5. LỜI MỞ ĐẦU
Rất nhiều nhà văn, nhà thơ xuất phát từ
nghề dạy học. “Văn là đời”.Thơ là loại hình văn học
đặc biệt. Bởi vậy, đời trong thơ cũng rất đặc biệt, rất
riêng. Những người làm nghề dạy học may mắn hơn
các nghề khác là các thầy được tiếp xúc với hàng
trăm, hàng nghìn mảnh đời khác nhau từ học sinh,
phụ huynh với vô vàn nghề nghiệp khác nhau. Hơn
thế nữa, tầm nhìn cuộc sống của các thầy cô giáo còn
được mở ra từ muôn vàn các trang sách. Nghề dạy
học là một trong những môi trường thuận lợi cho việc
sáng tác văn học, đặc biệt là thơ ca. Có nhiều nhà thơ
lớn của nước ta từng làm nghề dạy học như Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Hồ Chí Minh, Lê Đại Thanh, Vũ Hoàng
Chương, Nguyên Hồng…
Gần nửa thế kỷ sống và làm việc ở Hải
Phòng với hơn 40 năm làm nghề dạy học, tôi khát
khao nghiên cứu, viết giới thiệu chân dung các thi
nhân Việt Nam, các thi nhân từng sống và làm việc ở
đất Cảng, thơ của các nhà giáo Hải Phòng.Tôi đã xuất
bản chân dung 46 nhà thơ được Hoài Thanh-Hoài
Chân giới thiệu tác phẩm “THI NHÂN VIỆT NAM”
do nhà xuất bản Văn hóa thông tin qua cuốn “Chân
dung thi nhân Việt Nam”… Tôi đã may mắn được
đọc, nghiên cứu, tìm hiểu thơ của nhiều nhà thơ Hải
Phòng và xuất bản hai tập “chân dung thi nhân Hải
Phòng , trong đó có nhiều nhà thơ là nhà giáo, có
nhiều nhà giáo làm thơ.
Ở tập sách “Chân dung nhà thơ- nhà giáo
Hải Phòng” lần này, tôi xin giới thiệu tiếp riêng thơ
5
6. của các nhà thơ là nhà giáo đã, đang sinh hoạt ở câu
lạc bộ thơ nhà giáo Hải Phòng và các câu lạc bộ thơ
khác đã có tác phẩm xuất bản mà tôi may mắn được
đọc. Mỗi tác giả, tôi xin phép được giới thiệu về:
+ Vài nét về tiểu sử.
+ Sự nghiệp văn học.
+ Những tác phẩm tiêu biểu
+ Các ý kiến cảm nhận về thơ và tác giả .
+ Một bài thơ khái quát vài nét cơ bản chân
dung nhà thơ – nhà giáo.
Hải Phòng có đông đảo các nhà thơ là nhà
giáo và cũng có nhiều nhà giáo đã xuất bản nhiều tập
thơ có giá trị.Việc sưu tầm, nghiên cứu, tìm hiểu về
họ chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu sót. Có tác
giả được nhiều người biết đến nhưng tôi lại chưa có
cơ hội được đọc tác phẩm. Tìm đọc được tác giả nào,
cảm nhận và hiểu biết được những gì, xin được giới
thiệu về thơ và các nhà thơ tới đó ( Thứ tự các tác giả
được giới thiệu theo thứ tự A,B,C… tên gọi hoặc bút
danh). Tôi có ý định tiếp tục đọc, tìm hiểu, giới thiệu
thơ và các nhà thơ là nhà giáo Hải phòng đang tiếp
tục sáng tác. Nội dung giới thiệu thể hiện cách nhìn
và nhận thức cá nhân, có thể không đồng nhất với tác
giả và bạn đọc. Quá trình đọc và nghiên cứu, tôi
không có điều kiện gặp trực tiếp các tác giả để xin ý
kiến trao đổi bản quyền. Kính mong các tác giả, người
thân gia đình và bạn đọc thông cảm, lượng thứ cho.
Tập sách có điều gì thiếu sót, bất cập, tôi
mong muốn đón nhận ý kiến góp ý của bạn đọc và
6
7. mọi người quan tâm. Người viết tập sách này chân
thành cảm ơn.
NGUYỄN CẢNH ÂN.
LỜI GIỚI THIỆU
7
8. 1. TRỊNH BÌNH AN
(1940)
A. TIỂU SỬ:
+ Họ và tên: Trịnh Bình An.
+ Sinh ngày 31/8/1940
+ Địa chỉ: Nhà 9b/106 Phố Lương Khánh Thiện,
Hải Phòng.
+ Điện thoại: 031.3746546 - 0904.389464.
+ Nguyên giảng viên chính trường Đại Học Hải
Phòng.
+Trưởng phòng nghiên cứu khoa học, trung tâm
KHXH & NV.
+ Uỷ viên thường vụ, chánh văn phòng Hội khoa
học Kinh tế Hải Phòng.
8
9. + Phó chủ tịch thường trực Hội đồng Sáng lập
trường đại học Tân thành…
+ Hội viên câu lạc bộ thơ Cung văn hóa Hữu nghị
Việt Tiệp
+ Hội viên câu lạc bộ thơ nhà giáo Hải Phòng.
+ Hội viên câu lạc bộ thơ “Nhà văn hóa trung tâm
thành phố”
B. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
*THAM GIA VIẾT: Tác giả tham gia viết và
đăng bài ở nhiều báo, tạp chí
Trung ương và địa phương.
*ĐÃ XUẤT BẢN:
Hương biển ( NXB Hội nhà Văn –
2012 )
Trong tập thơ “Hương biển” có hai bài thơ: “Tình
biển”, “Chiều nghiêng” được ba nhạc sĩ Thanh
Hiền, Ngọc Phát và Nguyễn Kim phổ nhạc.
9
10. * NHỮNG BÀI THƠ THAM KHẢO
1. Tình biển.
( Thân tặng đôi bạn Hoàng thế Vinh
và Hoàng thị Ngoan)
Mây giăng khuất chân trời
Buông màn mưa xa cách hai nơi
Em ở đâu đầu nguồn con nước
Anh ngồi đây nghe sóng vọng xa khơi
Cửa bể vắng chiều xanh vời vợi
Se lòng man mác thủy triều lên
Hải đăng chong mắt đêm thức đợi
Có cánh buồm nào ngược bến sông trên ?
Cứ dào dạt mênh mang xao động
Nỗi nhớ cồn cào bào mặt biển xa
Nhờ gió vượt dẫy núi kia cao rộng
Đem đến nàng chút hương biển giùm ta.
Sóng bạc đầu vì trầm tư suy nghĩ
Chung thủy ru bờ chẳng bao giờ ngơi nghỉ
Cho mối tình biển cả mênh mông
Như tình anh
10
11. em có biết không ?!
Bến Nghiêng –Đồ sơn hè 1964
Hải phòng, sửa 11-2007
TRỊNH BÌNH AN
Chiều nghiêng.
Chiều nghiêng xuống biển
biển vàng
Chiều nghiêng vào núi
mơ màng lam xanh
Xô chiều
em nghiêng vào anh
Thành ngôi sao biếc long lanh cuối trời
Bản tình ca của bao đời
Nhành phong lan tím một thời đắm say
Nghiêng hoàng hôn cánh diều bay
Nghiêng câu quan họ
ngất ngây cõi lòng
Nghiêng thu sữa lúa ngậm đòng
Nghiêng hương sen giã cốm Vòng trăng cong
Nghiêng đời
gạn đục
khơi trong
Nhân tình
thế thái
đếm đong ưu sầu
Nghiêng thơ
chạnh nhớ tình đầu
Sao xanh
hoa tím
11
12. và màu chiều nghiêng.
Hải Phòng, 20/01/2006
TRỊNH BÌNH AN
C. CẢM NHẬN :
1 “…Là một nhà giáo dạy văn học, rồi sau
này mải mê với khoa học kinh tế, xã hội, theo lẽ
thường tình, dễ khiến người ta nghĩ đến những
khuôn thước, những luận bàn thế sự, với tâm thế
thật là chính tắc trên nẻo đường như đã lập trình
sẵn, vậy mà, trái lại, tập thơ lại đầy ắp tâm trạng.
Có thể nói, đây là tiếng lòng của một lớp người đã
chứng kiến những biến thái xã hội trong nửa thế kỷ
qua, với những hoài niệm, hồi ức, rồi chiêm nghiệm
của kiếp người…Thấm thía trong tập thơ, là nỗi
buồn, nỗi nhớ, rồi là nỗi cô đơn. Buồn nhớ về dĩ
vãng xa xưa, về tuổi học trò, bè bạn, người thân
yêu, về số phận, và buồn nhớ cả cái gì không rõ,
hữu hình cùng vô hình, khoảnh khắc và vô biên, có
khi cả “Giây phút chạnh lòng” nữa…”
(“Bản trầm ca “Hương biển”- PHẠM NGÀ)
2. “…Đúng với nhan đề, xuyên suốt cả tập
thơ “ Hương biển”, hương đời cứ mênh mang, dào
dạt.Thành phố cảng chắc hẳn gắn bó với rất nhiều
kỷ niệm trong cuộc đời anh, vì thế biển đã làm nên
một Trịnh Bình An mặn mà, sâu sắc luôn khắc
khoải một mong ước chưa thành. Phải thế chăng
12
13. mà tôi cảm nhận thấy dòng chảy cảm xúc chủ đạo
của tập thơ là tâm trạng buồn buồn, lặng
lẽ…
( “Hương biển, hương đời” – THANH AN).
TRỊNH BÌNH AN.
(1940)
“Hương biển” (*)– Bản trầm ca buồn.
Đa đoan, hoài niệm, căng buồm rong khơi.
“Nhớ” *thời xa vắng nhớ ơi !
Người xưa, dĩ vãng - một thời tình thâm
“Hương biển” – Bản tình ca trầm
Say “Chân – Thiện – Mỹ”(1), thi, cầm đầy vơi
“Chữ tâm”(1) bền vững với đời
“Quyền-danh-tiền-sắc”(1), ấy thời chẳng mơ.
Quặn lòng suy ngẫm về thơ:
“Hiện sinh”, “Siêu thực”(2) hay mơ mộng buồn
“Ngực bè đè đảo sóng” cồn(3)
Oằn sào đẩy ngược” (3) cả con sông dài.
“Một thời để nhớ”* – Nhớ ai ?
Tiếng thơ “Hương Biển” để đời đắm say.
( CẨN ANH )
13
14. CHÚ THÍCH:
(*):Tên tập thơ của Trịnh Bình An
*:Tên các bài thơ trong tập thơ “Hương Biển”
(1):Trích trong bài “Quen thói”
(2):Trích trong bài “Nghĩ về thơ Việt hôm nay”
(3):Trích trong bài “Một thời để nhớ”
2. THANH AN
(1958)
A. TIỂU SỬ:
+ Họ và tên : Phạm Thanh An
+ Bút danh : Thanh An.
+ Sinh ngày:12/02/1958
+ Quê quán: Liên khê – Thủy nguyên – Hải
Phòng.
+ Điện thoại: 0983.122.152
+ Trú quán: Số7, ngõ12, Đoạn xá 4,P.Đông hải I,
Hải an, Hải Phòng.
+ Cử nhân văn khoa ĐHSP Hà Nội.
14
15. + Nguyên là giáo viên văn THPT Thái Phiên, Hải
Phòng.
+ Ủy viên BCH Câu lạc bộ Thơ nhà giáo Hải
Phòng.
