trưng khác nhau và được quy định khác biệt trong BLHS năm 2015. Định tội danh là hoạt động của các chủ thể tiến hành tố tụng
  • 27. 21 trong quá trình thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, đi tìm sự tương thích giữa hành vi với các yếu tố cấu thành được ghi nhận trong BLHS nên để tội danh tội LDTNCĐTS được chính xác, toàn diện phải xác định đầy đủ các yếu tố cụ thể sau: * Khách thể của tội phạm Bất kỳ hoạt động nào của con người cũng nhằm vào những khách thể cụ thể, tồn tại ngoài ý thức, độc lập với ý thức của chủ thể và hoạt động phạm tội cũng vậy. Nhưng điều khác nhau cơ bản đó là hoạt động phạm tội không phải là để cải biến mà gây thiệt hại cho chính khách thể và những khách thể đó được luật hình sự bảo vệ [47, tr.62]. Đối tượng tác động của tội phạm là tài sản bao gồm: vật, tiền [4, tr.226]. Mỗi hành vi phạm tội sẽ xâm phạm đến những quan hệ xã hội khác nhau được luật hình sự bảo vệ và tội phạm nào cũng xâm phạm đến ít nhất một khách thể, nếu như hành vi không xâm phạm bất cứ khách thể nào không được xem là tội phạm và không thực hiện việc truy cứu TNHS. Tội LDTNCĐTS xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài sản của chủ sở hữu được pháp luật bảo vệ. Đối tượng của tội phạm này được xác định là tài sản, bao gồm vật, tiền, quyền, giấy tờ có giá và quyền tài sản theo quy định tại Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 [28, tr. 62]. Tuy nhiên, để trở thành đối tượng của tội phạm này thì tài sản phải thỏa mãn những đặc điểm nhất định sau: Tài sản phải là vật chất và có giá trị sử dụngphải đang có chủ sở hữu và có thể chuyển dịch trong giao lưu dân sự. Quyền sở hữu tài sản phải là hợp pháp và được pháp luật công nhận, bảo vệ, đó cũng phải là tài sản mà có thể đem ra giao dịch, mua bán, trao đổi trên thị trườngthỏa mãn được các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người mới được xem là đối tượng tác động của tội LDTNCĐTS, ngược lại những tài sản không có hoặc không còn giá trị sử dụng không thể trở thành đối tượng tác động của tội phạm này. [49, tr 164, 165]. Để xác định một người phạm vào tội này, hành vi của người đó phải đã thỏa mãn các dấu hiệu cơ bản nêu trên. Đồng thời, các dấu hiệu này cũng là cơ sở để
  • 28. 22 phân biệt tội LDTNCĐTS với các tội phạm khác như tội lừa đảm chiếm đoạt tài sản; tội tham ô tài sản hay tội trộm cắp tài sản… * Mặt khách quan của tội phạm Là những biểu hiện của tội phạm diễn ra và tồn tại trong thế giới khách quan, gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện tội phạm như thời gian, địa điểm, phương tiện, công cụ phạm tội, hoàn cảnh phạm tội [48, tr.114]. Hành vi khách quan của tội phạm là những xử sự có ý thức và có ý chí của con người được thể hiện ra thế giới khách quan dưới những hình thức nhất định, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc của tất cả các tội phạm [48, tr.115]. Người thực hiện hành vi phạm tội LDTNCĐTS đã định hình ý thức chiếm đoạt tài sản của người khác và thể hiện nó ra bên ngoài thông qua hành vi cụ thể, đây là hoạt động có ý thức và có ý chí của chủ thể thực hiện hành viđể chiếm đoạt cho được tài sản của chủ sở hữu hoặc người đang quản lý. Có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, là hành vi chuyển dịch một cách trái phép tài sản của người khác thành tài sản của mìnhsau khi vay, mượn, thuê hoặc nhận được tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả. Mặt khách quan của tội LDTNCĐTS bao gồm các yếu tố - Về hành vi khách quan của tội phạm Trong các yếu tố CTTP của tội phạm LDTNCĐTS được quy định Khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015, thì hành vi khách quan, có những tình tiết khó chứng minh, cụ thể như sau: + Tại điểm a khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015 quy định: “Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”.
