Toàn cảnh văn hóa, thể thao, du lịch - Số 1192 - vanhien.vn
KKhông lỡ bước với dân tộc và thời đại
1. KHÔNG LỠ BƯỚC
VỚI DÂN TỘC VÀ THỜI ĐẠI
Hàm Châu và Nguyễn Cẩm Ngọc 1
Nhân kỳ niệm 60 năm Ngày giải phóng Thủ đô (10-10-1954 - 10-10-
2014), Tạp chí Văn Hiên trân trọng giới thiệu với độc giả bài ký chân
dung của Nhà văn Hàm Châu và Thạc sĩ Nguyễn Cẩm Ngọc viết về một
gương mặt trí thức lớn, hiện đã ngoài 82 “tuổi hạc”: Giáo sư, Tiến sĩ
khoa học Đặng Hữu, Viện sĩ Viện Hàn lâm Vận tải Liên bang Nga,
nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, nguyên Ủy viên Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông là người đã tham gia hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cũng như đã góp công xây dựng
nhiều công trình lớn như Đường Hồ Chí Minh trong những năm “xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước”, rồi Đường dây 500 kV Bắc - Nam mạch 1, rồi
đi đầu kết nối Việt Nam với thế giới qua mạng Internet...
GS Đặng Hữu, chủ tịch Hội đồng Quản trị Trường đại học Quốc tế Bắc Hà
1 Nguyễn Hàm Châu, nhà văn, nhà báo, tạp chí đối ngoại tiếng Anh Vietnam Cultural Window (Cửa số
Văn hóa Việt Nam), Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Nguyễn Cẩm Ngọc, thạc sĩ, nghiên cứu sinh khoa học chính trị Trường đại học Khoa học xã hội và nhân
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
1
2. Không lỡ bước trong đời
Chuyến này chị bước sang ngang
Là tan vỡ giấc mộng vàng từ nay …
Lỡ bước sang ngang của Nguyễn Bính là một bài thơ lục bát giản dị
như ca dao mà xúc động lòng người, viết về tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, ta
có thể “ngoại suy” sang một vài lĩnh vực khác, chẳng hạn, trong thuở thiếu
thời, ta lựa chọn con đường tiến thân không đúng, trót “lỡ bước sang
ngang”, kết quả là làm “tan vỡ giấc mộng vàng”! Một bước đi sai thời trẻ -
tự nguyện hay bị ép buộc - có thể khiến cho cả đời người buồn tẻ, thậm chí
chán chường tuyệt vọng:
Chị giờ sống cũng bằng không
Coi như chị đã ngang sông đắm đò…
Suốt mấy chục năm ròng cứ phải làm một công việc bất đắc dĩ, hay tệ
hơn, “khổ sai”, do thời trẻ “lỡ bước”, có lẽ cũng buồn tẻ chẳng kém cả cuộc
đời phải sống với một người vợ hay người chồng mà mình cảm thấy…
“ngán như cơm nếp nát”, hay tệ hơn, “ớn đến tận cổ”!
Rất may, Đặng Hữu đã không lỡ bước! Sự lựa chọn trong thuở thiếu
thời của ông không sai, cho nên nếu giờ đây phải làm lại, thì ông cũng vẫn
cứ làm như thế mà thôi...
Đặng Hữu sinh năm 1932 tại xã Mỹ Tài, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình
Định. Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, mới 13 tuổi, cậu bé Hữu đã
náo nức tham gia sinh hoạt Đội Thiến niên Cứu quốc. Tròn 18 tuổi, anh học
sinh trung học chuyên khoa sớm đứng vào đội ngũ Đảng Cộng sản Đông
Dương, và được tin cậy nhận về làm tại cơ quan Tỉnh ủy Bình Định.
Cuối năm 1952, vừa 20 tuổi, Đặng Hữu không ngần ngại cuốc bộ 5
tháng liền, dọc theo những lối mòn len lỏi giữa rừng già trên dãy Trường
Sơn cheo leo vách đá, vượt qua bao núi xanh và thác bạc, từ vùng đồng bằng
liên khu V ra tận huyện Chiêm Hoá, Tuyên Quang, dự lớp chỉnh huấn ở nơi
trước đó một năm đã họp Đại hội II của Đảng Cộng sản Đông Dương - đại
hội đổi tên Đảng thành Đảng Lao động Việt Nam, và bầu Cụ Hồ Chí Minh
làm Chủ tịch Ban Chấp hành trung ương.
Vật dụng không thể thiếu trong cuộc hành trình nghìn dặm ấy là đôi
dép cao-su cắt từ lốp ô-tô cũ, dạo ấy quen gọi là “dép Bình Trị Thiên”.
2
3. Sau đó, anh lên đường sang Trung Quốc, theo học Học viện Đường
sắt ở thành phố Đường Sơn.
Năm 1958, anh trở về nước, giảng dạy tại Trường đại học Bách khoa
Hà Nội. Năm 1963, một lần nữa anh ra nước ngoài, nhưng lần này là sang
“xứ sở bạch dương”, viết luận án tiến sĩ tại Đại học Quốc gia Giao thông -
Vận tải Moskva, một trong những đại học danh tiếng nhất trên đất nước Liên
Xô thanh bình và hùng mạnh một thời. Luận án tiến sĩ chuyên ngành xuất
sắc của anh được hội đồng chấm luận án đánh giá đạt trình độ tiến sĩ khoa
học (доктор HayK), một học vị riêng của Nga, với những tiêu chí khoa học
cao hơn học vị tiến sĩ của Mỹ (PhD) và nhiều nước khác.
Trở lại Việt Nam, ông dạy tại Trường đại học Xây dựng Hà Nội, trong
những năm máy bay và tàu chiến Mỹ ném bom và nã pháo dữ dội miền Bắc
Việt Nam. Vị tiến sĩ tân khoa dấn thân ngay vào sự nghiệp chung của cả dân
tộc. Nhiều lần ông có mặt trên “đường mòn Hồ Chí Minh” bị quân Mỹ bắn
phá suốt ngày đêm và rải chất da cam “diệt cỏ”, để khảo sát, quy hoạch và
thiết kế tuyến Trường Sơn Đông, có thể cho xe tải, xe com-măng-ca chạy
vào đầu mùa mưa, khi mà trên tuyến Trường Sơn Tây thác dữ bắt đầu cuồn
cuộn cuốn trôi cả xe tải.
Là chuyên gia đầu ngành về đường ô-tô, ông lặn lội vào tận liên khu
V và Tây Nguyên, làm việc với hai vị tướng lừng danh thao lược Chu Huy
Mân, Hoàng Minh Thảo, và với vị Bí thư Liên khu ủy nức tiếng táo bạo Võ
Chí Công, khi mà chiến trường còn ở thế “cài răng lược” giữa ta và đối
phương, sự sống và cái chết chỉ cách nhau gang tấc. Ngay trong chiến tranh,
Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã sớm lo toan
cho việc hoạch định mạng lưới đường sá ở miền Nam sau giải phóng…
Rõ ràng Đặng Hữu là người, ngay từ thời trẻ, đã không lỡ bước với
dân tộc suốt bao năm dài đấu tranh gian khổ “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp
cùng”…
Thế còn không lỡ bước với thời đại?
Chẳng phải tất cả những ai đã không lỡ bước với dân tộc qua hai cuộc
kháng chiến, sau ngày đất nước thống nhất, cũng đều còn “hơi sức” để
không lỡ bước với thời đại. Nhiều người ờ độ tuổi ông đã không kịp bước
lên chuyến xe của thời đại computer, Internet, email, Google, iPad,
smartphone... Nhưng Đặng Hữu thì chẳng những cá nhân ông không bỏ lỡ,
mà còn tạo nên chuyến xe ấy ở nước ta để có thể đón nhiều người khác cùng
đi.
3
4. Đâu là nét đặc sắc của thời đại mới đang mở ra trước mắt chúng ta?
Đó là thời đại của xã hội tin học hóa, của nền kinh tế tri thức, kinh tế thông
tin, kinh tế Internet. Trên mũi nhọn “mới toanh” của khoa học và công nghệ
tiên tiến ấy, ông là một trong số rất ít người đi tiên phong “khai sơn phá
thạch”, mở đường cho việc kết nối Internet ở Việt Nam.
Những năm 1963-1966, khi đang học ở Moskva, nghiên cứu sinh
Đặng Hữu vẫn thường lên phòng máy tính của trường, làm quen với những
cỗ máy tính điện tử đặt kín cả một gian phòng. Điện tử và tin học lôi cuốn
ông ngay từ dạo ấy, mặc dù chuyên ngành ông sở trường là đường ô-tô.
Những năm 1970, làm việc tại Trường đại học Xây dựng Hà Nội, ông
thi thoảng viết chương trình và thuật toán để chạy trên máy tính Minsk-22,
cỗ máy tính thế hệ cũ, to kềnh, chiếm trọn một gian phòng trong tầng hầm
tòa nhà số 39 Trần Hưng Đạo, trụ sở của Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà
nước (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ).
Rồi những năm 1982-1983, khi máy tính cá nhân bắt đầu xuất hiện,
cũng là lúc ông được cử làm Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà
nước. Rất thích thú sử dụng PC (personal computer), ông khuyến khích các
bạn trẻ nên mạnh dạn bước ngay vào công nghệ thông tin, kẻo bỏ lỡ mất thời
cơ đang ló rạng phía chân trời, không “để lỡ chuyến xe thời đại” đang
chuyển bánh.
Những năm 1992-1993, Internet bùng nổ trên thế giới. Ở nước ta, một
số nhà tin học như GS Bạch Hưng Khang, KS Trần Bá Thái… bắt đầu tìm
cách truy cập qua mấy cổng điện tử ở Australia, ở Mỹ. GS Đặng Hữu cũng
có ngay một mật khẩu để vào Internet qua điện thoại đường dài kết nối với
Hong Kong, nhưng chỉ dùng khi công việc chung gấp gáp, vì quá tốn kém.
Ông cũng là người giúp Chính phủ ta soạn thảo và ban hành Nghị
quyết 49-CP ngày 4-8-1993 về công nghệ thông tin, sau đó, chủ trì việc xây
dựng Chương trình Quốc gia về Công nghệ thông tin đến năm 2000, rồi làm
Trưởng Ban chỉ đạo thực hiện chương trình ấy. Cùng với các thành viên
khác trong Ban chỉ đạo như GS Phan Đình Diệu, GS Nguyễn Đình Ngọc, TS
Chu Hảo, TS Mai Liêm Trực, v.v., ông đã góp phần thúc đẩy sự phát triển
nhảy vọt của công nghệ thông tin và truyền thông ở nước ta trong vài ba
thập niên vừa qua.
Là trưởng Ban Khoa giáo Trung ương, GS Đặng Hữu tham mưu cho
Bộ Chính trị về công nghệ thông tin. Năm 1997, Bộ Chính trị có kết luận
cho phép nước ta kết nối Internet với thế giới.
4
5. Năm 2003, ông được Tổ chức Công nghiệp Tính toán châu Á - châu
Đại dương (Asian - Oceanian Computing Industry Organization/ ASOCIO)
tặng Giải thưởng ASOCIO, giải thưởng dành tặng những người đóng góp
nhiều nhất cho công nghệ thông tin. GS Đặng Hữu là người Việt Nam đầu
tiên được tặng giải thưởng ấy.
Cuộc đời dài, phong phú và sôi nổi, thẳng tiến một mạch trên con
đường mà mình đã chọn từ thuở thiếu thời, chưa bao giờ “lỡ bước sang
ngang”, của một vị trí thức tiêu biểu như GS Đặng Hữu - cuộc đời bao trùm
nhiều thập niên của thế kỷ XX nối dài sang cả thế kỷ XXI - chỉ có thể được
kể lại đầy đủ, tỉ mỉ trong một cuốn hồi ký dày dặn, do chính ông tự viết. Tuy
nhiên, do ông quá bận rộn, lại là nhà khoa học tự nhiên không quen thể hiện
mình bằng văn chương. Vậy nên, chúng tôi - Hàm Châu và Cẩm Ngọc -
đành phải ghi lại một vài “lát cắt” bởi vì, nếu không, thì phí quá!…
Cuốc bộ vượt nghìn trùng xa ra “đất thánh”
Anh học sinh trung học Đặng Hữu, 20 tuổi, cuốc bộ 5 tháng liền
từ liên khu V ra Việt Bắc để "tầm sư học đạo"
5
6. “Ra đến Chiêm Hoá, Tuyên Quang, sau hơn 150 ngày trèo đèo lội
suối, ăn cơm chấm muối với rau rừng, tôi chỉ còn nặng 39 kí, nước da xanh
rớt, bước chân lảo đảo! Ngày nay, ngồi nhớ lại, chính tôi cũng không hiểu
nổi tại sao dạo ấy, tụi học sinh chúng tôi lại có thể hăng say đến thế, chịu
đựng được những nỗi khó khăn, vất vả tưởng chừng vượt quá sức con
người! Đông-xuân năm ấy khí trời lạnh buốt, thế mà đêm đêm chúng tôi
phải ngủ giữa rừng hoang, trên tấm sạp nứa nơi trạm giao liên, đắp tấm
một vải mỏng thay chăn…”.