B . SỰ NGHIÊP VĂN HỌC:
*THAM GIA VIẾT :
+ Có thơ in ở một số tuyển tập
+ Tạp chí “Cửa biển”
*ĐÃ XUẤT BẢN:
+ Tập thơ “Mưa tầm xuân” –
NXB Hội nhà văn. 2012
*NHỮNG BÀI THƠ THAM KHẢO:
1. Thu buồn nhớ Đỗ Phủ.
Hoa cúc hai lần rơi lệ
Khóc cho lữ khách tha phương
Lang thang chân trời góc bể
Dạ sầu nỗi nhớ quê hương
Rừng phong đỏ màu li biệt
Sương sa não nuột thu buồn
Mùa đông ai người giặt áo
Cho ta gửi tới sông Tương.
Hoàng hôn chân trời xa thẳm
Đường đời lận đận gian nan
15
16. Thuyền ai buộc tình thương mến
Gửi lòng về với cố hương.
THANH AN
2. Mưa tầm xuân.
Mưa xuân giăng bụi tơ trời
Núm xinh e thẹn môi tươi
Ngày xưa, mưa nào có thế
Em buồn đã tuổi năm mươi…
Anh mải muôn dặm xa khơi
Lãng quên ngắm em mười tám
Tầm xuân nở rồi anh đến
Mưa buồn ơi nụ tầm xuân…
Em về thăm quê dạo ấy
Vẫn mùa mưa bụi bay bay
Nhà ai pháo mừng đám cưới
Tầm xuân bên ngõ rụng đầy…
Gặp nhau tóc giờ điểm bạc
Anh cười, tặng đóa tầm xuân
Ngoài trời mưa rơi ướt lá
16
17. Ngày buồn nắng thật mong manh…
Xuân 2009
THANH AN.
3. Con gái lấy chồng.
Mẹ ơi, con đi lấy chồng
Xa rồi, mẹ có buồn không?
Con yêu, đó là hạnh phúc
Nỗi buồn mẹ dấu vào trong
Như xưa mẹ thời con gái
Khát khao tổ ấm gia đình
Chặng đường mai sau xa ngái
Chân cứng đá mềm nghe con.
Lớn rồi thôi đừng nũng mẹ
Thảo hiền hai chữ chớ quên
Yêu thương, bà chờ bế cháu
Trở về cái thuở nuôi con.
Sông kia bao giờ ngừng chảy
Tình mẹ như nước đong đầy
Chắt chiu vui buồn để nhớ
17
18. Thương con đâu kể tháng ngày.
Năm 2008
THANH AN.
C. NHẬN XÉT:
1. Thơ Thanh An nhẹ nhàng, dung dị, ít ồn ào
nên nỗi buồn của tác giả cũng kín đáo, êm đềm như
cuộc đời hiền thục của chị. Chính nỗi buồn ấy đã
làm nên phong cách thơ Thanh An. Nhưng người
đọc không vì thế mà trĩu xuống, xót xa, thất vọng.
Ngược lại bạn đọc cảm thấy thú vị được sống trong
không khí man mác, dịu dàng, có chút gì đó hơi mơ
hồ vương vấn khó quên.
(HỒ ANH TUẤN)
3. “Thu buồn nhớ Đỗ Phủ” của Thanh
An đã nối được cái mạch
buồn của Đỗ Phủ với mạch tâm trạng của mình. Đó
là sự giao cảm giữa hai con người của hai thời đại
mà thời gian cách xa nhau vời vợi. vì vậy bài thơ có
sức truyền cảm và tác động mạnh mẽ đến người
đọc.
… Nếu được đọc bài thơ “Thu buồn nhớ Đỗ Phủ”
của Thanh An chắc chắn thi nhân vui lòng nơi chín
suối. Vì thơ ông đã kích động lòng người của thế hệ
hôm nay không chỉ ở xứ quê hương ông mà còn ở
khắp nơi trên trái đất này. Có lẽ đó chính là sự gặp
gỡ của tấm lòng tha thiết vơi đầy với cố hương. Và
18
19. điều đó đã làm cho “Thi Thánh”nổi tiếng đời
Đường càng gần gũi với chúng ta hơn.”
(P
HẠM QUANG CHU)
THANH AN.
Cái buồn trong “Mưa tầm xuân”(*)
Cứ len lỏi, cứ bần thần, giăng giăng
Tiếng lòng nhà giáo đây chăng ?
Hạt “mưa xuân, bụi cứ giăng tơ trời”(1)
Thu buồn nhớ lắm ai ơi !
Thánh thơ Đỗ Phủ buồn rời rụng thu.(2)
Ngập tràn một nỗi ưu tư
Mưa tầm xuân ngỡ cứ như mưa lòng
Nỗi buồn thả nhẹ thinh không
Cứ man mác đến khôn cùng mãi thôi
Thanh An buồn cả khi vui
Dấu vào sâu thẳm, bùi ngùi, ngóng trông
Cái ngày “Con gái lấy chồng”(3)
Buồn vui chiu chắt chờ mong tháng ngày
“Mưa tầm xuân”(*)cầm trên tay
Tấm lòng độc giả buồn, say, nồng nàn.
Phong cách thơ của Thanh An
Nhẹ nhàng, dung dị, xen đan, ấm lòng.
Độc giả đang : Đợi – chờ - mong.
Tập thơ tiếp trải tấm lòng thi nhân.
( CẨN ANH)
CHÚ THÍCH:
19
20. + (*): Tên tập thơ đầu tay của Thanh An
+ (1):Ý thơ rút từ bài thơ “Mưa tầm xuân”
+ (2):Ý thơ Thanh An mượn trong bài “Thu hứng” của Đỗ Phủ
+ (3):Tên bài thơ được in trong tập thơ “Mưa tầm xuân” của
Thanh An.
3. NGUYỄN LÂM CẨN
(1944)
A. TIỂU SỬ:
+ Họ và tên: Nguyễn Lâm Cẩn.
+ Bút danh: Nguyễn Lâm Cẩn.
+ Sinh ngày 20 /11/ 1944.
+ Quê quán: Xã Thanh Tùng, Thanh Chương. Nghệ
An.
+ Địa chỉ : Đông Anh , Hà Nội.
+ Điện thoại: 01666 222 061
20
21. + Cử nhân Văn khoa Đại học Tổng hợp Hà Nội.
+ Nguyên Hiệu trưởng, dạy học, Sáng tác Văn học .
+ Hội viên câu lạc bộ thơ nhà giáo
+ Hội viên Hội văn học nghệ thuật Hải Phòng.
B. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
*.THAM GIA VIẾT:
+ Các báo tạp chí Trung ương và địa phương.
+ Có thơ in trong nhiều tuyển tập.
*. ĐÃ XUẤT BẢN:
+ Ru quả trái mùa NXB Lao động – 1997.
+ Đêm trắng NXB Văn hóa dân tộc – 2001.
+ Nợ trần Gian NXB Lao động – 2005.
+ Người đi gió bụi NXB Hội nhà văn – 2008
+ Đêm gọi NXB Hội nhà văn – 2010
+ Dòng sông bí ẩn NXB Hội nhà văn – 2013
+ …
*. NHỮNG BÀI THƠ THAM KHẢO:
1. Qua quê cụ Nguyễn
Giang hồ phận bạc ngày xưa
Kiếp người trôi dạt bến bờ phù sinh
Mai sau trên bến Giang Đình*
21
22. Lam Giang trắng nước nhân tình còn trôi.
Hà tĩnh, 24/6/2003
NGUYỄN LÂM CẨN
CHÚ THÍCH:*Giang Đình:Bến sông quê cụ Nguyễn Du.
2.Câu bóng.
Người ta câu cá, câu tôm…
Tôi đi câu bóng chiều hôm dưới cầu
Nước trong, mây thắm, trời sâu
Buông giây tôi thả mồi câu bóng mình.
Hà Nội 1996
NGUYỄN LÂM CẨN
3.Cái ngày em đi lấy chồng.
Cái ngày em đi lấy chồng
Cỏ xuân mơn mởn trên đồng héo khô
Bãi triều tra lấy hạt ngô
Nảy ra sóng bạc nhấp nhô sớm chiều
Trăng non thả tuột cánh diều
Nửa đêm thức dậy khóc Kiều trong mơ
Kiến lửa nhót ở trong thơ
Gặp người gom hết ngẩn ngơ vào lòng
22
23. Cái đêm không được làm chồng
Hóa thành người ở không công với tình
Hà Nội,07/10/2005
NGUYỄN LÂM CẨN
4.Nợ trần gian.
Theo chiều chợ bùn hoen gót điếm
Quảy gánh còn nửa mớ trầu cay
Chơi vơi câu ví thuyền no nước
Vớt lên chén lửng thế mà say.
Tuổi bước đường trăng, em khuất bóng
Anh theo hun hút lạc sau thềm
Gió chênh đồng trống lùa tứ phía
Lòng nhợt buồn mưa lướt mướt đêm.
Lụa xé tiếng cười mùa sính lễ
Lơi eo bùa yếm thắt lưng hờ
Mõ mục chùa anh chìm kinh kệ
Để nợ trần gian trọn kiếp thơ
Câu trinh tiết động phòng bén lửa
Hồn thơ nấc nghẹn nỗi xuân tình
23
24. Chắt trong mộng mị đầy trôn chén
Gắp mảnh trăng suông uống cạn mình
07/4/2004
NGUYỄN LÂM CẨN
C. NHẬN XÉT:
1.“Thơ Nguyễn Lâm Cẩn được chắt ra từ
cuộc đời, từ suy tư đa chiều, thẳm sâu của chính
thi nhân. Thơ Anh gợi mà không mở, tạo cho
người đọc những ý tưởng ngỡ như cũ mà lại rất
mới về cuộc sống.Mỗi thi phẩm của Anh cứ đưa
độc giả từ ngỡ ngàng này đến sửng sốt khác. Độc
giả luôn chờ đợi ở tiếng lòng của Anh những
sáng tạo mới cho thi ca đương đại”
(NGUYỄN CẢNH ÂN)
2.. “…Thơ Anh chân mộc nhưng lại có cái
khí chất mạnh của người cương trực xởi lởi chốn
thôn quê. Mấy bài thơ của anh khiến ta thấy anh
thật gần gũi và dễ mến bởi cái chất dân dã đã
ngấm vào máu thịt.Ta thấy ở thơ anh một đời
sống thường dân thật sinh động”
(NG
UYỄN TRỌNG TẠO)
24
25. NGUYỄN LÂM CẨN.
Cớ sao lại “Nợ trần gian”?
“ Trái mùa ru quả” để ăn…đắng lòng !
“Cái ngày em đi lấy chồng,
Cỏ xanh mơn mởn trên đồng héo khô”(1)
Thật lòng hay “Nói bâng quơ”
Rủ nhau về bến mộng mơ làm gì ?
Khát khao “Câu bóng”, Ai đi ?
“Trời sâu, mây thắm”(2), bóng gì hỡi ai ?
Nước trong buông sợi câu dài
“Thạch sùng…chặc lưỡi”(3), thương ai nợ đời
“Về thăm mộ cha”, Ai ơi !
Nhớ lời cha dặn đau đời khắc ghi !
Con đừng quên cảnh cha đi
25
26. Câu thơ oằn xuống…nhớ khi cha nằm
Tế bào, hạt máu, hờn căm
Đồi sim cằn cỗi cha nằm nắng nôi
Nghiệp văn “Đêm gọi” trắng trời
Day từng con chữ, Người ơi, hỡi Người !
“Đêm trắng” trôi…, đêm trắng trôi !
“Người đi gió bụi”, xin Người nén đau !
Trăn trở từng chữ, từng câu
“Nợ trần gian”, trả khi nào cho xong ?