  • 29. 23 Theo quy định“đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả” vẫn chưa được các cơ quan có thẩm quyền giải thích, hướng dẫn. Nhưng một người sau khi vay, mượn, thuê tài sản bằng các hình thức hợp đồng rồi họ bỏ địa phương đi nhưng để lại tài sản hợp pháp, thì có thể khởi tố họ và để chứng minh hành vi “có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả” được hiểu như thế nào là vấn đề còn nhiều vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, nên đã phát sinh nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm cho rằng, chỉ cần xác định được tình tiết một người nào đó sau khi nhận được tài sản bằng các hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng không trả tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản hợp pháp là đủ cơ sở kết luận người đó phạm tội LDTNCĐTS. +Tại điểm b khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015 quy định: “vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”. Như vậy, chỉ các trường hợp người nhận được tài sản đã sử dụng tài sản đó vào “mục đích bất hợp pháp”như: buôn lậu, rửa tiền, sản xuất, buôn bán ma túy… nhưng họ dùng vốn vay để tiêu xài, xây nhà cửa, mua sắm đồ dùng, phương tiên đi lại dẫn đến khi đến hạn không có điều kiện, khả năng trả nợ thì không coi là sử dụng tài sản vào “mục đích bất hợp pháp” thì không phải bị xử lý TNHS. Trường hợp vay, mượn tiền với số lượng rất lớn sau đó sử dụng tài sản vào việc tiêu xài hoang phí dẫn đến không khả năng trả nợ, lại không thể truy cứu TNHS đối với họ, vì việc dùng tiền vay, mượn để ăn chơi, tiêu xài…chỉ có thể xem xét đánh giá họ vi phạm đạo đức xã hội không được xem là việc làm “bất hợp pháp”. Thực tế hiện nay trên địa bàn tỉnh Long An, các vụ vỡ nợ phát sinh từ hợp đồng vay, hợp đồng góp hụi, giá trị tài sản lên đến hàng chục tỷ đồng xảy ra rất nhiều nơi đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân nhưng khi người bị hại có đơn yêu cầu đề nghị CQĐT công an huyện, thành phố và cơ quan Cảnh sát điều tra công an tỉnh Long An để xử lý
  • 30. 24 các hành vi nêu trên nhưng hầu hết các cơ quan không thể xử lý các trường hợp này bằng pháp luật hình sự được mà chuyển sang các vụ án dân sự dẫn đến khả năng thu hồi tài sản hoặc đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người bị hại không được bảo vệ. - Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi: Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ [48, tr.121]. Là tội phạm có cấu thành vật chất nên hậu quả được xác định là yếu tố bắt buộc đối với cấu thành của tội LDTNCĐTS. Tại Điều 175 BLHS năm 2015 quy định mức định lượng tài sản tối thiểu đối với tài sản bị chiếm đoạt phải trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ...thì mới có thể bị xử lý về tội phạm này. + Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt. Theo quy định của Thông tư 02/2001, bị coi là đã bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt nếu trước đó họ đã bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật theo đúng quy định của cơ quan có thẩm quyền về một trong các hành vi chiếm đoạt như: cướp tài sản; bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; cưỡng đoạt tài sản; cướp giật tài sản; công nhiên chiếm đoạt tài sản; trộm cắp tài sản; lừa đảo chiếm đoạt tài sản; LDTNCĐTS; tham ô tài sản; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà chưa hết thời hạn để được coi là chưa từng vi phạm thì người thực hiện hành vi LDTNCĐTS dù tài sản có giá trị dưới bốn triệu đồng vẫn có thể bị truy cứu TNHS về tội phạm này. + Đã bị kết án về tội chiếm đoạt chưa được xóa án tích. Tương tự trường hợp “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt”, người phạm tội có thể bị truy cứu TNHS về tội LDTNCĐTS với giá trị tài sản dưới bốn triệu đồng nếu trước khi thực hiện hành vi LDTNCĐTS, họ đã bị kết án về một trong các hành vi chiếm đoạt, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. - Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả là mối liên hệ giữa một hiện tượng là hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội đóng vai trò là nguyên nhân với
