SlideShare a Scribd company logo
1 of 102
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÂM ANH TUẤN
NGUYÊNTẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI
TRONGLUẬTTỐ TỤNGHÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÂM ANH TUẤN
NGUYÊNTẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI
TRONGLUẬTTỐ TỤNGHÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành:Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản
HÀ NỘI - 2016
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch•a tõng ®•îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
L©m Anh TuÊn
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mụccác từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝLUẬN VỀ NGUYÊN TẮC SUY
ĐOÁN VÔ TỘI TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM
6
1.1. Khái niệm, nội dung, phạm vi và ý nghĩa của nguyên tắc suy
đoán vô tội
6
1.1.1. Khái niệm suy đoán vô tội 6
1.1.2. Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội 12
1.1.3. Phạm vi áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội 18
1.1.4. Ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội 22
1.2. Mối quan hệ giữa nguyên tắc suy đoán vô tội với một số
nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự
26
1.2.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử
26
1.2.2. Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa
28
1.2.3. Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc Thẩm phán, Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
30
1.3. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật quốc tế và pháp
luật của một số nước
31
1.3.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật quốc tế 31
1.3.2. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật của một số nước 36
5
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN SUY ĐOÁN VÔ TỘI
TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN
TRƯỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ NĂM 2015 VÀ THỰC TIỄNÁP DỤNG
43
2.1. Các quy định liên quan đến suy đoán vô tội trong pháp luật
hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003
43
2.1.1. Các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến suy đoán
vô tội trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
43
2.1.2. Các quy định liên quan đến suy đoán vô tội trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988
47
2.2. Các quy định liên quan đến suy đoán vô tội trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003
51
2.2.1. Các nguyên tắc liên quan đến suy đoán vô tội 52
2.2.2. Về quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tố tụng hình sự 53
2.2.3. Về thủ tục xét xử tại phiên tòa 56
2.3. Thực tiễnáp dụngcác quyđịnhliên quanđếnsuyđoánvô tộicủa
Bộ luật tố tụng hìnhsự năm 2003 và những bấtcập, vướngmắc
58
2.3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định liên quan đến suy đoán vô
tội của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
58
2.3.2. Những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy
định liên quan đến suy đoán vô tội của Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003
61
2.3.3. Nguyên nhân của những bất cập, vướng mắc trong áp dụng
các quy định liên quan đến suy đoán vô tội của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003
66
Chương 3: NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG BỘ LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP BẢO ĐẢM THỰCHIỆNNGUYÊN TẮC NÀY
TRONG THỰC TIỄN
70
3.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội và các quy định có liên quan
trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
70
6
3.1.1. Khái quát về Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 70
3.1.2. Phần thứ nhất của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 72
3.1.3. Phần thứ hai và Phần thứ ba của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015
77
3.1.4. Phần thứ tư của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 78
3.2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô
tội trong thực tiễn
79
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện một số quy định về suy đoán vô tội của
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
79
3.2.2. Tăng cường công tác phổ biến giáo dục và hướng dẫn áp
dụng Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự mới
85
3.2.3. Các giải pháp khác 87
KẾT LUẬN 88
DANH MỤC TÀI LIỆUTHAM KHẢO 90
7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT : Cơ quan điều tra
HĐXX : Hội đồng xét xử
HLPL : Hiệu lực pháp luật
SĐVT : Suy đoán vô tội
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TTHS : Tố tụng hình sự
VKS : Viện kiểm sát
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tố tụng hình sự (TTHS) là một lĩnh vực đụng chạm trực tiếp tới các
quyền tự do, dân chủ, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là
người bị bắt giữ, bị can, bị cáo. Vì vậy, chống lại sự lạm quyền và bảo vệ có
hiệu quả quyền con người, quyền công dân trong TTHS là một trong những
nội dungrất quantrọng được cộng đồngquốctếvà mỗiquốc gia đều quantâm:
Nhân quyền và các quyền tự do cơ bản là quyền của mọi
người khi được sinh ra; việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền đó là
trách nhiệm trước tiên của các Chính phủ... Việc đề cao và bảo vệ
tất cả các quyền con người và các quyền tự do cơ bản phải được coi
là một mục tiêu ưu tiên của Liên hợp quốc..., là mối quan tâm chính
đáng của cộng đồng quốc tế... [23, tr. 656-657].
Để đạt mục tiêu trên, các văn kiện quan trọng của Liên hợp quốc đã
quy định các nguyên tắc và điều kiện cần thiết, trong đó suy đoán vô tội
(SĐVT) được ghi nhận là quyền con người, quyền cơ bản của mọi cá nhân và
là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế: "Bất kỳ người bị buộc tội nào
đều có quyền được suy đoán là không phạm tội..., được coi là vô tội cho tới
khi hành vi phạm tội... được chứng minh theo pháp luật" [31, Điều 14].
Ngày nay hầu hết pháp luật của các quốc gia đều thừa nhận SĐVT là
một nguyên tắc cơ bản của TTHS. Năm 1982 Việt Nam gia nhập Công ước
quốc tế năm 1966 và cam kết thực hiện các nguyên tắc của Công ước này,
trong đó có nguyên tắc SĐVT. Lần đầu tiên SĐVT được ghi nhận với tư cách
là một nguyên tắc trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) đầu tiên (năm
1988) của nước ta (Điều 10), là một quyền cơ bản của công dân trong Hiến
pháp năm 1992 (Điều 72) và là một trong các quyền con người trong Hiến
pháp năm 2013 (khoản 1 Điều 31): "Người bị buộc tội được coi là không có
9
tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội
của Tòaán đã có hiệu lực pháp luật" [57].
Các nguyên tắc hiến định khác (như: Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc
lập…; bảo đảm tranh tụng trong xét xử; chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm...)
cũng được Hiến pháp mới bổ sung với nội dung rõ ràng, cụ thể hơn. Một số
đạo luật khác như: Luật tổ chức Tòa án nhân dân (TAND), Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân (VKSND), Luật Luật sư sửa đổi... cũng mới được ban
hành. Đây là cơ sở pháp lý để hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta nói
chung và BLTTHS nói riêng. Tuy nhiên, về SĐVT hiện nay đang còn những
quan điểm khác nhau về một số vấn đề lý luận như: khái niệm, nội dung và
phạm vi áp dụng; trách nhiệm chứng minh tội phạm;... Vì vậy, việc nghiên
cứu nhằm xác định đầy đủ nội hàm của nguyên tắc SĐVT và các nguyên tắc
của TTHS nói chung, và cụ thể hóa đầy đủ, chính xác các nguyên tắc này
trong BLTTHS là vấn đề cấp thiết. Mặt khác, thực tiễn TTHS gần đây cho
thấy công cuộc cải cách tư pháp triển khai đã nhiều năm nhưng chưa tạo ra
được sự chuyển biến cần thiết đáp ứng các yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) theo tinh thần Nghị quyết số số 49-NQ/TW.
Việc nhận thức và áp dụng nguyên tắc SĐVT còn rất khác nhau, trong nhiều
trường hợp còn bị áp dụng theo hướng ngược lại. Tình trạng bức cung, nhục
hình, xét xử theo kiểu "án tại hồ sơ"... vẫn diễn ra khá phổ biến gây bức xúc,
mất lòng tin của nhân dân,...
Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản và
quan trọng nhất là do BLTTHS năm 2003 được sửa đổi quá vội vàng, không
cơ bản và đồng bộ nên chưa tạo ra được những thay đổi đột phá; không ghi
nhận hoặc ghi nhận không đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của TTHS; thiếu các
quy định cụ thể hoặc quy định không rõ ràng, cụ thể về các nguyên tắc này
dẫn đến việc nhận thức và áp dụng không đúng và thống nhất trong thực
tiễn... Vì vậy, việc làm sáng tỏ về lý luận nguyên tắc SĐVT theo Hiến pháp
10
năm 2013; những hạn chế, bất cập và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các
quy định liên quan đến SĐVT trong BLTTHS năm 2003 để làm cơ sở đánh
giá sự hoàn thiện của các quy định về SĐVT trong BLTTHS năm 2015 đồng
thời đề xuất một số giải pháp bảo đảm thực hiện các quy định về SĐVT của
BLTTHS mới trong thực tiễn là vấn đề rất cấp thiết hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây, SĐVT và các vấn đề liên quan đã được đề cập ở
những cấp độ và phạm vi khác nhau trong các công trình nghiên cứu như: "Cải
cách tư pháp và việc hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự
Việt Nam" (2012), Tạp chí Kiểm sát, số 08 và "Nguyên tắc suy đoán vô tội -
nguyên tắc hiến định quan trọng đối với việc đổi mới tố tụng hình sự Việt Nam"
(2003), Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 07, của GS TSKH Đào Trí Úc; "Bảo
đảm nguyên tắc "suy đoán vô tội" và tính thống nhất giữa Hiến pháp với Bộ
luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự" (2013), http://tuphaphinhsu.wordpress.com,
ngày 25/4/2013, của TS. Trịnh Tiến Việt; "Nguyên tắc suy đoán vô tội" (2006),
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11 và "Bình luận về nguyên tắc tranh tụng
trong BLTTHS năm 2015 Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi" (2015), Tạp chí
Kiểm sát, số 09, của PGS.TS Nguyễn Thái Phúc; "Nguyên tắc suy đoán vô tội
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam" (2012), Tạp chí Kiểm sát, số 15, của
TS. Phạm Mạnh Hùng; "Các nguyên tắc của Luật tố tụng hình sự - những
kiến nghị sửa đổi bổ sung", http://tapchi.vnu.edu.vn, của PGS.TS Nguyễn
Ngọc Chí; "Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định về
xét xử của Luật tố tụng hình sự Việt Nam" (2010), Tạp chí TAND, số 03, của
ThS. Đinh Thế Hưng;...
Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, đầy
đủ và có hệ thống về cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc SĐVT theo
Hiến pháp năm 2013; sự phát triển ngày càng hoàn thiện của các quy định
liên quan đến SĐVT trong pháp luật thực định Việt Nam từ năm 1945 đến
11
nay để làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất một số giải pháp bảo đảm thực
hiện nguyên tắc SĐVT trong thực tiễn đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN và cải cáchtư pháp hiện nay.
Tất cả các luận cứ nêu trên là lý do để tác giả lựa chọn "Nguyên tắc suy
đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ
Luật học.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đíchvà nhiệm vụ nghiên cứu là làm sáng tỏ một số vấn đề sau:
1) Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc SĐVT: Cơ sở lý luận của
nguyên tắc SĐVT; quan hệ giữa nguyên tắc SĐVT với một số nguyên tắc
khác của Luật TTHS; nguyên tắc SĐVT trong pháp luật quốc tế và pháp luật
của một số nước.;
2) Các quy định liên quan đến SĐVT trong pháp luật Việt Nam từ năm
1945 đến khi ban hành BLTTHS năm 2015; thực tiễn áp dụng các quy định
liên quan đến SĐVT của BLTTHS năm 2003 và những bất cập, vướng mắc.
3) Nguyên tắc SĐVT và các quy định liên quan trong BLTTHS năm
2015; một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc SĐVT trong thực tiễn.
Với nhiệm vụ trên, tác giả cố gắng làm sáng tỏ khái niệm, nội dung và
phạm vi áp dụng nguyên tắc SĐVT có liên hệ với pháp luật quốc tế và pháp
luật của một số nước; phân tích làm sáng tỏ các quy định BLTTHS năm 2003
liên quan đến SĐVT và những bất cập, vướng mắc. Trên cơ sở đó đánh giá sự
hoàn thiện của các quy định của BLTTHS năm 2015 và đề xuất một số giải
pháp nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc SĐVT trong thực tiễn.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về cải cách tư pháp. Quá trình thực
hiện luận văn, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
12
phương pháp hệ thống, lịch sử, so sánh, phân tích - tổng hợp, khảo sát thực
tiễn,...; Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, các Hiến pháp, BLTTHS, các văn
bản pháp luật có liên quan, tham khảo các công trình nghiên cứu khoa học
trong và ngoài nước về các vấn đề liên quan.
5. Những điểm mới và đóng góp của đề tài
Đây là công trình đầu tiên ở cấp độ thạc sĩ nghiên cứu có hệ thống và
toàn diện về cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc SĐVT. Kết quả nghiên
cứu góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về nguyên tắc SĐVT và
các vấn đề liên quan. Những giải pháp đề xuất trong luận văn có ý nghĩa thiết
thực đối với việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS. Ngoài ra, luận văn còn
có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để giảng dạy, học tập cho các cơ sở đào
tạo luật, trong hoạt động thực tiễn và những người quan tâm.
6. Kết cấucủa luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc suy đoán vô tội trong
Luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định liên quan đến suy đoán vô tội trong pháp luật
Việt Nam từ 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 và một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn.
13
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG, PHẠM VI VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC
SUY ĐOÁN VÔ TỘI
1.1.1. Khái niệm suy đoán vô tội
Từ "presume" trong tiếng Anh được dịch sang tiếng Việt mang hai nghĩa
khác nhau: 1) Suy đoán (dự đoán) và 2) Giả định. Vì vậy, trong khoa học Luật
TTHS, nguyên tắc "presumption of innocence" có hai tên gọi khác nhau: Nguyên
tắc "suy đoán vô tội" và nguyên tắc "giả định vô tội" [16]. Tuy nhiên, trong
luận văn này chúng tôi không tranh luận về thuật ngữ mà xem xét nguyên tắc
này với tên gọi "suy đoán vô tội" (theo cách gọi phổ biến từ trước tới nay ở
Việt Nam) và để làm rõ khái niệm "nguyên tắc suy đoán vô tội", cần xem xét
thuật ngữ "suyđoán vôtội" ở hai góc độ:Nguyên tắc SĐVT và chế định SĐVT.
* Nguyên tắc suy đoán vô tội: Với tư cách là một nguyên tắc cơ bản
của TTHS, SĐVT được thừa nhận không chỉ trong pháp luật quốc tế mà cả
trong pháp luật của hầu hết các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Để làm rõ
khái niệm nguyên tắc SĐVT, trước hết cần làm rõ khái niệm "nguyên tắc cơ
bản của Luậttố tụng hình sự". Đây là vấn đề còn có ý kiến khác nhau.
Theo PGS.TS Trần Đình Nhã thì việc sử dụng khái niệm "nguyên tắc
của Luật tố tụng hình sự" là sự nhầm lẫn khi coi TTHS và pháp luật TTHS là
một. Các nguyên tắc của TTHS là những chế định pháp lý, được thể hiện bởi
những quy phạm pháp luật TTHS, thể hiện bản chất của TTHS và mang tính
định hướng cho các hoạt động và hành vi TTHS [37].
Theo PGS.TS Phạm Hồng Hải thì nguyên tắc TTHS là những quan
điểm, tư tưởng, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về quá trình giải quyết vụ
án hình sự đã được thể chế hóa trong BLTTHS mà các chủ thể tiến hành và
14
tham gia tố tụng, các cơ quan nhà nước, tổ chức và mọi công dân phải tuân
theo. Khi nguyên tắc được quy định trong BLTTHS thì đó là nguyên tắc của
TTHS... Nếu tư tưởng, quan điểm nào đó là quan điểm, tư tưởng chủ đạo của
Luật TTHS thì chúng cũng là nguyên tắc của Luật TTHS. Ví dụ: nguyên tắc
pháp chế, nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc của TTHS và là nguyên tắc của
Luật TTHS [18, tr. 115-122]. Quan điểm thứ ba thì cho rằng nguyên tắc của
TTHS là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, có giá trị pháp lý bắt buộc chung
đốivới các chủ thể tham gia vào quá trìnhgiải quyết vụ án hình sự[21, tr. 59].
Theo GS.TSKH Lê Cảm thì nguyên tắc của Luật TTHS là tư tưởng chủ
đạo, định hướng cơ bản của hoạt động TTHS được thể hiện trong pháp luật
TTHS, trong việc giải thích và thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS thông qua một
quy phạm hay chế định của nó [3, tr. 37]. Quan điểm khác lại cho rằng nguyên
tắc cơ bản của Luật TTHS là những tư tưởng, định hướng của hoạt động TTHS
thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với quá trình giải quyết vụ án
là dân chủ, kỷ cương, theo định hướng XHCN, chi phối toàn bộ quá trình
TTHS hoặc chi phối một số giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự,
được ghi nhận trong các văn bản pháp luật và có tính ổn định cao [24, tr. 68].
Ngoài ra, còn một số quan điểm khác về khái niệm này [61, tr. 47].
Chúng tôi đồng tình với PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí cho rằng có sự
khác nhau giữa hai khái niệm "tố tụng hình sự" và "Luật tố tụng hình sự".
Khái niệm "tố tụng hình sự" được hiểu là toàn bộ hoạt động của các chủ thể
tiến hành và tham gia tố tụng, các cá nhân, cơ quan, tổ chức nhằm giải quyết
vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật. Đây
là hoạt động mang tính khách quan tồn tại trong xã hội có giai cấp, là đòi hỏi
tất yếu của Nhà nước để trừng trị người phạm tội. Còn "Luật tố tụng hình sự"
là khái niệm để chỉ tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. "Luật tố tụng hình
sự" là một phạm trù chủ quan, là nhận thức hiện tượng khách quan của nhà
15
làm luật. Vì vậy, những phương châm, định hướng quan trọng chi phối toàn
bộ hay một số giai đoạn của quá trình TTHS, quá trình xây dựng và áp dụng
pháp luật TTHS được gọi là các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS [4, tr. 55].
Từ khái niệm "nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự" nêu trên, có
thể thấy rằng nội hàm của nguyên tắc SĐVT được quy định tại khoản 1 Điều 31
Hiến pháp năm 2013 thể hiện ở yêu cầu người bị buộc tội phải được coi là vô
tội cho đến khi tội phạm của họ được chứng minh theo trình tự, thủ tục do luật
định và được xác định bằng một bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
(HLPL). Yêu cầu này dựa trên các giá trị công bằng, bình đẳng và là một bảo
đảm quan trọng và hữu hiệu đối với việc tôn trọng, bảo vệ quyền con người
trong tất cả các giai đoạn của quá trình TTHS. SĐVT đối lập với "suy đoán có
tội" là một khuynh hướng diễn ra phổ biến trong hoạt động tư pháp, xâm
phạm nghiêm trọng nguyên tắc "suy đoán vô tội" được ghi nhận trong Hiến
pháp năm 2013 và là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng
oan sai [74, tr. 26].
Từ phân tích trên, có thể khẳng định yêu cầu về SĐVT luôn giữ vai trò
định hướng quan trọng và chi phối không chỉ đối với các giai đoạn của quá
trình TTHS (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử) mà cả đối với giai đoạn tiền tố
tụng (trường hợp bắt giữ người bị tình nghi phạm tội) và thi hành án hình sự
(trường hợp bản án kết tội của Tòa án đã có HLPL bị kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm) đồng thời tác động mạnh mẽ đối với quá trình xây dựng và áp
dụng pháp luật.
