SlideShare a Scribd company logo
1 of 123
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TÔ THỊ THU TRANG
THỜI HẠN CỦA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TÔ THỊ THU TRANG
THỜI HẠN CỦA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí
Hà Nội - 2014
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
T« ThÞ Thu Trang
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HẠN CỦA CÁC
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
9
1.1. Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự và thời hạn tố tụng
hình sự
9
1.1.1. Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 9
1.1.2. Thời hạn tố tụng hình sự 14
1.2. Thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 16
1.2.1. Khái niệm thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự
16
1.2.2. Căn cứ quy định thời hạn các biện pháp ngăn chặn trong luật
tố tụng hình sự
18
1.2.3. Thời hạn biện pháp ngăn chặn với các thời hạn khác có liên
quan trong quá trình giải quyết vụ án
27
1.3. Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình
sự một số nước trên thế giới
29
1.3.1. Luật tố tụng hình sự của Hoa Kỳ 29
1.3.2. Luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Liên bang Đức 31
1.3.3. Luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga 34
5
Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ THỜI HẠN BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
VÀ THỰC TIẾN ÁP DỤNG
38
2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật tố tụng
hình sự Việt Nam về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn từ
sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến nay
38
2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến
khi Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam được ban hành lần đầu
(năm 1988)
38
2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
năm 1988 cho đến nay
40
2.2. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về thời
hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
41
2.2.1. Quy định về thời hạn của biện pháp bắt người 41
2.2.2. Quy định về thời hạn của biện pháp tạm giữ 48
2.2.3. Quy định về thời hạn của biện pháp tạm giam 51
2.2.4. Quy định về thời hạn của biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú 56
2.2.5. Quy định về thời hạn của biện pháp bảo lĩnh 58
2.2.6. Quy định về thời hạn của biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có
giá trị để bảo đảm
60
2.3. Thực trạng áp dụng các quy định về thời hạn của các biện
pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự từ khi có Bộ luật tố
tụng hình sự đến nay
62
2.3.1. Tình hình và kết quả áp dụng trong thực tiễn 62
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế của việc áp dụng thời hạn của các
biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
63
2.3.3. Những khó khăn, vướng mắc, bất cập từ thực tiễn 73
6
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ ĐỂ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỜI HẠN CỦA
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
89
3.1. Nhóm giải pháp và kiến nghị về hoàn thiện các quy định của
pháp luật
89
3.1.1. Những nội dung quy định về thời hạn của biện pháp ngăn
chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự cần được sửa đổi, bổ sung
89
3.1.2. Tăng cường ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng các
quy định của pháp luật về thời hạn của biện pháp ngăn chặn
quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự
98
3.2. Nhóm giải pháp và kiến nghị về nâng cao năng lực cho cơ
quan và người tiến hành tố tụng hình sự
99
3.2.1. Tăng cường lực lượng và nâng cao trình độ cho Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và những người tiến hành tố
tụng khác
101
3.2.2. Tăng cường bồi dưỡng, tập huấn kiến thức pháp luật mới về
tố tụng hình sự cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán
và những người tiến hành tố tụng khác
103
3.2.3. Tiến hành tổng kết thực tiễn, tổ chức rút kinh nghiệm về việc
áp dụng các quy định về thời hạn của biện pháp ngăn chặn
quy định trong tố tụng hình sự
104
3.2.4. Giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế và trao đổi kinh nghiệm
với các nước về áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng
về thời hạn của biện pháp ngăn chặn
105
KẾT LUẬN 108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 110
7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
CAND : Công an nhân dân
CQĐT : Cơ quan điều tra
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TTHS : Tố tụng hình sự
UBND : Ủy ban nhân dân
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Các biện pháp ngăn chặn là một chế định quan trọng trong pháp luật
tố tụng hình sự (TTHS). Nghiên cứu lịch sử lập pháp của Việt Nam từ năm
1945 đến nay cho thấy các biện pháp ngăn chặn trong TTHS được quy định
phong phú và đa dạng với nhiều tên gọi khác nhau, đồng thời có sự kế thừa và
bổ sung hoàn thiện qua từng thời kỳ. Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm
2003 trên cơ sở kế thừa có chọn lọc của BLTTH năm 1988 và các văn bản
pháp luật về TTHS trước đây, trên cơ sở tổng kết thực tiễn áp dụng các biện
pháp ngăn chặn của các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan tư pháp đã quy
định chặt chẽ hơn về các biện pháp ngăn chặn, góp phần đấu tranh phòng,
chống tội phạm, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ
án. Các quy định về biện pháp ngăn chặn trong pháp luật TTHS đã tạo hành
lang pháp lý cho việc áp dụng, góp phần tích cực vào việc phát hiện, ngăn
chặn và xử lý tội phạm. Tuy nhiên, khi áp dụng những biện pháp ngăn chặn,
nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, các quyền cơ bản của công dân
được Hiến pháp và các văn bản pháp luật ghi nhận. Do đó, khi áp dụng các
biện pháp ngăn chặn cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về căn cứ, thẩm
quyền, thủ tục và thời hạn áp dụng.
Thực tế áp dụng các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn
trong TTHS cho thấy còn nhiều vi phạm, tình trạng quá hạn tạm giữ, tạm
giam còn xảy ra, việc áp dụng thời hạn tạm giam hiện nay còn quá dài, vượt
mức quy định, thời hạn áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú còn chưa
đảm bảo.v.v.. đã ảnh hưởng lớn các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Nguyên nhân của những vi phạm trên xuất phát từ việc các quy định của pháp
luật chưa chặt chẽ, số lượng, chất lượng cán bộ làm công tác tiến hành TTHS
còn thiếu, có nơi còn chưa chưa đáp ứng yêu cầu, chưa chú trọng bảo đảm
những quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, công tác kiểm
9
tra, giám sát còn chưa được thường xuyên, kịp thời, hiểu biết pháp luật của
người dân còn nhiều hạn chế v.v...
Xuất phát từ tình hình thực tế đó, cần thiết phải nghiên cứu chuyên
sâu các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật
TTHS Việt Nam hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này, và
đó cũng là lý do, luận chứng cho sự cần thiết để chúng tôi lựa chọn đề tài
"Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam"
làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Do việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không chỉ có ý nghĩa về mặt
TTHS mà còn có vai trò lớn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm,
đặc biệt là xuyên suốt toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự, nên đã có
nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía
cạnh, phương diện khác nhau về các biện pháp ngăn chặn trong TTHS.
Hiện nay, khoa học luật TTHS trong và ngoài nước đã có nhiều công
trình khoa học nghiên cứu về các biện pháp ngăn chặn, nhưng chủ yếu chỉ đề
cập một cách tổng thể và có hệ thống những khía cạnh lý luận chung nhất về
các biện pháp ngăn chặn mà chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu
có hệ thống, toàn diện và sâu sắc riêng về thời hạn của các biện pháp ngăn
chặn dưới góc độ lý luận cũng như thực tiễn áp dụng.
Ở Việt Nam, nghiên cứu về các biện pháp ngăn chặn, đã có các công
trình nghiên cứu tiêu biểu như sau:
Cấp độ luận văn Tiến sĩ có đề tài:
- Áp dụng biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự của lực
lượng cảnh sát nhân dân của tác giả Trịnh Văn Thanh, (Bộ Công an), 2000;
- Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình
sự Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp của Nguyễn Văn Điệp,
Học viện Tư pháp, 2005;
10
Ở cấp độ luận văn Thạc sĩ có đề tài:
- Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả
Nguyễn Văn Điệp, Học viện Tư pháp, 1996;
- Tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam, thực trạng, nguyên
nhân và giải pháp, của Phạm Thanh Bình, Tòa án nhân dân tối cao, 1996;
- Bắt người trong tố tụng hình sự Việt Nam, của Vũ Gia Lâm, 2000;
- Vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng biện pháp tạm giam,
của Phạm Duy Trường, 2006;
- Vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, của Nguyễn
Bá Phùng, 2010;
- Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt
Nam, của Lê Thanh Bình, 2010.
Về đề tài khoa học cấp Bộ có Hoàn thiện các biện pháp ngăn chặn
trong Bộ luật tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, của Viện
khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 2008,…
Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công
trình của các tác giả sau:
- Những điều cần biết về bắt, giữ, khám xét, của Phạm Quang Mỹ và
Phạm Hữu Kỳ, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 1983;
- Những điều cần biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam... đúng pháp
luật, của Phạm Quang Mỹ và Phạm Hữu Kỳ, Nhà xuất bản Pháp lý, 1993;
- Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự; của Viện nghiên cứu
khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp - 1990, 1992,
- Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam, của
Viện Nhà nước và Pháp luật, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994;
- Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự, của Viện Nghiên cứu
Nhà nước và Pháp luật, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1994;
11
- Các biện pháp ngăn chặn và vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng,
của TS. Nguyễn Vạn Nguyên, Nhà xuất bản Công an nhân dân (CAND), 1995;
- Các biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, của
Nguyễn Mai Bộ, Nhà xuất bản CAND, 1997.
- Biện pháp ngăn chặn khám xét và kê biên tài sản trong Bộ luật tố
tụng hình sự, của ThS. Nguyễn Mai Bộ, 2004;
- Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, của TS. Trần
Quang Tiệp, 2005.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta
đã có nhiều công trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về các biện pháp ngăn
chặn, căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn đối với riêng thời hạn của
các biện pháp ngăn chặn trong TTHS Việt Nam, nhìn một cách tổng quan có
thể khẳng định chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu. Ngoài ra, trong
bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một số
nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" nêu rõ: "Tăng
cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ đảm bảo đúng pháp luật... phát
hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ"; Nghị quyết số
48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020"; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về
"Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" trong đó có nêu: "hoàn thiện
các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh
bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người" với nhiệm vụ đặt ra là "Coi
trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao
hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội"
thì vấn đề hoàn thiện pháp luật TTHS về thời hạn của các biện pháp ngăn
chặn càng trở nên cần thiết.
12
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép
khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự Việt Nam" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính
lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về
thời hạn của các biện pháp ngăn chặn dưới khía cạnh lập pháp hình sự và áp
dụng chúng trong thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn
thiện các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật
TTHS Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của
việc quy định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong thực tiễn áp dụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Trên cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả trong và
ngoài nước về các biện pháp ngăn chặn, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một
số vấn đề chung về các biện pháp ngăn chặn và thời hạn của các biện pháp
ngăn chặn như: Khái niệm, ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn, căn cứ áp
dụng các biện pháp ngăn chặn; Khái niệm thời hạn biện pháp ngăn chặn, căn
cứ quy định thời hạn, thời hạn của các biện pháp ngăn chặn với các thời hạn
khác có liên quan trong quá trình giải quyết vụ án.
- Khái quát sự phát triển của các quy định về biện pháp ngăn chặn
cũng như thời hạn của các biện pháp ngăn chặn được trong lịch sử pháp luật
TTHS của nước ta từ năm 1945 đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu các quy định về thời hạn của từng biện pháp ngăn chặn
cụ thể trong BLTTHS Việt Nam hiện hành, từ đó rút ra những nhận xét,
đánh giá;
13
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về thời hạn của
các biện pháp ngăn chặn, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế
xung quanh việc áp dụng;
- Từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy
định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS Việt Nam hiện
hành, cũng như những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong thực tiễn.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề thời hạn của các
biện pháp ngăn chặn trong luật TTHS Việt Nam, kết hợp với việc nghiên
cứu đánh giá tình hình áp dụng các quy định về thời hạn của các biện pháp
ngăn chặn trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ
pháp luật, cơ quan tư pháp, những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong
thực tiễn.
Luận văn cũng có tham khảo những bài học kinh nghiệm lập pháp một
số nước trong khi nghiên cứu về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn.
Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng thời hạn của
các biện pháp ngăn chặn trên phạm vi cả nước.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thời hạn áp dụng các biện pháp
ngăn chặn trong 10 năm (2004-2013).
4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, chính sách TTHS, về vấn đề cải cách
tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, IX, X
14
và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật TTHS như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn
dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để
tổng hợp các tri thức khoa học về luật TTHS và luận chứng các vấn đề tương
ứng được nghiên cứu trong luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ
thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về thời hạn của các biện pháp
ngăn chặn trong TTHS, trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận
và thực tiễn liên quan tới thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong luật
TTHS Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về thời hạn
của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS để xây dựng nên khái niệm thời hạn
của các biện pháp ngăn chặn, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời chỉ
ra ý nghĩa của việc quy định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong mối
tương quan so sánh với một số chế định khác;
- Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành
và phát triển của các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong
pháp luật TTHS Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình áp dụng các
quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn của các cơ quan tiến hành
tố tụng; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn áp dụng pháp luật;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao
15
hiệu quả áp dụng pháp luật trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và
cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra
(CQĐT), Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan thi hành án trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thời hạn của các biện pháp ngăn
chặn.
Chương 2: Quy định về thời hạn biện pháp ngăn chặn trong pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Những giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định về thời hạn của biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.
16
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HẠN
CỦA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
1.1. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỜI
HẠN TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1.1. Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
1.1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn
Trong bất kỳ xã hội nào, con người cũng luôn giữ vai trò quyết định
đối với sự phát sinh, tồn tại và và phát triển của xã hội đó. Tác giả Phạm
Thanh Bình đã chỉ ra rằng: "Tuy nhiên, chỉ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, con
người mới được đặt vào vị trí trung tâm của toàn bộ hoạt động xã hội. Mọi
chiến lược, chính sách phát triển của Đảng ta đều nhằm tới mục đích vì con
người, cho con người" [3]. Nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) với vai trò là
đại diện cho nhân dân, đã thể chế hóa ý chí và lợi ích của nhân dân thành
pháp luật, do đó bảo vệ trật tự XHCN, bảo vệ quyền công dân là một trong
những chức năng quan trọng của Nhà nước ta.
Trên tinh thần kế thừa Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã quy định:
1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm.
2. Nghiêm cấm mọi hành vi tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục
hình hay bất kỳ hình thức đối xử khác xâm phạm thân thể, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm của con người [50, khoản 1, 2 Điều 22]
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân cũng đã được quy
định tại Điều 6 BLTTHS năm 2003 và trở thành nguyên tắc quan trọng xuyên
suốt toàn bộ quá trình TTHS. Tuy nhiên, trong hoạt động bảo vệ pháp luật nói
chung và hoạt động chống tội phạm nói riêng vẫn cần thiết đặt ra vấn đề hạn
chế một số quyền công dân, nhằm bảo đảm trật tự chung của cả xã hội. Cụ thể
17
hơn, để công tác phát hiện tội phạm được nhanh chóng, chính xác, kịp thời xử
lý tội phạm và hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người