GS Đặng Hữu bồi hồi kể lại chuyến đi bộ suốt 5 tháng trời từ liên khu
V vượt Trường Sơn ra Việt Bắc, bắt đầu từ trước Tết âm lịch kéo dài đến
cuối xuân năm 1953, khi ông mới 20 tuổi.
Còn giờ đây, đầu đông năm 2014, giáo sư đã 82 “tuổi hạc”. Sức khỏe
ông có phần giảm sút, vừa phải mổ mắt, thay thể thủy tinh, nhưng dáng vẻ
vẫn “phong độ”, trí tuệ vẫn minh mẫn, nụ cười vẫn sáng tươi, hàm răng vẫn
trắng ngà (do ông không hút thuốc lá, nên men răng không ám khói ố vàng).
Ngôi nhà hai tầng nép mình trong một ngõ vắng “ngoại ô” ở phố
Phương Liệt, quận Thanh Xuân, Hà Nội - ngôi nhà của một vị cựu bộ
trưởng, nguyên ủy viên Trung ương Đảng - được bài trí đơn sơ nhưng lịch
lãm. Ông hẹn gặp chúng tôi vào dịp kỷ niệm Ngày giải phóng Thủ đô 10-10,
một dịp gợi lại cho ông bao kỷ niệm…
“ Ông nội tôi thường được bà con trong xã Mỹ Tài gọi là “ông giáo
Khải”, vì ông lều chõng đi thi Hương mấy lần không đỗ, đành trở về nhà
dạy chữ Nho, kê đơn bốc thuốc Bắc - GS Đặng Hữu nói. Cha tôi đỗ
primaire, tương đương tốt nghiệp tiểu học hiện nay, nhưng thời đó học ở
trường Pháp-Việt, nên cũng đã có thể nói tiếng Pháp trôi chảy. Ông làm
trong ngành hỏa xa, được đi đây đi đó. Có thể nói “của cải” duy nhất mà
tôi được “thừa kế” từ ông, cha là lòng hiếu học. Chỉ thế thôi, chứ không còn
gì khác nữa! Thuở nhỏ, tôi học tại Trường tiểu học An Lương. Hiệu trưởng
trường này là ông Nguyễn Mỹ Tài, thân sinh anh Nguyễn Đình Tứ.
Vì cả huyện Phù Mỹ chỉ có một trường tiểu học, nên tôi phải trọ học
gần trường, nhờ vậy, quen biết anh Nguyễn Đình Tứ từ khi chúng tôi còn bé.
Sau này, anh Tứ trở thành một nhà vật lý thực nghiệm nổi tiếng ở Viện Liên
hiệp Nghiên cứu Hạt nhân Dubna, gần Moskva, rồi được bổ nhiệm làm bộ
trưởng, được bầu vào Bộ Chính trị Đảng ta. Người em trai anh Tứ là anh
Nguyễn An Lương giữ chức phó chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt
6
7. Nam. Anh An Lương sinh ra ở vùng An Lương, nên mới mang tên địa
phương ấy…”.
Sau khi thi đỗ primaire ở Bồng Sơn, Đặng Hữu vào học Collège de
Quy Nhon, trường trung học duy nhất ở miền nam Trung bộ. Trước anh,
nhiều nhà thơ danh tiếng cũng từng học trường này, như Xuân Diệu, Chế
Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn… Chính họ đã tạo nên một
dòng thơ riêng trong văn học sử nước ta, gọi là “trường phái Quy Nhơn”.
Đặc biệt, tập thơ Điêu tàn của Chế Lan Viên, sáng tác năm 17 tuổi, viết về
không gian Chăm ở vùng Bình Định, gây ấn tượng mạnh ngay từ khi ra mắt
bạn đọc cả nước.
Đặng Hữu học đến năm thứ hai, thì phải bỏ, vì xảy ra việc Nhật đảo
chính Pháp, đêm 9-3-1945.
Hơn một năm sau, tối 19-12-1946, Kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Collège de Quy Nhon dời về vùng An Lương, và mang tên mới là Trường
trung học Nguyễn Huệ. Năm 1949, anh Hữu thi đỗ thành chung, rồi học lên
năm đầu bậc trung học chuyên khoa ngành toán. Suốt những năm trung học,
anh luôn được biểu dương là học sinh xuất sắc. Thầy giáo toán Đinh Thành
Chương hết lời khen ngợi anh.
Năm 1952, mặc dù chiến tranh vẫn còn diễn ra ác liệt, Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Tổng Bí thư Trường Chinh và các vị lãnh đạo cao nhất của cuộc
kháng chiến đã nhìn thấy trước ngày thắng lợi. Các vị chủ trương phải gấp
rút đào tạo một đội ngũ trí thức mới, trí thức của cách mạng để phục vụ công
cuộc xây dựng đất nước trong hoà bình.
Biết được chủ trương ấy, nhiều thanh niên có trình độ trung học
chuyên khoa ở liên khu V như Hoàng Tụy, Nguyễn Văn Hường, Đặng Hữu,
… hăng hái tìm đường ra Việt Bắc.
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn về Việt Bắc Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền 2...
Việt Bắc! Nơi dựng cờ tụ nghĩa của cách mạng Việt Nam! Mảnh đất
sáng chói trong tâm tưởng của những thanh niên yêu nước nằm ở tít phương
2 Thơ Tố Hữu: Nhà thơ này có một số câu thơ hiên nay không còn phù hợp nữa (chẳng hạn, những câu thơ
về Stalin, Mao Trạch Đông), bị không ít người chỉ trích. Nhưng như thế, không có nghĩa ông chẳng có câu
thơ, bài thơ nào hay cả. Trong nhiều thập niên thế kỷ XX, không ít người Việt Nam thuộc lòng nhiều câu
thơ, bài thơ hay của Tố Hữu. Thật không công bằng nếu như ta muốn phủ nhận sạch trơn thơ ông, chỉ vì
quan điểm chính trị của ta khác ông.
7
8. trời phía bắc, nơi đêm đêm lấp lánh ngôi sao Bắc Cực trong chòm sao Tiểu
Hùng trông tựa như chú gấu nhỏ hiện lên giữa vòm trời khuya trên con
đường núi hiểm trở qua huyện Giằng, huyện Hiên 3. Đi vòng vèo trên vùng
núi phía tây liên khu V để tránh đụng phải bốt đồn Tây. Mấy dân tộc thiểu
số như Ve, Cơ Tu, Tà Riềng… sống ở đấy. Làng xã mang những cái tên rất
lạ: Cà Dy, Tà Bhing, Tà Pơơ (hai chữ ơ), Đắk Pring, Đắk Pree (hai chữ e),
La Dêê (hai chữ ê), Zyôih, Đắk Tôi, Chà Vài… Chỉ mới thoáng nghe người
địa phương nói, bạn đã cảm thấy sự hoang vu. Nếu không có cuộc kháng
chiến, thì chắc gì các bạn trẻ đồng bằng có cơ hội đặt chân tới vùng “khỉ ho
cò gáy” này?
Một nhà sàn đơn sơ vách nứa
Bốn bên suối chảy cá bơi vui
Đêm đêm cháy hồng lên bếp lửa
Ánh đèn khuya còn sáng trên đồi
Nơi đây sống một người tóc bạc
Người không con mà có triệu con
Nhân dân ta gọi người là Bác
Cả đời người là của nước non
Việt Bắc quê hương ta sáng chói
Đất tự do của những anh hùng
Chim bay rợp trời mây rộng rãi
Quân đi rung chuyển những sông rừng…
Năm 1950, trong bài Quê hương Việt Bắc 4, Nguyễn Đình Thi đã vẽ
nên cảnh sống thanh bạch của Cụ Hồ giữa rừng xanh Việt Bắc, như một bậc
đại hiền thời cổ đại ẩn mình giữa chốn sơn thủy hữu tình: “Tiếng suối trong
như tiếng hát xa/ Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”. Nghe nói, cứ độ vài
tháng, ông cụ lại đổi chỗ ở một lần, và tám cán bộ gần gũi, được ông cụ đặt
tên cho là Trường, Kỳ, Kháng, Chiên, Nhất, Định, Thắng, Lợi, lại cùng ông
cụ dựng lên một ngôi sàn mới, cũng vẫn “đơn sơ vách nứa” và cũng vẫn
3 Tên cũ của các huyện ở phía tây liên khu V giáp dãy Trường Sơn, huyện Giằng nay đổi tên là huyện Nam
Giang, còn huyện Hiên thì chia thành hai huyện, mang tên mới Đông Giang và Tây Giang.
4 Bài thơ sáng tác ở Việt Bắc, nhưng được chép tay chuyền vào tận liên khu IV, liên khu V.
8
9. “bốn bên suối chảy, cá bơi vui” - rất hợp với thuyết phong thủy phương
Đông - khi thì ở Định Hóa, lúc chuyển tới Tân Trào, qua ngọn đèo De, bên
dãy núi Hồng, đó đây điểm xuyết những cánh rừng mơ hoa trắng, rừng
phách hoa vàng…
Hình ảnh Cụ Hồ lay động tâm can nhiều bạn trẻ, tuổi trên dưới đôi
mươi, lứa tuổi say mê lý tưởng, háo hức hướng về chân, thiện, mỹ, như
Hoàng Tụy, Nguyễn Văn Hường, Đặng Hữu… Mấy chàng thư sinh ấy đều
học rất giỏi, lại xuất thân từ dòng dõi thi thư Nho học, nếu “dinh tê vào
thành”, thì không thiếu cơ hội sang Âu - Mỹ du học. Nhưng, các anh không
chọn con đường ấy, không “lỡ bước sang ngang”. Bởi vì, ngay từ mùa thu
năm 1945, các anh đã tin chắc vào đại nghĩa của Cách mạng Tháng Tám,
ngưỡng mộ Cụ Hồ, “người đã sống năm mươi năm vũ bão/ vì nhận loại,
người quyết dâng xương máu/ vì giang sơn, người quyết dứt gia đình”. Đó
không phải là sự sùng bái cá nhân mù quáng, mà là niềm ngưỡng mộ chân
thành của tuổi thanh xuân đang tìm lẽ sống, tìm “thần tượng” cho đời mình.
- Anh Hoàng Tụy, anh Nguyễn Văn Hường đi đợt trước. Đợt tôi đi, từ
Bình Định chỉ có một mình tôi - GS Đặng Hữu kể tiếp. Đến Quảng Ngãi,
gặp thêm 5 anh em, ra Quảng Nam thì số người cùng đi lên tới 12. Chúng
tôi cử anh Trần Đình Miên làm trưởng đoàn. Cả bọn chỉ biết, khi ra tới liên
khu Việt Bắc, thì tìm đến T95, nhưng chẳng biết cơ quan ấy đóng ở tỉnh nào
trong cái liên khu xa tít ấy!
Giấy tờ tùy thân, thuốc sốt rét gói gọn trong bao ni-lông, bỏ vào ba-lô
cùng một bộ áo quần để thay đổi, và một tấm vải xi-ta để đắp thay chăn.
“Xi-ta” là loại vải bông sợi to, nhuộm màu xám thẫm, do ngành quân trang
liên khu V thời chống Pháp tự dệt bằng khung cửi đạp chân. Mỗi người còn
khoác chéo một cái “túi nén” đựng 5 ki-lô-gam gạo.
Con đường Trường Sơn dạo ấy chưa đủ rộng cho cả đoàn xe tải lăn
bánh như sau này, vào thời chống Mỹ. Lúc bấy giờ, đó chỉ là những lối mòn
len lỏi giữa rừng cây rậm rì. Cứ vào khoảng 20-30 ki-lô-mét lại đặt một
trạm giao liên để cho cán bộ, bộ đội nghỉ chân hoặc ngủ lại. Một cái chòi
lợp lá cây rừng, một sạp nứa rộng, đủ chỗ cho mấy chục người nằm. Không
có ai tiếp đón. Ai đi qua, dù là cán bộ cấp nào, cũng phải tự nhặt củi khô,
nổi lửa nấu cơm ăn.
Bọn tôi, cứ ba người, nấu một kí gạo, trong cái cà-mèn 5 mang theo.
Rồi đi loanh quanh hái một dúm lá rừng xem chừng ăn không ngộ độc, nấu
bát canh với muối. Thi thoảng “ăn tươi”, thì cho thêm chút bột thịt mang từ
5 Cà-mèn: Bắt nguồn từ tiếng Pháp gamelle, đồ gia dụng bằng nhôm hay sắt tráng men đựng thức ăn mang
đi, về sau, thường được gọi là cặp lồng.
9
10. nhà theo. Hôm nào trời mưa, không nhặt được củi khô đun bếp thì chỉ có
đói meo!
- Thưa thầy, em muốn biết giữa rừng sâu hoang vắng, chẳng khác gì
sống trong thời đại đồ đá cũ cách đây hàng chục vạn năm, các thầy lấy lửa
bằng cách nào ạ? - Cẩm Ngọc hỏi 6.
- Bọn mình có bật lửa mà. Không phải là bật lửa gas như hiện nay,
mà là bật lửa dùng đá lửa. GS Hữu trả lời. Đá lửa là thứ rất khó kiếm ở
vùng căn cứ kháng chiến, vùng sơn địa phía tây liên khu V. Dân buôn
chuyến phải mua từ vùng duyên hải bị tạm chiếm mang lên. Để qua mắt bọn
lính tẩy ở các đồn bốt dọc đường, chị em - trạc tuổi Cẩm Ngọc bây giờ -
phải tìm cách che giấu. “Kỹ thuật” ngụy trang thời ấy được “đúc kết”
thành câu vè “tóc bồng đá lửa, bụng chửa ka-ki”, nghĩa là nhét đá lửa vào
mớ tóc chải bồng, buộc vải ka-ki vào bụng, dưới lớp áo khoác ngoài, trông
cứ y như mang bụng chửa!