  • 31. 25 một hiện tượng là hậu quả nguy hiểm cho xã hội đóng vai trò là kết quả việc thực hiện hành vi phạm tội là dấu hiệu bắt buộc đối với các tội phạm có CTTP vật chất [48, tr.124]. Người phạm tội LDTNCĐTS chỉ có thể bị xử lý nếu như hành vi của họ là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả và hậu quả là thiệt hại về tài sản chỉ xuất phát từ hành vi mà người phạm tội thực hiện. * Chủ thể của tội phạm Là một trong những yếu tố quan trọng trong việc xác định có hành vi phạm tội, vì chỉ khi nào xác định được chủ thể của tội phạm mới tiến hành định tội danh và truy cứu TNHS. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng trong các BLHS trước đây và ngay cả BLHS năm 1999 là“một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm” cũng quy định chỉ có con người mới là chủ thể của tội phạm [30, tr.45]. Tội LDTNCĐTS, chủ thể thực hiện tội phạm được xác định là cá nhân phải đủ tuổi chịu TNHS và có đầy đủ khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi. Người từ đủ 16 tuổi trở lên mới có thể bị truy cứu TNHS về tội LDTNCĐTS của người khác. Chủ thể của tội LDTNCĐTS phải có năng lực TNHS. Năng lực trách nhiệm hình sự được hiểu là khả năng nhận thức của cá nhân về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và khả năng điều khiển hành vi đó, tức họ có sự lựa chọn thực hiện hay không thực hành vi nguy hiểm cho xã hội đó. Người có năng lực TNHS trước hết phải đạt tới một độ tuổi nhất định để đảm bảo rằng cá nhân đó có khả năng nhận thức đầy đủ về tính chất pháp lý của hành vi mà mình gây ra và có đủ khả năng điều khiển được hành vi đó. Chủ thể của tội LDTNCĐTS phải đủ tuổi chịu TNHS, tại Điều 12 BLHS năm 2015 quy định về độ tuổi chịu TNHS“Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác” [29, tr.15]. Đối với tội LDTNCĐTS phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu TNHS đối với loại tội phạm này. Bởi vì, họ là người chưa có năng lực TNHS đầy đủ nên chỉ chịu TNHS về một
  • 32. 26 số tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nghiêm trọng do cố ý được quy định tại Khoản 2 Điều 12 BLHS năm 2015 [29, tr.15, 16]. Như vậy, để định tội danh tội LDTNCĐTS phải là cá nhân có năng lực chịu TNHS và đạt độ tuổi từ 16 tuổi trở lên. Đây là một trong các điểm mới của BLHS năm 2015 so với BLHS năm 1999. BLHS năm 2015 đã quy định sự tách bạch rõ ràng hơn về độ tuổi chịu TNHS đối với người bị kết án tội LDTNCĐTS. *Mặt chủ quan của tội phạm Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm bao gồm“Lỗi, động cơ, mục đích” [48, tr.152]. Trong đó yếu tố lỗi là bắt buộc với tất cả các loại tội phạm, không có lỗi thì hành vi không bị xem là tội phạm và không truy cứu TNHS. Tội LDTNCĐTS được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra [29, tr. 14]. Việc xác định lỗi trong tội này là hành vi làm thiệt hại về tài sản, làm mất quyền sở hữu của chủ tài sản nhưng vẫn thực hiện. Ban đầu khi giao kết hợp đồng, người phạm tội vẫn mong muốn thực hiện hợp đồng, chỉ sau khi nhận được tài sản, ý thức chiếm đoạt mới hình thành, vì thế họ bị truy cứu TNHS về tội phạm này. Động cơ, mục đích phạm tội: Là những dấu hiệu bắt buộc của một hành vi có ý chí, là những yếu tố nằm trong nội dung của mặt chủ quan. Theo từ điển tiếng việt, thì “Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người thực hiện hành vi phạm tội” [50, tr.212]; hay một cách hiểu khác “Động cơ phạm tội được hiểu là động lực từ bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội” [48, tr.168]. Trong tội LDTNCĐTS, thì động cơ phạm tội là “vì vụ lợi”. Mục đích phạm tội“là kết quả trong ý thức mà người phạm tội mong muốn đạt được khi thực hiện tội phạm” [48, tr. 169]. Mục đích phạm tội trong tội này phải gắn liền với các hành vi dùng thủ đoạn gian dối, hành vi bỏ trốn, hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả. Nếu không có mục đích chiếm đoạt tài sản hoặc mục đích chiếm đoạt tài sản có trước thời điểm nhận tài sản thông qua