Theo Từ điển Luật học, thì SĐVT là một nguyên tắc cơ bản và quan
trọng của TTHS, theo đó bị can, bị cáo được coi là vô tội, không phải chịu
trách nhiệm hình sự khi lỗi của người đó chưa được chứng minh theo trình tự
luật định và chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có HLPL [83, tr. 678]. Tuy
nhiên, cũng có ý kiến cho rằng theo pháp luật của một số nước thì bản chất
của nguyên tắc này được hiểu là trong mọi trường hợp nếu một người thực
16
hiện một hành vi mà hành vi đó còncó ý kiến khác nhau về việc định tội thì
phải áp dụng nguyên tắc có lợi cho họ... Trong quá trình điều tra, truy tố và
xét xử nếu bên "buộctội" không đưa ra được những bằng chứng xác đáng, mà
bên "gỡtội" lại đưa ra được những bằng chứng chứng minh bị can, bị cáo
không phạm tội thì không được truy cứu người có hành vi đó. Xét về mặt nào
đó thì nguyên tắc SĐVT đối lập với nguyên tắc "xác định sự thậtcủa vụ án".
Sự thật thế nào thì phải chứng minh, đi tìm, chứ không được "suy đoán" theo
bất cứ hướng nào. Nếu ghi nhận nguyên tắc "suy đoán vô tội" cũng tức là
không cần đến nguyên tắc "xác định sự thật của vụ án". Và như vậy, bản chất
pháp luật của nước ta sẽ bị thay đổi... Thực chất, nguyên tắc này chỉ để giải
quyết vấn đề "thắng - thua"...,buộc Hội đồng xét xử (HĐXX) phải chấp nhận
"thắng - thua" giữa Luật sư và Kiểm sát viên mà không cần đến sự thật... [39].
Chúng tôi cho rằng quan điểm nêu trên về SĐVT là không chính xác và
có sự nhầm lẫn trong phân định các chức năng cơ bản trong TTHS giữa bên
buộc tội, bên bào chữa và Tòa án. Bản chất của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ
trong mọi trường hợp sự tình nghi một người phạm tội của các chủ thể thực
hiện chức năng buộc tội (Cơ quan điều tra (CQĐT)/ Điều tra viên và Viện
kiểm sát (VKS)/ Kiểm sát viên) đều mới chỉ là "giả định", có nghĩa là người
bị tình nghi có thể có tội và cũng có thể là không có tội. "Giả định" này phải
được chứng minh bằng các chứng cứ theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định thông qua việc kiểm tra, xác minh công khai tại phiên tòa với sự tham
gia đầy đủ của các chủ thể của bên buộc tội, bên bào chữa và các chủ thể khác
(người làm chứng, người phiên dịch, giám định viên) dưới sự giám sát của
HĐXX. Tại đây bên buộc tội (Kiểm sát viên, người bị hại) có trách nhiệm
chứng minh cho sự cáo buộc của mình bằng các chứng cứ buộc tội mà họ thu
thập được, bên bào chữa (Luật sư, bị cáo) cũng đưa ra các chứng cứ gỡ tội để
HĐXX xem xét và ra phán quyết kết tội bị cáo hay tuyên bố họ vô tội. Kể cả
khi đã có bản án kết tội, thì người bị kết án cũng chỉ bị coi là có tội khi phán
17
quyết này có HLPL. Vì vậy, khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có HLPL
thì các chủ thể tố tụng (CQĐT, VKS, Tòa án) không được coi người bị buộc
tội là có tội. Yêu cầu này nhằm ngăn chặn mọi sự quy kết vội vã và định kiến
đối với người bị buộc tội, tâm lý chủ quan, sự tùy tiện, tắc trách của người có
thẩm quyền có thể dẫn đến làm oan người vô tội... Như vậy, có thể thấy rằng
SĐVT không chỉ là một nguyên tắc cơ bản và quan trọng của Luật TTHS mà
còn là quyền cơ bản của người bị buộc tội. Theo nguyên tắc này thì người bị
buộc tội được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội tại phiên
tòa công khai, nơi bảo đảm những điều kiện cần thiết để bị cáo tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa và sự xét xử công bằng nhằm bảo vệ có hiệu
quả các quyền và lợi íchhợp pháp của mình.
Từ phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm sau: Nguyên tắc suy đoán vô
tội là một nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam, theo đó một
người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi tội phạm của họ được
chứng minh theo trình tự, thủ tục luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật.
* Chế định suy đoán vô tội: Suy đoán vô tội không chỉ là một trong
những nguyên tắc cơ bản của TTHS mà còn là một chế định quan trọng của
Luật TTHS. Về mặt lý luận, thì pháp luật là một hệ thống (tổng thể) các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Hệ thống các quy phạm
pháp luật này được phân thành các tiểu hệ thống, mỗi tiểu hệ thống này điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội và
được gọi là một ngành luật. Vì vậy, với tư cách là một ngành luật độc lập
trong hệ thống pháp luật của nước ta, Luật TTHS là tổng thể (hệ thống) các
quy phạm pháp luật có quan hệ chặt chẽ với nhau cùng điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án hình sự (lĩnh vực tư pháp hình sự). Hệ thống các quy phạm pháp luật này
18
được phân thành các tiểu hệ thống - các chế định pháp lý và mỗi chế định này
gồm một số quy phạm pháp luật có quan hệ chặt chẽ với nhau điều chỉnh một
nhóm các quan hệ xã hội cùng loại - cùng tính chất (ví dụ: chế định người bào
chữa, chế định Hội thẩm, chế định phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm,...).
Đến lượt mình mỗi quy phạm pháp luật TTHS lại điều chỉnh trực tiếp một
quan hệ xã hội cụ thể (ví dụ: quy định tại khoản 2 Điều 48 BLTTHS (quyền
của người tạm giữ) điều chỉnh quan hệ giữa người bị tạm giữ với cơ quan,
người có thẩm quyền tạm giữ (Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên).
Với tư cách là một chế định của Luật TTHS, SĐVT là một tiểu hệ
thống bao gồm các quy phạm pháp luật TTHS có liên quan. Trước hết nguyên
tắc SĐVT liên quan chặt chẽ với các nguyên tắc cơ bản khác của Luật TTHS
(đặc biệt là với nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa và bảo đảm tranh tụng
trong xét xử). Bởi lẽ nếu không được SĐVT thì người bị buộc tội đã bị coi là
có tội ngay từ khi bị tình nghi (bị bắt giữ, khởi tố, điều tra hay truy tố…) và
quyền bào chữa, quyền tranh tụng trước Tòa án để tìm ra chân lý sẽ chỉ còn là
hư quyền. Khi đó xét xử chỉ còn là việc Tòa án đi tìm lời giải cho một bài toán
đã có đáp số: "Bị cáo có tội". Chính vì vậy, Hiến pháp năm 2013 (Điều 31,
Điều 102,...) đã ghi nhận nhiều nguyên tắc mới của TTHS, trong đó có
nguyên tắc SĐVT. BLTTHS năm 2003 cũng có nhiều quy định nhằm bảo
đảm để nguyên tắc SĐVT được thực thi trên thực tế như: trách nhiệm chứng
minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền
nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội (Điều 10). Người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào
chữa. CQĐT, VKS, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo thực hiện quyền tự bào chữa của họ (Điều 11); Thẩm phán, Hội
thẩm độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 17);... Các nguyên tắc
này được cụ thể hóa trong các quy định khác của BLTTHS như: quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng; trình tự, thủ
19
tục thu thập, cung cấp, đánh giá chứng cứ; khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử
(sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) các vụ án hình sự;...
Như vậy, có thể thấy một số nguyên tắc trong Hiến pháp mới và các
quy định nêu trên trong BLTTHS năm 2003 có liên quan chặt chẽ với nguyên
tắc SĐVT và tạo thành một chế định quan trọng - chế định SĐVT nhằm điều
chỉnh đồng bộ các quan hệ phát sinh giữa người bị buộc tội, các chủ thể tố
tụng và các chủ thể khác trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Chế định
này bao gồm các quy phạm pháp luật TTHS (một số nguyên tắc cơ bản và các
quy định cụ thể của BLTTHS) và đồng thời là điều kiện cần thiết bảo đảm
tính khả thi của nguyên tắc SĐVT trên thực tế.
1.1.2. Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội
Nguyên tắc SĐVT trong Hiến pháp năm 2013 khẳng định cho đến khi
có bản án kết tội của Tòaán đã có HLPL thì người bị buộc tội được coi là
không có tội, tức là họ vẫn có đủ tư cách công dân với các quyền, nghĩa vụ do
Hiến pháp và pháp luật quy định (trừ một số quyền bị hạn chế khi áp dụng
biện pháp cưỡng chế như tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú,...).
Nguyên tắc này thể hiện quan điểm của Nhà nước ta trong việc tôn trọng các
giá trị cao quý của conngười trong xã hội và nhằm thực hiện các nguyên tắc
của Công ước quốc tế năm 1966 (trong đó có nguyên tắc SĐVT) mà Việt
Nam đã gia nhập năm 1982. Mặc dù cho đến nay, trong Hiến pháp cũng như
các văn bản pháp luật khác của nước ta thuật ngữ "suy đoán vô tội" chưa một
lần được sử dụng nhưng nội dung của nguyên tắc này đã được chính thức ghi
nhận lần đầu tiên trong BLTTHS năm 1988 (Điều 10 và Điều 11), trong Hiến
pháp sửa đổi năm 1992 (Điều 72) và BLTTHS năm 2003 (Điều 9 và Điều 10).
Nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN và cải tư pháp ở nước ta trong giai đoạn mới đồng thời làm cơ
sở pháp lý để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, Hiến pháp năm 2013
đã chính thức thừa nhận các quyền con người bên cạnh các quyền cơ bản của
20
công dân, đồng thời bổ sung nhiều nguyên tắc hiến định mới. Điều 31 của
Hiến pháp mới quy định:
1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi
được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;
2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời.., công
bằng, côngkhai...;
3. Không ai bị kết án hai lần vì một tôi phạm;
4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam... có quyền tự bào chữa,
nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa;
5. Ngườibị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án tráipháp luật có quyềnđượcbồithườngthiệthại... [57].
Vấn đề quan trọng đặt ra là cần xác định nội hàm của nguyên tắc SĐVT
trong Hiến pháp mới và các nội dung (yêu cầu) cụ thể của nguyên tắc này cần
được thể hiện trong BLTTHS sửa đổi với tư cách là một nguyên tắc cơ bản và
quan trọng của Luật TTHS Việt Nam. Đây là vấn đề còn có các quan điểm
khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng nội hàm của nguyên tắc SĐVT trong
Hiến pháp năm 2013 bao gồm cả 5 khoản được quy định tại Điều 31 [27].
Theo quan điểm thứ hai thì nội dung của nguyên tắc SĐVT trong Hiến
pháp mới bao gồm: Quyền được đưa ra xét xử đối với người bị tình nghi
phạm tội cũng đồng nghĩa với trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng
phải chứng minh hành vi phạm tội của người đó theo một trình tự luật định và
phải nhanh chóng đưa ra xét xử đúng thời hạn; việc tuyên án phải công khai
kể cả trường hợp xét xử kín [71].
Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ ba cho rằng nội hàm của
nguyên tắc SĐVT chỉ bao gồm nội dung quy định tại khoản 1 Điều 31 của
Hiến pháp mới: "Người bị buộc tội được coilà không có tội cho đến khi được
21
chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật" [74, tr. 35]. Các quy định còn lại trong Điều 31 Hiến pháp năm
2013 không thuộc nội hàm của nguyên tắc SĐVT mà thuộc nội hàm của các
nguyên tắc khác của Luật TTHS (xét xử kịp thời, công bằng, công khai; pháp
chế XHCN; bảo đảm quyền bào chữa; được bồithường khi bị oan sai;...).
Với nội hàm của nguyên tắc SĐVT đã đề cập ở trên, có thể thấy nội
dung của nguyên tắc SĐVT trong Hiến pháp mới đã khắc phục được những
bất cập, hạn chế trong quy định của Hiến pháp năm 1992 (Điều 72), cụ thể là:
Một là, việc thay cụm từ "không ai" bằng cụm từ "người bị buộc tội" đã
bảo đảm sự chính xác trong xác định phạm vi các đối tượng được áp dụng
nguyên tắc này (những người có quyền được SĐVT) chỉ bao gồm "người bị
buộc tội" (người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo) chứ không phải là
bất kỳ người nào ("không ai") như trong Hiến pháp năm 1992.
Hai là, việc bỏ cụm từ "và phải chịu hình phạt" trong nội hàm của
nguyên tắc SĐVT không chỉ nhằm bảo đảm tính thống nhất, phù hợp với quy
định về miễn hình phạt (Điều 54) của Bộ luật hình sự (BLHS) mà còn bao
quát đầy đủ những trường hợp kết tội bằng bản án nhưng hậu quả pháp lý
khác nhau: bị áp dụng hình phạt và được miễn hình phạt.
Ba là, việc thay cụm từ "bị coi là có tội" bằng cụm từ "được coi là
không có tội" nhằm khẳng định đây là một quyền đương nhiên (quyền con
người) của người bị buộc tội, chứ không phải sự áp đặt (đặc quyền) chủ quan
của cơ quan có thẩm quyền đối với người bị buộc tội.
Bốn là, việc thay cụm từ "khi chưa có bản án..." bằng cụm từ "cho đến
khi có bản án..." bảo đảm tính chính xác của nguyên tắc này: chỉ có một khả
năng duy nhất là "khi có bản án kết tội", loại trừ khả năng thứ hai "chưa có
bản án..." có thể xảy ra (sẽ) "không có bản án".
* Nội dung của nguyên tắc SĐVT cần thể hiện trong Bộ luật tố tụng
hình sự: Các nguyên tắc trong Hiến pháp năm 2013 nói chung và nguyên tắc
22
SĐVT nói riêng chỉ là những tư tưởng chỉ đạo, cơ sở pháp lý mang tính định
hướng cho hoạt động lập pháp nói chung và xây dựng BLTTHS nói riêng.
Mặt khác, việc cụ thể hóa nội dung của các nguyên tắc hiến định này trong
BLTTHS sẽ là căn cứ pháp lý để hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHS nói
chung và các quy định cụ thể trong BLTTHS nói riêng. Như chúng tôi đã đề
cập ở trên, nội hàm của nguyên tắc SĐVT trong Hiến pháp mới chỉ bao gồm
quy định tại khoản 1 Điều 31. Vấn đề đặt ra là phải xác định đúng và đầy đủ
các nội dung (yêu cầu) của nguyên tắc SĐVT cần được thể hiện trong
BLTTHS sửa đổi với tư cách là một nguyên tắc cơ bản của luật TTHS Việt
Nam. Đây là vấn đề còncó ý kiến không thống nhất.
Quan điểm thứ nhất cho rằng nội dung của nguyên tắc SĐVT trong
BLTTHS chỉ cần thể hiện như quy định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm
2013 "Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng
minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật" là đầy đủ.
Quan điểm thứ hai cho rằng, ngoài nộidung quy định tại khoản 1 Điều 31
của Hiến pháp mới, nguyên tắc SĐVT cần thể hiện trong BLTTHS sửa đổi
còn bao gồm các nội dung:
1) Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng
minh về sự vô tội của mình. Trách nhiệm chứng minh thuộc các cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (bao gồm cả Tòa án);
2) Mọi hoài nghi về tội của người bị buộc tội nếu không thể
làm sáng tỏ theo trình tự, thủ tục luật định thì phải xử lý theo hướng
có lợi cho họ [22, tr. 37].
Quan điểm thứ ba về cơ bản nhất trí với quan điểm thứ hai nhưng cho
rằng cần xác định rõ: "Trách nhiệm chứng minh tội phạm chỉ thuộc về Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra", đồng thời bổ sung thêm nội dung: "Bản án kết tội
23
của Tòa án không được dựa trên những căn cứ giả định" [1]. Quan điểm
khác lại cho rằng ngoài các nội dung như quan điểm thứ ba, cần bổ sung
thêm nội dung: "Người bị buộc tội có quyền im lặng cho đến khi có mặt
Luật sư, người bào chữa theo yêu cầu của họ hoặc được chỉ định theo quy
định pháp luật" [25].
Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ ba về các nội dung của nguyên
tắc SĐVT cần được thể hiện trong BLTTHS với lý do sau:
- Nội dung thứ nhất của nguyên tắc SĐVT được ghi nhận tại khoản 1
Điều 31 và phù hợp với quy định của Hiến pháp mới về chức năng của Tòa án
"là cơ quan xét xử..., thực hiện quyền tư pháp" (khoản 1 Điều 102) và nguyên
tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử (khoản 5 Điều 103).
- Nội dung thứ hai của nguyên tắc này cũng được khẳng định trong
Hiến pháp mới: "... cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định". Mặt
khác, theo nguyên tắc tranh tụng thì trong TTHS luôn tồn tại ba chức năng cơ
bản là buộc tội, bào chữa và xét xử. Mỗi chức năng này do một nhóm chủ thể
tương ứng thực hiện: các chủ thể của bên buộc tội thực hiện chức năng buộc
tội; các chủ thể của bên bào chữa thực hiện chức năng bào chữa và Tòa án
(HĐXX) thực hiện quyền tư pháp (xét xử). Vì vậy, trong mọi giai đoạn tố
tụng và tại phiên tòa công khai, trách nhiệm chứng minh tội phạm luôn thuộc
về bên buộc tội (Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bị hại, nguyên đơn dân
sự...). Bên bào chữa (chủ yếu là Luật sư bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của
bị đơn dân sự) có trách nhiệm chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cho bị cáo hay giảm nhẹ mức bồi thường. Còn chứng minh về
sự vô tội là quyền hạn chủ quan mà không phải nghĩa vụ của người bị buộc
tội. Tòa án (HĐXX) thực hiện chức năng xét xử nên không có trách nhiệm
chứng minh tội phạm. Tại phiên tòa, nếu đủ chứng cứ buộc tội thì HĐXX ra
bản án kết tội và nếu không có đủ chứng cứ chứng minh tội phạm thì HĐXX
tuyên bị cáo không có tội.
24
- Yêu cầu thứ ba của nguyên tắc SĐVT đòi hỏi sự buộc tội phải dựa
trên những chứng cứ xác thực đã được kiểm tra, xác minh công khai tại phiên
tòa và không còn bất kỳ sự nghi ngờ nào. Mọi sự nghi ngờ về tội phạm nếu
không làm rõ được theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định hoặc khi quy định
pháp luật có thể hiểu khác nhau, thì phải được xử lý theo hướng có lợi cho bị
cáo (ví dụ: nghi ngờ một người là phạm tội nhưng không chứng minh được họ
phạm tội thì phải coi họ là người vô tội; nghi ngờ phạm tội nặng nhưng chỉ có
chứng cứ xác định hành vi của họ cấu thành tội nhẹ hơn thì phải xử lý về tội
nhẹ hơn). Việc ghi nhận nội dung này của SĐVT trong BLTTHS không chỉ
xuất phát từ trách nhiệm chứng minh tội phạm mà còn là căn cứ để xử lý dứt
điểm các trường hợp bên buộc tội đã áp dụng mọi biện pháp mà pháp luật cho
phép nhưng không thu thập đủ chứng cứ chứng minh tội phạm, mà còn nhằm
khắc phục tư tưởng "bắt nhầm hơn bỏ sót" đang tồn tại phổ biến trong nhận
thức của các chủ thể tố tụng ở nước ta hiện nay.
Một vấn đề khác có liên quan trực tiếp đến nguyên tắc SĐVT đó là
"quyền im lặng" của người bị buộc tội. Chúng tôi cho rằng quyền này của
người bị buộc tội chỉ là sự cụ thể hóa nội dung thứ hai của nguyên tắc SĐVT
và cần thể hiện trong các quy định của BLTTHS về quyền và nghĩa vụ của
người bị buộc tội. Tuy nhiên, đây là một vấn đề nhạy cảm và đang được dư
luận xã hội đặc biệt quan tâm với các luồng ý kiến khác nhau: Nhiều người
ủng hộ việc ghi rõ quyền này trong Bộ luật, nhưng cũng có không ít người
phản đối. Chúng tôi đồng tình với đa số ý kiến cho rằng nội dung quy định như
trong BLTTHS năm 2015 về quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị
cáo: "Được tự do trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra
lời khai chống lại mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội" (các điều 58 - 61)
đã thể hiện đầy đủ quyền của người bị buộc tội và thực chất đây chính là
"quyền im lặng". Quy định như vậy là rõ ràng, minh bạch hơn (so với
BLTTHS năm 2003) vừa giúp bị can, bị cáo thấy rõ quyền của mình và người
25
tiến hành tố tụng cũng thấy rõ nghĩa vụ của mình; vừa khắc phục được tình
trạng ép cung, mớm cung, dùng nhục hình,... đồng thời tránh được sự lạm
dụng hiểu không đúng quyền này trong thực tiễn [19].
1.1.3. Phạm vi áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội
Theo quy định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013, để xác định một
người là có tộiphải có đồng thời cả haiđiều kiện: 1) Tộiphạm của ngườibị buộc
tội đã được chứng minh theo trình tự luật định; 2) Có bản án kết tội của Tòa án
đối với người đó đã có HLPL. Thiếu một trong hai điều kiện này thì người bị
buộc tội luôn được coi là không có tội. Như vậy, quyền được SĐVT của người
bị buộc tội gắn liền và tồn tại song song với sự buộc tội. Nó chỉ bị triệt tiêu khi
có đồng thời cả hai điều kiện nói trên. Đây cũng là cơ sở để xác định phạm vi