- Không chăn, màn, các thầy làm thế nào mà chịu nổi muỗi đốt và lại
không bị cảm lạnh qua cái rét tiểu hàn, đại hàn? - Cẩm Ngọc hỏi tiếp.
- Tuổi trẻ mà! Dạo ấy, bọn thầy mới trên dưới hai mươi, còn trẻ hơn
em bây giờ. Em sắp bảo vệ luận án tiến sĩ khoa hoc chính trị chưa, Cẩm
Ngọc?
- Thưa thầy, cũng sắp rồi ạ, có lẽ vào đầu năm 2015, vì đề tái khó, nên
thời gian em viết luận án hơi kéo dài... Nhưng cơ mà, em cứ nghĩ, năm 1952,
dù thầy mới 20 tuổi, còn trẻ lắm, nhưng vẫn bị sốt rét chứ ạ? Ngủ không
màn giữa rừng sâu, nhiều vực nước, lắm muỗi anopheles, chắc thầy phải bị
muỗi đốt... “dã man”?
- Tất nhiên... “dã man” lắm! Thầy và hai anh bạn cùng đoàn mắc
phải chứng sốt rét rừng, phải nghỉ lại Thanh Hoá một tuần, ra Việt Bắc
chậm hơn các bạn khác, may mà cuối cùng cũng gặp lại nhau ở T95.
- Trong chuyến cuốc bộ dài 150 ngày đó, có lần nào thầy gặp nguy
hiểm chết người không? - Cẩm Ngọc lại hỏi.
- Hai lần suýt mất mạng đấy! Lần thứ nhất, đụng phải địch. Hôm ấy,
bọn thầy đang ở phía tây Quảng Trị. Muốn đi tiếp ra bắc, có ba “phương
án” để chọn: hoặc đi men theo con đường mòn trên sống núi cao ngất trời,
tức là trên đường phân thủy; hoặc đi theo lối hẹp ở lưng chừng núi; hoặc
ung dung đi ngay giữa con đường cát mịn rộng phẳng dưới chân núi. Trong
ba cách ấy, thì cách đi dưới chân núi là nguy hiểm nhất, nhưng cũng...
6 Nguyễn Cẩm Ngọc thuộc thế hệ học trò của thầy Đặng Hữu. Chị từng là giảng viên trẻ của Trường đại
học Quốc tế Bắc Hà, nơi thầy Đặng Hữu làm chủ tịch Hội đồng Quản trị.
10
11. “nhàn” nhất! Rất dễ bất ngờ đụng phải bốt đồn Tây! Biết thế,, nhưng vì
quá mệt, nên cũng đành liều một phen!
Ra đi từ sáng sớm, đến gần trưa thì lạc đường! Sương mù dày đặc,
cách 5 mét, không trông rõ mặt người, chẳng còn biết lần mò theo lối nào
để đến trạm giao liên! May sao gặp được một bác đứng tuổi, người địa
phương, vẻ hiền lành. Thoạt nhìn ngoại hình bọn thầy, hình như bác ta đoán
ngay là “dân chiến khu”... lạc đường! Không nói năng chi, bác cứ lẳng lặng
dẫn bọn thầy đi suốt cả một buổi chiều, tìm đến trạm giao liên. Tối mịt, mới
tới nơi. Lúc chia tay, bác thở phào nhẹ nhõm, nói: “Thật phúc đức cho các
anh! Hôm nay trời mù, lính bốt không trông thấy gì, chứ trời quang, chắc
chúng nó vãi đạn bắn chết các anh rồi!” Đó là lần thoát hiểm thứ nhất…
- Thế còn lần thoát hiểm thứ hai ra sao, mong thầy kể tiếp! - Cẩm
Ngọc có vẻ sốt ruột.
- Anh Hàm Châu cũng như cô Cẩm Ngọc đã có lần nào đi dọc đường
Hồ Chí Minh chưa? - GS Đặng Hữu hỏi lại.
- Cô Cẩm Ngọc chưa bao giờ đặt chân tới đó, nhưng tôi thì đã có lần
cách đây khá lâu, năm 2005, khi con đường ô-tô phẳng lì nhựa bóng vừa làm
xong - Hàm Châu trả lời. - Tôi vào tới Plây Cần, gần Kon Tum.
- Đường Hồ Chí Minh năm 2005, khi anh Hàm Châu đi, tất nhiên,
khác hẳn “đường mòn Trường Sơn” thời chống Pháp. Tuy nhiên, anh vẫn
có thể nhận ra một nét giống xưa là con đường cắt ngang rất nhiều khe suối.
Có những con suối ngày thường trơ lòng đá cuội, có thể dạo bộ qua dễ
dàng. Nhưng, chỉ sau một cơn mưa, nó bỗng biến thành một dòng sông hung
dữ, cuốn trôi cả những thân cây rừng mấy người ôm không xuể. Hôm ấy,
bọn tôi phải vượt qua một con suối cạn bỗng nhiên nước đổ về biến thành
sông, để đến trạm giao liên. Trời tối rồi! Nếu ngủ lại giữa rừng hoang,
nhiều thú dữ, thì dễ bị “ông ba mươi” xơi lắm! Thật kém cỏi cho tôi là
không biết bơi! Thế nên bị nước cuốn phăng đi, đã tưởng chết chìm, mất
xác! Đang chới với thì may quá, bấu víu được một khúc gỗ đang trôi…
Dường như “số phận” đã ưu ái Đặng Hữu? Nếu trong khoảnh khắc
ngắn ngủi ấy, không may mắn vớ được khúc gỗ kia, thì làm sao hôm nay
chúng tôi còn có thể gặp ông, một vị giáo sư đầu ngành, một nhà khoa học
tài đức, một vị chính khách tận tụy vì dân?
- Đặt chân đến vùng tự do liên khu IV bọn tôi cảm thấy sung sướng vô
cùng! Đúng là “mây của ta, trời thắm của ta” - GS Đặng Hữu kể. Có thể
ung dung dạo bước giữa ban ngày ban mặt, chẳng còn sợ đụng bốt đồn Tây.
Qua Chợ Hạ, Chợ Thượng, Đức Thọ, vượt dòng sông La trong vắt, sang
11
12. Nam Đàn, ngồi đò Vạn Rú ngang sông Lam, rồi cuốc bộ dọc con đường đê,
đến thị trấn “Sa Nam trên chợ dưới đò/ bánh đúc hai dãy, thịt bò mê thiên”,
quê hương của Cụ Phan Bội Châu và của Bác Hồ.
- Nam Đàn cũng là quê hương tôi đấy, anh Đặng Hữu ạ - Hàm Châu
nói. - Nhà tôi cách nhà Cụ Phó bảng Sắc, thân phụ Bác Hồ, 5 ki-lô-mét, cách
nhà Cụ Giải San, tức Cụ Giải nguyên Phan Văn San (Phan Bội Châu) chỉ có
2 ki-lô-mét thôi. Thời còn học cấp hai, tôi đã mấy lần được gặp ông Cả
Khiêm và cô Thanh, ông anh và bà chị của Bác Hồ…
- Thế à, bây giờ tôi mới biết anh Hàm Châu cùng quê với Cụ Phan và
Bác Hồ. Năm 1953, bọn tôi - GS Hữu kể tiếp - men theo rú Đụn, phía bắc
Nam Đàn, quê anh, lên Thanh Chương, Đô Lương, rẽ xuống Yên Lý, ra Cầu
Bố; rồi đi tiếp về phía tây tới Nho Quan, Tu Vũ, ngồi đò ngang qua sông
Đà, sông Thao lên vùng “rừng cọ, đồi chè” Phú Thọ. Tôi không đi được liền
một mạch, vì mắc chứng sốt rét rừng, phải dừng lại ở Thanh Hóa một tuần.
Lên Phú Thọ rồi, mới dò la hỏi đường tới T95. Đồng bào thực hiện
“ba không” - không nghe, không biết, không thấy - nên hỏi đường rất khó.
Mãi mới có người bảo T95 ở tít tận trên mạn Hà Giang! Thế là liền vội vã
cuốc bộ vượt đèo lên cái tỉnh biên giới “đèo heo hút gió” ấy.
Tới nơi, mới biết T95 không đóng ở đấy, mà là ở Chiêm Hóa, Tuyên
Quang! Thôi thì đành cuốc bộ quay trở lại! Chứ biết làm sao? Mất đứt ba
ngày đường! Chiêm Hóa là nơi trước đó hai năm, đã diễn ra Đại hội II của
Đảng. Chiêm Hoá cũng là nơi đóng Trường đại học Y - Dược kháng chiến,
do GS Hồ Đắc Di làm hiệu trưởng, GS Tôn Thất Tùng làm giám đốc bệnh
viện thực hành. GS Hoàng Tích Trí và GS Đặng Văn Ngữ cũng giảng dạy
tại đấy…
Gian khổ thế, sao mà lòng vẫn vui?
- Ở liên khu Việt Bắc, chắc cuộc sống đỡ khó khăn hơn ở liên khu V,
phải không anh? - Hàm Châu hỏi.
- Đâu có! Tôi còn nhớ, lúc bấy giờ, trong những ngày chỉnh huấn,
bọn tôi chẳng có bát sành để ăn cơm! Phải cưa ống tre thành từng đoạn
ngắn, làm bát. Hôm liên hoan cuối khóa, mỗi người được một “bát” chè
sắn, đã là “đời tươi” lắm rồi! Gian khổ là thế, nhưng giờ đây nhớ lại, cũng
12
13. thấy lạ, tôi chẳng lúc nào buồn. Thế mà, sau này, khi đời sống đã đầy đủ
hơn, địa vị xã hội đã cao hơn, nhiều lúc lại cảm thấy buồn! Buồn trước
những hiện tượng tiêu cực ngày càng tràn lan trong xã hội ta, thế mà mình
về hưu rồi, không còn đủ sức, đủ quyền để chặn lại. Nhiều cán bộ hiện nay,
kể cả cán bộ cao cấp, không còn xứng đáng là những người học trò của Bác
Hồ “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”! Sự nhạt phai lý tưởng thật đáng
báo động!
Trong chỉnh huấn năm 1953, tôi được gặp nhiều nhà hoạt động giáo
dục có tiếng như các anh Lê Văn Giạng, Hồ Trúc, chị Nguyễn Khoa Diệu
Hồng. Chỉnh huấn xong, 250 bạn được chọn đi Trung Quốc, 50 bạn đi Liên
Xô. Tôi chỉ mới học hết năm thứ nhất trung học chuyên khoa, chưa có bằng
tú tài, hay bằng tốt nghiệp phổ thông 9 năm, để vào các trường đại học
nước bạn, nên muốn xin quay trở về liên khu V, tiếp tục công tác ở cơ quan
Tỉnh ủy Bình Định. Nhưng anh Giạng, chị Diệu Hồng khuyên tôi cố tự học
thêm, rồi cũng vào đại học được thôi mà…
Đây lại là một bước ngoặt nữa trong cuộc đời GS Đặng Hữu. Nếu
khác đi, nếu ông quay về liên khu V, thì chưa chắc về sau ông đã có thể trở
thành một tài năng khoa học lớn, một nhà hoạch định chính sách khoa học
có tầm nhìn xa. Thế đấy, một lần nữa “số phận dun dủi” lại ưu ái ông, ngay
ở lối rẽ cuộc đời, khiến ông không “lỡ bước sang ngang”.
GS Đặng Hữu cho biết, cuối xuân 1953, đoàn học sinh ta vừa cuốc bộ
đến Mục Nam Quan (về sau đổi thành Hữu Nghị Quan), thì được ô-tô nước
bạn đợi sẵn, “rước” sang Nam Ninh. Sau Chiến dịch đông-xuân 1952, vùng
biên giới Việt - Trung được giải phóng. Biết rằng sang Trung Quốc, sẽ được
phát áo quần, giày dép mới, nên mấy trăm bạn trong đoàn bỏ lại cho những
ai còn ở trong nước tất cả những bộ quần áo còn tạm mặc được, cả đôi dép
lốp chưa mòn gót, đứt quai. Còn lại trên người toàn là những tấm áo xác xơ
nhàu rách…
“Ngày nay, cuộc thế đã đổi thay! - GS Đặng Hữu trầm ngâm nói.
Nhưng, dù sao, ta vẫn phải trung thực ghi nhận tình hữu nghị mà các bạn
Trung Quốc dạo ấy đã dành cho lớp lưu học sinh đầu tiên của Việt Nam ta.
Vừa đến Nam Ninh, bọn tôi đã được phát mỗi người hai bộ Tôn Trung Sơn
gọi là “lễ phục” để mặc ngoài, và áo sơ-mi, giày dép, tất, mũ mới cứng. Áo
quần cũ thay ra làm giẻ lau. Mỗi lưu học sinh Việt Nam được một cán bộ
Trung Quốc chăm sóc từng li tứng tí về vật chất, tinh thần. Ăn uống gần như
bạn cho hưởng theo nhu cầu, muốn gì được nấy, chỉ cốt sao cho bọn tôi lên
cân, hồng hào béo tốt.
