SlideShare a Scribd company logo
1 of 38
1
TIỂU LUẬN
NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI VÀ BẢO ĐẢM THỰC
HIỆN NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI
Tham khảo thêm tài liệu tại Trangluanvan.com
Dịch Vụ Hỗ Trợ Viết Thuê Tiểu Luận,Báo Cáo
Khoá Luận, Luận Văn
ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ 0934.536.149
2
MỤC LỤC Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do thực hiện đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 3
3. Đối tượng nghiên cứu 3
4. Phương pháp nghien cứu 3
NỘI DUNG 4
1. Khái niệm nguyên tắc suy đoán vô tội và bảo đảm thực hiện
nguyên tắc suy đoán vô tội
4
1.1. Khái niệm nguyên tắc suy đoán vô tội 4
1.2. Khái niệm bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội 12
2. Phạm vi áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội 14
3. Nội dung bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội 17
3.1. Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội 17
3.2. Các bảo đảm thực hiện nguyên tức suy đóan vô tội 21
3.2.1. Bảo đảm pháp lý 21
3.2.2. Bảo đảm tổ chức nghiệp vụ 22
3.2.3. Bảo đảm về nhận thức 24
3.2.4. Các bảo đảm khác 25
4. Ý nghĩa của việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội 28
KẾT LUẬN 33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 35
3
NỘI DUNG
1. Khái niệm nguyên tắc suy đoán vô tội và bảo đảm thực hiện nguyên
tắc suy đoán vô tội
1.1. Khái niệm nguyên tắc suy đoán vô tội
Khái niệm nguyên tắc của tố tụng hình sự
Các nguyên tắc của tố tụng hình sự là những phương châm, định hướng chi
phối toàn bộ hay một số giai đoạn quan trọng của tố tụng hình sự trong quá trình
xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự. Những nguyên tắc này thể hiện
chính sách hình sự, quan điểm giải quyết vụ án hình sự của Đảng và Nhà nước ta
là, đảm bảo mọi tội phạm đều được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công
minh theo đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Vì vậy,
trong quá trình xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án hình
sự những nguyên tắc cơ bản của LTTHS cần được quán triệt và thực hiện nghiêm
chỉnh.
Nguyên tắc là “Điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt
việc làm”1
, là tư tưởng chỉ đạo, qui tắc cơ bản của một hoạt động nào đó. Trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự để thực hiện được mục đích phát hiện nhanh
chóng, kịp thời, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân cần phải có những định hướng trong việc xây dựng
và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự. Những định hướng này thể hiện quan điểm,
đường lối và chính sách hình sự của Nhà nước ta trong việc trong việc đấu tranh,
xử lý tội phạm trong từng giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án và được gọi là
nguyên tắc của LTTHS. Nguyên tắc cơ bản của LTTHS” là những phương châm,
1
Viện ngôn ngữ học (1996), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng.
4
định hướng quan trọng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của hoạt động tố tụng
hình sự trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS.
Hiện nay ở Việt Nam đang có nhiều quan niệm về nguyên tắc cơ bản của
LTTHS với các cách tiếp cận khác nhau. Mỗi cách tiếp cận đều có hạt nhân hợp lý.
Cụ thể là:
Nguyên tắc tố tụng hình sự Việt Nam là những quan điểm, tư tưởng, đường
lối của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
về quá trình giải quyết vụ án hình sự đã được thể chế hoá trong BLTTHS mà các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân phải tuân theo, nguyên tắc này là
nguyên tắc của BLTTHS2
. Chúng tôi đồng ý với quan điểm, nguyên tắc của tố tụng
hình sự là những quan điểm, tư tưởng, đường lối của Đảng và nhà nước về quá
trình giải quyết vụ án hình sự. Nguyên tắc này phải được quy định trong BLTTHS
và buộc các chủ thể tham gia quan hệ PLTTHS phải tuân theo. Mặc dù nguyên tắc
này phải được pháp luật tố tụng hình sự quy định nhưng chúng tôi không đồng ý
với ý kiến cho rằng đây là nguyên tắc của Bộ luật tố tụng hình sự.
Các nguyên tắc cơ bản của LTTHS là những tư tưởng xuất phát điểm, có
tính chủ đạo, định hướng cho toàn bộ hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật
TTHS, chi phối tất cả hoặc chí ít cũng là một số giai đoạn TTHS quan trọng, thể
hiện bản chất của LTTHS và được thể hiện trong các quy phạm pháp luật TTHS.3
Nguyên tắc của LTTHS là tư tưởng chủ đạo và định hướng cơ bản được thể hiện
trong pháp LTTHS, cũng như trong việc giải thích và trong thực tiễn áp dụng pháp
LTTHS thông qua một hay nhiều qui phạm (chế định) của nó - của nguyên tắc
tương ứng mà ta nghiên cứu”4
. Theo tác giả thì nguyên tắc cơ bản của LTTHS có
2
Phạm Hồng Hải (2003), Mô hình lý luận Bộ Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.
3
Nguyễn Quốc Việt (1995), Mấy vấn đề về nguyên tắc tố tụng hình sự khi xây dựng Bộ Luật Tố tụng hình sự sửa
đổi. Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam, Kỷ yếu Khoa học đề tài cấp Bộ.
4
Lê Văn Cảm (2004), Những vấn đề lý luận cơ bản về chế định các nguyên tắc của Luật Tố tụng hình sự, Tạp chí
Kiểm sát, số 5 trang 12, số 6 trang 12, số trang 144.
5
ba đặc điềm: Là tư tưởng chủ đạo và là định hướng cơ bản của hoạt động TTHS;
được phản ánh trên ba lĩnh vực thể hiện (sinh hoạt) của nó là: trong pháp luật
TTHS (tức là trong luật thực định), trong việc giải thích và, trong thực tiễn áp dụng
các qui phạm pháp luật TTHS trừu tượng; Được nhà làm luật ghi nhận thông qua
một hay nhiều qui phạm pháp luật5
.
Nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự là những phương châm, định
hướng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của hoạt động TTHS trong quá trình
xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS.6
Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự
là những định hướng chi phối tất cả hoặc một số hoạt động tố tụng hình sự, được
các văn bản pháp luật ghi nhận7
.
Cũng có quan điểm cho rằng, trước hết các nguyên tắc cơ bản của LTTHS
phải chứa đựng những nội dung thể hiện phương châm, định hướng quan trọng về
hoạt động TTHS của Đảng và Nhà nước ta là nhân đạo, dân chủ, kỷ cương và theo
định hướng XHCN. Phương châm này phải được thể hiện trong việc xây dựng và
thực hiện pháp luật tố tụng hình sự của các chủ thể. Xa rời các nguyên tắc cơ bản
của LTTHS sẽ rơi vào tình trạng chỉ chú ý việc giải quyết vụ án nhanh chóng mà
xem nhẹ đến việc đảm bảo các quyền lợi hợp pháp của công dân dẫn đến mất dân
chủ. Hoặc thiếu kiên quyết, dẫn đến tình trạng đấu tranh chống tội phạm trì trệ kém
hiệu quả. Cả hai khuynh hướng trên đều không phù hợp với phương châm giải
quyết vụ án hình sự vừa đảm bảo tính chính xác, khách quan, có hiệu quả đồng thời
phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Là những
nguyên tắc cơ bản nên nó chi phối toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án hoặc chi phối một số giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự. Vì vậy, những nguyên tắc chỉ có ở một giai đoạn của hoạt động TTHS thì
5
Nguyễn Ngọc Chí (2008), Các nguyên tắc cơ bản trong LTTHS – Những đề xuất, sửa đổi, bổ sung, Tạp chí Khoa
học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24, trang 239-253
6
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
7
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
trang 44.
6
không thể coi là nguyên tắc cơ bản. Chẳng hạn, nguyên tắc khi xét xử có Hội thẩm
nhân dân tham gia chỉ là nguyên tắc đặc trưng của giai đoạn xét xử sơ thẩm nên
không thể là nguyên tắc cơ bản của LTTHS8
. Chúng tôi cho rằng, nguyên tắc cơ
bản của tố tụng hình sự cũng có thể chỉ chi phối một hay nhiều hoạt động trong các
giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự.
Như vậy, mặc dù cách thể hiện khác nhau nhưng các quan điểm trên đều
thống nhất ở chỗ: Nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là phương châm, định
hướng của TTHS; Được quy định trong BLTTHS; được thể hiện trong việc xây
dựng và thực hiện cũng như áp dụng pháp luật. Từ những phân tích trên có thể đưa
ra khái niệm nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự nhưa sau:
Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là những định hướng chi phối tất
cả hoặc một số hoạt động trong quá trình xây dựng, thực thi pháp luật tố tụng hình
sự, bảo đảm dân chủ, công bằng, tôn trọng quyền con người và giải quyết đúng
đắn vụ án hình sự.
Khái niệm suy đoán vô tội
Thuật ngữ “suy đoán” bắt nguồn từ tiếng Latinh “praesumptino”, được hiểu
là sự suy đoán một vấn đề nào đó là chân lý cho đến khi chưa bị bác bỏ. Theo thuật
ngữ tiếng Anh, "presume" được hiểu là suy đoán (dự đoán) và giả định. Vô tội có
nghĩa là không có tội. Bởi vậy, suy đoán vô tội còn được hiểu là giả định vô tội.
Suy đoán vô tội manh nha từ thời cổ đại trong Bộ luật cổ Manu của Ấn Độ,
xuất hiện lần đầu tiên ở thời La Mã cổ đại thế kỷ thứ VI khi Hoàng đế La Mã ban
hành Bản tóm lược luật La Mã với nội dung: “Chứng minh là công việc thuộc về
anh ta – người khẳng định chứ không phải là người phủ định”9
. Suy đoán vô tội
chỉ chính thức được xem như một nguyên tắc mang tính công cụ của pháp luật bởi
8
Nguyễn Ngọc Chí (2008), Các nguyên tắc cơ bản trong LTTHS – Những đề xuất, sửa đổi, bổ sung, Tạp chí Khoa
học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24, trang 239-253
9
http://vuanhlaw.com.vn/tin-tuc/nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-trong-bo-luat-to-tung-hinh-su-2015.html
7
luật gia người Pháp Jean Lemoine nhằm ủng hộ cho một cách suy luận mang tính
pháp lý rằng hầu hết mọi người không phải là tội phạm. Nguyên tắc suy đoán vô
tội được quy định tại Điều 9 Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cộng hòa
Pháp ngày 26/8/1789 như sau: “Mọi người đều được coi là vô tội cho đến khi bị
tuyên bố phạm tội; nếu xét thấy cần thiết phải bắt giữ thì mọi sự cưỡng bức vượt
mức cần thiết cho việc bắt giữ đều bị luật pháp xử phạt nghiêm khắc”10
. Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền của Cộng hòa Pháp được coi là mốc son trong lịch
sử hình thành và phát triển nguyên tắc suy đoán vô tội.
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc, nguyên
tắc suy đoán vô tội được quy định cụ thể ở Điều 11. Theo đó, “Một người bị buộc
tội có hành vi phạm tội được coi là vô tội cho đến khi sự phạm tội của người đó
được xác định một cách hợp pháp trong một vụ xét xử công khai, trong đó có
những sự bảo đảm cần thiết cho việc bào chữa của người đó” và theo Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, cụ thể tại Khoản 2 Điều 14
nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định là: “Người bị cáo buộc là phạm tội hình
sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được
chứng minh theo pháp luật”. Vì vậy, suy đoán vô tội không chỉ được thừa nhận là
một nguyên tắc trong pháp luật quốc tế mà còn trong pháp luật tố tụng hình sự ở
nhiều quốc gia11
.
Pháp luật tố tụng hình sự của hầu hết các nước trên thế giới đã thừa nhận coi
nguyên tắc suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc trong tố tụng hình sự
của quốc gia mình. Tuy nhiên, quy định về nguyên tắc này được ghi nhận ở mức
độ khác nhau tùy theo từng nước. Ở Liên bang Nga, nguyên tắc suy đoán vô tội
được quy định tại Điều 14 của Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga năm 2001.
Theo đó, nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định rằng: Bị can được coi là không
10
Lê Tiến, Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật Tố tụng hình sự, Tạp chí Việt Nam hội nhập
http://vietnamhoinhap.vn/n5869_Nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-trong-Luat-to-tung-hinh-su
11
http://vuanhlaw.com.vn/tin-tuc/nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-trong-bo-luat-to-tung-hinh-su-2015.html
8
có tội, chừng nào lỗi của họ không được chứng minh theo đúng trình tự, thủ tục do
Bộ luật này quy định và không bị Tòa án tuyên phạt bằng bản án đã có hiệu lực
pháp luật; người bị tình nghi hoặc bị can không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội
của mình. Vấn đề chứng minh tội phạm và bác bỏ những chứng cứ nhằm bảo vệ
cho người bị tình nghi hoặc bị can thuộc trách nhiệm của bên buộc tội; mọi nghi
ngờ về tội phạm của bị can nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ
luật này quy định thì phải được giải thích có lợi cho bị can; bản án kết tội không
thể được dựa trên giả định12
. Như vậy, dựa vào những quy định trong pháp luật tố
tụng hình sự của Liên bang Nga có thể thấy rằng, nguyên tắc suy đoán vô tội được
quy định một cách cụ thể và chi tiết đặc biệt là về trình tự, thủ tục chứng minh,
nghĩa vụ chứng minh của bên buộc tội. Nguyên tắc suy đoán vô tội ở Nga thể hiện
được sự bảo đảm quyền con người một cách tối ưu nhất, áp dụng mọi biện pháp có
lợi cho người bị buộc tội trong mọi giai đoạn tố tụng13
.Tại Canada, Điều 11.d của
Hiến chương về quyền và tự do - đây là một bộ phận của Hiến pháp Canada quy
định: “Bất kỳ người nào bị buộc phạm một tội đều có quyền suy đoán vô tội cho
đến khi được một Tòa án độc lập và công bằng xét xử một cách công khai theo quy
định của pháp luật”. Theo quy định của Hiến chương, có thể thấy rằng, cũng giống
với pháp luật tố tụng của Liên Bang Nga, pháp luật Canada cũng ghi nhận nguyên
tắc suy đoán vô tội và ứng dụng vào trong quá trình xét xử của pháp luật quốc gia
mình. Tuy nhiên, Canada là một nước có hệ thống thông luật, do vậy các quy định
cụ thể về suy đoán vô tội thường được thể hiện ở nhiều án lệ khác nhau14
.
Mục đích là nhằm bảo vệ một người bị buộc tội có quyền suy đoán mình vô
tội cho đến khi có quyết định có hiệu lực của Tòa án. Ở Trung Quốc, Điều 12 Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 1996 quy định: “Không ai bị coi là có tội, nếu không bị
12
Xem Điều 14 BLTTHS năm 2001 Liên Bang Nga.
13
Luật Tố tụng hình sự của Liên bang Nga - Thông tin khoa học kiểm sát- Viện khoa học kiểm sát - Số 3+4/2007
14
ThS. Lê Tiến - Học viện An ninh nhân dân; CN. Trương Xuân Hòa - Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang, Nguyên
tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự
9
xét xử bởi một Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật”15
… Trong pháp luật
tố tụng hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, mặc dù tên gọi của
nguyên tắc suy đoán vô tội chưa được ghi nhận trong luật, nhưng nội dung quan
trọng nhất của nguyên tắc này đã được thừa nhận, chỉ khi một người bị đem ra xét
xử ở Tòa án và có bản án có hiệu lực pháp luật, thì người đó mới được coi là có tội.
Nhằm tránh khuynh hướng nhìn nhận những người bị buộc tội như là người đã
được coi là phạm tội, dù tội trạng của họ chưa được chứng minh. Và giai đoạn xét
xử là giai đoạn cực kỳ quan trọng trong quá trình tố tụng, ở giai đoạn này nguyên
tắc suy đoán vô tội được áp dụng một cách triệt để nhất cho đến khi bản án, quyết
định của Tòa án đưa ra có hiệu lực pháp luật. Như vậy, pháp luật tố tụng hình sự
của các quốc gia trên thế giới, ở mức độ khác nhau đều ghi nhận những nội dung
của nguyên tắc suy đoán vô tội, phát huy một cách tối đa nhất mọi biện pháp để
bảo đảm quyền con người trong quá trình tố tụng hình sự của mỗi quốc gia.
Theo Từ điển Luật học, “suy đoán vô tội” là một nguyên tắc cơ bản và quan
trọng của tố tụng hình sự, theo đó bị can, bị cáo được coi là vô tội, không phải
chịu trách nhiệm hình sự khi lỗi của người đó chưa được chứng minh theo trình tự
luật định và chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”16
. Cũng
có quan điểm cho rằng “Suy đoán vô tội hay giả định vô tội” là một trong những
nguyên tắc cơ bản, được ứng dụng rộng rãi trong nền khoa học pháp lý hiện đại.
Nội dung cốt lõi của nguyên tắc cho rằng mọi nghi can đều vô tội cho đến khi được
chứng minh là có tội17
. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng “Suy đoán vô tội” được
hiểu là trong mọi trường hợp nếu một người thực hiện một hành vi mà hành vi mà
còn có ý kiến khác nhau về việc định tội thì phải áp dụng nguyên tắc có lợi cho
họ...”.
15Luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa - Thông tin khoa học kiểm sát- Viện khoa học kiểm
sát - Số 3+4/2007
16
Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.678
17
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
10
Tuy có thể có nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau về suy đoán vô
tội, nhưng theo nghĩa chung nhất có thể hiểu suy đoán vô tội về bản chất là sự “giả
định” một người bị coi là có tội và để khẳng định người đó có phạm tội hay không
thì phải được chứng minh bằng các chứng cứ theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định thông qua việc kiểm tra, xác minh công khai tại phiên tòa với sự tham gia đầy
đủ của các chủ thể của bên buộc tội, bên gỡ tội (bào chữa) và các chủ thể khác có
liên quan (người làm chứng, người phiên dịch, giám định viên) dưới sự giám sát
của Hội đồng xét xử. Điều này cũng có nghĩa là tại phiên tòa, bên buộc tội (Kiểm
sát viên, bị hại) có trách nhiệm chứng minh hành vi phạm tội bằng các chứng cứ
buộc tội mà họ thu thập được và bên bào chữa (Luật sư, bị cáo) cũng đưa ra các
chứng cứ gỡ tội để Hội đồng xét xử xem xét và ra phán quyết kết tội bị cáo hay
tuyên bố họ vô tội, kể cả khi đã có bản án kết tội, thì người bị kết án cũng chỉ bị coi
là có tội khi phán quyết này có hiệu lực pháp luật. Do đó, chỉ khi có bản án có hiệu
lực pháp luật kết tội một người thì người bị buộc tội mới chính thức là có tội. Điều
này có thể coi là một biện pháp ngăn ngừa sự quy kết, định kiến của các chủ thể
tiến hành tố tụng đối với người bị buộc tội, thậm chí cả sự chủ quan, tùy tiện có thể
dẫn đến làm oan người vô tội... Bởi vậy, với cách tiếp cận này có thể thấy rằng suy
đoán vô tội không chỉ là một nguyên tắc cơ bản trong pháp luật tố tụng hình sự mà
còn được xem là một quyền cơ bản của người bị buộc tội – “quyền được suy đoán
vô tội”, theo đó người bị buộc tội có quyền được suy đoán vô tội cho đến khi hành
vi phạm tội của họ (nếu có) được chứng minh tại một phiên tòa công khai và đảm
bảo cho người bị buộc tội thực hiện các quyền bào chữa của mình cũng như đảm
bảo được sự tranh tụng minh bạch giữa các chủ thể có liên quan.
Từ những phân tích khái quát nêu trên, có thể khái niệm: “Nguyên tắc suy
đoán vô tội là định hướng giải quyết vụ án hình sự, theo đó người bị buộc tội được
coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục pháp luật
quy định và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Khái niệm này cho
11
thấy rằng, trách nhiệm chứng minh hành vi phạm tội thuộc về các chủ thể tiến hành
tố tụng và bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô
tội. Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa
và các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ bảo đảm cho họ thực hiện quyền tự
bào chữa của họ và đảm bảo sự tranh tụng bình đẳng tại phiên tòa. Từ đó, để bảo
đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội thì cần phải có những quy định pháp luật
bảo đảm các quyền có liên quan của người bị buộc tội.
1.2. Khái niệm bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội
Như đã nêu ở trên, suy đoán vô tội được coi là một quyền cơ bản của người
bị buộc tội, bởi vậy, việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội cũng có
nghĩa là đảm bảo quyền của người bị buộc tội. Bởi vậy, việc đảm bảo nguyên tắc
suy đoán vô tội được ghi nhận trong hiến pháp, pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý
cho việc phòng ngừa, ngăn chặn mọi hành vi lạm dụng quyền hạn, vi phạm quyền
được suy đoán vô tội. Đặc biệt là, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở nước ta, vấn đề đảm bảo pháp lý đối với quyền được suy đoán
vô tội được thể hiện bằng những quy định pháp luật cụ thể có ý nghĩa quan trọng.
Về bản chất, bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội được hiểu là những
phương tiện, biện pháp được pháp luật quy định theo đó quyền được suy đoán vô
tội được bảo vệ, ngăn chặn và loại trừ vi phạm. Tuy nhiên, dưới góc độ tố tụng
hình sự, việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội có thể được hiểu là
những biện pháp, phương tiện do pháp luật tố tụng hình sự quy định nhằm bảo đảm
thực hiện đúng đắn nhiệm vụ của tư pháp hình sự và quyền được suy đoán vô tội
của người bị buộc tội. Điều này có nghĩa là, nếu chỉ hướng tới việc bảo đảm nhiệm
vụ của tư pháp hình sự mà không chú trọng đến việc bảo đảm quyền được suy đoán
vô tội của người bị buộc tội thì sẽ làm mất đi vai trò, ý nghĩa của nguyên tắc suy
đoán vô tội, thậm chí không đảm bảo được các quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị buộc tội trong quá trình tố tụng hình sự (ví dụ như vi phạm trong áp dụng
12
các biện pháp ngăn chặn đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo…). Vì vậy, để bảo
đảm thực hiện đúng nguyên tắc suy đoán vô tội thì đòi hỏi cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải đảm bảo quyền được suy đoán vô tội của người bị
buộc tội thông qua việc thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ tố tụng của mình theo
trình tự, thủ tục pháp luật hình sự quy định. Điều này cũng có nghĩa là việc thực
hiện nghĩa vụ của người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với việc đảm bảo các quyền của người bị buộc tội khi tham gia tố
tụng, trong đó có quyền được suy đoán vô tội.
“Bảo đảm” được hiểu là “tạo điều kiện để chắc chắn giữ gìn được, hoặc thực
hiện được, hoặc có được những gì cần thiết”18
. Như vậy, “Bảo đảm thực hiện
nguyen tắc suy đoán vô tội” được hiểu là tạo điều kiện cần và đủ để thực hiện được
nguyên tắc trong việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự nhằm làm rõ sự thật khách
quan của vụ án, đảm bảo không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Tuy nhiên, sẽ là chưa toàn diện nếu cho rằng, việc bảo đảm quyền được suy
đoán vô tội chỉ giới hạn bởi nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng, mà vấn đề không kém phần quan trọng là bảo đảm thực hiện quyền
được suy đoán vô tội của người bị buộc tội thông qua các biện pháp, cơ chế khác
như quyền khiếu nại, tố cáo hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố
tụng được pháp luật quy định cho những người tham gia tố tụng nói chung, người
bị buộc tội nói riêng trong quá trình tố tụng. Trong các giai đoạn tố tụng, pháp luật
quy định đều quy định cụ thể nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và có
những chế tài tương ứng khi các quyền của người bị buộc tội bị vi phạm.
Từ sự phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm như sau:
Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng
hình sự là việc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi
18
Từ điển tiếng việt
13
nhiệm vụ, quyền hạn của mình tạo điều kiện cần và đủ để loại trừ việc buộc tội
thiếu căn cứ và người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi có bản án
kết tội của Tòa án đối với họ đã có hiệu lực pháp luật.
Với khái niệm nêu trên, có thể thấy rằng việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc
suy đoán vô tội không chỉ thể hiện ở những quy định về các quyền của người bị
buộc tội (quyền bào chữa, quyền giữ im lặng, quyền bất khả xâm phạm về thân thể)
mà còn thể hiện ở các nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng trong việc thực hiện đúng các trình tự, thủ tục tố tụng hình sự để đảm
bảo các quyền của người bị buộc tội (ví dụ như: đảm bảo quyền được mời luật sư
từ khi khởi tố bị can, quyền yêu cầu giám định…).
2. Phạm vi áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội
Như đã nêu ở trên, để xác định một người là có tội thì hành vi phạm tội của
họ phải được chứng minh theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định và có bản án có
hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền kết tội họ. Hai điều kiện này cho thấy
rằng quyền được suy đoán vô tội gắn liền với việc buộc tội, bởi vậy đây cũng là cơ
sở xác định phạm vi áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội. Cụ thể là:
- Chủ thể áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội
Về nguyên tắc, hành vi của người bị buộc tội chưa được chứng minh và
được quyết định bởi bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền thì
người bị buộc tội vẫn có quyền được suy đoán vô tội. Từ đó, chủ thể áp dụng
nguyên tắc suy đoán vô tội là các cơ quan, người tiến hành tố tụng, một số cơ quan
được giao tiến hành một số hoạt động tố tụng và cả những chủ thể khác như cơ
quan, tổ chức, báo chí, truyền thông...đều phải tôn trọng quyền được suy đoán vô
tội của người bị buộc tội. Hay nói cách khác là, mọi hình thức thể hiện sự quy kết
có tội đối với người bị buộc tội của bất kỳ cơ quan, tổ chức nào trước khi có bản án
kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền đều vi phạm nguyên tắc suy
đoán vô tội.
14
- Đối tượng có quyền được suy đoán vô tội
Phạm vi này thể hiện ở việc xác định ai là người có quyền được suy đoán vô
tội. Về vấn đề này có quan điểm cho rằng căn cứ Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 quy định “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được
chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” thì đối tượng có quyền được suy đoán vô tội có
thể là bất kỳ người nào khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực. Điều
này cũng phù hợp với ghi nhận quyền được suy đoán vô tội được đảm bảo cho tất
cả mọi người trong Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền Pháp năm 1789. Có
quan điểm khác cho rằng, để bảo đảm quyền con người thì cần nhận diện sự buộc
tội phát sinh từ khi bắt, tạm giữ người bị tình nghi (chưa có quyết định khởi tố bị
can) và tồn tại cho đến khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt hoặc được
miễn hình phạt (toàn bộ) hay được đại xá, ân xá. Vì vậy, phạm vi đối tượng có
quyền được suy đoán vô tội bao gồm không chỉ người bị tình nghi, bị can, bị cáo
mà cả những người bị kết án nhưng chưa chấp hành xong hình phạt. Cũng có quan
điểm cho rằng quá trình tố tụng hình sự được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố
bị can, nên đối tượng có quyền được suy đoán vô tội chỉ bao gồm bị can, bị cáo và
họ có quyền này từ thời điểm có quyết định khởi tố bị can cho đến khi bản án kết
tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, dưới góc độ nhìn nhận việc buộc
tội có thể có cả ở giai đoạn trước tố tụng (tiền tố tụng) đến khi có bản án có hiệu
lực pháp luật của Tòa án, vì vậy, quan niệm hợp lý là đối tượng có quyền được suy
đoán vô tội là “người bị buộc tội” bao gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo. (kể cả trong trường hợp xem xét lại bản án có hiệu lực pháp luật theo thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm).
- Phạm vi áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội về thời gian
Phạm vi này đòi hỏi xác định nguyên tắc suy đoán vô tội được áp dụng trong
giai đoạn nào của tố tụng hình sự. Về vấn đề này cũng có nhiều quan điểm khác
15
nhau, tuy nhiên, căn cứ vào đối tượng có quyền được suy đoán vô tội thì phạm vi
áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội được áp dụng đối với tất cả các giai đoạn
TTHS và trong một số trường hợp được áp dụng cả đối với giai đoạn tiền tố tụng
(giữ người trong trường hợp khẩn cấp) và khi bản án của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật nhưng bị kháng nghị để xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm, tái
thẩm. Bởi vì một số lý do sau đây:
- Quá trình tố tụng hình sự được chia thành các giai đoạn khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án, nên khi một người bị khởi tố với tư cách là bị can
cũng có nghĩa là họ chính thức bị buộc tội. Vì vậy, từ thời điểm này và trong các
giai đoạn tiếp theo (điều tra, truy tố, xét xử) cho đến khi bản án kết tội có hiệu lực
pháp luật với tư cách là bị can, bị cáo thì họ luôn có quyền được suy đoán vô tội.
- Trường hợp người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị
tạm giữ, mặc dù chưa văn bản tố tụng chính thức buộc tội nhưng việc áp dụng biện
pháp hạn chế quyền tự do và một số quyền khác thì ở chừng mực nhất định cũng
thể hiện có sự buộc tội. Do đó, người bị tình nghi (người chưa bị khởi tố về hình
sự) cũng là người bị buộc tội, có quyền được suy đoán vô tội và các cơ thẩm quyền
quan có tiến hành tố tụng phải tôn trọng, bảo đảm quyền này trong quá trình tố
tụng hình sự.
- Khi bản án kết tội có hiệu lực pháp luật thì người bị kết án chính thức bị
coi là có tội. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì mặc dù bản
án có hiệu lực pháp luật nhưng cũng có thể bị kháng nghị để xem xét theo trình tự
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, do đó, cần thừa nhận rằng người bị kết án cũng có
quyền được suy đoán vô tội cho đến khi người có thẩm quyền xem xét theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm ra các quyết định theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự về việc không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án...; hủy bản án... và
đình chỉ vụ án; hủy bản án... để điều tra lại hoặc xét xử lại, thậm chí cả khi có
quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét kiến nghị, đề
16
nghị theo quy định tại Điều 404 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Bởi vậy, trong
các trường hợp này, nguyên tắc suy đoán vô tội cũng được áp dụng đối với người
bị kết án từ thời điểm có kháng nghị, kiến nghị và kết thúc khi Hội đồng giám đốc
thẩm (tái thẩm), Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giữ
nguyên bản án đã có hiệu lực pháp luật hoặc hoặc hủy bản án kết tội và đình chỉ vụ
án; hoặc không chấp nhận/chấp nhận kiến nghị về việc xem xét lại bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật.
3. Nội dung bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội
3.1. Nội dung của nguyên tắc suy doán vô tội
Suy đoán vô tội hay giả định vô tội, là một trong những nguyên tắc cơ bản,
được ứng dụng rộng rãi trong nền khoa học pháp lý hiện đại. Nội dung cốt lõi của
nguyên tắc cho rằng mọi nghi can đều vô tội cho đến khi được chứng minh là có
tội.Nguyên tắc này được áp dụng trong các cáo buộc của phiên tòa hình sự. Các
bằng chứng cáo buộc mà bên công tố hoặc viện kiểm sát đưa ra phải đủ khả năng
thuyết phục hội đồng xét xử về tính chân thật của cáo buộc. Bị cáo không có nghĩa
vụ phải chứng minh mình vô tội. Việc tìm bằng chứng đủ khả năng thuyết
phục thuộc về bên công tố. Về nội dung của nguyên tắc "suy đoán vô tội" hiện còn
có rất nhiều quan điểm khác nhau của các nhà luật học, song tựu trung lại có thể
thấy trong tố tụng hình sự nguyên tắc suy đoán vô tội phản ánh ba nội dung căn
bản đó là: (i) Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi có bản án có
hiệu lực pháp luật của Tòa án kết tội đối với người đó; (ii) Nghĩa vụ chứng minh
một người có tội thuộc về bên có trách nhiệm buộc tội. Người bị buộc tội có quyền
chứng minh mình vô tội nhưng không có nghĩa vụ phải chứng minh sự vô tội của
mình; (iii) Khi có những nghi ngờ về pháp luật và chứng cứ xuất hiện thì những
nghi ngờ này phải được hiểu và giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội.
Từ đó, có thể xác định những nội dung cơ bản của nguyên tắc này bao gồm:
17
Thứ nhất, người bị buộc tội được coi là không có tội khi tội phạm do họ bị
tình nghi thực hiện chưa được chứng minh theo đúng các trình tự, thủ tục do Bộ
luật Tố tụng hình sự quy định.
Điều này có nghĩa là, một người chỉ có thể bị coi là có tội khi có bản án kết
tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Hay nói cách khác là khi lỗi giả định của
người bị buộc tội không được chứng minh thì cũng đồng nghĩa với sự vô tội của
người bị buộc tội được chứng minh. Đây chính là cơ sở tạo sự an toàn pháp lý cho
người bị buộc tội trong toàn bộ quá trình tố tụng hình sự. Điều này hoàn toàn phù
hợp với nguyên tắc “Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an ninh cá nhân,
không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Người bị buộc là phạm một tội hình sự có
quyền được coi là vô tội cho tới khi tội của người đó được chứng minh theo pháp
luật”19
. Vấn đề chứng minh theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định nhấn mạnh
yêu cầu tuân thủ về thủ tục pháp lý để đi đến kết luận người bị buộc tội có phạm tội
hay không một cách công khai, minh bạch và ngăn ngừa sự tùy tiện, truy bức, dùng
nhục hình trong quá trình chứng minh hành vi phạm tội của người bị buộc tội. Vì
thế, để đảm bảo yêu cầu chứng minh, nhiều quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đã
đặt ra các yêu cầu nghiêm ngặt như: Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực
hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật
này quy định20
; Chứng cứ không không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ
luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để
giải quyết vụ án hình sự21
; Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều
tra lại khi có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy
tố22
. Đồng thời, ở nội dung này, nguyên tắc suy đoán vô tội cũng đặt ra trách nhiệm
chứng minh tội phạm thuộc về phía buộc tội, theo đó,“trách nhiệm chứng minh tội
19
Điều 14, Công ước của Liên hợp quốc về quyền dân sự và chính trị năm 1966
20
Điều 7, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
21
Điều 86, 87 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
22
Điều 358 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
18
phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có
quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”23
.
Nội dung này xuất phát từ triết lý căn bản trong tố tụng hình sự là “ai buộc
tội thì phải chứng minh”, bởi vậy, nếu cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh
được tội phạm của người bị buộc tội thì đồng nghĩa với sự vô tội của họ cho đến
khi có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Hay nói cách khác là chỉ có
Tòa án mới là cơ quan duy nhất có quyền tuyên bị cáo là người có tội trong bản án
kết tội của mình. Điều này đặt ra yêu cầu là cơ quan tiến hành tố tụng không được
bắt buộc người bị buộc tội thực hiện trách nhiệm chứng minh dưới bất kỳ hình thức
nào và trách nhiệm chứng minh thuộc trách nhiệm cơ quan tiến hành tố tụng nhưng
người bị buộc tội luôn có quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa
bằng mọi biện pháp hợp pháp, trong đó có việc đưa ra chứng cứ chứng minh sự vô
tội của mình, thậm chí pháp luật còn quy định cho người bị buộc tội có “quyền im
lặng”, không trả lời các câu hỏi của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố
tụng. Nội dung này bắt nguồn từ quyền không buộc phải chứng minh của bị can, bị
cáo và trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan và người buộc tội, nhằm bảo đảm
tự do và an toàn cá nhân cho người bị buộc tội trong quá trình tố tụng hình sự như
được ghi nhận tại Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và
chính trị năm 196624
với bản chất là người bị buộc tội không buộc phải khai báo để
chống lại mình.
Thứ hai, người bị buộc tội chỉ bị coi là có tội khi hành vi phạm tội của họ
được xác định bởi bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền.
Nội dung này xuất phát từ chức năng xét xử của Tòa án, theo đó yêu cầu đặt
ra là bất cứ người nào do bị bắt hoặc bị giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền
23
Điều 15 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
24
Khoản 3, Điều 14 Công ước quy định: “Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người có quyền được
hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu như được thông báo không chậm trễ và chi
tiết, bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu được về bản chất và lý do buộc tội mình, không bị buộc đưa ra lời khai
chống lại mình, không bị buộc phải nhận là mình có tội”.
19
yêu cầu xét xử trước Tòa án nhằm mục đích để Tòa án đó có thể quyết định không
chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và trả lại tự do nếu việc giam giữ là
trái pháp luật, đồng thời bất kỳ người nào đều có quyền đòi hỏi việc xét xử công
bằng và công khai do một Tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được
lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội trong vụ án hình sự. Bởi
vậy, chỉ khi bản án kết tội của tòa dựa trên các chứng cứ, lời tranh tụng một cách
khách quan, minh bạch, bình đẳng đã khẳng định chắc chắn về lỗi của người bị
buộc tội trong việc thực hiện tội phạm thì người bị buộc tội mới bị coi là có tội;
nếu chưa đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội thì Tòa án không được kết tội
thì tòa không kết tội đối với người bị buộc tội. Từ đó, để đảm bảo nội dung nguyên
tắc này, Bộ luật Tố tụng hình sự đã có những quy định cụ thể về chứng cứ, lời khai
của những người tham gia tố tụng cũng như trách nhiệm của cơ quan, người tiến
hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Thứ ba, mọi hoài nghi về lỗi của người bị buộc tội cần được giải thích theo
hướng có lợi cho người đó.
Đây là yêu cầu về logic tư duy đối với những người tiến hành tố tụng hình
sự, theo đó trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, khi có sự không rõ ràng trong
việc xác định căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự, các tình tiết liên quan đến tội
và lỗi của người bị buộc tội mà cả quá trình tố tụng với tất cả các biện pháp được
thực hiện nhưng không thể làm rõ, vẫn còn hoài nghi và còn mâu thuẫn trong quá
trình chứng minh người bị buộc tội là tội phạm thì cần suy đoán theo hướng có lợi
cho người bị buộc tội là họ không phạm tội. Mục đích của yêu cầu này là tránh việc
buộc tội theo tư duy có thể làm oan còn hơn bỏ lọt tội phạm và đòi hỏi trách nhiệm
của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc kiểm tra, chứng minh làm rõ những vấn đề
còn nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo; nếu không chứng minh làm rõ
được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo phải được
giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội là họ không phạm tội.
20
Như vậy, những phân tích nêu trên cho thấy rõ 3 nội dung cơ bản của
nguyên tắc suy đoán vô tội và dưới góc độ tố tụng hình sự thì những nội dung này
cũng chính là những đòi hỏi, những điều kiện cần và đủ để xác định người bị buộc
tội có phạm tội hay không và nếu thiếu những điều kiện này thì một người bị buộc
tội phải được coi là vô tội.
3.2. Các bảo đảm thực hiện nguyên tức suy đóan vô tội
3.2.1. Bảo đảm pháp lý
Pháp luật là cơ sở để thực thi quyền lực Nhà nước trong hoạt động tố tụng
hình sự và thực tế cho thấy rằng tính đúng đắn, chất lượng và hiệu quả của hoạt
động tố tụng hình sự luôn bị ảnh hưởng bởi chất lượng của hệ thống quy phạm
pháp luật. Bởi vậy, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi việc
áp dụng các trình tự, thủ tục tố tụng đối với người bị buộc tội trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự phải trên các quy phạm pháp luật phù hợp. Thực tế cho thấy
rằng, trong hoạt động tố tụng hình sự, người tiến hành tố tụng, các cơ quan tiến
hành tố tụng phải áp dụng các qui định của Hiến pháp, pháp luật tố tụng hình
sự,pháp luật hình sự và các quy định pháp luật khác có liên quan tác động trực tiếp
đến người bị buộc tội (ví dụ như bắt, tạm giữ, tạm giam), do đó, khi các qui định
của pháp luật liên quan đến việc thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội đầy đủ, phù
hợp, thống nhất, cụ thể, rõ ràng thì việc hiểu, thực hiện, áp dụng các qui định của
pháp luật tố tụng hình sự sẽ đảm bảo quyền được suy đoán vô tội của người bị
buộc tội. Ngược lại, nếu các quy định của pháp luật không đầy đủ, hoặc mâu thuẫn,
chồng chéo thì việc áp dụng có thể dẫn đến sự xâm phạm quyền được suy đoán vô
tội của người bị buộc tội. Điều này cho thấy rằng sự hoàn thiện của pháp luật tố
tụng hình sự là điều kiện quan trọng đảm bảo cho khả năng thực hiện, đảm bảo
quyền suy đoán vô tội của người bị buộc tội. Bởi vậy, để nâng cao chất lượng các
hoạt động tố tụng hình sự và bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội, các cơ
quan có thẩm quyền cần phải không ngừng hoàn thiện các quy định pháp luật tố
21
tụng hình sự và các quy định pháp luật có liên quan để đảm bảo tính toàn diện,
đồng bộ, phù hợp và kỹ thuật lập pháp của hệ thống pháp luật và đáp ứng yêu cầu
đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong
điều kiện hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay.
Với vai trò là công cụ pháp lý hàng đầu trong việc bảo đảm quyền con
người, pháp luật về tố tụng hình sự thực sự đã và đang là công cụ pháp lý không
thể thiếu để các cơ quan, người tiến hành tố tụng thực hiện các biện pháp bảo đảm
quyền con người trong tố tụng hình sự. Hầu hết pháp luật tố tụng hình sự của các
quốc gia đều lấy nguyên tắc tranh tụng và nguyên tắc suy đoán vô tội làm các
nguyên tắc trụ cột. Nguyên tắc tranh tụng dẫn đến sự hình thành các bên trên cơ sở
xác định vị trí của các lợi ích tố tụng, từ đó tạo nên sự bình đẳng của các bên trong
vị trí tố tụng. Nguyên tắc suy đoán vô tội tạo bảo đảm cần thiết cho việc bảo vệ
quyền con người, là lá chắn quan trọng để khắc phục tình trạng án oan, sai trong tố
tụng hình sự. Vì vậy việc đổi mới và liên tục hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự
là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội.
2.2.2. Bảo đảm tổ chức nghiệp vụ
Người tiến hành tố tụng là một trong các chủ thể của tố tụng hình sự, có vai
trò quan trọng, mang tính quyết định trong quá trình chứng minh, giải quyết vụ án
hình sự. Những người tiến hành tố tụng có nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau, nhưng
hoạt động của họ có mối liên hệ mật thiết, thống nhất với nhau và đều có trách
nhiệm là nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi
hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trên
cơ sở phân loại theo các cơ quan tiến hành tố tụng thì có người tiến hành tố tụng
trong cơ quan điều tra, người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát và người tiến
hành tố tụng trong Toà án. Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và người
tiến hành tố tụng là áp dụng pháp luật để phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các vụ
22
án hình sự. Do đó, để các bản án, quyết định được công bằng, đúng pháp luật,
không làm oan sai cho người dân thì trong từng hoạt động, từng giai đoạn của quá
trình tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có thẩm
quyền phải khách quan, vô tư, độc lập và tuân thủ nghiêm ngặt quy định của pháp
luật; chỉ được làm những gì pháp luật cho phép và phải làm theo đúng trình tự, thủ
tục, thời hạn do pháp luật quy định.
Trong hoạt động tố tụng hình sự, người tiến hành tố tụng có vai trò quan
trọng và quyết định đến chất lượng giải quyết vụ án hình sự. Hoạt động tố tụng
hình sự nhằm mục đích xác định sự thật khách quan của vụ án, vì vậy để thực hiện
đúng các trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng hình sự cũng như đảm bảo quyền được
suy đoán vô tội của người bị buộc tội đòi hỏi người tiến hành tố tụng (Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán) phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất định,
có tư duy lôgic, khoa học, có khả năng phân tích, đánh giá các tài liệu, chứng cứ
của vụ án một cách có hệ thống, toàn diện, lô gic để xác định chính xác, khách
quan từng tình tiết của vụ án và toàn bộ diễn biến của hành vi phạm tội để áp dụng
đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội. Năng lực, trình
độ chuyên môn của người tiến hành tố tụng được thể hiện qua các hoạt động
nghiệp vụ như: tiếp nhận tin báo tội phạm, thu thập chứng cứ, nghiên cứu hồ sơ vụ
án để lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp với thực tế, hoàn cảnh cụ thể để áp
dụng các biện pháp tố tụng phù hợp đối với người bị buộc tội cũng như đảm bảo
các quyền của người bị buộc tội được pháp luật quy định. Bởi vậy, nếu người tiến
hành tố tụng có đủ năng lực, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm thì việc tôn
trọng, bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ hiệu quả; ngược lại,
nếu người tiến hành tố tụng yếu kém về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ thì sẽ dẫn
đến nhưng vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội, xâm hại đến quyền được suy đoán
vô tội cũng như các quyền và lợi ích của người bị buộc tội được pháp luật quy định
trong quá trình tố tụng.
23
2.2.3. Bảo đảm về nhận thức
Nguyên tắc suy đoán vô tội cũng như các nguyên tắc tố tụng hình sự khác
cho dù có tiến bộ, đúng đắn nhưng nếu không được thực thi thì cũng không có ý
nghĩa. Bởi vậy, yêu cầu tiên quyết là cần có sự nhận thức, quán triệt sâu sắc
nguyên tắc này trong các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, để đảm bảo
nhận thức thống nhất nguyên tắc này, các cơ quan có thẩm quyền cần tăng cường
tuyên truyền, phổ biến pháp luật, đặc biệt là tập huấn nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ cho những người tiến hành tố tụng hình sự nhằm ngăn ngừa, hạn
chế những vi phạm các quyền của người bị buộc tội, đặc biệt là quyền được suy
đoán vô tội, nhất là xu hướng buộc tội chỉ căn cứ vào kết luận của cơ quan điều tra,
cáo trạng của Viện kiểm sát, hoặc khi biết có vi phạm trong hoạt động tố tụng
nhưng không có biện pháp khắc phục do sợ nếu khắc phục thì người bị buộc tội có
thể yêu cầu bồi thường thiệt hại…
Ngoài ra, người tiến hành tố tụng còn đòi hỏi phải có phẩm chất đạo đức,
bản lĩnh nghề nghiệp, bởi thực tế cho thấy khi người tiến hành tố tụng vững về
chuyên môn, nghiệp vụ đồng thời giữ được phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh nghề
nghiệp thì sẽ không bị ảnh hưởng bởi những tác động, cám dỗ, đe dọa, áp lực từ
bên ngoài để thực sự đảm bảo công tâm, không thiên vị trong việc tôn trọng và
đảm bảo quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội. Ngược lại, nếu người
tiến hành tố tụng có động cơ không trong sáng, thiếu khách quan, vì lợi ích cá
nhân, suy thoái, biến chất, bị lôi kéo và kém hiểu biết pháp luật thì sẽ dẫn đến xâm
hại quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội và làm phát sinh các vụ án
oan, sai.
Đối với đội ngũ thẩm phán thực hiện nhiệm vụ xét xử, trước hết, thẩm phán
phải là người có đạo đức, lòng dũng cảm, dám đấu tranh không khoan nhượng với
tội phạm và vi phạm pháp luật; có tinh thần thượng tôn pháp luật; luôn tuân theo lẽ
công bằng; có trách nhiệm với xã hội và có tấm lòng nhân hậu. Để vượt qua những
24
thách thức mà môi trường công tác đặt ra, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế,
Bộ quy tắc thẩm phán của các quốc gia thường quy định những tiêu chí đạo đức xã
hội và đạo đức nghề nghiệp cơ bản đối với thẩm phán như: Sự thanh liêm, chính
trực; tính chuyên cần; khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật; bảo đảm tính độc lập,
khách quan, vô tư, công bằng trong xét xử; không lợi dụng vị trí công tác của mình
vào mục đích cá nhân cũng như không được bằng hành vi xử sự của mình cho phép
người khác tạo ra cảm giác rằng họ có thể gây ảnh hưởng đến thẩm phán… Bên
cạnh đó, tùy thuộc vào thể chế chính trị, hình thức tổ chức nhà nước và các điều
kiện cụ thể về kinh tế – xã hội, từng quốc gia còn đặt ra những yêu cầu khác đối
với thẩm phán khi tham gia các quan hệ xã hội như: trong hoạt động chính trị; giao
dịch tài chính và quà tặng; thực hiện các hoạt động kinh doanh thương mại, đầu tư
cổ phiếu… Một số quốc gia quy định ngay trong quy chế đạo đức thẩm phán các
biện pháp, cơ chế để bảo đảm cho thẩm phán giữ gìn đạo đức nghề nghiệp, hoàn
thành tốt nhiệm vụ.
2.2.4. Các bảo đảm khác
- Cơ sở vật chất cũng là một điều kiện quan trọng bảo đảm các quyền con
người nói chung, quyền được suy đoán vô tội nói riêng trong tố tụng hình sự. Cơ
sở vật chất, điều kiện làm việc đảm bảo cho hoạt động của người tiến hành tố tụng
bao gồm trụ sở làm việc, các phương tiện kỹ thuật phục vụ cho việc phát hiện, cập
nhật, lưu giữ các thông tin tội phạm, các thông tin phục vụ cho công tác nghiệp vụ;
các phương tiện để quản lý hồ sơ đối tượng, bị can, bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm
giam, nhất là các phương tiện phục vụ việc điều tra, lấy lời khai, giám sát việc quá