  • 33. 27 hợp đồng, thì người thực hiện hành vi phạm tội không phạm tội này hoặc sẽ phạm vào tội khác. Động cơ và mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội LDTNCĐTS. Ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội LDTNCĐTS. Như vậy, bốn yếu tố CTTP của tội LDTNCĐTS có quan hệ chặt chẽ với nhau, tồn tại khách quan, không thể tách rời nhau. Là cơ sở pháp lý để truy cứu TNHS và để định tội danh chính xác đối với tội nêu trên. Cho nên, quá trình định tội danh của tội phạm này, cơ quan, người tiến hành tố tụng không được bớt hoặc thêm bất kỳ dấu hiệu nào. Mọi sự thêm, bớt hoặc xác định không đúng dấu hiệu nào đó đều ảnh hưởng đến việc định tội danh. 1.2.2.2. Cấu thành tội phạm tăng nặng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Như đã trình bày tại mục 1.1.2.3. Các trường hợp định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, cấu thành tội phạm tăng nặng của tội LDTNCĐTS là CTTP có một trong những tình tiết sau: Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có tổ chức Phạm tội có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải tội LDTNCĐTS có tổ chức nào cũng đủ những người giữ vai trò nêu trên. Trong tội phạm này, thì người thực hành là người trực tiếp thực hiện hành vi, những thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản từ chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản [26, tr. 257]. Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp Tình tiết “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” vẫn được giữ nguyên là tình tiết định khung tăng nặng của nhiều điều luật trong Chương các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có tội LDTNCĐTS hoặc là tình tiết tăng nặng TNHS. Điều này cho
  • 34. 28 thấy đây là một tình tiết phổ biến trong quan hệ xã hội cần được pháp luật hình sự bảo vệ và quy định. Sau khi BLHS năm 2015 có hiệu lực cho đến nay, chưa có văn bản nào thay thế Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1999 (viết tắt là Nghị quyết số 01), trong đó có quy định thế nào là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Cho nên, trong thực tiễn ADPLHS hiện nay, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng vẫn áp dụng quy định của Nghị quyết số 01 để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm có liên quan đến tính chất chuyên nghiệp [45, tr. 4,5]. Phạm tội có tính chuyên nghiệp là trường hợp có từ 05 lần trở lên phạm tội LDTNCĐTS, trong đó có lần đã bị xét xử nhưng chưa xóa án tích, hoặc chưa lần nào bị xét xử và chưa lần phạm tội nào hết thời hiệu truy cứu TNHS; và người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính [4, tr. 221, 227]. Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng Trường hợp này xác định giá trị tài sản, là căn cứ giá thị trường vào thời điểm phạm tội. Trong trường hợp không xác định được giá trị tài sản chiếm đoạt thì phải trưng cầu giám định, là định giá tài sản. Do đặc điểm của tội này, người phạm tội chỉ chiếm đoạt tài sản khi tài sản đó đang do mình quản lý, nên chỉ một số trường hợp có giai đoạn phạm tội chưa đạt nên khi xác định tài sản bị chiếm đoạt có giá trị bao nhiêu còn phải căn cứ vào hành vi, thủ đoạn gian dối phạm tội cụ thể, không chỉ căn cứ vào giá trị tài sản mà người đang quản lý để xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Ví vụ: A vay của B với số tiền là 500.000.000 đồng vay nhiều lần bằng 05 giấy nợ với ngày tháng năm khác nhau. Nhưng A chỉ dùng thủ đoạn sửa chữa một giấy nợ với số tiền 50.000.000 đồng thành 30.000.000 đồng để chiếm đoạt số tiền 20.000.000 đồng, không phải sửa 04 giấy nợ còn lại. Trong trường hợp này A chỉ chiếm đoạt số tiền 20.000.000 đồng, không phải số tiền 500.000.000 đồng.