13
14. Như tôi đã kể, lúc bấy giờ tôi chỉ nặng có 39 kí, như một cậu bé lên
mười hiện nay! Các bạn Trung Quốc ưu tiên dành cho “các đồng chí Việt
Nam” một cuộc sống tốt nhất, mặc dù nước bạn còn nghèo. Tình cảm quốc
tế chân thành đâu phải là điều chỉ có trong sách báo thời ấy! Vả chăng, nhà
cầm quyền có thể lúc thế này, khi thế khác, nhưng - như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói - nhân dân Trung Quốc, cũng như nhân dân Pháp, nhân dân
Mỹ luôn là những người bạn tốt của nhân dân ta. Nền văn học Trung Hoa
là một nền văn học vĩ đại, với những tên tuổi lẫy lừng như Tư Mã Thiên, Lý
Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy, Bạch Cư Dị, Đỗ Mục, Tô Đông Pha, Lỗ Tấn,
Quách Mạt Nhược, Mao Thuẫn, Ba Kim, Tào Ngu, Lão Xá… Không được
phân công theo học ngành ngữ văn, nhưng tôi rất ham đọc văn, thơ Trung
Quốc.
Tôi còn mạnh dạn thử “tài văn chương” bằng cách dịch ra tiếng Việt
cuốn sách của nhà văn Ngụy Nguy Thế nào là hạnh phúc của thanh niên?
Bản dịch tôi gửi về cho Nhà xuất bản Thanh Niên in ở Hà Nội. Gần đây, tôi
mới biết, liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc đã từng đọc cuốn sách do tôi dịch, và nó
đã ảnh hưởng đến anh, cũng như đến nhiều bạn trẻ cùng thề hệ với anh…”.
- Em cảm phục thế hệ các thầy hơi “bị” giỏi ngoại ngữ! - Cẩm Ngọc
nói. - Trước năm 1945, thầy đã học khá thông thạo tiếng Pháp. Trong kháng
chiến, sang Nam Ninh, Đường Sơn, thầy học tiếng Trung đến bậc kỹ sư. Rồi
về sau, thầy bảo vệ luận án tiến sĩ ở Moskva bằng tiếng Nga. Đến ngày tiếp
quản Sài Gòn, đất nước mỏ cửa, thầy lại có dịp làm giàu thêm vốn tiếng Anh
sẵn có. Chẳng bù cho thế hệ chúng em, học được một ngoại ngữ đã mệt
nhoài!
- Chưa đến mức hơi “bị” giỏi ngoại ngữ như Cẩm Ngọc khen đâu -
GS Đặng Hữu cười vui. - Chỉ vừa đủ dùng trong lĩnh vực chuyên môn thôi.
Năm ấy, kiểm tra kiến thức khoa học tự nhiên, các giáo sư Trung
Quốc đánh giá Đặng Hữu đủ trình độ vào thẳng bậc đại học của Học viện
Đường sắt Đường Sơn (trong học viện, còn có bậc cao đẳng). Đường Sơn là
một thành phố thuộc tỉnh Hà Bắc, ở phía đông-bắc thủ đô Bắc Kinh. Không
may, sau đó, vào năm 1976, một trận động đất khủng khiếp đã chôn vùi hầu
như toàn bộ thành phố Đường Sơn, kể cả Học viện Đường sắt!
Trong số các lưu học sinh Việt Nam theo học tại Trung Quốc cùng
thời với Đặng Hữu, về sau, nhiều người đã trở thành những nhà khoa học có
tiếng như: Nguyễn Đình Tứ, Nguyễn Văn Hường, Đỗ Quốc Sam, Vũ Tuyên
Hoàng, Hà Học Trạc, Nguyễn Văn Cung, Nguyễn Cảnh Dinh, Đinh Ngọc
Lân, Phạm Sĩ Liêm, Lê Quý An, Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn Hữu Bảo,
Đoàn Nhân Lộ…
14
15. Lần lượt bước lên những nấc thang học vấn
GS Đặng Hữu nhận bằng Tiến sĩ khoa học danh dự tại Moskva
Năm 1963, kỹ sư Đặng Hữu trở về nước, bắt đầu giảng dạy tại Trường
đại học Bách khoa Hà Nội vừa mới thành lập; lúc đầu là tổ trưởng bộ môn,
về sau, là phó chủ nhiệm khoa cầu - đường.
Khi mới thành lập, trường này do GS Trần Đại Nghĩa làm Hiệu
trưởng. Tiếp đến là GS Tạ Quang Bửu, rồi tới ông Hoàng Xuân Tùy, sau khi
GS Bửu được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên
nghiệp. Họ tên hai nhà khoa học Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu giờ đây đã
được đặt cho hai con phố quanh co uốn khúc qua trường - hai con phố tím
ngắt hoa bằng lăng, đỏ tươi hoa phượng vĩ, hẳn đã để lại bao kỷ niệm vui
buồn cho bao thế hệ sinh viên Bách khoa.
Để xây dựng một nền đại học đạt chuẩn quốc tế, GS Bửu - một vị bộ
trưởng có tầm nhìn xa - sớm cử hàng loạt cán bộ giảng dạy trẻ đi làm nghiên
cứu sinh ở Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Đặng
Hữu nằm trong số đó.
Ông tới Liên Xô năm 31 tuổi, viết luận án tiến sĩ tại Trường đại học
Quốc gia Giao thông - Vận tải Moskva. GS Ivanov hướng dẫn ông. Miệt mài
nghiên cứu, năm 1966, ông viết xong bản luận án Phương pháp cấu tạo và
15
16. tính toán nền mặt đường ô-tô trong điều kiện nhiệt đới ở Việt Nam. Cái độc
đáo của bản luận án này nằm ở mấy chữ “trong điều kiện nhiệt đới Việt
Nam”.
Các công trình nghiên cứu về đường ô-tô ở Liên Xô trước đó chưa
khảo sát điều kiện nhiệt đới. Chính vì vậy, hội đồng chấm luận án đánh giá,
về mặt nội dung, bản luận án luận án tiến sĩ của Đặng Hữu giàu tính khám
phá, đem lại nhiều cái mới cho khoa học và kỹ thuật cầu - đường, vì thế, đã
đạt tới trình độ tiến sĩ khoa học. Tuy nhiên, cần dành thêm 4 tháng nữa để
viết lại, cho hợp quy cách một luận án tiến sĩ khoa học.
Lúc bấy giờ, ở Moskva, có 3 tiến sĩ trẻ Việt Nam là Phan Đình Diệu,
Đặng Ngọc Thanh, và Đặng Hữu được bạn đề nghị ta cho phép kéo dài thời
gian nghiên cứu để hoàn thành luận án tiến sĩ khoa học. Phan Đình Diệu
được đề nghị ở lại thêm 1 năm; Đặng Ngọc Thanh 2 năm; và Đặng Hữu 4
tháng. Hai ông Diệu và Thanh đều ở lại, và đều đã bảo vệ thành công luận
án tiến sĩ khoa học. (Về sau, hai ông đều trở thành Phó Viện trưởng Viện
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam).
Riêng Đặng Hữu, không ở lại! Ông nghĩ, nếu nội dung bản luận án đã
đạt trình độ tiến sĩ khoa học rồi, thì không nhất thiết phải chỉnh sửa về mặt
hình thức cho hợp với quy cách, để đưa ra bảo vệ một lần nữa. Vả chăng,
tình hình trong nước đang rất căng thẳng. Mỹ đánh phá dữ dội miền Bắc
Việt Nam. Các trường đại học phải sơ tán khỏi Hà Nội. Trường và khoa của
ông hiện đang rất cần ông trở về.
Và thế là, ông về Hà Nội ngay. Ông nghĩ, một vài năm sau, quay trở
lại Nga, bảo vệ luận án tiến sĩ khoa học, cũng chẳng muộn gì! Việc không
cầm trong tay tấm bằng tiến sĩ khoa học, về sau, hình như cũng gây cho ông
một ít khó khăn. Nhưng, với chân tài, thực học, ông vẫn tạo được uy tín
vững chắc và lòng mến mộ chân thành trong lòng đồng nghiệp.
Ông nhận được chức danh giáo sư đại học ngay trong đợt Nhà nước ta
công nhận lần đầu vào năm 1979. Ở liên ngành xây dựng - giao thông - thủy
lợi, cho tới năm ấy, chỉ mới có 4 giáo sư là: Nguyễn Văn Hường, Đặng Hữu,
Đố Quốc Sam, Nguyễn Văn Cung. Ba người trong số đó nay đã qua đời, chỉ
còn lại một mình Đặng Hữu! Quả thật, không phải ai ai cũng có thể trường
thọ bát, cửu tuần trong… “một cõi đi về”!
Là chuyên gia đầu ngành của đất nước về đường ô-tô, GS Đặng Hữu
đã hoàn thành nhiều công trình nghiên cứu thực sự có giá trị, đóng góp cho
sự phát triển của khoa học và kỹ thuật cầu - đường, như: Lý thuyết cấu tạo
và tính toán nền mặt đường ô-tô, chế độ thủy nhiệt nền đường, phương pháp
thiết kế nền và mặt đường ô-tô ở Việt Nam, thiết kế nền đường trên đất yếu,
16
17. đất gia cố, đất có cốt; Thiết kế không gian, thiết kế cảnh quan; Phương
pháp quy hoạch giao thông, v.v. Ông đã góp phần nâng cao trình độ khoa
học về thiết kế đường ô-tô ở Việt Nam, bắt kịp trình độ tiên tiến thế giới.
Ông được Nhà nước ta tặng Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân
chương Lao động hạng nhất, và nhiều loại huân chương, huy chương khác.
Suốt 20 năm ông là Uỷ viên Trung ương Đảng: các khoá V, VI, VII, VIII (từ
1981 đến 2001); suốt 15 năm là đại biểu Quốc hội: các khoá VIII, IX, X (từ
1987 đến 2002).
Phương pháp tính toán mặt đường ô-tô nêu lên trong bản luận án tiến
sĩ của Đặng Hữu, được sử dụng làm quy phạm thiết kế đường ô-tô ở CHDC
Đức (1967), và được giới thiệu trong nhiều cuốn sách kỹ thuật xuất bản ở
Liên Xô; phương pháp tính toán nền đường trên đất yếu cũng được giới
thiệu trong một số cuốn sách chuyên khảo ở Pháp.
Giới đồng nghiệp Xô-viết đánh giá cao đóng góp của GS Đặng Hữu
cho khoa học, thể hiện qua việc bầu ông làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Vận tải
Liên Xô năm 1994 (nay là Viện Hàn lâm Vận tải Liên bang Nga). Sau đó,
Trường đại học Quốc gia Giao thông - Vận tải Moskva tặng ông bằng Tiến
sĩ khoa học danh dự và bằng Giáo sư danh dự.
Năm 1994, Trường đại học Giao thông tây-nam Trung Quốc ở Thành
Đô (tiền thân là Học viện Đường sắt Đường Sơn, nơi ông từng học) mời
ông sang nhận bằng Giáo sư danh dự do trường này tặng. Thành Đô chính là
nơi dung thân của Lưu Bị - Gia Cát Lượng thời Thục Hán, và cũng là nơi đại
thi hào Đỗ Phủ từng sống trong một ngôi nhà tranh - “thảo đưởng” - nay trở
thành điểm du lịch nổi tiếng mà GS Đặng Hữu không muốn bỏ qua. Ông yêu
văn học Trung Hoa, mê thơ Đỗ Phủ, và là người đã từng dịch sách của nhà
văn Ngụy Nguy.
“Thừa tướng từ đường hà xứ tầm/ Cẩm Quan thành ngoại bách sâm
sâm…” 7. Vị “thừa tướng” mà Đỗ Phủ nhắc tới với lòng cảm phục và xúc
động đến mức “lệ mãn khâm” (nước mắt rơi ướt đầm đìa vạt áo) chính là
Gia Cát Lượng. Bậc đại thần trung tín “đa mưu túc kế” của triều đình Thục
Hán ấy vẫn còn ngôi nhà thờ tổ tiên ở đâu đó trong khu rừng bách xanh um
phía ngoài thành Cẩm Quan, còn gọi là Cẩm Thành - những cái tên khác của
Thành Đô, do mảnh đất ấy từ xưa đã nức tiếng toàn Trung Hoa về tài dệt
gấm (cẩm là gấm). GS Đặng Hữu không ngờ vốn chữ Hán học thời sinh
viên, giờ đây, vẫn còn giúp ông cảm được cái hay của thơ Đường khi đến
7 Biết tìm đâu cho thấy ngôi từ đường của Thừa tướng? Chỉ thấy cánh rừng bách rậm rì xanh um phía ngoài
thành Cẩm Quan…
17
18. thăm Thảo đường Thành Đô, trong dịp sang thành phố này, nhận bằng Giáo
sư danh dự…
Năm 1999, Tổng thống Brazil tặng GS Đặng Hữu Huân chương Chữ
Thập Lớn Rio-Branco vì ông đã có công đóng góp cho nền khoa học của đất
nước Nam Mỹ xa xôi ấy.
Năm 2000, Tổng thống Liên bang Nga tặng ông Huân chương Hữu
nghị. Trước đó, năm 1982, Tổng thống Tiệp Khắc cũng đã tặng ông Huân
chương Hữu nghi.