vô tội, trong một số trường hợp nhất định, pháp luật phải cho phép các cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp cưỡng chế nào đó hạn chế
quyền và lợi ích của công dân, trong đó có các biện pháp ngăn chặn.
Theo Từ điển Tiếng Việt "ngăn chặn" là "chặn lại ngay từ đầu, không
để cho gây tác hại" [55]. Theo định nghĩa của Giáo trình của Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, biện pháp ngăn chặn được hiểu là biện pháp cưỡng chế
TTHS được quy định trong pháp luật TTHS, do người có thẩm quyền ở các
cơ quan tiến hành tố tụng hoặc các cơ quan khác được giao một số hoạt động
tố tụng áp dụng, công dân đối với bị can, bị cáo, người phạm tội tang, người
có lệnh truy nã hoặc người bị nghi là phạm tội, nhằm ngăn chặn kịp thời hành
vi phạm tội, không để họ cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục
phạm tội cũng như nhằm đảo bảo cho việc thi hành án [10, tr. 248].
1.1.1.2. Mục đích của biện pháp ngăn chặn
Mục đích của các biện pháp ngăn chặn là không cho tội phạm tiếp tục
xảy ra gây thiệt hại cho xã hội, không để cho người phạm tội tiếp tục thực hiện
tội phạm hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, trốn tránh sự trừng phạt
của pháp luật. Đồng thời, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn nhằm tạo
điều kiện thuận lợi để các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án như không để
người phạm tội có thể xóa bỏ dấu vết phạm tội, tiêu hủy chứng cứ, thông cung
giữa những người phạm tội hoặc với người làm chứng, đảm bảo sự có mặt của bị
can, bị cáo, bị án khi có yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng… Như vậy, biện
pháp ngăn chặn không nhằm mục đích trừng trị như hình phạt mà nhằm mục đích
phòng ngừa và có thể làm giảm hậu quả của tội phạm gây ra, để làm rõ sự thật
khách quan của vụ án, mặc dù khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn cũng có thể
hạn chế quyền tự do thân thể, tự do đi lại của người bị áp dụng. Do đó, mọi nhận
thức áp dụng biện pháp ngăn chặn để trấn áp, trừng trị người bị áp dụng biện
pháp ngăn chặn đều là không đúng; như quan niệm của nhà Luật học I.I. Karpes:
18
"Giải quyết việc lựa chọn áp dụng biện pháp ngăn chặn chính là thực hiện trách
nhiệm hình sự đối với cá nhân người phạm tội" [54, tr. 49] hay các tác giả Phan
Hữu Kỳ, Phạm Quang Mỹ là "có tác dụng trấn áp mạnh mẽ kẻ địch và các bọn
tội phạm khác, thỏa mãn được yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng" [31].
1.1.1.3. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
Điều 79 BLTTHS năm 2003 quy định các căn cứ áp dụng biện pháp
ngăn chặn bao gồm:
- Để kịp thời ngăn chặn tội phạm: Việc kịp thời ngăn chặn tội phạm,
không để lọt tội phạm xảy ra hoặc không để người phạm tội có điều kiện kết
thúc hành vi phạm tội của mình gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội là việc làm
rất cần thiết và cấp bách vì mỗi tội phạm xảy ra đều có thể gây ra hoặc đe dọa
gây ra thiệt hại cho một hoặc nhiều quan hệ xã hội là khách thể được luật hình sự
bảo vệ. Quy định áp dụng trong những trường hợp cụ thể như: Bắt người trong
trường hợp khẩn cấp khi có căn cứ để cho rằng một người nào đó đang chuẩn bị
thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (điểm a
khoản 1 Điều 81 BLTTHS năm 2003); hoặc bắt người phạm tội quả tang khi phát
hiện một người đang thực hiện tội phạm (khoản 1 Điều 82 BLTTHS năm 2003).
- Khi có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội: Người đã
thực hiện xong hành vi phạm tội sau khi đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng
khởi tố với tư cách bị can hoặc đưa ra xét xử với tư cách bị cáo, mà có căn cứ
cho rằng họ sẽ tiếp tục phạm tội nếu vẫn để họ tự do nên cần áp dụng các biện
pháp ngăn chặn. Cụ thể là: Bị can, bị cáo có những hành vi tích cực chuẩn bị
thực hiện tội phạm mới và là bất kỳ loại tội nào; Bị can, bị cáo có hành vi đe
dọa, trả thù người tố cáo, người làm chứng và có khả năng thực hiện sự đe
dọa đó; Bị can, bị cáo trong nhiều trường hợp là những phần tử có ý thức
chống đối chế độ sâu sắc, nhiều trường hợp lại là đối tượng côn đồ, hung hãn,
có tiền án, tiền sự, thuộc loại tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Căn cứ này được
thể hiện cụ thể trong quy định về bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người
trong trường hợp khẩn cấp; tạm giữ; tạm giam.
19
- Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tố, xét xử: Những biểu hiện của việc gây khó khăn cho công tác điều
tra, truy tố, xét xử có thể là bị can, bị cáo trốn khỏi nơi cư trú; nhiều lần
không có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng mà không có
lý do chính đáng; xóa bỏ dấu vết tội phạm; tiêu hủy chứng cứ; làm thay đổi tài
liệu liên quan đến tội phạm; mua chuộc người bị hại, người làm chứng, người
giám định, người phiên dịch; thông đồng cấu kết với nhau đối phó lại hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử… Căn cứ này được hiểu là bị can, bị cáo đã có
hành vi gây cản trở hoặc có khả năng thực hiện ngay tức khắc việc gây cản trở
cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Đối tượng để áp dụng căn cứ này
thường là bị can, bị cáo, người bị truy nã; Cũng có thể áp dụng đối với người
chưa có quyết định khởi tố bị can như một người thực hiện tội phạm và sau đó
bỏ trốn hoặc sau khi phát hiện dấu vết tội phạm trên người hoặc nơi ở của
người bị nghi thực hiện tội phạm và có căn cứ cho rằng người đó trốn hoặc
tiêu hủy chứng cứ, cụ thể là những trường hợp bắt khẩn cấp hoặc phạm tội
quả tang theo quy định của BLTTHS.
- Để đảm bảo thi hành án: Thi hành án là giai đoạn cuối cùng của
TTHS, phát huy hiệu lực của bản án được thi hành trong thực tế. Việc cản trở
thi hành án được thể hiện: bị cáo không có nơi cư trú rõ ràng, không có nghề
nghiệp hoặc bị cáo có nhân thân xấu như có tiền án, tiền sự, đối tượng côn đồ
hung hãn,… Khi có căn cứ cho rằng bị cáo cản trở việc thi hành án thì có thể
áp dụng một trong các biện pháp ngăn chặn thích hợp như: Tạm giam; Cấm đi
khỏi nơi cư trú; Bảo lãnh; Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
1.1.1.4. Ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn
Thứ nhất, các biện pháp ngăn chặn thể hiện sự chuyên chính của nhà
nước XHCN trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm: Tội phạm trực tiếp
hoặc hoặc gián tiếp xâm hại đến sự bền vững và ổn định của chế độ nhà nước,
chế độ kinh tế - chính trị và xã hội, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tự do,
20
danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân. Do đó, Nhà nước ta coi việc đấu
tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời, xử lí nghiêm minh nhằm
tiến tới loại trừ hiện tượng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội là một trong
những nhiệm vụ quan trọng nhất và phải được tiến hành một cách kiên quyết,
triệt để, không khoan nhượng.
Thứ hai, các biện pháp ngăn chặn bảo đảm cho hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng được thuận lợi; góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả
của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thông thường, người phạm
tội luôn tìm đủ mọi cách để có thể nhanh chóng đạt được mục đích phạm tội
lại vừa có thể che giấu, trốn tránh được sự phát hiện và trừng phạt của pháp
luật, do đó, cần thiết phải ngăn chặn kịp thời ngay từ đầu các hành vi thực
hiện tội phạm hoặc hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho việc xử lý người
phạm tội. Như vậy, các biện pháp ngăn chặn góp phần hạn chế đến mức thấp
nhất những khó khăn mà người phạm tội có thể gây ra cho quá trình giải
quyết vụ án.
Thứ ba, các biện pháp ngăn chặn bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng các
quyền cơ bản của công dân được hiến pháp quy định như quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và đi lại…; thể hiện tính ưu việt của chế
độ XHCN: Mọi trường hợp thực hiện không đúng các quy định pháp luật
trong việc áp dụng biện pháp chăn chặn đều phải bị phát hiện và khắc phục
kịp thời. Mọi hành vi trái pháp luật khi áp dụng biện pháp ngăn chặn gây hậu
quả nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân
đều bị xử lý nghiêm minh. Như vậy, quy định và đảm bảo áp dụng nghiêm
chỉnh những biện pháp ngăn chặn trong TTHS là sự thể hiện tập trung và rõ
nét nhất sự dân chủ, tính ưu việt của chế độ XHCN của Nhà nước ta.
1.1.1.5. Các biện pháp ngăn chặn
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định các biện pháp ngăn chặn
bao gồm: Bắt người (với bốn trường hợp bắt: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
21
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp; Bắt người phạm tội quả tang; Bắt người
có lệnh truy nã); Tạm giữ; Tạm giam; Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bảo lĩnh; Đặt
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Mỗi biện pháp ngăn chặn có những
quy định khác nhau về đối tượng, thẩm quyền, thủ tục áp dụng, do đó tùy
từng trường hợp cụ thể để lựa chọn biện pháp ngăn chặn phù hợp sẽ mang lại
ý nghĩa tích cực và hiệu quả trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
1.1.2. Thời hạn tố tụng hình sự
Pháp luật về TTHS đều có quy định về thời hạn trong từng giai đoạn tố
tụng cụ thể nhằm đảm bảo các hành vi tố tụng được thực hiện một cách chính
xác, khách quan. Trong giai đoạn trước khi khởi tố vụ án hình sự, BLTTHS đã
quy định về thời hạn giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm, đảm bảo mọi tội
phạm được phát hiện kịp thời để từ đó quyết định khởi tố hoặc không khởi tố
vụ án hình sự. Theo quy định tại Điều 103 BLTTHS năm 2003, thời hạn này là
hai mươi ngày đối với sự việc đơn giản, hai tháng đối với vụ việc phức tạp. Thời
hạn điều tra vụ án hình sự được quy định tại Điều 119 BLTTHS năm 2003
như sau: Không được quá bốn tháng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết
thúc điều tra. Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ
án, trong thời hạn mười ngày trước khi hết hạn điều tra, CQĐT phải có văn bản
đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra. Trong suốt giai đoạn điều tra, Viện
kiểm sát thực hiện chặt chẽ việc kiểm sát điều tra của CQĐT, đồng thời thực
hiện một số hoạt động điều tra trong thời hạn mà pháp luật cho phép v.v...
Có thể thấy rằng, ở mỗi giai đoạn TTHS, pháp luật đều quy định chặt
chẽ một thời hạn nhất định, không có hoạt động tố tụng nào lại không bị ràng
buộc bởi một thời hạn cụ thể. Việc quy định thời hạn tố tụng nhằm để các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có ý thức tinh thần trách
nhiệm về các hoạt động của mình đảm bảo đúng thời gian quy định, chống lại
sự tùy tiện và những biểu hiện vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của những
người tham gia tố tụng.
22
Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành: Thời hạn TTHS bao gồm
hai loại: thời hạn của thủ tục tố tụng và thời hạn của các biện pháp ngăn chặn.
Bộ luật tố tụng hình sự quy định về thời hạn của thủ tục tố tụng cụ thể
thông qua từng nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng. Các
hoạt động tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án hình sự
đều phải được tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định. Mỗi cơ quan tiến
hành tố tụng đều có những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn riêng, nhưng
đồng thời có mối quan hệ với nhau trong quá trình tiến hành các hoạt động tố
tụng mà pháp luật cho phép. Cơ quan nào có thẩm quyền gì và thực hiện thẩm
quyền trong thời hạn như bao lâu, những người tiến hành tố tụng có nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm cụ thể nào. Ví dụ: Khi CQĐT ra lệnh bắt khẩn cấp
thì phải báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu
liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. Viện kiểm sát phải kiểm sát
chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề
nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát
phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện
kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do
ngay cho người bị bắt [47, khoản 4 Điều 81].
Trong suốt quá trình tố tụng, để tiến hành các hoạt động giải quyết vụ
án được thuận lợi, chính xác, kịp thời, các cơ quan tiến hành tố tụng cần thiết
phải áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên cơ sở các quy định của pháp luật
về nhiệm vụ, quyền hạn cũng như thủ tục áp dụng các biện pháp đó. Mỗi biện
pháp ngăn chặn khi áp dụng lại có quy định bắt buộc riêng về thời hạn. Ví dụ
thời hạn tạm giữ không quá 3 ngày kể từ khi CQĐT nhận người bị bắt. Trong
trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ,
nhưng không quá ba ngày [47, Điều 87].
Như vậy, thời hạn TTHS không chỉ là khoảng thời gian vật chất được
xác định để thực hiện hoạt động cần thiết, mà nó còn quy định cụ thể về trình
23
tự, thủ tục, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng khi thực hiện các
hoạt động tố tụng đó, đồng thời là sự thể hiện, mang dấu ấn chủ quan của nhà
làm luật, xác định những thời hạn cần thiết để tiến hành các hoạt động tố tụng.
Thời hạn là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong TTHS, nhưng
BLTTHS năm 2003 lại không quy định khái niệm về thời hạn TTHS. Điều 96
BLTTHS năm 2003 chỉ quy định riêng về cách tính thời hạn trong TTHS. Từ
những quy định tại Điều 96 BLTTHS và từ thực tiễn hoạt động TTHS có thể
đưa ra khái niệm về thời hạn TTHS như sau: Thời hạn trong TTHS chính là
giới hạn, thời gian dành cho các chủ thể của TTHS thực hiện các quyền và
nghĩa vụ pháp lý của mình theo quy định của pháp luật; là khoảng thời gian
được ấn định để chủ thể TTHS phải thực hiện hoặc kết thúc một hoạt động tố
tụng nào đó và thời hạn cũng là một tiêu chí để xác định trách nhiệm của các
chủ thể TTHS.
1.2. THỜI HẠN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ
1.2.1. Khái niệm thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự
Từ phân tích ở trên cho thấy, thời hạn của các biện pháp ngăn chặn
trong TTHS thuộc phạm vi, giới hạn của thời hạn trong TTHS. Các quy định
nghiêm ngặt của pháp luật TTHS về thời hạn đối với từng biện pháp ngăn
chặn là thực sự cần thiết để đảm bảo việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
được chính xác, khách quan và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của những
người tham gia tố tụng. Cũng như các loại thời hạn tố tụng khác, thời hạn của
các biện pháp ngăn chặn được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác
để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng thực hiện việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với cá nhân, tổ chức,
người bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn do BLTTHS quy định.
Theo quy định của BLTTHS thì các biện pháp ngăn chặn trong
TTHS sự bao gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh,
24
đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Vì vậy thời hạn của các biện
pháp ngăn chặn trong TTHS chính là thời gian, giới hạn của việc bắt, tạm
giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá
trị để bảo đảm.
Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS được coi là một
loại thời hạn đặc biệt quan trọng, vì việc quy định thời hạn này một cách hợp
lý không chỉ mang lại sự khách quan, công bằng mà còn xác định được một
cách chính xác nhất thời gian để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng thực hiện được các hoạt động tố tụng cần thiết cho toàn bộ quá
trình tố tụng, giúp quá trình giải quyết vụ án được thuận lợi, góp phần nâng
cao hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, ngăn chặn ngay
từ đầu các hành vi thực hiện tội phạm hoặc hành vi trốn tránh, gây khó khăn
cho việc xử lý người phạm tội; đồng thời đảm bảo sự dân chủ, tôn trọng tối đa
các quyền cơ bản của công dân, hạn chế việc lạm quyền, xâm phạm quyền tự
do, dân chủ của công dân. Việc xác định một khoảng thời gian hợp lý, chính
xác khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn thể hiện sự nghiêm minh của
pháp luật, ngăn chặn các biểu hiện cản trở hoặc gây khó khăn cho toàn bộ quá
trình tố tụng, đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo khi có triệu tập của các cơ
quan tiến hành tố tụng. Do đó, việc quy định thời hạn của các biện pháp ngăn
chặn trong pháp luật TTHS là vô cùng quan trọng và cần thiết, góp phần thể
hiện sự dân chủ, tính ưu việt của Nhà nước XHCN.
Có thể đưa ra khái niệm về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn như sau:
Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS là một trong những thời
hạn của TTHS, là khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời
điểm khác để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và những
người tham gia tố tụng phải tuân thủ khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn
được quy định trong BLTTHS.
25
1.2.2. Căn cứ quy định thời hạn các biện pháp ngăn chặn trong
luật tố tụng hình sự
Khi xác định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS, cần
thiết phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của TTHS. Việc áp dụng đúng thời
hạn của các biện pháp ngăn chặn giúp quá trình giải quyết vụ án được chính
xác, đúng đắn, khách quan, tránh làm oan người vô tội hay giam giữ người
trái pháp luật. Do đó, để quy định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong
TTHS, cần phải dựa trên những căn cứ sau:
* Tính chất nghiêm trọng của tội phạm, mức độ phức tạp của vụ án
Căn cứ này dựa trên việc quy định những hành vi nào là nguy hiểm
đáng kể cho xã hội, xâm phạm đến những quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ thì mới được coi là tội phạm. Khác với những hành vi không phải là
tội phạm, được quy định trong các đạo luật khác. Khi đã xác định được hành
vi là tội phạm, phải căn cứ vào mức độ gây nguy hại cho xã hội được quy
định trong Bộ luật hình sự (BLHS) về 4 loại tội: tội phạm ít nghiêm trọng,
tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng. Ví dụ, thời hạn tạm giam bị can để điều tra đối với tội phạm ít
nghiêm trọng là không quá hai tháng, tội phạm nghiêm trọng là không quá ba
tháng, tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng là không quá bốn
tháng [47, khoản 1 Điều 120]. Việc quy định các thời hạn của biện pháp ngăn
chặn căn cứ vào tính chất nghiêm trọng của tội phạm, mức độ phức tạp của vụ
án có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn áp dụng. Đối với những vụ án có tính
chất nghiêm trọng, phức tạp, có đồng phạm, do nhiều người thực hiện, gây
nguy hiểm lớn cho xã hội,… thì cần thiết phải tiến hành nhiều hoạt động điều
tra để xác minh, thu thập chứng cứ, do đó, thời hạn tạm giam để điều tra phải
dài hơn để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng có thể thực hiện đủ các