trình điều tra và ngăn chặn tình trạng ép cung, mớm cung, dùng nhục hình ở giai
đoạn điều tra… Những điều kiện này ảnh hưởng trực tiếp đến đến hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử, nên nếu được bảo đảm thì sẽ tạo thuận lợi cho các hoạt động tố
tụng hình sự được thực hiện theo đúng quy định pháp luật cũng như đảm bảo
quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội, nhất là trong việc áp dụng các
25
biện pháp ngăn chặn liên quan trực tiếp đến quyền tự do của người bị buộc tội. Ví
dụ như: nếu nhà tạm giữ, trại tạm giam, hay trại giam có cơ sở vật chất tốt, được
trang bị các phương tiện hiện đại thì sẽ góp phần bảo đảm tốt hơn quyền được suy
đoán vô tội của người bị buộc tội (như camera giám sát việc hỏi cung; giam giữ bị
can, bị cáo…). Ngoài ra, chế độ đãi ngộ đối với người tiến hành tố tụng (lương,
phụ cấp nghề nghiệp, phụ cấp thâm niên, khen thưởng…) cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng điều tra, truy tố, xét xử nói chung, việc đảm bảo thực hiện
nguyên tắc suy đoán vô tội nói riêng. Bởi vì, thực tế cho thấy rằng nếu chế độ đãi
ngộ không phù hợp có thể làm cho người tiến hành tố tụng bị chi phối bởi những
khó khăn của đời sống thường ngày, thiếu đi sự nhiệt huyết, sự tập trung trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ, thậm chí còn làm cho họ bị cám dỗ, mua chuộc bằng lợi
ích vật chất hay ép buộc để thực hiện các hoạt động tố tụng thiếu khách quan, vi
phạm pháp luật và xâm hại đến quyền được suy đoán vô tội của công dân.
- Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền đối với
hoạt động tố tụng hình sự nói chung, việc thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội nói
riêng có ảnh hưởng quan trọng đến việc bảo đảm quyền được suy đoán vô tội của
người bị buộc tội.
Để bảo đảm hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng đúng pháp luật, góp phần phòng ngừa và khắc phục oan
sai, bỏ lọt tội phạm, pháp luật về tố tụng hình sự quy định nguyên tắc về kiểm tra
giám sát đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
theo đó:“Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm
tra việc tiến hành các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền; thực hiện kiểm soát
giữa các cơ quan trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.Cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám
sát hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; giám sát việc
26
giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng.Nếu phát hiện hành vi trái pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng thì cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử có quyền yêu cầu, Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền kiến nghị
với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, giải quyết theo quy định của
Bộ luật này. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, giải quyết và
trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật”25
.Như vậy, để đảm bảo
quá trình thực hiện hoạt động tố tụng diễn ra công khai, minh bạch, công bằng,
tuân thủ pháp luật thì bắt buộc phải hình thành cơ chế kiểm tra, giám sát giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng với nhau và giữa cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, giám
sát hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.Việc kiểm tra các
hoạt động tố tụng được thực hiện trong nội bộ cơ quan tiến hành tố tụng, thể hiện ở
việc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra tính hợp
pháp của các hoạt động tố tụng trong thẩm quyền của mình để kịp thời phát hiện,
khắc phục những sai sót, vi phạm pháp luật.
Trên thực tế, hoạt động tố tụng hình sự đóng vai trò hết sức quan trọng đối
với công tác ban hành, áp dụng pháp luật để ổn định trật tự xã hội, bảo vệ an ninh
quốc gia, quá trình xét xử và tuyên án có khả năng thay đổi cả vận mệnh, cuộc đời
của một công dân, do vậy, đòi hỏi tính chính xác, đảm bảo sự thật khách quan,
công bằng rất cao. Cho nên, việc tiến hành kiểm tra, giám sát là hoạt động hết sức
cần thiết để tăng tính trách nhiệm, kỹ lưỡng trong tất cả các khâu, các cá nhân, cơ
quan được pháp luật trao cho thẩm quyền lập lại ổn định trật tự xã hội bằng các
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án,...giảm đến mức thấp nhất các
trường hợp xảy ra sai sót, xét xử oan sai, đi lệch hướng các nguyên tắc đề ra trong
tố tụng hình sự.
25
Điều 33 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
27
Trong hoạt động tố tụng hình sự, việc thanh tra, kiểm tra, giám sát của cơ
quan có thẩm quyền có thể được thể hiện qua công tác cán bộ, giáo dục chính trị,
tư tưởng (nhất là của cấp ủy, người đứng đầu cơ quan tiến hành tố tụng) nhằm nâng
cao bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm của những người
tiến hành tố tụng trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mình. Đồng thời, công
tác kiểm tra của người có thẩm quyền là cơ chế hữu hiệu để phát hiện, chấn chỉnh,
xử lý những biểu hiện lệch lạc, những sai phạm của người tiến hành tố tụng, qua đó
kịp thời cho ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ để đảm bảo tính đúng đắn của
các hoạt động tố tụng hình sự cũng như việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền của người bị buộc tội. Bên cạnh đó, hoạt động tố tụng
hình sự còn chịu sự giám sát, kiểm sát của các cơ quan có thẩm quyền như Quốc
hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, Viện kiểm sát nhân dân để qua đó kịp
thời phát hiện vi phạm, kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng
khắc phục vi phạm, xử lý nghiêm người vi phạm, góp phần bảo đảm cho hoạt động
tố tụng hình sự đúng pháp luật, bảo đảm quyền được suy đoán vô tội của công dân.
Ví dụ điển hình là qua kiểm tra, kiểm sát, giám sát, các cơ quan có thẩm quyền đã
phát hiện, khắc phục việc cơ quan tiến hành tố tụng gây oan sai và bồi thường thiệt
hại cho ông Hàn Đức Long, Nguyễn Thanh Chấn (tỉnh Bắc Giang), ông Huỳnh
Văn Nén (tỉnh Bình Thuận)…
3. Ý nghĩa của việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội
Việc ghi nhận trong pháp luật quốc tế, sự thừa nhận và thể hiện nguyên tắc
suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự của các quốc gia có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong việc bảo vệ con người nói chung, trong tố tụng hình sự nói riêng.
Ở nước ta, việc Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự ghi nhận và bảo đảm thực hiện
nguyên tắc suy đoán vô tội có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Một là, bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội góp phần thực hiện
một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, là một trong những nội
28
dung cơ bản về bảo vệ quyền con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế
năm 1948, Công ước quốc tế năm 1966 và được áp dụng rộng rãi trong hệ thống
pháp luật tố tụng hình sự của hầu hết các nước.
Nguyên tắc này đòi hỏi trong suốt quá trình tố tụng hình sự, các chủ thể tiến
hành tố tụng không được coi người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là
người đã có tội, mà phải coi họ là người đã thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội
phạm (giả định là tội phạm), kể cả khi bị áp dụng biện pháp hạn chế quyền tự do
thì họ vẫn còn những quyền con người và những quyền công dân khác cần được
tôn trọng và bảo đảm. Bởi vậy, trong tố tụng hình sự, nguyên tắc suy đoán vô tội
có thể coi là một biện pháp bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội - quyền
được suy đoán vô tội để ràng buộc trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các
chủ thể tiến hành tố tụng (người bị hại, điều tra viên, kiểm sát viên, Hội đồng xét
xử). Thậm chí, yêu cầu cao hơn đặt ra là ngoài các chứng cứ buộc tội, các chủ thể
tiến hành tố tụng còn có trách nhiệm thu thập cả các chứng cứ gỡ tội; phải có thái
độ vô tư, không được định kiến đối với người bị buộc tội để bảo đảm tính khách
quan của quá trình tố tụng của vụ án. Người bị buộc tội không có nghĩa vụ chứng
minh về sự vô tội của mình và có quyền đưa ra chứng cứ, yêu cầu với các cơ quan
tố tụng. Ngoài ra, nguyên tắc này còn thể hiện bản chất dân chủ và nhân đạo của
hoạt động tố tụng hình sự khi buộc các chủ thể tố tụng phải giải thích theo hướng
có lợi cho người bị buộc tội trong trường hợp các quy định của pháp luật chưa rõ
ràng dẫn đến nhiều cách hiểu, giải thích khác nhau. Từ đó, để bảo đảm tính khả thi
của nguyên tắc suy đoán vô tội thì các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự phải
được thể hiện một cách đầy đủ, chính xác các nội dung của nguyên tắc này.
Hai là, bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội góp phần bảo đảm
quan trọng để phòng ngừa, ngăn chặn những vi phạm từ phía các cơ quan tố tụng
dẫn đến oan, sai trong tố tụng hình sự.
29
Điều này đòi hỏi các chủ thể tiến hành tố tụng trong thực thi pháp luật phải
nhận thức rõ tầm quan trọng của mỗi công việc, nhiệm vụ, thủ tục mình thực hiện
có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống và quyền con người, thậm chí cả tính mạng
của người bị buộc tội để từ đó đảm bảo cho các trình tự tố tụng hình sự thực sự
khách quan, vô tư và không làm oan người vô tội.Việc thực hiện nguyên tắc này là
tiền đề bảo đảm cho những người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa của mình.
Tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc suy đoán vô tội ở các giai đoạn khác nhau của tố
tụng hình sự như điều tra, truy tố, xét xử là một trong những điều kiện cho việc
phát hiện nhanh chóng chính xác, xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt
tội phạm, không làm oan người vô tội. Chúng ta cũng nên nhất trí rằng, việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân hoặc minh oan cho người vô tội cũng quan
trọng và có ý nghĩa xã hội như việc xử lý nghiêm minh người có tội.
Con người và quyền con người là giá trị quan trọng và trở thành đối tượng
ưu tiên bảo hộ của pháp luật trong tố tụng hình sự. Bảo đảm quan trọng cho việc
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lá chắn quan trọng và vững chắc nhất đối
với quyền con người, quyền công dân nhằm phòng ngừa và ngăn chặn những vi
phạm từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng là việc thừa nhận và ghi nhận nguyên
tắc suy đoán vô tội. Suy đoán vô tội là nguyên tắc “kinh điển” nhất của tố tụng
hình sự được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế quan trọng như Tuyên ngôn
toàn thế giới về nhân quyền năm 1948, (Điều 11.1); Công ước của Liên hợp quốc
về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (khoản 2, Điều 14). Đặc biệt, bản
Tuyên ngôn nêu trên đã coi nguyên tắc này là “phẩm giá của văn minh nhân loại”.
Ở phạm vi bao quát hơn và chắc chắn hơn, Nhà nước pháp quyền thừa nhận một
nguyên tắc phổ quát của pháp luật khi nói về mối quan hệ giữa phạm vi đã được
thể chế hóa và phạm vi không thể chế hóa. Đó là nguyên tắc suy đoán về tính hợp
pháp của hành vi. Bảo đảm thực hiện Nguyên tắc này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
30
đối với thái độ của xã hội, của Nhà nước trong việc dùng pháp luật để điều chỉnh
các hành vi xã hội, trong quan hệ của Nhà nước đối với cá nhân. Điều này có nghĩa
là, hành vi của cá nhân phải luôn luôn được coi là hợp pháp khi chưa chứng minh
được điều ngược lại26
.
Ba là, bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội có ý nghĩa xác định rõ
trách nhiệm của các chủ thể tiến hành tố tụng trong việc chứng minh hành vi phạm
tội của người bị buộc tội tương ứng với từng giai đoạn tố tụng hình sự.
Các chủ thể tiến hành tố tụng cần nhận thức rõ việc người bị buộc tội có
quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội để từ đó bảo đảm các
điều kiện cần thiết để người bị buộc tội có thể thực hiện tốt nhất quyền bào chữa
của mình trong quá trình tố tụng. Chính vì vậy, nguyên tắc này góp phần đảm bảo
sự bình đẳng trong quan hệ giữa Nhà nước (các cơ quan tiến hành tố tụng) và cá
nhân người bị buộc tội mà cả ở góc độ thể chế và thực tiễn thì người bị buộc tội
thường có vị thế yếu hơn và dễ bị vi phạm hơn trước yêu cầu “không bỏ lọt tội
phạm nhưng cũng không là oan người vô tội”. Cần phải đưa ra nhận định rằng, coi
bị can chưa phải là người có tội thì mới đảm bảo được tính khách quan của điều tra
viên, kiểm sát viên trong việc thu thập chứng cứ và làm sáng tỏ các tình tiết của vụ
án. Nếu coi người bị bắt giữ với tư cách là người bị tình nghi, người bị khởi tố với
tư cách là bị can đã là người có tội thì dễ dẫn đến hậu quả là điều tra viên, kiểm sát
viên chỉ chú ý đến chứng cứ buộc tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm của người
bị bắt giữ và bị can chứ không quan tâm đến việc làm sáng tỏ các chứng cứ gỡ tội,
các tình tiết giảm nhẹ. Nếu hội đồng xét xử coi bị cáo là người có tội trước khi mở
phiên tòa xét xử thì sẽ không đảm bảo được sự khách quan trong việc đánh giá
Xem: Đào Trí Úc (201)7), Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Kiểm sát
số 02, Hà Nội
31
chứng cứ, đánh giá ý kiến tranh luận của các bên buộc tội và bên bào chữa đưa ra.
Việc coi một người là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của
tòa án có nghĩa là đồng nhất các khái niệm người bị tình nghi, bị can, bị cáo, người
bị kết án đều là người có tội và đồng nhất biện pháp ngăn chặn với biện pháp hình
phạt sẽ dẫn đến sự vô hiệu hóa của việc phân định thẩm quyền tố tụng giữa Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án.
Bốn là, bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội góp phần bảo đảm
quyền được suy đoán vô tội theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Bởi vì, thực tế
có nhiều vụ án cho dù đã tiến hành đầy đủ các biện pháp tố tụng trong thời hạn quy
định nhưng không chứng minh đầy đủ, rõ ràng hành vi phạm tội của người bị buộc
tội thì cần phải suy đoán người bị buộc tội là vô tội. Đặc biệt là điều này tránh
được việc kéo dài vụ án, gây phức tạp cho vụ án khi mà trong quá trình tranh tụng
tại phiên tòa, Hội đồng xét xử không chứng minh được hành vi phạm tội của bị cáo
một cách thuyết phục nhưng không tuyên bị cáo vô tội, không tuyên hủy án sơ
thẩm mà vẫn tuyên trả hồ sơ để điều tra bổ sung…
Có thể nhận định rằng, suy đoán vô tội là một nguyên tắc tiến bộ, hướng tới
mục tiêu bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị
truy cứu trách nhiệm hình sự là khi cơ quan tố tụng không chứng minh được hành
vi phạm tội thì phải suy đoán theo hướng ngược lại. Ngoài ra, nguyên tắc suy đoán
vô tội cũng đặt ra yêu cầu cao hơn cho những người tiến hành tố tụng trong việc
chứng minh tội phạm, họ không thể làm sai mà vẫn áp đặt ý chí chủ quan của mình
để kết tội nghi can. Nguyên tắc này cũng đảm bảo tính pháp chế, là nhân tố phát
triển tính đúng đắn trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
32
KẾT LUẬN
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận về bảo đảm thực hiện
nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự, chuyên đề rút ra một số
kết luận sau đây:
1. Nguyên tắc suy đoán vô tội là một nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng
hình sự Việt Nam, theo đó người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi
hành vi phạm tội của họ (nếu có) được chứng minh theo trình tự, thủ tục pháp luật
quy định và quyết định trong bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm
quyền.
2. Nguyên tắc suy đoán vô tội được thể hiện ở những nội dung cơ bản là:
người bị buộc tội được coi là không có tội khi tội phạm do họ bị tình nghi thực
hiện chưa được chứng minh theo đúng các trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình
sự quy định và chưa được xác định bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án có thẩm quyền; người bị buộc tội chỉ bị coi là có tội khi hành vi phạm tội
của họ được xác định bởi bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền
và mọi hoài nghi về lỗi của người bị buộc tội cần được giải thích theo hướng có lợi
cho người đó. Những nội dung cơ bản của nguyên tắc suy đoán vô tội là những đòi
hỏi, những điều kiện cần và đủ để xác định người bị buộc tội có phạm tội hay
không và nếu thiếu những điều kiện này thì một người bị buộc tội phải được coi là
vô tội.
3. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng
hình sự là việc quy định và thi hành những biện pháp, phương tiện do pháp luật tố
tụng hình sự quy định nhằm thực hiện quyền được suy đoán vô tội của người bị
buộc tội cũng như thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố
tụng.
33
4. Yêu cầu đối với việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong
pháp luật tố tụng hình sự bao gồm: xây dựng nhận thức thống nhất trong các cơ
quan, người tiến hành tố tụng về nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội;
bảo đảm các quyền người bị buộc tội ở các giai đoạn tố tụng hình sự; thực hiện
đúng trách nhiệm chứng minh tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng; yêu cầu
về chất lượng bản án, quyết định được ban hành bởi Tòa án có thẩm quyền; đảm
bảo thực hiện đồng thời các nguyên tắc liên quan đến nguyên tắc suy đoán vô tội.
5. Những điều kiện bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong
pháp luật tố tụng hình sự bao gồm: Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật; năng lực,
trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức, trách nhiệm của người tiến hành tố
tụng; cơ sở vật chất, điều kiện làm việc và chế độ đãi ngộ đối với người tiến hành
tố tụng.
34
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.PGS. TS. Nguyễn Hòa Bình (Chủ biên), Những nội dung mới trong Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2016.
2. Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Quyền
con người trong tố tụng hình sự, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Ủy ban nhân
quyền Australia, Hà Nội, tháng 3/2010.
4. Bộ Công an (2012), Báo cáo số 553/BC-BCA-V19 ngày 07/10/2012 về
tổng kết 8 năm thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội.
5. Bảo đảm quyền của người bị buộc tội trong các văn bản pháp lý quốc tế
về quyền con người, Học viện tư pháp và Viện FES Liên bang Đức, Hội thảo khoa
học “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự”, Hội An, tháng 12/2014.
7. Nguyễn Văn Chiến (2014), "Vai trò của đội ngũ luật sư trong việc hiện
thực hóa nguyên tắc tranh tụng và bảo vệ quyền con người", Kỷ yếu Hội thảo: Bảo
vệ quyền con người trong tố tụng hình sự, Hội An.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
12. TS. Lê Hữu Thể (Chủ nhiệm), Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện hệ
thống pháp luật về tố tụng hình sự bảo đảm quyền con người, quyền công dân phù
35
hợp với Hiến pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện nghiên cứu lập pháp, Hà Nội,
2017
13. TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh, Bảo đảm quyền của người bị buộc tội trong
các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người, Học viện tư pháp và viện FES
Liên bang Đức, Hội thảo khoa học “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình
sự”, Hội an, tháng 12/2014.
14. Xem cụ thể: PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc, Bảo đảm quyền con người
trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Quyền con người trong tố tụng hình sự,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Ủy ban nhân quyền Australia, tháng 3/2010, tr.
20-30.
15. GS. TSKH. Đào Trí Úc, Hệ thống những nguyên tắc cơ bản của tố tụng
hình sự Việt Nam theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015, trong sách “Những nội dung
mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, NXB Chính trị quốc gia, H. 2016,
trang 54 - 85.
16.Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013 và
việc triển khai thi hành trong ngành Kiểm sát Hải Phòng, Nguyễn Thị Liên – Viện
trưởng Viện Kiểm sát huyện Cát Hải
17. ThS. Đinh Thế Hưng – Viện Nhà nước và Pháp luật, Sự thể hiện của
nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định về xét xử của Luật Tố tụng hình sự Việt
Nam
18. TS. Phạm Mạnh Hùng – Hiệu trưởng trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ kiểm sát, Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật Hình sự Việt Nam
19.Nguyên tắc suy đoán vô tội và các quy định của nguyên tắc này trong
Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013, Trương Thị Thanh Nhàn – Viện Kiểm sát nhân
dân huyện An Dương, đăng trên trang web:
36
20. Mai Thanh Hiếu (2004), "Phạm vi chủ thể có quyền được suy đoán vô tội
trong tố tụng hình sự Việt Nam", Luật học, (01), tr.14-18.
21. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luật tố tụng
hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 13
23. Nguyễn Lê (2015), "Giám sát oan sai: Có những điều không ngờ?",
http://vneconomy.vn, ngày 10/4/2015
24. Liên hợp quốc (1948), Tuyên ngôn về nhân quyền.
25. Liên hợp quốc (1966), Bình luận chung số 13 Công ước quốc tế.
26. Liên hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị.
27. Liên hợp quốc (1985), Công ước chống tra tấn, đối xử vô nhân đạo và hạ
nhục con người.
28. Liên hợp quốc (1993), Tuyên ngôn Viên và chương trình hành động.
29. Nguyễn Hoàng Linh (2014), "Gian nan "suy đoán vô tội",
http://baoxaydung.com.vn, ngày 02/10/2014.
30. Nguyễn Thái Phúc (2006), "Nguyên tắc suy đoán vô tội", Nhà nước và
pháp luật, (11), tr.36-39
32. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
33. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
35. Trung tâm Nghiên cứu về quyền con người và quyền công dân - Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Giới thiệu Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị (IUCCR 1966), Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
37. Đào Trí Úc (2014), "Nguyên tắc suy đoán vô tội - nguyên tắc hiến định
quan trọng đối với việc đổi mới tố tụng hình sự Việt Nam", Nhà nước và pháp luật,
(11), tr.24-27.
38. Viện Khoa học kiểm sát (2002), "Bộ luật tố tụng hình sự năm 2001 của
Nga", Phụ trương Thông tin Khoa học pháp lý.
37
39. Viện Khoa học Kiểm sát (2003), "Bộ luật tố tụng hình sự của Cộng hòa
Pháp", Phụ trương thông tin Khoa học pháp lý.
40. Viện Khoa học Kiểm sát (2003), "Bộ luật tố tụng hình sự của Nhật Bản",
Phụ trương thông tin Khoa học pháp lý.
41. Viện Khoa học Kiểm sát (2007), "Bộ luật tố tụng hình sự của Liên bang
Đức", Phụ trương thông tin Khoa học pháp lý.
42. Viện Khoa học pháp lý (1999), "Tư pháp hình sự so sánh", Thông tin
khoa học pháp lý, (Số chuyên đề).
43. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách
khoa - Nxb Tư pháp, Hà Nội.
44. Nguyễn Quốc Việt (1995), Mấy vấn đề về nguyên tắc tố tụng hình sự khi
xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
Tài liệu trên internet:
Bùi Tiến Đạt (2015), "Vì sao "suy đoán có tội" phổ biến?",
http://vietnamnet.vn, ngày 20/06/2015
Phạm Duy Trường (2012), "Nguyên tắc suy đoán vô tội và việc quy định
nguyên tắc này trong Hiến pháp và Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam",
http://vienkiemsathaiphong.gov.vn.
Đinh Văn Quế (2012), "Có cần ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội?",
http://toaan.gov.vn. 14
Nguyễn Ngọc Chí (2015), "Nguyên tắc suy đoán vô tội, bảo đảm tranh tụng
trong xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi): Bước tiến vượt bậc về quyền
con người", http://baobaovephapluat.vn, ngày 02/6/2015.
Phạm Thị Hoài Bắc (2014), "Nguyên tắc suy đoán vô tội và những kiến nghị
sửa đổi bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003", http://noichinh.vn, ngày
06/4/2014.
38
Trịnh Tiến Việt (2013), "Bảo đảm nguyên tắc "suy đoán vô tội" và tính
thống nhất giữa Hiến pháp với Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự",
http://tuphaphinhsu.wordpress.com, ngày 25/4/2013.
Lê Kiên (2015), "Quyền im lặng và suy đoán vô tội", http://tuoitre.vn, ngày
18/6/2015
Minh Thảo (2014), "Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm 2013
và việc thể chế hóa nguyên tắc này trong Bộ luật tố tụng hình sự để phù hợp với
tinh thần của Hiến pháp mới", http://www.moj.gov.vn.