Suy ngẫm dọc đường Trường Sơn gập ghềnh xe xóc
“Cuối năm 1972, ngay khi chưa ký kết Hiệp định Paris, Đảng và Nhà
nước ta, qua Phó Thủ tướng Nguyễn Côn, Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà
nước, đã nhìn xa, lo cho thời kỳ hậu chiến, và chủ trương sớm điều tra về
mọi mặt để lập quy hoạch tái thiết miền Nam ngay sau ngày hoàn toàn giải
phóng - GS Đặng Hữu kể. Là chủ nhiệm Khoa Cầu - Đường Trường đại học
Xây dựng Hà Nội, tôi được cử tham gia Đoàn cán bộ liên ngành xây dựng -
giao thông - nông nghiệp - thương nghiệp - tài chính - ngân hàng, v.v. lên
đường vào nam.
Đầu năm 1973, theo Hiệp định Paris vừa ký kết, quân Mỹ bắt đầu rút
khỏi miền Nam nước ta. Nhưng quân đội Sài Gòn thì vẫn còn đóng đấy,
trong thế “cài răng lược” với quân giải phóng. Chúng tôi vào liên khu V và
quân khu Tây Nguyên. Đến vùng Trà Mi, Quảng Nam thì được gặp Tướng
Chu Huy Mân và Bí thư liên khu ủy Võ Chí Công. Chỗ anh Mân cách chỗ
anh Công khoảng vài ba ngày đi bộ, như thế được coi là... “gần”!
Nhiệm vụ của tôi, một thành viên trong đoàn, là hỏi ý kiến hai anh về
quy hoạch giao thông liên khu V sau giải phóng. Tiếp đó, rời Quảng Nam,
tôi theo đoàn tạt sang đất Lào, đi dọc theo sông Mekong, rồi rẽ vào vùng
Kon Tum, Plây Cu, tìm gặp Tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh quân khu
Tây Nguyên, cũng là để xin ý kiến anh ấy về mạng lưới đường sá trong
tương lai trên cao nguyên Trung phần.
Tôi còn nhớ khu nhà Bộ Tư lệnh quân khu đóng trên một ngọn núi
cao hơn 700 mét vượt lên trên mặt bằng cao nguyên (vào khoảng 1.200 mét
so với mực nước biển), ở gần ngã ba biên giới.
Vào đến đấy, tôi mới biết, các cán bộ và chiến sĩ ta hy sinh không sao
kể xiết! Chết vì bom đạn một phân, ngoài ra, còn chết vì biết bao nguyên cớ
khác. Chẳng hạn: sốt rét chết, cây đổ đè chết, lạc đường đói chết, trượt dốc
18
19. rơi xuống vực chết, đất lở vùi chết (có khi cả một đại đội bị vùi)!… Những
cái chết vô danh, âm thầm, không lẫy lừng, vang dội! Có lẽ vì thế, ở nhiều
nước, người ta xây đài tưởng niệm Người Chiến sĩ Vô danh.
Khi lên đường vào Nam, đoàn được giao 5 chiếc com-măng-ca mới
tinh. Ấy thế mà, khi trở về Hà Nội, cả 5 chiếc xe tan tành hết! Tám tháng
trời, hơn 5 nghìn ki-lô-mét qua núi cao, suối xiết, thì còn gì là xe! Về tới Thủ
đô, ngồi trầm ngâm, uống một li nước chanh người nhà pha cho, lên xe đạp
dạo một vòng quanh Hồ Gươm, tôi cảm thấy như mình bỗng nhiên lạc vào
một thế giới nào khác hẳn!…”.
Lưu lại Thủ đô dăm tháng, một lần nữa, GS Đặng Hữu quay lại đường
Trường Sơn. Lần này, vào năm 1974, ông được đích thân Tướng Đồng Sĩ
Nguyên, Tư lệnh binh đoàn 559, mời vào. Vị Tư lệnh đề nghị ông giúp khảo
sát, thiết kế tuyến Trường Sơn Đông, bởi vì, khi mùa mưa tới, vào khoảng
tháng 10 dương lịch, trên tuyến Trường Sơn Tây không đi được nữa, nước
cuốn trôi cả xe lẫn người! Lũ dâng, vài ba ngày xe không qua được. Ngay cả
xe tải lớn Zil ba cầu của Liên Xô cũng phải dừng bánh.
Trên tuyến Trường Sơn Đông, ta có thể đi thêm hai tháng. GS Đặng
Hữu phải thiết kế nổ mìn, mở đường qua núi đá. Không có đường rộng, ô-tô
không chạy được, thanh niên xung phong cứ phải gùi từng can xăng, vất vả
quá! Miền nam thiếu xăng, thiếu súng đạn thì không thể tổng tiến công và
nổi dậy giành chính quyền.
19
20. GS Đặng Hữu kiểm tra Đường Hồ Chí Minhmới xây dựng sau ngày thống nhất đất nước
Ông khe khẽ hát, theo chiếc ra-đi-ô bán dẫn mang bên mình, mấy câu
thơ được phố nhạc của Phạm Tiến Duật, “con chim phượng hoàng lửa của
Trường Sơn thời chống Mỹ”, về mối tình giữa anh lái xe quân đội và cô
thanh niên xung phong:
Anh lên xe, trời đổ cơn mưa
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ
Em xuống núi, nắng về rực rỡ
Cái nhành cây gạt mối riêng tư…
Phải có tài thơ lắm mới đưa được “cái gạt nước” vô tri vô giác kia vào
thơ một cách hồn nhiên, duyên dáng như thế. Cũng phải là người trực tiếp
cầm vô-lăng lái xe ra tiền tuyến mới viết nối câu: “Cái gạt nước xua đi nỗi
nhớ”. Hiểu tâm hồn các o thanh niên xung phong Hà Tĩnh, Quảng Bình lắm,
mới có câu: “Cái nhành cây gạt mối riêng tư”. Nghĩa là cái “mối riêng tư”
kia vẫn hiện tồn ở đáy sâu tình cảm các o, nhưng đành phải gạt đi vì công
việc nổ mìn phá đá, sửa đường đang cần làm gấp.
20
21. Ngày ấy, ai nấy đều nghĩ nhiều đến sự nghiệp chung, hơn đến “nỗi
nhớ”, “mối riêng tư”. Anh bạn tôi, một nhà văn, cho rằng những năm tháng
“xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” là quãng thời gian quá đẹp, tựa như được
“đúc bằng vàng ròng”! Tôi biết, đâu đấy vẫn vọng lại ý kiến phản bác, coi
đó là sự đánh giá ‘phiến diện cường điệu”, hay thầm chí, “luận điệu tuyên
truyền của cộng sản”! Rất hiển nhiên thôi! Bởi vì, giờ đây, dư luận trong và
ngoài nước rất đa chiều! Ai mà cấm nổi? Nhất là trong thời buổi toàn cầu
hóa, với sự phát triển như nấm sau mưa của Internet, Google, blog, website,
iPad, smartphone, Facebook, Twitter…
Thì hãy cứ để cho dư luận thế giới và hậu thế công bằng phán xét.
Nhưng, dù sao bài học quá khứ cũng đã chỉ rõ: Những kẻ “cõng rắn cắn gà
nhà”, “rước voi giày mả tổ” như Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thồng… chưa bao
giờ tìm được “chỗ đứng” trong con tim và khối óc người Việt Nam ta, dù chỉ
là một người dân bình thường, một kẻ “thất phu” ở chốn thôn cùng xóm
vắng, chẳng thuộc làu kinh, sử.
Trương Hán Siêu và “quy luật của muôn đời”?
Danh sĩ Trương Hán Siêu, một môn khách của Trần Hưng Đạo, từng
viết trong Bạch Đằng giang phú khi đi qua cửa sông Bạch Đằng, nơi Hưng
Đạo Vương trước đó từng phá tan đoàn chiến thuyền quân Nguyên - Mông
bằng kế sách cắm cọc gỗ lim vạt nhọn bịt sắt xuống lòng sông, nhử quân
giặc vào sâu, rồi chờ khi thủy triều rút, mới cho chiến thuyền ta ào ạt xông
ra đánh đuổi. Chiến thuyền giặc tháo chạy vấp phải cọc nhọn, vỡ tan tành,
chìm nghỉm. Nhớ lại chiến công ngày trước, Trương Hán Siêu cảm thán:
Sông Đằng một dải dài ghê
Sóng hồng 8 cuồn cuộn trôi về biển Đông
Những phường bất nghĩa tiêu vong
Nghìn xưa chỉ có anh hùng lưu danh …
(Bùi Văn Nguyên dịch)
Các đây bảy thế kỷ, bậc trí giả ấy đã ghi nhận một “quy luật của muôn
đời” về sự “tiêu vong” không thể tránh khỏi của “phường bất nghĩa” và sự
“lưu danh” muôn thuở của đấng “anh hùng”. Đó có phải là một “quy luật
muôn đời” không?
8 Sóng hồng: chỉ sóng nước màu đỏ ở sông Bạch Đắng, chứ không phải chỉ sóng sông Hồng (viết hoa).
21
22. Mọi người dân ở miền Bắc, trong những năm chống Mỹ, không ai có
thể thờ ơ trước những sự kiện nóng bỏng diễn ra hằng ngày ở nửa đất nước
phía nam. Là người Bình Định, TS Đặng Hữu càng theo dõi sát sao hầu như
từng giờ tin tức từ quê hương ông, không chỉ qua các báo, đài Hà Nội, mà
còn qua các hãng tin phương Tây, do ông thạo ngoại ngữ.
Tháng 5-1963, mấy anh em ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Ngô
Đình Cẩn cấm các Phật tử ở Huế treo cờ nhà Phật trong lễ Phật Đản. Thế
mà, chỉ vài hôm trước đó, các tín đồ Thiên chúa giáo được phép treo lá cờ
vàng - trắng của Vatican trong buổi lễ tấn phong ông Ngô Đình Thục, anh
ruột ông Diệm, làm tổng giám mục.
Miền Nam thời ấy, tủy theo từng vùng, có khoảng 70-90% số dân theo
Phật giáo, trong khi đó Tổng thống Ngô Đình Diệm lại là con chiên Thiên
chúa giáo. Ông theo đuổi những chính sách mà, về sau, các nhà sử học cho
là rất thiên vị. Có lần ông nói với một sĩ quan cao cấp của quân lực Việt
Nam Cộng hòa mà quên rằng ông này theo Phật giáo: “Hãy đặt những người
theo đạo (tức đạo Thiên chúa) vào những vị trí nhạy cảm”. Không ít sĩ quan
quân đội Sài Gòn lúc đó “cải đạo”, bỏ Phật giáo đổi sang Thiên chúa giáo, vì
nghĩ rằng viễn cảnh của quân đội phụ thuộc vào tôn giáo này. Một số cha xứ
thậm chí còn có quyền chỉ huy quân đội riêng của họ.
Nhà thờ là những địa chủ lớn nhất miền Nam và đất đai do nhà thờ sở
hữu được miễn thuế. Lá cờ vàng - trắng của Vatican được treo ở nơi công
cộng. Tín đồ Thiên chúa giáo, trên thực tế, được miễn thuế và được nhận
phân lớn viện trợ Mỹ.
Thượng tọa Thích Trí Quang ở chùa Từ Đàm, Huế, phản đối sự kỳ thị
đó. Ông kêu gọi thực hiện quyền bình đẳng tôn giáo.
Tối 8-5-1963, trong khi 5.000 Phật tử đang tụ tập trước đài phát thanh
Huế, chờ nghe bài phát biểu của thượng tọa Thích Trí Quang nhân lễ Phật
Đản, thì một đoàn xe bọc thép xuất hiên, trong đó có chiếc xe ghi tên Ngô
Đình Khôi, anh ruột của ông Ngô Đình Diệm. Bỗng vang lên một loạt tiếng
nổ. 8 em thiếu niên không vũ trang bị thương nặng, phải chở đi bệnh viện.
Thượng tọa Thích Trí Quang không được phát biểu như dự kiến.
Bác sĩ Erich Wulff, lúc bấy giờ làm việc tại bệnh viện Huế với tư cách
một chuyên gia tâm thần học Cộng hòa Liên bang Đức, đã tình cờ chứng
kiến sự kiện xe bọc thép xuất hiện, rồi ngay sau đó, nghe tiếng nổ đinh tai.
Ông muốn biết đích xác điều gì đã xảy ra đối với các em bé nạn nhân. Ông
liền đến ngay bệnh viện Huế. Người gác cổng bệnh viện nói: “Nỏ có chi mô!
Chỉ vài người bị thương nhẹ thôi mà”! Nhưng, một anh y tá quen biết, đến
gần, nói nhỏ vào tai Erich rằng ông nên tới ngay nhà xác để tự mình kiểm
22
23. chứng. Tại đây, ông thấy thi thể 8 em thiếu niên, trong đó có 5 em không còn
đầu!
Tổng thống Ngô Đình Diệm đổ vấy trách nhiệm sát hại các Phật tử
cho... “Việt Cộng”! Nhưng rõ ràng 5 em học sinh không còn đầu là do pháo
trên xe bọc thép bắn bay mất đầu, chứ không phải do súng AK của “Việt
Cộng” bắn trúng (nếu thế, thì vẫn còn đầu chứ).