hoạt động điều tra cần thiết, tìm ra sự thật khách quan của vụ án, chứng minh
được tội phạm và người phạm tội.
26
* Căn cứ vào nhân thân, điều kiện sinh sống, hoạt động của người
thực hiện hành vi phạm tội
Nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm nói lên tính
chất của một con người. Những đặc điểm đó có ảnh hưởng nhất định đến
hành vi phạm tội và khả năng cải tạo, giáo dục người phạm tội. Xét đến nhân
thân người phạm tội là xét đến những mối quan hệ giữa người ấy với xã hội,
tập thể, gia đình và với người khác cũng như những đặc điểm của bản thân
người đó. Đặc điểm nhân thân người phạm tội có rất nhiều loại, như:
+ Những đặc điểm mang tính chất pháp lý (tức là đặc điểm có ảnh
hưởng trực tiếp đến tội phạm) được BLHS quy định là tình tiết tăng nặng
hoặc giảm nhẹ hình phạt như: Phạm tội lần đầu hay đã có tiền án, tái phạm,
tái phạm nguy hiểm, người chưa thành niên, có thái độ tự thú, hối cải, lập
công chuộc tội hay ngoan cố...;
+ Những đặc điểm có quan hệ đến ý thức chính trị, ý thức lao động,
trình độ nhận thức, hiểu biết của người phạm tội như: Thành phần, trình độ
văn hóa, nghề nghiệp...;
+ Những đặc điểm có quan hệ đến các đối tượng của các chính sách
lớn của Đảng và Nhà nước như: Người phạm tội thuộc dân tộc ít người, thuộc
gia đình liệt sĩ, là nhân sĩ, trí thức có danh tiếng, là người hoạt động trong lĩnh
vực tôn giáo...;
+ Những đặc điểm phản ánh hoàn cảnh thực tế của người phạm tội
như: Bị lâm bệnh hiểm nghèo, là người già yếu, là phụ nữ có thai hoặc đang
nuôi con nhỏ, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của bản thân hay của gia đình...
+ Những đặc điểm có liên quan đến cuộc sống của người phạm tội
như: có địa chỉ và nhà ở cố định hay lang thang không nghề nghiệp, nguồn
thu nhập để sống…
Dựa vào các đặc điểm nhân thân như trình độ học vấn, tình trạng gia
đình, quan hệ xã hội,…cũng như các điều kiện sinh sống, hoạt động của
27
người thực hiện hành vi phạm tội để xem xét sự cần thiết áp dụng biện pháp
ngăn chặn và cần phải áp dụng thời hạn ngăn chặn dài hay ngắn.
Dựa vào điều kiện nhân thân người phạm tội, đối với trường hợp
người thực hiện hành vi phạm tội không có ý trốn tránh pháp luật, phạm tội
lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng hoặc phạm tội do vô ý, không có hành động
cản trở, gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án,…
BLTTHS quy định không cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt tạm
giam, mà có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác như quản chế, cấm đi
khỏi nơi cư trú,… Nhân thân, điều kiện sinh sống của người thực hiện hành
vi phạm tội được xem xét để pháp luật TTHS quy định thời hạn áp dụng
biện pháp ngăn chặn dài hay ngắn khác nhau. Ví dụ đối với việc gia hạn
tạm giữ: "Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia
hạn tạm giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra
quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba
ngày..." [47, khoản 2 Điều 87].
Theo đó, các trường hợp cần thiết và trường hợp đặc biệt để gia hạn
thời hạn tạm giữ có thể bao gồm cả việc khi xem xem nhân thân của người bị
tạm giữ mà thấy cần ngăn chặn ngay người đó có thể trốn hoặc cản trở điều
tra làm rõ vụ việc.
* Căn cứ vào mô hình tố tụng hình sự
Theo tác giả Nguyễn Thảo - Ban Nội chính Trung ương:
Mô hình tố tụng hình sự theo cách hiểu chung nhất là sự
khái quát cao những đặc trưng cơ bản, phổ biến, phản ánh cách thức
tổ chức hoạt động tố tụng hình sự, cách thức tìm đến sự thật khách
quan của vụ án. Cách thức tổ chức này quyết định địa vị tố tụng của
các chủ thể trong quá trình thực hiện các chức năng cơ bản của tố
tụng hình sự (chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử) [51].
Căn cứ vào các dấu hiệu chung nhất có thể phân thủ tục xét xử các vụ
án hình sự ở các nước trên thế giới thành hai hệ tố tụng cơ bản: Tố tụng tranh
28
tụng và tố tụng thẩm vấn (xét hỏi). "Cả hai hệ tố tụng này đều có mục đích cơ
bản là tìm ra sự thật và hoạt động theo nguyên tắc "kẻ có tội phải bị trừng
phạt, người vô tội phải được tự do". Điểm khác biệt giữa chúng là ở sự giả
định về cách thức tốt nhất để tìm ra sự thật" [37].
Tố tụng tranh tụng là mô hình TTHS mà ở đó xuất hiện bên buộc tội
và bên gỡ tội có địa vị pháp lý ngang nhau trong quá trình xác định sự thật
khách quan của vụ án và tòa án sẽ ra phán quyết dựa trên kết quả tranh tụng
giữa các bên tại phiên tòa. Trong mô hình này, do tất cả các hoạt động tố tụng
đan xen với nhau, thể hiện rõ nhất tại phiên tòa, thời gian vụ án thường bị kéo
dài, nhưng lại đảm bảo quyền con người tốt hơn, do đó pháp luật quy định
thời hạn của các biện pháp ngăn chặn nghiêm ngặt, chặt chẽ hơn, đảm bảo
quyền con người tốt hơn. Ví dụ, pháp luật của Mỹ và một số nước quy định
thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam rất nghiêm ngặt. Từ khi người bị tình
nghi bị bắt, tạm giam; Cơ quan điều tra phải tìm các chứng cứ chứng minh tội
phạm. Nếu hết thời hạn tạm giam mà không có chứng cứ chứng minh người
bị tình nghi phạm tội thì phải trả tự do ngay cho người bị bắt giữ.
Tố tụng xét hỏi, tố tụng thẩm vấn được hiểu là mô hình tố tụng mà
việc xác định sự thật khách quan của vụ án dựa trên kết quả của CQĐT và
việc xét hỏi bị cáo của Hội đồng xét xử tại phiên tòa. Thủ tục tố tụng của mô
hình này phân chia tách biệt các giai đoạn từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.
Do phụ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng nên thời hạn của các biện pháp ngăn
chặn tùy thuộc vào từng cơ quan có thẩm quyền quyết định, do đó thời hạn
của các biện pháp ngăn chặn cũng tương đối dài. Ví dụ: Theo quy định của
BLTTHS Việt Nam hiện hành thì cả ba cơ quan: CQĐT, Viện kiểm sát và
Tòa án đều có thẩm quyền tạm giam đối với người phạm tội; song thời hạn
tạm giam trong giai đoạn điều tra thường dài hơn các giai đoạn truy tố, xét xử.
Ngoài hai hệ tố tụng cơ bản nêu trên, trong xu hướng hội nhập quốc
tế, việc tham khảo kinh nghiệm lập pháp của các nước khác để hoàn thiện hệ
29
thống pháp luật nói chung và hệ thống tư pháp của mình nói riêng luôn được
các quốc gia quan tâm. Ngày nay nhiều nước thuộc hệ thống pháp luật lục địa
với hệ tố tụng thẩm vấn truyền thống đã tiếp thu và kết hợp một số yếu tố hợp
lý của tố tụng tranh tụng vào hệ thống tố tụng của mình tạo thành hệ tố tụng
pha trộn - tố tung bán tranh tụng. Ví dụ: Tại Cộng hòa Pháp ngày 15/6/2000
đã ban hành "Luật về suy đoán vô tội và tăng quyền của nạn nhân" đã bổ sung
một số nội dung của tố tụng tranh tụng nhằm tăng cường vai trò, quyền hạn
của các bên tại phiên tòa và đảm bảo tốt hơn nguyên tắc tranh tụng [37]. Mô
hình tố tụng bán tranh tụng theo hướng kết hợp một số yếu tố hợp lý của tố
tụng tranh tụng vào tố tụng thẩm vấn truyền thống cũng đang được áp dụng ở
các nước như: Pháp, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản,...
Như vậy, phụ thuộc vào từng mô hình tố tụng mà thời hạn của các
biện pháp ngăn chặn ở pháp luật mỗi nước cũng có những quy định khác nhau.
* Căn cứ vào tổ chức hệ thống tư pháp
Do mô hình tố tụng khác nhau và cách thức tổ chức hệ thống tư pháp
khác nhau, nên các quốc gia cũng có những quy định khác nhau về thời hạn của
các biện pháp ngăn chặn. Ví dụ đối với thời hạn của biện pháp ngăn chặn tạm giam:
Theo hệ thống tư pháp Nhật Bản, chỉ Thẩm phán mới có quyền ra lệnh
tạm giam. Luật TTHS của Nhật Bản quy định: Chỉ có Công tố viên mới có
quyền đề nghị Thẩm phán tạm giam người bị tình nghi để điều tra. Thẩm
phán có thể ra quyết định tạm giam người bị tình nghi trong thời hạn 10 ngày.
Khi Công tố viên không thể hoàn thành điều tra trong thời hạn 10 ngày thì có
thể đề nghị Thẩm phán gia hạn thêm 10 ngày nữa. Trước khi có cáo trạng,
người bị tình nghi bị tạm giam trước khi xét xử được giam ở nhà tạm giam do
Bộ Tư pháp quản lý hoặc ở phòng tạm giam của Cảnh sát, tùy thuộc vào lệnh
tạm giam của Thẩm phán [61].
Theo luật của In-đô-nê-si-a, Cảnh sát có quyền tạm giam người bị tình
nghi nhiều nhất là 20 ngày, hết 20 ngày chưa điều tra xong thì Công tố viên
30
có thể gia hạn thêm 40 ngày. Sau 60 ngày, Điều tra viên phải trả tự do cho
người bị tình nghi. Trát bắt của Công tố viên chỉ có hiệu lực trong thời hạn
nhiều nhất 20 ngày, nếu việc điều tra vẫn chưa kết thúc thì Thẩm phán Tòa án
cấp quận có thể gia hạn thêm 30 ngày. Như vậy, sau 50 ngày, Công tố viên
phải trả tự do cho người bị tình nghi v.v… [61].
Có thể thấy rằng quy định thời hạn tạm giam của Nhật Bản và In-đô-
nê-si-a rất chặt chẽ, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để bảo đảm tốt quyền công
dân, quyền con người, thể hiện sự tôn trọng cao đối với tính mạng, sức khỏe,
danh dự và nhân phẩm của công dân.
Pháp luật TTHS của Trung Quốc quy định Cảnh sát có thẩm quyền rất
rộng trong việc tạm giam người bị tình nghi để lấy lời khai. Về thời hạn: Cảnh
sát phải thẩm vấn người bị bắt trong vòng 24 giờ kể từ lúc bắt giữ. Thời hạn
tạm giam một người trong khi điều tra là 02 tháng sau khi bắt. Tổng thời hạn
cả gia hạn và trong những vụ việc phức tạp là 06 tháng kể từ ngày xác định
được danh tính của người bị tình nghi. Nếu trong quá trình điều tra phát hiện
ra một tội phạm khác thì thời hạn điều tra tội phạm mới bắt đầu được tính từ
thời điểm phát hiện ra chứng cứ của tội phạm mới… Như vậy, thời hạn tạm
giam do Luật TTHS của Trung Quốc quy định là rất dài. Cùng với đó, vấn đề
tạm giam quá thời hạn đang trở nên nghiêm trọng tại nước này, đã được báo
cáo lên Cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương của Trung Quốc như một vấn
đề hết sức nghiêm trọng, cần phải nhanh chóng khắc phục. Một bản tin của
Tân hoa xã đã trích dẫn số liệu do Viện kiểm sát cung cấp cho biết số vụ giam
giữ quá hạn từ 01/2003-7/2007 là 33.398 vụ (Xinhua 2007) [33].
Có thể thấy rằng, hệ thống tư pháp mỗi nước có ảnh hưởng nhất định
đến việc quy định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn.
* Că n cứ vào thẩ m quyề n củ a cơ quan và nhữ ng
ngư ờ i tiế n hành tố tụ ng
Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn được thực hiện bởi những cơ
31
quan, những người tiến hành tố tụng có thẩm quyền do pháp luật TTHS quy
định. Trong đó, những người tiến hành tố tụng cần thiết phải đáp ứng các yêu
cầu về trình độ, phẩm chất, năng lực chuyên môn để việc áp dụng pháp luật
được đúng đắn, chính xác, khách quan. Có thể nói, trình độ, phẩm chất và
năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ tiến hành tố tụng quyết định lớn đến
kết quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 với những quy định về thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn
đã xem xét khả năng thực hiện của chủ thể tiến hành. Ví dụ, quy định việc gia
hạn thời hạn tạm giam để điều tra:
Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần
phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để
thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là mười
ngày trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản
đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam… [47, khoản 2 Điều 120].
Về thẩm quyền gia hạn tạm giam của Viện kiểm sát được quy định
như sau:
a. Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự
khu vực có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm
trọng, gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm nghiêm trọng
và tội phạm rất nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án được thụ lý
để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền gia hạn tạm
giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần thứ
nhất đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b. Trong trường hợp gia hạn tạm giam lần thứ nhất quy định
tại điểm a khoản này đã hết mà vẫn chưa thể kết thúc việc điều tra
và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam
32
thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu
vực có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm nghiêm
trọng. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp
quân khu có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm
nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng [47, khoản 3 Điều 120].
Như vậy, pháp luật đã dựa trên các quy định về thẩm quyền của cơ
quan và người tiến hành tố tụng ở các nhóm cơ quan tiến hành tố tụng để
phân loại những người có quyền quyết định gia hạn tạm giam.
* Căn cứ vào văn hóa, pháp lý, nhận thức pháp luật của người dân
Dựa vào trình độ văn hóa, pháp lý và nhận thức pháp luật của người
dân, pháp luật các quốc gia khác nhau quy định việc áp dụng thời hạn các
biện pháp ngăn chặn khác nhau. Ở những nước có trình độ dân trí cao, người
dân có sự am hiểu pháp luật, có điều kiện thuê luật sư tham gia TTHS, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thì các quy định pháp luật của nước đó
cũng tập trung vào vấn đề bảo vệ quyền con người cao hơn, do đó, việc quy
định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn cũng nhằm đảm bảo hợp lý nhất
quyền con người, hạn chế thấp nhất việc xâm phạm quyền tự do đi lại hay
xâm phạm về thân thể của công dân. Và ngược lại, với những nước có trình
độ dân trí thấp, hiểu biết pháp luật chưa cao, việc quy định thời hạn của các
biện pháp ngăn chặn có phần dễ dẫn đến việc xâm phạm quyền con người hơn.
Ở nước ta, ngay trong mỗi giai đoạn lịch sử, căn cứ vào tình hình văn
hóa, pháp lý, nhận thức pháp luật của người dân mà pháp luật đã có những
thay đổi nhất định: Sau cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền dân
chủ nhân dân còn non trẻ, phải đương đầu với thù trong giặc ngoài, trấn áp,
trừng trị kẻ thù của đất nước, bảo vệ chính quyền cách mạng là nội dung chủ
yếu, về nhận thức pháp lý của người dân chưa chú trọng. Trong thời kỳ này,
chính sách hình sự hàng đầu chỉ nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi công cộng,
33
chưa tập trung vào thủ tục tố tụng cũng như các quy định chống xâm phạm
quyền cá nhân con người. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
đế quốc Mỹ, chính sách hình sự của Nhà nước ta vẫn thiên về mặt chuyên
chính với kẻ thù. Đến khi ban hành BLHS 1985 và BLTTHS 1988, việc xác
định thời hạn tố tụng đã được quy định một cách chi tiết, có hệ thống, đáp
ứng yêu cầu, mục đích nhiệm vụ của TTHS trong giai đoạn mới, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đến giai đoạn ban hành BLTTHS
năm 2003, nhận thức về pháp lý của đất nước và nhân dân đã nâng cao hơn,
thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn được quy định chặt chẽ hơn, phù
hợp hơn. Ngày nay, về văn hóa, pháp lý của người dân ngày càng được nâng
cao và trong bối cảnh hội nhập sâu rộng với quốc tế, càng cần thiết đặt ra vấn
đề quy định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn chặt chẽ hơn nữa, đang đòi
hỏi bức thiết sửa đổi pháp luật về thời hạn ngăn chặn phải nâng cao việc bảo
vệ quyền con người hơn nữa.
* Căn cứ vào điều kiện cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất của đất nước
Trong điều kiện cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất của đất nước phát triển
thì việc quy định các biện pháp ngăn chặn thời hạn áp dụng các biện pháp này
được chú trọng hơn, thuận lợi hơn. Hiện nay, ở nước ta cơ sở vật chất bảo
đảm cho công tác tiếp cận pháp luật của người dân còn rất thiếu thốn, nhất là
đối với các tỉnh miền núi. Các phương tiện làm việc như máy vi tính chưa có
hoặc phải sử dụng chung; các tài liệu pháp luật, nghiệp vụ chưa được cập
nhật thường xuyên. Nhiều nơi chưa được nối mạng Internet đã ảnh hưởng
đến việc cập nhật văn bản pháp luật mới và sử dụng cơ sở dữ liệu pháp luật
một cách hệ thống, việc ứng dụng công nghệ thông tin, tin học trong quản lý
và thực thi công vụ còn ít, do đó vấn đề quy định pháp luật TTHS nói chung,
quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn nói riêng chưa được chú
trọng nhiều. Đây chính là những hạn chế làm ảnh hưởng không nhỏ đến các
quy định của thủ tục tố tụng, thời hạn tố tụng cũng như thời hạn của các biện
34
pháp ngăn chặn.
1.2.3. Thời hạn biện pháp ngăn chặn với các thời hạn khác có liên
quan trong quá trình giải quyết vụ án
Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn cũng thể hiện sự tương thích,
phù hợp với các thời hạn có liên quan trong từng giai đoạn của quá trình giải
quyết vụ án hình sự.
* Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn với các thời hạn khác trong
giai đoạn trước khi khởi tố vụ án
Trước khi khởi tố vụ án, cần thiết phải áp dụng một số biện pháp ngăn
chặn khi thấy một người thực hiện hành vi có dấu hiệu phạm tội để xem xét
việc khởi tố hay không khởi tố một người như: biện pháp bắt khẩn cấp, bắt
quả tang, tạm giữ. Thời hạn của các biện pháp này được quy định rất ngắn,
đảm bảo phù hợp với tính cấp thiết, nhanh chóng trước khi khởi tố vụ án, xác
định tội phạm, đồng thời đảm bảo quyền con người. Khoảng thời gian cho
phép để áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp, bắt quả tang phải xác định nhanh
chóng, không thể chậm trễ để xem xét quyết định một người có phạm tội
được quy định trong BLHS hay không. Sau khi bắt, tạm giữ, các cơ quan tiến
hành một số hoạt động nghiệp vụ cần thiết, thu thập chứng cứ, tài liệu có liên
quan, nếu không đủ căn cứ chứng minh một người phạm tội trong BLHS thì
phải trả tự do cho họ. Như vậy, nếu họ không phạm vào tội được quy định
trong BLHS mà áp dụng biện pháp ngăn chặn với họ thì đã phần nào ảnh
hưởng nhất định đến quyền công dân, quyền tự do thân thể, danh dự, nhân
phẩm của họ, do đó, xác định giới hạn khoảng thời gian mà pháp luật cho
phép trong giai đoạn này bắt buộc không thể kéo dài.
Thời điểm này, pháp luật quy định áp dụng các biện pháp ngăn chặn
phải được giới hạn trong thời gian cho phép để tiến hành các hoạt động cần
thiết cho việc khởi tố vụ án, đảm bảo việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can có căn
cứ, đúng pháp luật. Ví dụ: thời hạn tối đa để áp dụng biện pháp tạm giữ là 9
35
ngày, thì ít nhất sau 9 ngày, CQĐT phải thu thập tài liệu, chứng cứ chứng
minh người đang bị tạm giữ phạm tội quy định trong BLHS hay không, để ra
Quyết định khởi tố vụ án. Nếu không thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ.
* Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn với các thời hạn trong giai
đoạn điều tra vụ án, giai đoạn truy tố, xét xử
Sau khi khởi tố vụ án, xác định được sự việc phạm tội, khởi tố được bị
can, xác định được người thực hiện hành vi phạm tội, vụ án được bước sang
giai đoạn điều tra, sau khi kết thúc điều tra chuyển sang giai đoạn truy tố, kết
thúc truy tố bằng bản Cáo trạng là đến giai đoạn xét xử và sau cùng là thi
hành án. Tương ứng với giai đoạn điều tra có thời hạn điều tra, tương ứng với
giai đoạn truy tố có thời hạn truy tố, và tương ứng với giai đoạn xét xử là thời