áp dụng nguyên tắc SĐVT về không gian, thời gian, về chủ thể và đốitượng.
* Phạm vi áp dụng nguyên tắc SĐVT về không gian: Phạm vi này trả
lời cho câu hỏi: Nguyên tắc SĐVT được áp dụng đối với lĩnh vực nào của tư
pháp (hình sự, phi hình sự)? Về vấn đề này có ý kiến cho rằng nguyên tắc
SĐVT được áp dụng đối với cả lĩnh vực tư pháp hình sự và phi hình sự (dân
sự, kinh tế,...). Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng SĐVT chỉ liên quan đến vấn đề
xác định một người là có tội hay không có tội. Đây là vấn đề thuộc về lĩnh
vực tư pháp hình sự nên nguyên tắc SĐVT cũng chỉ có thể áp dụng đối với
lĩnh vực tư pháp duy nhất là TTHS, còn lĩnh vực tư pháp phi hình sự (dân sự,
hành chính, kinh tế) chỉ giải quyết các vi phạm, tranh chấp về dân sự, hôn
nhân gia đình, lao động, kinh tế,... không liên quan gì đến vấn đề có tội hay
không có tội nên không thể áp dụng nguyên tắc SĐVT.
* Phạm vi áp dụng nguyên tắc SĐVT về thời gian: Phạm vi áp dụng
về thời gian của nguyên tắc SĐVT trả lời cho câu hỏi: Nguyên tắc này được
áp dụng đối với các giai đoạn nào của quá trình TTHS?
Về vấn đề này, quan điểm thứ nhất cho rằng, nguyên tắc SĐVT được
áp dụng từ thời điểm một người bị chính thức buộc tội bằng một văn bản tố
26
tụng (quyết định khởi tố bị can) của cơ quan có thẩm quyền và kết thúc khi có
bản án kết tội đối với người đó đã có HLPL [61, tr. 35], tức là nguyên tắc này
chỉ áp dụng đối với các giai đoạn: khởi tố, điều tra và xét xử (sơ thẩm, phúc
thẩm) vụ án.
Quan điểm thứ hai cho rằng, nguyên tắc SĐVT được áp dụng đối với
tất cả các giai đoạn của quá trình TTHS và trong một số trường hợp nhất định
nguyên tắc này còn được áp dụng đối với cả giai đoạn tiền tố tụng trong
trường hợp bắt giữ người bị tình nghi [17, tr. 37].
Quan điểm thứ ba đồng tình với quan điểm thứ hai nhưng cho rằng,
nguyên tắc này còn được áp dụng cả khi bản án của Tòa án đã có HLPL trong
trường hợp bản án kết tội bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm [20, tr. 15].
Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ ba và cho rằng quan điểm thứ
nhất quá thu hẹp phạm vi áp dụng nguyên tắc SĐVT, còn quan điểm thứ hai
thì lại quá mở rộng phạm vi này với lý do sau:
Thứ nhất, về mặt lý luận, quá trình TTHS được phân thành các giai đoạn
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Khi một người bị khởi tố với tư
cách là bị can cũng có nghĩa là họ chính thức bị buộc tội. Vì vậy, từ thời điểm
này và trong các giai đoạn tiếp theo (điều tra, truy tố, xét xử) cho đến khi bản án
kết tội có HLPL với tư cáchlà bị can, bị cáo, họ luôn có quyền được SĐVT.
Thứ hai, trong trường hợp người bị tình nghi bị bắt, tạm giữ, mặc dù
chưa văn bản tố tụng chính thức buộc tội nhưng việc áp dụng biện pháp
cưỡng chế và hạn chế một số quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì ở mức độ
nhất định đã thể hiện sự buộc tội. Vì vậy, pháp luật cũng coingười bị tình nghi
là người bị buộc tội và từ thời điểm bị bắt, tạm giữ họ đương nhiên có quyền
được SĐVT và cơ quan tố tụng có trách nhiệm coi họ là người không có tội
trong suốt quá trình TTHS cho đến khi có bản án kết tội có HLPL [74, tr. 56].
Thứ ba, khi bản án kết tội có HLPL có nghĩa là tội phạm đã được
chứng minh và người bị kết án chính thức bị coilà có tội và phải thi hành
27
bản án. Tuy nhiên, theo quy định của BLTTHS, thì bản án đã có HLPL có
thể bị kháng nghị và được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm (khoản 2 Điều 20). Chúng tôi cho rằng trong trường hợp này người bị
kết án vẫn được áp dụng nguyên tắc với lý do sau để chấm dứt áp dụng
nguyên tắc SĐVT phải có đồng thời cả hai điều kiện (cần và đủ): 1) Tội
phạm được chứng minh theo trình tự luật định; 2) Có bản án kết tội của Tòa
án đã có HLPL. Trong trường hợp bản án bị kháng nghị và được xem xét
lại theo thủ tục giám đốc thẩm (tái thẩm), mới chỉ một điều kiện để chấm
dứt áp dụng nguyên tắc SĐVT là "có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp
luật", nhưng còn thiếu điều kiện thứ hai: "Tội phạm được chứng minh theo
trình tự luật định", bởi lẽ từ thời điểm có quyết định kháng nghị bản án
kết tội đã có HLPL, thì tính hợp pháp và có căn cứ của bản án này bị nghi
ngờ, việc chứng minh tội phạm được xem xét lại và chỉ kết thúc khi cấp
giám đốc thẩm, tái thẩm ra một trong các quyết định theo quy định tại Điều 285,
Điều 298 BLTTHS:
1) Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án...;
2) Hủy bản án... và đình chỉ vụ án;
3) Hủy bản án... để điều tra lại hoặc xét xử lại.
Như vậy, trong các trường hợp này nguyên tắc SĐVT lại được áp dụng
đối với người bị kết án từ thời điểm có kháng nghị và kết thúc khi Hội đồng
giám đốc thẩm (tái thẩm) ra quyết định giữ nguyên bản án đã có HLPL hoặc
hủy bản án kết tội và đình chỉ vụ án. Trong trường hợp Hội đồng giám đốc
thẩm (tái thẩm) quyết định hủy bản án để điều tra lại hoặc xét xử lại, thì khi
đó với tư cách là bị can, bị cáo đương nhiên họ lại có quyền được SĐVT.
* Phạm vi chủ thể áp dụng nguyên tắc SĐVT: Phạm vi này trả lời
cho câu hỏi: Ai là người có trách nhiệm SĐVT? Về vấn đề này, quan điểm
thứ nhất cho rằng, chủ thể có trách nhiệm tuân thủ nguyên tắc SĐVT chỉ bao
gồm các chủ thể tố tụng và một số cơ quan được giao tiến hành một số hoạt
28
động tố tụng. Quan điểm thứ hai thì cho rằng, phạm vi chủ thể có trách
nhiệm tuân thủ nguyên tắc SĐVT bao gồm không chỉ các cơ quan, người
tiến hành tố tụng, một số cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động tố
tụng mà cả những chủ thể khác: cơ quan, tổ chức, báo chí, truyền thông...
Khi chưa có bản án kết tội đã có HLPL thì tất cả các chủ thể này đều phải
tôn trọng danh dự, nhân phẩm và đối xử với người bị buộc tội như với người
không có tội.
Chúng tôi ủng hộ quan điểm thứ hai và cho rằng, SĐVT là quyền con
người và cũng là quyền cơ bản của công dân khi họ bị buộc tội. Theo nguyên
tắc SĐVT, thì "người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được
chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật". Yêu cầu này của nguyên tắc SĐVT là bắt buộc không chỉ đối
với các chủ thể tiến hành tố tụng mà cả đối với các chủ thể khác (cơ quan, tổ
chức, báo chí, truyền thông...). Mọi hình thức thể hiện về sự có tội đối với
người bị buộc tội của bất kỳ cơ quan, tổ chức nào trước khi có bản án kết tội
của Tòa án có HLPL đều là vi phạm nguyên tắc SĐVT. Về vấn đề này Ủy ban
quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc đã cảnh báo về sự vi phạm của các
cơ quan hữu trách trong việc không thực hiện việc hạn chế theo khoản 2 Điều 14
của Công ước quốc tế năm 1966: "... Mọi cơ quan chức năng có nghĩa vụ hạn
chế phán quyết trước về kết quả của phiên tòa" [88].
* Phạm vi đối tượng có quyền được SĐVT: Phạm vi này trả lời cho
câu hỏi: Ai có quyền được SĐVT? Về vấn đề này có ý kiến cho rằng theo quy
định tại Điều 9 BLTTHS năm 2003 "không ai bị coi là có tội..." thì đối tượng
có quyền được SĐVT không bị giới hạn bởi sự buộc tội vì thuật ngữ "không
ai" trong quy định này có thể là bất kỳ người nào. Tuyên ngôn dân quyền và
nhân quyền Pháp năm 1789 (Điều 9) cũng khẳng định quyền SĐVT được
đảm bảo cho tất cả mọi người (thuật ngữ "tout homme" trong văn bản này có
nghĩa là "tất cả mọi người") [20, tr. 35].
29
Quan điểm thứ hai cho rằng, sự buộc tội xuất hiện cả khi chưa có quyết
định khởi tố bị can (trường hợp bắt, tạm giữ người bị tình nghi) và tồn tại cho
đến khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt hoặc được miễn hình phạt
(toàn bộ) hay được đại xá, ân xá. Vì vậy, phạm vi đối tượng được SĐVT bao
gồm không chỉ người bị tình nghi, bị can, bị cáo mà cả những người bị kết án
nhưng chưa chấp hành xong hình phạt [19, tr. 28]. Quan điểm thứ ba thì cho
rằng, đối tượng có quyền được SĐVT chỉ bao gồm bị can, bị cáo và họ có
quyền này từ thời điểm có quyết định khởi tố bị can cho đến khi bản án kết tội
của Tòaán có HLPL [61, tr. 23].
Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ tư cho rằng, sự buộc tội có thể
xuất hiện cả ở giai đoạn tiền tố tụng (trường hợp bắt, tạm giữ người bị tình
nghi) và tồn tại trong các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử cho đến
khi có bản án kết tội có HLPL. Vì vậy, nguyên tắc SĐVT chỉ áp dụng đối với
"người bị buộc tội" bao gồm: người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy
tố, xét xử [20]. Ngoài ra, trong trường hợp bản án kết tội đã có HLPL nhưng
bị kháng nghị giám đốc thẩm (tái thẩm) thì người bị kết án lại được áp dụng
nguyên tắc SĐVT vì trong trường hợp này việc chứng minh tội phạm sẽ được
xem xét lại tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm.
1.1.4. Ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội
Việc ghi nhận trong pháp luật quốc tế, sự thừa nhận và thể hiện SĐVT
trong pháp luật của các quốc gia là một thành tựu vĩ đại của nền văn minh
nhân loại trong việc bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực TTHS. Có thể nói
việc Hiến pháp và các văn bản pháp luật của nước ta ghi nhận nguyên tắc
SĐVT với tư cách là một nguyên tắc cơ bản của tư pháp hình sự có vai trò và
ý nghĩa đặc biệt quan trọng thể hiện ở một số điểm cơ bản sau đây:
Một là, nguyên tắc SĐVT là một trong những nguyên tắc cơ bản của
pháp luật quốc tế, là một trong những nội dung cơ bản về quyền con người
được ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế năm 1948, Công ước quốc tế năm
30
1966 và được áp dụng rộng rãi trong hệ thống pháp luật TTHS của hầu hết
các nước. Năm 1982 Việt Nam gia nhập Công ước quốc tế năm 1966 và cam
kết thực hiện các nguyên tắc của Công ước này, trong đó có nguyên tắc
SĐVT. Việc BLTTHS nước ta tiếp tục ghi nhận và hoàn thiện nguyên tắc
SĐVT là vô cùng cần thiết, là bước tiến vượt bậc về bảo đảm quyền con
người trong TTHS [5]. Bởi lẽ, trước hết nguyên tắc này bảo đảm thái độ
khách quan của các chủ thể tố tụng. Nó đòihỏi trong suốt quá trình TTHS (từ
khi khởi tố vụ án, điều tra, truy tố, xét xử) các chủ thể tố tụng không được coi
người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là người đã có tội, mà họ chỉ
là người đã thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm. Kể cả trong trường
hợp khi bị áp dụng biện pháp cưỡng chế, thì chỉ một số quyền của họ bị hạn
chế trong phạm vi quy định của pháp luật, còn những quyền con người và
những quyền công dân khác của họ vẫn phải được tôn trọng và bảo đảm (ví
dụ: quyền bầu cử vẫn phải được bảo đảm đốivới người bị tạm giữ, tạm giam).
Mặt khác, nguyên tắc SĐVT là một bảo đảm nhằm bảo vệ quyền con
người của người bị buộc tội khi xác định rõ trách nhiệm chứng minh tội phạm
thuộc về các chủ thể thuộc bên buộc tội(Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bị
hại). Ngoài các chứng cứ buộc tội, các chủ thể tố tụng còn có trách nhiệm thu
thập cả các chứng cứ gỡ tội; phải có thái độ vô tư, không được định kiến đối với
người bị buộc tội để bảo đảm tính khách quan của vụ án. Người bị buộc tội
không có nghĩa vụ chứng minh về sự vô tội của mình và có quyền đưa ra chứng
cứ, yêu cầu với các cơ quan tố tụng. Ngoài ra, nguyên tắc SĐVT còn thể hiện
bản chất dân chủ và nhân đạo của hoạt động TTHS khi buộc các chủ thể tố tụng
phải giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội trong trường hợp các quy
định của pháp luật chưa rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu, giải thích khác nhau.
Tuy nhiên, để bảo đảm tính khả thi của nguyên tắc SĐVT, thì các quy định
của BLTTHS về các giai đoạn tố tụng (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử) phải
thể hiện được đầy đủ, chính xác các nội dung (yêu cầu) của nguyên tắc này.
31
Hai là, việc ghi nhận nguyên tắc SĐVT trong Hiến pháp và BLTTHS
là một bảo đảm quan trọng, là lá chắn vững chắc nhất để bảo vệ quyền con
người, quyền công dân trong lĩnh vực đặc thù này nhằm phòng ngừa, ngăn
chặn những vi phạm từ phía các cơ quan tố tụng [74, tr. 25]. Nguyên tắc này
là lời cảnh báo thường xuyên đối với những người được giao thẩm quyền sử
dụng công quyền để thực thi chức năng giữ gìn, đảm bảo trật tự xã hội. Nó
đòi hỏi những chủ thể thực thi pháp luật phải nhận thức rõ tầm quan trọng của
công việc được giao, đặc biệt là sự tác động trực tiếp đối với cuộc sống, sự
nghiệp, danh dự, nhân phẩm và cả tính mạng của người bị buộc tội, để từ đó ý
thức được trách nhiệm của mình trước hết phải tôn trọng sự thật khách quan,
phải cẩn trọng, mẫn cán, chặt chẽ nhằm bảo đảm xử lý đúng người, đúng tội
đồng thời không được làm oan người vô tội.
Ba là, nguyên tắc SĐVT không chỉ phân định các chức năng cơ bản
(buộc tội, bào chữa và xét xử) giữa các chủ thể; xác định rõ trách nhiệm
chứng minh tội phạm thuộc về các chủ thể của bên buộc tội, người bị buộc tội
có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội, mà còn buộc
các cơ quan tố tụng phải bảo đảm các điều kiện cần thiết để người bị buộc tội
có thể thực hiện tốt quyền bào chữa của mình [35, tr. 35]. Vì vậy, nguyên tắc
này đã góp phần bảo đảm sự dung hòa giữa lợi ích của xã hội và quyền tự do
của cá nhân; bảo đảm sự cân bằng trong hoạt động TTHS giữa một bên là
Nhà nước (với hệ thống các CQĐT, truy tố) với một bên là người bị buộc tội
luôn ở địa vị yếu thế hơn nhằm đạt được mục đích của TTHS là "không bỏ lọt
tội phạm đồng thời không là oan người vô tội".
Bốn là, nguyên tắc SĐVT mở ra lối thoát cho những vụ án đi vào ngõ
cụt, khi mà cơ quan có thẩm quyền đã áp dụng mọi phương pháp nhưng
không thể xác định được ai là người đã thực hiện hành vi phạm tội. Thực tiễn
điều tra, truy tố và xét xử cho thấy trừ các trường hợp phạm pháp quả tang,
còn lại các vụ án hình sự chỉ bị đưa ra ánh sáng sau khi vụ việc xảy ra và các
32
cơ quan tố tụng có trách nhiệm phải dựng lại toàn cảnh bức tranh về vụ việc.
Thông qua bức tranh này, không chỉ những người có thẩm quyền mà toàn xã
hội có thể thẩm định, đánh giá bản chất của vụ việc một cách khách quan để
có kết luận đúng đắn, chính xác về một người là có tội hay không có tội. Tuy
nhiên, có những trường hợp do những nguyên nhân khách quan và chủ quan
khác nhau (các dấu vết, chứng cứ không còn đầy đủ, hoặc yếu kém, hạn chế
trong tổ chức hoạt động, trình độ nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của những
người tiến hành tố tụng,...) mà cơ quan tố tụng không thể dựng lại được bức
tranh về vụ việc xảy ra dẫn đến bỏ lọt (tạm thời hoặc vĩnh viễn) tội phạm và
người phạm tội. Đây là một thực tế có thể xảy ra mà xã hội phải chấp nhận.
Việc cần làm trong các trường hợp này là phải rà soát tìm ra nguyên nhân
(khâu nào, người nào,...) để có biện pháp khắc phục kịp thời, tránh lặp lại.
Trong mọi trường hợp không thu thập đủ chứng cứ để buộc tội thì
người bị buộc tội phải được chính thức suy đoán là vô tội với bảo đảm không
có nghi ngờ, không tì vết, bảo đảm để họ tiếp tục cuộc sống bình thường. Như
vậy, việc áp dụng nguyên tắc SĐVT có thể dẫn đến một thực tế là xã hội phải
chấp nhận sự "nhởn nhơ" ngoài vòng pháp luật của "người bị tình nghi", nhưng
một điều hết sức hệ trọng cần nhận thức là: Nếu sự bỏ lọt một ngườiphạm tộicó
thể khiến cho một gia đình (của người bị hại) phải chịu mất mát không bù đắp
được, thì việc làm oan người vô tội sẽ làm tan nát không chỉ hai gia đình (của
người bị hại và bị can, bị cáo) mà còn dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng
khác đối với toàn xã hội như: làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối
với công lý, sự công minh của pháp luật, sự ưu việt của chế độ XHCN,...
Vì vậy, có thể nói chỉ khi BLTTHS ghi nhận và cụ thể hóa đầy đủ, chính
xác các nội dung (yêu cầu) của nguyên tắc SĐVT và các điều kiện bảo đảm để
nguyên tắc này được thực thi trên thực tế thì mới có thể làm thay đổi thái độ
(thói quen) "suy đoán có tội" của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng
(CQĐT/ Điều tra viên, VKS/ Kiểm sát viên và Tòa án/ Thẩm phán) - một thực
33
trạng diễn ra khá phổ biến ở nước ta hiện nay. Nguyên tắc SĐVT buộc các chủ
thể của bên buộc tội (đặc biệt là CQĐT/Điều tra viên, VKS/ Kiểm sát viên) phải
không ngừng nâng cao nghiệp vụ để thu thập đầy đủ chứng cứ chứng minh tội
phạm. Tại phiên tòa nếu không có đủ chứng cứ chứng minh bị cáo có tội thì
HĐXX phải tuyên bị cáo vô tội mà không trả hồ sơ điều tra bổ sung (ở cấp sơ
thẩm) hoặc hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại (ở cấp phúc thẩm). Việc
trả hồ sơ để điều tra bổ sung, điều tra lại chỉ làm dây dưa kéo dài quá trình
TTHS, xô đẩy số phận pháp lý của người bị tình nghi (không biết họ có thực
sự phạm tội không?) "lửng lơ trong vòng tố tụng". Chỉ có như vậy thì công
cuộc cải cách tư pháp và hoạt động TTHS ở nước ta mới có thể đạt được mục
tiêu đặt ra "... bảovệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân...".
1.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI VỚI MỘT
SỐ NGUYÊN TẮC KHÁC CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS liên quan chặt chẽ và tác động
qua lại lẫn nhau tạo thành là một hệ thống thống nhất. Sự tồn tại của mỗi
nguyên tắc này là cơ sở và điều kiện bảo đảm tính khả khi của các nguyên tắc
cơ bản khác. Vì vậy, nguyên tắc SĐVT chỉ có thể được khả thi trên thực tiễn
khi có các điều kiện bảo đảm cần thiết kèm theo sự tôn trọng và tuân thủ các
nguyên tắc cơ bản khác của Luật TTHS, đặc biệt các nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội, tranh tụng trong xét xử, Thẩm phán,
Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
1.2.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử
Nguyên tắc SĐVT khẳng định người bị buộc tội được coi là vô tội khi
mà tội phạm của họ chưa được chứng minh theo một trình tự do luật quy định
và chưa được Tòa án xác định bằng một bản án kết tội đã có HLPL. Nguyên
tắc này một mặt khẳng định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về bên
buộc tội; người bị buộc tội có quyền mà không có nghĩa vụ chứng minh về sự
34
vô tội của mình; Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình và các hình
thức trái pháp luật khác trong quá trình thu thập chứng cứ và thực hiện các
hoạt động tố tụng khác. Mặt khác, nguyên tắc SĐVT cũng xác định Tòa án là
chủ thể duy nhất thực hiện quyền tư pháp (xét xử) và có thẩm quyền đưa ra
phán quyết (bản án) nhân danh Nhà nước kết luận người bị buộc tội là có tội
hay vô tội. Tuy nhiên, nguyên tắc này sẽ không thể khả thi trên thực tiễn nếu
vắng thiếu nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử với các lý do sau:
Thứ nhất, tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của TTHS giữ vai trò cốt lõi
và là tiền đề khách quan cần thiết để TTHS đạt được mục tiêu là xác định sự
thật khách quan về vụ án. Không có tranh tụng và không bảo đảm được tranh
tụng khách quan, bình đẳng thì hoạt động TTHS sẽ mang tính phiến diện,
định kiến và luôn tiềm ẩn những sai lầm tư pháp trong các quyết định của các
cơ quan có thẩm quyền.
Thứ hai, nguyên tắc tranh tụng phân định rõ ràng, tách bạch các chức
năng cơ bản (buộc tội, bào chữa và xét xử) trong TTHS giữa bên buộc tội, bên
bào chữa và Tòa án, theo đó mỗi nhóm chủ thể này chỉ được thực hiện một
chức năng này mà không được phép vừa buộc tội vừa bào chữa hoặc ngược
lại, vừa xét xử vừa buộc tội hay vừa xét xử vừa bào chữa.