Sau này, bác sĩ E. Wulff viết: “Chính ngày 8-5-1963 đã làm thay đổi
cuộc đời tôi. Trước đó, tôi là một người vô tâm, sống thảnh thơi, không để ý
đến những gì ngoài nghề nghiệp. Nhưng sau đêm hôm ấy, tôi đã trở thành
một nhà hoạt động chính trị”.
Ông lặng lẽ viết nhiều bức thư và gửi nhiều tấm ảnh sang châu Âu,
Ấn Độ và Mỹ, tố cáo hành động của chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp
đẫm máu các Phật tử ở Huế mà ông được tận mắt chứng kiến. Họ là những
người yêu chuộng hòa bỉnh, đấu tranh chỉ hoàn toàn bằng phương pháp bất
bạo động 9. Vì vậy, E. Wulff bị chính quyền Sài Gòn trục xuất khỏi miền
Nam Việt Nam.
Hành động của Thích Quảng Đức, được Norman Morisson, một tín đồ
Quaker yêu chuộng hòa bình ở Mỹ, noi theo khi tự thiêu bằng dầu hỏa, ngày
2-11-1965, dưới cửa sổ tầng 3 Lầu Năm Góc, nơi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Mỹ làm việc, để phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam.
Ngày 3-6-1963, người biểu tình diễu qua chùa Từ Đàm. Quân lực Việt
Nam Cộng hòa dùng hơi cay và chó nghiệp vụ tấn công 6 lần để giải tán
đám đông, nhưng không thành, cuối cùng, dùng hóa chất lỏng màu nâu tưới
lên đầu những tín đồ đang cầu nguyện, khiến 67 người bị nhiễm độc, phải
nhập viện.
Tiếp đó, xảy ra hàng loạt vụ quân đặc nhiệm của ông cố vấn Ngô
Đình Nhu vây ráp chùa chiền, bắt bớ giam cầm hàng nghìn sư sãi. Chùa Từ
Đàm ở Huế bị tấn công, tượng Phật bị phá hủy. Khi dân chúng kéo đến bảo
vệ các nhà sư, quân đội và cảnh sát liền xả súng, khiến 30 thường dân thiệt
mạng, 200 người khác bị thương. Sự phẫn uất dâng lên đến cùng cực…
Sáng 11-6-1963, tại ngã tư đại lộ Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn
Đình Chiểu) và phố Lê Văn Duyệt (nay là Cách mạng Tháng Tám), một ngã
tư đông đúc giữa Sài Gòn đô hội, hòa thượng Thích Quảng Đức đi ra từ
chiếc xe hơi Austin Westminster cùng hai nhà sư khác. Một người đặt tấm
9 Năm 2008, bác sĩ Erich Wulff cùng vợ, con đã trở lại Việt Nam, dự lễ Phật Đản Vesak (Vesak Day) do
Liên hợp quốc tổ chức tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình, Hà Nội. Trong dịp ấy, trả lời phỏng vấn
của giới báo chí Việt Nam, ông đã kể lại rất tỉ mỉ về sự kiện tối 8-5-1963 tại đài phát thanh Huế.
23
24. nệm xuống đường. Người kia mở ca-bin xe, lấy ra một bình xăng dung tích
5 ga-lông (22,5 lít). Chung quanh Thích Quảng Đức có khoảng 350 hòa
thượng và ni cô tạo thành nhiều lớp vòng tròn vây kín ông. 20 vị tăng ni nằm
ngang lòng đường, chặn bốn ngả đổ về giao lộ, để cho xe cứu hỏa không thể
tiến vào được dập tắt ngọn lửa tự thiêu.
Thích Quảng Đức bình thản ngồi thiền trên tấm nệm. Hai nhà sư cùng
đi bắt đầu trút xăng lên đầu ông. Thích Quảng Đức tay lần tràng hạt, miệng
niệm “Nam mô A Di Đà Phật” trước khi đồng đạo châm lửa từ xa. Lửa
nhanh chóng thiêu rụi áo cà sa và da thịt vị hòa thượng. Khói đen, mùi khét
bốc lên từ cơ thể của ông đang rừng rực cháy.
Bản tin của phóng viên Mỹ David Halberstam trên tờ The New York
Times có đoạn viết: “Tôi đã quá sốc để khóc, quá bối rối để ghi chép hay đặt
câu hỏi, quá ngỡ ngàng ngay cả để suy nghĩ… Khi cơ thể cháy ông ấy không
hề cử động một cơ bắp nào, không hề bật ra một âm thanh nào. Sự điềm tĩnh
của ông trái ngược hẳn với cảnh những người chung quạnh rên rỉ khóc
than”. (I was too shocked to cry, too confused to take notes or ask questions,
too bewildered to even think… As he burned he never moved a muscle,
never uttered a sound, his outward composure in sharp constrast to wailing
people around him) 10.
Nhiều cảnh sát muốn ngăn cản vụ tự thiêu, nhưng không thể chen
lách qua đám đông Phật tử vây quanh vị hòa thượng. Chỉ có một tay cảnh sát
liều mình lao vào; hóa ra tay này không định ngăn cản nhà sư tự thiêu, mà
quỳ lạy ông để tỏ lòng tôn kính.
Chừng mười phút sau, lửa tàn. Điều kỳ lạ là trái tim Thích Quảng Đức
vẫn nguyên vẹn đỏ tươi, không cháy ra tro như các bộ phận khác của cơ thể.
Trái tim ấy trông giống như một đóa hoa sen hồng; về sau, được các Phật tử
đặt lên trên một chiếc cốc lễ bằng pha lê, ở chùa Xá Lợi. Các tín đồ Phật
giáo coi đó là biểu tượng diệu huyền của lòng trắc ẩn. Họ suy tôn Thích
Quảng Đức lên thành Bồ tát.
Ngay trong buổi chiều vị hòa thượng tự thiêu, hàng nghìn người dân
Sài Gòn quả quyết rằng họ đã nhìn thấy trên vòm trời thành phố khuôn mặt
từ bi của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Ngài xót thương rơi lệ…
Một số nhà khoa học Mỹ đề nghị được đến chùa Xá Lợi để kiểm tra
thực hư câu chuyện trái tim không cháy. Họ yêu cầu thiêu lại bằng công
nghệ Mỹ mà, theo thượng tọa Đồng Bổn chứng kiến, thì nóng tới hàng nghìn
10 David Halberstam, về sau, được tặng Giải Pulitzer, một giải thưởng danh giá được lập ra từ năm 2004 ở
Mỹ, trao cho nhiều lĩnh vực, nhưng nổi bật nhất là báo chí và văn học. Đặc biệt, trong lĩnh vực báo chí, giải
Pulitzer được coi là danh giá nhất.
24
25. độ C. Tuy nhiên, vẫn không thể nào thiêu cháy “trái tim bất diệt” của Thích
Quảng Đức!
Ngày 21-8, lực lượng đặc nhiệm của Quân lực Việt Nam Cộng hòa ào
ạt tấn công chùa Xá Lợi và một số ngôi chùa khác ở miền Nam, đánh đập
các nhà sư, định cướp đi bình tro di cốt Thích Quảng Đức! May sao, trước
đó hai nhà sư đã kịp trốn thoát bằng cửa sau, mang theo chiếc bình tro. Tuy
nhiên, lính ông Nhu đã cướp được “trái tim Xá Lợi”!
Bà Trần Lệ Xuân, vợ ông Nhu, em dâu ông Diệm, thường được ông
Tổng thống thân mật gọi là “thím Nhu”, được báo chí Sài Gòn coi như “đệ
nhất phu nhân trên thực tế” (de facto), do ông Diệm không lấy vợ. Bà chế
giễu vụ tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức, coi đó là… món thịt
nướng (barbecues)! Bà cho biết: “Tôi sẽ vỗ tay khi thấy diễn ra một vụ
nướng sư khác” (I would clap hands at seeing another monk barbecue
show). Bà thách thức: “Nếu các Phật tử muốn có thêm thịt nướng, thì tôi vui
lòng cấp xăng cho” (If the Buddhists want to have another barbecue, I will
be glad to supply the gasoline).
Một số tờ báo thân gia đình họ Ngô tung tin rằng không phải Thích
Quảng Đức tự thiêu, mà là giới Phật tử đã chích thuốc mê cho ông hôn mê
sâu, không còn hay biết gì nữa, rồi mới đem “nướng” ông bằng ngọn lửa
xăng rừng rực cháy! Chính quyền Sài Gòn còn “tố cáo” nhà báo Mỹ M.
Browne đã “hối lộ” Thích Quảng Đức để ông… tự thiêu… nhằm chụp ảnh
giật gân, kiếm nhiều tiền! Một tờ báo Sài Gòn khác còn đặt câu hỏi: “Tại sao
nhiều cô gái trẻ đi vào chùa Xá Lợi lúc sáng sớm, có phải để thỏa mãn nhu
cầu tình dục cho các nhà báo như Browne, Halberstam? (!!!).
Mặc dù Malcoln Browne bị bôi nhọ, bức ảnh của ông, phóng viên
hãng AP (Associated Press), chụp cảnh Thích Quảng Đức tự thiêu nhanh
chóng truyền đi khắp thế giới. Năm sau, bức ảnh thời sự ấy được tặng Giải
Pulitzer danh giá.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ lòng khâm phục trước hành động cao cả phi
thường của hòa thượng Thích Quảng Đức qua đôi câu đối:
Vị pháp vong thân vạn cổ hùng uy thiên nhật nguyệt
Lưu danh bất tử bách niên chính khí địa sơn hà.
Tổng thống Mỹ John Kennedy nhân xét: “Trong lịch sử chưa từng có
bức ảnh thời sự nào lại gây nên nhiều xúc cảm trên khắp thế giới như vậy”.
25
26. Thượng nghị sĩ Mỹ Frank Church nói: “Người ta chưa từng chứng
kiến cảnh hãi hùng như thế này, kể từ khi các vị thánh tuẫn đạo dắt tay nhau
bước vào đấu trường La Mã nộp mình”.
Nhà sử học Seth Jacobs khẳng định Thích Quảng Đức đã “đốt cháy
ra tro cuộc thí nghiệm Diệm của nước Mỹ”. Ông quả quyết: “Không có lời
bào chữa nào gỡ gạc lại được danh tiếng của Ngô Đình Diệm một khi bức
ảnh của Browne đã hằn sâu trong tâm trí công chúng trên thế giới”.
Tại châu Âu bức ảnh ấy được bày bán hàng loạt trên đường phố như
những tấm bưu thiếp suốt thập niên 1960. Giới truyền thông đại chúng còn
sử dụng bức ảnh ấy trong nhiều thập niên về sau nữa. Năm 1992, nhóm nhạc
rock Rage Against the Machine dùng bức ảnh ấy làm bìa cho an-bom đĩa
nhạc đầu tay của họ…
Bồ tát Thích Quảng Đức là một nhà sư, nhưng ông cũng là một vị anh
hùng dân tộc. Chiếc xe Austin Westminster chở ông tới chỗ tự thiêu ở Sài
Gòn năm 1963, nay được trưng bày tại chùa Thiên Mụ, Huế, nơi khởi đầu
phong trào Phật giáo phản kháng chế độ độc tài.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, một đài tưởng niệm hòa thượng Thích
Quảng Đức đã được dựng lên nơi ngã tư ông đã tự thiêu. Ở góc phía bắc ngã
tư, nay là một công viên dành để tưởng nhớ ông.
Mấy cái chết bất đắc kỳ tử
Tinh thần vô úy, đại lực, đại hùng, đại dũng, đại bi của Thích Quảng
Đức bình thản chấp nhận cái chết vì đạo pháp và dân tộc gây xúc động mạnh
trên toàn thế giới. Đó cũng là giọt nước tràn li, làm lung lay chế độ độc tài,
gia đình trị, kỳ thị tôn giáo của anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu -
Ngô Đình Cẩn, khiến chính quyền Mỹ phải đi đến quyết định khó khăn
“thay ngựa giữa dòng”, bật đèn xanh cho quân lực Việt Nam Cộng hòa tiến
hành cuộc đảo chính ngày 1-11-1963.
Phần đông các tướng lĩnh tham gia đảo chính đều từng là người thân
tin của gia đình ông Diệm. Tuy nhiên, ông khinh miệt họ, coi họ là đám “võ
biền” vô học. Ông quen gọi họ bằng… “thằng”! Ông chỉ coi trọng tài trí của
bản thân ông và những người cùng huyết thống như ông Nhu, ông Cẩn mà
thôi. Ông cũng chỉ thích nâng đỡ người gốc Huế. Ông nói: “Chỉ có dân miền
Trung mới có khả năng lãnh đạo. Dân miền Bắc hợp với buôn bán, còn dân
miền Nam chỉ làm tướng võ biền”.
26
27. Ngay từ chiều hôm trước đảo chính, Phụ tá Ngoại trưởng Mỹ Roger
Hilsman đã gửi đến Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Henry Cabot Lodge một bức
“mật thư” nêu rõ: “Chúng ta cần khuyến khích nhóm đảo chính chiến đấu
đến cùng và phá tan dinh Độc Lập (nếu cần) để đạt được thắng lợi. Điều
kiện cho gia đình họ Ngô là đầu hàng không điều kiện”.
Tuy nhiên, khi tiếng súng đảo chính nổ vang, thì hai ông Diệm, Nhu
và đoàn tủy tùng đã kịp thời trốn thoát khỏi dinh tổng thống bằng con đường
hầm bí mật đến Chợ Lớn, lánh tại nhà thờ Cha Tam.