hạn xét xử sơ thẩm, thời hạn xét xử phúc thẩm. Các thời hạn này phân chia
ranh giới của từng giai đoạn tố tụng, xác định khoảng thời gian cần thiết mà
các cơ quan tiến hành tố tụng phải hoàn thành việc điều tra, truy tố, xét xử vụ
án tương ứng. Trong khoảng thời hạn của từng giai đoạn này, ngoài việc tiến
hành điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ, các hoạt động nghiệp vụ khác, thì
các cơ quan tiến hành tố tụng còn được quyền áp dụng thời hạn ngăn chặn.
Mục đích của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong các giai đoạn tố tụng
này nhằm việc tiến hành điều tra, truy tố, xét xử người thực hiện hành vi
phạm tội được thuận lợi, tránh việc cản trở điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo
sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố
tụng. Trong từng giai đoạn này, tùy thuộc vào tính chất, mức độ hành vi phạm
tội, nhân thân và các điều kiện cần thiết khác để các cơ quan tiến hành tố tụng
áp dụng các biện pháp ngăn chặn phù hợp Nếu cần thiết người phạm tội có
thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng
có thể áp dụng biện pháp tạm giam. Trường hợp xét thấy không cần thiết phải
tạm giam, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể thay đổi biện pháp ngăn chặn
bằng việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn như cấm đi
36
khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn này phải phù hợp với thời
hạn của giai đoạn tố tụng, việc xác định khoảng thời gian mà pháp luật cho
phép để áp dụng biện pháp ngăn chặn phải nằm trong khoảng thời gian của
giai đoạn tố tụng tương ứng. Ví dụ, nếu cần thiết phải áp dụng tạm giam, thì
thời hạn tạm giam để điều tra không được phép dài hơn thời hạn điều tra, thời
hạn tạm giam để truy tố không được phép dài hơn thời hạn truy tố, thời hạn
tạm giam để xét xử không được phép dài hơn thời hạn xét xử, v.v… Tương tự
như vậy, khi áp dụng thời hạn biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cũng phải
được xác định giới hạn nằm trong khoảng thời gian của giai đoạn tố tụng
tương ứng. Như vậy, dựa vào từng giai đoạn tố tụng để làm căn cứ xác định
thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn.
1.3. THỜI HẠN CỦA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.3.1. Luật tố tụng hình sự của Hoa Kỳ
Theo pháp luật Hoa Kỳ, TTHS bắt đầu khi một đạo luật bị vi phạm và
trải qua các giai đoạn bắt giữ, cáo trạng, xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Ở Mỹ,
có một trình tự tố tụng ở cấp quốc gia và mỗi bang, mỗi lãnh thổ lại có những
quy tắc và quy định riêng tác động lên thủ tục tố tụng, do đó, các thủ tục
TTHS vừa có những chuẩn mực nhất định và cũng tồn tại những sự tương
đồng giữa các thực thể chính quyền.
Trong "Các nguyên tắc liên bang về tố tụng hình sự (2006) (bao gồm
cả sửa đổi có hiệu lực từ ngày 01 tháng 12 năm 2006) của Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ không quy định cụ thể các biện pháp ngăn chặn và phân biệt thành
từng loại biện pháp ngăn chặn cũng như thời hạn của các biện pháp ngăn chặn
mà một số "biện pháp ngăn chặn" như bắt giữ, bảo lãnh, giải phóng bị đơn
bằng cam kết trước tòa v.v… được quy định trong tổng thể trình tự, thủ tục tố
tụng từ trước khi diễn ra phiên tòa, tại phiên tòa và sau phiên tòa.
Trước khi một phiên tòa sơ thẩm hình sự được tiến hành, luật pháp
37
của liên bang và bang yêu cầu rất nhiều thủ tục.
Nguyên tắc thứ 4 của "Các nguyên tắc liên bang về tố tụng hình sự"
(2006) của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về "Lệnh bắt hoặc triệu tập dựa trên một
đơn tố giác" quy định rất cụ thể về việc bắt giữ. Trên cơ sở điều tra sơ bộ, nếu
thấy đủ chứng cứ để buộc tội người tình nghi đã thực hiện tội phạm thì cảnh
sát có thể bắt giam ngay người đó. Thông thường, Cảnh sát căn cứ vào lệnh
giam của Thẩm phán để bắt giam người bị tình nghi. Tuy nhiên trong thực tế
công tác, hầu hết các trường hợp bắt giam không nhất thiết phải có lệnh của
Thẩm phán. Luật cho phép Cảnh sát được bắt những người phạm tội nhỏ
khi họ đang thực hiện tội phạm (tội vi cảnh mà không phải tội phạm hình sự
như cướp của, giết người, hủy hoại tài sản). Thường thì cảnh sát giải người bị
bắt đến trụ sở để xét hỏi, lấy lời khai của người bị bắt và nhân chứng hoặc
đưa đến đội cảnh sát điều tra để nạn nhân hoặc các nhân chứng nhận dạng.
Khi đã có đủ căn cứ cho rằng người bị bắt phạm tội thì cảnh sát mới trình lên
thẩm phán để xin lệnh giam. Bắt giữ không có lệnh xảy ra khi tội phạm diễn
ra trước sự có mặt của một cảnh sát hay khi một viên cảnh sát có nguyên nhân
hợp lý để tin rằng một người nào đó đã phạm (hoặc dường như phạm) một tội.
Niềm tin như vậy sau đó phải được thể hiện bằng một tuyên bố cam đoan
hoặc một bản cam kết. "Ở Mỹ, 95% các cuộc bắt giữ là không có lệnh" [13].
Khi một người bị bắt giữ vì tình nghi phạm tội thì người đó sẽ bị lưu giữ ở
đồn cảnh sát; "Năm 1991, Tòa án tối cao Mỹ quyết định rằng cảnh sát có thể
lưu giữ một người bị bắt giữ không có lệnh trong vòng 48 giờ mà không cần
phải có một phiên tòa xem xét việc bắt giữ đó có đúng hay không" [13].
Theo quy định, một thời gian ngắn sau khi bị bắt, người bị tình nghi
phải được đưa đến Tòa tiểu hình để xem xét việc bảo lãnh. Thẩm phán tiểu
hình sẽ xác định bị cáo có được bảo lãnh tại ngoại hay không, và trong trường
hợp đó thì số tiền bảo lãnh là bao nhiêu. Về mặt Hiến pháp, yêu cầu duy nhất
đối với số tiền bảo lãnh là nó không được "quá lớn". Bảo lãnh được coi là một
38
đặc quyền - chứ không phải quyền lợi - và nó có thể bị từ chối trong những vụ
án tử hình mà bằng chứng phạm tội có tính thuyết phục cao hoặc nếu thẩm
phán tiểu hình tin rằng bị cáo sẽ lẩn trốn khỏi bị kiện tụng mà không cần quan
tâm số tiền bảo lãnh là bao nhiêu. Một biện pháp thay thế bảo lãnh là giải
phóng bị đơn bằng cam kết trước tòa, về cơ bản là một lời hứa của bị đơn sẽ
quay lại tòa án vào ngày xét xử được chỉ định. Những vụ việc vi phạm nhỏ về
giao thông thì Tòa tiểu hình xem xét giải quyết ngay. Trường hợp tội phạm
thông thường thì Tòa tiểu hình sẽ căn cứ vào tính chất tội phạm, mức độ
phạm tội và các điều kiện bảo lãnh để xem xét việc bảo lãnh bằng tiền hoặc
đặt tài sản nhằm bảo đảm sự có mặt của họ khi có giấy triệu tập trong các giai
đoạn tố tụng sau. Tuy nhiên, đối với những trường hợp người phạm tội thuộc
diện nghèo khó nhưng có nghề nghiệp, nhà cửa hoặc có những mối ràng buộc
khác trong cộng đồng thì chỉ cần cho họ cam đoan có mặt bất cứ lúc nào
mà không phải đặt tiền để bảo đảm. Cũng như hầu hết các nước phát triển,
Luật TTHS Hoa Kỳ quy định các tội phạm hình sự có tính chất nghiêm trọng
như giết người, bắt cóc trẻ em thì không được áp dụng biện pháp bảo lãnh.
1.3.2. Luật Tố tụng hình sự của Cộng hòa Liên bang Đức
Cộng hòa Liên bang Đức là một đất nước có truyền thống pháp luật
lục địa lâu đời, thủ tục TTHS của họ được xây dựng và áp dụng trên mô hình
tố tụng thẩm vấn, xét hỏi. Bộ luật TTHS Cộng hòa Liên bang Đức là một Bộ
luật đồ sộ, công phu gồm 6 phần với khoảng gần 470 điều quy định cụ thể
từng hoạt động, thủ tục trong trình tự tố tụng giải quyết vụ án hình sự của
Cộng hòa Liên bang Đức.
Các biện pháp ngăn chặn được BLTTHS Đức quy định bao gồm: bắt
và tạm giam (Chương IX, Phần một), tạm giữ (Điều 127), bắt người cản trở
hoạt động công vụ (Điều 164), và những biện pháp khác nhằm bảo đảm truy
tố và thi hành bản án hình sự (Chương IXa, Phần một):
* Về bắt và tạm giam: Khác với BLTTHS của Việt Nam, quy định bắt
39
và tạm giam ở Chương các biện pháp ngăn chặn, BLTTHS của Cộng hòa
Liên bang Đức quy định các biện pháp bắt và tạm giam tại Chương IX của
Phần những quy định chung.
Đối với vấn đề bắt và tạm giam, Luật Đức phân biệt giữa
biện pháp tạm giam và bắt. Tạm giam trong giai đoạn tiền xét xử
(giai đoạn điều tra) là sự hạn chế nghiêm khắc nhất quyền tự do cá
nhân theo Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, chỉ có Thẩm phán mới có
quyền ra lệnh này và lệnh này phải được thực hiện như một biện
pháp an ninh chứ không phải với mục đích làm cho người bị tình
nghi nếm mùi nhà tù khi mà giả định vô tội vẫn đang áp dụng. Theo
quy định, thời hạn tạm giam trong giai đoạn tiền xét xử được tự
động trừ vào thời gian chấp hành án, trừ khi bị can từ bỏ đặc quyền
này do thái độ bất hợp tác sau khi phạm tội [11].
Điều 114 quy định việc tạm giam sẽ do Thẩm phán quyết định bằng
một lệnh bắt, dựa trên đơn yêu cầu của Công tố viên (các điều 125 I và 128 II
BLTTHS Cộng hòa Liên bang Đức). Lệnh tạm giam phải xác định rõ bị can
và các chi tiết về tội trạng của người đó, cơ sở pháp lý cũng như cơ sở của
việc bắt giữ và sự cần thiết của việc bắt giữ. Tại Điều 115, 115a quy định về
thủ tục xem xét của thẩm phán, theo đó, nếu bị can bị bắt trên cơ sở lệnh bắt,
anh ta phải được mang tới trước Thẩm phán có thẩm quyền ngay lập tức.
Thẩm phán sẽ xem xét việc buộc tội bị can ngay sau khi bắt và không muộn
hơn ngày tiếp theo. Nếu không thể đưa bị can ra trước Thẩm phán có thẩm
quyền chậm nhất là vào ngày sau ngày bắt, anh ta sẽ phải được đưa ngay ra
trước Thẩm phán của Tòa án địa phương nơi gần nhất, không chậm hơn ngày
sau ngày bắt. Thẩm phán sẽ xem xét trường hợp của bị can ngay lập tức,
không chậm hơn ngày tiếp theo.
Về thời hạn tạm giam: Theo quy định tại Điều 122a thì thời hạn tạm
giam tối đa không kéo dài hơn một năm. Tuy nhiên, Điều 121 Bộ luật cũng có
40
quy định, trong trường hợp bản án chưa được tuyên quyết định hình phạt tù
hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ, thì tạm giam vì một hành vi phạm tội
kéo dài quá sáu tháng sẽ chỉ được thi hành trong trường hợp có khó khăn đặc
biệt hoặc kéo dài bất thường việc điều tra hoặc vì một lý do quan trọng khác
ngăn cản việc tuyên án và tạo cơ sở cho việc tiếp tục tạm giam. Trong trường
hợp này, lệnh bắt sẽ phải được hủy bỏ khi quá thời hạn sáu tháng, trừ khi việc
thi hành lệnh bắt bị đình chỉ theo Điều 116 Bộ luật hoặc khi Tòa án khu vực
cấp trên ra lệnh tiếp tục tạm giam. Tòa án khu vực cấp trên phải xem xét lại
việc tạm giam trong thời hạn chậm nhất ba tháng.
* Tạm giữ được quy định tại Điều 127: Trong trường hợp một người
bị bắt quả tang hoặc bị bắt khi bị truy đuổi thì bất cứ ai cũng có quyền tạm giữ
người đó, ngay cả khi không có lệnh của Tòa án, nếu có căn cứ cho rằng
người đó bỏ trốn hoặc nếu không thể xác định căn cước của người đó ngay;
Trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan Công tố và các nhân viên cảnh sát có
quyền thực hiện việc tạm giữ nếu các có đủ các căn cứ cho việc ra lệnh bắt.
Tuy nhiên, không đề cập thời hạn tạm giữ bao lâu.
* Biện pháp bắt và tạm giữ người cản trở hoạt động công vụ:
Theo quy định tại Điều 164 BLTTHS Đức, người thi hành công vụ
trực tiếp tiến hành các hoạt động công vụ tại hiện trường có thẩm quyền bắt
những người cố ý cản trở hoạt động của người thi hành công vụ đó hoặc trong
phạm vi thẩm quyền của mình ban hành lệnh bắt và tạm giữ những người cản
trở cho tới khi người thi hành công vụ hoàn thành nhiệm vụ công vụ, nhưng
không được quá ngày tiếp theo.
* Các biện pháp khác để đảm bảo việc truy tố và thi hành án hình sự:
Theo quy định tại Điều 132 BLTTHS Đức, nếu người bị nghi ngờ là
đã thực hiện tội phạm không có nơi ở cố định hoặc nơi thường trú trong phạm
vi lãnh thổ mà Bộ luật này có hiệu lực và các căn cứ cho việc ra lệnh bắt
không được thỏa mãn, thì Thẩm phán có thể ban hành một lệnh để bảo đảm
41
thủ tục tố tụng hình sự được tiến hành đối với bị can đó, cụ thể là:
- Nộp một khoản tiền đủ cho tiền phạt có thể được tuyên và án phí;
- Ủy quyền cho một người sống trong phạm vi quận mà Tòa án có
thẩm quyền nhận các tài liệu có liên quan.
Trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan Công tố cũng có quyền ban hành
các lệnh nêu trên.
Ngoài ra, tại Chương IXb quy định: Tạm thời cấm làm một công việc
nhất định tại Điều 132a: Nếu có căn cứ cho rằng một lệnh cấm làm một công
việc nhất định sẽ được tuyên (Điều 70 Bộ luật Hình sự).
1.3.3. Luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga
Pháp luật về TTHS của Liên bang Nga vừa chứa đựng cả yếu tố tranh
tụng và đồng thời mang đặc điểm của TTHS thẩm vấn. BLTTHS Liên bang
Nga được ĐUMA Quốc gia thông qua ngày 22 tháng 11 năm 2001 và được
Quốc hội phê chuẩn ngày 05 tháng 12 năm 2001, thay thế cho BLTTHS năm
1960 thời Xô viết, đã thiết lập một mô hình tư pháp hình sự trên cơ sở các
nguyên tắc mang tính dân chủ và pháp quyền không chỉ bảo đảm tính hiệu
quả của các cơ quan thực thi pháp luật mà còn bảo đảm các quyền tự do dân
chủ. Do đó, việc quy định các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự của
Liên bang Nga cũng hướng đến bảo đảm các quyền con người.
Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga quy định chương IV về "Những
biện pháp cưỡng chế tố tụng". Theo đó, mục 12 quy định riêng về "Tạm giữ
người bị tình nghi", mục 13 quy định về "Những biện pháp ngăn chặn".
Khác với Luật TTHS Việt Nam, vấn đề tạm giữ trong Luật TTHS của
Liên bang Nga không nằm trong nhóm các biện pháp ngăn chặn và được tách
riêng độc lập trong chương về các biện pháp cưỡng chế. Mặc dù các quy định
về căn cứ tạm giữ, thủ tục tạm giữ cũng có một số nét tương đồng pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam. Về thời hạn: "… khi đã hết 48 giờ kể từ thời điểm tạm
42
giữ, người bị tình nghi phải được trả tự do, nếu họ không bị áp dụng biện
pháp tạm giam hoặc nếu Tòa án không ra hạn thời hạn tạm giữ theo thủ tục
quy định tại điểm 3 khoản 6 Điều 108 Bộ luật này" [63, khoản 3 Điều 94].
Các biện pháp ngăn chặn theo Luật TTHS của Liên bang Nga bao
gồm 7 biện pháp: Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bảo lĩnh của cá nhân, Giám sát của
đơn vị quân đội; Quản lý người bị tình nghi hoặc bị can là người chưa thành
niên; Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm; Giam tại nhà; Tạm giam.
* Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và cam kết xử sự đúng mực được
quy định tại Điều 102 BLTTHS Liên bang Nga, theo đó người bị tình nghi
hoặc bị can cam đoan bằng văn bản: Không được tự ý đi khỏi nơi cư trú
thường xuyên hoặc tạm thời nếu không được sự đồng ý của Điều tra viên, Dự
thẩm viên, Kiểm sát viên hoặc Thẩm phán; Có mặt theo giấy triệu tập đúng
thời gian quy định; Không cản trở hoạt động tố tụng đối với vụ án bằng
những hình thức khác. Luật không quy định thời hạn đối với biện pháp này.
* Về biện pháp bảo lĩnh cá nhân "thể hiện ở nghĩa vụ của người nhận
bảo lĩnh cam đoan bằng văn bản là họ sẽ bảo đảm người bị tình nghi hoặc bị
can mà họ nhận bảo lĩnh thực hiện các nghĩa vụ quy định tại các điểm 2 và 3
Điều 102 Bộ luật này" [63, khoản 1 Điều 103]. Trong trường hợp người nhận
bảo lĩnh không thực hiện nghĩa vụ của mình thì họ có thể bị phạt một khoản
tiền đến 10 lần mức thu nhập tối thiểu theo thủ tục quy định tại Điều 118 Bộ
luật này [63, khoản 4 Điều 103]; Biện pháp bảo lĩnh cũng không đề cập vấn
đề thời hạn áp dụng.
* Biện pháp giám sát tại đơn vị quân đội "thể hiện ở việc áp dụng
những biện pháp quy định trong Điều lệnh lực lượng vũ trang Liên bang Nga
để bảo đảm những người này thực hiện những nghĩa vụ quy định tại các điểm 2
và 3 Điều 102 Bộ luật này" [63, khoản 1 Điều 104]. Việc áp dụng biện pháp
giám sát tại đơn vị quân đội với tư cách là biện pháp ngăn chặn chỉ được chấp
43
nhận nếu người bị tình nghi, bị can đồng ý [63, khoản 2 Điều 104];
* Biện pháp quản lý người bị tình nghi hoặc bị ban là người chưa
thành niên: do cha mẹ, người đỡ đầu, người giám hộ hoặc những người nhận
bảo lĩnh cho họ cũng như những người có trách nhiệm của cơ quan chuyên
trách về trẻ em thực hiện và những người này phải cam đoan bằng văn
bản [63, khoản 1 Điều 105];
* Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm:
thể hiện ở việc người bị tình nghi hoặc bị can hoặc những
thể nhân hoặc pháp nhân khác đặt ký quỹ tiền, những giấy tờ có giá
trị thanh toán hoặc tài sản có giá trị cho cơ quan áp dụng biện pháp
ngăn chặn này để bảo đảm sự có mặt của người bị tình nghi, bị can
theo giấy triệu tập của Dự thẩm viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và
phòng ngừa họ phạm tội mới. Hình thức và số lượng tiền hoặc tài
sản phải đặt cho cơ quan hoặc người có thẩm quyền áp dụng biện
pháp ngăn chặn này quy định dựa trên tính chất của tội phạm đã
thực hiện, nhân thân người bị tình nghi, bị can và tình trạng tài sản
của người đặt tiền, tài sản [63, khoản 1 Điều 106];
* Biện pháp giam tại nhà là việc hạn chế tự do đi lại của người bị tình
nghi, bị can cũng như nghiêm cấm: Tiếp xúc với một số người nhất định; Nhận
và gửi thư; Trao đổi qua các phương tiện thông tin liên lạc [63, khoản 1 Điều 107];
* Về tạm giam: "Nếu đề nghị tạm giam người bị tình nghi đang bị tạm
giữ theo thủ tục quy định tại các Điều 91 và 92 Bộ luật này thì bản đề nghị và
những tài liệu nói trên phải được gửi cho Thẩm phán chậm nhất là 8 giờ trước
khi hết hạn tạm giữ" [63, khoản 3 Điều 108]. Công văn đề nghị áp dụng biện
pháp tạm giam do một Thẩm phán Tòa án cấp quận hoặc Tòa án quân sự cấp
tương đương, nơi tiến hành điều tra hoặc nơi người bị tình nghi bị tạm giữ
giải quyết trong thời hạn 8 giờ kể từ thời điểm Tòa án nhận được hồ sơ với sự
tham gia của người bị tình nghi hoặc bị can, Kiểm sát viên, người bào chữa
44
nếu họ tham gia vụ án [63, khoản 4 Điều 108].
Thời hạn tạm giam được quy định tại Điều 109 "Thời hạn tạm giam để
điều tra không được quá 2 tháng"
Trong trường hợp không thể kết thúc việc điều tra trong thời hạn 2
tháng và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn thì có
thể gia hạn thời hạn tạm giam đến 6 tháng. Việc gia hạn tiếp theo áp dụng đối
với bị can phạm tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng nhưng chỉ
trong những trường hợp vụ án có tính chất rất nghiêm trọng và đặc biệt
nghiêm trọng, vụ án có tính chất đặc biệt phức tạp và có căn cứ để áp dụng
biện pháp ngăn chặn này theo yêu cầu của Dự thẩm viên sau khi được sự
đồng ý của Kiểm sát viên thuộc các chủ thể của Liên bang Nga hoặc của
Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự cấp tương đương, nhưng không quá 12
tháng.Việc gia hạn thời hạn tạm giam trên 12 tháng chỉ có thể được thực hiện
trong những trường hợp đặc biệt đối với bị can phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng do Thẩm phán Tòa án quy định tại khoản 3 Điều 31 Bộ luật này hoặc
Thẩm phán Tòa án quân sự cấp tương đương gia hạn theo đề nghị của Dự
thẩm viên sau khi được sự đồng ý của Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát Liên bang Nga, nhưng không quá 18 tháng. Việc tiếp tục gia
hạn thời hạn tạm giam là không được phép, bị can bị tạm giam phải được trả
tự do ngay, trừ những trường hợp quy định tại Mục 1 khoản 8 Điều này.
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (19)