“Dòng sông bí ẩn” – sâu ? nông ?
Chắt chiu từng giọt máu hồng thi nhân.
( CẨN ANH)
26
27. CHÚ THÍCH:
+ Những cụm từ in đậm là tên các tập thơ của Nguyễn Lâm Cẩn.
+ Những cụm từ in nghiêng đậm là tên các bài thơ trong các tập thơ
+ (1): Trích bài “Cái ngày em đi lấy chồng”- tập thơ “Nợ trần gian”
+ (2): Trích bài “Câu bóng”- tập thơ “Ru quả trái mùa”
+ (3): Trích bài “Thạch sùng ơi” – tập thơ “ Đêm trắng”.
4. PHẠM QUANG CHU
(1939)
A. TIỂU SỬ:
+ Họ và tên: Phạm Quang Chu.
+ Bút danh : Phạm Quang Chu.
+ Sinh ngày: 12/12/1939
+ Quê quán: Thái thụy, Thái bình.
+ Trú quán: Số 1/50, ngõ 384 Lạch Tray, Hải Phòng
+ Điện thoại: 0313.731110, 01673271266
27
28. + Tốt nghiệp khoa ngữ văn ĐHSP Hà Nội 1962
+ Nguyên:-Chủ nhiệm khoa ngữ văn trường CĐSP
Hải Phòng
- Hiệu trưởng trường CĐSP Hải phòng
- Phó giám đốc trung tâm KHXH &NV Hải Phòng.
+ Hội viên CLB thơ nhà giáo Hải Phòng.
B. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC :
THAM GIA VIẾT: Thơ in trong các tuyển tập:
+Tấm lòng nhà giáo (NXB Giáo dục)
+Thơ nhà giáo Hải Phòng (NXB Hải Phòng)
… ĐÃ XUẤT BẢN:
+Lần giở trước đèn (NXB Hội nhà văn, 2012)
NHỮNG BÀI THƠ THAM KHẢO:
1. Thăm Lệ Chi Viên.
Một chiều thăm Lệ Chi Viên.
Bỗng nghe dậy đất oan khiên thuở nào
Đêm về nằm thấy chiêm bao
28
29. Lưỡi gươm oan nghiệt lia vào thứ dân
Một đời trọng nghĩa trung thần
Nỗi oan đã giải ngàn lần vẫn đau.
PHẠM QUANG CHU.
1. Về đền Cụ Trạng
Sáng nay về lại Trung Am
Lặng nhìn dòng chảy Tuyết Giang quê Người
Nghênh phong “đón gió”đâu rồi
Trung Tân “bến giữa”đứng ngồi nơi nao?
Bạch Vân “mây trắng”, trời cao
Tấm lòng cư sĩ chôn vào thế gian
Thú nhàn mở Bạch Vân Am
Vẫn không dứt bỏ lo toan việc đời
Ngày xưa dạy học Cụ ngồi
Trầm ngâm suy ngẫm thói đời bạc đen
Một ngày nhàn, một ngày tiên
Lao xao khôn dại đua chen mặc người.
PHẠM QUANG CHU
29
30. 3.Hồn nữ sĩ.
Lối xưa nền cũ lâu đài
Tịch dương , thu thảo lòng ai não nùng(1)
Canh khuya vẳng tiếng điểm thùng
Giật mình trơ cái phận cùng nước non(2)
Đất trời gió nổi sóng cồn
Làm cho thân khách má hồng truân chuyên(3)
Anh hùng gặp gái thuyền quyên
Chiếu gon thấm máu nỗi oan ngàn đời (4)
Tựa cây vang bóng một thời
Nương nhờ cửa Phật thành người “sắc không”(5)
Lời rằng bạc mệnh lời chung
Hay hồn nữ sĩ đau cùng thế gian.
PHẠM QUANG CHU
CHÚ THÍCH:
30
31. 1.Ý Thơ của Bà Huyện Thanh Quan
2. Ý thơ của Hồ xuân Hương
3. Ý thơ Đoàn Thị Điểm
4. Nguyễn Trãi gặp Nguyễn Thị Lộ và vụ án oan khốc Lệ Chi Viên
5. Vua Lý Thánh Tông tuần du đến làng Thổ Lỗi thấy người con
gái cứ tựa cây mà hát, vua vời hỏi và đón về cung, thành Ỷ Lan
nguyên phi giúp vua trị nước, mộ đạo Phật, thương dân, giỏi văn
thơ, nay chỉ còn bài kệ “Sắc – không”.
C. CẢM NHẬN :
1. “ …Nếu làm một việc điểm danh, thì thấy
các tác giả vào dạng cổ điển hầu như không thiếu
vắng ai. Những Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Công Trứ,
Nguyễn Khuyến, Tú Xương…rồi một số tác giả sau
này nữa, với những dấu ấn đã đi vào lịch sử, những
đặc sản của văn chương nước nhà. Việc dùng thơ
để bày tỏ tâm tình về tác phẩm và tác giả xưa,
không chỉ góp phần khắc họa chân dung của
“những người muôn năm cũ”,mà chính tác giả tập
thơ đã làm một việc ngoài ý muốn, một “tác dụng
phụ”là tự phác thảo chân dung tinh thần của chính
mình.”
(“ Thức cùng trang thơ”
– PHẠM NGÀ)
2. “Suốt cuộc đời, nhà giáo Phạm Quang
Chu gắn bó với nghiệp văn chương. Mạch cảm xúc
“Lần giở trước đèn”của nhà giáo biết bao giờ vơi
cạn, bao giờ là trang cuối cùng? Độc giả đang chờ
những trang lần giở mới mẻ, hấp dẫn tiếp theo của
31
32. tác giả. Hy vọng thi phẩm “Lần giở trước đèn”
tiếp theo của nhà giáo, nhà thơ Phạm Quang Chu
sẽ đáp ứng sự chờ đợi của bạn đọc…”
( NGUYỄN CẢNH ÂN)
PHẠM QUANG CHU.
“ Trước đèn lần giở ”(*) tìm ai ?
Tìm chân dung của “những người muôn năm”(1)
Những“đặc sản”(1)của thơ văn
Trọn đời dạy học từng trang giở lần.
“Thú nhàn, mở Bạch Vân Am”(2)
“Lời rằng bạc mệnh”(3),giở tìm Nguyễn Du
Đêm nằm lần giở chiêm bao
“Lưỡi gươm oan nghiệt lia vào thứ dân”(4)
Nỗi đau gan ruột thi nhân
Cũng là đau nỗi người lần giở ra.
Nặng lòng với những trang thơ
Đời bao nhiêu nỗi, bao giờ giở xong ?
Thi phẩm không trang cuối cùng.
( CẨN ANH)
32
33. CHÚ THÍCH:
(*): Tên thi phẩm của Phạm Quang Chu là: “Lần giở Trước đèn”
(1): Trích trong bài giới thiệu “Thức cùng trang thơ” của Phạm Ngà
(2): Trích trong bài “ Về đền cụ Trạng”
(3): Trích trong bài “Hồn nữ sĩ”
(4): Trích trong bài “Thăm Lệ Chi Viên”
5. THÚC HÀ
(1934-1994)
A. TIỂU SỬ:
+ Họ và tên: Hà Thúc Chỉ
+ Bút danh: Thúc Hà
+ Sinh ngày 10/7/1934 - mất năm 1994
+ Quê quán: Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
+ Trú quán: phố Lê Chân, quận Lê Chân, Hải
Phòng
+ Tốt nghiệp ĐHSP Văn - Hà Nội năm 1956
33
34. + Nguyên cán bộ giảng dạy trường ĐHSP Hà Nội
từ 1956
+ Từ 1960 đến năm 1994 là giáo viên dạy ngữ văn
trường THPT Ngô Quyền , Hải Phòng.
B. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
*THAM GIA VIẾT:
Từ 1955 có thơ đăng ở các báo, tạp chí, trong các
tập sách,
tuyển tập thơ ở trung ương và địa phương.
*ĐÃ XUẤT BẢN:
+ Khi trời mới sáng (1957)
+ Mưa biển ( NXB Hải Phòng, 1990 )
*GIẢI THƯỞNG:
+ Viết về nhà trường của Bộ giáo dục năm 1961
+ Giải thưởng thơ, văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Hải Phòng
+ Huy chương vàng về thơ tại Đại hội liên hoan
thanh niên, Sinh viên thế giới lần thứ 5 tại
Vác-Xa-Va năm 1955 về Bài thơ “Chờ con Má
nhé”
34
35. * NHỮNG BÀI THƠ THAM KHẢO:
1. Xem ảo thuật.
Dẫu tôi đã dán mắt nhìn
Dẫu tôi nghiêng ngó soi tìm quẩn quanh
Vẫn là mười ngón tay anh
Vẫn là mắt ấy, mắt mình chứ ai
Úm ba la! Hóa… thiên tài
Và tôi hóa kẻ nhầm, sai, dại khờ.
Vỗ tay, tôi bỗng sững sờ
Bởi yêu người- đã-dối-lừa-được-tôi!
THÚC HÀ
(Tuyển tập “Thơ lục bát Việt Nam”
NXB- VHTT, Hà Nội 2000)
35
36. 2. Chờ con Má nhé !
Nhớ hôm nào tiễn con, trên bến
Bên dừa xanh, trìu mến má hôn con
Miền Nam khuất núi che non
Chiều bên lửa sáng má còn dõi trông
Lần kim trên áo tay rung:
“Hắn đi ngày ấy lúa đồng đang xanh
Bấm tay má nhớ ngọn ngành:
Hai mùa lúa chín con mình về đây”
Ngày xưa sống đọa sống đầy
Vàng con mắt má chuỗi ngày tối tăm.
Bốn mùa bao bố che thân
Củ môn hột sấu xót lòng má ơi !
Ngày nay được thấy mặt trời
Thấy lưng thẳng lại, thấy đời trẻ ra
Ổ rơm xếp kín hột gà
Có nồi cơm nếp ở nhà đợi con
Chôm chôm còn chín đỏ vườn
Ngàn năm thắm mãi công ơn Bác Hồ
Tuổi cao mắt má có mờ
Cố hai năm nữa má chờ Bác vô
Đêm đêm nhẩm đọc i tờ
Cầu sao viết nổi chữ Hồ Chí Minh
Ghi lên lá phiếu đinh ninh
Khắc sâu thêm cả mối tình Bắc Nam
Giờ đây vắng bóng sao vàng
Qua cầu đôi nhịp má sang tới bờ
Dù cho nước cả sóng xô
Vững chân má bước, trông cờ má đi.
36
37. Tháp Mười còn lúa xanh rì
Còn kênh ngập nước, còn khi con về…
Má ơi! Thương má một bề
Hồ gươm bóng Tháp nghiêng về hướng Nam
Có người chị, thức thâu đêm
Thêu con chim trắng trên nền khăn xanh
Trắng này thêm trắng dòng kênh
Xanh này thêm thắm màu xanh lá dừa
Con tô tám chữ lên cờ:
“Miền Nam là của cõi bờ Việt Nam”
Con in lên gối con nằm
Con ghi trong dạ, con hằn trong tim
Hải Vân dốc ngược cây chen
Lòng băng trăm núi, tình xuyên vạn đèo
Đê cao khôn cản sóng triều
Cả cây đâu dễ ngăn chiều gió lên?