More Related Content

Similar to Tiểu Luận Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Và Bảo Đảm Thực Hiện Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội

Similar to Tiểu Luận Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Và Bảo Đảm Thực Hiện Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội (20)

Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt NamLuận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
 
Luận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận án: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận án: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sựBiện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật
Luận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luậtLuận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật
Luận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật
 
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đ
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đThi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đ
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đ
 
Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự
Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sựChế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự
Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAYLuận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
 
Pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
Pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa ánPháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
Pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
 
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt namLuận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
 
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
 
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAYLuận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt NamLuận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
 
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docxBiện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
 

More from Viết Thuê Đề Tài Luận Văn trangluanvan.com

More from Viết Thuê Đề Tài Luận Văn trangluanvan.com (20)

Một Số Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Tại Ngân Hàng Phương Đông
Một Số Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Tại Ngân Hàng Phương ĐôngMột Số Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Tại Ngân Hàng Phương Đông
Một Số Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Tại Ngân Hàng Phương Đông
 
Luận Văn Thạc Sĩ Xây Dựng Quan Hệ Lao Động Lành Mạnh Tại Công Ty
Luận Văn Thạc Sĩ Xây Dựng Quan Hệ Lao Động Lành Mạnh Tại Công TyLuận Văn Thạc Sĩ Xây Dựng Quan Hệ Lao Động Lành Mạnh Tại Công Ty
Luận Văn Thạc Sĩ Xây Dựng Quan Hệ Lao Động Lành Mạnh Tại Công Ty
 
Luận Văn Thạc Sĩ Tạo Động Lực Lao Động Tại Công Ty Bắc Ninh Trường Hải
Luận Văn Thạc Sĩ Tạo Động Lực Lao Động Tại Công Ty Bắc Ninh Trường HảiLuận Văn Thạc Sĩ Tạo Động Lực Lao Động Tại Công Ty Bắc Ninh Trường Hải
Luận Văn Thạc Sĩ Tạo Động Lực Lao Động Tại Công Ty Bắc Ninh Trường Hải
 
Luận Văn Tạo Động Lực Lao Động Tại Công Ty Viettel Bắc Ninh
Luận Văn Tạo Động Lực Lao Động Tại Công Ty Viettel Bắc NinhLuận Văn Tạo Động Lực Lao Động Tại Công Ty Viettel Bắc Ninh
Luận Văn Tạo Động Lực Lao Động Tại Công Ty Viettel Bắc Ninh
 