Sáng 2-11, trước tình thế tuyệt vọng, sau khi đài phát thanh Sài Gòn
đã thông báo thắng lợi của “hội đồng quân nhân cách mang”, hai ông bèn
gọi điện cho lực lượng đảo chính, xin đầu hàng và được sống lưu vong ở
nước ngoài.
Tướng Dương Văn Minh phái một chiếc thiết vận xa tới nhà thờ Cha
Tam, “đón” hai ông về sở chỉ huy quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng tại sân
bay Tân Sơn Nhất.
Trong sân nhà thờ Cha Tam, đại úy Nhung chỉ tay về phía chiếc thiết
vận xa, nói oang oang cho tất cả những người có mặt đều nghe:
- Xin mời hai ông lên xe ngay cho!
Mặt ông Nhu đỏ bừng:
- Không được! Để tôi hỏi lại ông Minh, ông Đôn. Tôi đi xe nào cũng
được. Nhưng còn Tổng thống?
- Ở đây không còn tổng thống nào cả! Các ông là tù binh. Chúng tôi
được lệnh bắt các ông.
Trong khoảng thời gian ở trên xe, hai ông Diệm và Nhu bị trói giật
cánh khuỷu, rồi giết chết bằng lưỡi lê và súng ngắn. Trên tử thi thấy có nhiều
vết lưỡi lê đâm và cả vết đạn súng ngắn bắn xuyên qua. Nghe nói, tướng
Minh Lớn (Big Minh) - Dương Văn Minh - người cầm đầu cuộc đảo chính
và, sau đó, làm quốc trưởng, đã ra lệnh cho viên sĩ quan đi áp giải rằng, theo
mưu lược của người Trung Hoa cổ đại, thì “diệt thảo trừ căn” (nhổ cỏ, phải
nhổ tận gốc”.
Trong mục “nghề nghiệp” ở tờ giấy khai tử của ông Diệm ghi: tuần
vũ. Còn ở ông Nhu ghi: thủ thư văn khố (nghề trước năm 1945). Áo quan
ông Diệm hình hộp, áo quan ông Nhu nắp tròn. Một nhân chứng thời kỳ đó
cho biết: Vì người thân của ông Diệm gấp gáp đi mua áo quan, nên chỉ mua
được một chiếc loại tốt dành cho “tổng thống”, còn cái dành cho “cố vấn”
27
28. thì chỉ là loại thường thôi. Thi hài ông Diệm và ông Nhu được chôn trong
hai ngôi mộ không tên, bên cạnh ngôi nhà của ngài đại sứ Mỹ.
Như nhiều người đã biết, ông Diệm từng tuyên bố những câu gây sốc
như: “Biên giới của thế giới tự do chạy dài từ Alaska đến sông Bến Hải”.
Hoặc: “Thấy cộng sản ở đâu là phải bắn bỏ ngay, thấy ai tuyên truyền cho
cộng sản cũng bắn bỏ ngay”. Ông công khai bác bỏ Hiệp nghị Geneva,
chống lại việc tiến hành tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam năm 1956. Bởi
vì, trước đó, Ngoại trưởng Mỹ Allen Dulles đã đệ trình lên Tổng thống
Dwight Eisenhower một bản báo cáo nhận định rằng nếu bầu cử diễn ra thì
“thắng lợi của ông Hồ Chí Minh sẽ như nước triều dâng không thể nào cản
nồi”. Còn, theo Mortimer T. Cohen, thì ông Diệm không chấp nhận tổng
tuyển cử, là do ông biết chắc ông sẽ thua. “Không ai có thể thắng cử Hồ Chí
Minh - M. Cohen viết - vì ông Hồ là một Georges Washington của Việt
Nam”.
Ông Diệm lập tòa án quân sự đặc biệt để xử những người cộng sản và
kháng chiến cũ, chỉ có hai mức án: tử hình hoặc tù khổ sai. Tòa có thể đưa
thẳng ra xét xử mà không cần mở cuộc điều tra; thời hạn xét xử kéo dài tối
đa là ba ngày, không có ân xá hoặc kháng án; trong các dụng cụ xử tử có cả
máy chém.
Sau này, trả lời phỏng vấn của Stanley Karnow, sử gia Mỹ chuyên về
chiến tranh Việt Nam, Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson bực bội nói: “Như
cứt, Diệm là thằng nhóc duy nhất mà chúng ta vướng phải ở đó” (Shit, Diem
is the only boy we’ve got out there).
Ngày 9-5-1964, ông Ngô Đình Cẩn, em ruột ông Ngô Đình Diệm,
khét tiếng là “bạo chúa miền Trung”, cũng bị nhóm đảo chính hành quyết tại
khám lớn Chí Hòa, Sài Gòn, sau khi tòa án quân sự tuyên tử hình. Ông Cẩn
gửi đơn xin ân xá, nhưng bị Quốc trưởng Dương Văn Minh bác. Tổng giám
mục Nguyễn Văn Bình cũng gửi một lá thư xin ân xá tử tội cho Ngô Đình
Cẩn với lý do Cẩn đang ốm nặng, số ngày sống có thể đếm trên đầu ngón
tay, cho nên không cần thiết phải hành quyết. Nhưng Dương Văn Minh bác
thẳng thừng. Ông ra lệnh phải thi hành án ngay.
Cuộc hành quyết diễn ra không lâu sau đó. Đội hành quyết gồm 10
người đội mũ quân cảnh có in hai chữ MP, chia làm 2 hàng, hàng trước 5
người quỳ, hàng sau 5 người đứng. Đúng 18 giờ 20 phút, cuộc hành quyết
bắt đầu. Viên chỉ huy hô lớn: “Bắn!”. Một loạt súng nổ. Ngô Đình Cẩn gục
người ngay lập tức. Tiếp đó, viên chỉ huy đội hành quyết chạy đến gí khẩu
colt 12 li vào tai Ngô Đình Cẩn, “bắn phát súng ân huệ”. Máu từ trên ngực
chảy loang xuống chiếc quần trắng. Bác sĩ pháp y vội chạy ra, lấy ống nghe
28
29. gí vào ngực ông Cẩn, nghe ngóng vài giây, vạch mí mắt ra xem, rồi quay lại
gật gật đầu, tỏ ý ông này đã chết 11.
Trước mấy cái chết thê thảm của ba anh em nhà họ Ngô, cũng như
trước sự hy sinh cao cả của hòa thượng Thích Quảng Đức, nhiều sử gia tôn
trọng sự thật khách quan ở nước ta cũng như trên thế giới rút ra kết luận rất
phù hợp với hai câu trong Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu:
Những phường bất nghĩa tiêu vong
Nghìn xưa chỉ có anh hùng lưu danh…
Phải chăng đó là một “quy luật của muôn đời”?
Nhà thơ họ Trương cũng đã chỉ ra một cách đúng đắn nguyên nhân
thắng lợi của cuộc kháng chiến đời Trần ba lần đánh bại quân Nguyên -
Mông xâm lược, không phải chủ yếu là do “đất hiểm” của núi sông Đại Việt,
mà là nhờ “đức cao” của hai vị “thánh quân” Trần Thánh Tông và Trần
Nhân Tông cũng như của quan Tiết chế Quốc công Trần Quốc Tuấn:
Giặc tan muôn thuở thăng bình 12
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao…
Lịch sử chỉ rõ: Đức trị kết hợp với pháp trị mới là cách trị nước vững
bền. Và pháp trị phải thấm nhuần đức trị. Luật pháp được đặt ra rất nghiêm
khắc nhưng không phải nhằm bảo vệ giới cầm quyền, mà là để bảo vệ mọi
công dân…
Trùng phùng dầu họa có khi…
Dạo ấy, giữ chức chủ nhiệm Khoa Cầu - Đường Trường đại học Xây
dựng Hà Nội, TS Đặng Hữu cùng thầy, trò trong khoa tích cực tham gia giải
quyết các vấn đề bảo đảm giao thông trong chiến tranh, đặc biệt là trên
đường Trường Sơn. Bộ môn Đường do ông phụ trách được tuyên dương
Đơn vị Anh hùng Lao động.
Từ đường Trường Sơn trở về Hà Nội chưa bao lâu, ông nghe tin quân
ta giải phóng Buôn Ma Thuột. Rồi ông nhận được chỉ thị tham gia Ban Quân
quản các trường đại học miền Nam mới giải phóng. Đáp máy bay đến Phan
11 Phần viết về cuộc tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức cũng về cái chết của ba ông Ngô Đình
Diêm, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, hoàn toàn sử dụng tư liệu của các hãng truyền thông phương Tây.
12 Thăng bình: đời thái bình, thịnh trị.
29
30. Rang, ông xin xe tỉnh ủy phóng thẳng vào Sài Gòn. Đến Biên Hòa ngủ lại
một đêm, sáng hôm sau, 1-5-1975, ông có mặt tại Dinh Độc Lập.
Được nhà báo Lê Bá Thuyên chỉ lối, ông tới gặp Tướng Trần Văn Trà,
nhận nhiệm vụ cùng TS Huỳnh Văn Hoàng tiếp quản Viện đại học Thủ Đức,
rồi Trường đại học Kỹ thuật Phú Thọ trong Chợ Lớn. Đến ngày 19-5, thì có
thêm TS Trần Hồng Quân, TS Huỳnh Xuân Đình và nhiều cán bộ giảng dạy
khác về trường. Họ vốn là những học sinh miền Nam tập kết ra Bắc năm
1954, nay trở lại miền Nam. Thế là số giảng viên của ta, được đào tạo ở các
nước xã hội chủ nghĩa, đông hơn số giáo chức cũ còn ở lại.
“Một cuộc gặp cảm động mà tôi không ngờ sớm xảy ra như thế! - GS
Đặng Hữu tâm sự. - Ngay buổi tối đầu tiên vào Sài Gòn, nhân danh Ban
Quân quản, tôi nói chuyện với sinh viên Viện đại học Thủ Đức. Kết thúc
buổi nói chuyện, tôi hỏi thêm một câu: “Trong số các bạn ở đây, có ai quê ở
Phù Mỹ, Bình Định không?” Lập tức có tiếng đáp: “Thưa thầy, có ạ, em
quê ở Phù Mỹ đây.” Tôi liền mời em sinh viên kia lên phòng tôi làm việc, để
hỏi chuyện thêm. Không ngờ em là con trai ông chú ruột tôi! Và điều vô
cùng hạnh phúc mà tôi không sao nghĩ tới là: Em cho biết mẹ tôi đang ở…
rất gần đấy!
Kỳ lạ quá, sau 23 năm xa cách, biệt vô âm tín, tôi bỗng được ôm
chầm lấy mẹ, ngay trong buổi tối đầu tiên vào tiếp quản Sài Gòn! Hóa ra,
chiến tranh đã xô đẩy mẹ khỏi quê hương Phù Mỹ, phiêu bạt vào tận Thủ
Đức… “Trùng phùng dầu họa có khi”, chao ôi, điều tưởng chừng rất khó
xảy ra ấy, thế mà đã xảy ra, ngay trong buổi tối đầu tiên tôi đặt chân vào
Sài Gòn…”.
Hoạch định chính sách mang lại hiệu quả vĩ mô cao
Miền Nam giải phóng, TS Đặng Hữu được cử làm Hiệu trưởng
Trường đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng, chỉ hơn một
năm sau, ông được điều ra Hà Nội, giữ chức Thứ trưởng Bộ Đại học và
Trung học chuyên nghiệp. Bộ trưởng lúc bấy giờ là TS Nguyễn Đình Tứ.
Rồi những năm 1982-1996, được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Uỷ ban
Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, rồi làm Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công
nghệ và Môi trường, ông hết sức quan tâm đến việc xây dựng tiềm lực khoa
học và công nghệ, hướng khoa học và công nghệ phục vụ mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội; chỉ đạo chuyển hướng tổ chức quản lý khoa học và công
nghệ qua các giai đoạn: từ phân tán, tản mạn sang kế hoạch hóa (theo Nghị
quyết 37 Bộ Chính trị), rồi từ kế hoạch hóa tập trung sang vận dụng cơ chế
30
31. thị trường (theo Nghị quyêt 26 Bộ Chính trị). Ông cũng rất chú ý phát triển
các mảng: tiêu chuẩn chất lượng, sở hữu trí tuệ, thẩm định công nghệ,
chuyển giao công nghệ, thương mại hoá kết quả R&D, đặc biệt là điều tra cơ
bản, bảo vệ môi trường…
Từ 1996 đến 2002, GS Đặng Hữu giữ chức Trưởng Ban Khoa giáo
Trung ương của Đảng. Ông tham mưu cho Bộ Chính trị và Ban Chấp hành
Trung ương về chiến lược, chính sách phát triển khoa học và công nghệ,
giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực…
Trong cuộc đời dài của GS Đặng Hữu, từ những năm còn trẻ cho đến
lúc tuổi đã cao, ông luôn phải gánh vác công tác quản lý, lãnh đạo, từ tổ
trưởng bộ môn đến bộ trưởng, trưởng ban của Đảng. Mặc dù không sao
tránh khỏi việc phải hội họp triền miên, viết báo cáo, thảo văn kiện thâu
đêm, rồi lo toan giải quyết trăm nghìn vấn đề gay cấn của tập thể, của đất
nước, ông vẫn không sao lãng việc trau dồi năng lực chuyên môn, tài năng
khoa học. Ông là một trong những vị giáo sư chịu khó “trước thư lập ngôn”,
viết nhiều, viết đều: hơn 100 bài trên các tạp chí trong, ngoài nước, và 10
đầu sách.