Ngày mai nắng tỏa mọi miền
Thanh trà đậu trái, sầu riêng rợp vườn
Em cười giữa lúa thơm hương
Chờ anh trong nắng gió vờn tóc bay
Chân trâu lại vạch luống cày
Gà ta xao xác gọi bầy bên sân
Bát cơm má thổi tắng ngần
Đèn khêu tỏ ngọn, tay cầm má trao…
*
Con đi, má khóc hôm nào
Con về má đón ngã vào hai tay…
1955
THÚC HÀ
37
38. C. CẢM NHẬN :
1 “…Tài hoa, thẳng thắn, trữ tình, sâu sắc,
đó là những điều tôi cảm nhận được qua thơ và
phần nào đó về cuộc đời của nhà giáo, nhà thơ Hà
Thúc Chỉ - Thúc Hà. Anh là một trong những giáo
viên dạy văn giỏi nổi tiếng ở Hải Phòng. Cái tâm
với nghề dạy học hình như đã có thời gian làm anh
lãng quên sáng tác thơ. Rất tiếc là Anh “ ra đi” khi
tài năng thơ của anh đang ở độ chín.”
(NGUYỄN CẢNH ÂN)
2.“Thầy Hà Thúc Chỉ - Nhà thơ Thúc Hà,
người có công lớn trong việc nuôi dưỡng tâm hồn,
thắp sáng ước mơ. Từ tấm lòng và tài năng của
thầy, những học trò như Nguyễn Thụy Kha, Phạm
Ngà, Phạm Đức, Nguyễn Thị Ngọc Hải, Trần Quốc
Minh…đều là hội viên Hội nhà văn…”
(TRẦN QUỐC MINH )
38
39. THÚC HÀ
“Chờ con má nhé ”(1) – con đi !...
Khát khao – con, mẹ khắc ghi trong lòng
Nỗi niềm THỐNG NHẤT non sông
Tiếng lòng vang khắp Tây - Đông, bạn bè
Huy chương vàng Vác-Xa-Va
Bài thơ mang cả bao la đất trời
“Chờ con má nhé” – Má ơi !
Trong tim Con, Má – Đất trời yêu thương
Trọn đời dạy – học văn chương
Nhọc nhằn hai tiếng “Quê hương” mong chờ.
“Xem ảo thuật”(2)- thật tài hoa !
Uyên thâm: Nhà giáo, Thúc Hà – nhà thơ.
( CẨN ANH)
CHÚ THÍCH:
(1): Tên bài thơ đạt giải Huy chương vàng quốc tế tại Vác-Xa- va, 1955
(2): Bài thơ được nhiều người biết đến.
39
40. 6. VŨ DUY HÙNG.
(1948)
A. TIỂU SỬ:
+ Họ và tên: Vũ Duy Hùng
+ Sinh ngày 17 /6/ 1948
+ Quê quán: xã Liên am, huyện Vĩnh bảo, Hải
Phòng.
+ Địa chỉ: số nhà 153 phố Cát bi, Hải An, Hải
Phòng
+ Điện thoại: 0912.302.223
+ Cử nhân văn khoa ĐHSP Hà Nội (khóa 1966-
1969)
+ 8/1969- 10/1974: Giáo viên dạy văn cấp III ở
Lào cai
+ Từ 1974 đến 6/2008: Giáo viên dạy văn, phó
hiệu trưởng, Hiệu trưởng
Trường THPT Lê Quý Đôn, Quận Hải An, Hải
Phòng.
+ Từ 7/2008, nghỉ hưu, sáng tác văn học.
40
41. B. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
*THAM GIA VIẾT:
Nhà giáo Vũ Duy Hùng đam mê văn học. Anh sáng
tác thơ ngay từ thời là học sinh, sinh viên, những
ngày đầu đứng trên bục giảng. Cả sự nghiệp cầm
phấn và cầm bút, anh sáng tác được trên 200 bài thơ
với các đề tài quê hương, đất nước, tình yêu, gia
đình, bè bạn. Thơ anh đăng rải rác trên các báo, tạp
chí của Trung ương và địa phương.
*ĐÃ XUẤT BẢN:
+Tập thơ “Hương rừng&Gió biển”-
NXB Hội nhà văn, 2014
*NHỮNG BÀI THƠ THAM KHẢO:
*
1.Thơ.
Đời là thực lại như mơ.
Là nguồn cảm hứng…tứ thơ …cho người
Biết nâng từng cánh hoa rơi
Biết yêu “Dòng chảy cuộc đời” là THƠ.
41
42. VŨ DUY
HÙNG.
2. Hương rừng.
Ở rừng mới thấu hiểu rừng
“Rừng xanh, núi đỏ…” xin đừng lo chi
Rừng cho… chứ chẳng nhận gì
Cho bao thứ quý…Người đi- nhớ rừng !
Thứ quý nhất – rất đặc trưng
Là “hương vị rừng” từ đất - thăng hoa…
Những là: Lê – Đào…Sa pa
Táo Mèo, mận hậu – Tam hoa …Bắc Hà
Các thảo dược quý…sinh ra
Ngàn hoa ngào ngạt – đậm đà sắc hương
Thắng cố, cơm lam, nếp nương…
Nữa là: Thịt nướng-chim muông-thú rừng
Rượu trưng: Thóc ngâm – San lùng
Rượu ngô…Bản phố, sướng dùng mềm môi
Tam thất, mật ong… tuyệt vời
Sơn hào – Bách vị…đất trời- quyện nhau
Các dân tộc, khác sắc màu
Anh em chân thật – cùng nhau trải lòng !
Hương rừng: tinh khiết, mát trong
Tình yêu lan tỏa… hương lòng thảo thơm!
Từ trên những đỉnh mây vờn
Tỏa lan – bản dốc – hương thơm ngạt ngào
Hương rừng… sức sống vùng cao
Quyện hòa cuộc sống – ngấm vào trong ta !
Dẫu rằng, có phải chia xa…
Hương rừng vẫn tỏa quanh ta trọn đời!...
42
43. Tháng 02/1971
VŨ DUY HÙNG
3. Dáng xưa.
(Nhớ ngày xưa ấy)
Vẫn dòng sông tự ngày xưa
Hôm nào xõa tóc, liễu vừ mười lăm…
Lung linh độ tuổi trăng rằm
Nghiêng soi in bóng trên dòng sông trôi.
Tuổi thơ mau đi qua rồi,
Tay tập chèo lái, thuyền bơi giữa dòng
Thuyền dầm, chở những ước mong
Ai đi… thấu tỏ nỗi lòng riêng tư…
Sông Chanh nhỏ nhắn, hiền từ.
Lăn tăn, gợn sóng ưu tư…khi nào?
Đôi “Gò bồng đảo”nhô cao
Nâu non – rạn vải, xôn xao mắt huyền!
Kìa ai bẻ lái rướn thuyền
Ngây thơ, ánh mắt dịu hiền đưa ngang!
Thuyền ai đầy ắp lúa vàng
Ghé vai…giá được giúp nàng kéo dây
Trời cho gặp được nhau đây
Thuận tình…xe kết – sự này nên duyên!...
Bồng bềnh: Mây - nước-con thuyền
Bóng hồng:Tóc mượt - mắt huyền - nét cong…
Thắp dần lên - ngọn lửa lòng
Dáng xưa…giờ vãn rộn trong ráng chiều!...
43
44. Bến sông Cầu Rào
VŨ DUY HÙNG
D. CẢM NHẬN :
1. “Đọc thơ Vũ Duy Hùng ta như bắt gặp anh ở
phòng họp nhà trường, như thấy anh đứng trước
đông đảo bạn bè đồng nghiệp, như đang nâng cốc
bia cỏ chúc nhau đâu đó. Có những trang viết lại
thấy anh trước những người thân ruột thịt , gia
đình. Thơ Vũ Duy Hùng chân chất như chính cuộc
đời Anh vậy. Phảng phất một số câu chữ có hương
vị cay nồng mà đậm chất nhân văn, đúng là thơ nhà
giáo Vũ Duy Hùng”.
( NGUYỄN CẢNH ÂN)
2, “…Nội dung thơ anh cũng khá phong phú,
không chỉ viết về những vấn đề riêng tư và người
thân, thơ của anh cũng đã đề cập đến nhiều vấn đề
của cuộc sống xã hội. Thơ anh thật mộc mạc, giản
dị, chân thực…mà đậm tính nhân văn. Ngay cả
những bài có nội dung phê phán, chống các hiện
tượng tiêu cực của ngành, của xã hội thì cũng
không có gì thái quá so với những thông tin chính
thống được phát, được đăng tải thường ngày. Thơ
anh thể hiện rõ nét tính giáo dục, tính hướng thiện
sâu sắc. Là giáo viên dạy văn, có được lợi thế nên
các bài thơ của anh viết thường có cấu tứ chặt chẽ,
lô gic, về thuật ngữ, từ ngữ, hình ảnh, nhạc điệu…
rất giản dị, đa dạng, tinh tế, có sự chọn lọc, chuẩn
mực và biểu cảm…”
Ngày 19/11/2013.
44
45. NHÓM ĐỒNG NGHIỆP VÀ BẠN ĐỌC
VŨ DUY HÙNG.
Nhà thơ, nhà giáo Vũ Duy Hùng
“Hương rừng, gió biển”*- Tứ hành thông
“Ngước lên tự thấy mình còn thấp”(1)
Nhìn xuống: Đời, Thơ – Đượm – cay – nồng.
Đến với “Hương Rừng”(2) Say nếm trải
Trở về “Gió biển”(3), nghiệp tinh thông
Giáo dục trọn đời: Say- cống hiến
Văn chương, thơ phú, ngát hương lòng.
( CẨN ANH)
CHÚ THÍCH:
(*): Tên tập thơ đầu tay của nhà giáo, nhà thơ Vũ Duy Hùng.
(1): Mượn ý trong câu đề ở phần một tập thơ.
(2): Tên gọi phần một của tập thơ.
(3): Tên gọi phần hai của tập thơ.
45
46. 7. LƯƠNG HUY
( 1930 )
A. TIỂU SỬ:
.
+ Họ và tên: Hồ Đình Lư.
+ Bút danh : Lương Huy
+ Sinh ngày 01/7/1930.
+ Quê quán: Quỳnh lưu, Nghệ An.
+ Địa chỉ: số 9A1/ chung cư Thái Phiên, Quận
Ngô Quyền, Thành phố Hải Phòng
+Tốt nghiệp khoa văn ĐHSP Hà Nội.
+ Nguyên giáo viên dạy văn cấp 3, Phó hiệu
trưởng THPT Thái Phiên, Hải Phòng.
+ Hội viên Hội văn nghệ Liên khu IV (Thời kỳ
kháng chiến chống Pháp)
46
47. + Hội viên Hội nhà văn Hải Phòng.
B. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
*THAM GIA VIẾT
+ Có thơ đăng rải rác trên các báo và tạp chí
Trung ương và địa phương.
* THƠ ĐĂNG TRONG CÁC TUYỂN TÂP,:
- Mái trường của ta ( diễn ca – ty giáo dục Quảng
trị, 1952)
- Thơ ca kháng chiến (In chung- hội văn nghệ liên
khu IV, xuất bản năm 1953.
- Thơ (In chung, những tác phẩm được giải-Phân
hội nghệ thuật Nghệ An xuất bản năm 1955)
- Thơ ca chọn lọc(In chung- Hội VN liên khu IV,
XB-1956)
- Tuyển thơ văn Hải Phòng ( 1964 – 2004)
- Tấm lòng nhà giáo ( NXB Giáo dục )
- Thơ nhà giáo Hải Phòng,( NXB Hải Phòng
2012)
* ĐÃ XUẤT BẢN:
- Cánh buồm trong nắng (NXB Hội nhà văn, 2010
* CÁC GIẢI THƯỞNG:
- Giải ba thơ ca Hội Văn nghệ liên khu IV, 1952-
1953
- Giải nhất thơ Phân Hội Văn Nghệ Nghệ An, 1955
- Giải nhất thơ của các trường Đại Học Hà
Nội,1960
- Giải khuyến khích phê bình của Hội văn học nghệ
thuật Hải Phòng, 1967
47
48. * NHỮNG BÀI THƠ THAM KHẢO:
1. Cánh buồm bay trong nắng.
Tết nay cha vắng nhà
Con về đây với mẹ
Ít nhiều mẹ con ta
Cũng gọi là có tết.