  • 35. 29 Lợi dung chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Trong trường hợp này, cần phải xác định Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức nào khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao nhiệm vụ thực viện một công việc nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Người có quyền hạn là người được giao thực hiện một công vụ và do thực hiện công vụ đó nên họ có một quyền hạn nhất định. Dùng thủ đoạn xảo quyệt để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Là trường hợp, người phạm tội dùng những thủ đoạn, cách thức thâm hiểm làm cho người bị hại khó lường trước để mà đề phòng. Thông thường, những thủ đoạn xảo quyệt người phạm tội dùng trong trường hợp này là sau khi đã nhận được tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản một cách hợp pháp rồi mới dùng thủ đoạn xảo quyệt để chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên cũng có trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt ngay trước khi nhận được tài sản của chủ sở hữu, nhưng thủ đoạn đó không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản chỉ nhằm ký kết được hợp đồng một cách hợp pháp, lúc dùng thủ đoạn xảo quyệt, người phạm tội chưa có ý định chiếm đoạt [26, tr. 258, 259]. Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong trường hợp gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội là phải nói đến hành vi của một cá nhân, pháp nhân làm phá vỡ trật tự, kỷ cương của xã hội một cách nghiêm trọng, khiến cho một bộ phận không nhỏ người dân mất niềm tin, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân… Trên thực tế đối với loại tội này, khi áp dụng tình tiết này sẽ gặp những khó khăn nhất định vì chưa có hướng dẫn cụ thể. Mặt khác, việc đánh giá tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” là tình tiết định khung cơ bản đối với từng hành vi phạm tội cụ thể tại các địa bàn, khi nào thì được xác định là tình tiết định khung cơ bản? Cơ quan nào
  • 36. 30 xác định “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” là tình tiết định khung của CTTP ? Lại chưa được các nhà lập pháp quy định. Theo tác giả cho rằng khi đánh giá tính chất của hành vi “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” trong vụ án lạm dụng là phải xem xét tính chất, hậu quả do hành vi phạm tội “gây ra hoặc có thể gây ra” xâm phạm nghiêm trọng đến trật tự, kỷ cương xã hội, xâm phạm đến sự mất ổn định nghiêm trọng đời sống của người dân, gây tâm lý phẫn nộ trong một phạm vi rộng khu dân cư, vụ việc diễn ra thường xuyên, liên tục... gây khó khăn cho công tác quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương. Theo tác giả, thì những trường hợp vỡ hụi, xâm phạm đến hoạt động tín dụng, Ngân hàng bị khởi tố về tội LDTNCĐTS đều là những hành vi “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”. Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong trường hợp tái phạm Trường hợp tái phạm trong vụ án lạm dụng tín nhiệm cũng giống như tất cả các trường hợp hợp tái phạm khác, chỉ cần xác định người phạm tội có đủ các dấu hiệu quy định tại Khoản 2 Điều 53 BLHS năm 2015. Đây là tình tiết thuộc về nhân thân của người phạm tội, không phụ thuộc vào hành vi phạm tội cụ thể của tội phạm này hay một tội phạm khác [29, tr. 40]. Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng và trị giá 500.000.000 đồng trở lên Như đã phân tích tình tiết LDTNCĐTS trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng. Khi xác định tài sản bị chiếm đoạt có giá trị bao nhiêu còn phải căn cứ vào hành vi, thủ đoạn gian dối phạm tội cụ thể, không chỉ căn cứ vào giá trị tài sản mà người đang quản lý để xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt, là cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng xác định được các tình tiết nào là định khung tăng nặng và theo khoản nào của điều luật đã được quy định trong BLHS.