Ta hãy đọc lướt qua nhan đề một số công trình của ông: Giáo trình
thiết kế đường ô-tô (1961, Hà Nội); Phương pháp đánh giá mặt đường theo
độ võng đàn hồi (1965, Moskva, viết chung với Ivanov, Bazdo và
Yakovlev); Một số vấn đề thiết kế mặt đường và nền đường ô-tô ở Việt Nam
(1968, Hà Nội); Đất có cốt (1972, Hà Nội); Sổ tay thiết kế đường ô-tô (1976,
Hà Nội, viết chung với Đỗ Bá Chương, Nguyễn Xuân Trục); Khoa học -
công nghệ và sự phát triển kinh tế - xã hội (1989), v.v.
Ông tham gia xây dựng Đường Hồ Chí Minh trong những năm 1995-
2003, qua các khâu khảo sát, thiết kế, thi công, giám sát, nghiệm thu; cũng
như các công trình giao thông hiện đại khác ở nước ta trong suốt hai thập
niên vừa qua, như đường Thăng Long - Nội Bài, quốc lộ 5, cải tạo quốc lộ 1
từ Lạng Sơn đến Cà Mau, v.v.
Những tiếng nói trái chiều gay gắt
Là một chuyên gia nổi tiếng trong chuyên ngành xây dựng - giao
thông, một nhà quản lý công tâm, liêm khiết, ông được tín nhiệm cử giữ
chức Chủ tịch Hội đồng Nghiệm thu Nhà nước các công trình trọng điểm
quốc gia, giúp Chính phủ và Thủ tướng đánh giá, kiểm tra chất lượng các
công trình xây dựng quan trọng nhất ở nước ta trong suốt hai thập niên
(1983-2003). Tham gia hội đồng này, có thứ trưởng các bộ Xây dựng, Giao
31
32. thông, Điện lực; ngoài ra, còn có các chuyên gia giỏi nhất ở các bộ, ngành,
các trường đại học và viện nghiên cứu được đích thân chủ tịch hội đồng mời.
Năm 1992, miền Nam và miền Trung lâm vào cảnh thiếu điện nghiêm
trọng. Thành phố Hồ Chí Minh luân phiên cắt điện từng quận các ngày trong
tuần. Trong khi đó, ở miền Bắc, các nhà máy điện than Uông Bí, Ninh Bình,
Phả Lại, các tổ máy từ số 3 đến số 8 Nhà máy Thủy điện Hòa Bình lần lượt
vận hành, do đó, về cơ bản, miền Bắc thừa điện. Có hai phương án giải
quyết: hoặc là bán điện thừa cho Trung Quốc; hoặc là xây dựng đường dây
siêu cao áp truyền tải điện năng thừa từ miền Bắc vào miền Trung và miền
Nam.
Xét nhiều mặt kỹ thuật, chính trị, an ninh năng lượng, Chính phủ ta
chọn phương án 2, với cấp điện áp 500 kV. Theo tính toán, Đường dây 500
kV bắc-nam mạch 1 có tổng chiều dài 1.487 km, gồm 3.437 cột điện tháp
sắt, đi qua 14 tỉnh, thành phố; trong đó qua vùng đồng bằng 297 km (chiếm
20%), trung du và cao nguyên 669 km (chiếm 45%), núi cao, rừng rậm 521
km (chiếm 35%), với 7 lần vượt sông (sông Đà, sông Mã, sông Lam, sông
La, sông Thạch Hãn, sông Hương, sông Sài Gòn) và 17 lần vượt quốc lộ.
Phải tiến hành khoảng 2.000 km khảo sát, đo vẽ địa hình lập mặt cắt dọc,
500 km lập mặt cắt dọc pha; 200 ha phục vụ đo bình đồ tỉ lệ 1/200 tại các
góc lái; 5.200 m khoan thăm dò ở các vị trí có nguy cơ sạt lở; thí nghiệm
khoảng 15.000 mẫu đất đá... trên tổng chiều dài 1.487 km đường dây và 5
trạm biến áp.
Đây là đường dây 500 kV dài nhất thế giới! Hơn nữa, ở nước ta, chưa
có tiền lệ, thiếu chuyên gia giỏi. Thời hạn thi công lại quá ngắn, chỉ... 2
năm!
Đưa ra thảo luận tại Quốc hội, vang lên những ý kiến trái chiều gay
gắt. Một số đại biểu cho đó là chủ trương quá “phiêu lưu mạo hiểm”, “lãng
phí quỹ công”. Có người còn nói như thế là “lầy tiền Nhà nước để gây thanh
danh cá nhân” (tức là gây thanh danh cho cá nhân Thủ tướng Võ Văn Kiệt)!
Không chỉ trong nước, mà cả dư luận nước ngoài cũng không thuận.
Đã có bài báo ở Thái Lan đặt câu hỏi: “Tại sao Việt Nam lại mạo hiểm đến
như thế”?
Kỹ sư Nguyễn Khắc Nhẫn, một chuyên gia gốc Việt làm việc tại Điện
lực Pháp (Électricité de France/ E.D.F.) cũng gửi thư về nước phản đối.
32
33. GS Đặng Hữu và Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong thời kỳ xây dựng
Đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 1
“Thưa Thủ tướng, chắc chắn làm được!”
Thủ tướng Võ Văn Kiệt là nhà lãnh đạo hầu như không có bằng cấp
trường ốc! Nhưng ông ham đọc sách, được đào luyện trong “trường đại học
cuộc đời”, có đôi “mắt xanh” trời phú, khá tinh tường, không “lẫn lộn vàng
thau”, biết hỏi ý kiến “phản biện” trước hết ở các chuyên gia, chứ không
phải ở những “ông biết tuốt” - những ông việc gì cũng cho là mình đã nắm
chắc, có đầy đủ thông tin, lĩnh vực nào cũng nhảy bổ vào góp ý kiến.
Trong Chiếu cầu hiền, Ngô Thì Nhậm thời Tây Sơn đã viết rất hay về
những “ông biết tuốt”: “Họ không thích sửa mình, mà chỉ thích bàn việc
nước! (…). Than ôi, tự họ chưa hẳn đã có chút tài kinh luân, nhưng cứ luận
bàn bừa, làm rối trí dân!”…
Nhiều trí thức “không thích sửa mình, mà chỉ thích bàn việc nước”
không hẳn là hiện tượng chỉ có dưới thời Tây Sơn, mà hình như phổ biển ở
mọi thời đại.
Không phải hễ có bằng cấp cao, giáo sư, tiến sĩ, thậm chí viện sĩ hàn
lâm, Giải Nobel là cứ tự nhiên nhi nhiên có tài kinh luân! Hai Bà Trưng, Lý
Bí, Ngô Quyền, Lê Lợi hay Quang Trung đâu phải là trạng nguyên, bảng
nhãn hay thám hoa, hoàng giáp? Trên thế giới, hình như cũng hiếm có vị
33
34. tổng thống, chủ tịch nước nào là nhà bác học từng đoạt Giải Nobel về khoa
học hay văn chương?
Ngay cả những đại bàng, chim ưng trong văn học, nghệ thuật như W.
Shakespeare, H. Balzac, A. Pushkin, L. Tolstoy hay W. Mozart, L.
Beethoven… cũng không có bằng tiến sĩ văn chương, hay tiến sĩ âm nhạc.
Những chim ưng, đại bang ấy hầu như đều được “đào tạo” dưới “mái
trường” bao la rộng lớn và vô cùng phức tạp của “đại học cuộc đời”.
Maksim Gorky, thiên tài văn học thế kỷ XX, là người đã cuốc bộ khắp
nước Nga bao la và viết thiên tự truyện nổi tiếng thế giới Những trường đại
học của tôi (My Universities). Những trường đại học mà nhà văn ấy học
không phải là Đại học Moskva hay Đại học Saint Petersburg nổi tiếng, mà
chính là “đại học cuộc đời”. Sau ông, Mikhail Sholokhov, tác giả bộ tiểu
thuyết sử thi đồ sộ Sông Đông êm đềm, tác phẩm có thể sánh với Chiến
tranh và hòa bình của Lev Tolstoy, nhận Giải Nobel văn chương năm 1965,
cũng chỉ được học ở trường tới năm 13 tuổi, rồi gia nhập Hồng quân…
Danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi chỉ có thể đóng vài trò một anh hùng
giải phóng dân tộc khi đứng dưới ngọn cờ tụ nghĩa của Lê Lợi trên đất Lam
Sơn. Danh sĩ Ngô Thì Nhậm trở nên vẻ vang trong sử sách, khi vui lòng
phụng sự vị hoàng đế “áo vải” Quang Trung.
Coi khinh bằng cấp cũng như sùng bái bằng cấp là hai biểu hiện tưởng
chứng trái ngược nhau của cùng một chứng “sốt vỡ gia” ở những quốc gia
“mới lớn”, tức là những nước đang phát triển.
Có học vị, chức danh khoa học cao không có nghĩa việc gì cũng giỏi,
lĩnh vực nào cũng thạo, cũng đều có ý kiến phản biện xác đáng.
GS Đặng Hữu, một vị bộ trưởng và cũng là chuyên gia đầu ngành xây
dựng - giao thông, được Thủ tướng Võ Văn Kiệt trân trọng lắng nghe. GS
Hữu trả lời dứt khoát: “Thưa Thủ tướng, chắc chắn làm được! Nếu Chính
phủ quyết tâm và tạo điều kiện thuận lợi, lại có sự giúp đỡ quốc tế, thì anh
chị em cán bộ khoa học - kỹ thuật và công nhân ta nhất định sẽ làm được!
Đường dây 500 kV là một việc quá sức đối với đội ngũ của ta, nhưng ta vẫn
làm được! Cũng như trước kia, với sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô,
ta đã xây dựng thành công Nhà máy Thủy điện Hòa Bình và nhiều công
trình khác”.
Thủ tướng hỏi thêm ý kiến GS Hà Học Trạc, Ủy viên Trung ương
Đảng, Chủ tịch Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, một
chuyên gia đầu ngành về điện. GS Trạc cũng thể hiện quyết tâm kiên định
như GS Hữu.
34
35. Rồi Thủ tướng tham khảo quan điểm của GS Đỗ Quốc Sam, Ủy viên
Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, một chuyên gia đầu
ngành về kết cấu công trình. GS Sam bày tỏ một cách nhìn lạc quan.
May thay, đất nước ta ngày ấy vẫn còn có những nhà trí thức nhân
cách sạch trong, phẩm chất kiên cường, tình tình điềm đạm, được dạn dày
tôi luyện trong thực tiễn Việt Nam. Họ cũng chính là những nhà khoa học
được đào tạo bài bản, thấu đáo tại các đại học danh tiếng của Trung Quốc,
Liên Xô, am tường lý luận chuyên ngành, lại có năng lực lãnh đạo, quản lý,
hội tụ được nhân tâm, thu hút được nhân tài.
Chỗ dựa đáng tin giữa những ngày chao đảo
Thủ tướng liền tin cậy giao cho GS Đặng Hữu theo dõi sát sao công
trình này, coi đó là công trình trọng điểm quốc gia số một, giám sát chặt chẽ
ngay từ khâu thiết kế, thi công cho đến khi khánh thành. GS Hữu có trách
nhiệm điều các chuyên gia giỏi từ các trường, viện về giúp Bộ Điện lực.
Tháng 1-1992, Bộ Chính trị thông qua chủ trương xây dựng công
trình. Ngày 25-2-1992, Chính phủ phê duyệt luận chứng kinh tế - kỹ thuật
với quyết định thời gian hoàn thành là hai năm. Do thời hạn quá gấp, nên
cho phép thực hiện đồng thời các khâu khảo sát - thiết kế, nhập vật tư - thiết
bị, và thi công.
Là một người hành động, từng được thử thách qua đạn lửa mất còn,
dám đương đầu và quyết đoán, Thủ tướng Kiệt mời GS Hữu và GS Sam
tháp tùng trong chuyến thăm Australia. Phía bạn cho máy bay chở hai giáo
sư đi khảo sát đường dây 500 kV dài 800 km đang vận hành an toàn ở nước
bạn.
Thủ tướng mạnh dạn mời các bạn Australia - ngày ấy còn bị coi là các
chuyên gia tư bản chủ nghĩa khó tin - sang giúp Việt Nam. Với sự tài trợ của
Chính phủ Australia, Công ty PPI (Pacific Power International) bang New
South Wales, và Cơ quan SECVI (State Electricity Commission of Victoria
International) giúp tư vấn giám sát, đào tạo quản lý vận hành, an toàn… cho
ngành điện lực nước ta.
Một số người trước đó phê phán gay gắt chủ trương xây dựng đường
dây 500 kV, như kỹ sư Nguyễn Khắc Nhẫn ở Pháp, sau khi được biết trong
nước đã quyết định dứt khoát phải xây dựng, bèn quay ra góp ý chân thành
về kỹ thuật cho các chuyên gia trong nước. Ông cho biết, trước đó, ông phản
35