Cha còn là tám ba
Mẹ cũng thì độ tuổi
Rót chén dâng thờ cha
Rót chén mừng thọ mẹ
Con giờ đây vẫn là
Em đứa mừng, đứa chúc
Nhẩm bài “Hoa trên đá”*
Lại thấy mình khỏe ra.
Mẹ ơi trời sẽ thoáng
Mây vén cuối trời xa
Cánh buồm bay trong nắng
Đời gọi mẹ con ta
Con lên đường công tác
Chúc mẹ ở lại nhà
Nén trầm thơm khói tỏa
Con cúi đầu vái cha.
LƯƠNG HUY.
CHÚ THÍCH:
* Thơ Chế Lan Viên,
48
49. 2. Tìm
Người xưa
Giữa ban ngày
Đốt đuốc
tìm tri âm, tri kỷ
Ta nay
Chìm nổi nơi trần thế
Khát khao
một vẻ yêu thương
một tầm suy nghĩ
Rong ruổi tháng năm
Chân thành, tha thiết
Bừng tỉnh. Nhìn ra
Nhốn nháo chợ trời đủ vẻ
Biện chứng cõi người thực lắm xót xa.
Tim óc dầu dãi thực, mơ
Cơ chừng
Mò kim đáy bể.
LƯƠNG HUY.
3.Nghĩ về Nguyễn Du.
Mênh mang một cõ đất trời
Những đau thế sự, muốn vui nhân tình
Giữa đời một sắc tinh anh.
Tấm lòng nhân hóa câu thần, phép tiên.
1981- LƯƠNG HUY
49
50. C. CẢM NHẬN
“ Suốt cuộc đời gắn bó với sự nghiệp
giáo dục và có nhiều duyên nợ với văn chương.
Nhà giáo, nhà thơ Lương Huy đã có một số đóng
góp đáng ghi nhận cho cho thơ ca với nhiều đề tài:
Mái trường, trẻ thơ, người thân gia đình, bạn bè…
Nhà thơ cũng giành nhiều cảm xúc cho thời cuộc,
những đổi thay thế sự. Lương Huy sáng tác nhiều
thể loại thơ và cũng có nhiều câu, có bài lắng lại
được trong lòng độc giả qua tập “Cánh buồm
trong nắng”.Thơ Lương Huy có nhiều bài đậm tình
nhân thế, ngẫm lâu mới thấu, đọc kỹ mới hiểu.
Không hiểu điều gì mà tuổi đã ngoại bát tuần nhà
thơ vẫn “…mò kim đáy bể” đi tìm cái điều mình
khát khao đến vậy. Không biết rồi độc giả có được
đón nhận những cái kim nhà thơ tìm thấy dưới đáy
bể cuộc sống không đây?Kính chúc tác giả bày tỏ
tiếng lòng thực hiện được ước nguyện của mình
trong thi phẩm tiếp theo.”
(NGUYỄN CẢNH ÂN)
50
51. LƯƠNG HUY.
“Ban ngày” “đốt đuốc”(1) đi tìm
“Tri âm, tri kỷ”(1) – im lìm… lạ thay !
“Cánh buồm trong nắng” – Lương Huy
“Nổi chìm… trần thế”(1), nghĩ suy, kiếm tìm…
“Cơ chừng
Đáy bể mò kim”(1)
“Người xưa đốt đuốc” đi “Tìm”*- tìm ai?
“Tha hương”(*), “Góp lửa”(*), “Đêm nay”(*)
“Em nâng tim lửa”(2), tình thầy “ấm thêm”(3)
*
Một đời…ai cũng muốn tìm…
Tri âm , tri kỷ - trong mình đó thôi !
Tri âm, tri kỷ trọn đời.
Tìm được… Khó lắm ! Hỡi người trong thơ ?
( CẨN ANH)
CHÚ THÍCH:
(1): Trích trong bài thơ “Tìm”
(2): Trích trong bài thơ “Góp lửa”
(3): Trích trong bài thơ “Đêm nay”
(*): Tên các bài thơ in trong tập “Cánh buồm trong nắng”.
51
52. 8. NGUYỄN QUỐC KHÁNH.
( 1927 )
A. TIỂU SỬ:
+ Họ và tên: Nguyễn Quốc Khánh.
+ Sinh năm 1927
+ Quê quán: Xã Phú lộc, huyện Can Lộc, Hà tĩnh.
+ Địa chỉ: P.202, nhà C9b, phố Hoàng Ngọc Phách,
Hà Nội.
+ Đthoại: 04. 37764892
+ Tốt nghiệp khoa văn ĐHSP Hà Nội
+ Nguyên giáo viên dạy văn trường THPT Ngô
Quyền , HP
+ Tham gia ban tổ chức thành lập Chi hội văn nghệ
Hải Phòng năm 1962 (Thời Nguyên Hồng, Trần
Hoàn).
+ Nguyên Ủy viên chi hội Văn nghệ Việt Bắc.
+ Hội viên Hội nhà văn Hải Phòng.
B. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
*THAM GIA VIẾT:
52
53. + Có thơ in trong “Tạp chí sinh hoạt văn nghệ quâm
đội”,1954
+ Thơ in trên báo : Tiền phong , Đại đoàn kết,(từ
năm 1957.)
+ Tập thơ “Đường quê” (In chung với Nông Quốc
Chấn, Bàn Tài Đoàn, Cầm Giang )
+ Thơ đăng rải rác ở các báo và tạp chí Trung ương
và địa phương…
*ĐÃ XUẤT BẢN:
Tập thơ: “Trong cõi phù sinh”- NXB Hội nhà
văn, 2010.
*GIẢI THƯỞNG:
Bài thơ “Nhắc tên Hồ Chí Minh”in trong tuyển tập
thơ “Sáng Tháng Năm” được trao giải thưởng
khuyến khích trong cuộc thi thơ- Chào mừng Đại
Hội Đảng, năm 1960, do Đài tiếng nói Việt Nam và
Hội Văn nghệ tổ chức.(Nghệ sĩ Kiều Miên đã ngâm
bài thơ này trên Đài tiếng nói Việt Nam)
*NHỮNG BÀI THƠ THAM KHẢO
1. Trong cõi phù sinh.
Trong cõi phù sinh
53
54. Làm cuộc du sinh
Rời quê hương bồng bềnh ngoài thế cuộc
Thời trai trẻ
Ngược xuôi
Xuôi ngược
Bao ngả đường
Danh phận
Tình yêu
Thành – bại
Tiếng khóc có khi mở lời tiếng hát
Sống chỉ một lần
Vui vẻ
Cõi phù sinh…
2. Hoài niệm.
Biết đâu là tận chân trời
Để người gốc bể nối lời thề xưa
Em ơi em lấy chồng chưa
Nơi sơ tán cũ bây giờ còn ai ?
NGUYỄN QUỐC KHÁNH
3. Loanh quanh.
“Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”
(Trịnh công sơn)
Thuở nhỏ
Mẹ đưa lên chùa
Hương khói
54
55. Hồi chuông
Tiếng mõ
Bài giảng Kinh Thập điều
Ru tôi
Lớn lên
Theo anh thăm chùa cổ
Biển đề:
Trụ sở ủy ban…
Tối vui lớp học Bình dân
Ngày rộng sân kho hợp tác
Vắng lời kệ câu kinh dìu dặt
Sáng chiều vang tiếng
Tiến quân ca
Tuổi già
Theo người hằng sản hằng tâm
Dựng lại ngôi chùa đổ
Ghép đá cầu ao
Rước “Cụ” rùa đội bia về chỗ cũ
Đi dọc đường làng bới bới, be be
Qua những mảnh vườn gộp gộp, chia chia
Dịp lễ Vu Lan về
Nghe thượng tọa giảng:
“Không không !
Sắc sắc!...”
Muốn sống lại thời con nít
Mẹ đã mất rồi
Biết ai dẫn đi ?!
( NGUYỄN QUỐC KHÁNH)
C. CẢM NHẬN :
“ Đến với “Trong cõi phù sinh” của nhà
giáo, nhà thơ Nguyễn Quốc Khánh, ta tìm thấy ở đó
phẩm chất một người lính Cụ Hồ, nhân cách một
nhà giáo, tâm hồn của một nhà thơ, nghệ sĩ. Tiếng
55
56. lòng của tác giả găm sâu trong từng câu chữ. Cả
tập thơ, tâm tư của tác giả thật đa chiều. Tập thơ
đề cập tới nhiều vấn đề của cuộc sống.Và, có nhiều
vấn đề tác giả muốn nói mà cứ “loanh quanh”
chưa nói. Hình như qua từng thi phẩm, tác giả
giành cho độc giả tự hiểu lấy…”
(NGUYỄN CẢNH ÂN)
56
57. NGUYỄN QUỐC KHÁNH.
“Ngày xưa có kẻ thắp đèn”(1)
“Đi tìm tri kỷ…ban ngày…hoài công”(1)
“Những ngọn đèn”(*), nắng ửng hồng
“Những trái tim tím bầm lòng xót xa” (1).
“ Loanh quanh”(*), ta lại tìm ta.
Cái “thời con nít”(2), nó qua mất rồi !
“ Trong cõi phù sinh”(*) đường đời
“Tiếng khóc”(3) ai đã “Mở lời”(3) với ta
Loanh quanh ta lại tìm ta,
Đi tìm tri kỷ hóa ra tìm mình.
Trở về với “Cõi phù sinh”
Mong thi nhân sống hết mình – Khỏe ! Vui !
( CẨN ANH)
CHÚ THÍCH:
(*): Tên các bài thơ in trong tập “Trong cõi phù sinh”
(1): Trích trong bài “Những ngọn đèn”
(2): Trích trong bài “Loanh quanh”
(3): Trích trong bài “Trong cõi phù sinh”
57
58. 9. ĐOÀN MINH NGỌC.
(1942)
A. TIỂU SỬ:
+ Họ và tên: Đoàn Minh Ngọc
+ Sinh ngày: 24/12/1942
+ Quê quán: Khâm thiên, Đống Đa, Hà nội.
+ Địa chỉ : Số 7/44/ngõ 37 An Đà ,Quận Ngô
Quyền, Hải Phòng.
+ Tốt nghiệp ĐHSP Khoa văn , khóa 1961-1964.
+ Nguyên : - Dạy văn các trường cấp 3 ở Nghệ
An, Hải Phòng.
- Chuyên viên chính sở giáo dục &
đào tạo Hải Phòng.
+ Điện thoại: 031.373.1448 0907.158946.