Thứ ba, nguyên tắc tranh tụng xác định tư cách của hai nhóm chủ thể
thực hiện chức năng buộc tội và chức năng bào chữa là "các bên tranh tụng"
có lợi ích đối lập nhau. Đồng thời, các bên hoàn toàn bình đẳng với nhau về
mặt pháp lý. Vì vậy, các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa phải được
bảo đảm các khả năng pháp lý như nhau để bảo vệ các lợi ích của mình trong
suốt quá trình giải quyết vụ án.
Thứ tư, nguyên tắc tranh tụng xác định địa vị độc lập, khách quan và vô
tư của Tòa án với tư cách là chủ thể duy nhất thực hiện quyền tư pháp (xét
xử). Với tư cách này Tòa án (HĐXX) có trách nhiệm bảo đảm quyền bào
chữa cho bị cáo, điều khiển, giám sát quá trình tranh tụng giữa bên buộc tội
35
và bên bào chữa để đưa ra phán xét công minh nhân danh Nhà nước về số
phận của bị cáo (vô tội hay có tội và áp dụng hình phạt đốivới họ).
Vì vậy, có thể nói nguyên tắc tranh tụng chính là cơ sở pháp lý không
chỉ tạo sự bình đẳng về thế và lực giữa bên buộc tội (CQĐT/ Điều tra viên,
VKS/ Kiểm sát viên là các chủ thể thực thi quyền lực nhà nước) và bên bị
buộc tội (người bị buộc tội, người bào chữa là các chủ thể luôn ở địa vị yếu
thế hơn) mà còn đề cao vai trò trọng tài của Tòa án. Nếu không có nguyên tắc
này thì sẽ không có sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội trên thực tế,
và khi đó nguyên tắc SĐVT sẽ không thể phát huy được hiệu quả của mình.
1.2.2. Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa
Bảo đảm quyền bào chữa là một trong những nguyên tắc cơ bản và
quan trọng của TTHS thể hiện bản chất dân chủ của nền tư pháp hiện đại.
Nguyên tắc này đòi hỏi các chủ thể tiến hành tố tụng phải bảo đảm cho
người bị tình nghi, bị can, bị cáo thực hiện đầy đủ quyền tự bào chữa hoặc
nhờ người khác (Luật sư, bào chữa viên nhân dân, Trợ giúp viên pháp lý,...)
bào chữa để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong các giai
đoạn của quá trình TTHS. Sự tham gia của người bào chữa (đặc biệt là của
Luật sư bào chữa) vào các giai đoạn của TTHS là điều kiện cần thiết để bảo
đảm sự bình đẳng trên thực tế giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong các
giai đoạn của quá trình TTHS nói chung và tại phiên tòa nói riêng. Chính vì
lẽ đó, các văn bản pháp luật quốc tế không chỉ khẳng định rõ mà còn đề ra
những yêu cầu cụ thể đối với nguyên tắc này: Bị can, bị cáo có quyền được
thông báo không chậm trễ và chi tiết… về bản chất và lý do bị buộc tội; được
bảo đảm đủ thời gian phù hợp và điều kiện thuận lợi để chuẩn bị bào chữa và
liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn; Được có mặt trong khi
xét xử, được tự bào chữa hoặc nhờ sự giúp đỡ về mặt pháp lý do mình lựa
chọn; nếu chưa có sự giúp đỡ về mặt pháp lý thì phải được thông báo về
36
quyền này; trong trường hợp do lợi ích của công lý đòi hỏi phải bố trí cho
người đó một sự trợ giúp pháp lý miễn phí nếu họ không có điều kiện trả
tiền... [30]; có quyền liên lạc với Luật sư để tham khảo ý kiến; việc tiếp xúc
với Luật sư phải ngoài tầm nghe của quan chức pháp luật... [32]. Nguyên tắc
bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội được ghi nhận trong pháp luật
của hầu hết các quốc gia. Hiến pháp năm 2013 (khoản 4 Điều 31) và
BLTTHS năm 2003 (Điều 11) của nước ta quy định bảo đảm quyền bào chữa
của người bị buộc tội là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS.
Thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự ở nước ta những
năm gần đây cho thấy nhìn chung việc đảm bảo quyền bảo chữa của người bị
buộc tội đã được chú trọng hơn (như cho phép người bào chữa có mặt ngay từ
khi tạm giữ người bị tình nghi). Tuy nhiên, trên thực tế người bào chữa gặp
rất nhiều trở ngại từ phía CQĐT ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án. Đây là
một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng mớm cung, ép cung, dùng
nhục hình dẫn đến làm oan người vô tội đã và đang gây nhiều bất bình và bức
xúc trong dư luận xã hội.
Mặt khác, theo quy định của BLTTHS năm 2003 (Điều 56) thì chỉ có
ba loại đối tượng (Luật sư, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo và bào
chữa viên nhân dân) mới có thể được lựa chọn là người bào chữa. Chúng tôi
cho rằng quy định này đã quá bó hẹp phạm vi các đối tượng để bị can, bị cáo
có thể lựa chọn làm người bào chữa để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Theo thốngkê của cơ quan chức năng, tính đếntháng 9/2014 ở nước ta có
11.285 Luật sư hành nghề (bao gồm cả Luật sư tư vấn và Luật sư tranh tụng),
tính bình quân gần 10.000 dân mới có 01 Luật sư [28] nhưng lại tập trung chủ
yếu ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Trong khi trên thực tế có rất nhiều
người (anh em, người thân, bạn bè,… của người bị buộc tội) có trình độ pháp
lý, có đạo đức và nhiệt tình nhưng họ không thể làm người bào chữa vì không
phải là Luật sư. Quy định này đã gây lãng phí nguồn lực và làm hạn chế quyền
37
bào chữa của người bị buộc tội. Mặt khác, theo quy định của BLTTHS thì
người bào chữa không có quyền thu thập chứng cứ mà chỉ có quyền thu thập đồ
vật, tài liệu… và các đồ vật, tài liệu này có được coi là chứng cứ hay không
lại phụ thuộc vào sự đánh giá của các chủ thể tiến hành tố tụng.
Ngày nay nhiệm vụ bảo vệ quyền con người trong TTHS được đặt
ngang với nhiệm vụ phát hiện, xử lý tội phạm. Vì vậy, để phù hợp với các
nguyên tắc hiến định mới, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội cần được cụ thể hóa đầy đủ trong BLTTHS sửa đổi theo hướng mở
rộng sự tham gia của người bào chữa (Luật sư và những người khác) đối với
tất cả các loại tội phạm; không chỉ người bị tình nghi, bị can, bị cáo mà cả
người thân thích của họ (trường hợp họ bị bắt, tạm giữ, tạm giam) cũng có
quyền mời Luật sư. Mặt khác, cũng cần xác lập sự bình đẳng giữa bên buộc
tội và bên bào chữa trong thu thập chứng cứ cũng như cơ chế bảo đảm để
người bào chữa có thể tham gia tích cực, hiệu quả hơn trong việc bảo vệ công
lý, quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.
1.2.3. Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc Thẩm phán, Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Sự độc lập của Tòa án là nguyên tắc phổ quát được ghi nhận với tư
cách là một yếu tố, điều kiện gắn liền với việc bảo đảm các quyền con người
trong các văn bản pháp luật quốc tế (Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn
về nhân quyền, Công ước về các quyền chính trị và dân sự,...) đồng thời được
ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật của hầu hết các quốc gia. Mặt khác,
quyền tư pháp (xét xử) được thực hiện thông qua các Thẩm phán, Hội thẩm
nên sự độc lập của Tòa án đồng nhất với "độc lập xét xử" của Thẩm phán, Hội
thẩm. Việc đề cao sự độc lập của Tòa án xuất phát từ chỗ đây là chủ thể duy
nhất thực hiện quyền tư pháp và giữ vai trò là người trọng tài giữa bên buộc
tội và bên bào chữa để bảo đảm việc xét xử khách quan, công minh nhằm bảo
vệ công lý, quyền con người và ngăn chặn sự lạm quyền. Vì vậy, nguyên tắc
38
"Thẩm phán, Hội thẩm độc lập xét xử..." là cơ sở pháp lý và là một điều kiện
cần thiết để bảo đảm tính khả thi của nguyên tắc SĐVT trên thực tiễn.
Theo quy định của pháp luật nước ta (các điều 102, 103 Hiến pháp năm
2013, Điều 2 Luật tổ chức TAND năm 2014, Điều 16 BLTTHS), thì TAND là
cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp..., có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân; Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm
cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội
thẩm. Tuy nhiên, ở nước ta chưa hội tụ đủ các điều kiện cần thiết để bảo đảm
sự độc lập của Tòa án và sự độc lập xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm do
nhiều nguyên nhân khác nhau như: Sự bất cập về cơ chế, quy trình lựa chọn,
bổ nhiệm Thẩm phán, nhiệm kỳ Thẩm phán cũng như chế độ đãi ngộ; việc áp
dụng chế độ "báo cáo án, duyệt án, thỉnh thị án, xin ý kiến cấp trên",… ở các
cấp Tòa án; sự lạm dụng nguyên tắc Đảng lãnh đạo công tác tư pháp để can
thiệp vào đường lối xử lý đối với từng vụ án, nhất là những vụ án mà bị can,
bị cáo là người có chức, có quyền; sự thiếu lòng tin của Lãnh đạo đối với
Thẩm phán; sự hạn chế, yếu kém về trình độ, năng lực chuyên môn, tinh thần
trách nhiệm của độingũ Thẩm phán,…
Vì vậy, ngoài việc sửa đổi bổ sung nội dung nguyên tắc này cho phù
hợp với các nguyên tắc hiến định mới, cần thiết phải hoàn thiện cơ chế bảo
đảm sự độc lập xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.
1.3. NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
VÀ PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC
1.3.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật quốc tế
Tư tưởng về SĐVT (hay giả định vô tội) xuất hiện từ thời La Mã cổ đại.
Thuật ngữ "Praesumptio boni viri" trong Luật La Mã cổ đại được hiểu là một
suy đoán pháp lý, theo đó "người tham gia tố tụng được coi là trung thực cho
đến khi bị chứng minh họ không phải là người trung thực". Tư tưởng này chỉ
39
được thừa nhận và áp dụng trong tố tụng dân sự và được coi là cội nguồn của
nguyên tắc SĐVT hay giả định vô tội (presumption of innocence) [38, tr. 37].
Cũng như nhiều tư tưởng dân chủ, tiến bộ khác của nhân loại, tư tưởng về
SĐVT không thể được chấp nhận trong Nhà nước chiếm hữu nô lệ, ở đó nô lệ
không được thừa nhận là chủ thể của quan hệ pháp luật và vấn đề lỗi của họ
không bao giờ được xem xét. Nhà nước phong kiến tiếp tục áp dụng nguyên
tắc suy đoán có tội, theo đó người bị buộc tội (người bị tình nghi, bị khởi tố
hình sự, bị đưa ra xét xử) luôn bị coi là có lỗi và việc áp dụng các biện pháp
tra tấn, dùng nhục hình đối với họ để điều tra được coi là hợp pháp.
Tư tưởng về SĐVT phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ cách mạng dân
chủ tư sản. Giai cấp tư sản đã đưa ra nhiều tư tưởng tiến bộ về quyền con
người và quyền công dân, trong đó có tư tưởng về SĐVT để lôi kéo quần
chúng nhân dân đứng lên lật đổ chế độ phong kiến. Trong thời kỳ đầu, tư
tưởng SĐVT chỉ được giai cấp tư sản sử dụng như một vũ khí để chống lại sự
thống trị hà khắc của Nhà nước phong kiến. Tư tưởng SĐVT chỉ trở thành
nguyên tắc của pháp luật sau khi Cách mạng tư sản Pháp giành thắng lợi. Lần
đầu tiên trong lịch sử nhân loại, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyềncủa Cộng
hòa Pháp năm 1789 đã chính thức ghi nhận và tuyên bố SĐVT là một quyền
cơ bản của con người: "Mọi người được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố
phạm tội. Nếu xét thấy cần thiết phải bắt giữ thì mọi sự cưỡng bức vượt quá
mức cần thiết cho phép đều bị pháp luật xử lý nghiêm khắc" [72, Điều 8].
Tuyên ngôn này đã đặt nền móng cho sự hình thành nguyên tắc SĐVT - một
nguyên tắc cơ bản, quan trọng của TTHS có ảnh hưởng to lớn đối với sự phát
triển của pháp luật quốc tế và tư duy pháp lý của các quốc gia.
Tuyên ngôn quốc tế năm 1948 đã ghi nhận SĐVT là một quyền cơ bản
của con người đồng thời là một nguyên tắc của pháp luật quốc tế: "Khi truy
tố trước pháp luật, mọi người được xem là vô tội cho đến khi pháp luật chứng
minh là có tội, trong một phiên tòa công khai và Tòa án này phải cung ứng
40
tất cả mọi bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ của đương sự" [31, Ðiều 11].
Nguyên tắc (quyền) SĐVT còn được ghi nhận trong các công ước quốc tế
khác: Công ước Châu Âu năm 1950 về nhân quyền; Công ước Châu Mỹ
năm 1969 về nhân quyền;... Đặc biệt, Công ước quốc tế năm 1966 không chỉ
ghi nhận các quyền cơ bản của con người với tư cách là các nguyên tắc của
pháp luật quốc tế mà còn đưa ra những bảo đảm cần thiết khi một người bị
xét xử về hình sự:
1. Mọi người đều bình đẳng trước Tòa án..., có quyền được
xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án... không thiên vị...
để quyết định về lời buộc tội...;
2. Người bị cáo buộc... được coi là vô tội cho tới khi... phạm
tội của người đó được chứng minh theo pháp luật;
3. Mọi người có quyền hưởng đầy đủ và bình đẳng những bảo
đảm tối thiểu sau:
a) Được thông báo không chậm trễ và chi tiết... về bản chất
và lý do buộc tội;
b) Có đủ thời gian và điều kiện... để chuẩn bị bào chữa và
liên hệ với người bào chữa...;
c) Được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý;
d) Có mặt khi xét xử, được tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ
giúp pháp lý... và được trợ giúp pháp lý theo chỉ định... không phải
trả tiền...;
e) Được thẩm vấn hoặc yêu cầu thẩm vấn những nhân chứng
buộc tội mình, được mời người làm chứng gỡ tội... và thẩm vấn họ
tương tự như đối với người làm chứng buộc tội mình;
f) Được phiên dịch miễn phí...;
g) Không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình
hoặc buộc phải nhận là mình có tội... [31, Điều 14].
41
Việc đề ra các chuẩn mực nêu trên xuất phát từ nhận thức TTHS là một
lĩnh vực đặc thù và nhạy cảm, là hoạt động thực thi công quyền nhân danh
Nhà nước nên trong quan hệ giữa các chủ thể thực thi công quyền (CQĐT/
Điều tra viên, VKS/ Kiểm sát viên, Tòa án/ Thẩm phán,…) và các chủ thể
khác (đặc biệt là bị can, bị cáo) luôn thể hiện sự bất bình đẳng mà ưu thế luôn
nghiêng về các chủ thể thực thi pháp luật. Vì vậy, để bảo vệ quyền con người
trong TTHS, cần dành cho bị can, bị cáo những quyền pháp lý cần thiết nhằm
giúp họ có thể bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tránh
nguy cơ bị xâm phạm từ phía các chủ thể thực thi pháp luật. Các chuẩn mực
tối thiểu nêu trên tạo thành hệ thống quy tắc ứng xử của các cơ quan, nhân
viên thực thi pháp luật và được áp dụng trên phạm vi toàn cầu nhằm đảm bảo
để người bị buộc tội có thể bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Liên hợp quốc cũng khuyến nghị các quốc gia tôn trọng và lồng ghép các
nguyên tắc này vào luật pháp quốc gia và phổ biến rộng rãi đến các Thẩm
phán, Luật sư, nhân viên hành pháp, lập pháp và công chúng... [70, tr. 629].
Bình luận chung số 13 Công ước quốc tế năm 1966 đã nhấn mạnh mối
quan hệ chặt chẽ giữa quyền SĐVT với nghĩa vụ chứng minh của bên Công
tố, với nguyên tắc Tòa án độc lập và không thiên vị, theo đó các cơ quan tố
tụng, Thẩm phán, Kiểm sát viên không được định kiến trước về kết quả xét
xử, việc xét xử tại phiên tòa phải tuân thủ giả định bị cáo vô tội:
Giả định vô tội - yếu tố cơ bản để bảo vệ quyền con người,
đòi hỏi bên công tố phải chứng minh sự cáo buộc. Không ai có thể
bị kết tội cho đến khi việc chứng minh không còn nghi ngờ nào;
đảm bảo quyền được suy đoán theo hướng có lợi... trong trường
hợp có sự nghi ngờ về lỗi của họ. Mọi cơ quan công quyền không
được định kiến về kết quả xét xử,...; Không được xiềng xích, nhốt
bị cáo... hoặc để họ xuất hiện trước Tòa theo cách thức cho thấy họ
bị coi là kẻ phạm tội... Báo chí cũng không được phép gây tổn hại
đến quyền giả định vô tội... [30, tr. 223].
42
Các quy định nêu trên của pháp luật quốc tế về SĐVT cho thấy con người
và quyền con người là giá trị cao quý nhất và là đối tượng ưu tiên bảo hộ
trong lĩnh vực tư pháp hình sự. SĐVT được coi là nguyên tắc "kinh điển nhất"
của TTHS và là "phẩm giá của văn minh nhân loại" [74, tr. 25]. Việc pháp
luật ghi nhận nguyên tắc SĐVT (quyền được SĐVT) là bảo đảm quan trọng,
là lá chắn vững chắc nhất để bảo vệ quyền con người, quyền công dân nhằm
phòng ngừa, ngăn chặn những vi phạm từ phía các cơ quan tố tụng. Tuy
nhiên, SĐVT là một vấn đề rộng, phức tạp của khoa học pháp lý nhưng điểm
mấu chốt và cơ bản nhất của nó là sự thể hiện ở quy định của pháp luật về
SĐVT ("luật trên giấy") và thái độ xử sự của các chủ thể tố tụng đối với
người bị buộc tội như thế nào trong quá trình TTHS ("luật trên thực tế"):
người bị buộc tội có được coi (giả thiết) là vô tội hay có tội? Đây là vấn đề
quan điểm còn khác nhau.
Nguyên tắc SĐVT đã được pháp luật quốc tế và pháp luật của nhiều
nước ghi nhận. Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng, hệ thống luật lục
địa (tố tụng thẩm vấn) hoạt động dựa trên suy đoán có tội cho đến khi chứng
minh được sự vô tội của người đó, còn hệ thống luật án lệ (tố tụng tranh tụng)
lại dựa trên SĐVT. Các nhân viên điều tra của hệ thống luật lục địa phải xác
định bất kỳ người nào có tội trong số những người "dường như" là vô tội...
Người nào chưa được chấm dứt điều tra thì vẫn "hình như" là có tội và hành
động tiếp theo của CQĐT đối với người này được thực hiện với suy đoán rằng
họ có tội... Một số học giả Trung Quốc cho rằng, nguyên tắc SĐVT chỉ làm
cho người ta thêm rối và phản tác dụng: trói tay các nhân viên thi hành pháp
luật, làm cho các tội phạm không bị trừng phạt... Quá trình TTHS chỉ đơn
giản là "tìm kiếm sự thật từ sự việc"... Theo đó sự có tội hay vô tội hoàn toàn
có thể được chứng minh một cách đúng đắn mà không cần phải SĐVT hay
suy đoán có tội [82, tr. 167-170].
Ý kiến khác thì cho rằng sự thật thế nào thì phải chứng minh, đi tìm,
chứ không được "suy đoán" theo bất cứ hướng nào. Nếu ghi nhận nguyên tắc
43
"suy đoán vô tội" cũng tức là không cần đến nguyên tắc "xác định sự thật của
vụ án"... [39]. Quan điểm thứ tư lại cho rằng, cả hai quan điểm thừa nhận và
phủ nhận nguyên tắc SĐVT đều đã bỏ qua một yếu tố hết sức quan trọng đó
là áp dụng pháp luật trên thực tế, bởi lẽ ngay cả khi "luật trên giấy" quy định
rằng bị can được SĐVT nhưng không có nghĩa là "luật trên thực tế" sẽ hành
động theo đúng như vậy... [82, tr. 170].
Việc tuân thủ và cụ thể hóa các nguyên tắc của pháp luật quốc tế trong
pháp luật nội địa không chỉ là trách nhiệm của mỗi quốc gia tham gia các điều
ước quốc tế mà còn là một đòi hỏi tất yếu khách quan. Ngày nay pháp luật
của hầu hết các nước (không phân biệt mô hình TTHS) đều thừa nhận các
nguyên tắc của pháp luật quốc tế (trong đó có nguyên tắc SĐVT) nhưng nội
dung được thể hiện ở mức độ rất khác nhau.
1.3.2. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật của một số nước
* Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật của Liên bang Nga:
Trước năm 2001, nguyên tắc giả định vô tội hay SĐVT được ghi nhận tại
Điều 14 Đạo luật "Những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Liên bang
Xô viết và các nước Cộng hòa" và trong BLTTHS năm 1960 của Liên bang
Nga. BLTTHS mới (được ban hành năm 2001 và có hiệu lực từ ngày
01/7/2002) [78] đã tiếp thu, kết hợp nhiều yếu tố tích cực, hợp lý của tố tụng
tranh tụng và làm cho mô hình tố tụng thẩm vấn truyền thống của Liên bang
Nga có sự thay đổi lớn. Đây là Bộ luật thể hiện tập trung rõ nét và cụ thể hóa
đầy đủ nhất nội dung của nguyên tắc SĐVT.
1) Về các nguyên tắc cơ bản: Trong số 14 nguyên tắc cơ bản của Bộ
luật này (các điều 6 - 19) có một số nguyên tắc liên quan đến nguyên tắc
SĐVT, cụ thể là:
a) "Điều 8. Việc xét xử chỉ do Tòa án tiến hành" quy định:
1. Việc xét xử vụ án hình sự ở Liên bang Nga chỉ do Tòa án
tiến hành;
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí...Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí...
Luận văn: Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự, 9đ - Gửi miễn phí...
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAYLuận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố
Luận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tốLuận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố
Luận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
 