Luận án: Biện pháp phòng ngừa hành chính theo pháp luật, HAY
Luận án: Biện pháp phòng ngừa hành chính theo pháp luật, HAYLuận án: Biện pháp phòng ngừa hành chính theo pháp luật, HAY
Luận án: Biện pháp phòng ngừa hành chính theo pháp luật, HAY
 
Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự
Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sựChế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự
Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luật
Luận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luậtLuận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luật
Luận văn: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo pháp luật
 
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOTKiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đLuận văn: Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
 
Đề tài: Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo luật
Đề tài: Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo luậtĐề tài: Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo luật
Đề tài: Biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra theo luật
 
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự doQuyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
 
Biện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự, HOT
Biện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự, HOTBiện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự, HOT
Biện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTBiện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sựĐề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, 9đ
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam, 9đ
Luận văn: Hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam, 9đLuận văn: Hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam, 9đ
Luận văn: Hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam, 9đ
 
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOTBiện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
 
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
 
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAYThực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
 

Similar to Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY

Similar to Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY (20)

Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt NamLuận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
 
Bài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂM
Bài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂMBài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂM
Bài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂM
 
Đề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAY
Đề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAYĐề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAY
Đề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAY
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh PhúcLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
 
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
 
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAYLuận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
 
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tùQuyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 9đLuận văn: Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 9đ
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, 9đ
 
Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAYĐề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
Đề tài: Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự, HAY
 
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
 
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
 
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đLuận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
 
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docxNguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
Nguyên Tắc Suy Đoán Vô Tội Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HOT.docx
 
Luận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật
Luận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luậtLuận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật
Luận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật
 
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đ
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đThi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đ
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đ
 
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụngLuận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
 
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...
 
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 

Recently uploaded (20)

sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TÔ THỊ THU TRANG THỜI HẠN CỦA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TÔ THỊ THU TRANG THỜI HẠN CỦA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí Hà Nội - 2014
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n T« ThÞ Thu Trang
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HẠN CỦA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN 9 1.1. Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự và thời hạn tố tụng hình sự 9 1.1.1. Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 9 1.1.2. Thời hạn tố tụng hình sự 14 1.2. Thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 16 1.2.1. Khái niệm thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 16 1.2.2. Căn cứ quy định thời hạn các biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình sự 18 1.2.3. Thời hạn biện pháp ngăn chặn với các thời hạn khác có liên quan trong quá trình giải quyết vụ án 27 1.3. Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới 29 1.3.1. Luật tố tụng hình sự của Hoa Kỳ 29 1.3.2. Luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Liên bang Đức 31 1.3.3. Luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga 34
  • 5. 5 Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ THỜI HẠN BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIẾN ÁP DỤNG 38 2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật tố tụng hình sự Việt Nam về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến nay 38 2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến khi Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam được ban hành lần đầu (năm 1988) 38 2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 cho đến nay 40 2.2. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 41 2.2.1. Quy định về thời hạn của biện pháp bắt người 41 2.2.2. Quy định về thời hạn của biện pháp tạm giữ 48 2.2.3. Quy định về thời hạn của biện pháp tạm giam 51 2.2.4. Quy định về thời hạn của biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú 56 2.2.5. Quy định về thời hạn của biện pháp bảo lĩnh 58 2.2.6. Quy định về thời hạn của biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm 60 2.3. Thực trạng áp dụng các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự từ khi có Bộ luật tố tụng hình sự đến nay 62 2.3.1. Tình hình và kết quả áp dụng trong thực tiễn 62 2.3.2. Những tồn tại, hạn chế của việc áp dụng thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 63 2.3.3. Những khó khăn, vướng mắc, bất cập từ thực tiễn 73
  • 6. 6 Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỜI HẠN CỦA BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 89 3.1. Nhóm giải pháp và kiến nghị về hoàn thiện các quy định của pháp luật 89 3.1.1. Những nội dung quy định về thời hạn của biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự cần được sửa đổi, bổ sung 89 3.1.2. Tăng cường ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định của pháp luật về thời hạn của biện pháp ngăn chặn quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự 98 3.2. Nhóm giải pháp và kiến nghị về nâng cao năng lực cho cơ quan và người tiến hành tố tụng hình sự 99 3.2.1. Tăng cường lực lượng và nâng cao trình độ cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng khác 101 3.2.2. Tăng cường bồi dưỡng, tập huấn kiến thức pháp luật mới về tố tụng hình sự cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng khác 103 3.2.3. Tiến hành tổng kết thực tiễn, tổ chức rút kinh nghiệm về việc áp dụng các quy định về thời hạn của biện pháp ngăn chặn quy định trong tố tụng hình sự 104 3.2.4. Giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế và trao đổi kinh nghiệm với các nước về áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng về thời hạn của biện pháp ngăn chặn 105 KẾT LUẬN 108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 110
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CAND : Công an nhân dân CQĐT : Cơ quan điều tra TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TTHS : Tố tụng hình sự UBND : Ủy ban nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 8. 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Các biện pháp ngăn chặn là một chế định quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự (TTHS). Nghiên cứu lịch sử lập pháp của Việt Nam từ năm 1945 đến nay cho thấy các biện pháp ngăn chặn trong TTHS được quy định phong phú và đa dạng với nhiều tên gọi khác nhau, đồng thời có sự kế thừa và bổ sung hoàn thiện qua từng thời kỳ. Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 trên cơ sở kế thừa có chọn lọc của BLTTH năm 1988 và các văn bản pháp luật về TTHS trước đây, trên cơ sở tổng kết thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn của các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan tư pháp đã quy định chặt chẽ hơn về các biện pháp ngăn chặn, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ án. Các quy định về biện pháp ngăn chặn trong pháp luật TTHS đã tạo hành lang pháp lý cho việc áp dụng, góp phần tích cực vào việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý tội phạm. Tuy nhiên, khi áp dụng những biện pháp ngăn chặn, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và các văn bản pháp luật ghi nhận. Do đó, khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục và thời hạn áp dụng. Thực tế áp dụng các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS cho thấy còn nhiều vi phạm, tình trạng quá hạn tạm giữ, tạm giam còn xảy ra, việc áp dụng thời hạn tạm giam hiện nay còn quá dài, vượt mức quy định, thời hạn áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú còn chưa đảm bảo.v.v.. đã ảnh hưởng lớn các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nguyên nhân của những vi phạm trên xuất phát từ việc các quy định của pháp luật chưa chặt chẽ, số lượng, chất lượng cán bộ làm công tác tiến hành TTHS còn thiếu, có nơi còn chưa chưa đáp ứng yêu cầu, chưa chú trọng bảo đảm những quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, công tác kiểm
  • 9. 9 tra, giám sát còn chưa được thường xuyên, kịp thời, hiểu biết pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế v.v... Xuất phát từ tình hình thực tế đó, cần thiết phải nghiên cứu chuyên sâu các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này, và đó cũng là lý do, luận chứng cho sự cần thiết để chúng tôi lựa chọn đề tài "Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Do việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không chỉ có ý nghĩa về mặt TTHS mà còn có vai trò lớn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là xuyên suốt toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự, nên đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh, phương diện khác nhau về các biện pháp ngăn chặn trong TTHS. Hiện nay, khoa học luật TTHS trong và ngoài nước đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về các biện pháp ngăn chặn, nhưng chủ yếu chỉ đề cập một cách tổng thể và có hệ thống những khía cạnh lý luận chung nhất về các biện pháp ngăn chặn mà chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và sâu sắc riêng về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn dưới góc độ lý luận cũng như thực tiễn áp dụng. Ở Việt Nam, nghiên cứu về các biện pháp ngăn chặn, đã có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau: Cấp độ luận văn Tiến sĩ có đề tài: - Áp dụng biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự của lực lượng cảnh sát nhân dân của tác giả Trịnh Văn Thanh, (Bộ Công an), 2000; - Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp của Nguyễn Văn Điệp, Học viện Tư pháp, 2005;
  • 10. 10 Ở cấp độ luận văn Thạc sĩ có đề tài: - Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả Nguyễn Văn Điệp, Học viện Tư pháp, 1996; - Tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, của Phạm Thanh Bình, Tòa án nhân dân tối cao, 1996; - Bắt người trong tố tụng hình sự Việt Nam, của Vũ Gia Lâm, 2000; - Vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng biện pháp tạm giam, của Phạm Duy Trường, 2006; - Vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, của Nguyễn Bá Phùng, 2010; - Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam, của Lê Thanh Bình, 2010. Về đề tài khoa học cấp Bộ có Hoàn thiện các biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, của Viện khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 2008,… Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình của các tác giả sau: - Những điều cần biết về bắt, giữ, khám xét, của Phạm Quang Mỹ và Phạm Hữu Kỳ, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 1983; - Những điều cần biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam... đúng pháp luật, của Phạm Quang Mỹ và Phạm Hữu Kỳ, Nhà xuất bản Pháp lý, 1993; - Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự; của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp - 1990, 1992, - Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam, của Viện Nhà nước và Pháp luật, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994; - Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự, của Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1994;
  • 11. 11 - Các biện pháp ngăn chặn và vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng, của TS. Nguyễn Vạn Nguyên, Nhà xuất bản Công an nhân dân (CAND), 1995; - Các biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, của Nguyễn Mai Bộ, Nhà xuất bản CAND, 1997. - Biện pháp ngăn chặn khám xét và kê biên tài sản trong Bộ luật tố tụng hình sự, của ThS. Nguyễn Mai Bộ, 2004; - Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, của TS. Trần Quang Tiệp, 2005. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về các biện pháp ngăn chặn, căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn đối với riêng thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS Việt Nam, nhìn một cách tổng quan có thể khẳng định chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu. Ngoài ra, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" nêu rõ: "Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ đảm bảo đúng pháp luật... phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ"; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020"; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" trong đó có nêu: "hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người" với nhiệm vụ đặt ra là "Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội" thì vấn đề hoàn thiện pháp luật TTHS về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn càng trở nên cần thiết.
  • 12. 12 Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn dưới khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng chúng trong thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật TTHS Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc quy định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong thực tiễn áp dụng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Trên cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả trong và ngoài nước về các biện pháp ngăn chặn, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về các biện pháp ngăn chặn và thời hạn của các biện pháp ngăn chặn như: Khái niệm, ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn, căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn; Khái niệm thời hạn biện pháp ngăn chặn, căn cứ quy định thời hạn, thời hạn của các biện pháp ngăn chặn với các thời hạn khác có liên quan trong quá trình giải quyết vụ án. - Khái quát sự phát triển của các quy định về biện pháp ngăn chặn cũng như thời hạn của các biện pháp ngăn chặn được trong lịch sử pháp luật TTHS của nước ta từ năm 1945 đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá; - Nghiên cứu các quy định về thời hạn của từng biện pháp ngăn chặn cụ thể trong BLTTHS Việt Nam hiện hành, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá;
  • 13. 13 - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng; - Từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS Việt Nam hiện hành, cũng như những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong thực tiễn. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong luật TTHS Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan tư pháp, những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong thực tiễn. Luận văn cũng có tham khảo những bài học kinh nghiệm lập pháp một số nước trong khi nghiên cứu về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn. Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trên phạm vi cả nước. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong 10 năm (2004-2013). 4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, chính sách TTHS, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, IX, X
  • 14. 14 và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật TTHS như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học về luật TTHS và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS, trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong luật TTHS Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS để xây dựng nên khái niệm thời hạn của các biện pháp ngăn chặn, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời chỉ ra ý nghĩa của việc quy định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong mối tương quan so sánh với một số chế định khác; - Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành và phát triển của các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật TTHS Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay; - Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình áp dụng các quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn của các cơ quan tiến hành tố tụng; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn áp dụng pháp luật; - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao
  • 15. 15 hiệu quả áp dụng pháp luật trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn. Chương 2: Quy định về thời hạn biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng Chương 3: Những giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về thời hạn của biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.
  • 16. 16 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HẠN CỦA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN 1.1. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỜI HẠN TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1.1. Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 1.1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn Trong bất kỳ xã hội nào, con người cũng luôn giữ vai trò quyết định đối với sự phát sinh, tồn tại và và phát triển của xã hội đó. Tác giả Phạm Thanh Bình đã chỉ ra rằng: "Tuy nhiên, chỉ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, con người mới được đặt vào vị trí trung tâm của toàn bộ hoạt động xã hội. Mọi chiến lược, chính sách phát triển của Đảng ta đều nhằm tới mục đích vì con người, cho con người" [3]. Nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) với vai trò là đại diện cho nhân dân, đã thể chế hóa ý chí và lợi ích của nhân dân thành pháp luật, do đó bảo vệ trật tự XHCN, bảo vệ quyền công dân là một trong những chức năng quan trọng của Nhà nước ta. Trên tinh thần kế thừa Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã quy định: 1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. 2. Nghiêm cấm mọi hành vi tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử khác xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của con người [50, khoản 1, 2 Điều 22] Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân cũng đã được quy định tại Điều 6 BLTTHS năm 2003 và trở thành nguyên tắc quan trọng xuyên suốt toàn bộ quá trình TTHS. Tuy nhiên, trong hoạt động bảo vệ pháp luật nói chung và hoạt động chống tội phạm nói riêng vẫn cần thiết đặt ra vấn đề hạn chế một số quyền công dân, nhằm bảo đảm trật tự chung của cả xã hội. Cụ thể
  • 17. 17 hơn, để công tác phát hiện tội phạm được nhanh chóng, chính xác, kịp thời xử lý tội phạm và hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, trong một số trường hợp nhất định, pháp luật phải cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp cưỡng chế nào đó hạn chế quyền và lợi ích của công dân, trong đó có các biện pháp ngăn chặn. Theo Từ điển Tiếng Việt "ngăn chặn" là "chặn lại ngay từ đầu, không để cho gây tác hại" [55]. Theo định nghĩa của Giáo trình của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, biện pháp ngăn chặn được hiểu là biện pháp cưỡng chế TTHS được quy định trong pháp luật TTHS, do người có thẩm quyền ở các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc các cơ quan khác được giao một số hoạt động tố tụng áp dụng, công dân đối với bị can, bị cáo, người phạm tội tang, người có lệnh truy nã hoặc người bị nghi là phạm tội, nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội, không để họ cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội cũng như nhằm đảo bảo cho việc thi hành án [10, tr. 248]. 1.1.1.2. Mục đích của biện pháp ngăn chặn Mục đích của các biện pháp ngăn chặn là không cho tội phạm tiếp tục xảy ra gây thiệt hại cho xã hội, không để cho người phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật. Đồng thời, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn nhằm tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án như không để người phạm tội có thể xóa bỏ dấu vết phạm tội, tiêu hủy chứng cứ, thông cung giữa những người phạm tội hoặc với người làm chứng, đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo, bị án khi có yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng… Như vậy, biện pháp ngăn chặn không nhằm mục đích trừng trị như hình phạt mà nhằm mục đích phòng ngừa và có thể làm giảm hậu quả của tội phạm gây ra, để làm rõ sự thật khách quan của vụ án, mặc dù khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn cũng có thể hạn chế quyền tự do thân thể, tự do đi lại của người bị áp dụng. Do đó, mọi nhận thức áp dụng biện pháp ngăn chặn để trấn áp, trừng trị người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn đều là không đúng; như quan niệm của nhà Luật học I.I. Karpes:
  • 18. 18 "Giải quyết việc lựa chọn áp dụng biện pháp ngăn chặn chính là thực hiện trách nhiệm hình sự đối với cá nhân người phạm tội" [54, tr. 49] hay các tác giả Phan Hữu Kỳ, Phạm Quang Mỹ là "có tác dụng trấn áp mạnh mẽ kẻ địch và các bọn tội phạm khác, thỏa mãn được yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng" [31]. 1.1.1.3. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn Điều 79 BLTTHS năm 2003 quy định các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn bao gồm: - Để kịp thời ngăn chặn tội phạm: Việc kịp thời ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm xảy ra hoặc không để người phạm tội có điều kiện kết thúc hành vi phạm tội của mình gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội là việc làm rất cần thiết và cấp bách vì mỗi tội phạm xảy ra đều có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho một hoặc nhiều quan hệ xã hội là khách thể được luật hình sự bảo vệ. Quy định áp dụng trong những trường hợp cụ thể như: Bắt người trong trường hợp khẩn cấp khi có căn cứ để cho rằng một người nào đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (điểm a khoản 1 Điều 81 BLTTHS năm 2003); hoặc bắt người phạm tội quả tang khi phát hiện một người đang thực hiện tội phạm (khoản 1 Điều 82 BLTTHS năm 2003). - Khi có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội: Người đã thực hiện xong hành vi phạm tội sau khi đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố với tư cách bị can hoặc đưa ra xét xử với tư cách bị cáo, mà có căn cứ cho rằng họ sẽ tiếp tục phạm tội nếu vẫn để họ tự do nên cần áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Cụ thể là: Bị can, bị cáo có những hành vi tích cực chuẩn bị thực hiện tội phạm mới và là bất kỳ loại tội nào; Bị can, bị cáo có hành vi đe dọa, trả thù người tố cáo, người làm chứng và có khả năng thực hiện sự đe dọa đó; Bị can, bị cáo trong nhiều trường hợp là những phần tử có ý thức chống đối chế độ sâu sắc, nhiều trường hợp lại là đối tượng côn đồ, hung hãn, có tiền án, tiền sự, thuộc loại tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Căn cứ này được thể hiện cụ thể trong quy định về bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người trong trường hợp khẩn cấp; tạm giữ; tạm giam.
  • 19. 19 - Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử: Những biểu hiện của việc gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử có thể là bị can, bị cáo trốn khỏi nơi cư trú; nhiều lần không có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng mà không có lý do chính đáng; xóa bỏ dấu vết tội phạm; tiêu hủy chứng cứ; làm thay đổi tài liệu liên quan đến tội phạm; mua chuộc người bị hại, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch; thông đồng cấu kết với nhau đối phó lại hoạt động điều tra, truy tố, xét xử… Căn cứ này được hiểu là bị can, bị cáo đã có hành vi gây cản trở hoặc có khả năng thực hiện ngay tức khắc việc gây cản trở cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Đối tượng để áp dụng căn cứ này thường là bị can, bị cáo, người bị truy nã; Cũng có thể áp dụng đối với người chưa có quyết định khởi tố bị can như một người thực hiện tội phạm và sau đó bỏ trốn hoặc sau khi phát hiện dấu vết tội phạm trên người hoặc nơi ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và có căn cứ cho rằng người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ, cụ thể là những trường hợp bắt khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang theo quy định của BLTTHS. - Để đảm bảo thi hành án: Thi hành án là giai đoạn cuối cùng của TTHS, phát huy hiệu lực của bản án được thi hành trong thực tế. Việc cản trở thi hành án được thể hiện: bị cáo không có nơi cư trú rõ ràng, không có nghề nghiệp hoặc bị cáo có nhân thân xấu như có tiền án, tiền sự, đối tượng côn đồ hung hãn,… Khi có căn cứ cho rằng bị cáo cản trở việc thi hành án thì có thể áp dụng một trong các biện pháp ngăn chặn thích hợp như: Tạm giam; Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bảo lãnh; Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. 1.1.1.4. Ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn Thứ nhất, các biện pháp ngăn chặn thể hiện sự chuyên chính của nhà nước XHCN trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm: Tội phạm trực tiếp hoặc hoặc gián tiếp xâm hại đến sự bền vững và ổn định của chế độ nhà nước, chế độ kinh tế - chính trị và xã hội, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tự do,