+ BCH CLB thơ nhà giáo Hải Phòng
58
59. B. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
* THAM GIA VIẾT:
+ Các báo và tạp chí Trung ương và Địa phương
+ Thơ in trong các tuyển tập:
-Tấm lòng nhà giáo ( NXB Giáo dục-2012)
-Thơ nhà giáo Hải Phòng (NXB Hải Phòng-2012)
-Bạch Ngọc bên dòng Lam (NXB VHTT – 2013)
-Nhớ về Đô lương ( NXB VHTT – 2014)
* ĐÃ XUẤT BẢN:
-Khoảng sáng ( NXB Hội nhà văn – 2011 )
-Rộng và hẹp ( NXB Hội nhà văn – 2014 )
* NHỮNG BÀI THƠ THAM KHẢO
1. Khoảng sáng.
Biển có chia đâu vẫn nguyên vẹn màu xanh
Gió thổi phương này vẫn mát về phương ấy
Tiếng thơ đêm chúng mình cùng nghe thấy
Nên chỗ khuất lòng thành khoảng sáng trong nhau!
Hải Phòng, 1996
ĐOÀN MINH NGỌC
59
60. 2. Rộng và hẹp.
Đã đi qua bao năm tháng mịt mùng
Để kiếm tìm tình yêu và cuộc sống…
Không gặp nhau thế gian này quá rộng
Gặp lại nhau, trái đất hẹp vô cùng!
Trở lại Nghệ An 5/2010
ĐOÀN MINH NGỌC
3. Nghĩ về sóng.
Sóng đập vào quá khứ
Sóng dội về tương lai
Sóng mênh mang viễn xứ
Sóng êm ru ban mai
Sóng ngân nga tiếng hát
Sóng bâng khuâng tím chiều
Sóng xoa bàn chân cát
Sóng thầm thì lời yêu
Sóng sao như là đất
Sóng sao như là người
Sóng- Đất- Người hòa một
Sóng yêu thương như Đời.
Cát Bà, thu 2002.
ĐOÀN MINH NGỌC
60
61. C. CẢM NHẬN
1.“…Tác giả đã dành nhiều tâm huyết trong cuộc
đời cho sự nghiệp giáo dục, trực tiếp đứng lớp và
đảm đương công việc chỉ đạo môn Ngữ văn của
ngành giáo dục phổ thông ở địa phương. Dấu vết
nghề nghiệp chắc hẳn phần nào đổ bóng xuống
trang viết. Thơ của tác giả Đoàn Minh Ngọc không
chú mục gây cho bạn đọc những sửng sốt ban đầu,
mà thường bình thản gửi gắm qua câu chữ, ẩn chứa
sự kiếm tìm chìm lặn bên trong.
…Với tác giả, nếu bỏ đi một đề tài vô cùng sâu
nặng là nghề dạy học, thì bỏ qua ý nghĩa lớn của
cuộc đời. Dạy học vừa là nghề nghiệp, vừa là niềm
đam mê, mà cũng còn là lẽ sống…”
(“Khoảng sáng trong nhau,
khoảng sáng trong đời” - PHẠM NGÀ)
2… “Ấn tượng và thành công của Đoàn Minh Ngọc
không hẳn chỉ ở nội dung mà còn ở cấu tứ, cách
diễn đạt riêng của anh theo phong cách vừa cổ điển
vừa hiện đại. Thơ anh cổ mà không cũ, kim mà vẫn
đượm màu truyền thống, con chữ thì hẹp, tình
người thì rộng nên được nhiều bạn đọc ưa thích và
trân trọng”
(“Con chữ thì Hẹp, tình người thì Rộng”
- PHẠM QUANG CHU)
3.“…Như quả thông già tách vỏ - cây thông non
vươn rễ biếc xanh, chúng tôi cứ nghĩ nhà giáo Đoàn
minh Ngọc là vậy…”( PHẠM VĂN THANH)
61
62. ĐOÀN MINH NGỌC.
“Chỗ khuất”,“Khoảng sáng trong nhau”(1)
“Có chia đâu…”(1), biển vẹn mà xanh nguyên.
“Tiếng thơ đêm”(1) của chúng mình
Gió phương này thổi mát lành phương kia
Thời gian xuyên suốt tập thơ
Sắc màu sáng những trang thơ mặn mà.
Biếc - xanh - hồng - đỏ - hoa cà…
Xanh màu nho – Trắng màu ngà – Răng đen.
Bằng lăng tím, tím giò lan.
Mùa thi, phấn trắng, bảng đen, trống trường
“Nghĩ về sóng”(2)- Ngọc sáng*trong
Nhà thơ, nhà giáo, mái trường – Đời Anh.
( CẨN ANH)
CHÚ THÍCH:
(1): Trích trong bài thơ “Khoảng sáng”
(2): Tên bài thơ in trong tập thơ “KHOẢNG SÁNG”
(*): Minh Ngọc.
62
63. 10. HÀ THÚC QUẢ
( 1936 )
A. TIỂU SỬ:
+Họ và tên :Hà Thúc Quả.
+Ngày sinh : 24 – 5 – 1936.
+Địa chỉ : 9b U18 ngõ 80 Lam Sơn,
Lê Chân, Hải Phòng.
+Nguyên giảng viên CĐSP Hải Phòng
+ Hội viên HỘI NHÀ VĂN Hải Phòng.
+Phó chủ nhiệm CLB thơ nhà giáo Hải Phòng.
+Trưởng bộ môn thơ CLB Bạch Đằng, Hải Phòng.
B. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
* THAM GIA VIẾT:
+ Có bài viết đăng ở các báo, Tạp chí
Trung ương và địa phương.
63
64. * XUẤT BẢN :
+Tím chiều (NXB Hải phòng – 2006)
+Tàn –Nở (NXB Hội nhà văn – 2011)
* THƠ IN TRONG CÁC TUYỂN TẬP:
+ Tấm lòng nhà giáo ( NXB giáo dục )
+ Thơ nhà giáo (NXB văn hoá dân tộc)
+ Giọt nắng (NXB Hội nhà văn )
+ Huế giữa lòng Hà nội (NXB văn hoá thông tin )
+ 50 năm nghĩa tình (NXB văn hoá thông tin )
+ Bạch ngọc bên dòng Lam (NXB văn hoá thông
tin )
+ Thơ nhà giáo Hải Phòng ( NXB Hải phòng )
+ Ký ức trường xưa ( NXB Hải phòng )
+ 20 mùa hoa ( NXB Hải phòng )
+Cửa biển ( NXB VHNT Hải phòng )
…
*GIẢI THƯỞNG:
- Giải nhất thơ CLB Bạch Đằng năm 2010
- Giải nhì thơ “Người lao động đất Cảng” – 2011
- Giải nhì thơ “Nhà giáo với Bác Hồ” –SGD
&ĐT và Hội CGC Thành phố Hải Phòng tổ chức,
2013.
-Giải C cuộc thi do sở GD & ĐT tổ chức năm
2005 (Ký- viết chung với Phạm Đức bài “Thúc Hà,
tác giả đoạt Huy chương vàng quốc tế cách đây 50
năm”)
- Huy chương vàng trong liên hoan thơ “Văn
minh sông Hồng và biển đảo”- Hải Phòng mở
rộng , năm 2013.
64
65. * NHỮNG BÀI THƠ THAM KHẢO;
1. Tàn nở
Viết tặng những người cô đơn
Cô đơn
Hoa - tự - nở
Cô đơn
Hoa - tự - tàn
Thu mình làm chi vậy
Đời mấy cánh hoa ơi ?
Hoa – tự - ánh lên rồi
Cánh- Mặn
chia đời
khoảng trống
Thả mình tàn – nở cùng thơ
Như một lời ru
Khi từng giọt lặng ngân…
nửa vầng trăng lạ
Thả cánh – ngọt
chia vào
hồn ta.
Hai nửa cô đơn
Kết giữa – Bờ Hoa
Bến đục bến trong
Hai bờ Tàn - Nở
Lại gặp mình trong một nửa… Chia đôi!
HÀ THÚC QUẢ
65
66. 2. Ngày Valentines
Ngày lễ tình nhân em trẻ ra
Cho em hát mãi khúc xuân ca
Anh rót đời em tình mật ngọt
Uống cạn môi em phút đậm đà.
HÀ THÚC QUẢ
*
3. Nơi sơ tán lần cuối đón thư Bác.
Kỷ niệm 45 năm Bác Hồ gửi thư
Lần cuối cho ngành giáo dục(1968)
Lá thư Bác về nơi sơ tán
Một chiều thu nâng gió ngàn mây
Tôi đứng lớp bền hầm kèo cỏ dày xanh lá
Lòng rộn ràng truyền hơi ấm đến bàn tay
Truyền tay nhau lá thư màu nắng
Phấn trắng thơm đời thầy, lý tưởng Người trao
Dù khó khăn đến đâu cũng thi đua dạy tốt
Trường tôi rất đỗi tư hào(*)
66
67. Từ mùa thu ấy
Dưới ngọn đèn dầu leo lét đêm đêm
Trang giáo án bừng lên mùa khát vọng
Mùa nở tầng cao vươn xa
Thời gian lên hương lắng đọng bài ca…
Bài ca mới
Từng lời
Từng lời Người
Gieo lên mỗi mùa khai giảng mới
Kết lại 45 năm tròn nghĩa đậm đà
Kết vào trái tim ta
Sáng trong tâm hồn ta
Lời Bác dặn từ mùa thu lần cuối
Mái trường yêu vàng cánh nở muôn
hoa.
Tháng 8 năm 2013
HÀ THÚC QUẢ
CHÚ THÍCH:
(*):Tháng 9/1968, Trường sư phạm cấp 2 tự nhiên,
sơ tán tại xã Tiên Minh,Tiên lãng , Hải Phòng.
Cuối năm ấy tổ giáo viên KHTN được nhà nước
67
68. thưởng huân chương lao động hạng ba.
C. NHẬN XÉT :
1. …“ Hà Thúc quả nổi tiếng là thầy giáo
dạy toán giỏi của thành phố Hải Phòng. Vẫn biết
anh là người yêu văn học, cũng có lúc tạt ngang
sang thơ phú một chút, những tưởng là thư giãn
làm phong phú thêm tâm hồn, bổ trợ cho việc dạy
toán, nào ngờ đọc tập thơ “Tím chiều” của anh
bỗng thấy một con người khác của Hà Thúc Quả…
Thơ anh, giống như con người anh: Đằm
thắm, đôn hậu, dịu dàng; một chút duyên dáng dễ
thương; một chút bay bổng vút lên từ mực thước;
một chút lãng mạn trào dâng trong chừng mực tính
cách nhà giáo; công chúng dễ đọc, dễ cảm…Bạn
đọc có thể cảm nhận được thi pháp của anh khá
vững, sư am hiểu của anh về thơ khá rõ”
( HỒ ANH TUẤN)
2. “…Có lẽ qua rất nhiều trải nghiệm, những
mất mát đớn đau và cũng không ít ước nguyện,
không muốn đầu hàng tuổi tác và số phận mà anh
có thơ hay.Chínững nỗi niềm ấy đã chắp cánh cho
thơ anh. Anh đã say- say nghiêng ngả dù cuuoocj
đời cho anh một chút thôi…Chúc anh vẫn say để có
nhiều thơ hay hơn nữa…
(THANH AN)
68
69. HÀ THÚC QUẢ
Một thầy giáo toán làm thơ
“Tím chiều”, “Tàn –Nở”(1) – mộng mơ trải lòng
Nửa đời,“Bến đục – Bến trong”(2)
“Gặp mình một nửa”(2)mà lòng xót xa
Trí tuệ toán – tâm hồn thơ
Tình thơ như muốn đợi chờ... ai đây ?
“Đợi,” “Rung”, “Sóng vỗ chiều nay”(*)
“Chiều vay chút nắng(*), “Cát bay”(*), gió lùa.
Đắm “Lời chúc đêm giao thừa”(*)
Mà đời“Gánh cả bốn mùa”.(*)..thời gian ?
Hoa trong anh...Nở, không tàn .
Hồn thơ đậm nét nhân văn dâng đời .