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự, HAY
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự, HAYLuận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự, HAY
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự, HAY
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
 
Luận văn: Quy định của pháp luật về tội xâm hại tình dục trẻ em, 9đ
Luận văn: Quy định của pháp luật về tội xâm hại tình dục trẻ em, 9đLuận văn: Quy định của pháp luật về tội xâm hại tình dục trẻ em, 9đ
Luận văn: Quy định của pháp luật về tội xâm hại tình dục trẻ em, 9đ
 
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại TPHCM, HAY
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại TPHCM, HAYLuận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại TPHCM, HAY
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại TPHCM, HAY
 
Luận văn: Giáo dục, tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Giáo dục, tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Giáo dục, tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Giáo dục, tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 

Similar to Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx

Similar to Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx (20)

Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt NamLuận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
 
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con ngườiThẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
 
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAYLuận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
 
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tếLoại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Loại bỏ hình phạt tử hình trong tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
 
Bài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂM
Bài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂMBài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂM
Bài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOTLuận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
 
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
 
Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự
Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sựChế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự
Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOT
Luận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOTLuận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOT
Luận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOT
 
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAYLuận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
 
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễnLỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
Lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam - vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt NamLuận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
 
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sựLuận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt namLuận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo luậtLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo luật
 
Hội đồng xét xử sở thẩm theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
Hội đồng xét xử sở thẩm theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt NamHội đồng xét xử sở thẩm theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
Hội đồng xét xử sở thẩm theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
mskellyworkmail
 

Recently uploaded (20)

Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...
 
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
 
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft WordTrích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
 
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdfTiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
 