  • 37. 31 1.2.3. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm khác Để có thể định tội danh chính xác tội LDTNCĐTS, cần phân biệt tội này với một số tội khác, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân, tội tham ô tài sản. 1.2.3.1. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Trong BLHS Việt Nam, các tội trong Chương các tội phạm xâm phạm sở hữu, có nhiều tội danh có một hoặc một số dấu hiệu pháp lý giống nhau, đặc biệt có những dấu hiệu về hành vi khách quan giống hoặc gần giống nhau. Điều này dễ dẫn đến sai lầm trong nhận thức về các tội phạm tương tự. Từ đó, dẫn đến sự sai lầm trong việc định tội danh cũng như quyết định hình phạt và mức hình phạt áp dụng với người phạm tội. Trong số đó, thường có sự nhầm lẫn giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội LDTNCĐTS vì cùng có dấu hiệu dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Qua nghiên cứu các bản án, có thể thấy rằng một số Tòa án còn nhầm lẫn trong việc xác định tội danh LDTNCĐTSvới tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi mặt khách quan của cả hai tội đều có hành vi gian dối, nhất là các trường hợp có ký kết hợp đồng dân sự. Để phân biệt hai tội này cần phải dựa vào một số điểm quan trọng sau: Thứ nhất, thời điểm người phạm tội nảy sinh ý thức mong muốn chiếm đoạt tài sản Về phương diện lý luận, nếu người phạm tội ngay từ thời điểm ban đầu đã có ý định chiếm đoạt tài sản nên có những hành vi gian dối dẫn đến việc ký kết hợp đồng giả tạo để từ đó được giao tài sản và như vậy họ chiếm đoạt tài sản thì được coi đây là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Còn tội LDTNCĐTS thì ban đầu khi chưa ký kết hợp đồng, người phạm tội chưa có ý thức chiếm đoạt tài sản nên việc ký hợp đồng là hợp pháp giữa người bị hại với người phạm tội. Hợp đồng này được ký kết trên cơ sở lòng tin giữa các bên và việc giao nhận tài sản dựa trên hợp đồng hợp
  • 38. 32 pháp. Sau khi nhận được tài sản, người phạm tội mới nẩy sinh ý định chiếm đoạt và thực hiện ý định chiếm đoạt bằng thủ đoạn bỏ trốn hay thủ đoạn gian dối. Thứ hai, dấu hiệu dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi dùng thủ đoạn gian dối là hành vi đưa ra những thông tin không đúng sự thật bằng những thủ đoạn rất đa dạng như qua lời nói, sử dụng giấy tờ giả hoặc giả danh người khác…để làm cho người có tài sản tin đó là thật và tự nguyện giao tài sản cho người có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản. Còn tội LDTNCĐTS, người phạm tội nhận tài sản của người khác là hoàn toàn ngay thẳng, hợp pháp thông qua những hợp đồng bằng miệng hoặc bằng văn bản. Hành vi gian dối trong tội LDTNCĐTS chỉ là những hành vi che đậy nhằm không trả lại tài sản hoặc giá trị tài sản theo đúng nghĩa vụ hợp đồng như giả tạo việc mất tài sản, đánh tráo tài sản, rút bớt số lượng tài sản… Ngoài ra, hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản trong tội LDTNCĐTS là hành vi chiếm đoạt và phải là chiếm đoạt được, nhưng khác với hành vi chiếm đoạt ở các tội phạm khác. Hành vi chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình. Dựa trên cơ sở đó, xem xét đến hành vi của người nhận được tài sản thông qua các hình thức hợp đồng ngay thẳng vay, mượn, thuê… tài sản sau đó khi đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả. Hành vi đó là hành vi chiếm đoạt, và mang bản chất của hành vi LDTNCĐTS. Như vậy, cùng là dấu hiệu“thủ đoạn gian dối” nhưng vai trò, ý nghĩa lại khác nhau giữa hai tội, và vì thế, cách thức thực hiện thủ đoạn gian dối cũng khác nhau. Thứ ba, việc giao nhận tài sản giữa người có tài sản với người phạm tội Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có ý định chiếm đoạt tài sản nên ngay từ đầu đã có hành vi gian dối tạo được niềm tin giả tạo cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản và có thể là do sự nhầm lẫn nên hợp đồng mới được lý kết. Do vậy, hợp đồng này dựa trên uy tín, niềm tin giả tạo nên bản chất không phải là hợp đồng hợp pháp theo quy định của Bộ Luật dân sự, mà đây là hình thức gian dối để