Luận Văn Nâng Cao Hiệu Quả Kinh Doanh Xí Nghiệp Xăng Dầu K133
Luận Văn Nâng Cao Hiệu Quả Kinh Doanh Xí Nghiệp Xăng Dầu K133Luận Văn Nâng Cao Hiệu Quả Kinh Doanh Xí Nghiệp Xăng Dầu K133
Luận Văn Nâng Cao Hiệu Quả Kinh Doanh Xí Nghiệp Xăng Dầu K133
 
Luận Văn Kế Toán Thu, Chi Tài Chính Công Đoàn Tại Công Đoàn Viên Chức Việt Nam
Luận Văn Kế Toán Thu, Chi Tài Chính Công Đoàn Tại Công Đoàn Viên Chức Việt NamLuận Văn Kế Toán Thu, Chi Tài Chính Công Đoàn Tại Công Đoàn Viên Chức Việt Nam
Luận Văn Kế Toán Thu, Chi Tài Chính Công Đoàn Tại Công Đoàn Viên Chức Việt Nam
 
Khóa Luận Tốt Nghiệp Tìm Hiểu Loại Hình Du Lịch Phượt Giới Trẻ Hiện Nay
Khóa Luận Tốt Nghiệp Tìm Hiểu Loại Hình Du Lịch Phượt Giới Trẻ Hiện NayKhóa Luận Tốt Nghiệp Tìm Hiểu Loại Hình Du Lịch Phượt Giới Trẻ Hiện Nay
Khóa Luận Tốt Nghiệp Tìm Hiểu Loại Hình Du Lịch Phượt Giới Trẻ Hiện Nay
 
Khóa Luận Tốt Nghiệp Thiết Kế Hệ Thống Xử Lý Nước Thải Sinh Hoạt Công Suất 10...
Khóa Luận Tốt Nghiệp Thiết Kế Hệ Thống Xử Lý Nước Thải Sinh Hoạt Công Suất 10...Khóa Luận Tốt Nghiệp Thiết Kế Hệ Thống Xử Lý Nước Thải Sinh Hoạt Công Suất 10...
Khóa Luận Tốt Nghiệp Thiết Kế Hệ Thống Xử Lý Nước Thải Sinh Hoạt Công Suất 10...
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Nghiên Cứu Xử Lý Dịch Hèm Sản Xuất Rượu
Khoá Luận Tốt Nghiệp Nghiên Cứu Xử Lý Dịch Hèm Sản Xuất RượuKhoá Luận Tốt Nghiệp Nghiên Cứu Xử Lý Dịch Hèm Sản Xuất Rượu
Khoá Luận Tốt Nghiệp Nghiên Cứu Xử Lý Dịch Hèm Sản Xuất Rượu
 
Khóa Luận Tốt Nghiệp Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Công Ty Quảng Thành
Khóa Luận Tốt Nghiệp Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Công Ty Quảng ThànhKhóa Luận Tốt Nghiệp Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Công Ty Quảng Thành
Khóa Luận Tốt Nghiệp Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Công Ty Quảng Thành
 
Khóa Luận Tốt Nghiệp Lập Và Phân Tích Bảng Cân Đối Kế Toán Tại Công Ty Ô Tô
Khóa Luận Tốt Nghiệp Lập Và Phân Tích Bảng Cân Đối Kế Toán Tại Công Ty Ô TôKhóa Luận Tốt Nghiệp Lập Và Phân Tích Bảng Cân Đối Kế Toán Tại Công Ty Ô Tô
Khóa Luận Tốt Nghiệp Lập Và Phân Tích Bảng Cân Đối Kế Toán Tại Công Ty Ô Tô
 
Khóa Luận Tốt Nghiệp Kế Toán Vốn Bằng Tiền Tại Công Ty Cổ Phần Xây Dựng Điện ...
Khóa Luận Tốt Nghiệp Kế Toán Vốn Bằng Tiền Tại Công Ty Cổ Phần Xây Dựng Điện ...Khóa Luận Tốt Nghiệp Kế Toán Vốn Bằng Tiền Tại Công Ty Cổ Phần Xây Dựng Điện ...
Khóa Luận Tốt Nghiệp Kế Toán Vốn Bằng Tiền Tại Công Ty Cổ Phần Xây Dựng Điện ...
 
Khóa Luận Tốt Nghiệp Kế Toán Thanh Toán Với Người Mua Và Người Bán Tại Công T...
Khóa Luận Tốt Nghiệp Kế Toán Thanh Toán Với Người Mua Và Người Bán Tại Công T...Khóa Luận Tốt Nghiệp Kế Toán Thanh Toán Với Người Mua Và Người Bán Tại Công T...
Khóa Luận Tốt Nghiệp Kế Toán Thanh Toán Với Người Mua Và Người Bán Tại Công T...
 
Khóa Luận Tốt Nghiệp Kế Toán Nguyên Vật Liệu Tại Công Ty Nhựa Phú Lâm
Khóa Luận Tốt Nghiệp Kế Toán Nguyên Vật Liệu Tại Công Ty Nhựa Phú LâmKhóa Luận Tốt Nghiệp Kế Toán Nguyên Vật Liệu Tại Công Ty Nhựa Phú Lâm
Khóa Luận Tốt Nghiệp Kế Toán Nguyên Vật Liệu Tại Công Ty Nhựa Phú Lâm
 
Khóa Luận Tốt Nghiệp Kế Toán Hàng Hóa Tại Công Ty Cổ Phần Vật Tư Nông Nghiệp
Khóa Luận Tốt Nghiệp Kế Toán Hàng Hóa Tại Công Ty Cổ Phần Vật Tư Nông NghiệpKhóa Luận Tốt Nghiệp Kế Toán Hàng Hóa Tại Công Ty Cổ Phần Vật Tư Nông Nghiệp
Khóa Luận Tốt Nghiệp Kế Toán Hàng Hóa Tại Công Ty Cổ Phần Vật Tư Nông Nghiệp
 
Khóa Luận Tốt Nghiệp Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Hàng Hóa Tại Công Ty Thép Đạ...
Khóa Luận Tốt Nghiệp Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Hàng Hóa Tại Công Ty Thép Đạ...Khóa Luận Tốt Nghiệp Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Hàng Hóa Tại Công Ty Thép Đạ...
Khóa Luận Tốt Nghiệp Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Hàng Hóa Tại Công Ty Thép Đạ...
 
Khóa Luận Tốt Nghiệp Hiện Trạng Môi Trường Tại Công Ty Xi Măng Phúc Sơn
Khóa Luận Tốt Nghiệp Hiện Trạng Môi Trường Tại Công Ty Xi Măng Phúc SơnKhóa Luận Tốt Nghiệp Hiện Trạng Môi Trường Tại Công Ty Xi Măng Phúc Sơn
Khóa Luận Tốt Nghiệp Hiện Trạng Môi Trường Tại Công Ty Xi Măng Phúc Sơn
 
Khóa Luận Tốt Nghiệp Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Kinh Doanh Tại Công Ty Quảng...
Khóa Luận Tốt Nghiệp Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Kinh Doanh Tại Công Ty Quảng...Khóa Luận Tốt Nghiệp Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Kinh Doanh Tại Công Ty Quảng...
Khóa Luận Tốt Nghiệp Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Kinh Doanh Tại Công Ty Quảng...
 
Khóa Luận Tốt Nghiệp Giải Pháp Công Tác Quản Trị Nhân Lực Tại Khách Sạn Sao Biển
Khóa Luận Tốt Nghiệp Giải Pháp Công Tác Quản Trị Nhân Lực Tại Khách Sạn Sao BiểnKhóa Luận Tốt Nghiệp Giải Pháp Công Tác Quản Trị Nhân Lực Tại Khách Sạn Sao Biển
Khóa Luận Tốt Nghiệp Giải Pháp Công Tác Quản Trị Nhân Lực Tại Khách Sạn Sao Biển
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đại Học Ngành Kĩ Thuật Môi Trường
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đại Học Ngành Kĩ Thuật Môi TrườngKhoá Luận Tốt Nghiệp Đại Học Ngành Kĩ Thuật Môi Trường
Khoá Luận Tốt Nghiệp Đại Học Ngành Kĩ Thuật Môi Trường
 

Recently uploaded

Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
K61PHMTHQUNHCHI
 

Recently uploaded (20)

Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
 
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌCLuận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
 
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxNGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
 
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
 
Quản lý dạy học phân hóa môn Toán tại các trường trung học cơ sở huyện Tam D...
Quản lý dạy học phân hóa môn Toán tại các trường trung học cơ sở huyện Tam D...Quản lý dạy học phân hóa môn Toán tại các trường trung học cơ sở huyện Tam D...
Quản lý dạy học phân hóa môn Toán tại các trường trung học cơ sở huyện Tam D...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
 
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
 
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực c...
 
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆTCHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
CHỦ ĐỀ VÀ TÍNH LIÊN KẾT TRONG DIỄN NGÔN CHÍNH LUẬN TIẾNG VIỆT
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
 
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápHệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
 
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápTóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Tóm tắt luận văn Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
 

Tiểu Luận Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Và Bảo Đảm Thực Hiện Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội

  • 1. 1 TIỂU LUẬN NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI Tham khảo thêm tài liệu tại Trangluanvan.com Dịch Vụ Hỗ Trợ Viết Thuê Tiểu Luận,Báo Cáo Khoá Luận, Luận Văn ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ 0934.536.149
  • 2. 2 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 1. Lý do thực hiện đề tài 1 2. Mục tiêu nghiên cứu 3 3. Đối tượng nghiên cứu 3 4. Phương pháp nghien cứu 3 NỘI DUNG 4 1. Khái niệm nguyên tắc suy đoán vô tội và bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội 4 1.1. Khái niệm nguyên tắc suy đoán vô tội 4 1.2. Khái niệm bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội 12 2. Phạm vi áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội 14 3. Nội dung bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội 17 3.1. Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội 17 3.2. Các bảo đảm thực hiện nguyên tức suy đóan vô tội 21 3.2.1. Bảo đảm pháp lý 21 3.2.2. Bảo đảm tổ chức nghiệp vụ 22 3.2.3. Bảo đảm về nhận thức 24 3.2.4. Các bảo đảm khác 25 4. Ý nghĩa của việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội 28 KẾT LUẬN 33 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 35
  • 3. 3 NỘI DUNG 1. Khái niệm nguyên tắc suy đoán vô tội và bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội 1.1. Khái niệm nguyên tắc suy đoán vô tội Khái niệm nguyên tắc của tố tụng hình sự Các nguyên tắc của tố tụng hình sự là những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn quan trọng của tố tụng hình sự trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự. Những nguyên tắc này thể hiện chính sách hình sự, quan điểm giải quyết vụ án hình sự của Đảng và Nhà nước ta là, đảm bảo mọi tội phạm đều được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Vì vậy, trong quá trình xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án hình sự những nguyên tắc cơ bản của LTTHS cần được quán triệt và thực hiện nghiêm chỉnh. Nguyên tắc là “Điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”1 , là tư tưởng chỉ đạo, qui tắc cơ bản của một hoạt động nào đó. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự để thực hiện được mục đích phát hiện nhanh chóng, kịp thời, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cần phải có những định hướng trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự. Những định hướng này thể hiện quan điểm, đường lối và chính sách hình sự của Nhà nước ta trong việc trong việc đấu tranh, xử lý tội phạm trong từng giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án và được gọi là nguyên tắc của LTTHS. Nguyên tắc cơ bản của LTTHS” là những phương châm, 1 Viện ngôn ngữ học (1996), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng.
  • 4. 4 định hướng quan trọng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS. Hiện nay ở Việt Nam đang có nhiều quan niệm về nguyên tắc cơ bản của LTTHS với các cách tiếp cận khác nhau. Mỗi cách tiếp cận đều có hạt nhân hợp lý. Cụ thể là: Nguyên tắc tố tụng hình sự Việt Nam là những quan điểm, tư tưởng, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về quá trình giải quyết vụ án hình sự đã được thể chế hoá trong BLTTHS mà các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân phải tuân theo, nguyên tắc này là nguyên tắc của BLTTHS2 . Chúng tôi đồng ý với quan điểm, nguyên tắc của tố tụng hình sự là những quan điểm, tư tưởng, đường lối của Đảng và nhà nước về quá trình giải quyết vụ án hình sự. Nguyên tắc này phải được quy định trong BLTTHS và buộc các chủ thể tham gia quan hệ PLTTHS phải tuân theo. Mặc dù nguyên tắc này phải được pháp luật tố tụng hình sự quy định nhưng chúng tôi không đồng ý với ý kiến cho rằng đây là nguyên tắc của Bộ luật tố tụng hình sự. Các nguyên tắc cơ bản của LTTHS là những tư tưởng xuất phát điểm, có tính chủ đạo, định hướng cho toàn bộ hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS, chi phối tất cả hoặc chí ít cũng là một số giai đoạn TTHS quan trọng, thể hiện bản chất của LTTHS và được thể hiện trong các quy phạm pháp luật TTHS.3 Nguyên tắc của LTTHS là tư tưởng chủ đạo và định hướng cơ bản được thể hiện trong pháp LTTHS, cũng như trong việc giải thích và trong thực tiễn áp dụng pháp LTTHS thông qua một hay nhiều qui phạm (chế định) của nó - của nguyên tắc tương ứng mà ta nghiên cứu”4 . Theo tác giả thì nguyên tắc cơ bản của LTTHS có 2 Phạm Hồng Hải (2003), Mô hình lý luận Bộ Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội. 3 Nguyễn Quốc Việt (1995), Mấy vấn đề về nguyên tắc tố tụng hình sự khi xây dựng Bộ Luật Tố tụng hình sự sửa đổi. Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam, Kỷ yếu Khoa học đề tài cấp Bộ. 4 Lê Văn Cảm (2004), Những vấn đề lý luận cơ bản về chế định các nguyên tắc của Luật Tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát, số 5 trang 12, số 6 trang 12, số trang 144.
  • 5. 5 ba đặc điềm: Là tư tưởng chủ đạo và là định hướng cơ bản của hoạt động TTHS; được phản ánh trên ba lĩnh vực thể hiện (sinh hoạt) của nó là: trong pháp luật TTHS (tức là trong luật thực định), trong việc giải thích và, trong thực tiễn áp dụng các qui phạm pháp luật TTHS trừu tượng; Được nhà làm luật ghi nhận thông qua một hay nhiều qui phạm pháp luật5 . Nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự là những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của hoạt động TTHS trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS.6 Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là những định hướng chi phối tất cả hoặc một số hoạt động tố tụng hình sự, được các văn bản pháp luật ghi nhận7 . Cũng có quan điểm cho rằng, trước hết các nguyên tắc cơ bản của LTTHS phải chứa đựng những nội dung thể hiện phương châm, định hướng quan trọng về hoạt động TTHS của Đảng và Nhà nước ta là nhân đạo, dân chủ, kỷ cương và theo định hướng XHCN. Phương châm này phải được thể hiện trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng hình sự của các chủ thể. Xa rời các nguyên tắc cơ bản của LTTHS sẽ rơi vào tình trạng chỉ chú ý việc giải quyết vụ án nhanh chóng mà xem nhẹ đến việc đảm bảo các quyền lợi hợp pháp của công dân dẫn đến mất dân chủ. Hoặc thiếu kiên quyết, dẫn đến tình trạng đấu tranh chống tội phạm trì trệ kém hiệu quả. Cả hai khuynh hướng trên đều không phù hợp với phương châm giải quyết vụ án hình sự vừa đảm bảo tính chính xác, khách quan, có hiệu quả đồng thời phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Là những nguyên tắc cơ bản nên nó chi phối toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc chi phối một số giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy, những nguyên tắc chỉ có ở một giai đoạn của hoạt động TTHS thì 5 Nguyễn Ngọc Chí (2008), Các nguyên tắc cơ bản trong LTTHS – Những đề xuất, sửa đổi, bổ sung, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24, trang 239-253 6 Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 7 Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, trang 44.
  • 6. 6 không thể coi là nguyên tắc cơ bản. Chẳng hạn, nguyên tắc khi xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia chỉ là nguyên tắc đặc trưng của giai đoạn xét xử sơ thẩm nên không thể là nguyên tắc cơ bản của LTTHS8 . Chúng tôi cho rằng, nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự cũng có thể chỉ chi phối một hay nhiều hoạt động trong các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự. Như vậy, mặc dù cách thể hiện khác nhau nhưng các quan điểm trên đều thống nhất ở chỗ: Nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là phương châm, định hướng của TTHS; Được quy định trong BLTTHS; được thể hiện trong việc xây dựng và thực hiện cũng như áp dụng pháp luật. Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự nhưa sau: Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là những định hướng chi phối tất cả hoặc một số hoạt động trong quá trình xây dựng, thực thi pháp luật tố tụng hình sự, bảo đảm dân chủ, công bằng, tôn trọng quyền con người và giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Khái niệm suy đoán vô tội Thuật ngữ “suy đoán” bắt nguồn từ tiếng Latinh “praesumptino”, được hiểu là sự suy đoán một vấn đề nào đó là chân lý cho đến khi chưa bị bác bỏ. Theo thuật ngữ tiếng Anh, "presume" được hiểu là suy đoán (dự đoán) và giả định. Vô tội có nghĩa là không có tội. Bởi vậy, suy đoán vô tội còn được hiểu là giả định vô tội. Suy đoán vô tội manh nha từ thời cổ đại trong Bộ luật cổ Manu của Ấn Độ, xuất hiện lần đầu tiên ở thời La Mã cổ đại thế kỷ thứ VI khi Hoàng đế La Mã ban hành Bản tóm lược luật La Mã với nội dung: “Chứng minh là công việc thuộc về anh ta – người khẳng định chứ không phải là người phủ định”9 . Suy đoán vô tội chỉ chính thức được xem như một nguyên tắc mang tính công cụ của pháp luật bởi 8 Nguyễn Ngọc Chí (2008), Các nguyên tắc cơ bản trong LTTHS – Những đề xuất, sửa đổi, bổ sung, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24, trang 239-253 9 http://vuanhlaw.com.vn/tin-tuc/nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-trong-bo-luat-to-tung-hinh-su-2015.html
  • 7. 7 luật gia người Pháp Jean Lemoine nhằm ủng hộ cho một cách suy luận mang tính pháp lý rằng hầu hết mọi người không phải là tội phạm. Nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại Điều 9 Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cộng hòa Pháp ngày 26/8/1789 như sau: “Mọi người đều được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội; nếu xét thấy cần thiết phải bắt giữ thì mọi sự cưỡng bức vượt mức cần thiết cho việc bắt giữ đều bị luật pháp xử phạt nghiêm khắc”10 . Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cộng hòa Pháp được coi là mốc son trong lịch sử hình thành và phát triển nguyên tắc suy đoán vô tội. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc, nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định cụ thể ở Điều 11. Theo đó, “Một người bị buộc tội có hành vi phạm tội được coi là vô tội cho đến khi sự phạm tội của người đó được xác định một cách hợp pháp trong một vụ xét xử công khai, trong đó có những sự bảo đảm cần thiết cho việc bào chữa của người đó” và theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, cụ thể tại Khoản 2 Điều 14 nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định là: “Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật”. Vì vậy, suy đoán vô tội không chỉ được thừa nhận là một nguyên tắc trong pháp luật quốc tế mà còn trong pháp luật tố tụng hình sự ở nhiều quốc gia11 . Pháp luật tố tụng hình sự của hầu hết các nước trên thế giới đã thừa nhận coi nguyên tắc suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc trong tố tụng hình sự của quốc gia mình. Tuy nhiên, quy định về nguyên tắc này được ghi nhận ở mức độ khác nhau tùy theo từng nước. Ở Liên bang Nga, nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại Điều 14 của Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga năm 2001. Theo đó, nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định rằng: Bị can được coi là không 10 Lê Tiến, Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật Tố tụng hình sự, Tạp chí Việt Nam hội nhập http://vietnamhoinhap.vn/n5869_Nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-trong-Luat-to-tung-hinh-su 11 http://vuanhlaw.com.vn/tin-tuc/nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-trong-bo-luat-to-tung-hinh-su-2015.html
  • 8. 8 có tội, chừng nào lỗi của họ không được chứng minh theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và không bị Tòa án tuyên phạt bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật; người bị tình nghi hoặc bị can không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Vấn đề chứng minh tội phạm và bác bỏ những chứng cứ nhằm bảo vệ cho người bị tình nghi hoặc bị can thuộc trách nhiệm của bên buộc tội; mọi nghi ngờ về tội phạm của bị can nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì phải được giải thích có lợi cho bị can; bản án kết tội không thể được dựa trên giả định12 . Như vậy, dựa vào những quy định trong pháp luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga có thể thấy rằng, nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định một cách cụ thể và chi tiết đặc biệt là về trình tự, thủ tục chứng minh, nghĩa vụ chứng minh của bên buộc tội. Nguyên tắc suy đoán vô tội ở Nga thể hiện được sự bảo đảm quyền con người một cách tối ưu nhất, áp dụng mọi biện pháp có lợi cho người bị buộc tội trong mọi giai đoạn tố tụng13 .Tại Canada, Điều 11.d của Hiến chương về quyền và tự do - đây là một bộ phận của Hiến pháp Canada quy định: “Bất kỳ người nào bị buộc phạm một tội đều có quyền suy đoán vô tội cho đến khi được một Tòa án độc lập và công bằng xét xử một cách công khai theo quy định của pháp luật”. Theo quy định của Hiến chương, có thể thấy rằng, cũng giống với pháp luật tố tụng của Liên Bang Nga, pháp luật Canada cũng ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội và ứng dụng vào trong quá trình xét xử của pháp luật quốc gia mình. Tuy nhiên, Canada là một nước có hệ thống thông luật, do vậy các quy định cụ thể về suy đoán vô tội thường được thể hiện ở nhiều án lệ khác nhau14 . Mục đích là nhằm bảo vệ một người bị buộc tội có quyền suy đoán mình vô tội cho đến khi có quyết định có hiệu lực của Tòa án. Ở Trung Quốc, Điều 12 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1996 quy định: “Không ai bị coi là có tội, nếu không bị 12 Xem Điều 14 BLTTHS năm 2001 Liên Bang Nga. 13 Luật Tố tụng hình sự của Liên bang Nga - Thông tin khoa học kiểm sát- Viện khoa học kiểm sát - Số 3+4/2007 14 ThS. Lê Tiến - Học viện An ninh nhân dân; CN. Trương Xuân Hòa - Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang, Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự
  • 9. 9 xét xử bởi một Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật”15 … Trong pháp luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, mặc dù tên gọi của nguyên tắc suy đoán vô tội chưa được ghi nhận trong luật, nhưng nội dung quan trọng nhất của nguyên tắc này đã được thừa nhận, chỉ khi một người bị đem ra xét xử ở Tòa án và có bản án có hiệu lực pháp luật, thì người đó mới được coi là có tội. Nhằm tránh khuynh hướng nhìn nhận những người bị buộc tội như là người đã được coi là phạm tội, dù tội trạng của họ chưa được chứng minh. Và giai đoạn xét xử là giai đoạn cực kỳ quan trọng trong quá trình tố tụng, ở giai đoạn này nguyên tắc suy đoán vô tội được áp dụng một cách triệt để nhất cho đến khi bản án, quyết định của Tòa án đưa ra có hiệu lực pháp luật. Như vậy, pháp luật tố tụng hình sự của các quốc gia trên thế giới, ở mức độ khác nhau đều ghi nhận những nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội, phát huy một cách tối đa nhất mọi biện pháp để bảo đảm quyền con người trong quá trình tố tụng hình sự của mỗi quốc gia. Theo Từ điển Luật học, “suy đoán vô tội” là một nguyên tắc cơ bản và quan trọng của tố tụng hình sự, theo đó bị can, bị cáo được coi là vô tội, không phải chịu trách nhiệm hình sự khi lỗi của người đó chưa được chứng minh theo trình tự luật định và chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”16 . Cũng có quan điểm cho rằng “Suy đoán vô tội hay giả định vô tội” là một trong những nguyên tắc cơ bản, được ứng dụng rộng rãi trong nền khoa học pháp lý hiện đại. Nội dung cốt lõi của nguyên tắc cho rằng mọi nghi can đều vô tội cho đến khi được chứng minh là có tội17 . Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng “Suy đoán vô tội” được hiểu là trong mọi trường hợp nếu một người thực hiện một hành vi mà hành vi mà còn có ý kiến khác nhau về việc định tội thì phải áp dụng nguyên tắc có lợi cho họ...”. 15Luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa - Thông tin khoa học kiểm sát- Viện khoa học kiểm sát - Số 3+4/2007 16 Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.678 17 Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
  • 10. 10 Tuy có thể có nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau về suy đoán vô tội, nhưng theo nghĩa chung nhất có thể hiểu suy đoán vô tội về bản chất là sự “giả định” một người bị coi là có tội và để khẳng định người đó có phạm tội hay không thì phải được chứng minh bằng các chứng cứ theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định thông qua việc kiểm tra, xác minh công khai tại phiên tòa với sự tham gia đầy đủ của các chủ thể của bên buộc tội, bên gỡ tội (bào chữa) và các chủ thể khác có liên quan (người làm chứng, người phiên dịch, giám định viên) dưới sự giám sát của Hội đồng xét xử. Điều này cũng có nghĩa là tại phiên tòa, bên buộc tội (Kiểm sát viên, bị hại) có trách nhiệm chứng minh hành vi phạm tội bằng các chứng cứ buộc tội mà họ thu thập được và bên bào chữa (Luật sư, bị cáo) cũng đưa ra các chứng cứ gỡ tội để Hội đồng xét xử xem xét và ra phán quyết kết tội bị cáo hay tuyên bố họ vô tội, kể cả khi đã có bản án kết tội, thì người bị kết án cũng chỉ bị coi là có tội khi phán quyết này có hiệu lực pháp luật. Do đó, chỉ khi có bản án có hiệu lực pháp luật kết tội một người thì người bị buộc tội mới chính thức là có tội. Điều này có thể coi là một biện pháp ngăn ngừa sự quy kết, định kiến của các chủ thể tiến hành tố tụng đối với người bị buộc tội, thậm chí cả sự chủ quan, tùy tiện có thể dẫn đến làm oan người vô tội... Bởi vậy, với cách tiếp cận này có thể thấy rằng suy đoán vô tội không chỉ là một nguyên tắc cơ bản trong pháp luật tố tụng hình sự mà còn được xem là một quyền cơ bản của người bị buộc tội – “quyền được suy đoán vô tội”, theo đó người bị buộc tội có quyền được suy đoán vô tội cho đến khi hành vi phạm tội của họ (nếu có) được chứng minh tại một phiên tòa công khai và đảm bảo cho người bị buộc tội thực hiện các quyền bào chữa của mình cũng như đảm bảo được sự tranh tụng minh bạch giữa các chủ thể có liên quan. Từ những phân tích khái quát nêu trên, có thể khái niệm: “Nguyên tắc suy đoán vô tội là định hướng giải quyết vụ án hình sự, theo đó người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Khái niệm này cho
  • 11. 11 thấy rằng, trách nhiệm chứng minh hành vi phạm tội thuộc về các chủ thể tiến hành tố tụng và bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa và các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ bảo đảm cho họ thực hiện quyền tự bào chữa của họ và đảm bảo sự tranh tụng bình đẳng tại phiên tòa. Từ đó, để bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội thì cần phải có những quy định pháp luật bảo đảm các quyền có liên quan của người bị buộc tội. 1.2. Khái niệm bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội Như đã nêu ở trên, suy đoán vô tội được coi là một quyền cơ bản của người bị buộc tội, bởi vậy, việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội cũng có nghĩa là đảm bảo quyền của người bị buộc tội. Bởi vậy, việc đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội được ghi nhận trong hiến pháp, pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc phòng ngừa, ngăn chặn mọi hành vi lạm dụng quyền hạn, vi phạm quyền được suy đoán vô tội. Đặc biệt là, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, vấn đề đảm bảo pháp lý đối với quyền được suy đoán vô tội được thể hiện bằng những quy định pháp luật cụ thể có ý nghĩa quan trọng. Về bản chất, bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội được hiểu là những phương tiện, biện pháp được pháp luật quy định theo đó quyền được suy đoán vô tội được bảo vệ, ngăn chặn và loại trừ vi phạm. Tuy nhiên, dưới góc độ tố tụng hình sự, việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội có thể được hiểu là những biện pháp, phương tiện do pháp luật tố tụng hình sự quy định nhằm bảo đảm thực hiện đúng đắn nhiệm vụ của tư pháp hình sự và quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội. Điều này có nghĩa là, nếu chỉ hướng tới việc bảo đảm nhiệm vụ của tư pháp hình sự mà không chú trọng đến việc bảo đảm quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội thì sẽ làm mất đi vai trò, ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội, thậm chí không đảm bảo được các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội trong quá trình tố tụng hình sự (ví dụ như vi phạm trong áp dụng
  • 12. 12 các biện pháp ngăn chặn đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo…). Vì vậy, để bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc suy đoán vô tội thì đòi hỏi cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải đảm bảo quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội thông qua việc thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ tố tụng của mình theo trình tự, thủ tục pháp luật hình sự quy định. Điều này cũng có nghĩa là việc thực hiện nghĩa vụ của người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc đảm bảo các quyền của người bị buộc tội khi tham gia tố tụng, trong đó có quyền được suy đoán vô tội. “Bảo đảm” được hiểu là “tạo điều kiện để chắc chắn giữ gìn được, hoặc thực hiện được, hoặc có được những gì cần thiết”18 . Như vậy, “Bảo đảm thực hiện nguyen tắc suy đoán vô tội” được hiểu là tạo điều kiện cần và đủ để thực hiện được nguyên tắc trong việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Tuy nhiên, sẽ là chưa toàn diện nếu cho rằng, việc bảo đảm quyền được suy đoán vô tội chỉ giới hạn bởi nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, mà vấn đề không kém phần quan trọng là bảo đảm thực hiện quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội thông qua các biện pháp, cơ chế khác như quyền khiếu nại, tố cáo hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng được pháp luật quy định cho những người tham gia tố tụng nói chung, người bị buộc tội nói riêng trong quá trình tố tụng. Trong các giai đoạn tố tụng, pháp luật quy định đều quy định cụ thể nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và có những chế tài tương ứng khi các quyền của người bị buộc tội bị vi phạm. Từ sự phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm như sau: Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự là việc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi 18 Từ điển tiếng việt
  • 13. 13 nhiệm vụ, quyền hạn của mình tạo điều kiện cần và đủ để loại trừ việc buộc tội thiếu căn cứ và người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án đối với họ đã có hiệu lực pháp luật. Với khái niệm nêu trên, có thể thấy rằng việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội không chỉ thể hiện ở những quy định về các quyền của người bị buộc tội (quyền bào chữa, quyền giữ im lặng, quyền bất khả xâm phạm về thân thể) mà còn thể hiện ở các nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc thực hiện đúng các trình tự, thủ tục tố tụng hình sự để đảm bảo các quyền của người bị buộc tội (ví dụ như: đảm bảo quyền được mời luật sư từ khi khởi tố bị can, quyền yêu cầu giám định…). 2. Phạm vi áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội Như đã nêu ở trên, để xác định một người là có tội thì hành vi phạm tội của họ phải được chứng minh theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định và có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền kết tội họ. Hai điều kiện này cho thấy rằng quyền được suy đoán vô tội gắn liền với việc buộc tội, bởi vậy đây cũng là cơ sở xác định phạm vi áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội. Cụ thể là: - Chủ thể áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội Về nguyên tắc, hành vi của người bị buộc tội chưa được chứng minh và được quyết định bởi bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền thì người bị buộc tội vẫn có quyền được suy đoán vô tội. Từ đó, chủ thể áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội là các cơ quan, người tiến hành tố tụng, một số cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động tố tụng và cả những chủ thể khác như cơ quan, tổ chức, báo chí, truyền thông...đều phải tôn trọng quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội. Hay nói cách khác là, mọi hình thức thể hiện sự quy kết có tội đối với người bị buộc tội của bất kỳ cơ quan, tổ chức nào trước khi có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền đều vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội.