  • 20. 20 danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân. Do đó, Nhà nước ta coi việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời, xử lí nghiêm minh nhằm tiến tới loại trừ hiện tượng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và phải được tiến hành một cách kiên quyết, triệt để, không khoan nhượng. Thứ hai, các biện pháp ngăn chặn bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi; góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thông thường, người phạm tội luôn tìm đủ mọi cách để có thể nhanh chóng đạt được mục đích phạm tội lại vừa có thể che giấu, trốn tránh được sự phát hiện và trừng phạt của pháp luật, do đó, cần thiết phải ngăn chặn kịp thời ngay từ đầu các hành vi thực hiện tội phạm hoặc hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho việc xử lý người phạm tội. Như vậy, các biện pháp ngăn chặn góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những khó khăn mà người phạm tội có thể gây ra cho quá trình giải quyết vụ án. Thứ ba, các biện pháp ngăn chặn bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được hiến pháp quy định như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và đi lại…; thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN: Mọi trường hợp thực hiện không đúng các quy định pháp luật trong việc áp dụng biện pháp chăn chặn đều phải bị phát hiện và khắc phục kịp thời. Mọi hành vi trái pháp luật khi áp dụng biện pháp ngăn chặn gây hậu quả nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân đều bị xử lý nghiêm minh. Như vậy, quy định và đảm bảo áp dụng nghiêm chỉnh những biện pháp ngăn chặn trong TTHS là sự thể hiện tập trung và rõ nét nhất sự dân chủ, tính ưu việt của chế độ XHCN của Nhà nước ta. 1.1.1.5. Các biện pháp ngăn chặn Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định các biện pháp ngăn chặn bao gồm: Bắt người (với bốn trường hợp bắt: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
  • 21. 21 Bắt người trong trường hợp khẩn cấp; Bắt người phạm tội quả tang; Bắt người có lệnh truy nã); Tạm giữ; Tạm giam; Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bảo lĩnh; Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Mỗi biện pháp ngăn chặn có những quy định khác nhau về đối tượng, thẩm quyền, thủ tục áp dụng, do đó tùy từng trường hợp cụ thể để lựa chọn biện pháp ngăn chặn phù hợp sẽ mang lại ý nghĩa tích cực và hiệu quả trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. 1.1.2. Thời hạn tố tụng hình sự Pháp luật về TTHS đều có quy định về thời hạn trong từng giai đoạn tố tụng cụ thể nhằm đảm bảo các hành vi tố tụng được thực hiện một cách chính xác, khách quan. Trong giai đoạn trước khi khởi tố vụ án hình sự, BLTTHS đã quy định về thời hạn giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm, đảm bảo mọi tội phạm được phát hiện kịp thời để từ đó quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Theo quy định tại Điều 103 BLTTHS năm 2003, thời hạn này là hai mươi ngày đối với sự việc đơn giản, hai tháng đối với vụ việc phức tạp. Thời hạn điều tra vụ án hình sự được quy định tại Điều 119 BLTTHS năm 2003 như sau: Không được quá bốn tháng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra. Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án, trong thời hạn mười ngày trước khi hết hạn điều tra, CQĐT phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra. Trong suốt giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát thực hiện chặt chẽ việc kiểm sát điều tra của CQĐT, đồng thời thực hiện một số hoạt động điều tra trong thời hạn mà pháp luật cho phép v.v... Có thể thấy rằng, ở mỗi giai đoạn TTHS, pháp luật đều quy định chặt chẽ một thời hạn nhất định, không có hoạt động tố tụng nào lại không bị ràng buộc bởi một thời hạn cụ thể. Việc quy định thời hạn tố tụng nhằm để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có ý thức tinh thần trách nhiệm về các hoạt động của mình đảm bảo đúng thời gian quy định, chống lại sự tùy tiện và những biểu hiện vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng.
  • 22. 22 Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành: Thời hạn TTHS bao gồm hai loại: thời hạn của thủ tục tố tụng và thời hạn của các biện pháp ngăn chặn. Bộ luật tố tụng hình sự quy định về thời hạn của thủ tục tố tụng cụ thể thông qua từng nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng. Các hoạt động tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án hình sự đều phải được tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định. Mỗi cơ quan tiến hành tố tụng đều có những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn riêng, nhưng đồng thời có mối quan hệ với nhau trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng mà pháp luật cho phép. Cơ quan nào có thẩm quyền gì và thực hiện thẩm quyền trong thời hạn như bao lâu, những người tiến hành tố tụng có nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cụ thể nào. Ví dụ: Khi CQĐT ra lệnh bắt khẩn cấp thì phải báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt [47, khoản 4 Điều 81]. Trong suốt quá trình tố tụng, để tiến hành các hoạt động giải quyết vụ án được thuận lợi, chính xác, kịp thời, các cơ quan tiến hành tố tụng cần thiết phải áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên cơ sở các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn cũng như thủ tục áp dụng các biện pháp đó. Mỗi biện pháp ngăn chặn khi áp dụng lại có quy định bắt buộc riêng về thời hạn. Ví dụ thời hạn tạm giữ không quá 3 ngày kể từ khi CQĐT nhận người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không quá ba ngày [47, Điều 87]. Như vậy, thời hạn TTHS không chỉ là khoảng thời gian vật chất được xác định để thực hiện hoạt động cần thiết, mà nó còn quy định cụ thể về trình
  • 23. 23 tự, thủ tục, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng khi thực hiện các hoạt động tố tụng đó, đồng thời là sự thể hiện, mang dấu ấn chủ quan của nhà làm luật, xác định những thời hạn cần thiết để tiến hành các hoạt động tố tụng. Thời hạn là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong TTHS, nhưng BLTTHS năm 2003 lại không quy định khái niệm về thời hạn TTHS. Điều 96 BLTTHS năm 2003 chỉ quy định riêng về cách tính thời hạn trong TTHS. Từ những quy định tại Điều 96 BLTTHS và từ thực tiễn hoạt động TTHS có thể đưa ra khái niệm về thời hạn TTHS như sau: Thời hạn trong TTHS chính là giới hạn, thời gian dành cho các chủ thể của TTHS thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình theo quy định của pháp luật; là khoảng thời gian được ấn định để chủ thể TTHS phải thực hiện hoặc kết thúc một hoạt động tố tụng nào đó và thời hạn cũng là một tiêu chí để xác định trách nhiệm của các chủ thể TTHS. 1.2. THỜI HẠN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.2.1. Khái niệm thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Từ phân tích ở trên cho thấy, thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS thuộc phạm vi, giới hạn của thời hạn trong TTHS. Các quy định nghiêm ngặt của pháp luật TTHS về thời hạn đối với từng biện pháp ngăn chặn là thực sự cần thiết để đảm bảo việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn được chính xác, khách quan và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng. Cũng như các loại thời hạn tố tụng khác, thời hạn của các biện pháp ngăn chặn được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với cá nhân, tổ chức, người bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn do BLTTHS quy định. Theo quy định của BLTTHS thì các biện pháp ngăn chặn trong TTHS sự bao gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh,
  • 24. 24 đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Vì vậy thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS chính là thời gian, giới hạn của việc bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS được coi là một loại thời hạn đặc biệt quan trọng, vì việc quy định thời hạn này một cách hợp lý không chỉ mang lại sự khách quan, công bằng mà còn xác định được một cách chính xác nhất thời gian để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện được các hoạt động tố tụng cần thiết cho toàn bộ quá trình tố tụng, giúp quá trình giải quyết vụ án được thuận lợi, góp phần nâng cao hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, ngăn chặn ngay từ đầu các hành vi thực hiện tội phạm hoặc hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho việc xử lý người phạm tội; đồng thời đảm bảo sự dân chủ, tôn trọng tối đa các quyền cơ bản của công dân, hạn chế việc lạm quyền, xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân. Việc xác định một khoảng thời gian hợp lý, chính xác khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, ngăn chặn các biểu hiện cản trở hoặc gây khó khăn cho toàn bộ quá trình tố tụng, đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo khi có triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, việc quy định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật TTHS là vô cùng quan trọng và cần thiết, góp phần thể hiện sự dân chủ, tính ưu việt của Nhà nước XHCN. Có thể đưa ra khái niệm về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn như sau: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS là một trong những thời hạn của TTHS, là khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng phải tuân thủ khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS.
  • 25. 25 1.2.2. Căn cứ quy định thời hạn các biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình sự Khi xác định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS, cần thiết phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của TTHS. Việc áp dụng đúng thời hạn của các biện pháp ngăn chặn giúp quá trình giải quyết vụ án được chính xác, đúng đắn, khách quan, tránh làm oan người vô tội hay giam giữ người trái pháp luật. Do đó, để quy định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn trong TTHS, cần phải dựa trên những căn cứ sau: * Tính chất nghiêm trọng của tội phạm, mức độ phức tạp của vụ án Căn cứ này dựa trên việc quy định những hành vi nào là nguy hiểm đáng kể cho xã hội, xâm phạm đến những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì mới được coi là tội phạm. Khác với những hành vi không phải là tội phạm, được quy định trong các đạo luật khác. Khi đã xác định được hành vi là tội phạm, phải căn cứ vào mức độ gây nguy hại cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS) về 4 loại tội: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Ví dụ, thời hạn tạm giam bị can để điều tra đối với tội phạm ít nghiêm trọng là không quá hai tháng, tội phạm nghiêm trọng là không quá ba tháng, tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng là không quá bốn tháng [47, khoản 1 Điều 120]. Việc quy định các thời hạn của biện pháp ngăn chặn căn cứ vào tính chất nghiêm trọng của tội phạm, mức độ phức tạp của vụ án có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn áp dụng. Đối với những vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, có đồng phạm, do nhiều người thực hiện, gây nguy hiểm lớn cho xã hội,… thì cần thiết phải tiến hành nhiều hoạt động điều tra để xác minh, thu thập chứng cứ, do đó, thời hạn tạm giam để điều tra phải dài hơn để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng có thể thực hiện đủ các hoạt động điều tra cần thiết, tìm ra sự thật khách quan của vụ án, chứng minh được tội phạm và người phạm tội.
  • 26. 26 * Căn cứ vào nhân thân, điều kiện sinh sống, hoạt động của người thực hiện hành vi phạm tội Nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm nói lên tính chất của một con người. Những đặc điểm đó có ảnh hưởng nhất định đến hành vi phạm tội và khả năng cải tạo, giáo dục người phạm tội. Xét đến nhân thân người phạm tội là xét đến những mối quan hệ giữa người ấy với xã hội, tập thể, gia đình và với người khác cũng như những đặc điểm của bản thân người đó. Đặc điểm nhân thân người phạm tội có rất nhiều loại, như: + Những đặc điểm mang tính chất pháp lý (tức là đặc điểm có ảnh hưởng trực tiếp đến tội phạm) được BLHS quy định là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ hình phạt như: Phạm tội lần đầu hay đã có tiền án, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, người chưa thành niên, có thái độ tự thú, hối cải, lập công chuộc tội hay ngoan cố...; + Những đặc điểm có quan hệ đến ý thức chính trị, ý thức lao động, trình độ nhận thức, hiểu biết của người phạm tội như: Thành phần, trình độ văn hóa, nghề nghiệp...; + Những đặc điểm có quan hệ đến các đối tượng của các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước như: Người phạm tội thuộc dân tộc ít người, thuộc gia đình liệt sĩ, là nhân sĩ, trí thức có danh tiếng, là người hoạt động trong lĩnh vực tôn giáo...; + Những đặc điểm phản ánh hoàn cảnh thực tế của người phạm tội như: Bị lâm bệnh hiểm nghèo, là người già yếu, là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của bản thân hay của gia đình... + Những đặc điểm có liên quan đến cuộc sống của người phạm tội như: có địa chỉ và nhà ở cố định hay lang thang không nghề nghiệp, nguồn thu nhập để sống… Dựa vào các đặc điểm nhân thân như trình độ học vấn, tình trạng gia đình, quan hệ xã hội,…cũng như các điều kiện sinh sống, hoạt động của
  • 27. 27 người thực hiện hành vi phạm tội để xem xét sự cần thiết áp dụng biện pháp ngăn chặn và cần phải áp dụng thời hạn ngăn chặn dài hay ngắn. Dựa vào điều kiện nhân thân người phạm tội, đối với trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội không có ý trốn tránh pháp luật, phạm tội lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng hoặc phạm tội do vô ý, không có hành động cản trở, gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án,… BLTTHS quy định không cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt tạm giam, mà có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác như quản chế, cấm đi khỏi nơi cư trú,… Nhân thân, điều kiện sinh sống của người thực hiện hành vi phạm tội được xem xét để pháp luật TTHS quy định thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn dài hay ngắn khác nhau. Ví dụ đối với việc gia hạn tạm giữ: "Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày..." [47, khoản 2 Điều 87]. Theo đó, các trường hợp cần thiết và trường hợp đặc biệt để gia hạn thời hạn tạm giữ có thể bao gồm cả việc khi xem xem nhân thân của người bị tạm giữ mà thấy cần ngăn chặn ngay người đó có thể trốn hoặc cản trở điều tra làm rõ vụ việc. * Căn cứ vào mô hình tố tụng hình sự Theo tác giả Nguyễn Thảo - Ban Nội chính Trung ương: Mô hình tố tụng hình sự theo cách hiểu chung nhất là sự khái quát cao những đặc trưng cơ bản, phổ biến, phản ánh cách thức tổ chức hoạt động tố tụng hình sự, cách thức tìm đến sự thật khách quan của vụ án. Cách thức tổ chức này quyết định địa vị tố tụng của các chủ thể trong quá trình thực hiện các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự (chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử) [51]. Căn cứ vào các dấu hiệu chung nhất có thể phân thủ tục xét xử các vụ án hình sự ở các nước trên thế giới thành hai hệ tố tụng cơ bản: Tố tụng tranh
  • 28. 28 tụng và tố tụng thẩm vấn (xét hỏi). "Cả hai hệ tố tụng này đều có mục đích cơ bản là tìm ra sự thật và hoạt động theo nguyên tắc "kẻ có tội phải bị trừng phạt, người vô tội phải được tự do". Điểm khác biệt giữa chúng là ở sự giả định về cách thức tốt nhất để tìm ra sự thật" [37]. Tố tụng tranh tụng là mô hình TTHS mà ở đó xuất hiện bên buộc tội và bên gỡ tội có địa vị pháp lý ngang nhau trong quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án và tòa án sẽ ra phán quyết dựa trên kết quả tranh tụng giữa các bên tại phiên tòa. Trong mô hình này, do tất cả các hoạt động tố tụng đan xen với nhau, thể hiện rõ nhất tại phiên tòa, thời gian vụ án thường bị kéo dài, nhưng lại đảm bảo quyền con người tốt hơn, do đó pháp luật quy định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn nghiêm ngặt, chặt chẽ hơn, đảm bảo quyền con người tốt hơn. Ví dụ, pháp luật của Mỹ và một số nước quy định thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam rất nghiêm ngặt. Từ khi người bị tình nghi bị bắt, tạm giam; Cơ quan điều tra phải tìm các chứng cứ chứng minh tội phạm. Nếu hết thời hạn tạm giam mà không có chứng cứ chứng minh người bị tình nghi phạm tội thì phải trả tự do ngay cho người bị bắt giữ. Tố tụng xét hỏi, tố tụng thẩm vấn được hiểu là mô hình tố tụng mà việc xác định sự thật khách quan của vụ án dựa trên kết quả của CQĐT và việc xét hỏi bị cáo của Hội đồng xét xử tại phiên tòa. Thủ tục tố tụng của mô hình này phân chia tách biệt các giai đoạn từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Do phụ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng nên thời hạn của các biện pháp ngăn chặn tùy thuộc vào từng cơ quan có thẩm quyền quyết định, do đó thời hạn của các biện pháp ngăn chặn cũng tương đối dài. Ví dụ: Theo quy định của BLTTHS Việt Nam hiện hành thì cả ba cơ quan: CQĐT, Viện kiểm sát và Tòa án đều có thẩm quyền tạm giam đối với người phạm tội; song thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra thường dài hơn các giai đoạn truy tố, xét xử. Ngoài hai hệ tố tụng cơ bản nêu trên, trong xu hướng hội nhập quốc tế, việc tham khảo kinh nghiệm lập pháp của các nước khác để hoàn thiện hệ
  • 29. 29 thống pháp luật nói chung và hệ thống tư pháp của mình nói riêng luôn được các quốc gia quan tâm. Ngày nay nhiều nước thuộc hệ thống pháp luật lục địa với hệ tố tụng thẩm vấn truyền thống đã tiếp thu và kết hợp một số yếu tố hợp lý của tố tụng tranh tụng vào hệ thống tố tụng của mình tạo thành hệ tố tụng pha trộn - tố tung bán tranh tụng. Ví dụ: Tại Cộng hòa Pháp ngày 15/6/2000 đã ban hành "Luật về suy đoán vô tội và tăng quyền của nạn nhân" đã bổ sung một số nội dung của tố tụng tranh tụng nhằm tăng cường vai trò, quyền hạn của các bên tại phiên tòa và đảm bảo tốt hơn nguyên tắc tranh tụng [37]. Mô hình tố tụng bán tranh tụng theo hướng kết hợp một số yếu tố hợp lý của tố tụng tranh tụng vào tố tụng thẩm vấn truyền thống cũng đang được áp dụng ở các nước như: Pháp, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản,... Như vậy, phụ thuộc vào từng mô hình tố tụng mà thời hạn của các biện pháp ngăn chặn ở pháp luật mỗi nước cũng có những quy định khác nhau. * Căn cứ vào tổ chức hệ thống tư pháp Do mô hình tố tụng khác nhau và cách thức tổ chức hệ thống tư pháp khác nhau, nên các quốc gia cũng có những quy định khác nhau về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn. Ví dụ đối với thời hạn của biện pháp ngăn chặn tạm giam: Theo hệ thống tư pháp Nhật Bản, chỉ Thẩm phán mới có quyền ra lệnh tạm giam. Luật TTHS của Nhật Bản quy định: Chỉ có Công tố viên mới có quyền đề nghị Thẩm phán tạm giam người bị tình nghi để điều tra. Thẩm phán có thể ra quyết định tạm giam người bị tình nghi trong thời hạn 10 ngày. Khi Công tố viên không thể hoàn thành điều tra trong thời hạn 10 ngày thì có thể đề nghị Thẩm phán gia hạn thêm 10 ngày nữa. Trước khi có cáo trạng, người bị tình nghi bị tạm giam trước khi xét xử được giam ở nhà tạm giam do Bộ Tư pháp quản lý hoặc ở phòng tạm giam của Cảnh sát, tùy thuộc vào lệnh tạm giam của Thẩm phán [61]. Theo luật của In-đô-nê-si-a, Cảnh sát có quyền tạm giam người bị tình nghi nhiều nhất là 20 ngày, hết 20 ngày chưa điều tra xong thì Công tố viên
  • 30. 30 có thể gia hạn thêm 40 ngày. Sau 60 ngày, Điều tra viên phải trả tự do cho người bị tình nghi. Trát bắt của Công tố viên chỉ có hiệu lực trong thời hạn nhiều nhất 20 ngày, nếu việc điều tra vẫn chưa kết thúc thì Thẩm phán Tòa án cấp quận có thể gia hạn thêm 30 ngày. Như vậy, sau 50 ngày, Công tố viên phải trả tự do cho người bị tình nghi v.v… [61]. Có thể thấy rằng quy định thời hạn tạm giam của Nhật Bản và In-đô- nê-si-a rất chặt chẽ, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để bảo đảm tốt quyền công dân, quyền con người, thể hiện sự tôn trọng cao đối với tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân. Pháp luật TTHS của Trung Quốc quy định Cảnh sát có thẩm quyền rất rộng trong việc tạm giam người bị tình nghi để lấy lời khai. Về thời hạn: Cảnh sát phải thẩm vấn người bị bắt trong vòng 24 giờ kể từ lúc bắt giữ. Thời hạn tạm giam một người trong khi điều tra là 02 tháng sau khi bắt. Tổng thời hạn cả gia hạn và trong những vụ việc phức tạp là 06 tháng kể từ ngày xác định được danh tính của người bị tình nghi. Nếu trong quá trình điều tra phát hiện ra một tội phạm khác thì thời hạn điều tra tội phạm mới bắt đầu được tính từ thời điểm phát hiện ra chứng cứ của tội phạm mới… Như vậy, thời hạn tạm giam do Luật TTHS của Trung Quốc quy định là rất dài. Cùng với đó, vấn đề tạm giam quá thời hạn đang trở nên nghiêm trọng tại nước này, đã được báo cáo lên Cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương của Trung Quốc như một vấn đề hết sức nghiêm trọng, cần phải nhanh chóng khắc phục. Một bản tin của Tân hoa xã đã trích dẫn số liệu do Viện kiểm sát cung cấp cho biết số vụ giam giữ quá hạn từ 01/2003-7/2007 là 33.398 vụ (Xinhua 2007) [33]. Có thể thấy rằng, hệ thống tư pháp mỗi nước có ảnh hưởng nhất định đến việc quy định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn. * Că n cứ vào thẩ m quyề n củ a cơ quan và nhữ ng ngư ờ i tiế n hành tố tụ ng Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn được thực hiện bởi những cơ
  • 31. 31 quan, những người tiến hành tố tụng có thẩm quyền do pháp luật TTHS quy định. Trong đó, những người tiến hành tố tụng cần thiết phải đáp ứng các yêu cầu về trình độ, phẩm chất, năng lực chuyên môn để việc áp dụng pháp luật được đúng đắn, chính xác, khách quan. Có thể nói, trình độ, phẩm chất và năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ tiến hành tố tụng quyết định lớn đến kết quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 với những quy định về thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn đã xem xét khả năng thực hiện của chủ thể tiến hành. Ví dụ, quy định việc gia hạn thời hạn tạm giam để điều tra: Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam… [47, khoản 2 Điều 120]. Về thẩm quyền gia hạn tạm giam của Viện kiểm sát được quy định như sau: a. Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; b. Trong trường hợp gia hạn tạm giam lần thứ nhất quy định tại điểm a khoản này đã hết mà vẫn chưa thể kết thúc việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam
  • 32. 32 thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm nghiêm trọng. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [47, khoản 3 Điều 120]. Như vậy, pháp luật đã dựa trên các quy định về thẩm quyền của cơ quan và người tiến hành tố tụng ở các nhóm cơ quan tiến hành tố tụng để phân loại những người có quyền quyết định gia hạn tạm giam. * Căn cứ vào văn hóa, pháp lý, nhận thức pháp luật của người dân Dựa vào trình độ văn hóa, pháp lý và nhận thức pháp luật của người dân, pháp luật các quốc gia khác nhau quy định việc áp dụng thời hạn các biện pháp ngăn chặn khác nhau. Ở những nước có trình độ dân trí cao, người dân có sự am hiểu pháp luật, có điều kiện thuê luật sư tham gia TTHS, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thì các quy định pháp luật của nước đó cũng tập trung vào vấn đề bảo vệ quyền con người cao hơn, do đó, việc quy định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn cũng nhằm đảm bảo hợp lý nhất quyền con người, hạn chế thấp nhất việc xâm phạm quyền tự do đi lại hay xâm phạm về thân thể của công dân. Và ngược lại, với những nước có trình độ dân trí thấp, hiểu biết pháp luật chưa cao, việc quy định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn có phần dễ dẫn đến việc xâm phạm quyền con người hơn. Ở nước ta, ngay trong mỗi giai đoạn lịch sử, căn cứ vào tình hình văn hóa, pháp lý, nhận thức pháp luật của người dân mà pháp luật đã có những thay đổi nhất định: Sau cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền dân chủ nhân dân còn non trẻ, phải đương đầu với thù trong giặc ngoài, trấn áp, trừng trị kẻ thù của đất nước, bảo vệ chính quyền cách mạng là nội dung chủ yếu, về nhận thức pháp lý của người dân chưa chú trọng. Trong thời kỳ này, chính sách hình sự hàng đầu chỉ nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi công cộng,