(CẨN ANH )
CHÚ THÍCH :
(1) : Tên hai tập thơ của Hà thúc Quả.
(2) :Trích trong bài “Tàn – Nở”
69
70. (*) :Tên các bài thơ in trong tập thơ “Tàn –Nở”
11. NGUYỄN ĐÌNH TÂM
( 1944)
A. TIỂU SỬ:
+Họ và tên : Nguyễn Đình Tâm
+Bút danh : nt
+Ngày sinh :24 -7 - 1944
+Quê quán :Thị xã Cửa Lò, Nghệ an
+Địa chỉ :45A/ 98 Văn Cao, Ngô Quyền, Hải
Phòng.
+Nguyên giảng viên trường Đại học Hàng hải
+Hội viên Hội nhà văn Hải Phòng.
+Hội viên Hội khoa học phát triển nhân tài,
nhân lực Hải Phòng.
70
71. B. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
*THAM GIA VIẾT:
Có bài viết đăng ở các báo, tạp chí Trung ương
và địa phương
*T HƠ IN TRONG CÁC TUYỂN TẬP:
+ Thơ Hải Phòng 5năm, 10 năm, 20
năm, 40 năm.
* ĐÃ XUẤT BẢN:
+ “Sóng vào thu” ( NXB Hải Phòng – 1982 )
+ “Tình biển”(NXB Hội nhà văn – 2005 )
+ “Thức với mùa thu”(NXB Hội nhà văn – 2012)
* NHỮNG BÀI THƠ THAM KHẢO:
1.Nhớ biển.
Trầm ấm còi tàu lan nhanh vào khoảng lặng
Nỗi nhớ cồn cào cuốn về phía Đại Dương
Tiếng ì oạp vỗ vào tâm tưởng
Con sóng say, nghiêng ngả những cánh buồm
Thoảng nghe gió trở mình trong giấc ngủ
Cơn mê chiều ướt mắt gọi người thương.
( NGUYỄN ĐÌNH TÂM )
71
72. 2.Thức với mùa thu.
( Viết cho con gái Lê Hoa)
Xa mùa thu lại đến với mùa thu
Thành phố sáng trong mặt người rạng rỡ
Vị hồng sâm thơm dần vào nỗi nhớ
Những conđường lá đỏ, gió xôn xao.
Áo dài con tha thướt, thanh tao
Hòa quyện với những sắc màu hanbok
Ba rạo rực giữa hai miền mơ thực
Con bé thơ và con tuổi trưởng thành
Giữa thanh bình, cao rộng trời xanh
Thầm cảm tạ những ngày gian khổ
Con hiền thảo giữa bạn bè mến mộ
Con hồn nhiên hoa lá tươi thêm
Giữa xứ người con vẫn của quê hương
Là yêu thương, tự hào, hy vọng
Mai khôn lớn giữa dòng đời sôi động
Vẫn có Ba, diểm tựa của quê nhà
Ký ức ùa về, ký ức trôi qua
Sao lấp lánh khoảng trời xa chạng vạng
Ngắm con ngủ bình yên bên giáo án
Ba thức cùng ánh sáng của Gwangju
Ba thức cùng nhân nghĩa của mùa thu.
Gwangju.
Mùa thu 2010
NGUYỄN ĐÌNH TÂM,
72
73. 3. Bác xích lô.
Những vòng lo toan quay suốt một đời
Bác xích lô tuổi đã bảy mươi
Cứ đạp mãi không thoát ngoài vòng xích
Đạp tha thẩn giữa bao chiều vắng khách
Tự chở mình …chầm chậm…
Trước hoàng hôn.
( NGUYỄN ĐÌNH TÂM)
C. CẢM NHẬN:
“Nhà giáo Nguyễn Đình Tâm vốn giảng
viên, chủ nhiệm bộ môn Động cơ-Thiết bị nhiệt,
trường Đại học Hàng hải Việt nam. Anh say mê
khoa học kỹ thuật.Anh sớm đến với thơ bằng nỗi
niềm đam mê.Sự nghiệp hàng hải với sóng, với
biển, thiên nhiên, đất nước,… đã đi vào thơ anh
như một sự thăng hoa.Thơ của nhà giáo, nhà thơ
Nguyễn Đình Tâm đa dạng về thể loại, phong phú
về đề tài, dạt dào tình cảm, khá sâu sắc về ý, tứ.
Cùng với các thi phẩm viết về sóng, biển, thu,…bạn
đọc đang chờ đón đón tiếng lòng của thi nhân ở sự
đổi mới về thơ với nhiều đề tài khác.”
(NGUYỄN CẢNH ÂN)
73
74. NGUYỄN ĐÌNH TÂM
Nặng lòng với Biển – Quê hương
Hồn thơ anh đã nhuộm vàng sóng ru.
Anh từng “Thức với mùa thu”(*)
“Tình biển”(*)xô “Sóng vào thu”(*) đắm mình.
“Giữa mùa lá hằng tôn vinh...”(1)
“Lá vàng rơi...”(1),“Lá lìa cành”(1)- Đẹp!Thu...
“Nhớ biển”(2),nhớ “Ngã ba thu”(2).
Biển quê hương,“Tiếng sóng ru”(3)- Cửa Lò.(4)
Thi nhân - nhà giáo mộng mơ
Tâm tình thu - biển , hồn thơ dạt dào.
(CẨN ANH)
CHÚ THÍCH :
(*) Tên các tập thơ đã xuất bản
(1):Trích trong bài “Trước lá vàng rơi”
(2):Tên các bài thơ trong tập thơ “Thức với mùa thu”.
(3):Trích trong bài “Đêm Cửa Lò”
(4): Quê hương của nhà thơ.
74
75. 12. TRẦN NGUYÊN THẠCH
(1949)
A. TIỂU SỬ:
+Họ và tên :Nguyễn Ngọc Tấn.
+Bút danh : Trần Nguyên Thạch
+Ngày sinh :09 -10 -1949 .
+Quê quán: Thanh hóa
+Địa chỉ : 56D Trần Phú, Hải Phòng
+Nguyên giáo viên ngữ văn THPT Năng khiếu
chuyênTrần Phú, Hải Phòng
+Hội viên HỘI NHÀ VĂN Hải phòng.
B. SỰ NGHIỆP VĂN HỌC:
* THAM GIA VIẾT:
Có nhiều bài viết đăng tên các báo Trung ương
và địa phương.
* ĐÃ XUẤT BẢN:
+ “Bài ca đom đóm” ( NXB Hải Phòng)
+ “Bến xưa” ( NXB HỘI NHÀ VĂN – 2010)
75
76. *NHỮNG BÀI THƠ THAM KHẢO:
1.Thác Bản Giốc.
Bản giốc ơi, Người kể ta nghe
Có phải lịch sử trúng thương ở nơi này, Bản Giốc?
Mà thác bên trời buông trắng những khăn tang
Ta nghe tiếng thác như tiếng khóc
Nâng một chến rượu núi quê
Uống cùng non nước đau thương
Ta có say xin người sau đừng trách
Đâu đất đai tổ quốc ?
Đâu thác trắng ngàn xưa như mây
Đâu sông xanh ngàn xưa như ngọc
Và đâu nữa ?Bến sông xưa em tắm
Da núi trắng ngần cho ai mê say ?
Đưa tay vốc một vốc nước trong con sông
đầu nguồn tổ quốc
Nước sông hay nước mắt
Uống đi em nhé đừng quên
Nước nửa dòng bên như sắc máu lưu đày
vẫn im lặng chảy.
Ra về
Bản Giốc trong ta chỉ còn là tiếng gió như làn roi
quất bỏng rát con tim
Đâu danh thắng muôn đời
Người anh hùng Bản Giốc giờ đâu ?
Núi sông ầm ầm tiếng thác
Bản Giốc- Trùng Khánh – Cao bằng
Hạ 2007.
TRẦN NGUYÊN THẠCH
76
77. 2. Mực tím sang sông.
Có một lần
Ta lỡ đánh rơi vào áo trắng em một giọt mực tím
Không bắt đền
Nhưng em buồn em khóc.
Ta đăm đăm nhìn vào cõi nhớ
Giọt mực ngày xưa lớn lên
Thành trái tim hồng
Cho ta ngất ngây
Mang theo suốt cả một thời chiến trận.
Bây giờ mực tím sang sông
Ngày xưa thương lắm
Sao lòng lặng im.
Thành Vinh – 1995
TRẦN NGUYÊN THẠCH
3.Đom đóm.
( Thơ Hai Ku )
Đêm hè vắng
Cậu bé chân trần chơi cùng đom đóm
Ánh sáng nở đầy lòng bàn tay.
Hạ 1995
TRẦN NGUYÊN THẠCH.
77
78. C. CẢM NHẬN :
1. “Những trang thơ trí tuệ / Day dứt bao nỗi
niềm /Gợi bao điều nhân thế. / Máu ứa từng dòng thơ
/ Đọc nghe mà đau ruột / Mỗi địa danh đất nước /
Quặn thắt lòng thi nhân” (NGUYỄN CẢNH ÂN)
2. Một mình.
Một mình chỉ tại thiếu em
Một mình, chỉ một mình!Thêm một mình ?
Một mình đành phận giá băng
Bao mùa đông, chỉ nằm không, đợi chờ .
Một mình văn, ai đọc cho.
Một mình thơ, vần nhịp... lo một mình.
Một Tấn Ngọc Thạch vô tình
Bụi trần cũng chỉ lặng thinh, mặc đời !
Văn chương lắm cũng thế thôi !
“ Bến xưa”, chốn ấy- ngậm ngùi thế ư ?
“Bài ca đom đóm” – Hai ku(*)
Một sáng tạo mới, hướng đi đổi đời ! Một mình, chỉ một mình thôi,
Cùng nàng thơ hoá đá rồi hay sao ?
Trần Nguyên Thạch, bạn thơ đâu?
Tìm thêm mình nữa, trao nhau chén tình
Rượu ngon chỉ uống một mình
Đá trơ gan, Ngọc bất thành, Bạn ơi !
( CẨN ANH )
CHÚ THÍCH :
+ Những cụm từ in nghiêng đậm là tên các tập thơ của Trần
Nguyên Thạch.
+(*):Hai Ku là thể thơ Nhật bản, vào Việt Nam cuối thế kỷ XX.
Thể thơ này
ngắn – cực ngắn, hình thành từ thế kỷ 17 do phát kiến của
Matsuo Basho (1644 – 1694).
78
79. TRẦN NGUYÊN THẠCH
“BẾN XƯA”(*), day dứt nỗi đời !
“Bản Giốc ơi!”... “thác bên trời”... “khăn tang”(1)
“Hoàng sa Đất Việt”(2)kiêu hùng
“Sao lòng ta nhói buốt”(2 ) cùng thời gian .
Nhà thơ – nhà giáo chuyên văn
“Nhìn em qua cốc rượu tràn hoa nghiêng”(3)
“Rơi cộc...đáy cốc bàng hoàng ”(3)
Đau lòng “Mực tím sang sông”(4) lâu rồi !
“Trăng in đáy cốc”,(5) Cạn thôi !
Vì ai, “đâu chẳng có đời vọng phu”?(6)
Bao giờ ? cho đến bao giờ .
Trang thơ trí tuệ, ấm thơ trang đời
(CẨN ANH)
CHÚ THÍCH :
(*) Tên tập thơ của Trần Nguyên Thạch
(1) Trích bài “Thác Bản Giốc”
(2) Trích bài “ Xin gửi Hoàng Sa”
(3)Trích bài “ Cốc rượu”
(4) Tên bài thơ in trong tập thơ “BẾN XƯA”
(5) Tên bài thơ in trong tập thơ “BẾN XƯA”
(6) Trích trong bài “ Còn đó Vọng phu”
79
80. 13. HỒ ANH TUẤN
( 1943 )
A. TIỂU SỬ:
+ Họ và tên: Hồ Anh Tuấn.