  • 14. 14 - Đối tượng có quyền được suy đoán vô tội Phạm vi này thể hiện ở việc xác định ai là người có quyền được suy đoán vô tội. Về vấn đề này có quan điểm cho rằng căn cứ Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” thì đối tượng có quyền được suy đoán vô tội có thể là bất kỳ người nào khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực. Điều này cũng phù hợp với ghi nhận quyền được suy đoán vô tội được đảm bảo cho tất cả mọi người trong Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền Pháp năm 1789. Có quan điểm khác cho rằng, để bảo đảm quyền con người thì cần nhận diện sự buộc tội phát sinh từ khi bắt, tạm giữ người bị tình nghi (chưa có quyết định khởi tố bị can) và tồn tại cho đến khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt hoặc được miễn hình phạt (toàn bộ) hay được đại xá, ân xá. Vì vậy, phạm vi đối tượng có quyền được suy đoán vô tội bao gồm không chỉ người bị tình nghi, bị can, bị cáo mà cả những người bị kết án nhưng chưa chấp hành xong hình phạt. Cũng có quan điểm cho rằng quá trình tố tụng hình sự được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố bị can, nên đối tượng có quyền được suy đoán vô tội chỉ bao gồm bị can, bị cáo và họ có quyền này từ thời điểm có quyết định khởi tố bị can cho đến khi bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, dưới góc độ nhìn nhận việc buộc tội có thể có cả ở giai đoạn trước tố tụng (tiền tố tụng) đến khi có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án, vì vậy, quan niệm hợp lý là đối tượng có quyền được suy đoán vô tội là “người bị buộc tội” bao gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. (kể cả trong trường hợp xem xét lại bản án có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm). - Phạm vi áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội về thời gian Phạm vi này đòi hỏi xác định nguyên tắc suy đoán vô tội được áp dụng trong giai đoạn nào của tố tụng hình sự. Về vấn đề này cũng có nhiều quan điểm khác
  • 15. 15 nhau, tuy nhiên, căn cứ vào đối tượng có quyền được suy đoán vô tội thì phạm vi áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội được áp dụng đối với tất cả các giai đoạn TTHS và trong một số trường hợp được áp dụng cả đối với giai đoạn tiền tố tụng (giữ người trong trường hợp khẩn cấp) và khi bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị để xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Bởi vì một số lý do sau đây: - Quá trình tố tụng hình sự được chia thành các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, nên khi một người bị khởi tố với tư cách là bị can cũng có nghĩa là họ chính thức bị buộc tội. Vì vậy, từ thời điểm này và trong các giai đoạn tiếp theo (điều tra, truy tố, xét xử) cho đến khi bản án kết tội có hiệu lực pháp luật với tư cách là bị can, bị cáo thì họ luôn có quyền được suy đoán vô tội. - Trường hợp người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, mặc dù chưa văn bản tố tụng chính thức buộc tội nhưng việc áp dụng biện pháp hạn chế quyền tự do và một số quyền khác thì ở chừng mực nhất định cũng thể hiện có sự buộc tội. Do đó, người bị tình nghi (người chưa bị khởi tố về hình sự) cũng là người bị buộc tội, có quyền được suy đoán vô tội và các cơ thẩm quyền quan có tiến hành tố tụng phải tôn trọng, bảo đảm quyền này trong quá trình tố tụng hình sự. - Khi bản án kết tội có hiệu lực pháp luật thì người bị kết án chính thức bị coi là có tội. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì mặc dù bản án có hiệu lực pháp luật nhưng cũng có thể bị kháng nghị để xem xét theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, do đó, cần thừa nhận rằng người bị kết án cũng có quyền được suy đoán vô tội cho đến khi người có thẩm quyền xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm ra các quyết định theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về việc không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án...; hủy bản án... và đình chỉ vụ án; hủy bản án... để điều tra lại hoặc xét xử lại, thậm chí cả khi có quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét kiến nghị, đề
  • 16. 16 nghị theo quy định tại Điều 404 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Bởi vậy, trong các trường hợp này, nguyên tắc suy đoán vô tội cũng được áp dụng đối với người bị kết án từ thời điểm có kháng nghị, kiến nghị và kết thúc khi Hội đồng giám đốc thẩm (tái thẩm), Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giữ nguyên bản án đã có hiệu lực pháp luật hoặc hoặc hủy bản án kết tội và đình chỉ vụ án; hoặc không chấp nhận/chấp nhận kiến nghị về việc xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. 3. Nội dung bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội 3.1. Nội dung của nguyên tắc suy doán vô tội Suy đoán vô tội hay giả định vô tội, là một trong những nguyên tắc cơ bản, được ứng dụng rộng rãi trong nền khoa học pháp lý hiện đại. Nội dung cốt lõi của nguyên tắc cho rằng mọi nghi can đều vô tội cho đến khi được chứng minh là có tội.Nguyên tắc này được áp dụng trong các cáo buộc của phiên tòa hình sự. Các bằng chứng cáo buộc mà bên công tố hoặc viện kiểm sát đưa ra phải đủ khả năng thuyết phục hội đồng xét xử về tính chân thật của cáo buộc. Bị cáo không có nghĩa vụ phải chứng minh mình vô tội. Việc tìm bằng chứng đủ khả năng thuyết phục thuộc về bên công tố. Về nội dung của nguyên tắc "suy đoán vô tội" hiện còn có rất nhiều quan điểm khác nhau của các nhà luật học, song tựu trung lại có thể thấy trong tố tụng hình sự nguyên tắc suy đoán vô tội phản ánh ba nội dung căn bản đó là: (i) Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án kết tội đối với người đó; (ii) Nghĩa vụ chứng minh một người có tội thuộc về bên có trách nhiệm buộc tội. Người bị buộc tội có quyền chứng minh mình vô tội nhưng không có nghĩa vụ phải chứng minh sự vô tội của mình; (iii) Khi có những nghi ngờ về pháp luật và chứng cứ xuất hiện thì những nghi ngờ này phải được hiểu và giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Từ đó, có thể xác định những nội dung cơ bản của nguyên tắc này bao gồm:
  • 17. 17 Thứ nhất, người bị buộc tội được coi là không có tội khi tội phạm do họ bị tình nghi thực hiện chưa được chứng minh theo đúng các trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Điều này có nghĩa là, một người chỉ có thể bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Hay nói cách khác là khi lỗi giả định của người bị buộc tội không được chứng minh thì cũng đồng nghĩa với sự vô tội của người bị buộc tội được chứng minh. Đây chính là cơ sở tạo sự an toàn pháp lý cho người bị buộc tội trong toàn bộ quá trình tố tụng hình sự. Điều này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc “Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an ninh cá nhân, không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Người bị buộc là phạm một tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi tội của người đó được chứng minh theo pháp luật”19 . Vấn đề chứng minh theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định nhấn mạnh yêu cầu tuân thủ về thủ tục pháp lý để đi đến kết luận người bị buộc tội có phạm tội hay không một cách công khai, minh bạch và ngăn ngừa sự tùy tiện, truy bức, dùng nhục hình trong quá trình chứng minh hành vi phạm tội của người bị buộc tội. Vì thế, để đảm bảo yêu cầu chứng minh, nhiều quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đã đặt ra các yêu cầu nghiêm ngặt như: Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định20 ; Chứng cứ không không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự21 ; Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại khi có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố22 . Đồng thời, ở nội dung này, nguyên tắc suy đoán vô tội cũng đặt ra trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về phía buộc tội, theo đó,“trách nhiệm chứng minh tội 19 Điều 14, Công ước của Liên hợp quốc về quyền dân sự và chính trị năm 1966 20 Điều 7, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 21 Điều 86, 87 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 22 Điều 358 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
  • 18. 18 phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”23 . Nội dung này xuất phát từ triết lý căn bản trong tố tụng hình sự là “ai buộc tội thì phải chứng minh”, bởi vậy, nếu cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh được tội phạm của người bị buộc tội thì đồng nghĩa với sự vô tội của họ cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Hay nói cách khác là chỉ có Tòa án mới là cơ quan duy nhất có quyền tuyên bị cáo là người có tội trong bản án kết tội của mình. Điều này đặt ra yêu cầu là cơ quan tiến hành tố tụng không được bắt buộc người bị buộc tội thực hiện trách nhiệm chứng minh dưới bất kỳ hình thức nào và trách nhiệm chứng minh thuộc trách nhiệm cơ quan tiến hành tố tụng nhưng người bị buộc tội luôn có quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa bằng mọi biện pháp hợp pháp, trong đó có việc đưa ra chứng cứ chứng minh sự vô tội của mình, thậm chí pháp luật còn quy định cho người bị buộc tội có “quyền im lặng”, không trả lời các câu hỏi của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Nội dung này bắt nguồn từ quyền không buộc phải chứng minh của bị can, bị cáo và trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan và người buộc tội, nhằm bảo đảm tự do và an toàn cá nhân cho người bị buộc tội trong quá trình tố tụng hình sự như được ghi nhận tại Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 196624 với bản chất là người bị buộc tội không buộc phải khai báo để chống lại mình. Thứ hai, người bị buộc tội chỉ bị coi là có tội khi hành vi phạm tội của họ được xác định bởi bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền. Nội dung này xuất phát từ chức năng xét xử của Tòa án, theo đó yêu cầu đặt ra là bất cứ người nào do bị bắt hoặc bị giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền 23 Điều 15 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 24 Khoản 3, Điều 14 Công ước quy định: “Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu như được thông báo không chậm trễ và chi tiết, bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu được về bản chất và lý do buộc tội mình, không bị buộc đưa ra lời khai chống lại mình, không bị buộc phải nhận là mình có tội”.
  • 19. 19 yêu cầu xét xử trước Tòa án nhằm mục đích để Tòa án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và trả lại tự do nếu việc giam giữ là trái pháp luật, đồng thời bất kỳ người nào đều có quyền đòi hỏi việc xét xử công bằng và công khai do một Tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội trong vụ án hình sự. Bởi vậy, chỉ khi bản án kết tội của tòa dựa trên các chứng cứ, lời tranh tụng một cách khách quan, minh bạch, bình đẳng đã khẳng định chắc chắn về lỗi của người bị buộc tội trong việc thực hiện tội phạm thì người bị buộc tội mới bị coi là có tội; nếu chưa đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội thì Tòa án không được kết tội thì tòa không kết tội đối với người bị buộc tội. Từ đó, để đảm bảo nội dung nguyên tắc này, Bộ luật Tố tụng hình sự đã có những quy định cụ thể về chứng cứ, lời khai của những người tham gia tố tụng cũng như trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Thứ ba, mọi hoài nghi về lỗi của người bị buộc tội cần được giải thích theo hướng có lợi cho người đó. Đây là yêu cầu về logic tư duy đối với những người tiến hành tố tụng hình sự, theo đó trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, khi có sự không rõ ràng trong việc xác định căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự, các tình tiết liên quan đến tội và lỗi của người bị buộc tội mà cả quá trình tố tụng với tất cả các biện pháp được thực hiện nhưng không thể làm rõ, vẫn còn hoài nghi và còn mâu thuẫn trong quá trình chứng minh người bị buộc tội là tội phạm thì cần suy đoán theo hướng có lợi cho người bị buộc tội là họ không phạm tội. Mục đích của yêu cầu này là tránh việc buộc tội theo tư duy có thể làm oan còn hơn bỏ lọt tội phạm và đòi hỏi trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc kiểm tra, chứng minh làm rõ những vấn đề còn nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo; nếu không chứng minh làm rõ được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo phải được giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội là họ không phạm tội.
  • 20. 20 Như vậy, những phân tích nêu trên cho thấy rõ 3 nội dung cơ bản của nguyên tắc suy đoán vô tội và dưới góc độ tố tụng hình sự thì những nội dung này cũng chính là những đòi hỏi, những điều kiện cần và đủ để xác định người bị buộc tội có phạm tội hay không và nếu thiếu những điều kiện này thì một người bị buộc tội phải được coi là vô tội. 3.2. Các bảo đảm thực hiện nguyên tức suy đóan vô tội 3.2.1. Bảo đảm pháp lý Pháp luật là cơ sở để thực thi quyền lực Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự và thực tế cho thấy rằng tính đúng đắn, chất lượng và hiệu quả của hoạt động tố tụng hình sự luôn bị ảnh hưởng bởi chất lượng của hệ thống quy phạm pháp luật. Bởi vậy, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi việc áp dụng các trình tự, thủ tục tố tụng đối với người bị buộc tội trong quá trình giải quyết vụ án hình sự phải trên các quy phạm pháp luật phù hợp. Thực tế cho thấy rằng, trong hoạt động tố tụng hình sự, người tiến hành tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng các qui định của Hiến pháp, pháp luật tố tụng hình sự,pháp luật hình sự và các quy định pháp luật khác có liên quan tác động trực tiếp đến người bị buộc tội (ví dụ như bắt, tạm giữ, tạm giam), do đó, khi các qui định của pháp luật liên quan đến việc thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội đầy đủ, phù hợp, thống nhất, cụ thể, rõ ràng thì việc hiểu, thực hiện, áp dụng các qui định của pháp luật tố tụng hình sự sẽ đảm bảo quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội. Ngược lại, nếu các quy định của pháp luật không đầy đủ, hoặc mâu thuẫn, chồng chéo thì việc áp dụng có thể dẫn đến sự xâm phạm quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội. Điều này cho thấy rằng sự hoàn thiện của pháp luật tố tụng hình sự là điều kiện quan trọng đảm bảo cho khả năng thực hiện, đảm bảo quyền suy đoán vô tội của người bị buộc tội. Bởi vậy, để nâng cao chất lượng các hoạt động tố tụng hình sự và bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội, các cơ quan có thẩm quyền cần phải không ngừng hoàn thiện các quy định pháp luật tố
  • 21. 21 tụng hình sự và các quy định pháp luật có liên quan để đảm bảo tính toàn diện, đồng bộ, phù hợp và kỹ thuật lập pháp của hệ thống pháp luật và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong điều kiện hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay. Với vai trò là công cụ pháp lý hàng đầu trong việc bảo đảm quyền con người, pháp luật về tố tụng hình sự thực sự đã và đang là công cụ pháp lý không thể thiếu để các cơ quan, người tiến hành tố tụng thực hiện các biện pháp bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Hầu hết pháp luật tố tụng hình sự của các quốc gia đều lấy nguyên tắc tranh tụng và nguyên tắc suy đoán vô tội làm các nguyên tắc trụ cột. Nguyên tắc tranh tụng dẫn đến sự hình thành các bên trên cơ sở xác định vị trí của các lợi ích tố tụng, từ đó tạo nên sự bình đẳng của các bên trong vị trí tố tụng. Nguyên tắc suy đoán vô tội tạo bảo đảm cần thiết cho việc bảo vệ quyền con người, là lá chắn quan trọng để khắc phục tình trạng án oan, sai trong tố tụng hình sự. Vì vậy việc đổi mới và liên tục hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội. 2.2.2. Bảo đảm tổ chức nghiệp vụ Người tiến hành tố tụng là một trong các chủ thể của tố tụng hình sự, có vai trò quan trọng, mang tính quyết định trong quá trình chứng minh, giải quyết vụ án hình sự. Những người tiến hành tố tụng có nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau, nhưng hoạt động của họ có mối liên hệ mật thiết, thống nhất với nhau và đều có trách nhiệm là nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trên cơ sở phân loại theo các cơ quan tiến hành tố tụng thì có người tiến hành tố tụng trong cơ quan điều tra, người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát và người tiến hành tố tụng trong Toà án. Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là áp dụng pháp luật để phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các vụ
  • 22. 22 án hình sự. Do đó, để các bản án, quyết định được công bằng, đúng pháp luật, không làm oan sai cho người dân thì trong từng hoạt động, từng giai đoạn của quá trình tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải khách quan, vô tư, độc lập và tuân thủ nghiêm ngặt quy định của pháp luật; chỉ được làm những gì pháp luật cho phép và phải làm theo đúng trình tự, thủ tục, thời hạn do pháp luật quy định. Trong hoạt động tố tụng hình sự, người tiến hành tố tụng có vai trò quan trọng và quyết định đến chất lượng giải quyết vụ án hình sự. Hoạt động tố tụng hình sự nhằm mục đích xác định sự thật khách quan của vụ án, vì vậy để thực hiện đúng các trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng hình sự cũng như đảm bảo quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội đòi hỏi người tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán) phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất định, có tư duy lôgic, khoa học, có khả năng phân tích, đánh giá các tài liệu, chứng cứ của vụ án một cách có hệ thống, toàn diện, lô gic để xác định chính xác, khách quan từng tình tiết của vụ án và toàn bộ diễn biến của hành vi phạm tội để áp dụng đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội. Năng lực, trình độ chuyên môn của người tiến hành tố tụng được thể hiện qua các hoạt động nghiệp vụ như: tiếp nhận tin báo tội phạm, thu thập chứng cứ, nghiên cứu hồ sơ vụ án để lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp với thực tế, hoàn cảnh cụ thể để áp dụng các biện pháp tố tụng phù hợp đối với người bị buộc tội cũng như đảm bảo các quyền của người bị buộc tội được pháp luật quy định. Bởi vậy, nếu người tiến hành tố tụng có đủ năng lực, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm thì việc tôn trọng, bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ hiệu quả; ngược lại, nếu người tiến hành tố tụng yếu kém về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ thì sẽ dẫn đến nhưng vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội, xâm hại đến quyền được suy đoán vô tội cũng như các quyền và lợi ích của người bị buộc tội được pháp luật quy định trong quá trình tố tụng.
  • 23. 23 2.2.3. Bảo đảm về nhận thức Nguyên tắc suy đoán vô tội cũng như các nguyên tắc tố tụng hình sự khác cho dù có tiến bộ, đúng đắn nhưng nếu không được thực thi thì cũng không có ý nghĩa. Bởi vậy, yêu cầu tiên quyết là cần có sự nhận thức, quán triệt sâu sắc nguyên tắc này trong các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, để đảm bảo nhận thức thống nhất nguyên tắc này, các cơ quan có thẩm quyền cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật, đặc biệt là tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho những người tiến hành tố tụng hình sự nhằm ngăn ngừa, hạn chế những vi phạm các quyền của người bị buộc tội, đặc biệt là quyền được suy đoán vô tội, nhất là xu hướng buộc tội chỉ căn cứ vào kết luận của cơ quan điều tra, cáo trạng của Viện kiểm sát, hoặc khi biết có vi phạm trong hoạt động tố tụng nhưng không có biện pháp khắc phục do sợ nếu khắc phục thì người bị buộc tội có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại… Ngoài ra, người tiến hành tố tụng còn đòi hỏi phải có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp, bởi thực tế cho thấy khi người tiến hành tố tụng vững về chuyên môn, nghiệp vụ đồng thời giữ được phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh nghề nghiệp thì sẽ không bị ảnh hưởng bởi những tác động, cám dỗ, đe dọa, áp lực từ bên ngoài để thực sự đảm bảo công tâm, không thiên vị trong việc tôn trọng và đảm bảo quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội. Ngược lại, nếu người tiến hành tố tụng có động cơ không trong sáng, thiếu khách quan, vì lợi ích cá nhân, suy thoái, biến chất, bị lôi kéo và kém hiểu biết pháp luật thì sẽ dẫn đến xâm hại quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội và làm phát sinh các vụ án oan, sai. Đối với đội ngũ thẩm phán thực hiện nhiệm vụ xét xử, trước hết, thẩm phán phải là người có đạo đức, lòng dũng cảm, dám đấu tranh không khoan nhượng với tội phạm và vi phạm pháp luật; có tinh thần thượng tôn pháp luật; luôn tuân theo lẽ công bằng; có trách nhiệm với xã hội và có tấm lòng nhân hậu. Để vượt qua những
  • 24. 24 thách thức mà môi trường công tác đặt ra, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế, Bộ quy tắc thẩm phán của các quốc gia thường quy định những tiêu chí đạo đức xã hội và đạo đức nghề nghiệp cơ bản đối với thẩm phán như: Sự thanh liêm, chính trực; tính chuyên cần; khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật; bảo đảm tính độc lập, khách quan, vô tư, công bằng trong xét xử; không lợi dụng vị trí công tác của mình vào mục đích cá nhân cũng như không được bằng hành vi xử sự của mình cho phép người khác tạo ra cảm giác rằng họ có thể gây ảnh hưởng đến thẩm phán… Bên cạnh đó, tùy thuộc vào thể chế chính trị, hình thức tổ chức nhà nước và các điều kiện cụ thể về kinh tế – xã hội, từng quốc gia còn đặt ra những yêu cầu khác đối với thẩm phán khi tham gia các quan hệ xã hội như: trong hoạt động chính trị; giao dịch tài chính và quà tặng; thực hiện các hoạt động kinh doanh thương mại, đầu tư cổ phiếu… Một số quốc gia quy định ngay trong quy chế đạo đức thẩm phán các biện pháp, cơ chế để bảo đảm cho thẩm phán giữ gìn đạo đức nghề nghiệp, hoàn thành tốt nhiệm vụ. 2.2.4. Các bảo đảm khác - Cơ sở vật chất cũng là một điều kiện quan trọng bảo đảm các quyền con người nói chung, quyền được suy đoán vô tội nói riêng trong tố tụng hình sự. Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc đảm bảo cho hoạt động của người tiến hành tố tụng bao gồm trụ sở làm việc, các phương tiện kỹ thuật phục vụ cho việc phát hiện, cập nhật, lưu giữ các thông tin tội phạm, các thông tin phục vụ cho công tác nghiệp vụ; các phương tiện để quản lý hồ sơ đối tượng, bị can, bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam, nhất là các phương tiện phục vụ việc điều tra, lấy lời khai, giám sát việc quá trình điều tra và ngăn chặn tình trạng ép cung, mớm cung, dùng nhục hình ở giai đoạn điều tra… Những điều kiện này ảnh hưởng trực tiếp đến đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, nên nếu được bảo đảm thì sẽ tạo thuận lợi cho các hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện theo đúng quy định pháp luật cũng như đảm bảo quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội, nhất là trong việc áp dụng các