  • 39. 33 chiếm đoạt tài sản. Người có tài sản đã tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội là do người phạm tội đã có những hành vi, thủ đoạn gian dối để dựng lên những điều không đúng sự thật nhưng người có tài sản tin đó là thật và tự giác giao tài sản. Với người phạm tội LDTNCĐTS thì hợp đồng giữa đôi bên là hợp pháp, đúng đắn bởi khi ký kết hợp đồng các bên hoàn toàn trung thực, dựa trên sự tự do ý chí, sự tự nguyện khi giao kết. Hợp đồng ký kết hoàn toàn đáp ứng điều kiện về mặt pháp lý nên hợp đồng này hợp pháp. Do vậy, người phạm tội được giao tài sản một cách hợp pháp dựa trên cơ sở hợp đồng. Như vậy, về bản chất người phạm tội nhận được tài sản là đều do người có tài sản tự giác giao cho họ. Thứ tư, thời điểm chiếm đoạt tài sản – thời điểm hoàn thành tội phạm Cả hai tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội LDTNCĐTS được coi là hoàn thành tội phạm khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản. Ở thời điểm này người phạm tội có đầy đủ điều kiện khách quan và chủ quan để tự định đoạt tài sản đó theo mong muốn của mình. Như phân tích ở trên, theo quan điểm tác giả, hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gồm hai hành vi là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản sau khi thực hiện hành vi gian dối tạo được uy tín, niềm tin và dẫn đến ký kết hợp đồng và trên cơ sở hợp đồng, người phạm tội nhận được tài sản hoặc không phải giao tài sản mà đáng lẻ phải giao cho người bị lừa dối và khi làm chủ được tài sản trên thực tế thì coi như tội phạm đã hoàn thành. Còn tội LDTNCĐTS thì người phạm tội sau khi ký kết hợp đồng, được giao tài sản và tại thời điểm này người được chuyển giao tài sản chưa coi là có hành vi chiếm đoạt tài sản. Ở giai đoạn tiếp theo là thực hiện các cam kết trong hợp đồng thì người phạm tội LDTNCĐTS…mới có hành vi chiếm đoạt tài sản và được biểu hiện như cố ý không giao trả lại tài sản của người khác một cách trái pháp luật…Do vậy, thời điểm này mới coi là tội phạm hoàn thành. Sự khác biệt giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội LDTNCĐTS thể hiện ở một số điểm là thời điểm người phạm tội nảy sinh ý định phạm tội; cách thức thực
  • 40. 34 hiện thủ đoạn gian dối; tính chất việc giao nhận tài sản giữa các bên và thời điểm tội phạm hoàn thành. 1.2.3.2. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội tham ô tài sản Theo Điều 353 BLHS năm 2015 quy định tội tham ô tài sản là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý. Đối với tội tham ô là tài sản dấu hiệu về chủ thể của tội phạm là dấu hiệu quan trọng nhất để xác định tội phạm, sự khác nhau giữa tội tham ô tài sản với tội LDTNCĐTS là sự khác nhau về dấu hiệu thuộc chủ thể của tội phạm. Giống nhau: về hành vi chiếm đoạt tài sản, dấu hiệu chủ quan là lỗi cố ý trực tiếp. Khác nhau: về khách thể của tội phạm, tội tham ô tài sản xâm phạm vào sự hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, đồng thời xâm phạm vào sở hữu tài sản của cơ quan tổ chức đó; Về chủ thể chủ thể của tội tham ô là chủ thể đặc biệt, còn chủ thể của tội LDTNCĐTS là chủ thể thường, bất kỳ ai có năng lực TNHS, có độ tuổi nhất định; người phạm tội tham ô tài sản là người có chức vụ quyền hạn và có trách nhiệm quản lý đối với tài sản là người được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài sản như thủ kho, kế toán, người được giao vận chuyển tài sản của cơ quan, tổ chức, đơn vị của mình… Tóm lại, việc phân biệt giữa các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt với nhau, giữa các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác có ý nghĩa quan trọng để xác định ranh giới giữa các tội phạm được quy định trong BLHS và là căn cứ để xác định tội danh chính xác. 1.2.3.3. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân. Tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của công dân bằng thủ đoạn lạm dụng chức vụ quyền hạn. Tội LDTNCĐTS là hành vi chiếm đoạt toàn bộ hoặc một phần tài sản trong hợp đồng dân sự.