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
 
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
 
Kỹ năng khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo cho sinh viên
Kỹ năng khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo cho sinh viênKỹ năng khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo cho sinh viên
Kỹ năng khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo cho sinh viên
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÂM ANH TUẤN NGUYÊNTẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONGLUẬTTỐ TỤNGHÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÂM ANH TUẤN NGUYÊNTẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONGLUẬTTỐ TỤNGHÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành:Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản HÀ NỘI - 2016
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch•a tõng ®•îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n L©m Anh TuÊn
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mụccác từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝLUẬN VỀ NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 6 1.1. Khái niệm, nội dung, phạm vi và ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội 6 1.1.1. Khái niệm suy đoán vô tội 6 1.1.2. Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội 12 1.1.3. Phạm vi áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội 18 1.1.4. Ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội 22 1.2. Mối quan hệ giữa nguyên tắc suy đoán vô tội với một số nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự 26 1.2.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc tranh tụng trong xét xử 26 1.2.2. Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa 28 1.2.3. Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 30 1.3. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật quốc tế và pháp luật của một số nước 31 1.3.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật quốc tế 31 1.3.2. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật của một số nước 36
  • 5. 5 Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN TRƯỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VÀ THỰC TIỄNÁP DỤNG 43 2.1. Các quy định liên quan đến suy đoán vô tội trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 43 2.1.1. Các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến suy đoán vô tội trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 43 2.1.2. Các quy định liên quan đến suy đoán vô tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 47 2.2. Các quy định liên quan đến suy đoán vô tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 51 2.2.1. Các nguyên tắc liên quan đến suy đoán vô tội 52 2.2.2. Về quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tố tụng hình sự 53 2.2.3. Về thủ tục xét xử tại phiên tòa 56 2.3. Thực tiễnáp dụngcác quyđịnhliên quanđếnsuyđoánvô tộicủa Bộ luật tố tụng hìnhsự năm 2003 và những bấtcập, vướngmắc 58 2.3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định liên quan đến suy đoán vô tội của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 58 2.3.2. Những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định liên quan đến suy đoán vô tội của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 61 2.3.3. Nguyên nhân của những bất cập, vướng mắc trong áp dụng các quy định liên quan đến suy đoán vô tội của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 66 Chương 3: NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰCHIỆNNGUYÊN TẮC NÀY TRONG THỰC TIỄN 70 3.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội và các quy định có liên quan trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 70
  • 6. 6 3.1.1. Khái quát về Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 70 3.1.2. Phần thứ nhất của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 72 3.1.3. Phần thứ hai và Phần thứ ba của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 77 3.1.4. Phần thứ tư của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 78 3.2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong thực tiễn 79 3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện một số quy định về suy đoán vô tội của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 79 3.2.2. Tăng cường công tác phổ biến giáo dục và hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự mới 85 3.2.3. Các giải pháp khác 87 KẾT LUẬN 88 DANH MỤC TÀI LIỆUTHAM KHẢO 90
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra HĐXX : Hội đồng xét xử HLPL : Hiệu lực pháp luật SĐVT : Suy đoán vô tội TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TTHS : Tố tụng hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 8. 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tố tụng hình sự (TTHS) là một lĩnh vực đụng chạm trực tiếp tới các quyền tự do, dân chủ, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là người bị bắt giữ, bị can, bị cáo. Vì vậy, chống lại sự lạm quyền và bảo vệ có hiệu quả quyền con người, quyền công dân trong TTHS là một trong những nội dungrất quantrọng được cộng đồngquốctếvà mỗiquốc gia đều quantâm: Nhân quyền và các quyền tự do cơ bản là quyền của mọi người khi được sinh ra; việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền đó là trách nhiệm trước tiên của các Chính phủ... Việc đề cao và bảo vệ tất cả các quyền con người và các quyền tự do cơ bản phải được coi là một mục tiêu ưu tiên của Liên hợp quốc..., là mối quan tâm chính đáng của cộng đồng quốc tế... [23, tr. 656-657]. Để đạt mục tiêu trên, các văn kiện quan trọng của Liên hợp quốc đã quy định các nguyên tắc và điều kiện cần thiết, trong đó suy đoán vô tội (SĐVT) được ghi nhận là quyền con người, quyền cơ bản của mọi cá nhân và là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế: "Bất kỳ người bị buộc tội nào đều có quyền được suy đoán là không phạm tội..., được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội... được chứng minh theo pháp luật" [31, Điều 14]. Ngày nay hầu hết pháp luật của các quốc gia đều thừa nhận SĐVT là một nguyên tắc cơ bản của TTHS. Năm 1982 Việt Nam gia nhập Công ước quốc tế năm 1966 và cam kết thực hiện các nguyên tắc của Công ước này, trong đó có nguyên tắc SĐVT. Lần đầu tiên SĐVT được ghi nhận với tư cách là một nguyên tắc trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) đầu tiên (năm 1988) của nước ta (Điều 10), là một quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 (Điều 72) và là một trong các quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 (khoản 1 Điều 31): "Người bị buộc tội được coi là không có
  • 9. 9 tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòaán đã có hiệu lực pháp luật" [57]. Các nguyên tắc hiến định khác (như: Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập…; bảo đảm tranh tụng trong xét xử; chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm...) cũng được Hiến pháp mới bổ sung với nội dung rõ ràng, cụ thể hơn. Một số đạo luật khác như: Luật tổ chức Tòa án nhân dân (TAND), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), Luật Luật sư sửa đổi... cũng mới được ban hành. Đây là cơ sở pháp lý để hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta nói chung và BLTTHS nói riêng. Tuy nhiên, về SĐVT hiện nay đang còn những quan điểm khác nhau về một số vấn đề lý luận như: khái niệm, nội dung và phạm vi áp dụng; trách nhiệm chứng minh tội phạm;... Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm xác định đầy đủ nội hàm của nguyên tắc SĐVT và các nguyên tắc của TTHS nói chung, và cụ thể hóa đầy đủ, chính xác các nguyên tắc này trong BLTTHS là vấn đề cấp thiết. Mặt khác, thực tiễn TTHS gần đây cho thấy công cuộc cải cách tư pháp triển khai đã nhiều năm nhưng chưa tạo ra được sự chuyển biến cần thiết đáp ứng các yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) theo tinh thần Nghị quyết số số 49-NQ/TW. Việc nhận thức và áp dụng nguyên tắc SĐVT còn rất khác nhau, trong nhiều trường hợp còn bị áp dụng theo hướng ngược lại. Tình trạng bức cung, nhục hình, xét xử theo kiểu "án tại hồ sơ"... vẫn diễn ra khá phổ biến gây bức xúc, mất lòng tin của nhân dân,... Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản và quan trọng nhất là do BLTTHS năm 2003 được sửa đổi quá vội vàng, không cơ bản và đồng bộ nên chưa tạo ra được những thay đổi đột phá; không ghi nhận hoặc ghi nhận không đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của TTHS; thiếu các quy định cụ thể hoặc quy định không rõ ràng, cụ thể về các nguyên tắc này dẫn đến việc nhận thức và áp dụng không đúng và thống nhất trong thực tiễn... Vì vậy, việc làm sáng tỏ về lý luận nguyên tắc SĐVT theo Hiến pháp
  • 10. 10 năm 2013; những hạn chế, bất cập và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định liên quan đến SĐVT trong BLTTHS năm 2003 để làm cơ sở đánh giá sự hoàn thiện của các quy định về SĐVT trong BLTTHS năm 2015 đồng thời đề xuất một số giải pháp bảo đảm thực hiện các quy định về SĐVT của BLTTHS mới trong thực tiễn là vấn đề rất cấp thiết hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Những năm gần đây, SĐVT và các vấn đề liên quan đã được đề cập ở những cấp độ và phạm vi khác nhau trong các công trình nghiên cứu như: "Cải cách tư pháp và việc hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam" (2012), Tạp chí Kiểm sát, số 08 và "Nguyên tắc suy đoán vô tội - nguyên tắc hiến định quan trọng đối với việc đổi mới tố tụng hình sự Việt Nam" (2003), Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 07, của GS TSKH Đào Trí Úc; "Bảo đảm nguyên tắc "suy đoán vô tội" và tính thống nhất giữa Hiến pháp với Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự" (2013), http://tuphaphinhsu.wordpress.com, ngày 25/4/2013, của TS. Trịnh Tiến Việt; "Nguyên tắc suy đoán vô tội" (2006), Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11 và "Bình luận về nguyên tắc tranh tụng trong BLTTHS năm 2015 Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi" (2015), Tạp chí Kiểm sát, số 09, của PGS.TS Nguyễn Thái Phúc; "Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam" (2012), Tạp chí Kiểm sát, số 15, của TS. Phạm Mạnh Hùng; "Các nguyên tắc của Luật tố tụng hình sự - những kiến nghị sửa đổi bổ sung", http://tapchi.vnu.edu.vn, của PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí; "Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định về xét xử của Luật tố tụng hình sự Việt Nam" (2010), Tạp chí TAND, số 03, của ThS. Đinh Thế Hưng;... Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc SĐVT theo Hiến pháp năm 2013; sự phát triển ngày càng hoàn thiện của các quy định liên quan đến SĐVT trong pháp luật thực định Việt Nam từ năm 1945 đến
  • 11. 11 nay để làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc SĐVT trong thực tiễn đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và cải cáchtư pháp hiện nay. Tất cả các luận cứ nêu trên là lý do để tác giả lựa chọn "Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài Mục đíchvà nhiệm vụ nghiên cứu là làm sáng tỏ một số vấn đề sau: 1) Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc SĐVT: Cơ sở lý luận của nguyên tắc SĐVT; quan hệ giữa nguyên tắc SĐVT với một số nguyên tắc khác của Luật TTHS; nguyên tắc SĐVT trong pháp luật quốc tế và pháp luật của một số nước.; 2) Các quy định liên quan đến SĐVT trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến khi ban hành BLTTHS năm 2015; thực tiễn áp dụng các quy định liên quan đến SĐVT của BLTTHS năm 2003 và những bất cập, vướng mắc. 3) Nguyên tắc SĐVT và các quy định liên quan trong BLTTHS năm 2015; một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc SĐVT trong thực tiễn. Với nhiệm vụ trên, tác giả cố gắng làm sáng tỏ khái niệm, nội dung và phạm vi áp dụng nguyên tắc SĐVT có liên hệ với pháp luật quốc tế và pháp luật của một số nước; phân tích làm sáng tỏ các quy định BLTTHS năm 2003 liên quan đến SĐVT và những bất cập, vướng mắc. Trên cơ sở đó đánh giá sự hoàn thiện của các quy định của BLTTHS năm 2015 và đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc SĐVT trong thực tiễn. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về cải cách tư pháp. Quá trình thực hiện luận văn, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
  • 12. 12 phương pháp hệ thống, lịch sử, so sánh, phân tích - tổng hợp, khảo sát thực tiễn,...; Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, các Hiến pháp, BLTTHS, các văn bản pháp luật có liên quan, tham khảo các công trình nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước về các vấn đề liên quan. 5. Những điểm mới và đóng góp của đề tài Đây là công trình đầu tiên ở cấp độ thạc sĩ nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc SĐVT. Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về nguyên tắc SĐVT và các vấn đề liên quan. Những giải pháp đề xuất trong luận văn có ý nghĩa thiết thực đối với việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS. Ngoài ra, luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để giảng dạy, học tập cho các cơ sở đào tạo luật, trong hoạt động thực tiễn và những người quan tâm. 6. Kết cấucủa luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 2: Các quy định liên quan đến suy đoán vô tội trong pháp luật Việt Nam từ 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn.
  • 13. 13 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG, PHẠM VI VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI 1.1.1. Khái niệm suy đoán vô tội Từ "presume" trong tiếng Anh được dịch sang tiếng Việt mang hai nghĩa khác nhau: 1) Suy đoán (dự đoán) và 2) Giả định. Vì vậy, trong khoa học Luật TTHS, nguyên tắc "presumption of innocence" có hai tên gọi khác nhau: Nguyên tắc "suy đoán vô tội" và nguyên tắc "giả định vô tội" [16]. Tuy nhiên, trong luận văn này chúng tôi không tranh luận về thuật ngữ mà xem xét nguyên tắc này với tên gọi "suy đoán vô tội" (theo cách gọi phổ biến từ trước tới nay ở Việt Nam) và để làm rõ khái niệm "nguyên tắc suy đoán vô tội", cần xem xét thuật ngữ "suyđoán vôtội" ở hai góc độ:Nguyên tắc SĐVT và chế định SĐVT. * Nguyên tắc suy đoán vô tội: Với tư cách là một nguyên tắc cơ bản của TTHS, SĐVT được thừa nhận không chỉ trong pháp luật quốc tế mà cả trong pháp luật của hầu hết các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Để làm rõ khái niệm nguyên tắc SĐVT, trước hết cần làm rõ khái niệm "nguyên tắc cơ bản của Luậttố tụng hình sự". Đây là vấn đề còn có ý kiến khác nhau. Theo PGS.TS Trần Đình Nhã thì việc sử dụng khái niệm "nguyên tắc của Luật tố tụng hình sự" là sự nhầm lẫn khi coi TTHS và pháp luật TTHS là một. Các nguyên tắc của TTHS là những chế định pháp lý, được thể hiện bởi những quy phạm pháp luật TTHS, thể hiện bản chất của TTHS và mang tính định hướng cho các hoạt động và hành vi TTHS [37]. Theo PGS.TS Phạm Hồng Hải thì nguyên tắc TTHS là những quan điểm, tư tưởng, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về quá trình giải quyết vụ án hình sự đã được thể chế hóa trong BLTTHS mà các chủ thể tiến hành và
  • 14. 14 tham gia tố tụng, các cơ quan nhà nước, tổ chức và mọi công dân phải tuân theo. Khi nguyên tắc được quy định trong BLTTHS thì đó là nguyên tắc của TTHS... Nếu tư tưởng, quan điểm nào đó là quan điểm, tư tưởng chủ đạo của Luật TTHS thì chúng cũng là nguyên tắc của Luật TTHS. Ví dụ: nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc của TTHS và là nguyên tắc của Luật TTHS [18, tr. 115-122]. Quan điểm thứ ba thì cho rằng nguyên tắc của TTHS là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, có giá trị pháp lý bắt buộc chung đốivới các chủ thể tham gia vào quá trìnhgiải quyết vụ án hình sự[21, tr. 59]. Theo GS.TSKH Lê Cảm thì nguyên tắc của Luật TTHS là tư tưởng chủ đạo, định hướng cơ bản của hoạt động TTHS được thể hiện trong pháp luật TTHS, trong việc giải thích và thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS thông qua một quy phạm hay chế định của nó [3, tr. 37]. Quan điểm khác lại cho rằng nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS là những tư tưởng, định hướng của hoạt động TTHS thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với quá trình giải quyết vụ án là dân chủ, kỷ cương, theo định hướng XHCN, chi phối toàn bộ quá trình TTHS hoặc chi phối một số giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, được ghi nhận trong các văn bản pháp luật và có tính ổn định cao [24, tr. 68]. Ngoài ra, còn một số quan điểm khác về khái niệm này [61, tr. 47]. Chúng tôi đồng tình với PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí cho rằng có sự khác nhau giữa hai khái niệm "tố tụng hình sự" và "Luật tố tụng hình sự". Khái niệm "tố tụng hình sự" được hiểu là toàn bộ hoạt động của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng, các cá nhân, cơ quan, tổ chức nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật. Đây là hoạt động mang tính khách quan tồn tại trong xã hội có giai cấp, là đòi hỏi tất yếu của Nhà nước để trừng trị người phạm tội. Còn "Luật tố tụng hình sự" là khái niệm để chỉ tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. "Luật tố tụng hình sự" là một phạm trù chủ quan, là nhận thức hiện tượng khách quan của nhà
  • 15. 15 làm luật. Vì vậy, những phương châm, định hướng quan trọng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của quá trình TTHS, quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật TTHS được gọi là các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS [4, tr. 55]. Từ khái niệm "nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự" nêu trên, có thể thấy rằng nội hàm của nguyên tắc SĐVT được quy định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 thể hiện ở yêu cầu người bị buộc tội phải được coi là vô tội cho đến khi tội phạm của họ được chứng minh theo trình tự, thủ tục do luật định và được xác định bằng một bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (HLPL). Yêu cầu này dựa trên các giá trị công bằng, bình đẳng và là một bảo đảm quan trọng và hữu hiệu đối với việc tôn trọng, bảo vệ quyền con người trong tất cả các giai đoạn của quá trình TTHS. SĐVT đối lập với "suy đoán có tội" là một khuynh hướng diễn ra phổ biến trong hoạt động tư pháp, xâm phạm nghiêm trọng nguyên tắc "suy đoán vô tội" được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng oan sai [74, tr. 26]. Từ phân tích trên, có thể khẳng định yêu cầu về SĐVT luôn giữ vai trò định hướng quan trọng và chi phối không chỉ đối với các giai đoạn của quá trình TTHS (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử) mà cả đối với giai đoạn tiền tố tụng (trường hợp bắt giữ người bị tình nghi phạm tội) và thi hành án hình sự (trường hợp bản án kết tội của Tòa án đã có HLPL bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm) đồng thời tác động mạnh mẽ đối với quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật. Theo Từ điển Luật học, thì SĐVT là một nguyên tắc cơ bản và quan trọng của TTHS, theo đó bị can, bị cáo được coi là vô tội, không phải chịu trách nhiệm hình sự khi lỗi của người đó chưa được chứng minh theo trình tự luật định và chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có HLPL [83, tr. 678]. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng theo pháp luật của một số nước thì bản chất của nguyên tắc này được hiểu là trong mọi trường hợp nếu một người thực
  • 16. 16 hiện một hành vi mà hành vi đó còncó ý kiến khác nhau về việc định tội thì phải áp dụng nguyên tắc có lợi cho họ... Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử nếu bên "buộctội" không đưa ra được những bằng chứng xác đáng, mà bên "gỡtội" lại đưa ra được những bằng chứng chứng minh bị can, bị cáo không phạm tội thì không được truy cứu người có hành vi đó. Xét về mặt nào đó thì nguyên tắc SĐVT đối lập với nguyên tắc "xác định sự thậtcủa vụ án". Sự thật thế nào thì phải chứng minh, đi tìm, chứ không được "suy đoán" theo bất cứ hướng nào. Nếu ghi nhận nguyên tắc "suy đoán vô tội" cũng tức là không cần đến nguyên tắc "xác định sự thật của vụ án". Và như vậy, bản chất pháp luật của nước ta sẽ bị thay đổi... Thực chất, nguyên tắc này chỉ để giải quyết vấn đề "thắng - thua"...,buộc Hội đồng xét xử (HĐXX) phải chấp nhận "thắng - thua" giữa Luật sư và Kiểm sát viên mà không cần đến sự thật... [39]. Chúng tôi cho rằng quan điểm nêu trên về SĐVT là không chính xác và có sự nhầm lẫn trong phân định các chức năng cơ bản trong TTHS giữa bên buộc tội, bên bào chữa và Tòa án. Bản chất của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ trong mọi trường hợp sự tình nghi một người phạm tội của các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội (Cơ quan điều tra (CQĐT)/ Điều tra viên và Viện kiểm sát (VKS)/ Kiểm sát viên) đều mới chỉ là "giả định", có nghĩa là người bị tình nghi có thể có tội và cũng có thể là không có tội. "Giả định" này phải được chứng minh bằng các chứng cứ theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định thông qua việc kiểm tra, xác minh công khai tại phiên tòa với sự tham gia đầy đủ của các chủ thể của bên buộc tội, bên bào chữa và các chủ thể khác (người làm chứng, người phiên dịch, giám định viên) dưới sự giám sát của HĐXX. Tại đây bên buộc tội (Kiểm sát viên, người bị hại) có trách nhiệm chứng minh cho sự cáo buộc của mình bằng các chứng cứ buộc tội mà họ thu thập được, bên bào chữa (Luật sư, bị cáo) cũng đưa ra các chứng cứ gỡ tội để HĐXX xem xét và ra phán quyết kết tội bị cáo hay tuyên bố họ vô tội. Kể cả khi đã có bản án kết tội, thì người bị kết án cũng chỉ bị coi là có tội khi phán
  • 17. 17 quyết này có HLPL. Vì vậy, khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có HLPL thì các chủ thể tố tụng (CQĐT, VKS, Tòa án) không được coi người bị buộc tội là có tội. Yêu cầu này nhằm ngăn chặn mọi sự quy kết vội vã và định kiến đối với người bị buộc tội, tâm lý chủ quan, sự tùy tiện, tắc trách của người có thẩm quyền có thể dẫn đến làm oan người vô tội... Như vậy, có thể thấy rằng SĐVT không chỉ là một nguyên tắc cơ bản và quan trọng của Luật TTHS mà còn là quyền cơ bản của người bị buộc tội. Theo nguyên tắc này thì người bị buộc tội được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội tại phiên tòa công khai, nơi bảo đảm những điều kiện cần thiết để bị cáo tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa và sự xét xử công bằng nhằm bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi íchhợp pháp của mình. Từ phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm sau: Nguyên tắc suy đoán vô tội là một nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam, theo đó một người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi tội phạm của họ được chứng minh theo trình tự, thủ tục luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. * Chế định suy đoán vô tội: Suy đoán vô tội không chỉ là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS mà còn là một chế định quan trọng của Luật TTHS. Về mặt lý luận, thì pháp luật là một hệ thống (tổng thể) các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Hệ thống các quy phạm pháp luật này được phân thành các tiểu hệ thống, mỗi tiểu hệ thống này điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội và được gọi là một ngành luật. Vì vậy, với tư cách là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật của nước ta, Luật TTHS là tổng thể (hệ thống) các quy phạm pháp luật có quan hệ chặt chẽ với nhau cùng điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự (lĩnh vực tư pháp hình sự). Hệ thống các quy phạm pháp luật này
  • 18. 18 được phân thành các tiểu hệ thống - các chế định pháp lý và mỗi chế định này gồm một số quy phạm pháp luật có quan hệ chặt chẽ với nhau điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã hội cùng loại - cùng tính chất (ví dụ: chế định người bào chữa, chế định Hội thẩm, chế định phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm,...). Đến lượt mình mỗi quy phạm pháp luật TTHS lại điều chỉnh trực tiếp một quan hệ xã hội cụ thể (ví dụ: quy định tại khoản 2 Điều 48 BLTTHS (quyền của người tạm giữ) điều chỉnh quan hệ giữa người bị tạm giữ với cơ quan, người có thẩm quyền tạm giữ (Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên). Với tư cách là một chế định của Luật TTHS, SĐVT là một tiểu hệ thống bao gồm các quy phạm pháp luật TTHS có liên quan. Trước hết nguyên tắc SĐVT liên quan chặt chẽ với các nguyên tắc cơ bản khác của Luật TTHS (đặc biệt là với nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa và bảo đảm tranh tụng trong xét xử). Bởi lẽ nếu không được SĐVT thì người bị buộc tội đã bị coi là có tội ngay từ khi bị tình nghi (bị bắt giữ, khởi tố, điều tra hay truy tố…) và quyền bào chữa, quyền tranh tụng trước Tòa án để tìm ra chân lý sẽ chỉ còn là hư quyền. Khi đó xét xử chỉ còn là việc Tòa án đi tìm lời giải cho một bài toán đã có đáp số: "Bị cáo có tội". Chính vì vậy, Hiến pháp năm 2013 (Điều 31, Điều 102,...) đã ghi nhận nhiều nguyên tắc mới của TTHS, trong đó có nguyên tắc SĐVT. BLTTHS năm 2003 cũng có nhiều quy định nhằm bảo đảm để nguyên tắc SĐVT được thực thi trên thực tế như: trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội (Điều 10). Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. CQĐT, VKS, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền tự bào chữa của họ (Điều 11); Thẩm phán, Hội thẩm độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 17);... Các nguyên tắc này được cụ thể hóa trong các quy định khác của BLTTHS như: quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng; trình tự, thủ