  • 33. 33 chưa tập trung vào thủ tục tố tụng cũng như các quy định chống xâm phạm quyền cá nhân con người. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống đế quốc Mỹ, chính sách hình sự của Nhà nước ta vẫn thiên về mặt chuyên chính với kẻ thù. Đến khi ban hành BLHS 1985 và BLTTHS 1988, việc xác định thời hạn tố tụng đã được quy định một cách chi tiết, có hệ thống, đáp ứng yêu cầu, mục đích nhiệm vụ của TTHS trong giai đoạn mới, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đến giai đoạn ban hành BLTTHS năm 2003, nhận thức về pháp lý của đất nước và nhân dân đã nâng cao hơn, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn được quy định chặt chẽ hơn, phù hợp hơn. Ngày nay, về văn hóa, pháp lý của người dân ngày càng được nâng cao và trong bối cảnh hội nhập sâu rộng với quốc tế, càng cần thiết đặt ra vấn đề quy định thời hạn của các biện pháp ngăn chặn chặt chẽ hơn nữa, đang đòi hỏi bức thiết sửa đổi pháp luật về thời hạn ngăn chặn phải nâng cao việc bảo vệ quyền con người hơn nữa. * Căn cứ vào điều kiện cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất của đất nước Trong điều kiện cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất của đất nước phát triển thì việc quy định các biện pháp ngăn chặn thời hạn áp dụng các biện pháp này được chú trọng hơn, thuận lợi hơn. Hiện nay, ở nước ta cơ sở vật chất bảo đảm cho công tác tiếp cận pháp luật của người dân còn rất thiếu thốn, nhất là đối với các tỉnh miền núi. Các phương tiện làm việc như máy vi tính chưa có hoặc phải sử dụng chung; các tài liệu pháp luật, nghiệp vụ chưa được cập nhật thường xuyên. Nhiều nơi chưa được nối mạng Internet đã ảnh hưởng đến việc cập nhật văn bản pháp luật mới và sử dụng cơ sở dữ liệu pháp luật một cách hệ thống, việc ứng dụng công nghệ thông tin, tin học trong quản lý và thực thi công vụ còn ít, do đó vấn đề quy định pháp luật TTHS nói chung, quy định về thời hạn của các biện pháp ngăn chặn nói riêng chưa được chú trọng nhiều. Đây chính là những hạn chế làm ảnh hưởng không nhỏ đến các quy định của thủ tục tố tụng, thời hạn tố tụng cũng như thời hạn của các biện
  • 34. 34 pháp ngăn chặn. 1.2.3. Thời hạn biện pháp ngăn chặn với các thời hạn khác có liên quan trong quá trình giải quyết vụ án Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn cũng thể hiện sự tương thích, phù hợp với các thời hạn có liên quan trong từng giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án hình sự. * Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn với các thời hạn khác trong giai đoạn trước khi khởi tố vụ án Trước khi khởi tố vụ án, cần thiết phải áp dụng một số biện pháp ngăn chặn khi thấy một người thực hiện hành vi có dấu hiệu phạm tội để xem xét việc khởi tố hay không khởi tố một người như: biện pháp bắt khẩn cấp, bắt quả tang, tạm giữ. Thời hạn của các biện pháp này được quy định rất ngắn, đảm bảo phù hợp với tính cấp thiết, nhanh chóng trước khi khởi tố vụ án, xác định tội phạm, đồng thời đảm bảo quyền con người. Khoảng thời gian cho phép để áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp, bắt quả tang phải xác định nhanh chóng, không thể chậm trễ để xem xét quyết định một người có phạm tội được quy định trong BLHS hay không. Sau khi bắt, tạm giữ, các cơ quan tiến hành một số hoạt động nghiệp vụ cần thiết, thu thập chứng cứ, tài liệu có liên quan, nếu không đủ căn cứ chứng minh một người phạm tội trong BLHS thì phải trả tự do cho họ. Như vậy, nếu họ không phạm vào tội được quy định trong BLHS mà áp dụng biện pháp ngăn chặn với họ thì đã phần nào ảnh hưởng nhất định đến quyền công dân, quyền tự do thân thể, danh dự, nhân phẩm của họ, do đó, xác định giới hạn khoảng thời gian mà pháp luật cho phép trong giai đoạn này bắt buộc không thể kéo dài. Thời điểm này, pháp luật quy định áp dụng các biện pháp ngăn chặn phải được giới hạn trong thời gian cho phép để tiến hành các hoạt động cần thiết cho việc khởi tố vụ án, đảm bảo việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can có căn cứ, đúng pháp luật. Ví dụ: thời hạn tối đa để áp dụng biện pháp tạm giữ là 9
  • 35. 35 ngày, thì ít nhất sau 9 ngày, CQĐT phải thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh người đang bị tạm giữ phạm tội quy định trong BLHS hay không, để ra Quyết định khởi tố vụ án. Nếu không thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ. * Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn với các thời hạn trong giai đoạn điều tra vụ án, giai đoạn truy tố, xét xử Sau khi khởi tố vụ án, xác định được sự việc phạm tội, khởi tố được bị can, xác định được người thực hiện hành vi phạm tội, vụ án được bước sang giai đoạn điều tra, sau khi kết thúc điều tra chuyển sang giai đoạn truy tố, kết thúc truy tố bằng bản Cáo trạng là đến giai đoạn xét xử và sau cùng là thi hành án. Tương ứng với giai đoạn điều tra có thời hạn điều tra, tương ứng với giai đoạn truy tố có thời hạn truy tố, và tương ứng với giai đoạn xét xử là thời hạn xét xử sơ thẩm, thời hạn xét xử phúc thẩm. Các thời hạn này phân chia ranh giới của từng giai đoạn tố tụng, xác định khoảng thời gian cần thiết mà các cơ quan tiến hành tố tụng phải hoàn thành việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án tương ứng. Trong khoảng thời hạn của từng giai đoạn này, ngoài việc tiến hành điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ, các hoạt động nghiệp vụ khác, thì các cơ quan tiến hành tố tụng còn được quyền áp dụng thời hạn ngăn chặn. Mục đích của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong các giai đoạn tố tụng này nhằm việc tiến hành điều tra, truy tố, xét xử người thực hiện hành vi phạm tội được thuận lợi, tránh việc cản trở điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong từng giai đoạn này, tùy thuộc vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các điều kiện cần thiết khác để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp ngăn chặn phù hợp Nếu cần thiết người phạm tội có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp tạm giam. Trường hợp xét thấy không cần thiết phải tạm giam, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn như cấm đi
  • 36. 36 khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn này phải phù hợp với thời hạn của giai đoạn tố tụng, việc xác định khoảng thời gian mà pháp luật cho phép để áp dụng biện pháp ngăn chặn phải nằm trong khoảng thời gian của giai đoạn tố tụng tương ứng. Ví dụ, nếu cần thiết phải áp dụng tạm giam, thì thời hạn tạm giam để điều tra không được phép dài hơn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam để truy tố không được phép dài hơn thời hạn truy tố, thời hạn tạm giam để xét xử không được phép dài hơn thời hạn xét xử, v.v… Tương tự như vậy, khi áp dụng thời hạn biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cũng phải được xác định giới hạn nằm trong khoảng thời gian của giai đoạn tố tụng tương ứng. Như vậy, dựa vào từng giai đoạn tố tụng để làm căn cứ xác định thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn. 1.3. THỜI HẠN CỦA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI 1.3.1. Luật tố tụng hình sự của Hoa Kỳ Theo pháp luật Hoa Kỳ, TTHS bắt đầu khi một đạo luật bị vi phạm và trải qua các giai đoạn bắt giữ, cáo trạng, xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Ở Mỹ, có một trình tự tố tụng ở cấp quốc gia và mỗi bang, mỗi lãnh thổ lại có những quy tắc và quy định riêng tác động lên thủ tục tố tụng, do đó, các thủ tục TTHS vừa có những chuẩn mực nhất định và cũng tồn tại những sự tương đồng giữa các thực thể chính quyền. Trong "Các nguyên tắc liên bang về tố tụng hình sự (2006) (bao gồm cả sửa đổi có hiệu lực từ ngày 01 tháng 12 năm 2006) của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ không quy định cụ thể các biện pháp ngăn chặn và phân biệt thành từng loại biện pháp ngăn chặn cũng như thời hạn của các biện pháp ngăn chặn mà một số "biện pháp ngăn chặn" như bắt giữ, bảo lãnh, giải phóng bị đơn bằng cam kết trước tòa v.v… được quy định trong tổng thể trình tự, thủ tục tố tụng từ trước khi diễn ra phiên tòa, tại phiên tòa và sau phiên tòa. Trước khi một phiên tòa sơ thẩm hình sự được tiến hành, luật pháp
  • 37. 37 của liên bang và bang yêu cầu rất nhiều thủ tục. Nguyên tắc thứ 4 của "Các nguyên tắc liên bang về tố tụng hình sự" (2006) của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về "Lệnh bắt hoặc triệu tập dựa trên một đơn tố giác" quy định rất cụ thể về việc bắt giữ. Trên cơ sở điều tra sơ bộ, nếu thấy đủ chứng cứ để buộc tội người tình nghi đã thực hiện tội phạm thì cảnh sát có thể bắt giam ngay người đó. Thông thường, Cảnh sát căn cứ vào lệnh giam của Thẩm phán để bắt giam người bị tình nghi. Tuy nhiên trong thực tế công tác, hầu hết các trường hợp bắt giam không nhất thiết phải có lệnh của Thẩm phán. Luật cho phép Cảnh sát được bắt những người phạm tội nhỏ khi họ đang thực hiện tội phạm (tội vi cảnh mà không phải tội phạm hình sự như cướp của, giết người, hủy hoại tài sản). Thường thì cảnh sát giải người bị bắt đến trụ sở để xét hỏi, lấy lời khai của người bị bắt và nhân chứng hoặc đưa đến đội cảnh sát điều tra để nạn nhân hoặc các nhân chứng nhận dạng. Khi đã có đủ căn cứ cho rằng người bị bắt phạm tội thì cảnh sát mới trình lên thẩm phán để xin lệnh giam. Bắt giữ không có lệnh xảy ra khi tội phạm diễn ra trước sự có mặt của một cảnh sát hay khi một viên cảnh sát có nguyên nhân hợp lý để tin rằng một người nào đó đã phạm (hoặc dường như phạm) một tội. Niềm tin như vậy sau đó phải được thể hiện bằng một tuyên bố cam đoan hoặc một bản cam kết. "Ở Mỹ, 95% các cuộc bắt giữ là không có lệnh" [13]. Khi một người bị bắt giữ vì tình nghi phạm tội thì người đó sẽ bị lưu giữ ở đồn cảnh sát; "Năm 1991, Tòa án tối cao Mỹ quyết định rằng cảnh sát có thể lưu giữ một người bị bắt giữ không có lệnh trong vòng 48 giờ mà không cần phải có một phiên tòa xem xét việc bắt giữ đó có đúng hay không" [13]. Theo quy định, một thời gian ngắn sau khi bị bắt, người bị tình nghi phải được đưa đến Tòa tiểu hình để xem xét việc bảo lãnh. Thẩm phán tiểu hình sẽ xác định bị cáo có được bảo lãnh tại ngoại hay không, và trong trường hợp đó thì số tiền bảo lãnh là bao nhiêu. Về mặt Hiến pháp, yêu cầu duy nhất đối với số tiền bảo lãnh là nó không được "quá lớn". Bảo lãnh được coi là một
  • 38. 38 đặc quyền - chứ không phải quyền lợi - và nó có thể bị từ chối trong những vụ án tử hình mà bằng chứng phạm tội có tính thuyết phục cao hoặc nếu thẩm phán tiểu hình tin rằng bị cáo sẽ lẩn trốn khỏi bị kiện tụng mà không cần quan tâm số tiền bảo lãnh là bao nhiêu. Một biện pháp thay thế bảo lãnh là giải phóng bị đơn bằng cam kết trước tòa, về cơ bản là một lời hứa của bị đơn sẽ quay lại tòa án vào ngày xét xử được chỉ định. Những vụ việc vi phạm nhỏ về giao thông thì Tòa tiểu hình xem xét giải quyết ngay. Trường hợp tội phạm thông thường thì Tòa tiểu hình sẽ căn cứ vào tính chất tội phạm, mức độ phạm tội và các điều kiện bảo lãnh để xem xét việc bảo lãnh bằng tiền hoặc đặt tài sản nhằm bảo đảm sự có mặt của họ khi có giấy triệu tập trong các giai đoạn tố tụng sau. Tuy nhiên, đối với những trường hợp người phạm tội thuộc diện nghèo khó nhưng có nghề nghiệp, nhà cửa hoặc có những mối ràng buộc khác trong cộng đồng thì chỉ cần cho họ cam đoan có mặt bất cứ lúc nào mà không phải đặt tiền để bảo đảm. Cũng như hầu hết các nước phát triển, Luật TTHS Hoa Kỳ quy định các tội phạm hình sự có tính chất nghiêm trọng như giết người, bắt cóc trẻ em thì không được áp dụng biện pháp bảo lãnh. 1.3.2. Luật Tố tụng hình sự của Cộng hòa Liên bang Đức Cộng hòa Liên bang Đức là một đất nước có truyền thống pháp luật lục địa lâu đời, thủ tục TTHS của họ được xây dựng và áp dụng trên mô hình tố tụng thẩm vấn, xét hỏi. Bộ luật TTHS Cộng hòa Liên bang Đức là một Bộ luật đồ sộ, công phu gồm 6 phần với khoảng gần 470 điều quy định cụ thể từng hoạt động, thủ tục trong trình tự tố tụng giải quyết vụ án hình sự của Cộng hòa Liên bang Đức. Các biện pháp ngăn chặn được BLTTHS Đức quy định bao gồm: bắt và tạm giam (Chương IX, Phần một), tạm giữ (Điều 127), bắt người cản trở hoạt động công vụ (Điều 164), và những biện pháp khác nhằm bảo đảm truy tố và thi hành bản án hình sự (Chương IXa, Phần một): * Về bắt và tạm giam: Khác với BLTTHS của Việt Nam, quy định bắt
  • 39. 39 và tạm giam ở Chương các biện pháp ngăn chặn, BLTTHS của Cộng hòa Liên bang Đức quy định các biện pháp bắt và tạm giam tại Chương IX của Phần những quy định chung. Đối với vấn đề bắt và tạm giam, Luật Đức phân biệt giữa biện pháp tạm giam và bắt. Tạm giam trong giai đoạn tiền xét xử (giai đoạn điều tra) là sự hạn chế nghiêm khắc nhất quyền tự do cá nhân theo Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, chỉ có Thẩm phán mới có quyền ra lệnh này và lệnh này phải được thực hiện như một biện pháp an ninh chứ không phải với mục đích làm cho người bị tình nghi nếm mùi nhà tù khi mà giả định vô tội vẫn đang áp dụng. Theo quy định, thời hạn tạm giam trong giai đoạn tiền xét xử được tự động trừ vào thời gian chấp hành án, trừ khi bị can từ bỏ đặc quyền này do thái độ bất hợp tác sau khi phạm tội [11]. Điều 114 quy định việc tạm giam sẽ do Thẩm phán quyết định bằng một lệnh bắt, dựa trên đơn yêu cầu của Công tố viên (các điều 125 I và 128 II BLTTHS Cộng hòa Liên bang Đức). Lệnh tạm giam phải xác định rõ bị can và các chi tiết về tội trạng của người đó, cơ sở pháp lý cũng như cơ sở của việc bắt giữ và sự cần thiết của việc bắt giữ. Tại Điều 115, 115a quy định về thủ tục xem xét của thẩm phán, theo đó, nếu bị can bị bắt trên cơ sở lệnh bắt, anh ta phải được mang tới trước Thẩm phán có thẩm quyền ngay lập tức. Thẩm phán sẽ xem xét việc buộc tội bị can ngay sau khi bắt và không muộn hơn ngày tiếp theo. Nếu không thể đưa bị can ra trước Thẩm phán có thẩm quyền chậm nhất là vào ngày sau ngày bắt, anh ta sẽ phải được đưa ngay ra trước Thẩm phán của Tòa án địa phương nơi gần nhất, không chậm hơn ngày sau ngày bắt. Thẩm phán sẽ xem xét trường hợp của bị can ngay lập tức, không chậm hơn ngày tiếp theo. Về thời hạn tạm giam: Theo quy định tại Điều 122a thì thời hạn tạm giam tối đa không kéo dài hơn một năm. Tuy nhiên, Điều 121 Bộ luật cũng có
  • 40. 40 quy định, trong trường hợp bản án chưa được tuyên quyết định hình phạt tù hoặc hình phạt cải tạo không giam giữ, thì tạm giam vì một hành vi phạm tội kéo dài quá sáu tháng sẽ chỉ được thi hành trong trường hợp có khó khăn đặc biệt hoặc kéo dài bất thường việc điều tra hoặc vì một lý do quan trọng khác ngăn cản việc tuyên án và tạo cơ sở cho việc tiếp tục tạm giam. Trong trường hợp này, lệnh bắt sẽ phải được hủy bỏ khi quá thời hạn sáu tháng, trừ khi việc thi hành lệnh bắt bị đình chỉ theo Điều 116 Bộ luật hoặc khi Tòa án khu vực cấp trên ra lệnh tiếp tục tạm giam. Tòa án khu vực cấp trên phải xem xét lại việc tạm giam trong thời hạn chậm nhất ba tháng. * Tạm giữ được quy định tại Điều 127: Trong trường hợp một người bị bắt quả tang hoặc bị bắt khi bị truy đuổi thì bất cứ ai cũng có quyền tạm giữ người đó, ngay cả khi không có lệnh của Tòa án, nếu có căn cứ cho rằng người đó bỏ trốn hoặc nếu không thể xác định căn cước của người đó ngay; Trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan Công tố và các nhân viên cảnh sát có quyền thực hiện việc tạm giữ nếu các có đủ các căn cứ cho việc ra lệnh bắt. Tuy nhiên, không đề cập thời hạn tạm giữ bao lâu. * Biện pháp bắt và tạm giữ người cản trở hoạt động công vụ: Theo quy định tại Điều 164 BLTTHS Đức, người thi hành công vụ trực tiếp tiến hành các hoạt động công vụ tại hiện trường có thẩm quyền bắt những người cố ý cản trở hoạt động của người thi hành công vụ đó hoặc trong phạm vi thẩm quyền của mình ban hành lệnh bắt và tạm giữ những người cản trở cho tới khi người thi hành công vụ hoàn thành nhiệm vụ công vụ, nhưng không được quá ngày tiếp theo. * Các biện pháp khác để đảm bảo việc truy tố và thi hành án hình sự: Theo quy định tại Điều 132 BLTTHS Đức, nếu người bị nghi ngờ là đã thực hiện tội phạm không có nơi ở cố định hoặc nơi thường trú trong phạm vi lãnh thổ mà Bộ luật này có hiệu lực và các căn cứ cho việc ra lệnh bắt không được thỏa mãn, thì Thẩm phán có thể ban hành một lệnh để bảo đảm
  • 41. 41 thủ tục tố tụng hình sự được tiến hành đối với bị can đó, cụ thể là: - Nộp một khoản tiền đủ cho tiền phạt có thể được tuyên và án phí; - Ủy quyền cho một người sống trong phạm vi quận mà Tòa án có thẩm quyền nhận các tài liệu có liên quan. Trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan Công tố cũng có quyền ban hành các lệnh nêu trên. Ngoài ra, tại Chương IXb quy định: Tạm thời cấm làm một công việc nhất định tại Điều 132a: Nếu có căn cứ cho rằng một lệnh cấm làm một công việc nhất định sẽ được tuyên (Điều 70 Bộ luật Hình sự). 1.3.3. Luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga Pháp luật về TTHS của Liên bang Nga vừa chứa đựng cả yếu tố tranh tụng và đồng thời mang đặc điểm của TTHS thẩm vấn. BLTTHS Liên bang Nga được ĐUMA Quốc gia thông qua ngày 22 tháng 11 năm 2001 và được Quốc hội phê chuẩn ngày 05 tháng 12 năm 2001, thay thế cho BLTTHS năm 1960 thời Xô viết, đã thiết lập một mô hình tư pháp hình sự trên cơ sở các nguyên tắc mang tính dân chủ và pháp quyền không chỉ bảo đảm tính hiệu quả của các cơ quan thực thi pháp luật mà còn bảo đảm các quyền tự do dân chủ. Do đó, việc quy định các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự của Liên bang Nga cũng hướng đến bảo đảm các quyền con người. Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga quy định chương IV về "Những biện pháp cưỡng chế tố tụng". Theo đó, mục 12 quy định riêng về "Tạm giữ người bị tình nghi", mục 13 quy định về "Những biện pháp ngăn chặn". Khác với Luật TTHS Việt Nam, vấn đề tạm giữ trong Luật TTHS của Liên bang Nga không nằm trong nhóm các biện pháp ngăn chặn và được tách riêng độc lập trong chương về các biện pháp cưỡng chế. Mặc dù các quy định về căn cứ tạm giữ, thủ tục tạm giữ cũng có một số nét tương đồng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Về thời hạn: "… khi đã hết 48 giờ kể từ thời điểm tạm
  • 42. 42 giữ, người bị tình nghi phải được trả tự do, nếu họ không bị áp dụng biện pháp tạm giam hoặc nếu Tòa án không ra hạn thời hạn tạm giữ theo thủ tục quy định tại điểm 3 khoản 6 Điều 108 Bộ luật này" [63, khoản 3 Điều 94]. Các biện pháp ngăn chặn theo Luật TTHS của Liên bang Nga bao gồm 7 biện pháp: Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bảo lĩnh của cá nhân, Giám sát của đơn vị quân đội; Quản lý người bị tình nghi hoặc bị can là người chưa thành niên; Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm; Giam tại nhà; Tạm giam. * Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và cam kết xử sự đúng mực được quy định tại Điều 102 BLTTHS Liên bang Nga, theo đó người bị tình nghi hoặc bị can cam đoan bằng văn bản: Không được tự ý đi khỏi nơi cư trú thường xuyên hoặc tạm thời nếu không được sự đồng ý của Điều tra viên, Dự thẩm viên, Kiểm sát viên hoặc Thẩm phán; Có mặt theo giấy triệu tập đúng thời gian quy định; Không cản trở hoạt động tố tụng đối với vụ án bằng những hình thức khác. Luật không quy định thời hạn đối với biện pháp này. * Về biện pháp bảo lĩnh cá nhân "thể hiện ở nghĩa vụ của người nhận bảo lĩnh cam đoan bằng văn bản là họ sẽ bảo đảm người bị tình nghi hoặc bị can mà họ nhận bảo lĩnh thực hiện các nghĩa vụ quy định tại các điểm 2 và 3 Điều 102 Bộ luật này" [63, khoản 1 Điều 103]. Trong trường hợp người nhận bảo lĩnh không thực hiện nghĩa vụ của mình thì họ có thể bị phạt một khoản tiền đến 10 lần mức thu nhập tối thiểu theo thủ tục quy định tại Điều 118 Bộ luật này [63, khoản 4 Điều 103]; Biện pháp bảo lĩnh cũng không đề cập vấn đề thời hạn áp dụng. * Biện pháp giám sát tại đơn vị quân đội "thể hiện ở việc áp dụng những biện pháp quy định trong Điều lệnh lực lượng vũ trang Liên bang Nga để bảo đảm những người này thực hiện những nghĩa vụ quy định tại các điểm 2 và 3 Điều 102 Bộ luật này" [63, khoản 1 Điều 104]. Việc áp dụng biện pháp giám sát tại đơn vị quân đội với tư cách là biện pháp ngăn chặn chỉ được chấp
  • 43. 43 nhận nếu người bị tình nghi, bị can đồng ý [63, khoản 2 Điều 104]; * Biện pháp quản lý người bị tình nghi hoặc bị ban là người chưa thành niên: do cha mẹ, người đỡ đầu, người giám hộ hoặc những người nhận bảo lĩnh cho họ cũng như những người có trách nhiệm của cơ quan chuyên trách về trẻ em thực hiện và những người này phải cam đoan bằng văn bản [63, khoản 1 Điều 105]; * Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm: thể hiện ở việc người bị tình nghi hoặc bị can hoặc những thể nhân hoặc pháp nhân khác đặt ký quỹ tiền, những giấy tờ có giá trị thanh toán hoặc tài sản có giá trị cho cơ quan áp dụng biện pháp ngăn chặn này để bảo đảm sự có mặt của người bị tình nghi, bị can theo giấy triệu tập của Dự thẩm viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và phòng ngừa họ phạm tội mới. Hình thức và số lượng tiền hoặc tài sản phải đặt cho cơ quan hoặc người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn này quy định dựa trên tính chất của tội phạm đã thực hiện, nhân thân người bị tình nghi, bị can và tình trạng tài sản của người đặt tiền, tài sản [63, khoản 1 Điều 106]; * Biện pháp giam tại nhà là việc hạn chế tự do đi lại của người bị tình nghi, bị can cũng như nghiêm cấm: Tiếp xúc với một số người nhất định; Nhận và gửi thư; Trao đổi qua các phương tiện thông tin liên lạc [63, khoản 1 Điều 107]; * Về tạm giam: "Nếu đề nghị tạm giam người bị tình nghi đang bị tạm giữ theo thủ tục quy định tại các Điều 91 và 92 Bộ luật này thì bản đề nghị và những tài liệu nói trên phải được gửi cho Thẩm phán chậm nhất là 8 giờ trước khi hết hạn tạm giữ" [63, khoản 3 Điều 108]. Công văn đề nghị áp dụng biện pháp tạm giam do một Thẩm phán Tòa án cấp quận hoặc Tòa án quân sự cấp tương đương, nơi tiến hành điều tra hoặc nơi người bị tình nghi bị tạm giữ giải quyết trong thời hạn 8 giờ kể từ thời điểm Tòa án nhận được hồ sơ với sự tham gia của người bị tình nghi hoặc bị can, Kiểm sát viên, người bào chữa
  • 44. 44 nếu họ tham gia vụ án [63, khoản 4 Điều 108]. Thời hạn tạm giam được quy định tại Điều 109 "Thời hạn tạm giam để điều tra không được quá 2 tháng" Trong trường hợp không thể kết thúc việc điều tra trong thời hạn 2 tháng và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn thì có thể gia hạn thời hạn tạm giam đến 6 tháng. Việc gia hạn tiếp theo áp dụng đối với bị can phạm tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng nhưng chỉ trong những trường hợp vụ án có tính chất rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, vụ án có tính chất đặc biệt phức tạp và có căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn này theo yêu cầu của Dự thẩm viên sau khi được sự đồng ý của Kiểm sát viên thuộc các chủ thể của Liên bang Nga hoặc của Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự cấp tương đương, nhưng không quá 12 tháng.Việc gia hạn thời hạn tạm giam trên 12 tháng chỉ có thể được thực hiện trong những trường hợp đặc biệt đối với bị can phạm tội đặc biệt nghiêm trọng do Thẩm phán Tòa án quy định tại khoản 3 Điều 31 Bộ luật này hoặc Thẩm phán Tòa án quân sự cấp tương đương gia hạn theo đề nghị của Dự thẩm viên sau khi được sự đồng ý của Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát Liên bang Nga, nhưng không quá 18 tháng. Việc tiếp tục gia hạn thời hạn tạm giam là không được phép, bị can bị tạm giam phải được trả tự do ngay, trừ những trường hợp quy định tại Mục 1 khoản 8 Điều này.