+ Ngày sinh : 14-12-1943
+ Quê quán: Quỳnh đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An.
+ Địa chỉ : Số 4/155, phố Lán Bè, Lê Chân, Hải Phòng
+ Nguyên Hiệu trưởng THPT Cát Hải, Hải Phòng.
+ Nguyên trưởng phòng GD&ĐT Cát hải, Hải Phòng
+ Nguyên phó chủ tịch UBND huyện Cát hải, Hải Phòng
+ Hội viên Hội VHNT Hải Phòng.
+ Hội viên HỘI NHÀ VĂN Việt Nam
+ Nguyên : - Chủ tịch Hội liên hiệpVHNT Hải Phòng
- Tổng biên tập tạp chí Cửa biển.
+ Chủ nhiệm CLB thơ nhà giáo Hải Phòng .
B. SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG:
* THAM GIA VIẾT:
+ Báo Văn Nghệ
+Tạp chí Cửa biển
+ Các báo trung ương và địa phương
80
81. * ĐÃ XUẤT BẢN:
+Thơ tình của đá ( NXB Hải Phòng, 1993 )
+ Mùa thu đến muộn ( NXB Hải Phòng,1995 )
+ Giấc mơ của biển ( NXB Văn học – (1998)
+ Cánh chim hoang ( NXB Hội nhà văn, 2002)
+ Biển và em ( NXB Hội nhà văn-2004)
+ Chàng dũng sĩ dưới đáy biển –Truyện đồng
thoại NXB Kim đồng-2004)
+Nếu em là mùa thu (tập thơ nhạc – NXB Hải
Phòng-2007)
+ Những mảnh tâm tư ( NXB Hội nhà văn-2008)
+ Tự tình với mùa thu (NXB Hội nhà văn -2010
+ Tình yêu không biên giới (NXB Hội nhà văn –
2012)
*GIẢI THƯỞNG:
+Giải C về thơ, cuộc thi báo Người giáo viên nhân
dân,1971
+Giải C tập “Cánh chim hoang”(2002) và tập
“Biển và em”(2004)của uỷ ban toàn quốc liên
hiệp các hội VHNT Việt Nam.
+Giải thưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm 1995-1997 của
thành phố Hải Phòng.
+Giải thưởng VHNT Hải Phòng năm2004-2005.
+08 giải thưởng viết lời thơ cho các ca khúc (đồng
tác giả) của UBTQLH các Hội VHNT Việt Nam,
Hội nhạc sĩ Việt Nam và các bộ ngành.
+ …
81
82. *NHỮNG BÀI THƠ THAM KHẢO:
*
1. Cổng trường.
Cổng trường đông chật tiếng cười
Xôn xao hạt nắng vàng rơi dấu giày
Cổng trường bay áo trắng bay
Bâng quơ tay chạm bàn tay học trò
Nhân từ ánh mắt thầy cô
Là con thuyền đón ước mơ vào trường
Hoa chi thương đến là thương
Nở hồng trên má tuổi đương dậy thì
Cổng trường, nếu bước chân đi
Mừng vì khôn lớn, buồn vì cách chia
Xao lòng một giọt sương khuya
Tuổi trăng tròn chớm néo về… tình yêu
Xa trường cánh phượng mang theo
Trái tim ai cũng có nhiều lửa thiêng
Khép vào là mảnh trời riêng
Mở ra đường lớn nối liền chân mây.
Bâng khuâng qua cổng xuân này
Vẫn đàn em đó, vẫn thầy, vẫn cô
Bao nhiêu sóng gió dạt xô
Ai ngăn bọt biển dạt vô sân trường ?
Cổng trường lưu giữ tình thương
Ai từng qua sẽ vấn vương suốt đời.
( HỒ ANH TUẤN)
82
83. 2. Thầy tôi.
Con vẫn là đứa trẻ thơ lên bảy
Thuở thầy tóc đã trắng mây
Sách phấn , bảng đen ríu rít đến nhà thầy
Dưới giậu hòe hoang ngạt tiếng ve say.
Vẫn là đứa trẻ rạp đầu trên phản nhỏ
Cái phản cập kênh trên hai chồng gạch vỡ
Thầy cầm tay nắn từng chữ, từng dòng
Mồ hôi thầy, mồ hôi con rơi trên trang vở
Mơ hồ trưa tiếng khô rang guốc gỗ
Đọc chính tả tiếng thầy như sương rơi trên cỏ
Mơ hồ trưa những câu chuyện cổ
Thầy dắt chúng con qua tuổi thơ ngây
Con đã về đây, hôm nay trước nền cũ nhà thầy
Mấy chục năm phong trần vẫn là đứa trẻ thơ lên
bảy
Thầy đã khuất, mái tranh nghèo đã mất
Con cháu thầy dựng biệt thự nguy nga
Mừng cho thầy mà thương thế thuở xưa xa
Những tướng lĩnh, giáo sư bồn chồn ngày gặp mặt
Tiếng guốc gỗ gõ vào ký ức
Ngỡ từ trong cổ tích thầy về
HỒ ANH TUẤN.
83
84. 3.Trường xưa.
Ngỡ ngàng trước ngôi trường mới
Thầy giáo xưa đâu rồi?
Cả tôi ngày xưa ấy
Cũng đã thành xa xôi!
Lên với mây với gió
Trường mới cao nguy nga
Vẫn như chú trò nhỏ
Dưới bóng thầy giáo già.
Bạn cũ giờ đâu ta
Trường mới cao nguy nga
Vẫn như chú trò nhỏ
Dưới bóng thầy giáo già.
Bạn cũ giờ đâu ta ?
Ai lập nghiệp quê nhà ?
Ai lên tướng, lên tá ?
Ai lên ông, lên bà ?
Trường xưa: Tranh, tre, lá
Chẳng thẹn với cuộc đời
Các em ơi, trường mới
Có nâng tầm con người ?
Đừng nhìn tôi lạ thế
(Cái “lon” tướng trên vai!)
Tôi tìm về ngày cũ
Gặp các em… tương lai.
84
85. HỒ ANH TUẤN.
* CẢM NHẬN
1. “Hồ Anh Tuấn là một nhà giáo, nhà
thơ gắn bó gần suốt cuộc đời
với giáo dục, biển đảo.Từ một thầy giáo dạy văn,
Hiệu trưởng trường cấp3, Anh trở thành nhà quản lý
giáo dục, chủ tịch Hội VHNT Hải phòng...Tôi đã có
dịp thăm anh ở Cát Hải, Cát Bà, khi anh còn làm
trưởng phòng giáo dục huyện đảo Cát Hải, biết Anh
và thơ anh từ đó. Thơ Hồ Anh Tuấn nặng tình với
trẻ thơ, với nhà trường, cháy lòng với biển đảo, với
em và mùa thu. Bút lực của Anh thật sung mãn.
Thơ tình rút từ lòng Anh những dòng mật ngọt dâng
hiến cho đời.”
( NGUYỄN CẢNH ÂN)
2. “…Chế Lan Viên có câu thơ rất hay
viết về hạnh phúc: Khi được lúa, ta được cả chim
trời đến hót. Hạnh phúc trở về, hạnh phúc hoá
thành đôi. Câu thơ ấy ứng vào những năm cuối khi
từ giã quan trường của Hồ Anh Tuấn: Năm 2005
anh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, đó là
sự khẳng định muộn màng với một người đã yêu, đã
tin, gửi gắm cả đời mình cho thơ với một sự mê
đắm lạ lùng… Anh đã đi trên con đường gập ghềnh,
gian khó, khổ đau ấy "con đường ảo của người làm
thơ" như anh tự bạch, để viết những câu thơ có ích
cho nhân sinh thế thái muôn đời … Anh đã có 5 tập
thơ, 1 cuốn truyện thiếu nhi, 83 bài hát phổ thơ
anh… tất cả đều có dấu tích của Hải Phòng, thành
phố đã trở thành quê hương thứ hai của anh, hệt
mảnh đất Quỳnh Lưu, Nghệ An - nơi anh đã sinh ra.”
85
86. (NGUYỄN LONG KHÁNH )
HỒ ANH TUẤN.
Cuộc đời dạy học, làm thơ
Mái trường – Biển – đảo: Mộng mơ với đời
“Trường xưa”(*) ấm tiếng “Thầy tôi”(*)
Nắn từng nét chữ, mồ hôi: Con – Thầy.
“…Chúng con qua tuổi thơ ngây”(1)
“Cổng trường”(*)-“Đường lớn chân mây nối
liền”(2)
“Đồng môn”(*)- nay đã cao niên
Người làm tướng, kẻ bén duyên thơ đời.
Gom từng con chữ thơ chơi
Ngấm từng trang sách, cuộc đời ấm thêm
Mái trường – Thu – Biển – Đảo – Em …
Từng giọt trí tuệ chắt đem dâng đời
Hồ Anh Tuấn – Thi Nhân ơi !
Tâm Anh nhà giáo – Hồn đời nhà thơ.
CẨN ANH
CHÚ THÍCH:
(*): Tên các thi phẩm Hồ Anh Tuấn viết về nhà trường
(1): Trích trong bài “Thầy tôi”
86
87. (2): Trích trong bài “Cổng trường”
TÁC GIẢ ĐỀ NGHỊ BBT VÀ NHÀ XUẤT BẢN
GHI ĐỦ THÔNG TIN
TRÍCH NGANG:
*Phía trong trang bìa trước:
-NGUYỄN CẢNH ÂN
-Bút danh: Cẩn Anh
-Năm sinh: 1946
-Quê quán:Đô lương, Nghệ An
-Đ/c:395 Lê Thánh Tông, HPhòng
-ĐT:0313.766.803 – 0934297899
-Cử nhân văn khoa ĐHSP Hà Nội
- Nghề nghiệp: Dạy học, Hiệu trưởng
và sáng tác văn học .
HỘI VIÊN:
-CLB sáng tác VHNT Việt Nam
-CLB Thơ nhà giáo Hải Phòng
GIẢI THƯỞNG:
-Giải 3(Không có giải nhất) cuộc thi thơ quốc gia
“Hương thơ đất Việt”năm 2012-2013
*
*Phía ngoài trang bìa sau:
ẢNH 4x6
87
88. TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN:
+ Chân dung thi nhân Việt Nam - NXB VHTT
+ Trăng Tam Đảo - NXB Văn học
+ Nghề dạy học - NXB VHTT
+ Chân dung thi nhân Hải Phòng
- NXB VHTT
(Tập 1)
+ Chân dung thi nhân Hải Phòng
(Tập 2)
- NXB VHTT
THƠ IN CHUNG TRONG CÁC TUYỂN TẬP:
+ Tấm lòng nhà giáo - NXB Giáo dục
+ Thơ nhà giáo Hải Phòng - NXB Hải Phòng
+ Hương thơ đất Việt - NXB VHTT
+ Còn mãi với thời gian - NXB Lao động
+ Dấu ấn những gương mặt thơ
- NXB VHTT
hiện đại
+ Thơ nhà giáo - NXB Giáo dục
+ Tác giả thơ- chân dung và
- NXB VHTT
phong cách.
+ Nhớ Đô lương - NXB VHTT
+ Góp nhặt thơ tình - NXB VHTT
+ Dòng thi ca - NXB VHTT
-
88