  • 19. 19 tục thu thập, cung cấp, đánh giá chứng cứ; khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) các vụ án hình sự;... Như vậy, có thể thấy một số nguyên tắc trong Hiến pháp mới và các quy định nêu trên trong BLTTHS năm 2003 có liên quan chặt chẽ với nguyên tắc SĐVT và tạo thành một chế định quan trọng - chế định SĐVT nhằm điều chỉnh đồng bộ các quan hệ phát sinh giữa người bị buộc tội, các chủ thể tố tụng và các chủ thể khác trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Chế định này bao gồm các quy phạm pháp luật TTHS (một số nguyên tắc cơ bản và các quy định cụ thể của BLTTHS) và đồng thời là điều kiện cần thiết bảo đảm tính khả thi của nguyên tắc SĐVT trên thực tế. 1.1.2. Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội Nguyên tắc SĐVT trong Hiến pháp năm 2013 khẳng định cho đến khi có bản án kết tội của Tòaán đã có HLPL thì người bị buộc tội được coi là không có tội, tức là họ vẫn có đủ tư cách công dân với các quyền, nghĩa vụ do Hiến pháp và pháp luật quy định (trừ một số quyền bị hạn chế khi áp dụng biện pháp cưỡng chế như tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú,...). Nguyên tắc này thể hiện quan điểm của Nhà nước ta trong việc tôn trọng các giá trị cao quý của conngười trong xã hội và nhằm thực hiện các nguyên tắc của Công ước quốc tế năm 1966 (trong đó có nguyên tắc SĐVT) mà Việt Nam đã gia nhập năm 1982. Mặc dù cho đến nay, trong Hiến pháp cũng như các văn bản pháp luật khác của nước ta thuật ngữ "suy đoán vô tội" chưa một lần được sử dụng nhưng nội dung của nguyên tắc này đã được chính thức ghi nhận lần đầu tiên trong BLTTHS năm 1988 (Điều 10 và Điều 11), trong Hiến pháp sửa đổi năm 1992 (Điều 72) và BLTTHS năm 2003 (Điều 9 và Điều 10). Nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và cải tư pháp ở nước ta trong giai đoạn mới đồng thời làm cơ sở pháp lý để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đã chính thức thừa nhận các quyền con người bên cạnh các quyền cơ bản của
  • 20. 20 công dân, đồng thời bổ sung nhiều nguyên tắc hiến định mới. Điều 31 của Hiến pháp mới quy định: 1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; 2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời.., công bằng, côngkhai...; 3. Không ai bị kết án hai lần vì một tôi phạm; 4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam... có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa; 5. Ngườibị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án tráipháp luật có quyềnđượcbồithườngthiệthại... [57]. Vấn đề quan trọng đặt ra là cần xác định nội hàm của nguyên tắc SĐVT trong Hiến pháp mới và các nội dung (yêu cầu) cụ thể của nguyên tắc này cần được thể hiện trong BLTTHS sửa đổi với tư cách là một nguyên tắc cơ bản và quan trọng của Luật TTHS Việt Nam. Đây là vấn đề còn có các quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng nội hàm của nguyên tắc SĐVT trong Hiến pháp năm 2013 bao gồm cả 5 khoản được quy định tại Điều 31 [27]. Theo quan điểm thứ hai thì nội dung của nguyên tắc SĐVT trong Hiến pháp mới bao gồm: Quyền được đưa ra xét xử đối với người bị tình nghi phạm tội cũng đồng nghĩa với trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh hành vi phạm tội của người đó theo một trình tự luật định và phải nhanh chóng đưa ra xét xử đúng thời hạn; việc tuyên án phải công khai kể cả trường hợp xét xử kín [71]. Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ ba cho rằng nội hàm của nguyên tắc SĐVT chỉ bao gồm nội dung quy định tại khoản 1 Điều 31 của Hiến pháp mới: "Người bị buộc tội được coilà không có tội cho đến khi được
  • 21. 21 chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [74, tr. 35]. Các quy định còn lại trong Điều 31 Hiến pháp năm 2013 không thuộc nội hàm của nguyên tắc SĐVT mà thuộc nội hàm của các nguyên tắc khác của Luật TTHS (xét xử kịp thời, công bằng, công khai; pháp chế XHCN; bảo đảm quyền bào chữa; được bồithường khi bị oan sai;...). Với nội hàm của nguyên tắc SĐVT đã đề cập ở trên, có thể thấy nội dung của nguyên tắc SĐVT trong Hiến pháp mới đã khắc phục được những bất cập, hạn chế trong quy định của Hiến pháp năm 1992 (Điều 72), cụ thể là: Một là, việc thay cụm từ "không ai" bằng cụm từ "người bị buộc tội" đã bảo đảm sự chính xác trong xác định phạm vi các đối tượng được áp dụng nguyên tắc này (những người có quyền được SĐVT) chỉ bao gồm "người bị buộc tội" (người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo) chứ không phải là bất kỳ người nào ("không ai") như trong Hiến pháp năm 1992. Hai là, việc bỏ cụm từ "và phải chịu hình phạt" trong nội hàm của nguyên tắc SĐVT không chỉ nhằm bảo đảm tính thống nhất, phù hợp với quy định về miễn hình phạt (Điều 54) của Bộ luật hình sự (BLHS) mà còn bao quát đầy đủ những trường hợp kết tội bằng bản án nhưng hậu quả pháp lý khác nhau: bị áp dụng hình phạt và được miễn hình phạt. Ba là, việc thay cụm từ "bị coi là có tội" bằng cụm từ "được coi là không có tội" nhằm khẳng định đây là một quyền đương nhiên (quyền con người) của người bị buộc tội, chứ không phải sự áp đặt (đặc quyền) chủ quan của cơ quan có thẩm quyền đối với người bị buộc tội. Bốn là, việc thay cụm từ "khi chưa có bản án..." bằng cụm từ "cho đến khi có bản án..." bảo đảm tính chính xác của nguyên tắc này: chỉ có một khả năng duy nhất là "khi có bản án kết tội", loại trừ khả năng thứ hai "chưa có bản án..." có thể xảy ra (sẽ) "không có bản án". * Nội dung của nguyên tắc SĐVT cần thể hiện trong Bộ luật tố tụng hình sự: Các nguyên tắc trong Hiến pháp năm 2013 nói chung và nguyên tắc
  • 22. 22 SĐVT nói riêng chỉ là những tư tưởng chỉ đạo, cơ sở pháp lý mang tính định hướng cho hoạt động lập pháp nói chung và xây dựng BLTTHS nói riêng. Mặt khác, việc cụ thể hóa nội dung của các nguyên tắc hiến định này trong BLTTHS sẽ là căn cứ pháp lý để hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHS nói chung và các quy định cụ thể trong BLTTHS nói riêng. Như chúng tôi đã đề cập ở trên, nội hàm của nguyên tắc SĐVT trong Hiến pháp mới chỉ bao gồm quy định tại khoản 1 Điều 31. Vấn đề đặt ra là phải xác định đúng và đầy đủ các nội dung (yêu cầu) của nguyên tắc SĐVT cần được thể hiện trong BLTTHS sửa đổi với tư cách là một nguyên tắc cơ bản của luật TTHS Việt Nam. Đây là vấn đề còncó ý kiến không thống nhất. Quan điểm thứ nhất cho rằng nội dung của nguyên tắc SĐVT trong BLTTHS chỉ cần thể hiện như quy định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 "Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" là đầy đủ. Quan điểm thứ hai cho rằng, ngoài nộidung quy định tại khoản 1 Điều 31 của Hiến pháp mới, nguyên tắc SĐVT cần thể hiện trong BLTTHS sửa đổi còn bao gồm các nội dung: 1) Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh về sự vô tội của mình. Trách nhiệm chứng minh thuộc các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (bao gồm cả Tòa án); 2) Mọi hoài nghi về tội của người bị buộc tội nếu không thể làm sáng tỏ theo trình tự, thủ tục luật định thì phải xử lý theo hướng có lợi cho họ [22, tr. 37]. Quan điểm thứ ba về cơ bản nhất trí với quan điểm thứ hai nhưng cho rằng cần xác định rõ: "Trách nhiệm chứng minh tội phạm chỉ thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra", đồng thời bổ sung thêm nội dung: "Bản án kết tội
  • 23. 23 của Tòa án không được dựa trên những căn cứ giả định" [1]. Quan điểm khác lại cho rằng ngoài các nội dung như quan điểm thứ ba, cần bổ sung thêm nội dung: "Người bị buộc tội có quyền im lặng cho đến khi có mặt Luật sư, người bào chữa theo yêu cầu của họ hoặc được chỉ định theo quy định pháp luật" [25]. Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ ba về các nội dung của nguyên tắc SĐVT cần được thể hiện trong BLTTHS với lý do sau: - Nội dung thứ nhất của nguyên tắc SĐVT được ghi nhận tại khoản 1 Điều 31 và phù hợp với quy định của Hiến pháp mới về chức năng của Tòa án "là cơ quan xét xử..., thực hiện quyền tư pháp" (khoản 1 Điều 102) và nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử (khoản 5 Điều 103). - Nội dung thứ hai của nguyên tắc này cũng được khẳng định trong Hiến pháp mới: "... cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định". Mặt khác, theo nguyên tắc tranh tụng thì trong TTHS luôn tồn tại ba chức năng cơ bản là buộc tội, bào chữa và xét xử. Mỗi chức năng này do một nhóm chủ thể tương ứng thực hiện: các chủ thể của bên buộc tội thực hiện chức năng buộc tội; các chủ thể của bên bào chữa thực hiện chức năng bào chữa và Tòa án (HĐXX) thực hiện quyền tư pháp (xét xử). Vì vậy, trong mọi giai đoạn tố tụng và tại phiên tòa công khai, trách nhiệm chứng minh tội phạm luôn thuộc về bên buộc tội (Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bị hại, nguyên đơn dân sự...). Bên bào chữa (chủ yếu là Luật sư bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của bị đơn dân sự) có trách nhiệm chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo hay giảm nhẹ mức bồi thường. Còn chứng minh về sự vô tội là quyền hạn chủ quan mà không phải nghĩa vụ của người bị buộc tội. Tòa án (HĐXX) thực hiện chức năng xét xử nên không có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Tại phiên tòa, nếu đủ chứng cứ buộc tội thì HĐXX ra bản án kết tội và nếu không có đủ chứng cứ chứng minh tội phạm thì HĐXX tuyên bị cáo không có tội.
  • 24. 24 - Yêu cầu thứ ba của nguyên tắc SĐVT đòi hỏi sự buộc tội phải dựa trên những chứng cứ xác thực đã được kiểm tra, xác minh công khai tại phiên tòa và không còn bất kỳ sự nghi ngờ nào. Mọi sự nghi ngờ về tội phạm nếu không làm rõ được theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định hoặc khi quy định pháp luật có thể hiểu khác nhau, thì phải được xử lý theo hướng có lợi cho bị cáo (ví dụ: nghi ngờ một người là phạm tội nhưng không chứng minh được họ phạm tội thì phải coi họ là người vô tội; nghi ngờ phạm tội nặng nhưng chỉ có chứng cứ xác định hành vi của họ cấu thành tội nhẹ hơn thì phải xử lý về tội nhẹ hơn). Việc ghi nhận nội dung này của SĐVT trong BLTTHS không chỉ xuất phát từ trách nhiệm chứng minh tội phạm mà còn là căn cứ để xử lý dứt điểm các trường hợp bên buộc tội đã áp dụng mọi biện pháp mà pháp luật cho phép nhưng không thu thập đủ chứng cứ chứng minh tội phạm, mà còn nhằm khắc phục tư tưởng "bắt nhầm hơn bỏ sót" đang tồn tại phổ biến trong nhận thức của các chủ thể tố tụng ở nước ta hiện nay. Một vấn đề khác có liên quan trực tiếp đến nguyên tắc SĐVT đó là "quyền im lặng" của người bị buộc tội. Chúng tôi cho rằng quyền này của người bị buộc tội chỉ là sự cụ thể hóa nội dung thứ hai của nguyên tắc SĐVT và cần thể hiện trong các quy định của BLTTHS về quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội. Tuy nhiên, đây là một vấn đề nhạy cảm và đang được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm với các luồng ý kiến khác nhau: Nhiều người ủng hộ việc ghi rõ quyền này trong Bộ luật, nhưng cũng có không ít người phản đối. Chúng tôi đồng tình với đa số ý kiến cho rằng nội dung quy định như trong BLTTHS năm 2015 về quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo: "Được tự do trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội" (các điều 58 - 61) đã thể hiện đầy đủ quyền của người bị buộc tội và thực chất đây chính là "quyền im lặng". Quy định như vậy là rõ ràng, minh bạch hơn (so với BLTTHS năm 2003) vừa giúp bị can, bị cáo thấy rõ quyền của mình và người
  • 25. 25 tiến hành tố tụng cũng thấy rõ nghĩa vụ của mình; vừa khắc phục được tình trạng ép cung, mớm cung, dùng nhục hình,... đồng thời tránh được sự lạm dụng hiểu không đúng quyền này trong thực tiễn [19]. 1.1.3. Phạm vi áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội Theo quy định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013, để xác định một người là có tộiphải có đồng thời cả haiđiều kiện: 1) Tộiphạm của ngườibị buộc tội đã được chứng minh theo trình tự luật định; 2) Có bản án kết tội của Tòa án đối với người đó đã có HLPL. Thiếu một trong hai điều kiện này thì người bị buộc tội luôn được coi là không có tội. Như vậy, quyền được SĐVT của người bị buộc tội gắn liền và tồn tại song song với sự buộc tội. Nó chỉ bị triệt tiêu khi có đồng thời cả hai điều kiện nói trên. Đây cũng là cơ sở để xác định phạm vi áp dụng nguyên tắc SĐVT về không gian, thời gian, về chủ thể và đốitượng. * Phạm vi áp dụng nguyên tắc SĐVT về không gian: Phạm vi này trả lời cho câu hỏi: Nguyên tắc SĐVT được áp dụng đối với lĩnh vực nào của tư pháp (hình sự, phi hình sự)? Về vấn đề này có ý kiến cho rằng nguyên tắc SĐVT được áp dụng đối với cả lĩnh vực tư pháp hình sự và phi hình sự (dân sự, kinh tế,...). Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng SĐVT chỉ liên quan đến vấn đề xác định một người là có tội hay không có tội. Đây là vấn đề thuộc về lĩnh vực tư pháp hình sự nên nguyên tắc SĐVT cũng chỉ có thể áp dụng đối với lĩnh vực tư pháp duy nhất là TTHS, còn lĩnh vực tư pháp phi hình sự (dân sự, hành chính, kinh tế) chỉ giải quyết các vi phạm, tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh tế,... không liên quan gì đến vấn đề có tội hay không có tội nên không thể áp dụng nguyên tắc SĐVT. * Phạm vi áp dụng nguyên tắc SĐVT về thời gian: Phạm vi áp dụng về thời gian của nguyên tắc SĐVT trả lời cho câu hỏi: Nguyên tắc này được áp dụng đối với các giai đoạn nào của quá trình TTHS? Về vấn đề này, quan điểm thứ nhất cho rằng, nguyên tắc SĐVT được áp dụng từ thời điểm một người bị chính thức buộc tội bằng một văn bản tố
  • 26. 26 tụng (quyết định khởi tố bị can) của cơ quan có thẩm quyền và kết thúc khi có bản án kết tội đối với người đó đã có HLPL [61, tr. 35], tức là nguyên tắc này chỉ áp dụng đối với các giai đoạn: khởi tố, điều tra và xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm) vụ án. Quan điểm thứ hai cho rằng, nguyên tắc SĐVT được áp dụng đối với tất cả các giai đoạn của quá trình TTHS và trong một số trường hợp nhất định nguyên tắc này còn được áp dụng đối với cả giai đoạn tiền tố tụng trong trường hợp bắt giữ người bị tình nghi [17, tr. 37]. Quan điểm thứ ba đồng tình với quan điểm thứ hai nhưng cho rằng, nguyên tắc này còn được áp dụng cả khi bản án của Tòa án đã có HLPL trong trường hợp bản án kết tội bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm [20, tr. 15]. Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ ba và cho rằng quan điểm thứ nhất quá thu hẹp phạm vi áp dụng nguyên tắc SĐVT, còn quan điểm thứ hai thì lại quá mở rộng phạm vi này với lý do sau: Thứ nhất, về mặt lý luận, quá trình TTHS được phân thành các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Khi một người bị khởi tố với tư cách là bị can cũng có nghĩa là họ chính thức bị buộc tội. Vì vậy, từ thời điểm này và trong các giai đoạn tiếp theo (điều tra, truy tố, xét xử) cho đến khi bản án kết tội có HLPL với tư cáchlà bị can, bị cáo, họ luôn có quyền được SĐVT. Thứ hai, trong trường hợp người bị tình nghi bị bắt, tạm giữ, mặc dù chưa văn bản tố tụng chính thức buộc tội nhưng việc áp dụng biện pháp cưỡng chế và hạn chế một số quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì ở mức độ nhất định đã thể hiện sự buộc tội. Vì vậy, pháp luật cũng coingười bị tình nghi là người bị buộc tội và từ thời điểm bị bắt, tạm giữ họ đương nhiên có quyền được SĐVT và cơ quan tố tụng có trách nhiệm coi họ là người không có tội trong suốt quá trình TTHS cho đến khi có bản án kết tội có HLPL [74, tr. 56]. Thứ ba, khi bản án kết tội có HLPL có nghĩa là tội phạm đã được chứng minh và người bị kết án chính thức bị coilà có tội và phải thi hành
  • 27. 27 bản án. Tuy nhiên, theo quy định của BLTTHS, thì bản án đã có HLPL có thể bị kháng nghị và được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm (khoản 2 Điều 20). Chúng tôi cho rằng trong trường hợp này người bị kết án vẫn được áp dụng nguyên tắc với lý do sau để chấm dứt áp dụng nguyên tắc SĐVT phải có đồng thời cả hai điều kiện (cần và đủ): 1) Tội phạm được chứng minh theo trình tự luật định; 2) Có bản án kết tội của Tòa án đã có HLPL. Trong trường hợp bản án bị kháng nghị và được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm (tái thẩm), mới chỉ một điều kiện để chấm dứt áp dụng nguyên tắc SĐVT là "có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật", nhưng còn thiếu điều kiện thứ hai: "Tội phạm được chứng minh theo trình tự luật định", bởi lẽ từ thời điểm có quyết định kháng nghị bản án kết tội đã có HLPL, thì tính hợp pháp và có căn cứ của bản án này bị nghi ngờ, việc chứng minh tội phạm được xem xét lại và chỉ kết thúc khi cấp giám đốc thẩm, tái thẩm ra một trong các quyết định theo quy định tại Điều 285, Điều 298 BLTTHS: 1) Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án...; 2) Hủy bản án... và đình chỉ vụ án; 3) Hủy bản án... để điều tra lại hoặc xét xử lại. Như vậy, trong các trường hợp này nguyên tắc SĐVT lại được áp dụng đối với người bị kết án từ thời điểm có kháng nghị và kết thúc khi Hội đồng giám đốc thẩm (tái thẩm) ra quyết định giữ nguyên bản án đã có HLPL hoặc hủy bản án kết tội và đình chỉ vụ án. Trong trường hợp Hội đồng giám đốc thẩm (tái thẩm) quyết định hủy bản án để điều tra lại hoặc xét xử lại, thì khi đó với tư cách là bị can, bị cáo đương nhiên họ lại có quyền được SĐVT. * Phạm vi chủ thể áp dụng nguyên tắc SĐVT: Phạm vi này trả lời cho câu hỏi: Ai là người có trách nhiệm SĐVT? Về vấn đề này, quan điểm thứ nhất cho rằng, chủ thể có trách nhiệm tuân thủ nguyên tắc SĐVT chỉ bao gồm các chủ thể tố tụng và một số cơ quan được giao tiến hành một số hoạt
  • 28. 28 động tố tụng. Quan điểm thứ hai thì cho rằng, phạm vi chủ thể có trách nhiệm tuân thủ nguyên tắc SĐVT bao gồm không chỉ các cơ quan, người tiến hành tố tụng, một số cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động tố tụng mà cả những chủ thể khác: cơ quan, tổ chức, báo chí, truyền thông... Khi chưa có bản án kết tội đã có HLPL thì tất cả các chủ thể này đều phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm và đối xử với người bị buộc tội như với người không có tội. Chúng tôi ủng hộ quan điểm thứ hai và cho rằng, SĐVT là quyền con người và cũng là quyền cơ bản của công dân khi họ bị buộc tội. Theo nguyên tắc SĐVT, thì "người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật". Yêu cầu này của nguyên tắc SĐVT là bắt buộc không chỉ đối với các chủ thể tiến hành tố tụng mà cả đối với các chủ thể khác (cơ quan, tổ chức, báo chí, truyền thông...). Mọi hình thức thể hiện về sự có tội đối với người bị buộc tội của bất kỳ cơ quan, tổ chức nào trước khi có bản án kết tội của Tòa án có HLPL đều là vi phạm nguyên tắc SĐVT. Về vấn đề này Ủy ban quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc đã cảnh báo về sự vi phạm của các cơ quan hữu trách trong việc không thực hiện việc hạn chế theo khoản 2 Điều 14 của Công ước quốc tế năm 1966: "... Mọi cơ quan chức năng có nghĩa vụ hạn chế phán quyết trước về kết quả của phiên tòa" [88]. * Phạm vi đối tượng có quyền được SĐVT: Phạm vi này trả lời cho câu hỏi: Ai có quyền được SĐVT? Về vấn đề này có ý kiến cho rằng theo quy định tại Điều 9 BLTTHS năm 2003 "không ai bị coi là có tội..." thì đối tượng có quyền được SĐVT không bị giới hạn bởi sự buộc tội vì thuật ngữ "không ai" trong quy định này có thể là bất kỳ người nào. Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền Pháp năm 1789 (Điều 9) cũng khẳng định quyền SĐVT được đảm bảo cho tất cả mọi người (thuật ngữ "tout homme" trong văn bản này có nghĩa là "tất cả mọi người") [20, tr. 35].
  • 29. 29 Quan điểm thứ hai cho rằng, sự buộc tội xuất hiện cả khi chưa có quyết định khởi tố bị can (trường hợp bắt, tạm giữ người bị tình nghi) và tồn tại cho đến khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt hoặc được miễn hình phạt (toàn bộ) hay được đại xá, ân xá. Vì vậy, phạm vi đối tượng được SĐVT bao gồm không chỉ người bị tình nghi, bị can, bị cáo mà cả những người bị kết án nhưng chưa chấp hành xong hình phạt [19, tr. 28]. Quan điểm thứ ba thì cho rằng, đối tượng có quyền được SĐVT chỉ bao gồm bị can, bị cáo và họ có quyền này từ thời điểm có quyết định khởi tố bị can cho đến khi bản án kết tội của Tòaán có HLPL [61, tr. 23]. Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ tư cho rằng, sự buộc tội có thể xuất hiện cả ở giai đoạn tiền tố tụng (trường hợp bắt, tạm giữ người bị tình nghi) và tồn tại trong các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử cho đến khi có bản án kết tội có HLPL. Vì vậy, nguyên tắc SĐVT chỉ áp dụng đối với "người bị buộc tội" bao gồm: người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử [20]. Ngoài ra, trong trường hợp bản án kết tội đã có HLPL nhưng bị kháng nghị giám đốc thẩm (tái thẩm) thì người bị kết án lại được áp dụng nguyên tắc SĐVT vì trong trường hợp này việc chứng minh tội phạm sẽ được xem xét lại tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm. 1.1.4. Ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội Việc ghi nhận trong pháp luật quốc tế, sự thừa nhận và thể hiện SĐVT trong pháp luật của các quốc gia là một thành tựu vĩ đại của nền văn minh nhân loại trong việc bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực TTHS. Có thể nói việc Hiến pháp và các văn bản pháp luật của nước ta ghi nhận nguyên tắc SĐVT với tư cách là một nguyên tắc cơ bản của tư pháp hình sự có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng thể hiện ở một số điểm cơ bản sau đây: Một là, nguyên tắc SĐVT là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, là một trong những nội dung cơ bản về quyền con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế năm 1948, Công ước quốc tế năm
  • 30. 30 1966 và được áp dụng rộng rãi trong hệ thống pháp luật TTHS của hầu hết các nước. Năm 1982 Việt Nam gia nhập Công ước quốc tế năm 1966 và cam kết thực hiện các nguyên tắc của Công ước này, trong đó có nguyên tắc SĐVT. Việc BLTTHS nước ta tiếp tục ghi nhận và hoàn thiện nguyên tắc SĐVT là vô cùng cần thiết, là bước tiến vượt bậc về bảo đảm quyền con người trong TTHS [5]. Bởi lẽ, trước hết nguyên tắc này bảo đảm thái độ khách quan của các chủ thể tố tụng. Nó đòihỏi trong suốt quá trình TTHS (từ khi khởi tố vụ án, điều tra, truy tố, xét xử) các chủ thể tố tụng không được coi người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo là người đã có tội, mà họ chỉ là người đã thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm. Kể cả trong trường hợp khi bị áp dụng biện pháp cưỡng chế, thì chỉ một số quyền của họ bị hạn chế trong phạm vi quy định của pháp luật, còn những quyền con người và những quyền công dân khác của họ vẫn phải được tôn trọng và bảo đảm (ví dụ: quyền bầu cử vẫn phải được bảo đảm đốivới người bị tạm giữ, tạm giam). Mặt khác, nguyên tắc SĐVT là một bảo đảm nhằm bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội khi xác định rõ trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các chủ thể thuộc bên buộc tội(Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bị hại). Ngoài các chứng cứ buộc tội, các chủ thể tố tụng còn có trách nhiệm thu thập cả các chứng cứ gỡ tội; phải có thái độ vô tư, không được định kiến đối với người bị buộc tội để bảo đảm tính khách quan của vụ án. Người bị buộc tội không có nghĩa vụ chứng minh về sự vô tội của mình và có quyền đưa ra chứng cứ, yêu cầu với các cơ quan tố tụng. Ngoài ra, nguyên tắc SĐVT còn thể hiện bản chất dân chủ và nhân đạo của hoạt động TTHS khi buộc các chủ thể tố tụng phải giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội trong trường hợp các quy định của pháp luật chưa rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu, giải thích khác nhau. Tuy nhiên, để bảo đảm tính khả thi của nguyên tắc SĐVT, thì các quy định của BLTTHS về các giai đoạn tố tụng (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử) phải thể hiện được đầy đủ, chính xác các nội dung (yêu cầu) của nguyên tắc này.