  • 25. 25 biện pháp ngăn chặn liên quan trực tiếp đến quyền tự do của người bị buộc tội. Ví dụ như: nếu nhà tạm giữ, trại tạm giam, hay trại giam có cơ sở vật chất tốt, được trang bị các phương tiện hiện đại thì sẽ góp phần bảo đảm tốt hơn quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội (như camera giám sát việc hỏi cung; giam giữ bị can, bị cáo…). Ngoài ra, chế độ đãi ngộ đối với người tiến hành tố tụng (lương, phụ cấp nghề nghiệp, phụ cấp thâm niên, khen thưởng…) cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng điều tra, truy tố, xét xử nói chung, việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội nói riêng. Bởi vì, thực tế cho thấy rằng nếu chế độ đãi ngộ không phù hợp có thể làm cho người tiến hành tố tụng bị chi phối bởi những khó khăn của đời sống thường ngày, thiếu đi sự nhiệt huyết, sự tập trung trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, thậm chí còn làm cho họ bị cám dỗ, mua chuộc bằng lợi ích vật chất hay ép buộc để thực hiện các hoạt động tố tụng thiếu khách quan, vi phạm pháp luật và xâm hại đến quyền được suy đoán vô tội của công dân. - Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền đối với hoạt động tố tụng hình sự nói chung, việc thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội nói riêng có ảnh hưởng quan trọng đến việc bảo đảm quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội. Để bảo đảm hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đúng pháp luật, góp phần phòng ngừa và khắc phục oan sai, bỏ lọt tội phạm, pháp luật về tố tụng hình sự quy định nguyên tắc về kiểm tra giám sát đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, theo đó:“Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra việc tiến hành các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền; thực hiện kiểm soát giữa các cơ quan trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.Cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; giám sát việc
  • 26. 26 giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.Nếu phát hiện hành vi trái pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử có quyền yêu cầu, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, giải quyết theo quy định của Bộ luật này. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật”25 .Như vậy, để đảm bảo quá trình thực hiện hoạt động tố tụng diễn ra công khai, minh bạch, công bằng, tuân thủ pháp luật thì bắt buộc phải hình thành cơ chế kiểm tra, giám sát giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau và giữa cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.Việc kiểm tra các hoạt động tố tụng được thực hiện trong nội bộ cơ quan tiến hành tố tụng, thể hiện ở việc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp của các hoạt động tố tụng trong thẩm quyền của mình để kịp thời phát hiện, khắc phục những sai sót, vi phạm pháp luật. Trên thực tế, hoạt động tố tụng hình sự đóng vai trò hết sức quan trọng đối với công tác ban hành, áp dụng pháp luật để ổn định trật tự xã hội, bảo vệ an ninh quốc gia, quá trình xét xử và tuyên án có khả năng thay đổi cả vận mệnh, cuộc đời của một công dân, do vậy, đòi hỏi tính chính xác, đảm bảo sự thật khách quan, công bằng rất cao. Cho nên, việc tiến hành kiểm tra, giám sát là hoạt động hết sức cần thiết để tăng tính trách nhiệm, kỹ lưỡng trong tất cả các khâu, các cá nhân, cơ quan được pháp luật trao cho thẩm quyền lập lại ổn định trật tự xã hội bằng các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án,...giảm đến mức thấp nhất các trường hợp xảy ra sai sót, xét xử oan sai, đi lệch hướng các nguyên tắc đề ra trong tố tụng hình sự. 25 Điều 33 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
  • 27. 27 Trong hoạt động tố tụng hình sự, việc thanh tra, kiểm tra, giám sát của cơ quan có thẩm quyền có thể được thể hiện qua công tác cán bộ, giáo dục chính trị, tư tưởng (nhất là của cấp ủy, người đứng đầu cơ quan tiến hành tố tụng) nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mình. Đồng thời, công tác kiểm tra của người có thẩm quyền là cơ chế hữu hiệu để phát hiện, chấn chỉnh, xử lý những biểu hiện lệch lạc, những sai phạm của người tiến hành tố tụng, qua đó kịp thời cho ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ để đảm bảo tính đúng đắn của các hoạt động tố tụng hình sự cũng như việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền của người bị buộc tội. Bên cạnh đó, hoạt động tố tụng hình sự còn chịu sự giám sát, kiểm sát của các cơ quan có thẩm quyền như Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, Viện kiểm sát nhân dân để qua đó kịp thời phát hiện vi phạm, kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng khắc phục vi phạm, xử lý nghiêm người vi phạm, góp phần bảo đảm cho hoạt động tố tụng hình sự đúng pháp luật, bảo đảm quyền được suy đoán vô tội của công dân. Ví dụ điển hình là qua kiểm tra, kiểm sát, giám sát, các cơ quan có thẩm quyền đã phát hiện, khắc phục việc cơ quan tiến hành tố tụng gây oan sai và bồi thường thiệt hại cho ông Hàn Đức Long, Nguyễn Thanh Chấn (tỉnh Bắc Giang), ông Huỳnh Văn Nén (tỉnh Bình Thuận)… 3. Ý nghĩa của việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội Việc ghi nhận trong pháp luật quốc tế, sự thừa nhận và thể hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự của các quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ con người nói chung, trong tố tụng hình sự nói riêng. Ở nước ta, việc Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự ghi nhận và bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Một là, bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội góp phần thực hiện một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, là một trong những nội
  • 28. 28 dung cơ bản về bảo vệ quyền con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế năm 1948, Công ước quốc tế năm 1966 và được áp dụng rộng rãi trong hệ thống pháp luật tố tụng hình sự của hầu hết các nước. Nguyên tắc này đòi hỏi trong suốt quá trình tố tụng hình sự, các chủ thể tiến hành tố tụng không được coi người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là người đã có tội, mà phải coi họ là người đã thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm (giả định là tội phạm), kể cả khi bị áp dụng biện pháp hạn chế quyền tự do thì họ vẫn còn những quyền con người và những quyền công dân khác cần được tôn trọng và bảo đảm. Bởi vậy, trong tố tụng hình sự, nguyên tắc suy đoán vô tội có thể coi là một biện pháp bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội - quyền được suy đoán vô tội để ràng buộc trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các chủ thể tiến hành tố tụng (người bị hại, điều tra viên, kiểm sát viên, Hội đồng xét xử). Thậm chí, yêu cầu cao hơn đặt ra là ngoài các chứng cứ buộc tội, các chủ thể tiến hành tố tụng còn có trách nhiệm thu thập cả các chứng cứ gỡ tội; phải có thái độ vô tư, không được định kiến đối với người bị buộc tội để bảo đảm tính khách quan của quá trình tố tụng của vụ án. Người bị buộc tội không có nghĩa vụ chứng minh về sự vô tội của mình và có quyền đưa ra chứng cứ, yêu cầu với các cơ quan tố tụng. Ngoài ra, nguyên tắc này còn thể hiện bản chất dân chủ và nhân đạo của hoạt động tố tụng hình sự khi buộc các chủ thể tố tụng phải giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội trong trường hợp các quy định của pháp luật chưa rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu, giải thích khác nhau. Từ đó, để bảo đảm tính khả thi của nguyên tắc suy đoán vô tội thì các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự phải được thể hiện một cách đầy đủ, chính xác các nội dung của nguyên tắc này. Hai là, bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội góp phần bảo đảm quan trọng để phòng ngừa, ngăn chặn những vi phạm từ phía các cơ quan tố tụng dẫn đến oan, sai trong tố tụng hình sự.
  • 29. 29 Điều này đòi hỏi các chủ thể tiến hành tố tụng trong thực thi pháp luật phải nhận thức rõ tầm quan trọng của mỗi công việc, nhiệm vụ, thủ tục mình thực hiện có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống và quyền con người, thậm chí cả tính mạng của người bị buộc tội để từ đó đảm bảo cho các trình tự tố tụng hình sự thực sự khách quan, vô tư và không làm oan người vô tội.Việc thực hiện nguyên tắc này là tiền đề bảo đảm cho những người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa của mình. Tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc suy đoán vô tội ở các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự như điều tra, truy tố, xét xử là một trong những điều kiện cho việc phát hiện nhanh chóng chính xác, xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Chúng ta cũng nên nhất trí rằng, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân hoặc minh oan cho người vô tội cũng quan trọng và có ý nghĩa xã hội như việc xử lý nghiêm minh người có tội. Con người và quyền con người là giá trị quan trọng và trở thành đối tượng ưu tiên bảo hộ của pháp luật trong tố tụng hình sự. Bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lá chắn quan trọng và vững chắc nhất đối với quyền con người, quyền công dân nhằm phòng ngừa và ngăn chặn những vi phạm từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng là việc thừa nhận và ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội. Suy đoán vô tội là nguyên tắc “kinh điển” nhất của tố tụng hình sự được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế quan trọng như Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948, (Điều 11.1); Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (khoản 2, Điều 14). Đặc biệt, bản Tuyên ngôn nêu trên đã coi nguyên tắc này là “phẩm giá của văn minh nhân loại”. Ở phạm vi bao quát hơn và chắc chắn hơn, Nhà nước pháp quyền thừa nhận một nguyên tắc phổ quát của pháp luật khi nói về mối quan hệ giữa phạm vi đã được thể chế hóa và phạm vi không thể chế hóa. Đó là nguyên tắc suy đoán về tính hợp pháp của hành vi. Bảo đảm thực hiện Nguyên tắc này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
  • 30. 30 đối với thái độ của xã hội, của Nhà nước trong việc dùng pháp luật để điều chỉnh các hành vi xã hội, trong quan hệ của Nhà nước đối với cá nhân. Điều này có nghĩa là, hành vi của cá nhân phải luôn luôn được coi là hợp pháp khi chưa chứng minh được điều ngược lại26 . Ba là, bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội có ý nghĩa xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể tiến hành tố tụng trong việc chứng minh hành vi phạm tội của người bị buộc tội tương ứng với từng giai đoạn tố tụng hình sự. Các chủ thể tiến hành tố tụng cần nhận thức rõ việc người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội để từ đó bảo đảm các điều kiện cần thiết để người bị buộc tội có thể thực hiện tốt nhất quyền bào chữa của mình trong quá trình tố tụng. Chính vì vậy, nguyên tắc này góp phần đảm bảo sự bình đẳng trong quan hệ giữa Nhà nước (các cơ quan tiến hành tố tụng) và cá nhân người bị buộc tội mà cả ở góc độ thể chế và thực tiễn thì người bị buộc tội thường có vị thế yếu hơn và dễ bị vi phạm hơn trước yêu cầu “không bỏ lọt tội phạm nhưng cũng không là oan người vô tội”. Cần phải đưa ra nhận định rằng, coi bị can chưa phải là người có tội thì mới đảm bảo được tính khách quan của điều tra viên, kiểm sát viên trong việc thu thập chứng cứ và làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Nếu coi người bị bắt giữ với tư cách là người bị tình nghi, người bị khởi tố với tư cách là bị can đã là người có tội thì dễ dẫn đến hậu quả là điều tra viên, kiểm sát viên chỉ chú ý đến chứng cứ buộc tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm của người bị bắt giữ và bị can chứ không quan tâm đến việc làm sáng tỏ các chứng cứ gỡ tội, các tình tiết giảm nhẹ. Nếu hội đồng xét xử coi bị cáo là người có tội trước khi mở phiên tòa xét xử thì sẽ không đảm bảo được sự khách quan trong việc đánh giá Xem: Đào Trí Úc (201)7), Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Kiểm sát số 02, Hà Nội
  • 31. 31 chứng cứ, đánh giá ý kiến tranh luận của các bên buộc tội và bên bào chữa đưa ra. Việc coi một người là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của tòa án có nghĩa là đồng nhất các khái niệm người bị tình nghi, bị can, bị cáo, người bị kết án đều là người có tội và đồng nhất biện pháp ngăn chặn với biện pháp hình phạt sẽ dẫn đến sự vô hiệu hóa của việc phân định thẩm quyền tố tụng giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Bốn là, bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội góp phần bảo đảm quyền được suy đoán vô tội theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Bởi vì, thực tế có nhiều vụ án cho dù đã tiến hành đầy đủ các biện pháp tố tụng trong thời hạn quy định nhưng không chứng minh đầy đủ, rõ ràng hành vi phạm tội của người bị buộc tội thì cần phải suy đoán người bị buộc tội là vô tội. Đặc biệt là điều này tránh được việc kéo dài vụ án, gây phức tạp cho vụ án khi mà trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử không chứng minh được hành vi phạm tội của bị cáo một cách thuyết phục nhưng không tuyên bị cáo vô tội, không tuyên hủy án sơ thẩm mà vẫn tuyên trả hồ sơ để điều tra bổ sung… Có thể nhận định rằng, suy đoán vô tội là một nguyên tắc tiến bộ, hướng tới mục tiêu bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự là khi cơ quan tố tụng không chứng minh được hành vi phạm tội thì phải suy đoán theo hướng ngược lại. Ngoài ra, nguyên tắc suy đoán vô tội cũng đặt ra yêu cầu cao hơn cho những người tiến hành tố tụng trong việc chứng minh tội phạm, họ không thể làm sai mà vẫn áp đặt ý chí chủ quan của mình để kết tội nghi can. Nguyên tắc này cũng đảm bảo tính pháp chế, là nhân tố phát triển tính đúng đắn trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
  • 32. 32 KẾT LUẬN Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận về bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự, chuyên đề rút ra một số kết luận sau đây: 1. Nguyên tắc suy đoán vô tội là một nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, theo đó người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi hành vi phạm tội của họ (nếu có) được chứng minh theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định và quyết định trong bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền. 2. Nguyên tắc suy đoán vô tội được thể hiện ở những nội dung cơ bản là: người bị buộc tội được coi là không có tội khi tội phạm do họ bị tình nghi thực hiện chưa được chứng minh theo đúng các trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định và chưa được xác định bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền; người bị buộc tội chỉ bị coi là có tội khi hành vi phạm tội của họ được xác định bởi bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền và mọi hoài nghi về lỗi của người bị buộc tội cần được giải thích theo hướng có lợi cho người đó. Những nội dung cơ bản của nguyên tắc suy đoán vô tội là những đòi hỏi, những điều kiện cần và đủ để xác định người bị buộc tội có phạm tội hay không và nếu thiếu những điều kiện này thì một người bị buộc tội phải được coi là vô tội. 3. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự là việc quy định và thi hành những biện pháp, phương tiện do pháp luật tố tụng hình sự quy định nhằm thực hiện quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội cũng như thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng.
  • 33. 33 4. Yêu cầu đối với việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự bao gồm: xây dựng nhận thức thống nhất trong các cơ quan, người tiến hành tố tụng về nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội; bảo đảm các quyền người bị buộc tội ở các giai đoạn tố tụng hình sự; thực hiện đúng trách nhiệm chứng minh tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng; yêu cầu về chất lượng bản án, quyết định được ban hành bởi Tòa án có thẩm quyền; đảm bảo thực hiện đồng thời các nguyên tắc liên quan đến nguyên tắc suy đoán vô tội. 5. Những điều kiện bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự bao gồm: Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật; năng lực, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng; cơ sở vật chất, điều kiện làm việc và chế độ đãi ngộ đối với người tiến hành tố tụng.
  • 34. 34 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.PGS. TS. Nguyễn Hòa Bình (Chủ biên), Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2016. 2. Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Quyền con người trong tố tụng hình sự, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Ủy ban nhân quyền Australia, Hà Nội, tháng 3/2010. 4. Bộ Công an (2012), Báo cáo số 553/BC-BCA-V19 ngày 07/10/2012 về tổng kết 8 năm thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội. 5. Bảo đảm quyền của người bị buộc tội trong các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người, Học viện tư pháp và Viện FES Liên bang Đức, Hội thảo khoa học “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự”, Hội An, tháng 12/2014. 7. Nguyễn Văn Chiến (2014), "Vai trò của đội ngũ luật sư trong việc hiện thực hóa nguyên tắc tranh tụng và bảo vệ quyền con người", Kỷ yếu Hội thảo: Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự, Hội An. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội. 12. TS. Lê Hữu Thể (Chủ nhiệm), Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện hệ thống pháp luật về tố tụng hình sự bảo đảm quyền con người, quyền công dân phù
  • 35. 35 hợp với Hiến pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện nghiên cứu lập pháp, Hà Nội, 2017 13. TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh, Bảo đảm quyền của người bị buộc tội trong các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người, Học viện tư pháp và viện FES Liên bang Đức, Hội thảo khoa học “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự”, Hội an, tháng 12/2014. 14. Xem cụ thể: PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc, Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Quyền con người trong tố tụng hình sự, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Ủy ban nhân quyền Australia, tháng 3/2010, tr. 20-30. 15. GS. TSKH. Đào Trí Úc, Hệ thống những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015, trong sách “Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, NXB Chính trị quốc gia, H. 2016, trang 54 - 85. 16.Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013 và việc triển khai thi hành trong ngành Kiểm sát Hải Phòng, Nguyễn Thị Liên – Viện trưởng Viện Kiểm sát huyện Cát Hải 17. ThS. Đinh Thế Hưng – Viện Nhà nước và Pháp luật, Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định về xét xử của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam 18. TS. Phạm Mạnh Hùng – Hiệu trưởng trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát, Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật Hình sự Việt Nam 19.Nguyên tắc suy đoán vô tội và các quy định của nguyên tắc này trong Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013, Trương Thị Thanh Nhàn – Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương, đăng trên trang web:
  • 36. 36 20. Mai Thanh Hiếu (2004), "Phạm vi chủ thể có quyền được suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam", Luật học, (01), tr.14-18. 21. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 13 23. Nguyễn Lê (2015), "Giám sát oan sai: Có những điều không ngờ?", http://vneconomy.vn, ngày 10/4/2015 24. Liên hợp quốc (1948), Tuyên ngôn về nhân quyền. 25. Liên hợp quốc (1966), Bình luận chung số 13 Công ước quốc tế. 26. Liên hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị. 27. Liên hợp quốc (1985), Công ước chống tra tấn, đối xử vô nhân đạo và hạ nhục con người. 28. Liên hợp quốc (1993), Tuyên ngôn Viên và chương trình hành động. 29. Nguyễn Hoàng Linh (2014), "Gian nan "suy đoán vô tội", http://baoxaydung.com.vn, ngày 02/10/2014. 30. Nguyễn Thái Phúc (2006), "Nguyên tắc suy đoán vô tội", Nhà nước và pháp luật, (11), tr.36-39 32. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội. 33. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội. 35. Trung tâm Nghiên cứu về quyền con người và quyền công dân - Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Giới thiệu Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (IUCCR 1966), Nxb Hồng Đức, Hà Nội. 37. Đào Trí Úc (2014), "Nguyên tắc suy đoán vô tội - nguyên tắc hiến định quan trọng đối với việc đổi mới tố tụng hình sự Việt Nam", Nhà nước và pháp luật, (11), tr.24-27. 38. Viện Khoa học kiểm sát (2002), "Bộ luật tố tụng hình sự năm 2001 của Nga", Phụ trương Thông tin Khoa học pháp lý.
  • 37. 37 39. Viện Khoa học Kiểm sát (2003), "Bộ luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Pháp", Phụ trương thông tin Khoa học pháp lý. 40. Viện Khoa học Kiểm sát (2003), "Bộ luật tố tụng hình sự của Nhật Bản", Phụ trương thông tin Khoa học pháp lý. 41. Viện Khoa học Kiểm sát (2007), "Bộ luật tố tụng hình sự của Liên bang Đức", Phụ trương thông tin Khoa học pháp lý. 42. Viện Khoa học pháp lý (1999), "Tư pháp hình sự so sánh", Thông tin khoa học pháp lý, (Số chuyên đề). 43. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp, Hà Nội. 44. Nguyễn Quốc Việt (1995), Mấy vấn đề về nguyên tắc tố tụng hình sự khi xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội. Tài liệu trên internet: Bùi Tiến Đạt (2015), "Vì sao "suy đoán có tội" phổ biến?", http://vietnamnet.vn, ngày 20/06/2015 Phạm Duy Trường (2012), "Nguyên tắc suy đoán vô tội và việc quy định nguyên tắc này trong Hiến pháp và Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam", http://vienkiemsathaiphong.gov.vn. Đinh Văn Quế (2012), "Có cần ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội?", http://toaan.gov.vn. 14 Nguyễn Ngọc Chí (2015), "Nguyên tắc suy đoán vô tội, bảo đảm tranh tụng trong xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi): Bước tiến vượt bậc về quyền con người", http://baobaovephapluat.vn, ngày 02/6/2015. Phạm Thị Hoài Bắc (2014), "Nguyên tắc suy đoán vô tội và những kiến nghị sửa đổi bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003", http://noichinh.vn, ngày 06/4/2014.
  • 38. 38 Trịnh Tiến Việt (2013), "Bảo đảm nguyên tắc "suy đoán vô tội" và tính thống nhất giữa Hiến pháp với Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự", http://tuphaphinhsu.wordpress.com, ngày 25/4/2013. Lê Kiên (2015), "Quyền im lặng và suy đoán vô tội", http://tuoitre.vn, ngày 18/6/2015 Minh Thảo (2014), "Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm 2013 và việc thể chế hóa nguyên tắc này trong Bộ luật tố tụng hình sự để phù hợp với tinh thần của Hiến pháp mới", http://www.moj.gov.vn.