  • 41. 35 Giống nhau Khách thể của hai tội phạm này đều xâm phạm quyền sở hữu tài sản. Mặt chủ quan đều là người phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Mặt khách quan người phạm tội với hai tội nêu trên đều có hành vi lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản. Ngoài ra, hai tội phạm này đều là tội phạm cấu thành vật chất. Khác nhau Tội LDTNCĐTS, dối tượng tác động là tài sản do người phạm tội quản lý, còn tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, thì tài sản do người khác quản lý. Về chủ thể, tội LDTNCĐTS là người được chủ tài sản tín nhiệm giao quản lý tài sản, chủ thể thường. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội lạm dụng chức vụ quyền hạn là chủ thể đặc biệt là người có chức vụ. Về mặt khách quan Tội LDTNCĐTS người phạm tội đã thực hiện hành vi lạm dụng sự tín nhiệm của chủ tài sản chiếm đoạt toàn bộ hoặc một phần tài sản trong hợp đồng. Tội lạm dụng chức vụ quyền hạn người phạm tội đã lạm dụng chức vụ uy hiếp tinh thần chủ tài sản và gian dối để chiếm đoạt tài sản của công dân. Như vậy, tội LDTNCĐTS, thì người phạm tội đã chiếm đoạt tài sản mình được giao trên cơ sở hợp đồng. Tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân thì người phạm tội đã chiếm đoạt tài sản của công dân bằng thủ đoạn lạm dụng chức vụ quyền hạn của mình. 1.3. Cơ sở thực tiễn của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Để tiến hành định tội danh tội LDTNCĐTS, về mặt thực tế phải có hành vi LDTNCĐTS và hành vi đó phải có dấu hiệu của tội phạm nói chung và dấu hiệu của tội LDTNCĐTS như đã được quy định trong PLHS. Hành vi xảy ra trên thực tế phải là hành vi khách quan của tội phạm là yếu tố quan trọng nhất của mặt khách quan của tội phạm, không có hành vi thì tất cả
  • 42. 36 những yếu tố khác như hậu quả, phương tiện, công cụ, phương pháp phạm tội…không có ý nghĩa gì cả. Ngoài ra, những biểu hiện của mặt chủ quan nhưlỗi, mục đích, động cơ phạm tội cũng luôn gắn liền với hành vi khách quan cụ thể. Trong những năm gần đây, tình hình vay tài sản giữa cá nhân với cá nhân diễn ra khá phổ biến. Để vay được tài sản, giữa người vay và người cho vay chỉ căn cứ vào “lòng tin”, mối quan hệ gia đình, họ hàng, hàng xóm hoặc thông qua người trung gian có quan hệ với những người này mà không có bất cứ tài sản hoặc sự ràng buộc nào khác về trách nhiệm trả nợ; thủ tục vay thì đơn giản, nhanh gọn dẫn đến nhiều trường hợp người cho vay không thể, thậm chí không bao giờ lấy lại được tài sản của mình. Hậu quả của sự việc là các tranh chấp khó giải quyết, trong đó có một phần lỗi của chính người cho vay do lòng tham được trả lãi cao, bỏ qua phần thủ tục cần thiết, không có biện pháp xác minh việc sử dụng tài sản của người vay… Về phía người vay tài sản, khi không có khả năng thanh toán thì họ đưa ra rất nhiều lý do tưởng chừng như rất “hợp lý” để giải trình cho việc sử dụng tài sản đã vay như do làm ăn thua lỗ, người đi vay tiếp tục cho người khác vay để lấy lãi cao hơn…và cuối cùng là họ xin “khất” nợ người cho vay, thậm chí nói rõ là không có tiền để trả nợ cho người cho vay nên họ đã làm đơn tố cáo đến CQĐT có thẩm quyền để xem xét, xử lý về hình sự. Một số hành vi xảy ra đã được các cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử về tội LDTNCĐTS khi thỏa mãn các dấu hiệu CTTP được quy định tại Điều 140 BLHS năm 1999 hay Điều 175 BLHS năm 2015 đã được phân tích tại mục 1.2.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội LDTNCĐTS và hành vi này còn thời hiệu truy cứu TNHS, được quy định tại Điều 27 BLHS năm 2017. Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng, giữa cá nhân với tổ chức hoặc giữa tổ chức với tổ chức có đăng ký kinh doanh đã ký kết các hợp đồng tín dụng với nhau. Ngân hàng căn cứ các quy định về cho vay của Ngân hàng Nhà nước và các quy định pháp luật khác có liên quan để thực hiện cho vay. Khách hàng đến vay tại Ngân hàng phải đáp ứng đủ các điều kiện cho vay, ký hợp đồng tín dụng, hợp đồng