  • 31. 31 Hai là, việc ghi nhận nguyên tắc SĐVT trong Hiến pháp và BLTTHS là một bảo đảm quan trọng, là lá chắn vững chắc nhất để bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực đặc thù này nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những vi phạm từ phía các cơ quan tố tụng [74, tr. 25]. Nguyên tắc này là lời cảnh báo thường xuyên đối với những người được giao thẩm quyền sử dụng công quyền để thực thi chức năng giữ gìn, đảm bảo trật tự xã hội. Nó đòi hỏi những chủ thể thực thi pháp luật phải nhận thức rõ tầm quan trọng của công việc được giao, đặc biệt là sự tác động trực tiếp đối với cuộc sống, sự nghiệp, danh dự, nhân phẩm và cả tính mạng của người bị buộc tội, để từ đó ý thức được trách nhiệm của mình trước hết phải tôn trọng sự thật khách quan, phải cẩn trọng, mẫn cán, chặt chẽ nhằm bảo đảm xử lý đúng người, đúng tội đồng thời không được làm oan người vô tội. Ba là, nguyên tắc SĐVT không chỉ phân định các chức năng cơ bản (buộc tội, bào chữa và xét xử) giữa các chủ thể; xác định rõ trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các chủ thể của bên buộc tội, người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội, mà còn buộc các cơ quan tố tụng phải bảo đảm các điều kiện cần thiết để người bị buộc tội có thể thực hiện tốt quyền bào chữa của mình [35, tr. 35]. Vì vậy, nguyên tắc này đã góp phần bảo đảm sự dung hòa giữa lợi ích của xã hội và quyền tự do của cá nhân; bảo đảm sự cân bằng trong hoạt động TTHS giữa một bên là Nhà nước (với hệ thống các CQĐT, truy tố) với một bên là người bị buộc tội luôn ở địa vị yếu thế hơn nhằm đạt được mục đích của TTHS là "không bỏ lọt tội phạm đồng thời không là oan người vô tội". Bốn là, nguyên tắc SĐVT mở ra lối thoát cho những vụ án đi vào ngõ cụt, khi mà cơ quan có thẩm quyền đã áp dụng mọi phương pháp nhưng không thể xác định được ai là người đã thực hiện hành vi phạm tội. Thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử cho thấy trừ các trường hợp phạm pháp quả tang, còn lại các vụ án hình sự chỉ bị đưa ra ánh sáng sau khi vụ việc xảy ra và các
  • 32. 32 cơ quan tố tụng có trách nhiệm phải dựng lại toàn cảnh bức tranh về vụ việc. Thông qua bức tranh này, không chỉ những người có thẩm quyền mà toàn xã hội có thể thẩm định, đánh giá bản chất của vụ việc một cách khách quan để có kết luận đúng đắn, chính xác về một người là có tội hay không có tội. Tuy nhiên, có những trường hợp do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau (các dấu vết, chứng cứ không còn đầy đủ, hoặc yếu kém, hạn chế trong tổ chức hoạt động, trình độ nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của những người tiến hành tố tụng,...) mà cơ quan tố tụng không thể dựng lại được bức tranh về vụ việc xảy ra dẫn đến bỏ lọt (tạm thời hoặc vĩnh viễn) tội phạm và người phạm tội. Đây là một thực tế có thể xảy ra mà xã hội phải chấp nhận. Việc cần làm trong các trường hợp này là phải rà soát tìm ra nguyên nhân (khâu nào, người nào,...) để có biện pháp khắc phục kịp thời, tránh lặp lại. Trong mọi trường hợp không thu thập đủ chứng cứ để buộc tội thì người bị buộc tội phải được chính thức suy đoán là vô tội với bảo đảm không có nghi ngờ, không tì vết, bảo đảm để họ tiếp tục cuộc sống bình thường. Như vậy, việc áp dụng nguyên tắc SĐVT có thể dẫn đến một thực tế là xã hội phải chấp nhận sự "nhởn nhơ" ngoài vòng pháp luật của "người bị tình nghi", nhưng một điều hết sức hệ trọng cần nhận thức là: Nếu sự bỏ lọt một ngườiphạm tộicó thể khiến cho một gia đình (của người bị hại) phải chịu mất mát không bù đắp được, thì việc làm oan người vô tội sẽ làm tan nát không chỉ hai gia đình (của người bị hại và bị can, bị cáo) mà còn dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng khác đối với toàn xã hội như: làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với công lý, sự công minh của pháp luật, sự ưu việt của chế độ XHCN,... Vì vậy, có thể nói chỉ khi BLTTHS ghi nhận và cụ thể hóa đầy đủ, chính xác các nội dung (yêu cầu) của nguyên tắc SĐVT và các điều kiện bảo đảm để nguyên tắc này được thực thi trên thực tế thì mới có thể làm thay đổi thái độ (thói quen) "suy đoán có tội" của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng (CQĐT/ Điều tra viên, VKS/ Kiểm sát viên và Tòa án/ Thẩm phán) - một thực
  • 33. 33 trạng diễn ra khá phổ biến ở nước ta hiện nay. Nguyên tắc SĐVT buộc các chủ thể của bên buộc tội (đặc biệt là CQĐT/Điều tra viên, VKS/ Kiểm sát viên) phải không ngừng nâng cao nghiệp vụ để thu thập đầy đủ chứng cứ chứng minh tội phạm. Tại phiên tòa nếu không có đủ chứng cứ chứng minh bị cáo có tội thì HĐXX phải tuyên bị cáo vô tội mà không trả hồ sơ điều tra bổ sung (ở cấp sơ thẩm) hoặc hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại (ở cấp phúc thẩm). Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, điều tra lại chỉ làm dây dưa kéo dài quá trình TTHS, xô đẩy số phận pháp lý của người bị tình nghi (không biết họ có thực sự phạm tội không?) "lửng lơ trong vòng tố tụng". Chỉ có như vậy thì công cuộc cải cách tư pháp và hoạt động TTHS ở nước ta mới có thể đạt được mục tiêu đặt ra "... bảovệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân...". 1.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI VỚI MỘT SỐ NGUYÊN TẮC KHÁC CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ Các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS liên quan chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau tạo thành là một hệ thống thống nhất. Sự tồn tại của mỗi nguyên tắc này là cơ sở và điều kiện bảo đảm tính khả khi của các nguyên tắc cơ bản khác. Vì vậy, nguyên tắc SĐVT chỉ có thể được khả thi trên thực tiễn khi có các điều kiện bảo đảm cần thiết kèm theo sự tôn trọng và tuân thủ các nguyên tắc cơ bản khác của Luật TTHS, đặc biệt các nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, tranh tụng trong xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. 1.2.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc tranh tụng trong xét xử Nguyên tắc SĐVT khẳng định người bị buộc tội được coi là vô tội khi mà tội phạm của họ chưa được chứng minh theo một trình tự do luật quy định và chưa được Tòa án xác định bằng một bản án kết tội đã có HLPL. Nguyên tắc này một mặt khẳng định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội; người bị buộc tội có quyền mà không có nghĩa vụ chứng minh về sự
  • 34. 34 vô tội của mình; Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình và các hình thức trái pháp luật khác trong quá trình thu thập chứng cứ và thực hiện các hoạt động tố tụng khác. Mặt khác, nguyên tắc SĐVT cũng xác định Tòa án là chủ thể duy nhất thực hiện quyền tư pháp (xét xử) và có thẩm quyền đưa ra phán quyết (bản án) nhân danh Nhà nước kết luận người bị buộc tội là có tội hay vô tội. Tuy nhiên, nguyên tắc này sẽ không thể khả thi trên thực tiễn nếu vắng thiếu nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử với các lý do sau: Thứ nhất, tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của TTHS giữ vai trò cốt lõi và là tiền đề khách quan cần thiết để TTHS đạt được mục tiêu là xác định sự thật khách quan về vụ án. Không có tranh tụng và không bảo đảm được tranh tụng khách quan, bình đẳng thì hoạt động TTHS sẽ mang tính phiến diện, định kiến và luôn tiềm ẩn những sai lầm tư pháp trong các quyết định của các cơ quan có thẩm quyền. Thứ hai, nguyên tắc tranh tụng phân định rõ ràng, tách bạch các chức năng cơ bản (buộc tội, bào chữa và xét xử) trong TTHS giữa bên buộc tội, bên bào chữa và Tòa án, theo đó mỗi nhóm chủ thể này chỉ được thực hiện một chức năng này mà không được phép vừa buộc tội vừa bào chữa hoặc ngược lại, vừa xét xử vừa buộc tội hay vừa xét xử vừa bào chữa. Thứ ba, nguyên tắc tranh tụng xác định tư cách của hai nhóm chủ thể thực hiện chức năng buộc tội và chức năng bào chữa là "các bên tranh tụng" có lợi ích đối lập nhau. Đồng thời, các bên hoàn toàn bình đẳng với nhau về mặt pháp lý. Vì vậy, các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa phải được bảo đảm các khả năng pháp lý như nhau để bảo vệ các lợi ích của mình trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Thứ tư, nguyên tắc tranh tụng xác định địa vị độc lập, khách quan và vô tư của Tòa án với tư cách là chủ thể duy nhất thực hiện quyền tư pháp (xét xử). Với tư cách này Tòa án (HĐXX) có trách nhiệm bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo, điều khiển, giám sát quá trình tranh tụng giữa bên buộc tội
  • 35. 35 và bên bào chữa để đưa ra phán xét công minh nhân danh Nhà nước về số phận của bị cáo (vô tội hay có tội và áp dụng hình phạt đốivới họ). Vì vậy, có thể nói nguyên tắc tranh tụng chính là cơ sở pháp lý không chỉ tạo sự bình đẳng về thế và lực giữa bên buộc tội (CQĐT/ Điều tra viên, VKS/ Kiểm sát viên là các chủ thể thực thi quyền lực nhà nước) và bên bị buộc tội (người bị buộc tội, người bào chữa là các chủ thể luôn ở địa vị yếu thế hơn) mà còn đề cao vai trò trọng tài của Tòa án. Nếu không có nguyên tắc này thì sẽ không có sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội trên thực tế, và khi đó nguyên tắc SĐVT sẽ không thể phát huy được hiệu quả của mình. 1.2.2. Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa Bảo đảm quyền bào chữa là một trong những nguyên tắc cơ bản và quan trọng của TTHS thể hiện bản chất dân chủ của nền tư pháp hiện đại. Nguyên tắc này đòi hỏi các chủ thể tiến hành tố tụng phải bảo đảm cho người bị tình nghi, bị can, bị cáo thực hiện đầy đủ quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác (Luật sư, bào chữa viên nhân dân, Trợ giúp viên pháp lý,...) bào chữa để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong các giai đoạn của quá trình TTHS. Sự tham gia của người bào chữa (đặc biệt là của Luật sư bào chữa) vào các giai đoạn của TTHS là điều kiện cần thiết để bảo đảm sự bình đẳng trên thực tế giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong các giai đoạn của quá trình TTHS nói chung và tại phiên tòa nói riêng. Chính vì lẽ đó, các văn bản pháp luật quốc tế không chỉ khẳng định rõ mà còn đề ra những yêu cầu cụ thể đối với nguyên tắc này: Bị can, bị cáo có quyền được thông báo không chậm trễ và chi tiết… về bản chất và lý do bị buộc tội; được bảo đảm đủ thời gian phù hợp và điều kiện thuận lợi để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn; Được có mặt trong khi xét xử, được tự bào chữa hoặc nhờ sự giúp đỡ về mặt pháp lý do mình lựa chọn; nếu chưa có sự giúp đỡ về mặt pháp lý thì phải được thông báo về
  • 36. 36 quyền này; trong trường hợp do lợi ích của công lý đòi hỏi phải bố trí cho người đó một sự trợ giúp pháp lý miễn phí nếu họ không có điều kiện trả tiền... [30]; có quyền liên lạc với Luật sư để tham khảo ý kiến; việc tiếp xúc với Luật sư phải ngoài tầm nghe của quan chức pháp luật... [32]. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội được ghi nhận trong pháp luật của hầu hết các quốc gia. Hiến pháp năm 2013 (khoản 4 Điều 31) và BLTTHS năm 2003 (Điều 11) của nước ta quy định bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS. Thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự ở nước ta những năm gần đây cho thấy nhìn chung việc đảm bảo quyền bảo chữa của người bị buộc tội đã được chú trọng hơn (như cho phép người bào chữa có mặt ngay từ khi tạm giữ người bị tình nghi). Tuy nhiên, trên thực tế người bào chữa gặp rất nhiều trở ngại từ phía CQĐT ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng mớm cung, ép cung, dùng nhục hình dẫn đến làm oan người vô tội đã và đang gây nhiều bất bình và bức xúc trong dư luận xã hội. Mặt khác, theo quy định của BLTTHS năm 2003 (Điều 56) thì chỉ có ba loại đối tượng (Luật sư, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo và bào chữa viên nhân dân) mới có thể được lựa chọn là người bào chữa. Chúng tôi cho rằng quy định này đã quá bó hẹp phạm vi các đối tượng để bị can, bị cáo có thể lựa chọn làm người bào chữa để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Theo thốngkê của cơ quan chức năng, tính đếntháng 9/2014 ở nước ta có 11.285 Luật sư hành nghề (bao gồm cả Luật sư tư vấn và Luật sư tranh tụng), tính bình quân gần 10.000 dân mới có 01 Luật sư [28] nhưng lại tập trung chủ yếu ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Trong khi trên thực tế có rất nhiều người (anh em, người thân, bạn bè,… của người bị buộc tội) có trình độ pháp lý, có đạo đức và nhiệt tình nhưng họ không thể làm người bào chữa vì không phải là Luật sư. Quy định này đã gây lãng phí nguồn lực và làm hạn chế quyền
  • 37. 37 bào chữa của người bị buộc tội. Mặt khác, theo quy định của BLTTHS thì người bào chữa không có quyền thu thập chứng cứ mà chỉ có quyền thu thập đồ vật, tài liệu… và các đồ vật, tài liệu này có được coi là chứng cứ hay không lại phụ thuộc vào sự đánh giá của các chủ thể tiến hành tố tụng. Ngày nay nhiệm vụ bảo vệ quyền con người trong TTHS được đặt ngang với nhiệm vụ phát hiện, xử lý tội phạm. Vì vậy, để phù hợp với các nguyên tắc hiến định mới, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội cần được cụ thể hóa đầy đủ trong BLTTHS sửa đổi theo hướng mở rộng sự tham gia của người bào chữa (Luật sư và những người khác) đối với tất cả các loại tội phạm; không chỉ người bị tình nghi, bị can, bị cáo mà cả người thân thích của họ (trường hợp họ bị bắt, tạm giữ, tạm giam) cũng có quyền mời Luật sư. Mặt khác, cũng cần xác lập sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong thu thập chứng cứ cũng như cơ chế bảo đảm để người bào chữa có thể tham gia tích cực, hiệu quả hơn trong việc bảo vệ công lý, quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. 1.2.3. Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Sự độc lập của Tòa án là nguyên tắc phổ quát được ghi nhận với tư cách là một yếu tố, điều kiện gắn liền với việc bảo đảm các quyền con người trong các văn bản pháp luật quốc tế (Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn về nhân quyền, Công ước về các quyền chính trị và dân sự,...) đồng thời được ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật của hầu hết các quốc gia. Mặt khác, quyền tư pháp (xét xử) được thực hiện thông qua các Thẩm phán, Hội thẩm nên sự độc lập của Tòa án đồng nhất với "độc lập xét xử" của Thẩm phán, Hội thẩm. Việc đề cao sự độc lập của Tòa án xuất phát từ chỗ đây là chủ thể duy nhất thực hiện quyền tư pháp và giữ vai trò là người trọng tài giữa bên buộc tội và bên bào chữa để bảo đảm việc xét xử khách quan, công minh nhằm bảo vệ công lý, quyền con người và ngăn chặn sự lạm quyền. Vì vậy, nguyên tắc
  • 38. 38 "Thẩm phán, Hội thẩm độc lập xét xử..." là cơ sở pháp lý và là một điều kiện cần thiết để bảo đảm tính khả thi của nguyên tắc SĐVT trên thực tiễn. Theo quy định của pháp luật nước ta (các điều 102, 103 Hiến pháp năm 2013, Điều 2 Luật tổ chức TAND năm 2014, Điều 16 BLTTHS), thì TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp..., có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Tuy nhiên, ở nước ta chưa hội tụ đủ các điều kiện cần thiết để bảo đảm sự độc lập của Tòa án và sự độc lập xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm do nhiều nguyên nhân khác nhau như: Sự bất cập về cơ chế, quy trình lựa chọn, bổ nhiệm Thẩm phán, nhiệm kỳ Thẩm phán cũng như chế độ đãi ngộ; việc áp dụng chế độ "báo cáo án, duyệt án, thỉnh thị án, xin ý kiến cấp trên",… ở các cấp Tòa án; sự lạm dụng nguyên tắc Đảng lãnh đạo công tác tư pháp để can thiệp vào đường lối xử lý đối với từng vụ án, nhất là những vụ án mà bị can, bị cáo là người có chức, có quyền; sự thiếu lòng tin của Lãnh đạo đối với Thẩm phán; sự hạn chế, yếu kém về trình độ, năng lực chuyên môn, tinh thần trách nhiệm của độingũ Thẩm phán,… Vì vậy, ngoài việc sửa đổi bổ sung nội dung nguyên tắc này cho phù hợp với các nguyên tắc hiến định mới, cần thiết phải hoàn thiện cơ chế bảo đảm sự độc lập xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. 1.3. NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC 1.3.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật quốc tế Tư tưởng về SĐVT (hay giả định vô tội) xuất hiện từ thời La Mã cổ đại. Thuật ngữ "Praesumptio boni viri" trong Luật La Mã cổ đại được hiểu là một suy đoán pháp lý, theo đó "người tham gia tố tụng được coi là trung thực cho đến khi bị chứng minh họ không phải là người trung thực". Tư tưởng này chỉ
  • 39. 39 được thừa nhận và áp dụng trong tố tụng dân sự và được coi là cội nguồn của nguyên tắc SĐVT hay giả định vô tội (presumption of innocence) [38, tr. 37]. Cũng như nhiều tư tưởng dân chủ, tiến bộ khác của nhân loại, tư tưởng về SĐVT không thể được chấp nhận trong Nhà nước chiếm hữu nô lệ, ở đó nô lệ không được thừa nhận là chủ thể của quan hệ pháp luật và vấn đề lỗi của họ không bao giờ được xem xét. Nhà nước phong kiến tiếp tục áp dụng nguyên tắc suy đoán có tội, theo đó người bị buộc tội (người bị tình nghi, bị khởi tố hình sự, bị đưa ra xét xử) luôn bị coi là có lỗi và việc áp dụng các biện pháp tra tấn, dùng nhục hình đối với họ để điều tra được coi là hợp pháp. Tư tưởng về SĐVT phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ cách mạng dân chủ tư sản. Giai cấp tư sản đã đưa ra nhiều tư tưởng tiến bộ về quyền con người và quyền công dân, trong đó có tư tưởng về SĐVT để lôi kéo quần chúng nhân dân đứng lên lật đổ chế độ phong kiến. Trong thời kỳ đầu, tư tưởng SĐVT chỉ được giai cấp tư sản sử dụng như một vũ khí để chống lại sự thống trị hà khắc của Nhà nước phong kiến. Tư tưởng SĐVT chỉ trở thành nguyên tắc của pháp luật sau khi Cách mạng tư sản Pháp giành thắng lợi. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyềncủa Cộng hòa Pháp năm 1789 đã chính thức ghi nhận và tuyên bố SĐVT là một quyền cơ bản của con người: "Mọi người được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội. Nếu xét thấy cần thiết phải bắt giữ thì mọi sự cưỡng bức vượt quá mức cần thiết cho phép đều bị pháp luật xử lý nghiêm khắc" [72, Điều 8]. Tuyên ngôn này đã đặt nền móng cho sự hình thành nguyên tắc SĐVT - một nguyên tắc cơ bản, quan trọng của TTHS có ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển của pháp luật quốc tế và tư duy pháp lý của các quốc gia. Tuyên ngôn quốc tế năm 1948 đã ghi nhận SĐVT là một quyền cơ bản của con người đồng thời là một nguyên tắc của pháp luật quốc tế: "Khi truy tố trước pháp luật, mọi người được xem là vô tội cho đến khi pháp luật chứng minh là có tội, trong một phiên tòa công khai và Tòa án này phải cung ứng
  • 40. 40 tất cả mọi bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ của đương sự" [31, Ðiều 11]. Nguyên tắc (quyền) SĐVT còn được ghi nhận trong các công ước quốc tế khác: Công ước Châu Âu năm 1950 về nhân quyền; Công ước Châu Mỹ năm 1969 về nhân quyền;... Đặc biệt, Công ước quốc tế năm 1966 không chỉ ghi nhận các quyền cơ bản của con người với tư cách là các nguyên tắc của pháp luật quốc tế mà còn đưa ra những bảo đảm cần thiết khi một người bị xét xử về hình sự: 1. Mọi người đều bình đẳng trước Tòa án..., có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án... không thiên vị... để quyết định về lời buộc tội...; 2. Người bị cáo buộc... được coi là vô tội cho tới khi... phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật; 3. Mọi người có quyền hưởng đầy đủ và bình đẳng những bảo đảm tối thiểu sau: a) Được thông báo không chậm trễ và chi tiết... về bản chất và lý do buộc tội; b) Có đủ thời gian và điều kiện... để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa...; c) Được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý; d) Có mặt khi xét xử, được tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý... và được trợ giúp pháp lý theo chỉ định... không phải trả tiền...; e) Được thẩm vấn hoặc yêu cầu thẩm vấn những nhân chứng buộc tội mình, được mời người làm chứng gỡ tội... và thẩm vấn họ tương tự như đối với người làm chứng buộc tội mình; f) Được phiên dịch miễn phí...; g) Không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội... [31, Điều 14].
  • 41. 41 Việc đề ra các chuẩn mực nêu trên xuất phát từ nhận thức TTHS là một lĩnh vực đặc thù và nhạy cảm, là hoạt động thực thi công quyền nhân danh Nhà nước nên trong quan hệ giữa các chủ thể thực thi công quyền (CQĐT/ Điều tra viên, VKS/ Kiểm sát viên, Tòa án/ Thẩm phán,…) và các chủ thể khác (đặc biệt là bị can, bị cáo) luôn thể hiện sự bất bình đẳng mà ưu thế luôn nghiêng về các chủ thể thực thi pháp luật. Vì vậy, để bảo vệ quyền con người trong TTHS, cần dành cho bị can, bị cáo những quyền pháp lý cần thiết nhằm giúp họ có thể bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tránh nguy cơ bị xâm phạm từ phía các chủ thể thực thi pháp luật. Các chuẩn mực tối thiểu nêu trên tạo thành hệ thống quy tắc ứng xử của các cơ quan, nhân viên thực thi pháp luật và được áp dụng trên phạm vi toàn cầu nhằm đảm bảo để người bị buộc tội có thể bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Liên hợp quốc cũng khuyến nghị các quốc gia tôn trọng và lồng ghép các nguyên tắc này vào luật pháp quốc gia và phổ biến rộng rãi đến các Thẩm phán, Luật sư, nhân viên hành pháp, lập pháp và công chúng... [70, tr. 629]. Bình luận chung số 13 Công ước quốc tế năm 1966 đã nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ giữa quyền SĐVT với nghĩa vụ chứng minh của bên Công tố, với nguyên tắc Tòa án độc lập và không thiên vị, theo đó các cơ quan tố tụng, Thẩm phán, Kiểm sát viên không được định kiến trước về kết quả xét xử, việc xét xử tại phiên tòa phải tuân thủ giả định bị cáo vô tội: Giả định vô tội - yếu tố cơ bản để bảo vệ quyền con người, đòi hỏi bên công tố phải chứng minh sự cáo buộc. Không ai có thể bị kết tội cho đến khi việc chứng minh không còn nghi ngờ nào; đảm bảo quyền được suy đoán theo hướng có lợi... trong trường hợp có sự nghi ngờ về lỗi của họ. Mọi cơ quan công quyền không được định kiến về kết quả xét xử,...; Không được xiềng xích, nhốt bị cáo... hoặc để họ xuất hiện trước Tòa theo cách thức cho thấy họ bị coi là kẻ phạm tội... Báo chí cũng không được phép gây tổn hại đến quyền giả định vô tội... [30, tr. 223].
  • 42. 42 Các quy định nêu trên của pháp luật quốc tế về SĐVT cho thấy con người và quyền con người là giá trị cao quý nhất và là đối tượng ưu tiên bảo hộ trong lĩnh vực tư pháp hình sự. SĐVT được coi là nguyên tắc "kinh điển nhất" của TTHS và là "phẩm giá của văn minh nhân loại" [74, tr. 25]. Việc pháp luật ghi nhận nguyên tắc SĐVT (quyền được SĐVT) là bảo đảm quan trọng, là lá chắn vững chắc nhất để bảo vệ quyền con người, quyền công dân nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những vi phạm từ phía các cơ quan tố tụng. Tuy nhiên, SĐVT là một vấn đề rộng, phức tạp của khoa học pháp lý nhưng điểm mấu chốt và cơ bản nhất của nó là sự thể hiện ở quy định của pháp luật về SĐVT ("luật trên giấy") và thái độ xử sự của các chủ thể tố tụng đối với người bị buộc tội như thế nào trong quá trình TTHS ("luật trên thực tế"): người bị buộc tội có được coi (giả thiết) là vô tội hay có tội? Đây là vấn đề quan điểm còn khác nhau. Nguyên tắc SĐVT đã được pháp luật quốc tế và pháp luật của nhiều nước ghi nhận. Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng, hệ thống luật lục địa (tố tụng thẩm vấn) hoạt động dựa trên suy đoán có tội cho đến khi chứng minh được sự vô tội của người đó, còn hệ thống luật án lệ (tố tụng tranh tụng) lại dựa trên SĐVT. Các nhân viên điều tra của hệ thống luật lục địa phải xác định bất kỳ người nào có tội trong số những người "dường như" là vô tội... Người nào chưa được chấm dứt điều tra thì vẫn "hình như" là có tội và hành động tiếp theo của CQĐT đối với người này được thực hiện với suy đoán rằng họ có tội... Một số học giả Trung Quốc cho rằng, nguyên tắc SĐVT chỉ làm cho người ta thêm rối và phản tác dụng: trói tay các nhân viên thi hành pháp luật, làm cho các tội phạm không bị trừng phạt... Quá trình TTHS chỉ đơn giản là "tìm kiếm sự thật từ sự việc"... Theo đó sự có tội hay vô tội hoàn toàn có thể được chứng minh một cách đúng đắn mà không cần phải SĐVT hay suy đoán có tội [82, tr. 167-170]. Ý kiến khác thì cho rằng sự thật thế nào thì phải chứng minh, đi tìm, chứ không được "suy đoán" theo bất cứ hướng nào. Nếu ghi nhận nguyên tắc
  • 43. 43 "suy đoán vô tội" cũng tức là không cần đến nguyên tắc "xác định sự thật của vụ án"... [39]. Quan điểm thứ tư lại cho rằng, cả hai quan điểm thừa nhận và phủ nhận nguyên tắc SĐVT đều đã bỏ qua một yếu tố hết sức quan trọng đó là áp dụng pháp luật trên thực tế, bởi lẽ ngay cả khi "luật trên giấy" quy định rằng bị can được SĐVT nhưng không có nghĩa là "luật trên thực tế" sẽ hành động theo đúng như vậy... [82, tr. 170]. Việc tuân thủ và cụ thể hóa các nguyên tắc của pháp luật quốc tế trong pháp luật nội địa không chỉ là trách nhiệm của mỗi quốc gia tham gia các điều ước quốc tế mà còn là một đòi hỏi tất yếu khách quan. Ngày nay pháp luật của hầu hết các nước (không phân biệt mô hình TTHS) đều thừa nhận các nguyên tắc của pháp luật quốc tế (trong đó có nguyên tắc SĐVT) nhưng nội dung được thể hiện ở mức độ rất khác nhau. 1.3.2. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật của một số nước * Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật của Liên bang Nga: Trước năm 2001, nguyên tắc giả định vô tội hay SĐVT được ghi nhận tại Điều 14 Đạo luật "Những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Liên bang Xô viết và các nước Cộng hòa" và trong BLTTHS năm 1960 của Liên bang Nga. BLTTHS mới (được ban hành năm 2001 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2002) [78] đã tiếp thu, kết hợp nhiều yếu tố tích cực, hợp lý của tố tụng tranh tụng và làm cho mô hình tố tụng thẩm vấn truyền thống của Liên bang Nga có sự thay đổi lớn. Đây là Bộ luật thể hiện tập trung rõ nét và cụ thể hóa đầy đủ nhất nội dung của nguyên tắc SĐVT. 1) Về các nguyên tắc cơ bản: Trong số 14 nguyên tắc cơ bản của Bộ luật này (các điều 6 - 19) có một số nguyên tắc liên quan đến nguyên tắc SĐVT, cụ thể là: a) "Điều 8. Việc xét xử chỉ do Tòa án tiến hành" quy định: 1. Việc xét xử vụ án hình sự ở Liên bang Nga chỉ do Tòa án tiến hành;